Tài liệu Luận văn Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN:
Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu
vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp (DN) là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam hiện
nay, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở chỗ:
DNNN chi phối các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế,
góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, để kinh tế nhà nước nói chung, DNNN nói riêng thực sự
giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của
DNNN. Giải pháp cơ bản để thực hiện đ...
101 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1054 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu
vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp (DN) là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam hiện
nay, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở chỗ:
DNNN chi phối các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế,
góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, để kinh tế nhà nước nói chung, DNNN nói riêng thực sự
giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của
DNNN. Giải pháp cơ bản để thực hiện được mục tiêu này là tăng cường chất lượng công
tác quản trị kinh doanh trong các DNNN.
Kế toán, với vị trí là công cụ không thể thiếu phục vụ cho quản lý kinh tế tài chính
cần phải được các DNNN sử dụng một cách hợp lý, đúng đắn nhằm phát huy tối đa vai trò
của nó trong hệ thống quản lý kinh tế. ở nước ta, hệ thống kế toán hiện hành đã có những
thay đổi cơ bản so với hệ thống kế toán trước đây, đã tiếp cận những thông lệ, chuẩn mực
kế toán quốc tế và bao gồm một số nội dung của kế toán quản trị (KTQT). Tuy nhiên,
những thay đổi bước đầu đó mới chỉ thỏa mãn phần lớn nhu cầu thông tin theo quy định
của Bộ Tài chính, nhằm chủ yếu đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
kinh tế tài chính của DN. Công tác KTQT phục vụ cho mục đích quản trị DN vẫn còn là
một vấn đề chưa được xem xét, nhìn nhận đúng với vị trí và vai trò vốn có của nó.
KTQT là công cụ quản lý vi mô không thể thiếu phục vụ cho quản trị DN mới chỉ
được đề cập tới trong các tài liệu nghiên cứu và bước đầu xuất hiện một cách sơ lược trong
Luật Kế toán, chưa được những người hành nghề kế toán thực hiện một cách đầy đủ, các
nhà quản trị DN quan tâm sử dụng, thậm chí còn bỡ ngỡ cả trong nhận thức về vai trò, chức
năng và cách thức tổ chức thực hiện.
Đề tài "Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam hiện nay" được chọn nghiên cứu với mong muốn góp phần bổ sung thêm
những vấn đề lý luận về KTQT các yếu tố đầu vào, đưa ra một số biện pháp để tổ chức
thực hiện KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh
(KD) thì việc quản trị đúng đắn, hợp lý các yếu tố đầu vào của DN có vai trò vô cùng quan
trọng. Để đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời trong việc quản trị các yếu tố đầu vào,
nhà quản trị DN cần phải có nhiều thông tin: thông tin thực hiện, thông tin dự báo... KTQT
với đặc điểm riêng của mình đã đáp ứng những yêu cầu về thông tin của quản trị trong
từng DN.
Với vai trò quan trọng như vậy, KTQT các yếu tố đầu vào đã và đang là vấn đề
được giới chuyên môn quan tâm. Các nhà nghiên cứu, các giảng viên trong các trường đào
tạo chuyên ngành đang còn nhiều quan điểm khác nhau về lý luận cũng như việc áp dụng
trong các DN.
Thực tế ở Việt Nam, kế toán trong các DN chưa nhận thức đúng đắn về KTQT nói
chung và KTQT các yếu tố đầu vào nói riêng nên chưa cung cấp được các thông tin cần
thiết phục vụ cho quản trị. Nhận thức đúng vai trò, chức năng, mục đích của KTQT các
yếu tố đầu vào trong quản trị DN; tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào một cách khoa học,
hợp lý, sẽ góp phần nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành KD và hiệu quả hoạt
động của các DN.
Xuất phát từ những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài "Tổ chức kế toán quản trị các
yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay" vừa có ý nghĩa lý
luận, vừa mang tính thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào
trong các DN.
- Tìm hiểu thực tế công tác kế toán ở một số DNNN trên địa bàn Hà Nội, đánh giá
thực trạng tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào
trong các DNNN.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Với mục đích đã xác định, luận văn tập trung
nghiên cứu, hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức KTQT
các yếu tố đầu vào trong các DNNN. Trong đó tập trung chủ yếu vào các DN sản xuất và
yếu tố đầu vào được quan tâm nghiên cứu là nguyên liệu vật liệu (NLVL).
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: Dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu các vấn đề một cách toàn diện, hệ thống và cụ thể.
- Phương pháp thực hiện: Vận dụng các phương pháp như: phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh... Nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài
nước, học hỏi các thầy cô giáo giảng dạy ở các môn học liên quan đến quản trị DN, tìm
hiểu các tài liệu thực tế về công tác kế toán của một số DNNN trong lĩnh vực sản xuất
(SX). Do KTQT có mục tiêu chủ yếu là cung cấp thông tin phục vụ cho việc quản trị ở nội
bộ DN cho nên cần thiết phải tìm hiểu một số phương pháp, kỹ thuật quản trị tác nghiệp
đối với các yếu tố đầu vào của DN.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào
trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị về tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong
các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Chương 1
Những vấn đề chung về tổ chức kế toán quản trị
các yếu tố đầu vào trong Doanh Nghiệp
1.1. ý nghĩa của việc quản trị các yếu tố đầu vào đối với doanh nghiệp
1.1.1. Các quan điểm về yếu tố đầu vào của doanh nghiệp
Vận dụng quan điểm toàn diện vào khoa học và cuộc sống, người ta đã hình thành
lý thuyết hệ thống. Lý thuyết hệ thống là quá trình sử dụng tổng hợp các lĩnh vực khoa học
như: toán học, tin học, lôgic học, kinh tế... nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra theo quan điểm
toàn diện. Lý thuyết hệ thống được ứng dụng rộng rãi trong công tác quản lý, từ quản lý vĩ
mô cho tới quản lý vi mô.
Những bộ phận chủ yếu của một hệ thống bao gồm: các phần tử của hệ thống,
môi trường của hệ thống, đầu vào của hệ thống, đầu ra của hệ thống.
DN khi được nhìn nhận theo quan điểm là một hệ thống cũng bao gồm các bộ
phận đã nêu trên.
Đối với bộ phận "đầu vào" của DN, có nhiều quan niệm, nhiều cách phát biểu
khác nhau.
Theo các tác giả của Trường Đại học kinh tế quốc dân:
Doanh nghiệp cần được nhìn nhận như một hệ thống xã hội, một hệ
thống kinh doanh. Điều đó có nghĩa là mọi khái niệm, mọi nguyên lý, mọi
phương pháp trong lý thuyết hệ thống đều có thể được vận dụng trong nghiên cứu
và giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp.
Đầu vào của doanh nghiệp là các phương tiện cần thiết để cho doanh
nghiệp hoạt động, bao gồm:
- Nguồn nhân lực (lao động và thị trường chất xám) cung ứng các loại
nhân lực cho doanh nghiệp.
- Nguồn vốn đảm bảo cung cấp tài chính cho doanh nghiệp.
- Thị trường tư liệu sản xuất và dịch vụ để phục vụ cho các hoạt động
tạo ra đầu ra (sản phẩm và dịch vụ mới cho doanh nghiệp).
- Thị trường năng lượng và nguyên liệu tạo ra động lực và cung cấp
nguyên liệu cho sản xuất.
- Thị trường công nghệ và kỹ thuật để tạo ra các công nghệ và kỹ thuật
mới thích hợp.
- Thị trường chất xám, thông tin (dịch vụ, tư vấn) [20, tr. 37-38].
Như vậy, theo quan điểm này, các yếu tố đầu vào của DN bao gồm: sức lao động,
tư liệu SX, vốn... và các yếu tố đầu vào này đều có thể mua bán được trên thị trường, tức là
có thể lượng hóa được bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, các tác giả trình bày nội dung còn
có sự trùng lặp giữa “thị trường tư liệu sản xuất” với “thị trường năng lượng và nguyên
liệu”; giữa “nguồn nhân lực (lao động và thị trường chất xám)” với thị “trường chất xám”
làm cho người đọc khó phân biệt, dễ nhầm lẫn.
Theo tác giả Nguyễn Hải Sản:
Khi xem xét doanh nghiệp dưới quan điểm hệ thống người ta cho rằng
doanh nghiệp là một tổng thể bao gồm các yếu tố đầu vào, quá trình chế biến,
chế tạo, và các yếu tố đầu ra. Tổng thể này chịu sự điều chỉnh của các thông tin
phản hồi và tất cả đều nằm trong một môi trường kinh doanh cụ thể.
Các yếu tố đầu vào bao gồm: tài sản cố định, nguyên liệu, nguồn nhân
lực, tài chính và nguồn thông tin được đưa vào sản xuất chế biến [17, tr. 52-53].
Quan điểm này tương tự như quan điểm của trường Đại học Kinh tế quốc dân, chỉ
khác về ngôn từ diễn đạt. Trong quan điểm này, tác giả coi thông tin là một nguồn lực của
DN. Đó là một cách hiểu đúng đắn vì trên thực tế các nhà quản trị phải có được thông tin
thì mới đề ra được các quyết định quản lý phù hợp và thông tin ngày càng có vai trò quan
trọng trong công tác quản lý nói chung, công việc quản trị DN nói riêng.
Theo quan điểm của trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội (nay là Học viện
Tài chính):
Đối với doanh nghiệp, đầu vào là:
1. Tiền vốn.
2. Tổ chức lao động.
3. Công nghệ, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu.
4. Trình độ, phẩm chất, tiềm năng của nhà quản lý.
5. Thị trường, thông tin và các ràng buộc vĩ mô trong kinh doanh
6. Các cơ hội và rủi ro [21, tr. 23-24].
Theo quan điểm này, nhìn nhận các yếu tố đầu vào của DN trong môi trường KD
cụ thể, gắn liền với các điều kiện KD, có tính đến các yếu tố chưa thể lượng hóa đo lường
bằng các thước đo như: trình độ, phẩm chất, tiềm năng của nhà quản lý.
Theo các nhà kinh tế nước Cộng hòa Pháp, các yếu tố đầu vào và đầu ra của DN
được thể hiện qua sơ đồ 1.1 (trang 8) [23, tr. 26].
Theo quan điểm này các yếu tố đầu vào của DN gồm lao động, tài sản cố định
(TSCĐ), nguyên liệu vật liệu (NLVL), hàng hóa, dịch vụ, tiền vốn và các yếu tố này đều
được lượng hóa bằng thước đo tiền tệ.
Qua việc phân tích các quan điểm trên chúng tôi nhận thấy thuật ngữ các yếu tố
đầu vào của DN có nghĩa rất rộng dùng để chỉ tất cả các yếu tố, các nguồn lực mà DN đã
sử dụng trong quá trình hoạt động để tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đầu ra của
DN. Đứng trên giác độ của kế toán khi thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các yếu tố
đầu vào của DN chỉ có thể xem xét tới các yếu tố đầu vào có thể lượng hóa được vì đặc
trưng của thông tin kế toán là thông tin phải được lượng hóa bằng các thước đo (thước đo
hiện vật, thước đo lao động, thước đo giá trị, trong đó thước đo giá trị là chủ yếu).
Với nội dung và phạm vi của các yếu tố đầu vào rộng như vậy nên luận văn chỉ tập
trung xem xét tới các yếu tố đầu vào là NLVL, sức lao động và TSCĐ của DNNN trong
lĩnh vực SX.
1.1.2. ý nghĩa của việc quản trị các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp
Quản lý là hoạt động tất yếu khách quan là sự tác động có tổ chức của chủ thể
quản lý lên đối tượng bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã định trước. Quản lý được tiến
hành trong mọi lĩnh vực của xã hội, cả ở tầm vĩ mô (toàn xã hội) và cả ở tầm vi mô (trong
từng đơn vị). Khi sử dụng thuật ngữ quản lý người ta thường gắn liền với đối tượng bị
quản lý như quản lý kinh tế, quản lý hành chính, quản lý nhân sự...
Thuật ngữ quản trị (trong tiếng Anh là management) vừa có nghĩa là quản lý, vừa
có nghĩa là quản trị nhưng được dùng chủ yếu với nghĩa quản trị. Ngoài ra, tiếng Anh còn
có một thuật ngữ nữa là administration với nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính
quyền. Tiếng Pháp cũng có hai từ: gestion là quản trị kinh doanh và administration là quản
lý hành chính. Như vậy có thể hiểu quản lý là thuật ngữ được dùng đối với các cơ quan
nhà nước trong việc quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng, còn quản trị là
thuật ngữ được dùng để chỉ các hoạt động quản lý ở cấp cơ sở. Đối với các DN người ta sử
dụng thuật ngữ quản trị kinh doanh.
Quản lý và quản trị có điểm chung là lôgíc giống nhau của vấn đề quản lý, nhưng
điểm khác nhau là nội dung và quy mô cụ thể của vấn đề quản lý đặt ra: một bên là phạm
vi toàn xã hội, một bên là phạm vi trong từng cơ sở.
Quản trị kinh doanh là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh
nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một
cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đạt
được những mục tiêu đầu ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội [ 20, tr. 41].
Để hoạt động của các đơn vị nói chung, các DN nói riêng đạt được hiệu quả cao
thì cần thiết phải tiến hành các hoạt động quản trị.
Các chức năng chủ yếu của quản trị là: xác định mục tiêu, lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra đánh giá.
Quản trị các yếu tố đầu vào là một nội dung của công tác quản trị DN.
Việc quản trị đúng đắn các yếu tố đầu vào sẽ giúp cho DN đảm bảo được hoạt
động của mình một cách bình thường, liên tục, không bị gián đoạn. Với một đầu ra xác
định, việc quản lý khoa học, hợp lý các yếu tố đầu vào sẽ tạo cơ sở để DN tiết kiệm chi phí
đầu vào từ đó tăng hiệu quả hoạt động của DN nói riêng, hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân nói chung.
Những biểu hiện cụ thể của việc quản trị đúng đắn có hiệu quả các yếu tố đầu vào
là:
- Đối với các yếu tố đầu vào là sức lao động: Đảm bảo bố trí, sử dụng lao động
hợp lý, đầy đủ cả về số lượng và chất lượng phục vụ cho hoạt động KD của DN. Nâng cao
ý thức, trách nhiệm của người lao động, kích thích thi đua trong lao động...
