Tài liệu Luận văn Tổng quan phương pháp dự báo tổ hợp: MỤC LỤC
CHƯƠNG I ................................................................................................................... 6
TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TỔ HỢP ............................................... 6
1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT .........................................................................................................6
1.2. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG DỰ BÁO TỔ HỢP..................................................................7
1.2.1. Hệ thống dự báo tổ hợp 1 chiều.......................................................................................... 7
1.2.2. Hệ thống dự báo tổ hợp 2 chiều.........................................................................................17
1.2.3. Hệ thống dự báo tổ hợp 3 chiều.........................................................................................19
1.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ HỢP KẾT QUẢ DỰ BÁO....................................................21
1.3.1.Trung bình đơn giản .....................
83 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tổng quan phương pháp dự báo tổ hợp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
CHƯƠNG I ................................................................................................................... 6
TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TỔ HỢP ............................................... 6
1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT .........................................................................................................6
1.2. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG DỰ BÁO TỔ HỢP..................................................................7
1.2.1. Hệ thống dự báo tổ hợp 1 chiều.......................................................................................... 7
1.2.2. Hệ thống dự báo tổ hợp 2 chiều.........................................................................................17
1.2.3. Hệ thống dự báo tổ hợp 3 chiều.........................................................................................19
1.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ HỢP KẾT QUẢ DỰ BÁO....................................................21
1.3.1.Trung bình đơn giản .................................................................................................................21
1.3.2. Tính trọng số theo sai số .......................................................................................................22
1.3.3. Tính trọng số bằng hồi quy tuyến tính ............................................................................22
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP BIỂU DIỄN KẾT QUẢ TỔ HỢP. .............................................23
1.4.1. Bản đồ trung bình và độ phân tán .....................................................................................23
1.4.2. Spagheti maps - Bản đồ ghép chồng................................................................................24
1.4.3. Dự báo đường đi của bão......................................................................................................24
1.5. KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG DỰ BÁO TỔ HỢP Ở VIỆT NAM .............................25
CHƯƠNG 2................................................................................................................. 27
MÔ HÌNH DỰ BÁO THỜI TIẾT QUY MÔ VỪA RAMS VÀ ÁP DỤNG DỰ
BÁO QUỸ ĐẠO BÃO TRÊN BIỂN ĐÔNG............................................................ 27
2.1. GIỚI THIỆU VỀ MÔ HÌNH RAMS................................................................................27
2.1.1. Các phương trình cơ bản của RAMS...............................................................................28
2.1.2. Cấu trúc lưới...............................................................................................................................30
2.1.3. Sai phân thời gian.....................................................................................................................31
2.1.4. Bình lưu ........................................................................................................................................33
2.1.5. Các điều kiện biên....................................................................................................................36
2.2 ÁP DỤNG MÔ HÌNH RAMS ĐỂ DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO TRÊN BIỂN ĐÔNG. ....40
2.2.1 Chọn miền tính và cấu hình lưới.........................................................................................40
2.2.2 Cập nhật số liệu địa phương trong mô hình RAMS ...................................................40
1
2.2.3 Đánh giá khả năng dự báo quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS cho khu vực
Biển Đông. ...............................................................................................................................................42
2.3 PHƯƠNG PHÁP TẠO NHÂN BAN ĐẦU VÀ NUÔI NHIỄU TRÊN MÔ HÌNH
RAMS. .....................................................................................................................................43
2.3.1 Tạo nhân ban đầu.......................................................................................................................43
2.3.2 Nuôi những dao động phát triển nhanh............................................................................45
CHƯƠNG 3................................................................................................................. 48
THỬ NGHIỆM DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUÔI
NHƯNG DAO ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH RAMS............ 48
3.1 MÔ TẢ TẬP SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU............................................................................48
3.2 NUÔI NHIỄU PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH RAMS ....................................49
3.3 DỰ BÁO TỔ HỢP QUỸ ĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUÔI NHỮNG DAO
ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH RAMS. .....................................................55
3.3.1 Cơn bão Chan chu (12-17/5/2006) ....................................................................................55
3.5.2 Cơn bão Prapiroon (31/07/2006-3/8/2006) ....................................................................64
3.5.3. Đánh giá khả năng dự báo bão bằng phương pháp nuôi những dao động
phát triển nhanh trên toàn bộ tập mẫu. ........................................................................................67
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 74
2
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS. TS. Trần Tân
Tiến, là người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các Thầy cô và các cán bộ trong khoa Khí tượng - Thủy
văn - Hải dương học đã cung cấp cho tôi những kiến thức chuyên môn quý
báu, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất trong suốt thời gian
tôi học tập và thực hành ở Khoa.
Tôi cũng xin cảm ơn Phòng sau đại học, Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên đã tạo điều kiện cho tôi có thời gian hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân
và bạn bè, những người đã luôn ở bên cạnh cổ vũ, động viên và tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Công Thanh
3
MỞ ĐẦU
Ngày nay ngành công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, nhờ đó các mô
hình dự báo thời tiết số trị cũng phát triển. Cùng với sự phát triển của mô hình
số, dự báo tổ hợp đã và đang trở nên rất phổ biến trên thế giới. Bản chất của
dự báo tổ hợp là sử dụng kết quả từ nhiều dự báo thành phần khác nhau để
đưa ra một kết quả dự báo tối ưu nhất. Tuy nhiên, phương pháp cụ thể để tạo
ra các thành phần dự báo và cách tổng hợp kết quả của chúng lại có thể rất
khác nhau. Dự báo tổ hợp đã có một quá trình phát triển tương đối lâu dài kể
từ những công trình đầu tiên của Lorenz (1963, 1965) đề cập đến tầm quan
trọng của của điều kiện ban đầu đối với kết quả tích phân của các mô hình.
Cho đến nay, dự báo tổ hợp đã được phát triển và ứng dụng rất đa dạng tại
nhiều nơi và cho các mục đích khác nhau.
Phần lớn các hệ thống dự báo tổ hợp nghiệp vụ trên thế giới đều dựa trên
phương pháp tạo nhiễu động ban đầu và tích phân mô hình số trị với các
trường ban đầu đó để tạo nên tổ hợp dự báo. Chính vì những lý do trên, việc
nghiên cứu ứng dụng dự báo tổ hợp dựa trên phương pháp tạo nhiễu ban đầu
với mô hình số để dự báo đường đi của bão được đặt ra trong luận văn là phù
hợp và khả thi với điều kiện hiện nay. Cụ thể, nội dung luận văn là nghiên
cứu dự báo tổ hợp bằng phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh
của mô hình RAMS để tạo ra trường khí tượng ban đầu, các trường ban đầu
này sẽ được đưa vào mô hình RAMS dự báo hạn 72 giờ, các kết quả dự báo
được tổ hợp bằng cách lấy trung bình đơn giản và sử dụng để dự báo bão.
4
Dựa trên những mục tiêu và nội dung của luận văn sẽ được bố cục thành
các phần sau:
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TỔ HỢP
CHƯƠNG 2:
MÔ HÌNH DỰ BÁO THỜI TIẾT QUY MÔ VỪA RAMS VÀ
ÁP DỤNG DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO TRÊN BIỂN ĐÔNG
CHƯƠNG 3:
THỬ NGHIỆM DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG
PHÁP NUÔI NHƯNG DAO ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH
CỦA MÔ HÌNH RAMS
KẾT LUẬN
5
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TỔ HỢP
1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Dự báo tổ hợp là một tập hợp các dự báo bất kì được xác định tại cùng
một thời điểm. Vì vậy tập hợp các dự báo trễ, các dự báo từ trung tâm nghiệp
vụ khác nhau hoặc các mô hình khác nhau đều có thể tạo ra được một dự báo
tổ hợp. Từ đầu những năm 1990, kỹ thuật dự báo tổ hợp đã được sử dụng để
dự báo thời tiết ở các trung tâm toàn cầu. Ý tưởng của dự báo tổ hợp dựa trên
lý thuyết rối của Lorenz (1963) [52] với giả thuyết rằng: “các nghiệm số thu
được trong quá trình tích phân mô hình theo các điều kiện ban đầu khác nhau
(có chứa sai số) có thể phân kì theo thời gian”. Điều này được giải thích bằng
hiệu ứng Butterfly: do bản chất phi tuyến của các phương trình mô tả khí
quyển nên những sai số nhỏ không thể đo được trong trạng thái ban đầu của
khí quyển sẽ trở thành những sai số đủ lớn sau một khoảng thời gian tích phân
(10 – 14 ngày). Vì vậy, kết quả dự báo không sử dụng được cho dù mô hình là
hoàn hảo.
Trái lại, nếu các điều kiện ban đầu đó được gây nhiễu với giá trị nhiễu
có đặc trưng cho phân bố như phân bố của sai số quan trắc thì việc tổ hợp các
nghiệm từ các điều kiện ban đầu có gây nhiễu này (mỗi điều kiện ban đầu là
một thành phần tổ hợp) bao phủ nghiệm thực và trạng thái thực của khí quyển
khi mô hình dự báo hoàn hảo. Nếu các nhiễu không đặc trưng cho phân bố sai
số của trường ban đầu thì kết quả dự báo có thể nằm ở một trong các nhóm,
trong khi trạng thái khí quyển thực xảy ra trong các nhóm khác. Nếu chọn
phân bố sai số tương xứng thì dựa trên các dự báo thành phần sẽ thu được dự
báo cuối cùng bằng việc áp dụng phương pháp thống kê hoặc phương pháp
lấy trung bình sẽ cho dự báo tốt hơn dự báo thành phần.
6
Bằng cách tính trung bình tổ hợp các kết quả dự báo, những sai số dự
báo xảy ra do điều kiện ban đầu được loại bỏ dẫn đến kết quả dự báo tốt hơn.
Đối với dự báo quỹ đạo bão (XTNĐ), phương pháp tổ hợp giữ vai trò
quan trọng. Giữa thập niên 1990, kỹ thuật dự báo tổ hợp được nghiên cứu cho
bài toán dự báo XTNĐ, đặc biệt là dự báo quỹ đạo. Việc ứng dụng này xuất
phát từ thực tế là trường phân tích và trường dự báo từ các mô hình toàn cầu
thường không mô tả đúng vị trí, cấu trúc và cường độ của xoáy thuận nhiệt
đới do mạng lưới quan trắc tại các vùng biển nhiệt đới còn ít, chưa đủ theo
yêu cầu, vì vậy mà những sai số trong các trường ban đầu này sẽ ảnh hưởng
đến kết quả dự báo XTNĐ.
1.2. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG DỰ BÁO TỔ HỢP
Hệ thống dự báo tổ hợp có thể phân chia thành 3 loại chính: hệ thống 1
chiều, 2 chiều và 3 chiều.
1.2.1. Hệ thống dự báo tổ hợp 1 chiều
Điều kiện độ bất định (uncertainty) của trường ban đầu được coi là hệ
thống dự báo tổ hợp 1 chiều có chứa điều kiện nhiễu ban đầu. Ba đặc tính cơ
bản cần phải tuân theo khi tạo nhiễu: Tính sát thực, tính phân kỳ, tính trực
giao. Tính sát thực là độ lớn của nhiễu cần nằm trong cỡ của sai số phân tích
thực và đặc trưng cho phân bố phổ thực tế trên quy mô không gian. Độ bất
định của trường ban đầu là lớn ở trong các sóng quy mô nhỏ (khó quan trắc
được) và độ bất định của trường ban đầu là nhỏ trong các sóng quy mô lớn
(dễ quan trắc được). Tính phân kỳ là các nhiễu cần có cấu trúc phát triển động
lực trong các thành phần sao cho các thành phần này phân nhánh nhiều nhất
trong quá trình tích phân mô hình để chúng chứa tất cả các trường hợp có thể
xảy ra trong không gian của mô hình. Tính trực giao là các nhiễu thành phần
cần được trực giao để cực đại hóa dung lượng thông tin chứa trong tổ hợp,
điều này đặc biệt quan trọng trong dự báo tổ hợp các quá trình quy mô nhỏ.
7
Điều kiện hay trạng thái ban đầu cần được tạo nhiễu bao gồm trạng thái bên
trong, biên trên, biên dưới và biên xung quanh (nếu là khu vực giới hạn). Hiện
nay có 5 (hoặc nhiều hơn) phương pháp khác nhau tạo nhiễu các trường ban
đầu (trường thực và trường phân tích) đặc biệt là cho trạng thái bên trong của
trường ban đầu.
1. Nhiễu ngẫu nhiên (phương pháp Monte Carlo): nhiễu được sinh
ra ngẫu nhiên dựa trên phương pháp thống kê (thường lấy phân bố
chuẩn). Do vậy, nhiễu ngẫu nhiên mô tả tốt độ lớn trung bình của độ
bất định trường ban đầu trong phân tích (tính sát thực), nhưng nó có
những hạn chế trong việc phát triển cấu trúc không gian động lực và
không phản ánh được “sai số ngày”. Kết quả là, nhiễu phát triển với
tốc độ chậm và do đó, tính phân kỳ giữa các thành phần trong
trường hợp này thường không lý tưởng. Phương pháp tạo nhiễu
ngẫu nhiên thường được dùng ở những nơi mà ở đó không có
phương pháp nào tốt hơn.
2. Phương pháp dự báo trễ thời gian (dự báo trễ): gồm có 2 loại dự
báo chính: “dự báo trễ trực tiếp” và “dự báo trễ có chuẩn hóa”
(Hoffman và Kalnay, 1983) [40].
Phương pháp dự báo trễ trực tiếp là phương pháp đưa nhiều dự báo
với đầu vào là các thời điểm khác nhau trong quá khứ nhưng cùng
hướng tới một thời điểm tổ hợp (một sự kết hợp của các dự báo cũ
và mới). Phương pháp này có thể chỉ ra lỗi của một dự báo cũ tại
thời điểm t=0 (thời điểm ban đầu) một cách trực tiếp như một nhiễu
của trường ban đầu, chúng có thể phản ánh “sai số ngày” và có cấu
trúc động lực phát triển của độ tán tổ hợp lớn hơn so với phương
pháp nhiễu ngẫu nhiên. Ưu điểm của của phương pháp này là nhiễu
sinh ra hoàn toàn tự do và không cần định hướng sinh nhiễu trường
8
ban đầu cho tổ hợp, có nghĩa là tất cả các trung tâm dự báo số trị có
thể dùng loại dự báo này để tổ hợp một cách tự động. Tuy nhiên, sự
quan tâm chính là chất lượng (độ lớn) của nhiễu phụ thuộc vào tuổi
của một dự báo bởi vì chất lượng của dự báo giảm theo thời gian.
Để tránh điểm yếu này, sai số dự báo trong quá khứ trước tiên được
chuẩn hóa nhờ vào “tuổi” của chúng (giả thiết sự phát triển của sai
số là gần như tuyến tính) tại thời điểm t=0 để có được độ lớn như
nhau với tất cả các nhiễu và sau đó cộng thêm hoặc trừ đi với trường
phân tích kiểm tra (control analysis) nhằm mục đích tạo ra đa phân
tích làm trường ban đầu cho tổ hợp dự báo (Ebisusaki và Kalnay,
1983; Kalnay 2003) [44]. Phiên bản sau khi sửa chữa này được gọi
là phương pháp trễ có chuẩn hóa và có thể biểu diễn đơn giản bằng
phương trình sau:
Nhiễu ban đầu= Chuẩn hóa x (dự báo trễ - phân tích hiện tại) (1.1)
Nhiễu này không những có khả năng kiểm soát kích cỡ nhiễu mà
còn tạo ra một cặp thành phần tổ hợp bằng cách cộng trừ nó với
trường phân tích kiểm tra. Phương pháp dự báo trễ có cùng ý tưởng
và có quy trình kỹ thuật tương tự với phương pháp nuôi nhiễu (sẽ
được trình bày ở phương pháp 3). Phương pháp trễ đã và đang được
sử dụng trong rất nhiều nghiên cứu tổ hợp và trong nghiệp vụ ví dụ
như tại hệ thống tác nghiệp dự báo tổ hợp theo mùa (Saha và các
cộng sự, 2006; Hou và các cộng sự, 2001; Lu và các cộng sự, 2006;
Brankovic và các cộng sự, 2006; Mittermaier, 2007)
[71][41][54][15][58]. Nhược điểm của phương pháp dự báo trễ đó là
nó không thể tạo được tổ hợp với các thành phần có kích cỡ đủ lớn
bởi vì số lượng mẫu dự báo cũ có chất lượng tốt có thể sử dụng bị
giới hạn trong thực tế. Mặt khác, chất lượng của dự báo sẽ bị giảm
9
xuống đáng kể nếu mẫu dự báo quá cũ chứa đựng một tổ hợp kích
cỡ lớn. Bên cạnh đó, các dự báo trễ thường được sử dụng như là
“nhân ban đầu” để khởi động lạnh cho một tổ hợp ví dụ như phương
pháp nuôi nhiễu.
3. Phương pháp nuôi nhiễu:
Tên khác của phương pháp nuôi nhiễu còn được gọi là nuôi nhiễu
động phát triển nhanh (Breeding of Growing Modes viết tắt BGM).
Một dạng khác của phương pháp dự báo trễ, phương pháp BGM sử
dụng hai dự báo đồng thời (tại một thời điểm quá khứ gần t=-T) như
là một dự báo trễ và số liệu phân tích để tính nhiễu mới tại thời điểm
t=0. Sự khác biệt của phương pháp BGM so với phương pháp dự
báo trễ là có sử dụng công thức chuẩn hóa và nhân ban đầu được
cộng hoặc trừ cho trường phân tích kiểm tra (Toth and Kalnay, 1993
and 1997) [76][77]. Để tạo nhân ban đầu ta có thể dùng phương
pháp dự báo trễ. Bằng cách này, chúng ta có thể tạo ra nhiều nhân
ban đầu và có được kích cỡ tổ hợp lớn tại thời điểm ban đầu để bắt
đầu phương pháp BGM. Do đó, phương pháp BGM có thể vượt qua
mọi giới hạn của phương pháp dự báo trễ, tất cả các dự báo quá khứ
giờ đều có thể sử dụng cùng lúc, các đại lượng chuẩn hóa không cần
dựa vào tuổi dự báo. Nhiễu bây giờ có thể được biểu diễn một cách
đơn giản theo phương trình (1.2).
Nhiễu ban đầu = Chuẩn hóa x (dự báo 1 - dự báo 2) (1.2)
So sánh phương trình (1.1) với phương trình (1.2), có thể nhận ra
rằng nhiễu trong phương pháp BGM không chỉ thuần túy là sai số
của một dự báo mà còn là sự khác nhau giữa hai dự báo quá khứ, nó
là sự mở rộng phi tuyến của véc tơ Lyapunov (Kalnay, 2003) [44].
Kinh nghiệm của trung tâm dự báo tổ hợp hạn ngắn (NCEP SREF)
10
chỉ ra rằng véc tơ nuôi trở nên có cấu trúc và quá trình phát triển của
độ tán trong tổ hợp đủ lớn khi mà quá trình nuôi nhiễu được thực
hiện trong khoảng từ hai đến ba ngày tính từ lúc khởi động lạnh với
nhân ban đầu là ngẫu nhiên. Toth và Kalnay chỉ ra rằng cấu trúc
không gian của một véc tơ nuôi trưởng thành không nhạy với quy
mô thời gian (T) và thường được chọn có quy tắc. Véc tơ nhiễu nuôi
này phản ảnh tốt lỗi phân tích (sai số ngày) được đưa vào trong chu
trình đồng hóa số liệu (tính sát thực). Mặc dù có sự khác nhau giữa
các dự báo quá khứ nhưng về cơ bản phương pháp đã phản ánh
được sai số cấu trúc phát triển của chu trình trong quá khứ nhưng
không chỉ ra được sai số cho dự báo tương lai. Thực nghiệm cho
thấy rằng véc tơ nhiễu nuôi phát triển (tính phân kỳ) tốt trong thực
tế và cho kết quả tốt hơn cách sử dụng cả hai phương pháp Monte
Carlo và dự báo trễ (Toth và kalnay, 1993 và 1997). Bởi vì phương
pháp này đơn giản, nó không cần sự đơn giản hóa toán học hay giả
thiết và dễ dàng thực hiện, tốn ít tài nguyên máy tính và cho không
gian tổ hợp tốt, nó được sử dụng và kiểm tra ở các trung tâm dự báo
lớn như tại hệ thống tổ hợp của NCEP (Du và Tracton, 2001;
Tracton và Kalnay, 1993) [24][79] và CMA (trung tâm quản lý khí
tượng Trung Quốc). Tuy nhiên, các thành phần tổ hợp của véc tơ
nuôi này là không đủ trực giao và chúng có tương quan cao nên kết
quả là lượng thông tin tốt nhất chứa trong một tổ hợp bị giảm (Wang
và Bishop, 2003; Martin và các cộng sự, 2007) [85][55]. Một kết
quả khác là độ tán phát triển của tổ hợp (chủ yếu là độ lớn chứ
không phải cấu trúc) gần như quan hệ với độ khuếch đại ban đầu
của véc tơ nuôi. Để trực giao các véc tơ nuôi, kỹ thuật biến đổi tổ
hợp (ET) được sử dụng để làm cho các véc tơ nuôi trực giao với
11
nhau hơn bằng cách áp dụng ma trận chuyển vị phức để chuyển
nhiễu dự báo thành nhiễu phân tích (Wei và các cộng sự, 2007) [88].
Kinh nghiệm chỉ ra rằng kỹ thuật ET có thể tăng kết quả tổ hợp qua
phương pháp nuôi cơ bản. Do đó, ET đã được áp dụng tại hệ thống
tổ hợp toàn cầu của NCEP để làm cải thiện phương pháp BGM (Wei
và các cộng sự, 2007). Một phương pháp khác được đưa ra để phát
triển phương pháp nuôi cơ bản được gọi là phương pháp nuôi hình
học. Phương pháp này kiểm soát không gian tương quan của số
lượng thành phần véc tơ nuôi để làm chúng giảm tương quan với
nhau (Martin và các cộng sự, 2007) [55]. Phương pháp nuôi hình
học cho độ tán tốt hơn so với phương pháp nuôi cơ bản. Bởi vì véc
tơ nuôi chủ yếu mô tả bất ổn định tà áp (baroclinic instability) quy
mô synop nhưng không đúng với bất ổn định đối lưu quy mô nhỏ
hơn (Toth và Kalnay 1993). Tuy nhiên, chúng ta luôn mong muốn
có được bất ổn định quy mô nhỏ hơn trong nhiễu của một hệ thống
dự báo tổ hợp quy mô vừa cho mục đích dự báo, vì như thường nói,
các hệ thống đối lưu có liên hệ chặt chẽ tới các hiện tượng giáng
thủy. Chen và các cộng sự (2003) [19] cho rằng sự khác nhau của 2
dự báo từ cùng một mô hình nhưng với các phiên bản khác nhau về
sơ đồ đối lưu (thay cho một phiên bản như trong phương pháp nuôi
truyền thống) sẽ giúp mô tả bất ổn định đối lưu trong nhiễu và do đó
cải thiện kết quả dự báo trong việc dự báo mưa (giáng thủy) lớn.
Mặt khác, tùy vào đặc điểm có quy mô nhanh, nhỏ, chóng bão hòa
hay dao động có quy mô chậm, lớn, nghiêng trái trong quá trình
nuôi, nuôi véc tơ nhiễu là phương pháp tốt để sử dụng cho hệ thống
dự báo tổ hợp tương tác biển khí mà chủ yếu liên quan tới các kiểu
thời tiết biến đổi chậm (Cai và các cộng sự, 2002; Yang và các cộng
12
sự, 2006) [17][92]. Gần đây, giáo sư Eugenia Kalnay (2007) nhận
xét rằng véc tơ nuôi có khả năng dự báo sự chuyển tiếp của thời tiết.
4. Phương pháp phân tích véc tơ kỳ dị (SV):
Phương pháp này trước tiên cần để phát triển một phiên bản tuyến
tính của một mô hình phi tuyến (được gọi là mô hình tiếp tuyến
tuyến tính viết tắt là TLM) được xem như là phương pháp Adjoint
(Errico,1997) [35] của TLM. Sau một khoảng thời gian trong tương
lai tối ưu cần thiết ví dụ từ 0-48h, TLM được tích phân theo thời
gian, sau đó tích phân ngược bằng phương pháp Adjoint theo thời
gian để tìm ra không gian ban đầu nhạy với dự báo (tại thời điểm t =
48h). Chu trình “tiến và lùi” này cần được tích phân nhiều lần để thu
được các véc tơ dẫn đường kỳ dị. Sau đó, quá trình kết hợp tuyến
tính bao gồm chuẩn hóa và trực giao được luân phiên áp dụng vào
véc tơ để xây dựng số nhiễu yêu cầu. Cộng hoặc trừ các nhiễu vào
trường phân tích kiểm tra, một tổ hợp dự báo được hình thành.
Không giống véc tơ nuôi, cấu trúc của SV là nhạy với quy tắc sử
dụng và với lựa chọn chu trình thời gian (Errico và Vukiceric, 1992;
Palmer và các cộng sự, 1998) [36] [69]. Trung tâm dự báo hạn vừa
châu âu (ECMWF) chọn năng lượng tổng cộng là tiêu chuẩn và 0-
48h là chu trình thời gian để tính các véc tơ kỳ dị trong hệ thống tổ
hợp toàn cầu của họ (Buizza, 1994; Palmer và các cộng sự, 1998)
[16]. Rõ ràng là các SV là một phương pháp nhìn về tương lai hơn
là nhìn về quá khứ như phương pháp nuôi nhiễu.
Độ lớn tối ưu trong toán học (mathematically optimizes) của nhiễu
phát triển và trực giao hóa có độ tán tổ hợp lớn và chứa nhiều thông
tin vào trước thời điểm dự báo. Phương pháp SV được sử dụng rộng
rãi và đã được kiểm tra trong cả nghiên cứu và nghiệp vụ như tổ hợp
13
khu vực tại ECMWF và Trung tâm khí tượng Canada (Li và các
cộng sự, 2007) [51]. Một bất lợi của phương pháp này đó là tài
nguyên tính toán vì số bước tích phân “tiến lùi” thường đòi hỏi gấp
3 lần số SV mà bạn muốn tạo ra (ví dụ nó cần tích phân khoảng
3x50x2=300 lần cho dự báo 48h để thu được 50 SV cực đại hóa sau
48h). Do đó số SV cần phải được tính toán khi tăng độ phân giải mô
hình và tiết kiệm thời gian tính toán khi ứng dụng. Một bất lợi khác
của phương pháp này đó là hạn dự báo cần được xác định tại thời
điểm mà SV được chọn phát triển tối ưu. Do đó các tổ hợp dựa vào
SV có thể không đạt được tối ưu do quá trình thực hiện phải qua
khoảng thời gian dài. Giả thiết tuyến tính mà nhiễu là đủ nhỏ để cho
sự phát triển của nó có thể bị thống trị bởi phiên bản tuyến tính
(TLM và Adjoint) của một mô hình phi tuyến và cũng liên quan tới
việc tính toán các SV cơ bản mặc dù nó có đặc tính phi tuyến ở một
số cấp độ bằng cách tính toán và tổ hợp các SV đa thành phần. Để
bỏ qua giả thiết tuyến tính, một vài kết quả đã đạt được như sửa quá
trình tích phân (Oortwin và Barkmejer, 1995, Barkmeijer, 1996)
[66][10], giới thiệu khái niệm véc tơ kỳ dị phi tuyến (Mu, 2000) và
điều kiện của phương pháp cực đại hóa nhiễu phi tuyến (CNOP)
(Mu và các cộng sự, 2003; Mu và Zhang, 2006) [59][60]. Với mô
hình đơn giản, phương pháp CNOP đã cho thấy sự cải thiện về chất
lượng của dự báo các đặc tính phi tuyến trong nhiễu so với phương
pháp SV mặc dù vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu với những mô
hình NMP đầy đủ. Thêm quá trình vật lý ẩm vào TLM và Adjoint
(Ehrendorfer và các cộng sự, 1999) [34] là một bước khác để tiến
gần tới thực tiễn và cho kết quả tốt hơn. Bởi vì SV là một kỳ vọng
toán học và tập trung vào sự phát triển cấu trúc nhiễu trong tương lai
14
mà không liên quan trực tiếp tới quá khứ, nên một câu hỏi đặt ra là
nhiễu SV có thực sự phản ảnh sai số ngày mà luôn thấy được trong
quá trình đồng hóa số liệu vừa qua? Những nghiên cứu sau đang
nhắm tới những quan tâm kiểu đó và đã cải tiến kết quả (Barkmeijer
và các cộng sự, 1998; Fischer và các cộng sự, 1998) [14][37]: ví dụ
phương pháp mở rộng SV bằng cách thêm véc tơ kỳ dị cuối hoặc
mở rộng từ chu trình ngay trước đó, khoảng 48h trước thời điểm bắt
đầu chạy mô hình (thời gian phân tích) của chu trình nhiễu SV tiếp
theo; Dùng sự đồng biến phương sai để thay thế năng lượng toàn
phần như là một quy tắc tính các SV; và ứng dụng Kalman filter…
Kết quả nhiễu SV này gần với véc tơ Lyapunov hoặc véc tơ nuôi
cho cả phương pháp mở rộng SV và phương pháp sử dụng đồng
biến phương sai (Kalnay, 2003; Reynolds và Errico, 1990) [44][70].
5. Kết hợp với đồng hóa số liệu:
Phiên bản đơn giản nhất của phương pháp này là dùng trực tiếp
nhiều phân tích có thể để làm trường ban đầu cho một dự báo tổ hợp
(Tracton và các cộng sự, 1998; Grimit và Mass, 2002) [78][38]. Tuy
nhiên, số lượng các phân tích có thể tương đối là giới hạn, nó sẽ giới
hạn kích cỡ của tổ hợp. Bằng nhiễu quan trắc, (Houtekamer và các
cộng sự 1996) và Mitchell (1998) [42] muốn tạo ra nhiều số liệu
phân tích cơ bản để bắt đầu hệ thống tổ hợp toàn cầu của họ.
Phương pháp này mở ra một hướng nghiên cứu tạo nhiễu cơ bản của
trường ban đầu cho tổ hợp do đó được gọi là phương pháp biến đổi
tổ hợp lọc Kalman (ETKF) (Anderson,1996) [10]. Phương pháp
ETKF được nghiên cứu chi tiết hơn bởi Wang và Bishop (2003)
[84], Wang và các cộng sự (2004) [85], Wei và các cộng sự (2006)
[89] cho tổ hợp phát triển. Trong nghiên cứu của họ, ETKF chuyển
15
nhiễu dự báo vào trong nhiễu phân tích bằng cách nhân một ma trận
ánh xạ. Sử dụng thông tin quan trắc, độ lớn của nhiễu phân tích
được điều chỉnh trước khi nhiễu được cộng vào trường phân tích
kiểm tra để làm trường ban đầu của dự báo tổ hợp. Ma trận ánh xạ
đã dùng cũng có thể đảm bảo tất cả nhiễu trực giao với nhau, một tài
nguyên cần thiết cho dự báo tổ hợp. Mặc dù ETKF không được sử
dụng trong quá trình đồng hóa số liệu để trực tiếp tạo ra nhiều
trường phân tích trong nghiên cứu của họ, nhưng bản thân ETKF có
thể là một kỹ thuật đồng hóa dữ liệu tổ hợp cơ bản (Tippett và các
đồng nghiệp, 2003; Anderson, 2001; Whitaker và Hamil, 2002; Ott
và các cộng sự, 2004; Szunyogh và các cộng sự, 2004; Hamil, 2006;
Zhang và các cộng sự, 2004; Wang và các cộng sự, 2007)
[75][11][90][68][73][95]. Do đó, người ta tin tưởng rằng phương
pháp ETKF có một tiềm năng lớn để trực tiếp liên kết dự báo tổ hợp
với đồng hóa số liệu (DA) vào trong một quy trình thống nhất trong
hệ thống dự báo thời tiết; Sự thay đổi tổ hợp dự báo cung cấp thông
tin đồng biến phương sai nền cho DA, trong khi DA cung cấp các
trường dự báo để làm trường ban đầu cho dự báo tổ hợp. Trong một
hệ thống tương tác như thế, không những hệ thống dự báo tổ hợp có
thể tăng được tính sát thực của nhiễu trường ban đầu mà còn phản
ánh đúng sai số ngày trong trường phân tích, mà chất lượng của
trường phân tích cũng được cải thiện bằng cách sử dụng thông tin ít
phụ thuộc vào trường nền (Hamill, 2006; Zhang,2005) [39][93]. Do
đó, người ta tin rằng phương pháp ETKF có một tiềm năng lớn.