- Đối với các yếu tố đầu vào là NLVL, hàng hóa: Đảm bảo số lượng, chất lượng,
chủng loại, quy cách... NLVL, hàng hóa cần thiết phục vụ SXKD một cách kịp thời, liên
tục với chi phí dự trữ NLVL, hàng hoá hợp lý góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả KD của DN.
- Đối với các yếu tố đầu vào là TSCĐ: Trang bị TSCĐ hợp lý, bảo quản tốt, sử
dụng có hiệu quả phát huy tối đa năng lực phục vụ của TSCĐ trong DN, đổi mới kịp thời
TSCĐ đáp ứng yêu cầu hoạt động của DN.
1.2. Nhiệm vụ của kế toán trong việc phục vụ quản trị các yếu tố đầu vào của
doanh nghiệp
Để quản trị DN có hiệu quả, nhà quản trị cần phải có những thông tin về DN.
Không thể thực hiện công việc quản trị DN khi không biết các thông tin về tình tài chính
của DN như: tổng tài sản, tổng nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu... chứ chưa nói đến việc
quản trị có hiệu quả. Do đó, thông tin đã được coi là một thứ "quyền lực" trong quản trị hiện
đại. Được coi là quyền lực, một nguồn lực, thông tin phải có giá trị. Các tiêu thức để xác định
giá trị của thông tin bao gồm: chất lượng, sự phù hợp, khối lượng và tính kịp thời. Tuy nhiên,
không giống các nguồn lực vật chất, việc xác định giá trị của thông tin là một công việc
không dễ dàng, bởi thông tin không có giá trị nội tại. Giá trị của thông tin được xác định bởi
chính những người sử dụng nó để ra quyết định. Các nhà quản trị và các nhân viên thuộc
tất cả các cấp và tất cả các lĩnh vực chuyên môn của DN đều có những nhu cầu thông tin
khác nhau. Có thể mô hình hóa thông tin mà nhà quản trị cần để phục vụ cho việc quản trị
DN bằng sơ đồ 1.2.
Sơ đồ 1.2: Tiến trình xử lý, sử dụng thông tin phục vụ quản trị DN
Theo mô hình này để đưa ra các quyết định, nhà quản trị cần biết được các thông
tin nên xuất hiện các nhu cầu về thông tin. Để đáp ứng nhu cầu này đòi hỏi phải có các dữ
liệu về thông tin theo nhu cầu của nhà quản trị. Để có được các dữ liệu thông tin này cần
Quyết định
Các nhà quản
trị
và nhân viên
Thông tin
Phân tích
quyết định
Yêu cầu về
thông tin
Truyền dữ
liệu
Ngân hàng
dữ liệu
Xử lý và
sắp xếp dữ
Thu thập
dữ liệu
Xác định
nhu cầu dữ
Các nguồn
dữ liệu bên
trong và bên
Thành phần
Hoạt động
Dòng cung cấp
Dòng yêu cầu
Doanh
nghiệp
có phải tiến hành thu thập dữ liệu. Nguồn cung cấp dữ liệu có thể từ bên trong DN (dữ liệu
về tình hình hàng tồn kho, tình hình công nợ, lợi nhuận... của DN), dữ liệu từ bên ngoài
DN (tình hình giá cả thị trường, tình hình về các đối thủ cạnh tranh, các chế độ chính sách
về quản lý kinh tế tài chính hiện hành...). Trên cơ sở các dữ liệu thu thập được sẽ tiến hành
việc xử lý và sắp xếp dữ liệu để trở thành ngân hàng dữ liệu của DN. Các dữ liệu cần sử
dụng sẽ trở thành thông tin và được phân tích, đánh giá để nhà quản trị đề ra được các
quyết định quản trị đúng đắn.
Từ mô hình trên chúng ta nhận thấy vai trò quan trọng của thông tin đối với công
tác quản trị DN: Nhà quản trị không thể đề ra được các quyết định quản trị đúng đắn khi
thiếu thông tin về hoạt động mà họ đang quản lý.
Kế toán với tư cách là "khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về
tài sản và sự vận động của tài sản hay toàn bộ thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế
tài chính của đơn vị" [1, tr. 10] đã trở thành công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh
tế nói chung, quản trị trong các DN nói riêng. Vai trò của kế toán được thể hiện ở chỗ: Kế
toán là phân hệ thông tin kinh tế tài chính quan trọng, cung cấp các thông tin về hoạt động
kinh tế tài chính của DN để trên cơ sở đó những nhà quản trị DN có các quyết định đúng
đắn để hoạt động của DN đạt hiệu quả cao.
Đối với việc quản trị các yếu tố đầu vào, nhà quản trị cần rất nhiều thông tin do kế
toán cung cấp, trong đó với đặc điểm là cung cấp thông tin chủ yếu cho việc quản trị nội
bộ DN, KTQT có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp các thông tin. Vai trò đó được
đảm bảo nhờ vào việc thực hiện các nhiệm vụ của KTQT các yếu tố đầu vào. Các nhiệm vụ
đó là:
- Ghi chép tính toán phản ánh đầy đủ chính xác tình hình hiện có về các yếu tố đầu
vào của DN cũng như tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào đó.
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch về các yếu tố đầu vào: tình hình dự trữ, sử
dụng NLVL, tình hình trang bị, sử dụng TSCĐ, sử dụng lao động; phát hiện và ngăn ngừa
kịp thời các hành vi làm ảnh hưởng tới việc sử dụng không hiệu quả các yếu tố đầu vào.
- Cung cấp số liệu tài liệu phục vụ cho việc quản trị các yếu tố đầu vào ở DN, phục vụ
cho công tác thống kê và thông tin kinh tế về các yếu tố đầu vào. Đồng thời cung cấp các
thông tin mang tính dự báo về tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào để phục vụ cho việc đề ra
các quyết định về quản trị các yếu tố đầu vào.
1.3. Tổ chức Kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong Doanh nghiệp
1.3.1. Sự xuất hiện của kế toán quản trị
Kế toán là một công cụ phục vụ cho yêu cầu quản lý, vì vậy khi yêu cầu quản lý
thay đổi kế toán cũng phải có sự thay đổi phù hợp.
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, nhu cầu về thông tin trong công
tác quản lý đã có sự gia tăng rất lớn và đa dạng do áp lực của những thay đổi
nhanh chóng về các mặt:
- Toàn cầu hóa nền kinh tế.
- Sự mở rộng giao lưu kinh tế giữa các quốc gia.
- Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các công ty trong nước, giữa
các công ty ở các quốc gia khác nhau.
- Sự tiến bộ nhanh chóng về khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự tự động hóa
ngày càng toàn diện trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- Sự ra đời ngày càng nhiều các công cụ quản lý, các chuyên ngành
khoa học hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý, công tác kế toán.
Chính những điều này đã làm cho kế toán phát triển sâu rộng hơn về tính
chất và đặc điểm thông tin cần phải cung cấp. Kế toán không chỉ dừng lại ở việc
cung cấp thông tin mang tính nguyên tắc mà đòi hỏi phải linh hoạt, kịp thời,
hữu ích. Đồng thời, thông tin kế toán cũng phải đảm bảo tính ngắn gọn, nhanh
chóng nhằm hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản trị trong môi trường kinh doanh mới
[14, tr. 10].
Trong bối cảnh đó, KTQT được hình thành và phát triển, tách biệt
với kế toán tài chính (KTTC).
Nghiên cứu sự phát triển của KTQT cho thấy: KTQT hình thành và phát triển xuất
phát từ nhu cầu thông tin của DN. Môi trường cạnh tranh buộc các DN phải tìm mọi biện
pháp mở rộng, phát triển thị trường, giảm chi phí, nâng cao lợi nhuận. KTQT là công cụ
hữu hiệu cho phép các nhà quản trị kiểm soát quá trình KD, đánh giá hiệu quả hoạt động
của từng bộ phận cũng như hiệu quả sử dụng của từng yếu tố đầu vào trong DN để từ đó
có các quyết định phù hợp.
Như vậy có thể nói, chính môi trường và điều kiện KD là cơ sở khách quan cho sự
ra đời và phát triển của KTQT, tồn tại song hành với KTTC và trở thành một công cụ khoa
học giúp cho các nhà quản trị nâng cao khả năng điều hành, quản lý tổ chức một cách có
hiệu quả.
1.3.2. Bản chất của kế toán quản trị
Từ khi KTQT xuất hiện cho tới nay, đã có nhiều cách phát biểu khác nhau về
KTQT.
Theo các nhà khoa học kế toán nước Cộng hòa Pháp:
- "Kế toán quản trị là một yếu tố của hệ thống thông tin phục vụ cho quản trị" [24,
tr. 7].
- "Kế toán quản trị là một hệ thống kế toán phục vụ cho nhà quản
trị" [25, tr. 18] và "Kế toán quản trị hướng tới hai mục đích chủ yếu: giúp cho nhà quản trị
hiểu được tương lai và điều hành các vấn đề của hiện tại. Để hiểu được tương lai, kế toán
quản trị phải xây dựng được mối quan hệ giữa những mục tiêu mong muốn và các nguồn
lực để đạt được mục tiêu đó" [24, tr. 19].
Theo cách phát biểu này, KTQT là một hệ thống kế toán cung cấp các thông tin
kinh tế tài chính phục vụ cho việc thực hiện công tác quản trị tại đơn vị. Mục tiêu của
KTQT không chỉ là cung cấp các thông tin quá khứ về tình hình kinh tế tài chính của đơn
vị để phục vụ việc quản trị các hoạt động đang diễn ra mà còn cung cấp các thông tin
mang tính dự báo về việc thực hiện các mục tiêu của đơn vị trong tương lai.
Theo các nhà khoa học kế toán Việt Nam:
- Theo các nhà khoa học kế toán của Học viện Tài chính: "Kế toán quản trị là khoa
học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp một cách cụ thể,
phục vụ cho các nhà quản lý trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh
giá tình hình thực hiện kế hoạch các hoạt động của doanh nghiệp" [11, tr. 11].
Theo cách phát biểu này KTQT là một môn khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin về hoạt động của DN nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của quản
trị DN. Như vậy quá trình KTQT có mối quan hệ chặt chẽ, gắn liền với quá trình thực hiện
các chức năng của quản trị DN. Có thể khái quát hai quá trình đó theo sơ đồ 1.3.
Xác định mục tiêu
Chính thức hình thành
các chỉ tiêu kinh tế
Lập kế hoạch
Tổ chức thực hiện
Kiểm tra, đánh giá
Lập dự toán chung
và các bản dự toán
chi tiết
Thu nhận
kết quả thực hiện
Soạn thảo báo cáo
thực hiện
Quá trình KTQT Các chức năng quản trị
Sơ đồ 1.3: Mối quan hệ giữa các chức năng quản trị
và quá trình kế toán quản trị
Theo sơ đồ trên, sau khi nhà quản trị đề ra các mục tiêu của DN, KTQT sẽ hình
thành các chỉ tiêu kinh tế về mục tiêu đó. Căn cứ vào kế hoạch hoạt động của DN do nhà
quản trị đưa ra trong từng giai đoạn và các chỉ tiêu kinh tế đã thiết lập, KTQT thực hiện
việc lập dự toán chung và lập các dự toán chi tiết (dự toán về NLVL, lao động, vốn...) cho
hoạt động của DN và như thế KTQT sẽ cung cấp các thông tin mang tính dự báo về hoạt
động của DN. Trong quá trình nhà quản trị tổ chức thực hiện các hoạt động của DN,
KTQT phải tiến hành thu thập thông tin về các hoạt động đó và cung cấp cho nhà quản trị
thông qua các báo cáo KTQT để nhà quản trị thực hiện việc kiểm tra, đánh giá tình hình
thực hiện kế hoạch và có các quyết định điều chỉnh kịp thời.
- Theo các nhà khoa học kế toán của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh: "Kế toán quản trị là chuyên ngành kế toán cung cấp các thông tin kinh tế - tài chính
gắn liền với quan hệ dự báo, đánh giá, kiểm soát và trách nhiệm trong việc điều hành tổ
chức hàng ngày của nhà quản trị ở các bộ phận" [16, tr. 12].
Như vậy, cách phát biểu này cũng có sự thống nhất về mặt nội dung với các nhà
khoa học kế toán của Học viện Tài chính.
Từ những cách phát biểu trên cùng với việc tìm hiểu quá trình hình thành, xuất hiện
của KTQT, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
+ KTQT hình thành xuất phát từ nhu cầu về thông tin của nhà quản trị DN, KTQT
phục vụ các hoạt động quản trị của một DN cụ thể và vì vậy có mối quan hệ chặt chẽ, gắn
bó với các phương pháp quản trị tác nghiệp mà DN đó đang áp dụng đối với các hoạt động
của DN.
+ Thông tin KTQT cung cấp không chỉ là những thông tin quá khứ mà còn có các
thông tin tương lai về hoạt động kinh tế tài chính của DN. Do đó KTQT không phải tuân
thủ triệt để các nguyên tắc, chuẩn mực, chế độ về kế toán như đối với KTTC mà KTQT
còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu ngoài các phương pháp đã có ở KTTC để đạt
được mục tiêu đã đề ra.
Trong thực tiễn công tác kế toán ở Việt Nam chúng tôi nhận thấy: KTQT được đề
cập trong công tác nghiên cứu bắt đầu từ những năm 1990, còn trên thực tế cho đến năm
2003 vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về công tác KTQT. Trong khi đó
còn có quan điểm cho rằng: Kế toán chỉ là việc thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin
về các hoạt động kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành của đơn vị, thông tin
mà kế toán cung cấp chỉ là những thông tin thực hiện (quá khứ), mà không bao gồm các
thông tin mang tính dự báo. Theo quan điểm này, việc lập kế hoạch hoạt động của đơn vị
là một chức năng của quản trị DN và đã được thực hiện bởi các bộ phận chức năng khác
trong đơn vị (bộ phận làm công tác kế hoạch) còn kế toán chỉ thu nhận và cung cấp các
thông tin về hoạt động kinh tế tài chính đã xảy ra để đối chiếu, kiểm tra tình hình thực hiện
kế hoạch mà thôi.
Từ năm 1995, cùng với những thay đổi to lớn của cơ chế quản lý kinh tế tài chính
cả ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, hệ thống kế toán Việt Nam đã có những cải cách cơ bản.
Một trong những nguyên tắc của việc cải cách hệ thống kế toán là dần tiếp cận với các
thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế để kế toán Việt Nam hội nhập với kế toán quốc tế.
Với xu hướng đó, KTQT đã được các nhà nghiên cứu chú trọng hơn, đã được đưa vào
giảng dạy ở các trường đại học kinh tế và trong Luật Kế toán (có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2004) KTQT đã chính thức được thừa nhận về mặt pháp lý: "Kế toán ở đơn vị kế toán
gồm kế toán tài chính và kế toán quản trị" - Điều 10 [3, tr. 14] và: "Kế toán quản trị là việc
thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu
quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán" - Điều 4, khoản 3 [3,
tr. 9].
Từ việc xem xét quá trình hình thành KTQT và những quan điểm về KTQT, có thể
rút ra bản chất của KTQT như sau:
Kế toán quản trị là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một công
cụ quan trọng không thể thiếu được đối với công tác quản lý nội bộ doanh nghiệp.
Với bản chất đó có thể xác định KTQT trong các DN bao gồm các nội dung cơ
bản sau:
- KTQT các yếu tố đầu vào bao gồm: KTQT vật tư, hàng hóa; KTQT íTCĐ;
KTQT lao động - tiền lương.
- KTQT chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
- KTQT doanh thu - kết quả và phân phối kết quả.
- KTQT các hoạt động khác.
(Bốn nội dung này được thực hiện theo quy trình KTQT như đã trình bày ở sơ đồ
1.3).
- Lập và phân tích báo cáo KTQT, cung cấp các thông tin phục vụ cho lập kế
hoạch, dự toán chi phí, doanh thu... theo yêu cầu của nhà quản trị DN.
Để nghiên cứu những nội dung trên, KTQT đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu bao gồm: Phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương
pháp tính giá, phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán và các phương pháp kỹ thuật nghiệp
vụ khác.
* Phương pháp chứng từ kế toán: Mục đích của phương pháp này thu thập thông tin
về các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị để có được những dữ liệu thông tin cần thiết
cho quản trị DN. Hình thức biểu hiện của phương pháp này là các bản chứng từ kế toán và
chương trình luân chuyển chứng từ kế toán.
Khi sử dụng phương pháp chứng từ kế toán để thu nhận thông tin về các nghiệp vụ
kinh tế tài chính phát sinh, KTQT ngoài việc sử dụng các chứng từ bắt buộc (trong trường
hợp Nhà nước quy định chứng từ bắt buộc), còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ hướng
dẫn phản ánh các nghiệp vụ kinh tế trong nội bộ doanh DN. Các chứng từ này do KTQT
của DN vận dụng trên cơ sở hướng dẫn của Nhà nước hoặc tự thiết kế theo yêu cầu quản lý
cụ thể ở DN mình. Việc thu thập, kiểm tra, xử lý và luân chuyển chứng từ cũng được xác
lập theo cách riêng, nhằm đảm bảo cung cấp các thông tin cụ thể, nhanh chóng và thích
hợp cho việc ra quyết định của quản trị
* Phương pháp tài khoản kế toán: Mục đích của phương pháp này là phân loại và
hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh theo nội dung kinh tế để có được
những thông tin mang tính thường xuyên, liên tục và có hệ thống phục vụ cho việc lập các
báo cáo KTQT. Hình thức biểu hiện của phương pháp này là các tài khoản kế toán và cách
ghi chép trên tài khoản kế toán.
Để hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh phục vụ cho quản trị
DN, KTQT phải mở các tài khoản phục vụ yêu cầu quản trị đối với từng chỉ tiêu cụ thể.
Việc xây dựng hệ thống tài khoản phục cho KTQT phải dựa theo yêu cầu cụ thể của nhà
quản trị. Do đó, hệ thống tài khoản kế toán phục vụ cho KTQT không giống nhau giữa các
DN mà phụ thuộc vào những đặc điểm cơ bản sau:
- Phụ thuộc vào phạm vi, quy mô SXKD, loại hình DN.
- Phụ thuộc vào tổ chức quá trình SXKD và tổ chức quản lý SXKD, mức độ phân
cấp quản lý nội bộ DN.
- Phụ thuộc vào yêu cầu và trình độ của cán bộ quản lý.
- Phụ thuộc trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ kế toán trình độ trang bị và sử
dụng các phương tiện kỹ thuật tính toán, ghi chép của kế toán.
* Phương pháp tính giá: Mục đích của phương pháp này là xác định trị giá thực tế
của tài sản bằng thước đo tiền tệ theo những nguyên tắc nhất định. Hình thức biểu hiện của
phương pháp này là các sổ tính giá và trình tự tính giá.
Trong KTTC, phương pháp tính giá được vận dụng theo nguyên tắc, chuẩn mực
quy định thống nhất của mỗi quốc gia để trình bày các thông tin trên báo cáo tài chính một
cách thống nhất. Đối với KTQT, việc tính giá các loại tài sản mang tính linh hoạt cao hơn
và gắn với mục đích sử dụng các thông tin về giá theo yêu cầu quản trị DN. Các tài liệu để
tính giá không chỉ căn cứ vào các chi phí thực tế đã phát sinh mà còn dựa vào sự phân loại
các chi phí thích hợp cho từng quyết định cá biệt theo yêu cầu quản lý đặc thù của DN.
Như vậy phạm vi, nội dung của chi phí trong giá phí của KTQT có thể không giống, thậm
chí còn có sự khác biệt so với KTTC.
* Phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán: Mục đích của phương pháp này là
cung cấp các thông tin cho đối tượng sử dụng thông tin kế toán. Hình thức biểu hiện của
phương pháp này là hệ thống các bảng tổng hợp - cân đối kế toán (các báo cáo kế toán).
Báo cáo kế toán của KTQT là các bảng tổng hợp - cân đối bộ phận. Các báo cáo
này còn được gọi là báo cáo kế toán nội bộ được lập theo kỳ hạn ngắn hơn các báo cáo tài
chính. Ngoài các chỉ tiêu về tiền tệ, các bảng tổng hợp - cân đối bộ phận còn sử dụng rộng
rãi các thước đo về hiện vật và thời gian lao động. Đồng thời, ngoài các bảng tổng hợp -
cân đối kế toán trình bày các chỉ tiêu quá khứ, chỉ tiêu đã thực hiện, kế toán còn thiết lập
các bảng tổng hợp - cân đối trình bày các chỉ tiêu trong dự toán, trong kế hoạch, các chỉ
tiêu giữa nhu cầu tài chính và nguồn tài trợ, giữa yêu cầu KD và các nguồn lực được huy
động...
Báo cáo KTQT có một số điểm khác biệt với báo cáo KTTC:
+ Về kỳ hạn: Báo cáo KTQT có kỳ hạn ngắn hơn báo cáo KTTC nhằm đáp ứng
kịp thời thông tin cho nhà quản trị DN.
+ Về tính pháp lý: Báo cáo KTTC mang tính pháp lệnh, bắt buộc còn báo cáo
KTQT là loại báo cáo kế toán riêng có phục vụ cho quản trị từng DN nên không mang tính
bắt buộc
+ Về phạm vi: Báo cáo KTTC được lập cho toàn DN còn báo cáo KTQT không
chỉ lập cho toàn DN mà cả cho từng bộ phận, từng loại công việc, từng khâu công việc tùy
thuộc vào yêu cầu của nhà quản trị.
* Các phương pháp khác: Thông tin của KTQT chủ yếu nhằm phục vụ cho việc ra
quyết định của các nhà quản trị DN, các nhu cầu về thông tin của nhà quản trị rất đa dạng và
phong phú cho nên trong một số trường hợp để có được các thông tin mà nhà quản trị mong
muốn (ví dụ các thông tin dự báo như: sản lượng tiêu thụ trong tương lai, số NLVL cần sử
dụng trong kỳ tới...) KTQT phải vận dụng một số phương pháp nghiệp vụ của các môn khoa
học khác như:
+ Phương pháp hồi quy của kinh tế lượng: Căn cứ vào mối quan hệ phụ thuộc giữa
các yếu tố của quá trình KD của DN như: số lượng sản phẩm (SP) và số chi phí phải bỏ ra
(chi phí về NLVL, về sức lao động...) để SX lượng SP đó, thông qua số liệu thống kê của
các thời kỳ để xây dựng hàm số hồi quy biểu hiện mối quan hệ đó. Từ hàm này, khi biết
được một yếu tố sẽ tính toán dự báo được các yếu tố còn lại.
+ Các phương pháp của kinh tế học vi mô: Phương pháp xác định điểm hòa vốn,
phương pháp tìm hiểu sự thay đổi của giá cả có tác động như thế nào đến nhu cầu về SP của
DN trên thị trường để xác định chỉ tiêu số lượng SP cần SX.
+ Các phương pháp của toán xác suất, của thống kê: được sử dụng để ước lượng
số SP sẽ được tiêu thụ trong kỳ tới.
1.3.3. Các quan điểm về tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp
Tổ chức KTQT khoa học và hợp lý sẽ đảm bảo cung cấp thông tin có chất lượng,
đáng tin cậy, kịp thời và đảm bảo tiết kiệm chi phí, nói cách khác là đảm bảo cung cấp
thông tin hữu ích cho nhà quản trị trên cơ sở đảm bảo tính hiệu quả của công tác kế toán. Có
hai quan điểm chủ yếu về việc tổ chức KTQT.
* Quan điểm thứ nhất: Tổ chức KTQT kết hợp chặt chẽ với KTTC trong cùng
một bộ máy.
Theo quan điểm này, việc thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin của KTQT và KTTC
được tiến hành trên cơ sở của cùng một hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế
toán chỉ khác là thông tin tổng quát và thông tin chi tiết. Thông tin do KTTC cung cấp chủ
yếu là các thông tin tổng quát và một số thông tin chi tiết để phục vụ cho các đối tượng sử
dụng thông tin ở bên ngoài DN, các thông tin này đều là các thông tin thực hiện (về các
nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát sinh và hoàn thành). Thông tin do KTQT thu nhận, xử
lý và cung cấp phục vụ cho các quản trị DN và nó không chỉ là các thông tin thực hiện mà
còn có cả các thông tin dự báo để phục vụ cho việc ra các quyết định trong tương lai. Để có
được các thông tin này, KTQT tiến hành mở các sổ kế toán của các tài khoản chi tiết (theo
từng cấp cần thiết) trong hệ thống tài khoản sử dụng cho KTTC để thu nhận, hệ thống hóa các
thông tin thực hiện, đồng thời mở các sổ kế toán chi tiết khác để thu nhận, hệ thống hóa các
thông tin dự báo; xác định nội dung, phương pháp ghi chép, phản ánh trên các sổ kế toán
đó cho phù hợp với việc xử lý và cung cấp thông tin phục vụ quản trị. Khi lập báo cáo
KTQT để cung cấp các thông tin cụ thể chi tiết theo yêu cầu quản lý cán bộ kế toán sẽ tổng
hợp số liệu từ các sổ kế toán đã mở theo các chỉ tiêu trong các báo cáo KTQT.
Cách tổ chức theo quan điểm này giúp cho bộ máy kế toán DN được tổ chức thống
nhất, bao gồm các bộ phận kế toán theo các phần hành công việc kế toán. Mỗi phần hành
kế toán đều thực hiện cả công việc KTTC và KTQT nên có thể kết hợp giữa quản lý tổng
hợp và quản lý chi tiết từng chỉ tiêu, thuận tiện cho việc phân công chuyên môn hóa và có
điều kiện quản lý chặt chẽ khối lượng công việc của nhân viên kế toán, thuận lợi cơ giới
hóa công tác kế toán, tạo điều kiện tiết kiệm thời gian và chi phí trong công tác kế toán.
Đồng thời, cách tổ chức này đòi hỏi người tổ chức phân công công việc phải xác định rõ
công việc của KTTC và KTQT trong từng phần hành, tức là xác định rõ phần việc kế toán
nào, loại thông tin nào cần cho việc lập báo cáo KTTC và phần việc nào, loại thông tin nào
phục vụ lập các báo cáo KTQT; đòi hỏi nhân viên kế toán cần hiểu rõ công việc KTTC và
KTQT.
Quan điểm thứ hai: Tổ chức KTQT độc lập với KTTC
Theo quan điểm này, KTQT và KTTC được tổ chức tách biệt với nhau. ở bộ phận kế
toán phân công các cán bộ thực hiện riêng nội dung công việc của KTQT. Việc thu nhận
thông tin vẫn được thực hiện trên cùng một hệ thống chứng từ nhung việc xử lý và cung
cấp thông tin của KTQT và KTTC được tiến hành tách biệt. KTQT sử dụng hệ thống tài
khoản kế toán và hệ thống sổ kế toán riêng biệt với KTTC.
Các tài khoản trong hệ thống tài khoản sử dụng cho KTQT được phân loại và quy
định phương pháp ghi chép phản ánh phù hợp những nội dung cơ bản của KTQT, nhằm
tạo ra sự phối hợp cung cấp thông tin phục vụ quản lý.
Tổ chức KTQT theo quan điểm này tạo điều kiện chuyên môn hóa KTQT nên
thông tin được cung cấp đầy đủ kịp thời theo yêu cầu quản trị. Tuy nhiên sẽ tốn kém thời
gian và chi phí hơn vì phải tăng thêm trong khâu luân chuyển, xử lý chứng từ kế toán.
1.3.4. Nội dung tổ chức công tác kế toán quản trị các yếu tố đầu vào
Quản trị các yếu tố đầu vào của DN là một công việc không thể thiếu trong công
tác quản trị DN. Để phục vụ cho công tác này, KTQT phải tiến hành thực hiện nhiều nội
dung công việc. Các nội dung này xuất phát từ:
- Nhu cầu về thông tin của nhà quản trị đối với việc quản trị các yếu tố đầu vào
của DN.
Các nhà quản trị cần những thông tin phục vụ cho việc thực hiện các phương pháp,
biện pháp quản trị cụ thể mà họ đang áp dụng đối với việc quản trị các yếu tố đầu vào của
DN và do đó phụ thuộc vào nội dung cụ thể của các phương pháp quản trị tác nghiệp ở
DN.
- Khả năng của KTQT trong việc đáp ứng các nhu cầu về thông tin của nhà quản
trị.