Phương pháp này có đã được sử dụng trong nghiệp vụ tại Cơ quan
Dự báo Vương quốc Anh (Mylne, liên hệ trực tiếp) và lực lượng
Thủy – không quân Mỹ (McLay và các cộng sự, 2007) [56].
16
1.2.2. Hệ thống dự báo tổ hợp 2 chiều
Bên cạnh độ bất định của trường ban đầu, độ bất định trong cơ cấu vật
lý và động lực mô hình cũng được quan tâm. Hệ thống dự báo tổ hợp 2 chiều
đề cập đến nghiên cứu này. Hiện nay, có rất nhiều giải pháp đã sử dụng theo
hướng này như hệ thống đa mô hình, đa cơ chế vật lý, đa động lực, đa tổ hợp
với độ bất định của trường ban đầu và đa tổ hợp với điều kiện biên. Dựa vào
những kết quả nghiên cứu như của Mullen và các cộng sự (1999) hay của
Tracton và các cộng sự (1998), NCEP đã tiên phong thực hiện nghiệp vụ một
hệ thống dự báo tổ hợp hạn ngắn dựa trên phương pháp “hệ thống đa tổ hợp”
bao gồm 2 hệ thống tổ hợp thành phần ở đó mỗi hệ thống lại dựa trên những
mô hình khu vực khác nhau từ ngay khi bắt đầu phát triển chúng (Du and
Tracton, 2001) [25]. Hiện nay NCEP SREF gồm có 4 tổ hợp thành phần với 4
mô hình khu vực (Du và các cộng sự , 2006). Rõ ràng phương pháp hệ thống
đa tổ hợp là một sự kết hợp quan trọng của nhiều mô hình, nhiều cơ chế động
lực, nhiều cơ chế vật lý, nhiều trường ban đầu và nhiều điều kiện biên ban
đầu. Hệ thống tổ hợp đa mô hình được coi là một phương pháp đặc biệt, nó đã
và đang được chứng minh là rất hiệu quả và làm việc rất tốt (trong cả 2 vấn đề
giảm sai số của tổ hợp dự báo trung bình cũng như tăng không gian tổ hợp)
trong nghiệp vụ (Du và các cộng sự 2003; Mylne và các cộng sư; 2002) [26]
[65]. Phiên bản đơn giản nhất của tổ hợp đa mô hình được gọi là tổ hợp Poor-
Man (Người nghèo) nơi nhiều dự báo riêng biệt của nhiều mô hình được kéo
lại gần nhau để tạo ra một tổ hợp nếu một mô hình không đủ khả năng để tự
chạy tổ hợp của chính nó (Wobus và Kalnay, 1995; Ebert, 2001) [91][32].
Phương pháp đa mô hình ngày nay đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi.
Một phát triển gần đây của phương pháp đa mô hình đó là sự kết hợp của
nhiều hệ thống đa tổ hợp từ nhiều trung tâm như TIGGE (tổ hợp các ảnh
hưởng nghiêm trọng toàn cầu THORPEX), NAEFS (hệ thống tổ hợp dự báo
17
Bắc Mỹ), các trung tâm ứng dụng quốc tế khác, và được gọi là tổ hợp Rich-
Man (người giàu). Rõ ràng một bất lợi của phương pháp đa mô hình là giá
thành để phát triển và duy trì nhiều mô hình nếu chúng được chạy bởi một
đơn vị nghiên cứu. Thêm vào đó, phương pháp đa mô hình cũng có thể sử
dụng phương pháp “siêu tổ hợp” của trường đại học bang Florida
(Krishnamurti, 1999) [50] nó sẽ mang lại tính tất định hơn. Phương pháp này
đã tăng đáng kể độ chính xác của dự báo khi hiệu chỉnh sai số hệ thống. Tuy
nhiên, phương pháp này chỉ cung cấp giải pháp tất định (deterministic) thích
hợp nhất mà không đưa thêm giá trị dự báo hoặc thông tin bất ổn định nào.
Trong một mô hình, một tổ hợp có thể được tạo thành bằng cách thay
đổi sơ đồ vật lý của các thành phần. Phương pháp đa cơ chế vật lý có hiệu quả
trong dự báo hệ thống đối lưu yếu với tác động quy mô lớn (Stensrud và các
cộng sự, 2000; Jankov và các cộng sự, 2005) [72][43]. Sử dụng nhiều sơ đồ
đối lưu, Du và các cộng sự (2004) [27] đã so sánh những yếu tố liên quan của
nhiều cơ chế vật lý và nhiễu trường ban đầu đóng góp vào độ tán của tổ hợp
trong dự báo hạn ngắn (1-3 ngày). Kết quả của họ chỉ ra rằng độ bất định của
trường ban đầu là thành phần đóng góp nổi trội cho độ tán của tổ hợp các
trường nền quy mô lớn như gió, áp suất, độ cao (địa thế vị) và nhiệt độ, trong
khi các cơ chế vật lý khác nhau sẽ cung cấp thêm những thông tin về độ tán
để phân biệt những khu vực giông bão quy mô nhỏ. Tuy nhiên, đối với giáng
thủy và bất ổn định đối lưu như CAPE, các trường ban đầu và cơ chế vật lý
khác nhau đều được đánh giá quan trọng như nhau. Với trường hợp tổ hợp dự
báo quỹ đạo bão có độ phân giải cao (4 km) cũng có cùng nhận định (Kong và
các cộng sự, 2007) [49]. Do đó, ta thấy cả trường ban đầu và cơ chế vật lý
khác nhau đều cần được lưu tâm tới cùng một lúc khi dự báo tổ hợp quy mô
meso để làm tăng sự đa dạng của dự báo. Với NCEP SREF, người ta thấy
rằng sự ảnh hưởng giữa nhiễu trường ban đầu và nhiễu vật lý quả thực làm
18
tăng đáng kể không gian tổ hợp trong mùa nóng. Ngược lại, khi kết hợp nhiễu
trường nền và nhiễu vật lý với nhau mặc dù ảnh hưởng từ các cơ chế vật lý
khác nhau nhưng có vẻ như giảm không gian tổ hợp trong mùa lạnh. Đa cơ
chế vật lý được hi vọng có thể là cách hiệu quả để xây dựng hệ thống tổ hợp
cho đối lưu ở khu vực chí tuyến. Một vấn đề cần được lưu ý của phương pháp
đa cơ chế vật lý là thay thế sơ đồ vật lý khác nhau làm tốc độ phát triển của độ
tán tổ hợp ban đầu sớm bị dập tắt theo thời gian và không thể tồn tại được đến
hết thời hạn dự báo.
Một vấn đề cần được nghiên cứu đó là vai trò cơ chế đa động lực liên
quan tới đa cơ chế vật lý trong xác định độ tán tổ hợp quan trọng thế nào. Một
số người kì vọng rằng vật lý có thể quan trọng hơn động lực trong sự đa dạng
của dự báo. Thực tế tại các trung tâm dự báo số trị đang nghiên cứu là: nên để
một mô hình là nhân hay nhiều mô hình là nhân để duy trì trong hệ thống tổ
hợp. Luôn dễ dàng hơn và rẻ hơn khi chỉ duy trì một cơ chế động lực của mô
hình làm nhân nhưng biến đổi cơ chế vật lý để tổ hợp.
1.2.3. Hệ thống dự báo tổ hợp 3 chiều
Chiều quá khứ (past-time dimension) đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống dự báo tổ hợp 3 chiều. Nếu chúng ta hiểu và sử dụng được chiều quá
khứ chính xác thì nó sẽ giúp chúng ta nhìn nhận vấn đề trong tương lai đúng
đắn hơn. Chiều quá khứ được coi là một chiều bên cạnh biến đổi trường ban
đầu và mô hình, đó là một mặt quan trọng của dự báo thời tiết (Cao, 2002)
[18]. Tổ hợp trực tiếp dự báo trễ là một phương pháp tiêu biểu đưa chiều quá
khứ vào tổ hợp. Cấp độ của tính đồng nhất từ lần chạy này đến lần chạy khác
trong quá khứ là sự đánh giá của độ bất định trong dự báo: tính đồng nhất cao
hay thấp sẽ cho biết khả năng dự báo cao hay thấp trong một hiện tượng. Lợi
ích chính của việc sử dụng chiều quá khứ là chất lượng dự báo tăng cùng với
19
tuổi của dự báo. Dự báo cũ cho kết quả xấu hơn so với dự báo mới hơn. Tuy
nhiên cũng như chất lượng mô hình và trường ban đầu được cải thiện, có thể
nó sẽ hoàn toàn không còn đúng nữa nếu thời gian quá khứ là quá cũ. Ví dụ, ít
khi chúng ta thấy trường hợp dự báo 48h lại chính xác hơn dự báo 24h. Tần
số chạy các mô hình tại các trung tâm dự báo số trị tăng lên do vậy thông tin
chứa trong chu trình dự báo ở quá khứ cũng tăng và các thông tin này cần
được sử dụng hiệu quả và kinh tế hơn. Một lợi ích của chiều này đó là nó
không bị mất đi trong quá trình tích phân mô hình. Tuy nhiên chưa có nhiều
nghiên cứu về phương pháp tổ hợp 3 chiều nhằm giúp người nghiên cứu nhận
ra được tầm quan trọng của chiều không gian trong dự báo tổ hợp.
Thực tế, tại các trung tâm dự báo, hệ thống tổ hợp đa quy mô là cần
thiết để phục vụ cho nhiều mục đích của dự báo. Những hệ thống này nên làm
việc tương tác và gắn kết với nhau bằng nhiều cách thích hợp. Mỗi mô hình
có tính đơn trị của nó trong quá trình xây dựng và đánh dấu những vấn đề đơn
trị của chính nó. Ví dụ: một mô hình dự báo tổ hợp về khí hậu thường tập
trung vào hướng biến đổi khí hậu, ảnh hưởng của khí nhà kính tới sự nóng lên
của trái đất hoặc những vấn đề biến đổi của tự nhiên; một hệ thống dự báo tổ
hợp mùa thì quan tâm đến quy mô tháng, năm của xu thế thời tiết; một hệ
thống dự báo tổ hợp toàn cầu thì quan tâm đến dòng nền quy mô lớn hạn vừa
3-14 ngày và nguồn cung cấp nhiệt; một hệ thống dự báo tổ hợp khu vực lại
quan tâm đến những hiện tượng thời tiết hạn ngắn 1-3 ngày với sự tập trung
vào những yếu tố thời tiết bề mặt. Những hệ thống dự báo tổ hợp quy mô
khác nhau dĩ nhiên cần những cách tạo nhân ban đầu và mô hình khác nhau.
Ví dụ cả trường phân tích và xoáy (cấu trúc và cấp độ) cần được gây nhiễu để
dự báo bão (Zhang và Krishnamurti, 1999; Cheung và Chang, 1999a và
1999b) [95][19][20].
20
Theo nghiên cứu của (Du và các cộng sự, 1997; Talagrand) [30][74]
khoảng 7-10 thành phần là đủ để thu được phần lớn các thông tin có ích từ
một mô hình. Tuy nhiên tùy vào từng trường hợp cụ thể để xác định số thành
phần tham gia tổ hợp, ví dụ cần ít các thành phần khi dự báo tổ hợp ở mực
500 hpa và nhiều hơn khi dự báo tổ hợp liên quan tới đối lưu có giáng thủy; ít
các thành phần đối với mô hình có độ phân giải thấp và nhiều với hệ thống
mô hình có độ phân giải cao. Tuy nhiên câu trả lời từ thực tế rất khác với
những luận điểm lý thuyết: độ tán tổ hợp kích cỡ giới hạn được sử dụng đủ tốt
cho dự báo nhưng độ tán tổ hợp có kích cỡ lớn hoặc vô hạn lại cần thiết trong
lý thuyết. Do đó nó luôn cần có sự cân bằng giữa sự hiệu quả và sự lý tưởng
(Mullen và Buizza, 2002).
1.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ HỢP KẾT QUẢ DỰ BÁO
Sau khi có được kết quả dự báo của các thành phần tham gia tổ hợp, sử
dụng các đặc trưng thống kê để đưa ra kết quả dự báo tổ hợp.
Công thức tổng quát:
Trong đó: Fth: kết quả dự báo tổ hợp
Fi: kết quả dự báo thành phần
Wi : trọng số tương ứng với từng dự báo thành phần
N : số thành phần tham gia tổ hợp
1.3.1.Trung bình đơn giản
Công thức tính trọng số:
w=wi = 1/ N (1.4)
Mọi thành phần dự báo được coi là quan trọng như nhau. Không cần
phải có số liệu lịch sử, không cần quan tâm đến tính chất hay đặc điểm của
i
N
ith FwF (1.3)
21
các nguồn số liệu. Chất lượng của dự báo tổ hợp sẽ giảm sút đáng kể trong
trường hợp có một vài dự báo thành phần không tốt, tách hẳn so với chùm các
dự báo thành phần khác. Để có kết quả tổ hợp tốt ta phải lựa chọn các dự báo
trước khi đưa vào tổ hợp. Điều này đòi hỏi các dự báo viên phải giàu kinh
nghiệm, nắm chắc các kiến thức Synop ảnh hưởng đến đường đi của bão và
đặc điểm dự báo của từng nguồn số liệu. Tuy nhiên việc lựa chọn không phải
lúc nào cũng cải thiện được chất lượng dự báo tổ hợp, mà có thể lại lược bỏ
những nguồn thông tin tốt.
1.3.2. Tính trọng số theo sai số
Công thức tính trọng số:
N
i
i
i
i
e
eW
1
/1
/1
(1.5)
Trong đó: e : sai số của nguồn dự báo thành phần i
Phải bảo đảm rằng tỷ trọng của từng dự báo thành phần tỷ lệ nghịch với
sai số tương ứng và tổng tỷ trọng bằng 1.
1.3.3. Tính trọng số bằng hồi quy tuyến tính
Công thức tính trọng số:
(1.6) CFwF i
N
i
ith
1
Trong đó : C: số hạng tự do
W : các hệ số hồi quy (trọng số của từng dự báo thành phần) i
Đối với phương pháp này ta phải sử dụng bộ số liệu lịch sử của một
hoặc một vài mùa bão trước để xây dựng phương trình hồi quy. Sai số tổ hợp
sẽ biến đổi tương đối mạnh nếu ta sử dụng các số liệu nền khác nhau. Bộ số
liệu để tính hồi quy càng lớn thì kết quả tổ hợp hồi quy tuyến tính sẽ càng tốt.
Các dự báo thành phần phải có độ dài bộ số liệu lịch sử tương đương nhau.
22
Trường hợp siêu tổ hợp:
Phương trình (1.6) sẽ có dạng:
))(()(
1
ii
N
i
i FtFaOtS
(1.7)
Trong đó: : giá trị trung bình đã quan trắc ở giai đoạn chuẩn bị O
N: số các mô hình thành phần
a : trọng số hồi quy của mô hình i i
F (t): giá trị dự báo của mô hình i i
iF : giá trị trung bình của các dự báo của mô hình i trong giai
đoạn chuẩn bị.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP BIỂU DIỄN KẾT QUẢ TỔ HỢP.