Mỗi DN với điều kiện cụ thể của mình (trong từng giai đoạn khác nhau, với những
chiến lược KD đã lựa chọn...) thì yêu cầu quản trị cụ thể đối với các yếu tố đầu vào có sự
khác nhau và do đó họ áp dụng các phương pháp quản trị tác nghiệp khác nhau. Tuy nhiên,
dù áp dụng phương pháp quản trị nào thì đều nhằm thực hiện các chức năng của quản trị
đối với việc quản trị yếu tố đầu vào đó là: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh
giá.
Do đó, theo chức năng quản lý, nội dung công tác KTQT các yếu tố đầu vào bao
gồm:
1.3.4.1. Thiết lập hệ thống chỉ tiêu quản trị các yếu tố đầu vào
Đây là công việc đầu tiên mà KTQT phải tiến hành. Việc xác định hệ thống các
chỉ tiêu về các yếu tố đầu vào phụ thuộc vào nội dung của các yếu tố đầu vào của DN.
Thông thường các chỉ tiêu này bao gồm:
- Các chỉ tiêu về yếu tố đầu vào là vật tư, hàng hóa bao gồm: Số lượng, chủng loại,
quy cách các loại vật tư, hàng hóa chủ yếu dự trữ cho cho hoạt động của DN (mức dự trữ
tối đa, tối thiểu, bình quân).
- Các chỉ tiêu về yếu tố đầu vào là lao động bao gồm: chỉ tiêu về số lượng lao
động, cơ cấu lực lượng lao động, chỉ tiêu về sử dụng ngày công lao động, chỉ tiêu về năng
suất lao động...
- Các chỉ tiêu về yếu tố đầu vào là TSCĐ bao gồm: Cơ cấu TSCĐ (TSCĐ dùng cho
SXKD, TSCĐ hành chính sự nghiệp, TSCĐ phúc lợi, TSCĐ chờ xử lý); số TSCĐ cần trang
bị hay đưa vào sử dụng; tình trạng kỹ thuật của TSCĐ...
1.3.4.2. Lập dự toán các yếu tố đầu vào
Trên cơ sở các chỉ tiêu cụ thể đã xác định trong hệ thống chỉ tiêu và kế hoạch
SXKD được lập, KTQT tiến hành lập dự toán các yếu tố đầu vào. Dự toán được xác định
theo từng giai đoạn (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn). Các yếu tố đầu vào phục vụ cho việc
tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của DN (đầu ra), vì vậy dự toán về các yếu tố đầu
vào một mặt phụ thuộc vào dự toán đầu ra (kế hoạch SX, bán hàng hay cung cấp dịch vụ
của DN) một mặt phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động của DN như: lĩnh vực hoạt động (SX
hay thương mại); đặc điểm quy trình công nghệ (SX liên tục, gián đoạn hoặc SX theo dự
án); kết cấu và đặc điểm chế tạo sản phẩm: (lắp ráp, phân tích hoặc hỗn hợp); quá trình SX
(đơn chiếc hay hàng loạt) v.v...
- Đối với yếu tố đầu vào về vật tư, hàng hóa: Dự toán về yếu tố này phụ thuộc vào
phương pháp quản trị hàng tồn kho mà DN áp dụng.
+ Nếu DN áp dụng phương pháp dự trữ bình quân thì dự toán là: Mức dự trữ bình
quân, chi phí dự trữ bình quân, số lượng nhập hàng cần thiết trong từng giai đoạn...
+ Nếu DN áp dụng phương pháp xác định nhu cầu hàng tồn kho theo từng thời
điểm thì dự toán là: Tồng nhu cầu về NLVL (hoặc hàng hóa), thời điểm nhập hàng và số
lượng hàng cần nhập...
- Đối với yếu tố đầu vào là lao động: Dự toán các yếu tố là lao động phụ thuộc vào
biện pháp quản trị lao động mà DN áp dụng.
+ DN sử dụng biện pháp sử dụng thêm lao động thuê ngoài thì dự toán là số lao
động trong biên chế và số lao động cần thuê ngoài.
+ DN áp dụng biện pháp làm thêm giờ của số lao động trong biên chế thì dự toán
là số giờ lao động làm thêm...
- Đối với yếu tố đầu vào là TSCĐ: Dự toán về năng lực hoạt động của số TSCĐ
hiện có của DN; về số TSCĐ cần mua mới hoặc thuê ngoài để đáp ứng nhu cầu SXKD.
Các dự toán trên được lập một cách cụ thể đối với một kế hoạch SX (hay bán hàng
hoặc cung cấp dịch vụ) cũng như các biện pháp quản trị tác nghiệp cụ thể mà DN áp dụng
trong từng giai đoạn đối với mỗi yếu tố đó.
1.3.4.3. Tổ chức thu nhận và kiểm tra thông tin về các yếu tố đầu vào theo các
chỉ tiêu đã xây dựng
Để thu nhận được các thông tin về yếu tố đầu vào theo các chỉ tiêu và dự toán đã
xây dựng KTQT cần phải tổ chức hạch toán ban đầu và sử dụng phương pháp chứng từ kế
toán.
Hạch toán ban đầu là công việc khởi đầu của quy trình hạch toán kế toán nên nó
quyết định chất lượng của thông tin kế toán. Việc hạch toán ban đầu bao gồm: quy định
các mẫu chứng từ ban đầu sử dụng và quy định người ghi chép vào chứng từ về các các
yếu tố đầu vào.
KTQT phải quy định các mẫu chứng từ thích hợp đối với từng loại nghiệp vụ kinh
tế, tài chính về các yếu tố đầu vào ở DN để có thể ghi nhận được đầy đủ thông tin về chúng.
Ngay từ đầu, khi thiết kế các mẫu chứng từ phục vụ cho KTQT các yếu tố đầu vào phải đảm
bảo phản ánh đầy đủ các yếu tố, các nội dung theo từng phương pháp quản trị tác nghiệp các
yếu tố đầu vào mà DN đang áp dụng. Điều này đòi hỏi nhân viên kế toán phải có kiến thức về
quản trị tác nghiệp hoặc phải tham khảo ý kiến của các nhân viên quản trị trong DN.
Tiếp theo, cần quy định và hướng dẫn các bộ phận, cá nhân ghi nhận thông tin của
từng loại nghiệp vụ kinh tế, tài chính về các các yếu tố đầu vào phản ánh vào chứng từ (lập
chứng từ). Vì việc ghi chép vào chứng từ không phải hoàn toàn do nhân viên kế toán thực hiện
mà chủ yếu do những người làm việc ở các bộ phận khác nhau trong DN, nơi có nghiệp vụ
kinh tế phát sinh ban đầu thực hiện, nên phải quy định rõ cách ghi nhận thông tin vào từng loại
chứng từ sao cho hợp lý, hợp lệ, phải ghi đầy đủ các yếu tố trên chứng từ, đảm bảo kiểm tra,
kiểm soát được nội dung các nghiệp vụ kinh tế tài chính phản ánh trong chứng từ.
Sau đó, phải tổ chức luân chuyển chứng từ khoa học, hợp lý tùy theo yêu cầu tiếp
nhận thông tin của các bộ phận liên quan trong DN, giúp các bộ phận này có thể kiểm tra
và ghi chép (hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê) và bộ phận kế toán thu nhận, kiểm
tra và ghi sổ kế toán được kịp thời, tránh trùng lắp, bỏ sót nghiệp vụ.
Tại bộ phận kế toán khi nhận được chứng từ thực hiện việc kiểm tra tính hợp lệ, hợp
lý và hợp thức của chứng từ. Đây là bước công việc hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến chất
lượng của toàn bộ công tác KTQT các yếu tố đầu vào.
Công việc tiếp theo phải tiến hành là hoàn thiện chứng từ, đặc biệt là đối với
những nội dung liên quan đến việc xử lý, hệ thống hóa và lập báo cáo KTQT các yếu tố
đầu vào sau này thì kế toán càng phải quan tâm hơn vì thông thường các nội dung này chỉ
có kế toán và nhà quản trị tác nghiệp hiểu rõ.
Sau khi sử dụng chứng từ, cần phải thực hiện đúng chế độ bảo quản và lưu trữ
chứng từ để có thể sử dụng lại sau này.
1.3.4.4. Tổ chức hệ thống hóa và xử lý thông tin về các yếu tố đầu vào
Trên cơ sở số liệu của chứng từ kế toán đã thu thập được và nhu cầu thông tin cần
cung cấp cho nhà quản trị, KTQT tiến hành hệ thống hóa và xử lý thông tin về các yếu tố
đầu vào.
Các thông tin KTQT cần hệ thống hóa và xử lý có thể chia thành hai loại.
* Thông tin quá khứ: Đối với các thông tin này, trên cơ sở số liệu của các chứng từ
kế toán về các nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành, KTQT tiến
hành vận dụng phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá và sử dụng hệ thống
sổ kế toán đã xây dựng. Cụ thể như sau:
- Đối với các chỉ tiêu mà đã được phản ánh trên các tài khoản thuộc KTTC (cả tài
khoản tổng hợp và tài khoản chi tiết) nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu quản trị của DN thì
tiến hành mở thêm các tài khoản chi tiết cho phù hợp.
- Thiết kế các mẫu sổ kế toán để phản ánh các chỉ tiêu của KTQT một cách phù
hợp vì trên thực tế tài khoản kế toán là tờ sổ kế toán cho nên ngoài việc mở tài khoản phải
thiết kế cả mẫu sổ của những tài khoản mới mở cũng như cải tiến các mẫu sổ của các tài
khoản đã có cho phù hợp.
- Khi áp dụng phương pháp tính giá KTQT tiến hành xây dựng hệ thống các sổ
(bảng) tính giá đối với một số đối tượng tính giá nhằm phục vụ cho quản trị cụ thể của DN.
Trên các sổ này phải nêu rõ các chi phí cấu thành giá của đối tượng tính giá (các chi phí
cấu thành giá này hoàn toàn do nhu cầu về quản trị tác nghiệp của nhà quản trị quy định
mà không phụ thuộc vào chế độ kế toán hiện hành) và trình tự tính giá đối với từng đối
tượng.
Hệ thống sổ KTQT các yếu tố đầu vào phải đảm bảo hệ thống hóa được thông tin
về các các yếu tố đầu vào của DN để lập nên các báo cáo KTQT nhằm cung cấp đầy đủ
thông tin cho nhà quản trị các cấp một cách kịp thời. Vì vậy, việc xây dựng thiết kế mẫu sổ
cũng như việc ghi chép trên sổ phải đáp ứng được những yêu cầu cụ thể sau:
+ Phải đảm bảo quan hệ giữa ghi sổ kế toán tổng hợp với sổ kế toán chi tiết về các
các yếu tố đầu vào để đảm bảo mối quan hệ cân đối giữa các chỉ tiêu kinh tế - tài chính
tổng hợp (phản ánh ở các tài khoản cấp I) với các chi tiết của chỉ tiêu đó (phản ánh ở các
tài khoản chi tiết cấp II, III, IV...).
+ Phải đảm bảo quan hệ kiểm tra, đối chiếu số liệu trên các sổ kế toán nhằm đảm
bảo tính chính xác trong quá trình hệ thống hóa thông tin kế toán từ các chứng từ kế toán
về các các yếu tố đầu vào.
+ Phải đảm bảo mối quan hệ giữa việc ghi sổ theo thứ tự thời gian với việc ghi sổ
phân loại theo hệ thống về các yếu tố đầu vào.
* Thông tin tương lai: KTQT cần hệ thống hóa các thông tin tương lai về các yếu
tố đầu vào trên cơ sở kế hoạch SXKD của DN trong tương lai, trên cơ sở dự báo sự biến
động của môi trường KD như:
+ Sự thay đổi về thị trường các yếu tố đầu vào như giá cả, nguồn cung cấp, sự xuất
hiện của các loại NLVL mới...
+ Sự thay đổi về đầu ra của đơn vị: Lượng sản phẩm tiêu thụ, thị trường tiêu thụ...
+ Những tác động ảnh hưởng từ việc thay đổi chế độ quản lý kinh tế tài chính.
Trên cơ sở dự báo về những sự biến động trên, KTQT hệ thống hóa các thông tin
tương lai về các yếu tố đầu vào bằng các phương pháp nghiệp vụ khác: phương pháp hồi
quy của kinh tế lượng, các phương pháp của kinh tế học vi mô, của thống kê, của xác
suất... Việc trình bày các thông tin tương lai được thể hiện ngay trên các sổ KTQT hoặc
trên các báo cáo KTQT.
1.3.4.5. Tổ chức cung cấp thông tin về các yếu tố đầu vào phục vụ cho việc ra
quyết định
Kết quả công việc của KTQT được thể hiện ở các bảng tổng hợp - cân đối kế toán
mà KTQT cung cấp. Để cung cấp thông tin, KTQT vận dụng phương pháp tổng hợp - cân
đối kế toán. Thông qua các báo cáo của KTQT về các yếu tố đầu vào để cung cấp các
thông tin cần thiết cho nhà quản trị. Các báo cáo này còn được gọi là báo cáo kế toán nội
bộ được lập theo kỳ hạn ngắn hơn các báo cáo tài chính. Ngoài các chỉ tiêu về tiền tệ, các
báo cáo kế toán nội bộ còn sử dụng rộng rãi các thước đo về hiện vật và thời gian lao động.
Ngoài các báo cáo KTQT về các chỉ tiêu quá khứ, chỉ tiêu đã thực hiện, KTQT còn thiết
lập các báo cáo dự toán về các yếu tố đầu vào. Để thuận tiện cho nhà quản trị trong quá
trình sử dụng báo cáo, thông thường kết cấu mẫu biểu các báo cáo này thường có các cột
"kế hoạch" hoặc "kỳ trước" để đối chiếu với kế hoạch, với kỳ trước tình hình thực hiện các
chỉ tiêu đó. Ví dụ như:
+ Báo cáo tình hình tăng, giảm và sử dụng TSCĐ: Cung cấp các chỉ tiêu phản ánh
tình hình tăng, giảm và sử dụng TSCĐ của DN để đối chiếu với kế hoạch mua sắm, thanh
lý, nhượng bán và kế hoạch sử dụng TSCĐ của đơn vị.
+ Báo cáo tình hình đảm bảo NLVL cho SX: Cung cấp các chỉ tiêu phản ánh số
NLVL tồn đầu kỳ, nhập trong kỳ, xuất trong kỳ và tồn cuối kỳ phục vụ SX để đối chiếu với kế
hoạch đảm bảo NLVL về mặt số lượng.
+ Báo cáo tình hình lao động trực tiếp SX: Cung cấp chỉ tiêu phản ánh số lượng
lao động thường xuyên, số lượng lao động thuê ngoài, số lượng lao động đảm bảo cho SX
để đối chiếu với kế hoạch.
Tóm lại, trong chương 1, luận văn đã trình bày khái quát những vấn đề lý luận cơ
bản về tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong DN. Luận văn đã nêu rõ khái niệm, vai trò,
chức năng và mục đích của KTQT.
Những nội dung trình bày trong chương 1 sẽ là nền tảng cho việc nghiên cứu, tìm
hiểu tình hình thực tế về tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào và đề xuất những biện pháp
nhằm hoàn thiện công tác tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN Việt Nam
hiện nay.
Chương 2
Thực trạng tổ chức kế toán quản trị
các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước
ở Việt Nam hiện nay
2.1. Quá trình phát triển và vai trò của các Doanh Nghiệp Nhà Nước ở Việt
Nam
Sau khi giành được độc lập (2/9/1945), nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non
trẻ bắt tay vào xây dựng đất nước, nhưng đến tháng 12/1946 thực dân Pháp quay lại đánh
chiếm nước ta một lần nữa. Cả nước phải trải qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, cuối cùng
giành thắng lợi bằng chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954). Trong những năm chiến tranh,
các công xưởng, nhà máy nhỏ ở các vùng căn cứ kháng chiến chủ yếu chỉ SX các vũ khí
phục vụ cho cuộc kháng chiến. Sau khi chiến tranh kết thúc, Chính phủ cùng toàn dân bắt
đầu công cuộc xây dựng đất nước và lúc này các DNNN bắt đầu hình thành với tên gọi ban
đầu là các Xí nghiệp, Nhà máy, Nông trường quốc doanh.
Từ khi hình thành đến nay, DNNN ở Việt Nam luôn được coi là xương sống của
nền kinh tế quốc dân, có vai trò chủ đạo và ảnh hưởng trực tiếp đến sự hưng thịnh hay suy
yếu của nền kinh tế.
Quá trình phát triển của DNNN Việt Nam, có thể được tóm tắt qua các giai đoạn
chủ yếu như sau:
* Giai đoạn 1955 - 1960
Chính phủ tiến hành khôi phục và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế ở miền Bắc.
Thực hiện việc công tư hợp doanh các DN tư bản tư nhân ở các vùng bị tạm chiếm trước
đây; tiến hành tiếp quản các DN sản xuất lớn như: Nhà máy Xi măng Hải Phòng, Nhà máy
Dệt Nam Định, các mỏ than ở Quảng Ninh...; chuyển các công xưởng, nhà máy ở từ các
vùng kháng chiến trở về.
Trong giai đoạn này, DNNN hình thành và phát triển chủ yếu trong các ngành
công nghiệp, tiếp đến là thương mại, giao thông vận tải và dịch vụ bưu chính viễn thông.
DNNN gần như chi phối tuyệt đối về số lượng DN, lực lượng lao động cũng như giá trị
tổng sản lượng trong các ngành công nghiệp chủ yếu.
* Giai đoạn 1960 - 1975
Giai đoạn này đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.
ở miền Bắc bắt tay vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, được sự giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, hàng loạt các DNNN đã được hình thành và đi vào
hoạt động như các xí nghiệp ở khu công nghiệp Việt Trì, khu gang thép Thái Nguyên...
Các DNNN hoàn toàn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và nắm độc quyền
trong các lĩnh vực điện lực, khai thác và chế biến nhiên liệu, luyện kim đen, luyện kim
màu, cơ khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, khai thác chế biến gỗ, thủy tinh, sành sứ, dệt, da,
may, nhuộm, thực phẩm, in và văn hóa phẩm.
Hoạt động của các DNNN trong giai đoạn này dưới sự chỉ đạo có kế hoạch của
Nhà nước, DNNN chủ yếu tập trung vào quản lý các hoạt động SXKD trong phạm vi nội
bộ DN còn "đầu vào" và "đầu ra" của DN hoàn toàn tuân theo sự quản lý của Nhà nước.
* Giai đoạn từ 1976 - 1986
Sau khi giành được thống nhất đất nước (30/4/1975), Nhà nước bắt tay vào tiếp
quản, cải tạo xã hội chủ nghĩa các DN tư bản tư nhân ở miền Nam và tiếp tục xây dựng mới
các DNNN trên phạm vi cả nước. Số lượng DNNN trong các ngành công nghiệp và công
nghiệp địa phương vẫn chiếm vị trí hàng đầu. DNNN vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong giai đoạn này, tư tưởng chỉ đạo của các chính sách và giải pháp phát triển
hệ thống DNNN chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước, Nhà nước vẫn tiếp tục quản lý
các DNNN theo cơ chế tập trung bao cấp như trước đây chính vì vậy sự phát triển của
DNNN đã không được như mong muốn. Ngoài lý do về cơ chế quản lý, còn có hàng loạt
các lý do khách quan như: đất nước mới thoát ra khỏi hơn 30 năm chiến tranh, cơ sở vật
chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế còn quá lạc hậu, không còn nhận được
sự giúp đỡ của các nước anh em như trước...
* Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay
Trước những khó khăn trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung, của
các DNNN nói riêng, Nhà nước có chủ trương củng cố về chất lượng khu vực kinh tế quốc
doanh thông qua việc thực hiện nhiều cuộc cải cách lớn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm
phát triển DNNN theo cơ chế thị trường.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: "Phải đổi mới cơ chế
quản lý, đảm bảo cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế".
Quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày 14/11/1987
đã đề ra qui chế mới đối với việc quản lý DNNN theo hướng hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, cơ chế thị trường đã bước đầu thay thế cho cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung trước
đó. Tuy nhiên, những thay đổi đó bước đầu mới mang tính chất thử nghiệm, hiệu quả mang lại
mới ở một mức độ nhất định, phải tới đầu những năm 1990, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII sự thay đổi về cơ chế quản lý nền kinh tế nói chung, thay đổi quản lý đối với các
DNNN nói riêng mới thực sự mạnh mẽ.
Theo Nghị định số 388/HĐBT, năm 1992 - 1993 đã thực hiện việc chỉnh đốn, sắp
xếp và đăng ký lại các DNNN, chấm dứt tình trạng tự phát, tùy tiện thành lập và giải thể
DNNN, đảm bảo cho các DNNN hoạt động bình đẳng như các loại hình DN khác. Đồng
thời, việc đăng ký lại toàn bộ DNNN đã tạo điều kiện cải tiến quản lý DNNN theo đòi hỏi
cao hơn của thời kỳ đổi mới.
Năm 1994, Chính phủ ban hành Quyết định số 90/TTg và 91/TTg của Thủ tướng
Chính phủ 4-1994 đã hình thành các Tổng công ty 90 (vốn pháp định từ 100 tỷ đến 500 tỷ
VNĐ) và Tổng công ty 91 (vốn pháp định trên 500 tỷ VNĐ), thể hiện Nhà nước luôn quan
tâm đến việc thực hiện tập trung hóa và tích tụ vốn trong các DNNN để nâng cao qui mô
và năng lực sản xuất của DNNN.
Tháng 5/1995, Luật DNNN được ban hành, cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành
luật đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý DNNN và DNNN từng bước
được tổ chức và hoạt động theo pháp luật; Chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục sắp xếp tổng thể các DNNN, chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần theo
Nghị định 28/CP, đưa các DNNN đi vào hoạt động theo Luật DNNN, xóa bỏ dần chế độ
chủ quản của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp của các DNNN nhằm tạo thế
chủ động trong SXKD cho các DNNN.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII), từ giữa năm 1998 đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg
về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN. Chính phủ đã ban hành Nghị định số
44/1998/NĐ-CP về việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần và Nghị định số
103/1999/NĐ-CP về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN càng chứng tỏ sự quan
tâm của Chính phủ đến việc đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả SXKD trong các DNNN trong
giai đoạn hiện nay.
Ngày 26/11/2003 Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước thay thế Luật
DNNN năm 1995, trong đó quy định ở Điều 1: "Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế
do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp dưới hình thức công ty
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn". Điều này cho thấy quan niệm về
DNNN đã có những thay đổi cơ bản. Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước mới, DNNN gồm:
- DN có 100% vốn nhà nước tổ chức, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước, gọi là công ty nhà nước.
- DN có 100% vốn nhà nước tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh
nghiệp, dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn.
- DN có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước, tổ chức, hoạt động theo Luật
doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các điều luật khác liên quan.
Như vậy, từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển đến nay, DNNN luôn
chiếm vị trí quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế Việt Nam và là trọng tâm điều hành và
quản lý của Nhà nước trong các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Hệ thống DNNN Việt
Nam đã và đang đảm nhiệm những vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã
hội Việt Nam, đó là:
* DNNN đã phát huy tốt vai trò trong việc đảm bảo yêu cầu của đất nước trong
các giai đoạn lịch sử như phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu, góp phần ổn định đời sống
nhân dân, ổn định và phát triển nền kinh tế.
* DNNN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, hình thành đòn bẩy thu
hút và khuyến khích các thành phần kinh tế khác cạnh tranh phát triển, phát huy sức mạnh
tổng hợp của nền kinh tế.
* DNNN là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* DNNN đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn
định chính trị - xã hội, góp phần cùng với các khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề
việc làm và thu nhập cho người lao động, xóa đói, giảm nghèo...
2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và bộ máy kế toán trong các doanh
nghiệp nhà nước hiện nay
Để điều hành hoạt động một cách có hiệu quả, các DNNN đều tổ chức một bộ máy
quản lý nhằm thực hiện các chức năng quản lý.
Qua khảo sát mô hình bộ máy tổ chức quản lý một số DNNN như Công ty Thức
ăn chăn nuôi Trung ương, Công ty Vật liệu xây dựng và Xây lắp (thuộc Tổng công ty Xây
dựng và Phát triển nông thôn), Công ty May 20 (Tổng cục Hậu cần - Bộ Quốc phòng) (Phụ
lục 1, 2, 3), chúng tôi nhận thấy: Trong mỗi mô hình tổ chức bộ máy quản lý đều có các bộ
phận để thực hiện các chức năng, công việc của quản lý. Tuy nhiên, việc sắp xếp, bố trí,
lắp ghép các bộ phận chức năng khác nhau vào cùng một bộ phận có sự khác nhau Công ty
Thức ăn chăn nuôi Trung ương ghép bộ phận kế hoạch với bộ phận vật tư còn Công ty Vật
liệu xây dựng và Xây lắp lại bố trí tách ra.
Tuy có sự khác nhau như đã nêu ở trên nhưng nhìn chung mô hình tổ chức bộ máy
quản lý trong DNNN có thể khái quát qua sơ đồ 2.1.
: Quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức bộ máy quản lý trong DNNN
Trong mô hình này, các bộ phận có chức năng cụ thể là:
- Ban lãnh đạo: Chịu trách nhiệm chung về toàn bộ hoạt động của DNNN, đưa ra các
chiến lược SXKD cụ thể trong từng giai đoạn, điều hành, kiểm tra việc thực hiện các chiến
lược đó.
Ban lãnh đạo DN
Bộ phận tổ chức
hành chính, lao
động, tiền lương
Bộ phận kế
hoạch,
kinh doanh
Bộ phận vật tư
Bộ phận
kế toán, tài vụ,
thống kê
Bộ phận
kỹ thuật, chất
lượng
Bộ phận
chức năng
khác...
Các bộ phận khác: sản
xuất,
bán hàng, dịch vụ...
- Bộ phận tổ chức, hành chính, lao động tiền lương: Chịu trách nhiệm quản lý
nhân sự của đơn vị, thực hiện việc bố trí và sắp xếp cán bộ, đào tạo và phân công lao động
cho phù hợp với công việc, thanh toán chế độ cho người lao động theo chính sách của Nhà
nước và quy chế của đơn vị, theo dõi các hợp đồng lao động, lập kế hoạch về lao động của
đơn vị...
- Bộ phận kế hoạch, kinh doanh: Chịu trách nhiệm lập các kế hoạch KD của đơn vị
trong từng giai đoạn (tháng, quý, năm), xây dựng các kế hoạch chi phí sản xuất, giá thành
sản phẩm, kế hoạch tiêu thụ, tìm kiếm thị trường, ký kết các hợp động kinh tế giữa DNNN
với các chủ thể khác...
- Bộ phận vật tư: Lập và thực hiện kế hoạch cung ứng vật tư, hàng hóa theo từng
giai đoạn, căn cứ vào tình hình tồn kho thực tế, định mức tiêu hao vật tư để lập kế hoạch
thu mua, theo dõi, quản lý việc cung ứng, sử dụng vật tư trong đơn vị.
- Bộ phận kỹ thuật: Phụ trách việc thiết kế, chế tạo, cải tiến sản phẩm, nhận
chuyển giao công nghệ, cung cấp các định mức kinh tế kỹ thuật, kiểm tra đôn đốc quá
trình SX, kiểm tra chất lượng của các SP.
- Bộ phận chức năng khác: Tùy thuộc vào quy mô hoạt động của DNNN mà có thể
tổ chức thêm các bộ phận chức năng khác như bộ phận tiếp thị, bộ phận xuất nhập khẩu...
- Các tổ, đội, phân xưởng, cửa hàng...: Thực hiện các hoạt động SX, bán hàng...
- Bộ phận tài chính kế toán: Đặc điểm của việc tổ chức bộ máy kế toán trong các
DNNN là bộ máy kế toán kiêm luôn công việc tài vụ và thống kê. Chức năng của bộ phận
này ngoài việc ghi chép, phản ánh toàn bộ các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị, chấp
hành các chế độ hạch toán của Nhà nước, lập báo cáo kế toán theo quy định để cung cấp
các thông tin phục vụ cho việc quản lý các hoạt động của đơn vị còn thực hiện luôn công
việc xây dựng kế hoạch nguồn vốn để đảm bảo nhu cầu về vốn KD của đơn vị.