1.4.1. Bản đồ trung bình và độ phân tán
Kết quả tổ hợp được trình bày bằng cách vẽ trường dự báo trung bình
của cả tập hợp và độ phân tán của tập hợp dự báo này. Hình 1.10 minh hoạ
kết quả dự báo trường khí áp mặt đất sử dụng phương pháp tổ hợp. Các
đường đẳng áp là trung bình của tập hợp các dự báo và vùng được bôi màu
thể hiện độ phân tán của tập hợp này. Độ phân tán càng nhỏ có nghĩa là độ
đáng tin cậy của hình thế dự báo càng cao. Ngược lại nơi có độ phân tán lớn
(vùng được bôi màu đậm) thì tương ứng với vùng kết quả của tập hợp các dự
báo khác nhau nhiều và độ đáng tin cậy nhỏ.
23
Hình 1.10. Bản đồ trung bình và độ phân tán của dự báo tổ hợp
1.4.2. Spagheti maps - Bản đồ ghép chồng
Vẽ các đường đẳng áp của một giá trị nào đó của các dự báo khác nhau, ta
thấy là trên bản đồ sẽ có nhiều đường đan xen nhau. Nơi mà các đường này
nằm rất gần nhau thì độ tin cậy của hình thế thời tiết dự báo được càng lớn.
Ngược lại, khi các đường này nằm tách xa nhau thì hình thế thời tiết dự báo
được có độ tin cậy càng kém (Hình 1.11).
24
Hình 1.11: Bản đồ ghép chồng ( Spaghetti maps)
1.4.3. Dự báo đường đi của bão
Các kết quả dự báo tổ hợp thường được biểu diễn dưới dạng chùm các dự
báo khác nhau hoặc trường xác suất bão đi qua (Hình 1.12).
Hình 1.12. Kết quả dự báo tổ hợp cho đường đi của bão
Bên trái: chòm dự báo. Bên phải: trường xác suất bão đi qua
1.5. KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG DỰ BÁO TỔ HỢP Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam một số tác giả đã và đang tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra
hướng áp dụng tối ưu nhất phương pháp dự báo tổ hợp như công trình nghiên
cứu dự báo các trường khí tượng trên biển Đông trên cơ sở các mô hình
RAMS và ETA của GS.TS Trần Tân Tiến [9]; nghiên cứu về tổ hợp dự báo
quỹ đạo bão bằng phương pháp lấy trung bình đơn giản của ThS Nguyễn Chi
Mai [5][6][7]; dự báo tổ hợp xoáy thuận nhiệt đới dựa trên mô hình WBAR
với hàng nghìn thành phần của ThS Võ Văn Hoà [2][3][4][8]; phương pháp tổ
hợp cho mô hình MM5 của TS Hoàng Đức Cường[1].
Hệ thống dự báo tổ hợp do GS.TS Trần Tân Tiến cùng các cộng sự xây
dựng bao gồm hai mô hình số trị chính là RAMS và ETA với hy vọng xây
dựng nên một hệ thống sản phẩm tốt hơn từ dự báo riêng lẻ của các mô hình.
25
Qua thử nghiệm bước đầu cho thấy hệ thống dự báo tổ hợp đã phát huy được
tính ưu việt của nó ở các mực đẳng áp 850mb đến mực 300mb.
Phương pháp của ThS Nguyễn Chi Mai cùng các cộng sự sử dụng dự
báo quỹ đạo bão là phương pháp thống kê từ dự báo của các trung tâm quốc tế.
Bằng việc thực hiện lấy trung bình đơn giản, hồi quy tuyến tính đa biến và tính
trọng số theo sai số của bộ số liệu 3 mùa bão từ 2001 đến 2003. Mặc dù bộ số
liệu chưa đủ dài song kết qủa thu được cho thấy hiệu quả rõ rệt trong phương
pháp lấy trung bình đơn giản và có thể sử dụng tham khảo trong công tác dự
báo bão nghiệp vụ. Bên cạnh đó tác giả còn tiếp cận với phương pháp tạo
nhiễu động cho trường ban đầu đối với mô hình chính áp để tạo ra các thành
phần tổ hợp khác nhau và cũng đã có những cải thiện lớn nhất trong chất
lượng dự báo quỹ đạo bão.
ThS Võ Văn Hoà đã trình bày một khía cạnh mới trong việc ứng dụng
phương pháp gây nhiễu động trường ban đầu cho dự báo tổ hợp quỹ đạo của
XTNĐ và tạo ra các bản đồ dự báo xác suất dựa trên dự báo tổ hợp hàng nghìn
thành phần của mô hình WBAR và cho thấy sự cải thiện đáng kể trong chất
lượng dự báo quỹ đạo XTNĐ.
TS Hoàng Đức Cường đã thử nghiệm dự báo tổ hợp cho mô hình MM5
bằng phương pháp lấy trung bình đơn giản với các dự báo thành phần lần lượt
là sản phẩm của mô hình MM5 sau khi đã có những lựa chọn khác nhau đối
với các sơ đồ tham số hóa đối lưu và vi vật lý mây.
26
CHƯƠNG 2
MÔ HÌNH DỰ BÁO THỜI TIẾT QUY MÔ VỪA RAMS VÀ ÁP DỤNG
DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO TRÊN BIỂN ĐÔNG
2.1. GIỚI THIỆU VỀ MÔ HÌNH RAMS
Mô hình RAMS (Regional Atmospheric Modeling System) được Đại
học Tổng hợp Colorado (CSU) kết hợp với ASTER divsion- thuộc Mission
Research Corporation phát triển đa mục đích. Đó là một mô hình dự báo số
mô phỏng hoàn lưu khí quyển với qui mô từ toàn cầu cho đến các mô phỏng
xoáy lớn (Large Eddy Simulation-LES) của lớp biên khí quyển hành tinh. Mô
hình thường được sử dụng nhiều nhất để mô phỏng các hiện tượng khí quyển
qui mô vừa (2-2000 km) từ dự báo thời tiết nghiệp vụ đến các ứng dụng để
mô phỏng, quản lý chất lượng môi trường không khí. RAMS cũng thường
được sử dụng thành công với các độ phân giải cao hơn mô phỏng các xoáy
trong lớp biên khí quyển (10-100 m phân giải lưới ngang), mô phỏng điều
kiện vi khí hậu cho các toà nhà cao tầng (1 m phân giải lưới ngang) cho đến
các mô phỏng số trực tiếp cho buồng khí động (1 cm phân giải lưới ngang).
Mô hình RAMS được các nhà khoa học thuộc Khoa KT-TV-HDH,
Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên Hà Nội đưa vào nghiên cứu tại Việt Nam từ
năm 2001. Đến năm 2004, GS.TS Trần Tân Tiến cùng các cộng sự của ông đã
tiến hành cải tiến, áp dụng thành công mô hình RAMS trong dự báo thời tiết
tại Việt Nam và hoàn thành đề tài nghiên cứu cấp nhà nước “Xây dựng mô
hình dự báo các trường Khí tượng Thủy văn biển Đông Việt Nam”. Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra kỹ năng dự báo ưu việt của mô hình RAMS đối với các
trường khí tượng trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài việc có thể cập nhật tự động
số liệu 7 giờ một lần trong ngày để dự báo thời tiết tại các tỉnh, thành trong cả
nước, mô hình RAMS còn có thể dự báo thời tiết cho từng khu vực nhỏ,
chẳng hạn như dự báo thời tiết cho sân vận động quốc gia Mỹ Đình trong thời
27
gian diễn ra SEAGAMES 22 hoặc có thể dự báo cho từng quận trong nội
thành Hà Nội. Thử nghiệm với những trường hợp thời tiết bất thường như đợt
mưa lũ lớn ở Nghệ An - Hà Tĩnh trong năm 2002, mô hình cũng đã mô phỏng
được ...
Trong nghiên cứu dự báo bão, mô hình RAMS cũng cho kết quả khả
quan. Nó có thể mô phỏng được xu hướng di chuyển của ngay cả những cơn
bão có sự đổi hướng đột ngột như bão Chan chu năm 2006. Tuy nhiên vì thiếu
số liệu quan trắc trên biển nên sự sai lệch về vị trí và cường độ bão ngay trong
trường phân tích toàn cầu ban đầu đã làm gia tăng sai số trong dự báo của
RAMS.
2.1.1. Các phương trình cơ bản của RAMS
Các phương trình cơ bản của RAMS là các phương trình nguyên thủy
thủy tĩnh hoặc không thủy tĩnh được lấy trung bình Reynolds. Tất cả các biến,
ngoại trừ một số kí hiệu khác, đều là các đại lượng được lấy trung bình trong
một thể tích ô lưới và do đó kí hiệu gạch ngang chỉ giá trị trung bình được bỏ
qua. Phép biến đổi tọa độ của lưới ngang và thẳng đứng được bỏ qua trong
phần này. Các biến đổi này sẽ được trình bày trong phần sau. Các kí hiệu
được trình bày trong Bảng 2.1.
Các phương trình chuyển động:
z
uK
zy
uK
yx
uK
x
fv
xz
uw
y
uv
x
uu
t
u
mmm
' (2.1)
z
vK
zy
vK
yx
vK
x
fu
xz
vw
y
vv
x
vu
t
v
mmm
' (2.2)
z
wK
zy
wK
yx
wK
x
g
xz
ww
y
wv
x
wu
t
w
mmm
o
v
'' (2.3)
Phương trình nhiệt động lực:
28
rad
ilil
h
il
h
il
h
ilililil
tz
K
zy
K
yx
K
xz
w
y
v
x
u
t
(2.4)
Phương trình liên tục đối với tỷ hỗn hợp của các thực thể nước:
z
rK
zy
rK
yx
rK
xz
rw
y
rv
x
ru
t
r n
h
n
h
n
h
nnnn (2.5)
Phương trình liên tục khối lượng:
z
w
y
v
x
u
c
R
t
oooooo
oov
o
' (2.6)
Lựa chọn thủy tĩnh của RAMS sẽ thay thế phương trình chuyển động
thẳng đứng và phương trình liên tục khối lượng bằng phương trình thủy tĩnh
như sau:
vT
v
rrgg
z
(2.7)
0u v w
x y z
(2.8)
Bảng 2.1. Các kí hiệu chính được sử dụng trong mô hình
Kí hiệu Định nghĩa
U Thành phần gió theo hướng đông-tây
V Thành phần gió theo hướng bắc-nam
W Thành phần gió thẳng đứng
F Tham số coriolis
Km Hệ số nhớt rối động lượng
Kh Hệ số nhớt rối nhiệt và ẩm
il Nhiệt độ thế vị của nước lỏng-băng
rn Tỷ hỗn hợp của nước tổng cộng, mưa, tinh thể băng, và tuyết
Mật độ
Con Chỉ số kí hiệu khuynh hướng do tham số hoá đối lưu
29
Rad Chỉ số kí hiệu khuynh hướng do tham số hoá bức xạ
Res Chỉ số kí hiệu khuynh hướng do tham số hoá các quá trình vật
lý vi mô qui mô dưới lưới
G Trọng lực
rt Tỷ hỗn hợp của nước tổng cộng
rv Tỷ hỗn hợp của hơi nước
Hàm Exner tổng cộng
' Hàm Exner nhiễu
v Nhiệt độ thế vị ảo
P Khí áp
2.1.2. Cấu trúc lưới
2.1.2.1. Lưới lồng
Lưới lồng được sử dụng trong RAMS là lưới C dạng chuẩn (Mesinger
và Arakawa, 1976) [57]. Tất cả các biến ẩm và nhiệt động lực được xác định
tại cùng một điểm với các thành phần vận tốc u, v, còn w được xác định so le
ở bước lưới 1/2x, 1/2y, và 1/2z tương ứng.
2.1.2.2. Phép chiếu bản đồ
Lưới ngang sử dụng phép chiếu cực quay ba chiều, trong đó cực của
phép chiếu được quay tới khu vực gần tâm của miền tính, do vậy làm giảm
thiểu sự biến dạng của phép chiếu ở các khu vực chính cần quan tâm. Các
tham số bản đồ phù hợp được sử dụng trong tất cả các số hạng đạo hàm theo
phương ngang.
2.1.2.3. Hệ toạ độ địa hình
Cấu trúc thẳng đứng của lưới sử dụng hệ tọa độ địa hình z (Gal-Chen
và Somerville, 1975; Clark, 1977; Tripoli và Cotton, 1982) [83]. Đây là hệ tọa
độ địa hình trong đó mực tại đỉnh của mô hình gần như phẳng còn các mực
30
dưới sẽ có dạng theo địa hình. Các toạ độ trong hệ này được xác định như
sau:
g
g
zH
zz
Hz
yy
xx
*
*
*
(2.9)
trong đó H là độ cao đỉnh lưới và zg là độ cao địa hình địa phương, là
hàm của x và y.
2.1.2.4. Các mực thẳng đứng
Việc sử dụng lưới thẳng đứng có khoảng cách biến đổi làm tăng độ
phân giải ở gần mặt đất, nó giúp tránh được tỷ số giãn lưới jR~ lớn giữa các
mực kề nhau trong đó jR~ được xác định đối với mực j bất kỳ như sau:
1~
~
~
j
j
j Z
Z
R (2.10)
là tỷ số giữa bề dày lớp trên và lớp dưới và
jjj ZZZ ~~~ 1 (2.14)
là bề dày lớp được xác định bằng hiệu độ cao của hai mực. Do vậy
thông thường ta lấy một giá trị jR~ khá nhỏ cố định trên một số mực sao cho
lưới biến đổi dạng hình học từ giá trị jZ~ nhỏ gần bề mặt tới giá trị lớn hơn ở
trên cao.
2.1.3. Sai phân thời gian
RAMS có nhiều cách lựa chọn đối với các sơ đồ sai phân thời gian cơ
bản. Đối với mô hình không thủy tĩnh, người dùng có thể lựa chọn sơ đồ sai
phân bậc nhất tiến-lùi, sơ đồ Leapfrog (Tripoli và Cotton, 1982) hoặc sơ đồ
lai trong đó bao gồm sai phân thời gian tiến đối với các biến nhiệt động lực và
31
sai phân leapfrog đối với các thành phận vận tốc và áp suất. Mô hình thủy tĩnh
sử dụng sơ đồ tiến-lùi.
Tất cả các lựa chọn ở trên được tính toán bằng sơ đồ sai phân "tách thời
gian" (Tripoli và Cotton, 1982; Tremback và các ĐTG, 1985) [80] tương tự
như sơ đồ tách thời gian của Klemp và Wilhelmson (1978) [48] và sơ đồ tách
hiện của Gadd (1978). ý tưởng cơ bản đằng sau các sơ đồ là chia bước thời
gian thành các bước thời gian nhỏ hơn đối với các số hạng trong phương trình
có khả năng tạo ra sự lan truyền của các mode sóng nhanh. Trong mô hình
không thủy tĩnh, các mode này là sóng âm và sóng trọng trường trong khi
trong mô hình thủy tĩnh các mode này là sóng trọng trường ngoại và sóng
Lamb.
2.1.3.1. Trường hợp không thủy tĩnh
Sơ đồ sai phân thời gian có thể được mô tả đơn giản như dưới đây đối
với hệ phương trình hai chiều, khô, nhớt và tựa Boussinesq trong đó phép
biến đổi hệ toạ độ theo phương thẳng đứng và phương ngang được bỏ qua.
Đối với trường hợp không thủy tĩnh, các phương trình cơ bản có dạng sau:
uo Ffvz
uw
x
uu
xt
u
' (2.15)
w
o
o Fgz
ww
x
wu
xt
w
'' (2.16)
F
z
w
x
u
t
(2.17)
z
w
x
uc
t
oooo
oo
2
2' (2.18)
trong đó c là tốc độ âm.
2.1.3.1. Trường hợp không thủy tĩnh
32
Đối với việc lựa chọn điều kiện thuỷ tĩnh, các sơ đồ sai phân thời gian
có thể được biểu diễn đối với một hệ phương trình đơn giản hai chiều, khô,
không nhớt như sau:
fv
z
uw
x
uuF
F
xt
u
u
u
(2.19)
x
uF
F
z
w
t
(2.20)
0
z
w
t
u (2.21)
g
z
(2.22)
2.1.4. Bình lưu
RAMS sử dụng hai dạng sơ đồ bình lưu cho việc lựa chọn phép sai
phân thời gian trong quá trình mô phỏng của mô hình, đó là sơ đồ dạng
Leapfrog chuẩn và sơ đồ tiến ngược dòng (Tremback và các ĐTG, 1987)
[81]. Sơ đồ Leapfrog được sử dụng đối với tất cả các biến trong quá trình lựa
chọn sai phân thời gian Leapfrog và đối với các thành phần vận tốc trong quá
trình lựa chọn sai phân thời gian lai.