Tùy thuộc chính sách chế độ về quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước, phụ thuộc
vào đặc điểm, quy mô, tính chất hoạt động, yêu cầu quản lý của DN, trình độ đội ngũ nhân
viên kế toán, trình độ trang thiết bị kỹ thuật cho kế toán mà bộ máy kế toán của DN được
tổ chức theo mô hình tập trung, phân tán, hoặc vừa tập trung vừa phân tán. Qua tham khảo
mô hình tổ chức bộ máy kế toán ở một số DNNN (Phụ lục 4, 5), chúng tôi thấy mô hình tổ
chức bộ máy kế toán tập trung chiếm phần lớn.
: Quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo
Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập trung
Trong mô hình này, mỗi bộ phận kế toán phụ trách một công việc kế toán (phần hành
kế toán) riêng. Tùy thuộc vào quy mô của DN, đội ngũ nhân viên kế toán mà có thể ghép một
số phần hành kế toán vào cùng một bộ phận kế toán.
2.3. Thực trạng tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Trước khi ban hành và đưa vào áp dụng Luật Kế toán, thuật ngữ KTQT mới chỉ
xuất hiện trong các tài liệu nghiên cứu cho nên công tác KTQT các yếu tố đầu vào mới chỉ
thể hiện trong các tài liệu nghiên cứu còn trên thực tế công tác kế toán các yếu tố đầu vào
được thực hiện theo đúng chế độ kế toán mà Bộ Tài chính quy định. Mặc dù vậy, nội dung
Kế toán trưởng
Bộ phận tài
chính
kế toán vốn bằng
tiền, vay và
Bộ phận kế toán
TSCĐ, hàng tồn
kho
Bộ phận
kế toán tiền
lương
Bộ phận kế toán
tập hợp chi phí
và tính giá
thành sản phẩm
Bộ phận kế toán
tiêu thụ và xác
định
kết quả kinh
Bộ phận kế toán
tổng hợp và kiểm
tra
Các nhân viên hạch toán
ở các đơn vị phụ thuộc
công việc KTQT các yếu tố đầu vào (đã đề cập ở chương 1- phần 1.3.4) vẫn được các
DNNN tiến hành và được biểu hiện cụ thể như sau.
* Đối với việc "Thiết lập hệ thống chỉ tiêu quản trị các yếu tố đầu vào" và "Lập dự
toán các yếu tố đầu vào". Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, công tác kế
hoạch được các DN rất chú trọng nên công việc này thường do các bộ phận chức năng
thực hiện như bộ phận kế hoạch, bộ phận vật tư, bộ phận tổ chức thực hiện. Hiện nay, qua
khảo sát thực tế ở các DNNN trên, chúng tôi thấy rất ít DN tiến hành công tác này (chỉ có
Công ty May 20 là thực hiện việc lập kế hoạch SX đối với các mặt hàng là quân, tư trang
phục vụ cho bộ đội theo kế hoạch của Tổng cục Hậu cần). Đây là một hạn chế lớn trong
công tác quản trị DN. Vẫn biết rằng KD, đặc biệt là KD trong cơ chế thị trường thì thước
đo đánh giá hiệu quả của quản trị DN là hiệu quả KD và có nhiều DN vẫn có lợi nhuận dù
không tiến hành lập kế hoạch. Nhưng theo chúng tôi, việc lập kế hoạch vẫn rất cần thiết vì
không lập kế hoạch thì DN không có cơ sở để đánh giá kết quả công việc cũng như mục
tiêu phấn đấu. Mặt khác, đối với các DNNN thì kế hoạch KD không chỉ phục vụ cho quản
trị DN mà còn phục vụ cho quản lý kinh tế vĩ mô.
* Đối với việc "Tổ chức thu nhận và kiểm tra thông tin về các yếu tố đầu vào theo
các chỉ tiêu đã xây dựng", "Tổ chức hệ thống hóa và xử lý thông tin về các yếu tố đầu vào"
và "Tổ chức cung cấp thông tin về các yếu tố đầu vào" phục vụ cho việc ra quyết định.
Công việc này do bộ phận kế toán đảm nhận được biểu hiện cụ thể là:
Bộ phận kế toán tổ chức, hướng dẫn thực hiện hạch toán ban đầu ở từng bộ phận,
thu nhận, kiểm tra thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn
thành về các yếu tố đầu vào ở từng bộ phận trong DN bằng các chứng từ kế toán. Sau khi
thu nhận các chứng từ ban đầu, kế toán tiến hành tổng hợp, hệ thống hóa thông tin trên các
sổ kế toán theo các chỉ tiêu kinh tế tài chính, lập các báo cáo kế toán phục vụ cho việc lãnh
đạo, điều hành hoạt động về các yếu tố đầu vào bằng các phương pháp của mình.
Sau đây luận văn trình bày thực tế công tác kế toán các yếu tố đầu vào tại một số
DNNN trong lĩnh vực SX trên địa bàn Hà Nội.
2.3.1. Kế toán nguyên liệu vật liệu
* Chứng từ kế toán sử dụng
Các DN đã thực hiện việc ghi chép ban đầu và lập các chứng từ kế toán theo chế
độ chứng từ kế toán hiện hành.
* Kế toán tổng hợp nguyên liệu vật liệu
Theo chế độ kế toán hiện hành, kế toán hàng tồn kho được tiến hành theo hai
phương pháp là: phương pháp kê khai thường xuyên và phương pháp kiểm kê định kỳ.
Phần lớn các DNNN thực hiện phương pháp kê khai thường xuyên đối với kế toán NLVL.
* Kế toán chi tiết nguyên liệu vật liệu
- Lập danh điểm NLVL
Lập danh điểm NLVL là qui định cho mỗi thứ NLVL một ký hiệu riêng bằng hệ
thống các chữ số (kết hợp với các chữ cái) để thay thế tên gọi, qui cách, kích cỡ của chúng.
Qua khảo sát thực tế tại các DNNN trên chúng tôi thấy: Có DNNN sử dụng chữ số để lập
danh điểm NLVL như Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung ương (xem Bảng kê nhập - xuất -
tồn kho của công ty - trang 44), có DN sử dụng cả ký hiệu bằng số và bằng chữ như Công
ty May 20 (xem Bảng kê nhập - xuất - tồn kho của công ty - trang 48).
Việc lập danh điểm như vậy đã giúp kế toán cung cấp các thông tin phục vụ cho
việc quản lý NLVL một cách chi tiết, tỉ mỉ, chặt chẽ theo từng loại, từng thứ NLVL đồng
thời giúp cho việc ghi chép, tổng hợp số liệu trên các sổ kế toán chi tiết được thuận tiện
(đặc biệt trong điều kiện ứng dụng tin học vào công tác kế toán). Tuy nhiên cũng có DN
không thực hiện công việc này như Công ty vật liệu xây dựng và xây lắp.
- Phương pháp kế toán chi tiết nguyên liệu vật liệu
Có ba phương pháp kế toán chi tiết NLVL: phương pháp ghi thẻ song song,
phương pháp đối chiếu luân chuyển và phương pháp sổ số dư. Qua kết quả khảo sát thực tế
(bảng 2.1), chúng tôi thấy phần lớn các DN áp dụng phương pháp ghi thẻ song song.
Bảng 2.1: Khảo sát thực tế phương pháp kế toán chi tiết nguyên liệu vật liệu tại một
số doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội
T
T
Tên doanh nghiệp
Phương
pháp ghi thẻ
song song
Phương
pháp đối
chiếu
luân chuyển
Phương
pháp sổ số
dư
KT
máy
KT
thủ
công
KT
máy
KT
thủ
công
KT
máy
KT
thủ
công
1 Công ty Thăng Long - Bộ Quốc
phòng
x
2 Công ty xây dựng số 2- Tổng CT
xây dựng Hà Nội
x
3 Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung
ương
x
4 Công ty Hóa chất sơn Hà Nội x
5 Xí nghiệp Sản xuất dụng cụ
TDTT Hà Nội
x
6 Công ty Vật tư nông sản Hà Nội x
7 Công ty Cơ khí Hà Nội x
8 Công ty Tây Hồ - Bộ Quốc phòng x
9 Công ty Xe đạp, xe máy Đống Đa x
10 Công ty Hóa phẩm dầu khí x
11 Công ty Vật liệu xây dựng và Xây
lắp
x
12 Công ty Cơ điện Trần Phú x
13 Công ty Rượu nước giải khát Thăng
Long
x
14 Công ty X 20 Bộ Quốc phòng x
Trình tự ghi sổ theo phương pháp này được khái quát theo sơ đồ 2.3.
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu hàng ngày,
hoặc định kỳ
Đối chiếu cuối tháng
Sơ đồ 2.3: Kế toán chi tiết NLVL theo phương pháp ghi thẻ song song
Tại Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung ương
Thẻ kho
Phiếu nhập kho Phiếu xuất kho
Sổ kế toán chi tiết
Bảng kê Nhập - Xuất -
Tồn
Sổ kế toán tổng hợp
Kế toán chi tiết NLVL đã được thực hiện theo đúng sơ đồ trên. Hàng ngày khi
phát sinh các nghiệp vụ nhập, xuất kho NLVL, căn cứ vào phiếu nhập, xuất kho, kế toán
tiến hành nhập vào chương trình kế toán trên máy vi tính.
DN: Công ty Thức ăn chăn
nuôi TW
Mẫu số 02- VT
Ban hành theo QĐ
1864/1998/QĐ-BTC
Ngày 16/12/1998 của Bộ Tài
chính
Phiếu nhập kho
Số: N10
Nợ: TK152.1
Nợ: TK 133.1
Có: TK
331
- Họ tên người giao hàng: Công ty TNHH thương mại Màu
Xanh.
- Theo HĐ Số ngày 1 tháng 3 năm 2004 của Công ty TNHH TM
Màu Xanh
- Nhập tại kho: Chị Hải
STT
Tên nhãn hiệu,
quy cách phẩm
chất vật tư
Mã
số
Đơn
vị
tính
Số lượng
Đơn
giá
Thành
tiền
Theo
chứng
từ
Thực
nhập
A B C D 1 2 3 4
01
Bột cá Minh
Hải
0503 kg 20.000 7.500
150.000.0
00
150.000.0
Các thông tin từ Phiếu nhập kho số 10 ngày 3/3/2004 và Phiếu xuất kho số
XNLT03 ngày 5/3/2004 được chương trình máy tính tự động xử lý, tính toán và đưa ra kết
quả như sau: Sổ chi tiết tài khoản 152.1 của vật liệu Bột cá Minh hải (trang 43) và Bảng kê
Nhập - Xuất - Tồn kho tài khoản 152.1 của các loại nguyên vật liệu chính trong tháng
3/2004 (trang 44).
Đến cuối tháng hoặc định kỳ thủ kho và kế toán tiến hành đối chiếu giữa thẻ kho
(trang 45) với sổ kế toán chi tiết với của từng thứ NLVL nhằm quản lý chặt chẽ cả về mặt
hiện vật và giá trị.
Tại Công ty May 20
Kế toán NLVL cũng thực hiện tương tự:
Căn cứ vào các phiếu xuất kho số 6 ngày 7/1/2004 (trang 45), phiếu nhập kho số
17 ngày 30/1/2004 (trang 46) kế toán tiến hành nhập vào chương trình máy tính.
DN: Công ty thức ăn chăn
nuôi TW
Mẫu số 02- VT
Ban hành theo QĐ 1864/1998/QĐ-
BTC
Ngày 16/12/1998 của Bộ Tài
chính
Phiếu xuất kho
Số: XNLT03
Nợ: TK621
Có:
TK152.1
- Họ tên người nhận hàng: Nguyễn Đức Thịnh
- Địa chỉ: Phân xưởng SX
- Lý do xuất kho: Xuất kho nguyên liệu cho sản xuất tháng
3/2004
- Xuất tại kho: Chị Hải
STT
Tên nhãn hiệu,
quy cách phẩm
chất vật tư
Mã số
Đơn
vị
tính
Số lượng
Đơn
giá
Thành
tiền
Yêu
cầu
Thực
xuất
A B C D 1 2 3 4
01
Bột cá Minh
Hải
0503 kg 31.720
7.548
,79
238.607.
356
02
Khô lạc chiết
ly
0411 kg 91.531 4.000
366.124.
000
Đơn vị: Công ty thức ăn
chăn nuôi TW
Tên kho: Chị Hải
Mẫu số 06- VT
Ban hành theo QĐ 1864/1998/QĐ-
BTC
Ngày 16/12/1998 của Bộ Tài chính
Thẻ kho (trích)
Ngày lập thẻ: 01/01/2003; Tờ số: 20
- Tên, nhãn hiệu, quy cách vật tư: Bột cá Minh Hải
- Đơn vị tính: Kg
- Mã số: 0503
ST
T
Chứng từ
Diễn
giải
Ngày
nhập,
xuất
Số lượng Ký xác
nhận của
kế toán
Số
hiệu
Ngày
tháng
Nhập Xuất Tồn
A B C D E 1 2 3 4
Tồn
1/1
...
Tồn
28/2
25.20
0
N10 3/3 Nhập 3/3/04 20.00
0
45.20
0
XNLT03 5/3 Xuất 31.72 13.48
Tổng cục hậu cần
Công ty 20
Phiếu Nhập kho
Ngày 30 tháng 1 năm
2004
Số chứng từ:
17/1
Liên: 1
- Người giao dịch: KD 0026
- Đơn vị: Công ty 28
- Địa chỉ: Gò vấp - TPHCM
- Diễn giải: Nhập mua vải
- Nhập tại kho: Kho vật tư
- Dạng nhập: Phải trả cho người bán - 331
Tên vật tư
TK Vật
tư
Mã vật
tư
ĐVT
Số
lượng
Đơn
giá
Thành tiền
Gabađin len
Công ty 20
Phiếu xuất kho
Số: 6/1
Ngày: 07/01/2004
- Họ tên người nhận hàng:........................................................................................
- Đơn vị : NXNM21 - Xí nghiệp may 2
- Địa chỉ : Xí nghiệp may 2
- Tên kho : Kho vật tư
TT Tên vật tư
Mã
vật tư
ĐVT
TK
Nợ
TK
Có
Số
lượng
Đơn giá Thành tiền
1
Gabađin len rêu
nội - khổ 1,5
VL
C001
Mét 1521
6211.
2
3.225.00
80.046.1
3
258.148.76
9
2
Katê mộc - khổ
1,20
VL
C080
Mét 1521
6211.
2
718.00 8.678.80 6.231.378
3
Ka tê kẻ - khổ
1,1
VL
C090
Mét 1521
6211.