Các sơ đồ bình lưu được biểu diễn dưới dạng thông lượng để bảo toàn
khối lượng và động lượng. Xét theo hướng x, các số hạng bình lưu trong
phương trình (2.1)-(2.4) có thể được viết lại với giả thiết bước lưới không đổi
và bỏ qua địa hình và sự chuyển đổi sang toạ độ cầu, có dạng như sau:
2/12/12/12/11
1
jjjjj
j
uuFF
x
x
u
x
u
x
u
(2.23)
33
Trong đó u là thành gió theo hướng x, là mật độ không khí, là các
biến được vận chuyển bình lưu. Chỉ số j chỉ điểm lưới xem xét.
2.1.4.1. Bình lưu Leapfrog
Các thông lượng bình lưu Leapfrog được sai phân trung tâm theo
không gian và thời gian với sơ đồ bình lưu Leapfrog bậc hai hoặc bậc bốn.
Biểu thức của các thông lượng F này có dạng:
Thông lượng Leapfrog bậc 2:
2/12/1 jj uF (2.24)
Thông lượng Leapfrog bậc 4:
2112/12/1 12
1
12
7
12
7
12
1
jjjjjj uF (2.25)
2.1.4.2. Bình lưu tiến
Các thông lượng bình lưu tiến được tính theo sơ đồ bình lưu tiến ngược
dòng bậc hai hoặc bậc sáu, sơ đồ này là do Tremback (1987) xây dựng và thử
nghiệm. Các sơ đồ này thuộc cùng một họ sơ đồ giống như sơ đồ tiến ngược
dòng bậc nhất cổ điển và sơ đồ bậc hai được sử dụng nhiều hơn của Crowley
(1968). Như đã được Tremback và các ĐTG mô tả chi tiết năm 1987, hai
dạng khác nhau của sơ đồ thông lượng được xây dựng. Dạng thứ nhất dựa
theo phương pháp của Crowley (1968), dạng xấp xỉ đa thức đối với trường
được bình lưu sau đó tích phân hàm này. Tuy nhiên đối với các sơ đồ bậc ba
hoặc cao hơn sơ đồ dạng này không trở lại dạng bình lưu khi bước lưới và vận
tốc bình lưu không đổi. Dạng sơ đồ thứ hai được mô tả bởi Bott (1989) cũng
thực hiện yêu cầu này. Dạng thứ hai chính xác hơn so với dạng thứ nhất
nhưng nó đòi hỏi bước lưới là hằng số. Do vậy, dạng thứ nhất được gọi là
dạng thông lượng tích phân, dùng trong phương thẳng đứng nơi mà bước lưới
được kéo giãn để làm tăng độ phân giải ở các độ cao gần mặt đất. Dạng thứ
34
hai được dùng trong phương ngang nơi bước lưới là hằng số theo một hướng
bất kỳ. Các thông lượng bình lưu tiến này có thể được biểu diễn như sau
(trong đó = ut/x):
Thông lượng bậc hai
)(
2
)(
2 1
2
12/1
jjjjj x
tF (2.26)
Các thông lượng tích phân bậc sáu
)325150253(256 321122/1 jjjjjjj x
tF
+
)9125225022501259(3840 32112
2
jjjjjj
+
)5393434395(288 32112
3
jjjjjj
+ )13343413(192 32112
4
jjjjjj
+ )3223(240 32112
5
jjjjjj
+ )510105(
720 32112
6
jjjjjj (2.27)
Các thông lượng với bước lưới không đổi bậc sáu
)837378(60 321122/1 jjjjjjj x
tF
)225245245252(360 32112
2
jjjjjj
)7667(48 32112
3
jjjjjj
)11282811(144 32112
4
jjjjjj
35
)3223(240 32112
5
jjjjjj
)510105(720 32112
6
jjjjjj (2.28)
2.1.5. Các điều kiện biên
2.1.5.1. Điều kiện biên xung quanh
RAMS bao gồm vài lựa chọn cho dạng đặc trưng của các điều kiện biên
xung quanh. Dạng tổng quát với lưới so le C được sử dụng trong RAMS là
điều kiện phát xạ cơ bản (Sommerfeld):
x
ucu
t
u
(2.29)
trong đó u là thành phần gió vuông góc với biên. Vấn đề là sau đó xác
định dạng của c, là vận tốc pha. Các lựa chọn tồn tại trong RAMS theo sơ đồ
Orlanski (1976), là sơ đồ cải tiến của Klemp và Lilly (1978) [48] (Durran,
1981) [46] và sơ đồ Klemp và Wilhelmson (1977) [47].
Orlanski (1976) tính c theo công thức:
x
u
t
uc (2.30)
Sơ đồ Klemp và Lilly (1978) tính trung bình vận tốc pha của Orlanski
theo trục thẳng đứng, sau đó áp dụng vận tốc trung bình cho toàn bộ cột khí
quyển thẳng đứng. Sơ đồ Klemp và Wilhelmson (1978) đơn giản chỉ rõ giá trị
hằng số như là vận tốc pha của sóng trọng trường điển hình, cỡ 10-30 m/s.
Điều kiện biên phát xạ chỉ áp dụng cho các thành phần vận tốc vuông
góc. Vì lưới so le các biến khác được xác định lệch ra ngoài 1/2x so với
thành phần vận tốc vuông góc. Các biến này cũng phải được xác định bằng
một phương pháp nào đó. Trong RAMS, các lựa chọn tồn tại đối với điều
kiện gradien bằng 0, các điều kiện dòng thổi vào và/hay dòng thổi ra là hằng
số, hoặc các điều kiện dòng thổi ra phát xạ.
36
2.1.5.2. Điều kiện biên thẳng đứng
Đối với các điều kiện biên dưới tại bề mặt, các dòng thông lượng ở lớp
bề mặt cung cấp thông tin về sự trao đổi chủ yếu giữa khí quyển và bề mặt.
Tuy nhiên, để thuận tiện hơn đối với mục đích số sẽ định nghĩa các giá trị
biến tại một mực ảo 1/2 z nằm dưới bề mặt.
Đối với các điều kiện biên trên, có một số lựa chọn phụ thuộc vào dạng
mô phỏng và ý đồ mô phỏng. Đối với hệ phương trình không thuỷ tĩnh, có hai
lựa chọn cho việc xác định thành phần vận tốc vuông góc đến đỉnh của miền
tính. Hoặc sử dụng điều kiện biên vách đơn giản (w = 0) hay áp dụng điều
kiện biên phát xạ sóng trọng trường của Klemp và Durran (1983). Điều kiện
Klemp-Durran được suy diễn cho sóng trọng trường tuyến tính, dừng, và thuỷ
tĩnh, cho thấy khả năng ứng dụng tốt trong một số trường hợp, đặc biệt khi
RAMS được ban đầu hoá với điều kiện đồng nhất ngang và dòng bị cưỡng
bức bởi điạ hình. Kinh nghiệm cho thấy có một số tình huống kém thành công
hơn với các trường hợp mà ở đó dòng thể hiện tính không dừng mạnh (ví dụ
trong trường hợp đối lưu sâu). Điều kiện này không thích hợp với ban đầu hoá
không đồng nhất, vì điều kiện này giả thiết là tất cả các chuyển động thẳng
đứng tại đỉnh mô hình là kết quả của sự lan truyền sóng trọng trường thẳng
đứng.
Do đó, để có thể kết hợp cả điều kiện vách lẫn điều kiện Klemp-
Durran, một lớp hấp thụ có thể được sử dụng mở rộng từ đỉnh của miền tính
cần quan tâm đến đỉnh của mô hình. Trong trường hợp đồng nhất ngang, lớp
này là một lớp ma sát Rayleigh đơn giản ở đó một số hạng mở rộng được
thêm vào phương trình dự báo cơ bản:
0
t
(2.31)
37
trong đó tương ứng với các biến dự báo u, v, w, và , o là các giá trị
ban đầu của các biến trên, là qui mô thời gian được xác định là một hàm
tuyến tính theo độ cao, biến đổi từ giá trị vô cùng tại đáy của lớp hấp thụ tới
giá trị nhỏ nhất tại đỉnh miền tính của mô hình nó thường được gán giá trị
trong khoảng từ 60 đến 300 giây.
Đối với các ban đầu hoá không thuỷ tĩnh, điều kiện ép biên tương
đương với sơ đồ của Davies (1978) [23] hay sơ đồ ma sát Rayleigh, có thể
được sử dụng như là một lớp hấp thụ tại đỉnh mô hình.
Tương tự như các điều kiện biên xung quanh, các biến khác được xác
định lệch lên trên 1/2 z so với các thành phần vận tốc vuông góc vì lưới so le
đã được sử dụng. Các biến này được xác định bằng phép ngoại suy đơn giản.
Đối với mô hình thuỷ tĩnh, chiều thẳng đứng được áp dụng khác ít
nhiều so với mô hình không thuỷ tĩnh. RAMS bao gồm 2 lựa chọn đối với
điều kiện biên của phương trình thuỷ tĩnh. Hoặc áp suất biên tại đỉnh được
tính với điều kiện Klemp-Durran đã mô tả ở trên hoặc áp suất tại mặt đất
được dự báo theo cách sau.
Phương trình thuỷ tĩnh được viết với dạng phi tuyến theo hàm Exner
vT
v
rrg
z
1
pCR
p p
pC
/
00
(2.32)
Điều kiện biên đối với phương trình thuỷ tĩnh trong quá trình tích phân
mô hình là phương trình dự báo áp suất bề mặt được nhận từ việc thế phương
trình thuỷ tĩnh vào phương trình bảo toàn khối lượng nén được
T
g
z
z
g dz
y
v
x
u
gt
p 1 (2.33)
trong đó zg là độ cao của mặt đất và zT là độ cao của đỉnh mô hình.
38
Điều kiện biên giả thiết là phân kỳ trên đỉnh mô hình là nhỏ được so
với phân kỳ trong miền tính. Giả thiết này phù hợp với nhiều mô hình sử dụng
trục toạ độ p trong đó đặt áp suất tại đỉnh mô hình là 100mb và định nghĩa
/t = 0 tại đỉnh.
Cả hai dạng của lớp hấp thụ tại đỉnh đều có sẵn trong mô hình thuỷ
tĩnh.
39
2.2 ÁP DỤNG MÔ HÌNH RAMS ĐỂ DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO TRÊN
BIỂN ĐÔNG.
2.2.1 Chọn miền tính và cấu hình lưới
Để có thể nắm bắt được những cơn bão hình thành từ phía đông
Philippin và di chuyển vào Biển Đông, tác giả lựa chọn miền dự báo gồm
161x161 điểm lưới theo phương ngang, với bước lưới là 28km, tạo ra miền
tính có kích thước 4508x4508 km2. Tâm miền tính được đặt ở 150N và 1100E.
Miền tính này bao phủ toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và một phần lục địa Trung
Quốc, vừa đảm bảo hạn chế sai số khuếch tán vào tâm miền tính, vừa tính đến
ảnh hưởng của hoàn lưu gió mùa đông bắc, xuất phát từ cao áp Syberi và các
trung tâm cực đới khác. Biên phía nam của miền tính ở vào khoảng -50S, với
mục tiêu mô tả tốt hơn hoàn lưu gió mùa tây nam vào mùa hè, thổi từ nam
bán cầu vượt qua xích đạo vào khu vực Đông Nam Á.
Hình 2.1. Miền dự báo được lựa chọn trong nghiên cứu
- Số mực theo chiều thẳng đứng là 26 mực, trong đó mực đẳng áp trên
cùng là 10 mb.
- Bước thời gian tích phân được đặt là 60 giây.
2.2.2 Cập nhật số liệu địa phương trong mô hình RAMS
40
Do số liệu của các mô hình toàn cầu có độ phân giải rất thấp nên khi
chạy các mô hình khu vực cần phải tiến hành cập nhật số liệu địa phương
nhằm mục đích phản ánh tốt hơn trường ban đầu.
Nguồn số liệu địa phương dùng trong nghiên cứu này được lấy từ
Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, bao gồm 4 loại:
(1) Số liệu quan trắc khí tượng bề mặt (AAXX).
(2) Số liệu khí tượng thu được từ các tàu quan trắc hoặc các trạm phao
tự động đặt trên biển (BBXX).
(3) Số liệu quan trắc cao không tại các mực đẳng áp chuẩn trong lớp
không khí từ mặt đất đến 100mb (TTAA).
(4) Số liệu quan trắc nhiệt độ và gió tại các điểm đặc biệt (TTBB).
Trong đó, các biến được đưa vào cập nhật là độ cao địa thế vị, hướng
gió, tốc độ gió, nhiệt độ và nhiệt độ điểm sương.
Hình 2.2 sau đây là bản đồ phân bố các trạm quan trắc bề mặt và các
trạm cao không.
a b
Hình 2.2. Mạng lưới trạm bề mặt (a) và cao không (b) dùng trong thử nghiệm.
41
Cả 4 loại số liệu này sẽ được đưa vào mô-đun Ctdubao để tiến hành
giải mã, đồng thời format cho đúng với định dạng số liệu cập nhật địa phương
mà RAMS yêu cầu (Raph_2, Tremback, 10/2000). Sản phẩm đầu ra của
Ctdubao là hai file: dp-s (số liệu bề mặt), dp-r (số liệu cao không). Đưa vào
mô hình RAMS, mô hình sẽ thực hiện cập nhật các thông tin trên.
2.2.3 Đánh giá khả năng dự báo quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS
cho khu vực Biển Đông.
Dựa vào đề tài KC08-05 tác giả đánh giá sai số dự báo cho toàn bộ tập
mẫu khoảng 800 trường hợp bão trong các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008
đã được mô phỏng theo hai phương án (bảng 2.1).
+ Chạy mô hình RAMS có cập nhật số liệu địa phương (Rams)
+ Chạy mô hình RAMS vừa cài xoáy giả, vừa cập nhật số liệu địa
phương (RamsBog).
Bảng 2.1. Kết quả sai số vị trí dự bão theo 2 phương án Rams và RamsBog
HanDB RAMS (km) RAMSBOG (km)
6 113 135
12 145 199
18 182 279
24 220 344
30 250 394
36 280 428
42 306 457
48 339 469
54 363 480
60 393 486
66 419 499
72 441 521
42
Kết quả từ bảng 2.1 cho thấy dự báo của mô hình RAMS đối với các
cơn bão hoạt động trên Biển Đông có sai số tương đối lớn, cụ thể đối với hạn
dự báo 24, 48 và 72 giờ lần lượt là 220, 339 và 441 km. Còn đối với trường
hợp có sử dụng phương pháp tạo xoáy giả, kết quả của phương pháp này cho
sai số khoảng cách lớn hơn so với trường hợp không cài xoáy lần lượt là 344,
469 và 521 km với hạn dự báo là 24, 48 và 72 giờ.
2.3 PHƯƠNG PHÁP TẠO NHÂN BAN ĐẦU VÀ NUÔI NHIỄU TRÊN MÔ
HÌNH RAMS.
Trong luận văn này tác giả chọn phương pháp tổ hợp 1 chiều sử dụng
phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh. Mô hình dự báo số được
giả thiết là hoàn hảo và sai số dự báo chỉ do điều kiện ban đầu gây nên. Do
đó, điểm mấu chốt trong phương pháp này là tìm phương pháp tạo ra tập hợp
các trường ban đầu khác nhau từ một trường phân tích ban đầu cho mô hình
dự báo số. Theo lý thuyết (trình bày ở phần 1.2.1), nhân ban đầu tạo ra bằng
phương pháp dự báo trễ có cấu trúc động lực phát triển của độ tán tổ hợp lớn
hơn so với nhân ngẫu nhiên. Vì vậy, trong luận văn này tác giả sử dụng
phương pháp dự báo trễ để tạo ra nhân ban đầu.