2
196.30
11.559.0
5
2.269.042
4
Pôpôlin rêu lót
- khổ 1,13
VL
C049
Mét 1521
6211.
2
78.50
19.532.4
9
1.533.298
5
Mếc 1020-
khổ1,12
VLC061 Mét 152.1
6211.
2
96,4
17.867,2
1
1.722.399
... ... ... ... ... ... ... ... ...
Tổng cộng
275.211.20
5
Nhập, ngày 7 tháng 1 năm 2004
Thủ trưởng đơn vị Kế toán trưởng Người nhận Thủ kho
Chương trình máy tính cung cấp Sổ chi tiết VLC 001 - Gabađin len rêu nội - khổ
1,5, Tk: 152.1 (trang 47) và Bảng kê Nhập - Xuất - Tồn kho tài khoản 152 của các loại
nguyên vật liệu chính trong tháng 1/2004 (trang 48).
Tại Công ty Vật liệu xây dựng và Xây lắp
Do đặc điểm SX là các công trình xây dựng ở xa công ty nên các chứng từ về
nhập, xuất NLVL do các đội xây dựng gửi lên theo từng công trình mà họ đang thi công.
Kế toán chủ yếu thu nhận các chứng từ này để tổng hợp chi phí và tính giá thành cho từng
công trình. Ban Vật tư của Công ty có chức năng KD vật tư theo cơ chế khoán (số tiền
phải nộp về công ty tính bằng 1% doanh thu) và hàng tháng Ban Vật tư gửi các chứng từ
nhập xuất kho về để Công ty kiểm tra, đối chiếu mà thôi, công việc hạch toán chi tiết cụ
thể do cán bộ của Ban Vật tư thực hiện, cuối kỳ gửi báo cáo để kế toán kiểm tra. Do đó kế
toán Công ty không lập các sổ chi tiết NLVL.
Trên thực tế qua việc khảo sát công tác kế toán NLVL ở các công ty trên chúng tôi
nhận thấy:
* Về ưu điểm
- Về công tác hạch toán ban đầu
Phần lớn các DNNN đã thực hiện đúng chế độ hạch toán ban đầu, sử dụng và ghi
chép chứng từ về NLVL theo đúng quy định của Nhà nước làm cơ sở để kế toán cung cấp
đầy đủ, chính xác thông tin (tổng hợp và chi tiết) về tình hình NLVL phục vụ cho quản lý
của DN. Các DN áp dụng kế toán máy đã thực hiện việc lập danh điểm NLV theo yêu cầu
quản lý cụ thể của DN mình.
- Về công tác kế toán tổng hợp
Các DNNN đã thực hiện đúng chế độ kế toán hiện hành.
- Về công tác kế toán chi tiết
Kế toán chi tiết NLVL ở các DN trên đã cung cấp thông tin một cách thường,
xuyên liên tục về từng thứ NLVL giúp cho nhà quản trị nhận biết một cách chặt chẽ tình
hình dự trữ, bảo quản, sử dụng của từng thứ NLVL; quản lý cả về mặt số lượng và giá trị.
Kế toán chi tiết NLVL đã cung cấp các thông tin giúp cho nhà quản trị có thể kiểm tra tình
hình chấp hành các định mức dự trữ, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch cung ứng
NLVL; phân tích tình hình thực hiện kế hoạch cung ứng NLVL... để từ đó có các quyết
định quản lý đúng đắn. Công việc kế toán chi tiết NLVL ở các DN này được sự hỗ trợ rất
đắc lực của máy tính.
Tuy nhiên, có một thực tế là đối với các DN tiến hành kế toán thủ công khi thực
hiện kế toán chi tiết NLVL theo phương pháp ghi thẻ song song, kế toán không tính được
số lượng và giá trị tồn cuối ngày của từng loại NLVL. Do đó, thông tin của kế toán chưa
được thường xuyên, liên tục, chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý. Nguyên nhân của
tình trạng này là do phần lớn các DN thực hiện kế toán thủ công đều áp dụng phương pháp
tính giá bình quân gia quyền cả kỳ cho nên không ghi được chỉ tiêu giá trị hàng ngày, còn
nếu áp dụng các phương pháp tính giá xuất kho hàng ngày thì khối lượng tính toán và ghi
chép quá lớn.
* Về hạn chế
- Mặc dù hệ thống danh điểm NLVL đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu quản lý
và ghi chép chi tiết nhưng vẫn chưa dựa vào các phương pháp quản trị hàng tồn kho hiện
đại (ví dụ phương pháp ABC) để quản lý có hiệu quả hơn.
- Trên thực tế các DNNN trên đều chưa chú trọng đến công tác lập kế hoạch cũng
như công tác phân tích hoạt động KD nên tác dụng của số liệu kế toán cung cấp về NLVL
còn hạn chế.
- Để tiến hành SX liên tục, các DN đã dự trữ NLVL đầy đủ cho nhu cầu SX. Tuy
nhiên gắn liền với NLVL dự trữ là hàng loạt các chi phí như:
+ Chi phí đặt hàng: Là toàn bộ các chi phí có liên quan đến việc thiết lập các đơn
hàng như: chi phí tìm nguồn hàng, thực hiện quy trình đặt hàng (giao dịch, ký kết hợp
đồng, thông báo qua lại).
Theo chế độ tác kế toán hiện hành một phần các chi phí này trong các DN kinh
doanh thương mại được phản ánh ở tài khoản cấp II TK156.2 - Chi phí thu mua hàng hóa,
còn đối với các DNSX thì được tính vào chi phí quản lý quản lý doanh nghiệp.
+ Chi phí lưu kho: Là những chi phí phát sinh trong thực hiện hoạt động dự trữ.
Những chi phí này có thể được thống kê theo bảng dưới đây:
Bảng 2.2: Chi phí lưu kho nguyên liệu vật liệu
Nhóm chi phí
Tỷ lệ so với giá trị
NLVL dự trữ
1. Chi phí về nhà cửa và kho tàng:
- Tiền thuê hoặc khấu hao nhà cửa
- Chi phí bảo hiểm nhà kho, kho hàng
- Chi phí thuê nhà đất
Chiếm 3- 10%
2. Chi phí sử dụng thiết bị, phương tiện:
- Tiền thuê hoặc khấu hao dụng cụ, thiết bị
- Chi phí năng lượng
- Chi phí vận hành thiết bị
Chiếm 1- 4%
3. Chi phí về nhân lực cho hoạt động quản lý dự trữ Chiếm từ 3- 5%
4. Phí tổn cho việc đầu tư vào hàng dự trữ:
- Thuế đánh vào hàng dự trữ
- Chi phí vay vốn
- Chi phí bảo hiểm hàng dự trữ
Chiếm 6- 24%
5. Thiệt hại hàng dự trữ do mất mát, hư hỏng hoặc
không sử dụng được
Chiếm từ 2- 5%
Nguồn: [19, tr. 296]
Đối với chi phí lưu kho thì theo chế độ kế toán hiện hành không quy định hạch
toán riêng mà thường được tính chung vào chi phí quản lý DN, chi phí hoạt động tài chính.
Các DN nói chung và DNNN riêng cũng không tiến hành hạch toán riêng chúng. Từ thực
tế đó khiến cho kế toán trong các DNNN chưa cung cấp được thông tin phục vụ cho việc
quản trị hàng tồn kho theo các mô hình quản trị tồn kho hiện đại (ví dụ như mô hình
EOQ). Các DN thường hài lòng khi thấy rằng lượng hàng tồn kho đã đủ đáp ứng cho nhu cầu
SXKD của mình mà chưa thấy được các chi phí cho số hàng tồn kho này cụ thể là bao nhiêu
để có các biện pháp hạ thấp chúng, góp phần tăng hiệu quả SXKD của DN.
2.3.2. Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Tại Công ty Vật liệu xây dựng và Xây lắp
Căn cứ vào bảng chấm công của khối văn phòng (trang 53), hệ số lương (theo quy
định của Nhà nước), Bảng tổng hợp hệ số lương do sự bình bầu của từng bộ phận sử dụng
lao động gửi lên hàng tháng đã được giám đốc duyệt , hệ số lương trách nhiệm (do Tổng
Công ty quy định) để tính số lương phải trả cho từng cán bộ ở bộ phận quản lý công ty qua
Bảng thanh toán tiền lương (trang 54). Việc tính lương như vậy đã căn cứ vào mức độ làm
việc của từng cán bộ (qua việc bình bầu hệ số lương trong từng tháng), khuyến khích được
tinh thần làm việc của cán bộ.
Bảng 2.: Bảng tổng hợp hệ số lương
Công ty vật liệu XD và
xây lắp
Bảng tổng hợp hệ số lương
Tháng 6/2004
ST
T
Họ và tên Chức danh
Hệ số
lương do
bộ phận
đề nghị
Ban
giám
đốc
duyệt
1
Nguyễn Phi
Hùng
Giám đốc 1,5 1,3
...
5 Nguyễn Hải Hà Kế toán trưởng 1,5 1,5
6 Hoàng Thị Kiều
Kế toán ngân hàng
và tiền mặt
1,5 1,5
6
Doãn Trung
Tuyến
Nhân viên phòng kế
hoạch
- -
7
Nguyễn Thị
Nguyệt
Kế toán tổng hợp 1,5 1,5
Đối với những cán bộ kỹ thuật, đội trưởng đang công tác tại các công trình, các chi
nhánh và tại Ban Vật tư thì tiền lương của họ được tính vào chi phí tại từng nơi làm việc
và bộ phận đó trả lương sau đó định kỳ gửi báo cáo về cho kế toán để tổng hợp chi phí cho
mỗi bộ phận.
Tại Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung ương
Đối với người lao động ở bộ phận SX trực tiếp, căn cứ vào khối lượng công việc
hoàn thành trong tháng của từng bộ phận (dựa trên cơ sở các bảng kê kết quả công việc
hoàn thành của từng bộ phận); căn cứ vào đơn giá của từng loại công, kế toán tính tổng số
tiền lương phải trả cho bộ phận đó. Các bộ phận tiến hành hạch toán lao động qua bảng
chấm công. Căn cứ vào trình độ tay nghề, kinh nghiệm lao động... của mỗi công nhân để
bình bầu hệ số số công quy đổi. Trên cơ sở bảng chấm công và hệ số công quy đổi từ các
bộ phận gửi lên và tổng số lương phải trả, kế toán tính số lương phải trả cho từng người
lao động trên Bảng thanh toán tiền lương (trang 56).
Việc tính lương cho người lao động như trên đã căn cứ vào mức độ làm việc cũng
như kết quả do lao động của họ mang lại vì vậy đã nâng cao tinh thần hăng say lao động,
phát huy sáng kiến để tăng năng suất lao động. Tuy nhiên cũng cần phải kiểm tra, giám sát
chặt chẽ chất lượng công việc hoàn thành, tránh tình trạng chạy theo số lượng mà không
quan tâm làm ảnh hưởng đến chất lượng của công việc.
Tại Công ty May 20, việc tính lương cũng được tiến hành theo khối lượng sản
phẩm hoàn thành của từng người lao động. Căn cứ vào Bảng chấm công, Bảng kê khối
lượng công việc hoàn thành của từng công nhân do các bộ phận gửi lên, kế toán tính toán
số lương phải trả cho từng người lao động ở mỗi bộ phận.
Việc tính lương ở Công ty May 20 như vậy cũng gần giống với Công ty thức ăn
chăn nuôi trung ương và đã có tác dụng khuyến khích tinh thần làm việc của người lao
động.
Qua tình hình thực tế kế toán tiền lương ở một số DNNN, có thể đưa ra một số
đánh giá sau:
* Về ưu điểm
- Các DNNN đã thực hiện đúng chế độ hạch toán ban đầu. Tổ chức hạch toán và
thu thập đầy đủ, đúng đắn các chỉ tiêu ban đầu theo yêu cầu quản lý về lao động theo từng
người lao động, từng đơn vị lao động. Tính đúng, tính đủ, kịp thời tiền lương và các khoản
có liên quan cho từng người lao động, từng bộ phận, từng hợp đồng giao khoán, theo đúng
chế độ của nhà nước cũng như các qui định về tiền lương và các khoản phụ cấp của DN.
Việc tính lương đã căn cứ vào kết quả công việc đã thực hiện nguyên tắc phân phối "làm
theo năng lực, hưởng theo lao động".
- Kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết tiền lương đã thực hiện đúng theo chế độ kế
toán hiện hành, cung cấp được các thông tin phục vụ cho quản trị nhân lực cả về mặt số
lượng: số người lao động, thời gian cũng như chất lượng lao động; hiệu quả công việc của
từng người lao động, từng bộ phận... Qua các thông tin kế toán cung cấp giúp cho việc
quản lý lao động vừa đảm bảo chấp hành kỷ luật lao động vừa nâng cao ý thức, trách
nhiệm của người lao động, khuyến khích thi đua trong lao động.
* Về hạn chế
Các DNNN nhà nước chưa cung cấp các thông tin có hệ thống về hạch toán nhân
công thuê ngoài: ở Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung ương có lao động thuê ngoài theo
mùa vụ nhưng ở các bộ phận trực tiếp SX quản lý và trả tiền công, DN chỉ trả theo số
lượng công việc hoàn thành; ở Công ty Vật liệu xây dựng và Xây lắp thì tiền công cho các
lao động ở công trình do người phụ trách công trình đó trả sau đó báo cáo lại cho kế toán
khi quyết toán công trình). Do đó chưa giúp cho bộ phận quản lý lao động, tiền lương có
được các thông tin để lựa chọn phương án quản lý lao động đạt hiệu quả cao nhất như:
phương án thuê ngoài gia công; phương án thay đổi cường độ làm việc của người lao
động; phương án cân bằng tối ưu... [21, tr. 187-201]. Mặt khác, việc quản lý như vậy đôi
khi chưa quan tâm thích đáng đến quyền lợi của người lao động thuê ngoài.
2.3.3. Kế toán tài sản cố định
Tại Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung ương
Căn cứ vào "Biên bản giao nhận tài sản cố định" (trang 59) được gửi đến, kế toán
tiến hành lập "Thẻ tài sản cố định " (trang 60). Sau đó tiến nhập thẻ TSCĐ vào máy tính.
Qua chương trình máy tính kế toán có được "Báo cáo tình hình tài sản cố định" hiện có
của Công ty theo từng loại TSCĐ hoặc theo theo từng bộ phận quản lý, sử dụng TSCĐ đó
(trang 61).