2.3.1 Tạo nhân ban đầu
Trong luận văn này, tác giả tạo nhân ban đầu bằng phương pháp dự báo
trễ, nội dung của phương pháp này như sau:
o Sử dụng số liệu phân tích của những obs 48,42,36,30 giờ trước
thời điểm dự báo.
o Tích phân dự báo tới 24 giờ trước khi dự báo
o Tìm hiệu của các tích phân này từng đôi một
o Chuẩn hóa lại các nhiễu ban đầu này (D1, D2,…,D6)
D* = S.D
43
Ở đây
PCS /
N
np
P
N
TT 1
2
850850
Với: N là số điểm lưới, T p850 , T n850 : là giá trị dương và âm của
1 cặp dự báo của trường nhiệt độ tại các mực 850mb, C là hệ
số điều chỉnh (chọn theo kinh nghiệm) tác giả chọn C=1.2
}D5
}D6
(T-48) (T-42) (T-36) (T-30) (T-24)
Hình 2.3: Cách tạo nhân ban đầu trước khi nuôi nhiễu
}D3
}D4
}D1
}D2
Kết quả của phương pháp tạo nhân ban đầu này là tác giả đã tạo được 6
nhân ban đầu (hình 2.3) cho mỗi trường hợp dự báo bão. Như vậy, trong thử
nghiệm này, mỗi cơn bão tác giả cần phải tạo ra 6 nhân với mỗi nhân tương
ứng với hiệu của 2 dự báo trễ sau khi đã chuẩn hóa. Ví dụ: để có nhân ban đầu
D1, cần chuẩn bị số liệu tại các obs trước thời điểm làm dự báo 48 (T-48) giờ
và 42 giờ (T-42). Sau đó đưa các số liệu này vào tích phân đến cùng thời điểm
trước khi làm dự báo 24 giờ (T-24). Tiếp theo, sử dụng công thức chuẩn hóa
để tạo ra nhân ban đầu D1. Làm tương tự như vậy, sẽ tạo ra 6 nhân ban đầu là
D1, D2, D3, D4, D5 và D6. Những nhân ban đầu này sẽ được dùng cho
44
phương pháp nuôi để tìm ra những dao động phát triển nhanh của mô hình dự
báo.
2.3.2 Nuôi những dao động phát triển nhanh
Sử dụng phương pháp nuôi những dao động ban đầu để tìm ra nhiễu
phát triển nhất cho trường ban đầu của các cơn bão thử nghiệm. Phương pháp
này dựa trên ý tưởng của 2 tác giả Toth and Kanay (Breeding of Growing
Model viết tắt BGM). Nội dung của phương pháp này như sau:
a/ Tạo một nhân ban đầu bất kỳ và chuẩn hóa như đã trình bày ở trên
b/ Cộng và trừ nhiễu đã chuẩn hóa với trường phân tích, sử dụng điều kiện
biên cập nhật của NCEP và tích phân mô hình 6 giờ với hai trường ban
đầu này.
c/ Lấy hiệu của 2 trường trường dự báo để được nhiễu mới D ở thời điểm t+6
d/ Chuẩn hóa nhiễu này theo công thức
D* = S.D
Ở đây
PCS /
N
np
P
N
TT 1
2
850850
Với: N là số điểm lưới, , T p850 T n850 : là giá trị dương và âm của 1
cặp dự báo của trường nhiệt độ tại các mực 850mb, C là hệ số
điều chỉnh (chọn theo kinh nghiệm) tác giả chọn C=1.2
e/ Lặp lại từ bước b/ cho tới thời điểm T00 (hình 2.4) ta tìm được nhiễu phát
triển nhanh đối với mô hình dự báo (hình 2.5).
45
Hình 2.4: Phương pháp nuôi mode phát triển
Hình 2.5: Các cặp nhiễu dùng trong dự báo tổ hợp
Sau 24 giờ nuôi, 6 giờ chuẩn hóa 1 lần ta tìm được những dao động phát triển
nhanh cho mô hình dự báo. Mỗi nhân ban đầu ở trên sau khi nuôi sẽ tạo ra 1
nhiễu mới. Đây là một mode phát triển nhanh của mô hình RAMS. Nhiễu này
sẽ được cộng và trừ với trường phân tích kiểm tra để tạo ra 2 trường ban đầu.
Trong luận văn này, do tác giả chọn số nhân ban đầu là 6 vì vậy các trường
ban đầu được tạo ra sẽ là 12. Kết hợp với trường phân tích kiểm tra, ta thu
được sẽ là 13 trường ban đầu. 13 trường ban đầu này được đưa vào mô hình
46
RAMS để tích phân dự báo hạn 72 giờ, kết quả ta sẽ thu được 13 trường dự
báo (các dự báo thành phần) tương ứng với 13 trường đầu vào. Tìm tâm bão
của 13 trường này và tổ hợp bằng cách lấy trung bình, cho ta dự báo tổ hợp vị
trí tâm bão. Như vậy, để dự báo 72 giờ cho 7 cơn bão, không kể trường hợp
tạo nhân ban đầu cho mỗi cơn bão, khối lượng tích phân mô hình để ra được
sản phẩm tổ hợp là khá lớn 7x13=91 lần tích phân mô hình hạn dự báo 72 giờ.
47
CHƯƠNG 3
THỬ NGHIỆM DỰ BÁO QUỸ ĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG PHÁP
NUÔI NHƯNG DAO ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH
RAMS
3.1 MÔ TẢ TẬP SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu này, các trường phân tích và dự báo 6 giờ một của
mô hình toàn cầu GFS với độ phân giải ngang 1x1 độ kinh vĩ sẽ được sử dụng
làm điều kiện ban đầu và điều kiện biên cho mô hình RAMS. Với miền tính
toán như hình 2.1, tác giả đã thử nghiệm với 7 cơn bão và áp thấp nhiệt đới
(xoáy thuận nhiệt đới, XTNĐ) hoạt động trên biển Đông trong mùa bão năm
2006. Danh sách các cơn bão được liệt kê trong bảng 3.1
B¶ng 3.1. Danh sách các trường hợp bão và áp thấp nhiệt đới được lựa chọn
thực hiện thử nghiệm.
Tên bão và
ATNĐ
Thời điểm tiến
hành dự báo
Vĩ
độ
Kinh
độ STT
Vmax
(kt)
CHANCHU 1 00Z - 13/05/2006 13.3 120.6 50
PRAPIROON 2 00Z - 31/07/2006 15.4 122.8 25
XANGSAGE 3 00Z - 27/09/2006 12.5 125.5 90
CHEBI 4 00Z - 10/11/2006 16.1 127.2 55
DURIAN 5 00Z - 01/12/2006 13.6 120.3 75
UTOR 6 00Z – 11/12/2006 13.3 118.4 75
CIMARON 7 00Z - 28/10/2006 14.3 128.2 65
48
3.2 NUÔI NHIỄU PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH RAMS
Theo nghiên cứu của Zhou và Chen, 2005 [96] về dự báo tổ hợp xoáy thuận
nhiệt đới dùng mô hình chính áp cho khu vục tây bắc Thái Bình Dương là chỉ
cần sử dụng nhân ban đầu của trường gió (u,v) và trường nhiệt (t) là đủ. Nên
các nhân ban đầu này được đưa vào chu trình nuôi để tìm ra các dao động
phát triển nhanh của mô hình RAMS. Dưới đây, tác giả trình bày kết quả tạo
nhân ban đầu và nuôi những dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS.
Nhân ban đầu cho trường gió và nhiệt.
Nhân ban đầu được tạo ra bằng phương pháp dự báo trễ đã được trình
bày trong phần 2.4.1.
Hình 3.1: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D1
a
c
c
a
b
b
Hình 3.2: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D3
Để tạo nhân ban đầu cho cơn bão Chan chu tại thời điểm 7h ngày
13/05/2006, tác giả đã sử dụng số liệu GFS tại thời điểm (T-48), (T-42), (T-
36), (T-30), sau đó tích phân các số liệu tại các thời điểm này đến (T-24), tìm
hiệu các trường nhiệt, gió ở các mực tại thời điểm (T-24) từng đôi một và
49
chuẩn hóa. Kết quả sẽ nhân được 6 nhân ban đầu là D1, D2, …, D6. Trường
gió, nhiệt của nhân D1, D3 được thể hiện trên hình (hình 3.1).
Đối với trường nhiệt độ của nhân D1 (hình 3.1a) ta thấy các tâm cao
xảy ra mạnh chủ yếu nằm ở phía bắc của Việt Nam, trong khi đó ta quan sát
trường nhiệt độ của nhân D3 (hình 3.2a) thì những tâm cao này diễn ra ở một
phần phía tây bắc Mianma và những tâm thấp nằm ở miền trung Việt Nam,
quần đảo Philippin và một phần của nước Úc.
Trường gió u của nhân D1 (hình 3.1b) có tâm cao ở phía tây và tây bắc,
nhưng đối với nhân D3 (hình 3.2b) thì trường gió lại có tâm thấp ở phía Nam
của bản đồ. Trường gió v của nhân D1 (hình 3.1c) có các tâm cao chủ yếu ở
khu vực Việt Nam, Trung Quốc và một phần của nước Úc, trong khi đó
trường gió v của nhân D3 (hình 3.2c) lại có tâm cao ở tại Indonexia, Malayxia
và nước Úc.
Qua phân tích các trường gió và nhiệt tại mực 850mb của 2 nhân D1 và
D3 ta thấy: Nhiễu của mỗi trường khí tượng ở mỗi mực, đều có các biến động
khác nhau, các biến động này được sinh ra bởi sai số của các dự báo tại các
thời điểm trước đó.
50
Nuôi những dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS
Hình 3.3. Chu trình nuôi 24 giờ của phương pháp BGM cho cơn bão Chan
chu 7h ngày 13/5/2006
Đưa lần lượt các nhân ban đầu D1, D2, …, D6 vào chu trình nuôi
những dao động phát triển nhanh của RAMS (hình 3.3) có thời hạn nuôi 24
giờ với khoảng cách của mỗi lần nuôi là 6 giờ.
Quá trình nuôi dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS với
trường nhiệt, gió của nhân D1 của cơn bão Chan chu như sau: cộng, trừ
trường nhiệt, gió ở các mực của nhân D1 với trường nhiệt, gió của các mực
của trường GFS 00h ngày 12/05/2006 (T-24), kết quả tạo ra 1 cặp trường dự
báo mới. Tích phân cặp trường dự báo này tới thời điểm 06h ngày 12/05/2006
(T-18), tìm hiệu của cặp dự báo tại (T-18) và chuẩn hóa theo công thức trình
bày ở phương pháp BGM. Trường nhiệt, gió đã được chuẩn hóa này được
cộng và trừ với trường nhiệt, gió của trường GFS tại 12 h ngày 12/05/2006
(T-12), tích phân cặp này tới 18h ngày 12/05/2006 (T-06), đưa kết quả dự báo
tại (T-12) hạn 6 giờ của trường nhiệt, gió đã tìm hiệu và chuẩn hóa cộng với
trường nhiệt, gió của trường GFS tại (T-6). Tiếp tục tích phân cặp nhiễu tại
(T-6), tìm hiệu và chuẩn hóa trường nhiệt, gió ở các mực ta có được trường
nhiệt, gió của nhân D1 (hình 3.5) và cộng trừ nhân D1 với trường nhiệt, gió
51
của trường GFS tại 00 h ngày 13/05/2006 (T00), 2 trường mới được tạo ra
này được xem như là 2 thành phần dự báo.
Hình 3.4: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D1 tại thời điểm T-12 giờ
a
a
b
b
c
c
Hình 3.5: Trường t (độ C), u (m/s), v (m/s) của nhân D1 tại thời điểm T00 giờ
Phân tích trường nhiệt và gió của nhân D1 tại T-12 giờ trước thời điểm
dự báo, trên hình 3.4 các tâm cao ở phía bắc vẫn được duy trì tuy nhiên các
tâm này mở rộng hơn, trong khi đó trên Biển Đông lại hình thành những tâm
thấp mới. Tiếp tục nuôi nhân D1 tới thời điểm T00 (hình 3.5), các tâm cao ở
phía bắc Việt Nam vẫn được duy trì, tâm thấp mới sinh ra trong quá trình nuôi
dao động so với thời điểm T=-12 giờ trên Biển Đông đã bị giảm. Sau một chu
trình nuôi ta tìm được dao động phát triển nhanh của mô hình RAMS đối với
nhân D1.
52
c b a
Hình 3.6: Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D3 tại thời điểm T=-12 giờ
b a c
Hình 3.7: Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D3 tại thời điểm T=00 giờ
Tương tự như trường nhiệt độ và gió của nhân D1, trường nhiệt độ
(hình 3.6a) của nhân D3 sau một chu trình nuôi 24 giờ, các tâm cao ở phía bắc
và tây bắc Việt Nam, tâm thấp ở phía Đông Trung Quốc và ở quần đảo
Philippin đã thu hẹp so với trường nhiệt độ tại thời điểm T=-12 (hình 3.7 a).
Các thành phần u, v của trường gió (hình 3.7 b,c) nhân D3 lại cho thấy các
tâm cao ở khu vực phía Đông bắc Việt Nam có xu hướng lùi về phía nam và
yếu đi.
Để thấy vai trò của quá trình trước và sau khi nuôi nhiễu, ta tìm hiệu
của trường gió và nhiệt độ của nhân D1 và nhân D3 tại T=00 trừ đi trường
gió, nhiệt được tạo bởi phương pháp dự báo trễ (nhân ban đầu), kết quả được
biễu diễn ở hình 3.8 và hình 3.9:
53
b a c
Hình 3.8: Biến động của Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D1
a b c
Hình 3.9: Biến động của Trường t (độ C) ,u (m/s) ,v (m/s) của nhân D3
Đối với trường nhiệt, và trường gió v của 2 nhân D1 và D3 đều cho
vùng biến động mạnh tại khu vực phía bắc Việt Nam (hình 3.8a, hình 3.9a,
hình 3.8c, hình 3.9c).
Trong khi biến động của trường nhiệt, và trường gió v của 2 nhân D1
và D3 có vùng biến động mạnh ở khu vực Thái Lan và Mianma (hình 3.8b,
hình 3.9b).
Từ phân tích trên cho thấy, các nhân ban đầu đã thay đổi trong quá
trình nuôi và nó trở thành các mode phát triển của mô hình RAMS.
54
3.3 DỰ BÁO TỔ HỢP QUỸ ĐẠO BÃO BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUÔI
NHỮNG DAO ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHANH CỦA MÔ HÌNH RAMS.
Kết quả dự báo tổ hợp quỹ đạo của 7 cơn bão (bảng 3.1) được sử dụng
để đánh giá sai số của phương pháp và so sánh với các dự báo khác. Để thấy
rõ hiệu quả của phương pháp tổ hợp dưới đây sẽ trình bày kết quả dự báo quỹ
đạo của 2 cơn bão điển hình Chan chu 13/05/2006 và Prapiroon ngày
31/07/2006.
3.3.1 Cơn bão Chan chu (12-17/5/2006)
Diễn biến của cơn bão Chan chu
Đây là cơn bão rất mạnh, hình thành từ phía Đông Philipin, trưa ngày
12/5 vượt qua Philipin vào Biển Đông. Bão di chuyển nhanh theo hướng Tây
Tây Bắc. Sáng 15/5, khi đến khoảng kinh tuyến 115 độ kinh đông bão đổi
hướng di chuyển nhanh về phía Bắc (hình 3.10). Chiều tối ngày 17/5 bão đổ
bộ vào đất liền tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).
Hình 3.10. Quỹ đạo thực của bão Chan chu (Nhật bản)
55
Phân tích hình thế synop cơn bão Chan chu
Ngày 14 tháng 5 năm 2006 bão Chan chu đã mạnh tới 2 cấp so với
ngày 13, từ cấp 10, lên cấp 12, lúc 00z ngày 14/5/2006 vị trí tâm bão ở vào
khoảng 14.0 độ vĩ bắc; 117.6 độ kinh đông.
Hình 3.11: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 14/5/2006
Trên bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 14 tháng 5 năm 2006 (Hình
3.11) ta thấy một áp cao lạnh lục địa đang bao trùm toàn bộ Trung Quốc với
đường đẳng áp khép kín ở trung tâm áp cao lạnh này lên tới 1030mb. Lưỡi áp
cao lạnh này đã ảnh hưởng đến Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và một số nơi thuộc
Trung Trung Bộ và phía bắc Biển Đông.
Hình 3.12: Bản đồ phân tích mực 850mb 00z ngày 14/5/2006
56
Trên bản đồ phân tích AT-850 (Hình 3.12) thể hiện rất rõ sự khống chế
của lưỡi áp cao lạnh lục địa với các nơi trên đất liền nước ta và khu vực bắc
Biển Đông. Với đường khép kín 156 (dam) ở trung tâm trong tháng 5, chứng
tỏ đây là đợt hoạt động mạnh của áp cao lạnh lục địa trong giai đoạn này.
Qua phân tích các bản đồ phân tích mặt đất và AT-850 lúc 00z ngày
14/5/2006 (hình 3.12) ta thấy bão Chan chu đang nằm ở phía Đông Nam của
lưỡi áp cao lạnh lục địa với trường gió Đông Bắc thịnh hành trên toàn bộ khu
vực phía Đông Nam Trung Quốc đến hết khu vực bắc biển Đông.
Hình 3.13: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 14/5/2006
Bản đồ phân tích AT-500 (Hình 3.13) phân tích được một lưỡi áp cao
cận nhiệt đới với đường bao quanh là 584 (dam), tuy nhiên trong lưỡi áp cao
này lại phân thành hai trung tâm, một vùng có trung tâm ở vào khoảng 150N -
1050E, một ở khu vực phía đông Philippin với trục của áp cao cận nhiệt đi qua
bắc Trung Bộ, trong khi đó bão Chan chu lại nằm ở phía dưới trường yên của
áp cao này.
Cùng với đó trên khu vực 108 – 1120E; 30 – 350N cũng thể hiện khá rõ
một trục rãnh.
57
Hình 3.14: Ảnh mây vệ tinh 00z ngày 14/5/2006
Ảnh mây vệ tinh 00z ngày 14/5/2006 (Hình 3.14) thể hiện rất rõ sự hoạt
động của áp cao cận nhiệt đới với trường yên nằm ở phía bắc Philippin, sự lấn
xuống của áp cao lục địa đã bao trùm toàn bộ khu vực Bắc Bộ và bắc Biển
Đông, đồng thời cũng cho ta thấy phạm vi và cường độ của bão Chan chu
trong thời điểm này là rất mạnh.
Với phân bố các trường khí tượng từ mặt đất lên 5km như đã phân tích
ở trên ta thấy có 2 khả năng cho sự di chuyển của bão Chan chu trong thời
gian tương lai: Khả năng 1: bão sẽ phá vỡ trường yên của áp cao cận nhiệt ở
mực 500mb và di chuyển lên phía bắc, với trường hợp này bão sẽ xâm nhập
và cuốn hút mạnh khối không khí lạnh tầng thấp dẫn đến khả năng bão sẽ suy
yếu cường độ trong thời gian tương lai; Khả năng 2: bão không phá vỡ trường
yên trên mực 500mb mà sẽ đi theo dòng dẫn của rìa đông nam của bộ phận áp
cao cận nhiệt phía Tây kết hợp với trường gió Đông bắc của áp cao lạnh do đó
bão sẽ di chuyển chủ yếu về phía Tây, với trường hợp này do hoạt động ở
trong vùng biển sâu, đang trong giai đoạn trẻ nên khả năng bão sẽ giữ cường
độ hoặc tiếp tục mạnh lên.
58
Hình 3.15: Ảnh mây vệ tinh 00z ngày 15/5/2006
Thực tế 00z ngày 15/5/2006 ta thấy: bão Chan chu tiếp tục mạnh thêm
và cường độ của nó cũng đã vượt cấp 12, bão dịch chuyển chủ yếu theo
hướng Tây Tây Bắc, ảnh mây vệ tinh (Hình 3.15) cho thấy tâm bão rất nhỏ và
sắc nét, chứng tỏ cường độ bão rất mạnh, vị trí lúc 7h sáng ở vào khoảng 14,1
độ vĩ bắc; 115,3 độ kinh đông, và lúc này nó chỉ còn cách bờ biển các tỉnh
Quảng Ngãi - Phú Yên khoảng 680 km về phía đông, như vậy bão đã di
chuyển trong 24 giờ trước theo khả năng thứ 2 là nhiều hơn.
Hình 3.16: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 15/5/2006
59
Trên bản đồ phân tích mặt đất (hình 3.16) Áp cao lục địa dịch chuyển
ra phía đông, cường độ suy yếu chậm với vùng trung tâm ở phía Tây Bắc đến
Bắc so với vị trí của bão. Nói chung, hình thế tầng thấp ít biến đổi so với 24
giờ trước.
Hình 3.17: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 15/5/2006
Trên mực 500mb (hình 3.17) ta thấy áp cao cận nhiệt nhánh phía Tây
đã suy yếu hoàn toàn; phía nam Trung Quốc trục rãnh gió tây hoạt động
nhưng không mạnh với điểm nam nhất của rãnh ở khoảng 27 độ vĩ bắc, 100
độ kinh đông, nằm khá xa so với vị trí của bão, đồng thời ảnh mây vệ tinh 00z
ngày 15/5/2006 cho ta thấy áp cao cận nhiệt đới hầu như lùi hẳn ra phía đông
của quần đảo Philippin, toàn bộ hoàn lưu bão thể hiện rộng trên cả biển
Đông. Với các hình thế synop ở tầng thấp và cao như phân tích lúc 00z ngày
15/5/2006 chúng ta thấy có 2 khả năng có thể xảy ra đối với quỹ đạo của bão
trong thời gian tới. Khả năng thứ nhất: bão sẽ di chuyển theo nội lực của nó
lên phía Bắc hoặc tây bắc, trường hợp này bão sẽ tương tác với khối cao áp
lục địa do đó cường độ bão có khả năng suy yếu. Trường hợp 2, bão sẽ chịu
tác động của trường gió Đông Bắc ở tầng thấp, bão sẽ di chuyển theo hướng
Tây. Với hình thế phân tích trên bão có khả năng sẽ di chuyển theo trường
hợp 2 (gần giống như di chuyển của bão ở 24 giờ trước đây). Thực tế di
60
chuyển của bão Chan chu trong ngày 15/5/2006 đã có sự thay đổi không như
kết quả phân tích bản đồ synop thời điểm 00z ngày 15/5/2006. Bão đã dừng
lại không di chuyển tiếp theo hướng tây tây bắc mà đổi hướng di chuyển lên
phía bắc với tốc độ khoảng 10-15km một giờ và tiếp tục giữ cường độ mạnh
(cấp TYPHOON-4) tới 06z ngày 16/5/2006 mới giảm đi một cấp còn
TYPHOON-3.
61
Kết quả dự báo tổ hợp và đánh giá sai số
Hình 3.18. Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS từ
7h ngày 13/05/2006
Quỹ đạo dự báo kiểm tra: đường nét đứt có chấm tròn; Quỹ đạo dự báo có đưa
những dao động phát triển nhanh vào trường ban đầu: đường nét liền mỏng (12
đường); Quỹ đạo dự báo tổ hợp: đường nét liền có chấm tròn; Quỹ đạo thực (Nhật
bản): đường nét liền có hình tam giác.
Đã tiến hành thử nghiệm phương pháp nuôi những dao động phát triển
nhanh và dự báo quỹ đạo bão Chan chu 3 ngày từ 7h (giờ Việt Nam) ngày
13/05/2006 tới 7h ngày 16/05/2006.
Dự báo bằng phương pháp tổ hợp đối với cơn bão Chan chu được trình
bày ở hình 3.18, cặp dự báo thành phần tổ hợp có xu hướng tán về 2 phía của
quỹ đạo thực và chúng đã bao trùm được quỹ đạo thực và quỹ đạo dự báo
kiểm tra. Tổ hợp 12 thành phần và quỹ đạo dự báo kiểm tra bằng phương
pháp lấy trung bình kết quả thu được: Đối với trường hợp dự báo kiểm tra,
mô hình RAMS cho kết quả dự báo tốc độ di chuyển trong 42 giờ đầu chậm
(SSDOC<0) và hướng di chuyển lệch về phía phải so với quỹ đạo thực của
62
bão (SSNGANG>0), 30 giờ sau tốc độ di chuyển nhanh (SSDOC>0), hướng
di chuyển lệch về phía trái so với thực tế (SSNGANG<0).
Bảng 3.2: Bảng sai số khoảng cách (SSKC), sai số dọc (SSDOC) và sai số
ngang (SSNGANG) của dự báo tâm bão bằng mô hình RAMS khi không nuôi
những dao động phát triển nhanh (dự báo kiểm tra viết tắt CF) và khi nuôi
những dao động phát triển nhanh(BGM).
(Thời điểm dự báo 7h ngày 13/05/2006)
SS KC
(km)
SS DOC
(km)
SS NGANG
(km) Hạn dự
báo CF BGM CF BGM CF BGM
6 114 63 -113 -62 15 13
12 160 67 -160 -60 15 29
18 198 70 -176 -67 90 -20
24 168 36 -92 -25 140 27
30 183 86 -75 -43 167 74
36 176 107 -74 -52 159 94
42 150 123 -74 -56 130 110
48 168 147 165 125 27 76
54 186 133 181 127 -43 40
60 219 128 215 124 -44 35
66 250 133 246 118 -42 61
72 167 93 154 78 -66 50
Phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh cho kết quả dự báo
quỹ đạo bão tốt hơn so với trường hợp dự báo kiểm tra về cả tốc độ di
chuyển, hướng di chuyển và sai số khoảng cách. Cụ thể trường hợp nuôi
những dao động phát triển nhanh cải thiện được sai số khoảng cách là 132, 21
và 74 km với hạn dự báo 24, 48 và 72 h. Trong khi đó tốc độ di chuyển của
bão được dự báo chính xác hơn, giảm sai số 70, 40 và 76 km hạn 24, 48, 72
giờ với dự báo kiểm tra.
Đặc biệt sau khi dự báo được sự đổi hướng của quỹ đạo bão trước 48
tiếng, hướng di chuyển cho hạn dự báo tiếp theo hướng di chuyển dự báo ổn
định (song song với đường quỹ đạo thực thực) so với đường dự báo kiểm tra.
63
3.5.2 Cơn bão Prapiroon (31/07/2006-3/8/2006)
Diễn biến của cơn bão Prapiroon
Đêm ngày 31/7 rạng sáng ngày 1/8 một áp thấp nhiệt đới vượt qua
Philipin vào Biển Đông, hồi 1h sáng ngày 1/8 vị trí trung tâm ở vào khoảng
16-17 độ vĩ Bắc, 119-120 độ kinh Đông, sức gió mạnh nhất vùng gần trung
tâm cấp 7, giật trên cấp 7, di chuyển ổn định theo hướng Tây Tây Bắc 15-
20km/h, trưa ngày 1/8 áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão. Bão tiếp tục di
chuyển theo hướng Tây Tây Bắc 10-15km/h và mạnh thêm, đến chiều tối
ngày 2/8 đạt đến cấp 12, giật trên cấp 12, tối ngày 3/8 đổ bộ vào phía Tây
tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), suy yếu dần và tiếp tục di chuyển theo hướng
giữa Tây Tây Bắc. Bão đã gây gió mạnh cấp 6, cấp 7, giật trên cấp 7 ở phía
Bắc vịnh Bắc Bộ; cấp 5, giật cấp 7 ở vùng ven biển tỉnh Quảng Ninh- Hải
Phòng (hình 3.19). Các nơi thuộc phía Đông Bắc Bộ và Thanh Hóa có mưa
vừa, có nơi mưa to.
Hình 3.19. Quỹ đạo thực của bão Chan chu (Nhật bản)
Phân tích Synop tổng quát trong các ngày thử nghiệm dự báo:
Bão Prapiroon hình thành từ một áp thấp nhiệt đới ở phía đông
Philippin. Ở các tầng từ mặt đất tới 500 mb hình thế chủ đạo ảnh hưởng, chi
phối tới hoạt động của bão trong những ngày này là áp cao cận nhiệt đới và
dải hội tụ.
64
Hình 3.20: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 01/08/2006
Hình 3.21: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 01/08/2006
Hình 3.22: Bản đồ phân tích mặt đất 00z ngày 02/08/2006
Hình 3.23: Bản đồ phân tích mực 500mb 00z ngày 02/08/2006
Ngày 01/8/2006 áp cao cận nhiệt đang trong quá trình suy yếu chậm
(trước ó áp cao cận nhiệt đới rất mạnh với đường 592dam khống chế, có 01
trung
đ
tâm trên khu vực Thượng Hải) (hình 3.21), ngày 02 và 03/8 áp cao cận
nhiệt phát triển trở lại với lưỡi cao di chuyển dần sang phía tây, trục của áp
cao này ít thay đổi (hình 3.23). Dải hội tụ nhiệt đới tồn tại trong suốt quá trình
hoạt động của bão Prapiroon và có trục tương đối ổn định (hình 3.20, hình
3.22). Đó là nguyên nhân chính làm cho bão hoạt động và có hướng di chuyển
ổn định.
65
Kết quả dự báo tổ hợp và đánh giá sai số
Hình 3.24. Dự báo 72 giờ quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS 7 giờ ngày
31/07/2006
Quỹ đạo dự báo kiểm tra: đường nét đứt có chấm tròn; Quỹ đạo dự báo nuôi
những dao động phát triển nhanh: đường nét liền mỏng (12 đường); Quỹ đạo dự
báo tổ hợp: đường nét liền có chấm tròn; Quỹ đạo thực ( Nhật bản): đường nét liền
có hình tam giác
Phân tích bản đồ synop cho thấy bão di chuyển ổn định như trên, nhưng
khi sử dụng mô hình RAMS để dự báo cho cơn bão Prapiroon ngày 31/7/2006
với hạn dự báo 72 giờ, Ở bảng 3.3, dự báo kiểm tra cho sai số khoảng cách rất
lớn khoảng từ 200 đến 300 km cho dự báo hạn 72h. Tốc độ của bão di chuyển
nhanh (trên 200 km) với hạn dự báo từ 12 đến 54 giờ, hướng di chuyển tại các
thời đoạn dự báo rất lớn ví dụ hạn dự báo từ 48 đến 54 giờ sai số ngang của
thời điểm nay lên tới 287 km.
Trong khi đó sai số của trường hợp nuôi những dao động phát triển
nhanh cho kết quả sai số khoảng cách nhỏ chỉ trong khoảng 150 đến 250 km
66
hạn 72 giờ, tốc độ di chuyển chậm, sát với quỹ đạo thực hơn so với quỹ đạo
kiểm tra và có hướng di chuyển ổn định trong suốt quá trình dự báo.
Bảng 3.3: Bảng sai số khoảng cách (SSKC), sai số dọc (SSDOC) và sai số
ngang (SSNGANG) của dự báo tâm bão bằng mô hình RAMS khi không nuôi
những dao động phát triển nhanh (dự báo kiểm tra viết tắt CF) và khi nuôi
những dao động phát triển nhanh(BGM).
(Thời điểm dự báo 7h ngày 31/07/2006)
SS KC
(km)
SS DỌC
(km)
SS
NGANG
(km)
H
báo
ạn dự
CF
BG
M CF
BG
M CF
BG
M
6 245 147 -47 -44 -241 -141
12 191 149 191 136 10 -63
18 328 169 280 150 170 77
24 268 134 235 71 128 113
30 306 149 271 119 142 90
36 290 153 284 125 56 87
42 373 232 288 147 238 180
48 316 237 304 227 87 66
54 352 212 290 144 -200 -155
60 235 145 183 127 -148 -71
66 293 192 120 30 -267 -190
72 320 143 136 -106 -289 -96
phương pháp nuôi những
dao độ
cứu (hình 3.25) và
tiến hành đánh giá sai số khoảng cách dựa trên 7 cơn bão.
3.5.3. Đánh giá khả năng dự báo bão bằng
ng phát triển nhanh trên toàn bộ tập mẫu.
Dựa trên bộ tập mẫu của các cơn bão nghiên cứu, tác giả đưa ra dự báo
quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS của 7 cơn bão nghiên
67
a: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Durian
7 giờ ngày 01/12/2006
b: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Prapiroon
7h ngày 31/07/2006
c: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Utor
7h ngày 11/12/2006
d: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Chan chu
7h ngày 13/05/2006
e: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Xangsane
7h ngày 27/09/2006
f: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Cimaron
7h ngày 28/10/2006
68
g: Dự báo tổ hợp 72 giờ quỹ đạo bão Chebi
7h ngày 11/11/2006
Hình 3.25. Dự báo 72 giờ quỹ đạo bão bằng mô hình RAMS của 7
cơn bão nghiên cứu
Quỹ đạo dự báo kiểm tra: đường nét đứt có chấm tròn; Quỹ đạo dự báo nuôi những dao động phát triển
nhanh: đường nét liền mỏng (12 đường); Quỹ đạo dự báo tổ hợp: đường nét liền có chấm tròn; Quỹ đạo thực
( Nhật bản): đường nét liền có hình tam giác
Nhận xét: Từ hình 3.26 cho thấy kết quả dự báo bão bằng phương pháp
tổ hợp được cho là tốt với những cơn bão Durian (hình 3.25a), Prapiroon
(hình 3.25b), Utor (hình 3.25c), Chan chu (hình 3.25d), Cimaron (hình 3.25f)
và Chebi (hình 3.25g). Trong khi đó kết quả dự báo thành phần của cơn
Xangsane (hình 3.25e) chưa bao được quỹ đạo thực của cơn bão, nguyên nhân
có thể là do số thành phần tham gia tổ hợp chưa đủ lớn (các trung tâm lớn
thường sử dụng 50 thành phần).
B¶ng 3.4 tr×nh bµy kÕt qu¶ sai sè kho¶ng c¸ch trung b×nh toµn bé dung
l−îng mÉu đối với 7 cơn bão năm 2006. H×nh 3.25 lµ ®å thÞ biÓu diÔn gi¸ trÞ
sai sè t−¬ng øng cña b¶ng 3.4
69
B¶ng 3.4. Sai sè kho¶ng c¸ch trung b×nh (MPE) cña toµn bé tËp mÉu øng víi
tõng ph−¬ng ¸n thö nghiÖm.
MPE
H¹n
Dự báo bằng
phương pháp BGM
Dự báo kiểm tra
6 72 0 7
12 5 5 7 7
18 3 5 10 10
24 1 4 10 13
30 0 4 12 16
36 9 5 13 16
42 1 8 15 17
48 7 3 13 20
54 8 3 14 23
60 5 6 14 26
66 4 2 17 30
72 3 4 15 32
0
50
100
150
200
250
300
350
0 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60 66 72
Sử dụng phương pháp BGM Dự báo kiểm tra
H×nh 3.26. Sai sè kho¶ng c¸ch trung b×nh (MPE) cña dự báo bằng phương
pháp BGM và dự báo kiểm tra .
70
Từ kết quả ở bảng 3.4 và hình 3.26 về sai số khoảng cách trung bình của toàn
bộ tập mẫu ứng với các phương án thử nghiệm cho thấy:
Ở những thời điểm ban đầu của dự báo, vị trí tâm bão trong các phương
án gần như nhau và tương đối sát với vị trí của vị trí tâm bão quan trắc. Sai số
khoảng cách trung bình tại từng thời điểm dự báo 12, 24 và 36 giờ của
phương án tổ hợp lần lượt là 75, 101 và 139 km. Trong khi đó ở các phương
án dự báo kiểm tra có giá trị sai số là 75, 134 và 165 km, sai số lệch nhau
không đáng kể.
Hạn dự báo tăng, sai số vị trí của các phương án dự báo kiểm tra tăng
nhanh hơn nhiều so với các phương án dự báo sử dụng phương pháp BGM.
Cụ thể ở các hạn dự báo 48, 60 và 72h phương án dự báo sử dụng phương
pháp BGM có sai số 137, 145 và 153 km trong khi đó sai số đối với phương
án dự báo kiểm tra là 203, 266 và 324 km. Như vậy ta thấy trong các trường
hợp đã xét phương án dự báo sử dụng phương pháp BGM cho sai số vị trí tâm
bão giảm gần 100 km trong các thời hạn dự báo 48, 60 và 72 giờ. Như vậy
phương pháp BGM làm tăng độ chính xác dự báo với các hạn dự báo từ 2 đến
3 ngày.
B¶ng 3.5. Sai sè dọc trung b×nh (MATE) cña toµn bé tËp mÉu øng víi tõng
ph−¬ng ¸n thö nghiÖm.
MATE
H¹n
Dự báo bằng
phương pháp BGM
Dự báo kiểm tra
6 -43 -3
12 7 2 -2 -2
18 7 4 -2
24 0 6 -2
30 1 8 -1
36 9 3 -1 1
42 0 5 -3
71
48 2 7 5 8
54 9 3 2 5
60 2 5 4 6
66 5 2 -4
72 1 -1 -6
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
0 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60 66 72
Sử dụng phương pháp BGM Dự báo kiểm tra
H×nh 3.27. Sai sè dọc trung b×nh (MATE) cña dự báo bằng phương pháp
BGM và dự báo kiểm tra .
Xét sai số dọc trung bình của 7 cơn bão, dự báo kiểm tra cho sai số dọc
thấp hơn so với phương án tổ hợp trong 42 giờ đầu, trong 24 giờ tiếp theo dự
báo kiểm tra lại cho kết quả sai số dọc lớn hơn so với dự báo tổ hợp thể hiện ở
bảng 5 và hình 27. Với sai số ngang trung bình, dự báo bằng phương pháp
BGM cho kết quả lệch về phía phải của cơn bão, trong khi dự báo kiểm tra
cho kết quả lệch phải trong 42 giờ đầu và lệch về phía trái của cơn bão trong
các giờ tiếp theo (bảng 3.6) và hình (3.28).
72
B¶ng 3.6. Sai sè ngang trung b×nh (MCTE) cña toµn bé tËp mÉu øng víi tõng
ph−¬ng ¸n thö nghiÖm.
MCTE
H¹n
Dự báo bằng
phương pháp BGM
Dự báo kiểm tra
6 -18 7 -1
12 5 7
18 7 9 3 4
24 1 6 6 7
30 9 4 6 7
36 6 6 4 1
42 7 4 7 3
48 4 0 3 -3
54 3 5 -1 -7
60 4 2 -6
66 3 7 2 -4
72 2 7 2 -6
-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
0 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60 66 72
Sử dụng phương pháp BGM Dự báo kiểm tra
H×nh 3.28. Sai sè ngang trung b×nh (MCTE) cña dự báo bằng phương pháp
BGM và dự báo kiểm tra .
73
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu về phương pháp nuôi những dao động phát
triển nhanh của mô hình RAMS, luận văn đã thực hiện được một số kết quả:
(1). Đã đưa ra tổng quan về hệ thống dự báo tổ hợp trên thế giới.
(2). Xây dựng được chương trình tạo ra nhân nhiễu động ban đầu bằng
phương pháp dự báo trễ và chương trình nuôi những dao động phát triển
nhanh của mô hình RAMS. Sử dụng các chương trình này để dự báo quỹ đạo
cho 7 cơn bão bằng phương pháp nuôi những dao động phát triển nhanh.
(3). Áp dụng thành công phương pháp BGM vào dự báo quỹ đạo bão
vì các dự báo thành phần của tổ hợp có độ tán rộng, tán về 2 phía của đường
quỹ đạo thực (best track) và đường dự báo kiểm tra (control forecast), nó
hoàn toàn phù hợp với lý thuyết tổ hợp của Kalnay. Phương pháp BGM cho
dự báo hạn 2,3 ngày tốt hơn hẳn so với dự báo kiểm tra (cả về hướng di
chuyển và sai số khoảng cách tâm bão).
4) Kết quả đánh giá sai số khoảng cách cho 7 cơn bão cho thấy:
Dự báo quỹ đạo bão trong 42 giờ đầu:
Sai số khoảng cách giữa quỹ đạo dự báo bằng phương
pháp BGM với quỹ đạo thực trong khoảng từ 72 đến 151 km.
Sai số khoảng cách giữa dự báo quỹ đạo bằng phương
pháp BGM với quỹ đạo dự báo kiểm tra là gần như nhau, tốc độ
di chuyển của quỹ đạo bão bằng phương pháp BGM chậm hơn
so với quỹ đạo thực, trong khi đó quỹ đạo dự báo kiểm tra nhanh
hơn so với quỹ đạo thực. Hướng di chuyển của cả 2 dự báo đều
lệch phải so với quỹ đạo thực.
74
Dự báo quỹ đạo hạn 48 giờ:
Sai số khoảng cách của quỹ đạo dự báo bằng phương pháp
BGM là 137 km so với quỹ đạo bão thực.
Sử dụng phương pháp BGM để dự báo quỹ đạo bão cho
sai số khoảng cách giảm 66 km so với dự báo kiểm tra. Hướng di
chuyển của dự báo bão quỹ đạo bằng phương pháp BGM lệch phải
so với quỹ đạo thực trong khi đó quỹ đạo của dự báo kiểm tra lại
lệch trái so với quỹ đạo thực. Tốc độ di chuyển của quỹ đạo bão
bằng phương pháp BGM giảm 35 km so với dự báo kiểm tra.
Dự báo quỹ đạo hạn 72 giờ:
Sai số khoảng cách tại thời điểm này so với dự báo kiểm
tra giảm 172 km, hướng di chuyển của dự báo quỹ đạo bão bằng
phương pháp BGM lệch phải, trong khi đó dự báo kiểm tra cho dự
báo quỹ đạo bão có xu thế lệch trái so với quỹ đạo thực. Tốc độ di
chuyển của cả 2 phương án đều hơi chậm so với quỹ đạo thực.
5) Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng thử nghiệm trong nghiệp vụ.
Phương hướng nghiên cứu tiếp: Dự báo cho nhiều trường hợp bão và xây
dựng dự báo siêu tổ hợp.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1 Hoàng Đức Cường “Ứng dụng phương pháp dự báo tổ hợp cho mô hình MM5”.
Hội thảo khoa học lần thứ 9 – Viện Khí tượng Thủy văn
2 Võ Văn Hòa, 2006: Dự báo quỹ đạo xoáy thuận nhiệt đới dựa trên dự báo tổ hợp
hàng nghìn thành phần. Tạp chí KTTV, 547, tr 7-18.
3 Võ Văn Hòa, Đỗ Lệ Thủy, Nguyễn Chi Mai, 2006: “Các phương pháp tạo nhiễu
động trong dự báo tổ hợp quỹ đạo xoáy thuận nhiệt đới. Phần I: Giới thiệu phương
pháp và hướng áp dụng cho điều kiện ở Việt Nam”. Tạp chí KTTV, 541, tr 23-32.
4 Võ Văn Hòa, Đỗ Lệ Thủy, Nguyễn Chi Mai, 2006: Các phương pháp tạo nhiễu
động trong dự báo tổ hợp quỹ đạo xoáy thuận nhiệt đới. Phần II: Một số kết quả
nghiên cứu. Tạp chí KTTV, 543, tr 21-31.
5 Nguyễn Chi Mai, Nguyễn Thu Hằng, 2004: Phương pháp dự báo tổ hợp và khả
năng ứng dụng ở Việt Nam. Tạp chí KTTV, 518, tr 30-37.
6 Nguyễn Chi Mai, Nguyễn Thu Hằng, Nguyễn Phương Liên, 2004: Thử nghiệm dự
báo tổ hợp quỹ đạo bão bằng phương pháp thống kê từ dự báo của các trung tâm
quốc tế. Tạp chí KTTV, 519, tr 23-28.
7 Nguyễn Chi Mai, Nguyễn Thu Hằng, Phạm Lệ Hằng, 2004: Dự báo đường đi của
bão sử dụng thống kê tập hợp dự báo của các mô hình số trị và các trung tâm dự
báo quốc tế. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu cơ bản, mã số 730902.
8 Đỗ Lệ Thuỷ, Võ Văn Hoà, Nguyễn Chi Mai, 2005: Dự báo tổ hợp quỹ đạo xoáy
thuận nhiệt đới dựa trên phương pháp nhiễu động trên mô hình chính áp. Báo cáo
tổng kết đề tài nghiên cứu cơ bản, mã số 732904.
9 Trần Tân Tiến, (2004), Dự báo trường khí tượng, thuỷ văn biển Đông, Báo cáo
tổng kết đề tài cấp nhà nước KC09-04.
Tiếng Anh
10 Anderson, J. L, 1996. A method for producing and evaluating probabilistic
forecasts from ensemble model integrations. J. Climate, 9, 1518-1530.
11 Anderson, J. L., 2001. An ensemble adjustment Kalman filter for data assimilation.
Mon. Wea. Rev., 129, 2884-2903.
12 ATMET (2000), RALPH dataset formats version 2: RAMS Standard Input Format
for Pressure Coordinate and Observation Data.
13 Barkmeijer, J., 1996. Constructing fast-growing perturbations for the nonlinear
regime. J. Atmos. Sci., 53, 2838-2851.
14 Barkmeijer, J., M. Van Gijzen and F. Bouttier, 1998. Singular vectors and the
76
estimates of analysis-error covariance matrix. Quart. J. Roy. Meteor. Soc., 124,
1695-1713.
15 Brankovic, C., T. N. Palmer, F. Molteni, S. Tibaldi and U. Cubasch, 2006.
Extended-range predictions with ECMWF models: Time-lagged ensemble
forecasting. Quart. J. Roy. Meteor. Soc., 116, 867-912.
16 Buizza, R., 1994. Sensitivity of optimal unstable structures. Quart. J. Roy. Meteor.
Soc., 120, 429-451.
17 Cai, M., E. Kalnay and Z. Toth, 2002. Bred vectors of the Zebiak-Cane model and
their application to ENSO prediction. J. Climate, 16, 40-56.
18 Cao, H, 2002. Memorial dynamics of systems and its applications. Chinese
Geology Press, Beijing, China, 192pp. (in Chinese)
19 Chen, J., J. Xue and H. Yang, 2003. Impact of physical parameterization schemes
on mesoscale heavy rain simulations. Acta Meteorologica Sinica, 61, 203-218.
20 Cheung, K. W. C. and J. C. L. Chan, 1999a. Ensemble forecasting of tropical
cyclone motion using a barotropic model. Part I: perturbations of the environment.
Mon. Wea. Rev., 127, 1229-1243.
21 Cheung, K. W. C. and J. C. L. Chan, 1999b. Ensemble forecasting of tropical
cyclone motion using a barotropic model. Part II: perturbations of the vortex. Mon.
Wea. Rev., 127, 2617-2640.
22 Clark, T.L., 1977: A small-scale dynamic model using a terrain-following
coordinate transformation. J. Comput. Phys., 24, 186-215.
23 Davies, H.C., 1978: A lateral boundary formulation for multi-level prediction
models. Quart. J. R. Met. Soc., 102, 405-418.
24 Du J. and M. S. Tracton, 2001. Implementation of a real-time short-range ensemble
forecasting system at NCEP: an update. Preprints, 9th Conference on Mesoscale
Processes, Ft. Lauderdale, Florida, Amer. Meteor. Soc., 355-356.
25 Du, J. and M. S. Tracton, 2001. Implementation of a real-time short-range
ensemble forecasting system at NCEP: an update. Preprints, 9th Conference on
Mesoscale Processes, Ft. Lauderdale, Florida, Amer. Meteor. Soc., 355-356.
26 Du, J., 2004. Hybrid Ensemble Prediction System: a New Ensembling Approach.
Preprints, Symposium on the 50th Anniversary of Operational Numerical Weather
Prediction, University of Maryland, College
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVThS Cong Thanh.pdf