Tại Công Vật liệu xây dựng và Xây lắp
Cũng căn cứ vào các chứng từ liên quan đến việc tăng, giảm TSCĐ của đơn vị
như Biên bản thanh lý TSĐ (trang 62) để kế toán lập các "Thẻ tài sản cố định". Do đặc
điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của Công ty nên kế toán chỉ lập thẻ đối với những
TSCĐ do Công ty quản lý (cụ thể là khối văn phòng), còn đối với những TSCĐ do các
Đội SX sử dụng thì căn cứ vào báo cáo chi phí của đội để trích khấu hao của chúng vào
chi phí của đội đó. ở khối văn phòng không lập "Sổ TSCĐ theo bộ phận sử dụng" cho
từng bộ phận sử dụng.
Tại Công ty May 20
Kế toán chi tiết TSCĐ tăng, giảm trong kỳ cũng được căn cứ vào biên tiến hành
tương tự như ở Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung ương, vào cuối kỳ kế toán, kế toán lập
các báo cáo: Báo cáo tăng tài sản cố định (trang 63), Báo cáo giảm tài sản cố định (trang
64) theo nguyên giá; Báo cáo tình hình tăng, giảm tài sản cố định theo từng loại TSCĐ
(trang 65) và Báo cáo tăng, giảm TSCĐ và vốn kinh doanh theo từng nguồn hình thành
vốn (trang 66).
Đơn vị:
Công ty
thức ăn
chăn nuôi
TW
Thẻ tài sản cố định
Số:20
Ngày 29 tháng 12 năm
2002 lập thẻ
Mẫu số 02-TSCĐ -
TSCĐ
Ban hành theo QĐ
số 1864/1998/QĐ-
BTC
Căn cứ vào biên bản giao nhận íTCĐ số 5 ngày 20 tháng
12 năm 2002
Tên, ký hiệu, quy cách, (cấp hạng)TSCĐ: Kho nguyên
liệu và thành phẩm
Mã TSCĐ: 06
Nước sản xuất (xây dựng): Việt Nam; Năm sản xuất: 2001
Bộ phận quản lý sử dụng: Cơ quan Công ty
Năm đưa vào sử dụng: 2003; Công suất (diện tích) thiết
kế....
Đơn vị: Công ty VLXD và
XL
Địa chỉ: 17 I Phương
mai
Mẫu số 03-TSCĐ (bắt
buộc)
Biên bản thanh lý tài sản cố định
Căn cứ quyết định số:.... ngày....tháng....năm....
của............................ về việc thanh lý TSCĐ.
I. Ban thanh lý TSCĐ gồm:
-Ông (bà): Nguyễn Phi Hùng- Giám đốc - Trưởng ban
-Ông (bà): Phạm Anh Phương- Phó giám đốc - ủy viên
-Ông (bà): Nguyễn Hải Hà - Kế toán trưởng- ủy viên
II. Tiến hành thanh lý TSCĐ
- Tên, ký,mã hiệu, quy cách (cấp hạng)TSCĐ... số hiệu
TSCĐ...
Qua tình hình thực tế kế toán TSCĐ ở một số DNNN, có thể đưa ra một số đánh
giá sau:
* Về ưu điểm
Có DN (Công ty Thức ăn chăn nuôi Trung ương) đã tiến hành tổ chức ghi chép,
phản ánh, tổng hợp số liệu một cách chính xác, đầy đủ kịp thời về số lượng, hiện trạng và
giá trị TSCĐ hiện có, bảo quản và sử dụng TSCĐ. Công ty May 20 đã lập các báo cáo
cung cấp cụ thể về tình hình tăng giảm TSCĐ của đơn vị theo từng loại TSCĐ theo tình
hình sử dụng, theo tính năng kỹ thuật, và từng nguồn hình thành.
Qua các thông tin kế toán TSCĐ cung cấp đã giúp cho nhà quản trị thực hiện việc
quản lý TSCĐ cả về mặt hiện vật cũng như giá trị; tình hình huy động các nguồn vốn để
hình thành nên TSCĐ.
* Về hạn chế
+ ở một vài DN kế toán chưa cung cấp thông tin hữu ích giúp cho việc phân tích,
đánh giá hiệu quả sử dụng của TSCĐ. Cần phải có các thông tin về TSCĐ theo mục đích
sử dụng (dùng vào SX, dùng cho các mục đích khác); theo tình trạng (cần sử dụng, không
cần sử dụng) để việc quản lý TSCĐ có hiệu quả hơn.
+ Tại nơi sử dụng, bảo quản TSCĐ (các phòng ban, đội xây dựng...) kế toán chưa
sử dụng sổ "TSCĐ theo đơn vị sử dụng" để theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ tại bộ phận
đó (Công ty Vật liệu xây dựng và Xây lắp). Do đó, kế toán không theo dõi được sát sao
tình hình tăng giảm TSCĐ nhất là ở các bộ phận ở xa công ty (các đội xây dựng ở Công ty
Vật liệu xây dựng và Xây lắp) nên chưa gắn được trách nhiệm vật chất cũng như trách
nhiệm pháp lý của người sử dụng.
+ Đặc biệt, ở các DNNN trên chưa có các báo cáo giúp cho việc đánh giá, phân
tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng TSCĐ như: công suất sử dụng, thời gian sử
dụng, hiệu suất sử dụng để đưa ra các biện pháp quản lý TSCĐ có hiệu quả hơn và đề ra
các quyết định về đổi mới TSCĐ.
Đánh giá chung về thực trạng tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào
trong các DNNN Việt Nam hiện nay
* Về ưu điểm
Các DNNN đã tiến hành công tác kế toán các yếu tố đầu vào theo đúng chế độ kế
toán hiện hành, việc làm đó có một số ưu điểm sau:
- Giúp cho người quản lý DNNN kiểm tra, kiểm soát được một cách thường
xuyên, liên tục, tình hình hiện có và sự biến động của từng yếu tố đầu vào trong DN để từ
đó có các quyết định quản lý phù hợp.
- Giúp cho các cơ quan quản lý của Nhà nước kiểm tra một cách thống nhất, thuận
tiện đối với việc sử dụng các yếu tố đầu vào của DN.
- Giúp cho việc quản lý về mặt hiện vật đối với các yếu tố đầu vào được tiến hành
một cách chặt chẽ, xác định được trách nhiệm vật chất đối với việc bảo quản, sử dụng các
yếu tố đầu vào ở từng bộ phận, cá nhân trong đơn vị.
* Về hạn chế
Việc kế toán chỉ tuân thủ theo quy định của Nhà nước đối với việc kế toán các yếu
tố đầu vào như hiện nay cũng còn có một số hạn chế như sau:
- Yêu cầu quản lý cụ thể của mỗi đơn vị đối với việc quản lý các yếu tố đầu vào là
khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm KD, quy mô hoạt động của đơn vị, trình độ của đội ngũ
cán bộ quản lý cũng như nhân viên kế toán, trang thiết bị kỹ thuật cho bộ phận kế toán...
Việc thực hiện đúng chế độ kế toán như hiện nay mới chỉ đáp ứng được nhu cầu cung cấp
thông tin cho việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc sử dụng các yếu
tố đầu vào của đơn vị và yêu cầu quản lý tài sản của DN, tức là mới chỉ trả lời được câu
hỏi: Có những yếu tố đầu vào nào? Số lượng (hiện vật và giá trị) của từng yếu tố đầu vào
đó là bao nhiêu? Các yếu tố đó ở đâu? Do bộ phận, cá nhân nào quản lý, sử dụng? Chứ
chưa chú trọng đến việc cung cấp thông tin đáp ứng yêu cầu quản lý cụ thể ở mỗi DN tức
là các thông tin giúp cho nhà quản trị trả lời câu hỏi: Làm sao để sử dụng chúng có hiệu
quả nhất?
- Các thông tin mà kế toán các yếu tố đầu vào cung cấp như hiện nay chỉ mới là
các thông tin quá khứ, tức là các thông tin về các nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát sinh
và thực sự hoàn thành liên quan đến các yếu tố đầu vào của DN. Với các thông tin cung
cấp như vậy việc quản lý các yếu tố đầu vào chưa thể đạt được hiệu quả như mong muốn
vì để quản lý tốt, người quản lý còn phải nhận biết được các thông tin mang tính dự báo để
có các quyết định phù hợp, kịp thời.
- Các thông tin kế toán cung cấp còn chưa đáp ứng được nhu cầu về thông tin để
thực hiện các biện pháp quản trị tác nghiệp hiện đại đối với các yếu tố đầu vào.
Chính những hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng tới việc quản lý có hiệu quả các yếu
tố đầu vào của DNNN và qua đó ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nói chung của các
DNNN.
Nguyên nhân của các hạn chế trên có thể được lý giải như sau:
Về mặt khách quan:
Luật DNNN hiện hành phân biệt rõ nội dung quản lý nhà nước đối với DNNN và
nội dung quản lý nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Với vai trò là chủ sở hữu công ty nhà
nước, Luật DNNN quy định lại các quyền và nghĩa vụ chủ yếu của chủ sở hữu nhà nước:
Nhà nước chỉ quản lý về giá trị, không can thiệp vào công việc điều hành hoạt động SXKD
của công ty. Do đó, trong chế độ kế toán hiện hành, Nhà nước chỉ quy định các DNNN
phải cung cấp các thông tin cụ thể, chi tiết về tài sản của DN.
Về mặt chủ quan:
+ Xuất phát từ nhu cầu thông tin về các yếu tố đầu vào của DNNN.
Về cơ bản nhu cầu thông tin về các yếu tố đầu vào, các cán bộ quản lý DNNN đều
dựa trên các thông tin trong chế độ kế toán của Nhà nước. Họ chưa đưa ra được những yêu
cầu về các thông tin khác để kế toán cung cấp.
Thực tế qua việc khảo sát ở một số DNNN, chúng tôi nhận thấy, các cán bộ quản
lý ít có nhu cầu đòi hỏi kế toán cung cấp các thông tin ngoài các thông tin mà chế độ kế
toán đã quy định; việc lập các kế hoạch mua sắm NLVL, TSCĐ... cũng được một vài DN
tiến hành song vẫn nặng tính hình thức, chưa coi kế hoạch là một chức năng quản trị cần
phải thực hiện. Qua khảo sát thực tế ở ba công ty thuộc lĩnh vực SX nói trên mới chỉ có
Công ty May 20 thực hiện kế hoạch NLVL để đảm bảo cho SX những mặt hàng quân tư
trang phục vụ cho quân đội. Ngoài ra, rất ít DN thực hiện công tác phân tích hoạt động
KD. Nguyên nhân của tình trạng này là do kiến thức về quản trị DN của cán bộ quản lý
còn nhiều bất cập. Chính bởi tình trạng đó mà cán bộ quản lý không đòi hỏi kế toán phải
cung cấp các thông tin phục vụ cho quản trị nội bộ.
+ Xuất phát từ phía đội ngũ nhân viên kế toán của DN.
Có một thực tế là trong các DNNN nói riêng và ở các đơn vị kế toán nói chung,
các nhân viên kế toán mới chỉ chú ý tới việc thực hiện công tác kế toán theo đúng chế độ
hiện hành và cho rằng làm như vậy là đã hoàn thành công việc của mình. Họ hầu như
không chủ động cung cấp các thông tin khác ngoài thông tin mà Nhà nước đã quy trong
chế độ kế toán để phục vụ cho quản lý. Thực trạng này được lý giải bởi nhận thức về
KTQT của đội ngũ nhân viên kế toán còn hạn chế.
Trong chương 2, luận văn đã trình bày thực trạng công tác kế toán các yếu tố đầu
vào trong các DNNN và đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu điểm cũng như hạn chế.
Đây là cơ sở để đề ra các kiến nghị về tổ chức công tác KTQT các yếu tố đầu vào trong các
DNNN ở chương 3 của luận văn.
Chương 3
Một số kiến nghị về tổ chức kế toán quản trị
các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các DN trong cơ chế thị trường, để
đứng vững và phát triển, các DNNN Việt Nam bước đầu đã nhận thấy sự cần thiết phải tổ
chức KTQT để thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho quản trị DN. Qua tìm hiểu tình
hình thực tế ở các DNNN chúng tôi nhận thấy việc tổ chức KTQT trong các DNNN đang
gặp nhiều khó khăn, lúng túng: các DNNN còn nhiều băn khoăn cả về nội dung công việc
KTQT và mô hình tổ chức KTQT. Mặt khác, KTQT mới chỉ xuất hiện trong Luật Kế toán,
chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với việc tổ chức công tác KTQT nói chung cũng
như KTQT các yếu tố đầu vào nói riêng.
Từ những vấn đề nêu trên, việc tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các
DNNN là yêu cầu hết sức cần thiết và cấp bách cả về lý luận và
thực tiễn.
3.1. Các nguyên tắc và Yêu cầu cơ bản đối với việc tổ chức kế toán quản trị các
yếu tố đầu vào trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam
Việc tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN ở Việt Nam cần phải
đảm bảo các nguyên tắc và yêu cầu cơ bản sau.
3.1.1. Các nguyên tắc tổ chức kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhà
nước
Hoàn thiện tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN Việt Nam hiện
nay, cần tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau:
* Nguyên tắc phù hợp, tương xứng
Tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu sử dụng của
nhà quản trị trong từng DN cụ thể. Tùy theo mục tiêu, yêu cầu quản lý mà tổ chức thu
thập, xử lý và cung cấp thông tin tương xứng. Nhà quản trị DN cần thông tin gì? Chi tiết,
cụ thể đến mức độ nào? Cung cấp vào thời gian nào thì cung cấp thông tin đó, không cung
cấp thừa gây nhiễu thông tin hoặc cung cấp thông tin không phù hợp sẽ gây khó khăn cho
việc ra quyết định quản lý của nhà quản trị DN.
* Nguyên tắc kế thừa, chọn lọc và phát huy
Tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào phải biết kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm của
các nước đã thực hiện KTQT (Mỹ, Pháp...). Những kinh nghiệm đó sẽ góp phần giải quyết
những vấn đề còn bỡ ngỡ ban đầu khi tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào. Bên cạnh đó phải
phát huy tính chủ động sáng tạo để tổ chức cho phù hợp với điều kiện cụ thể của DN.
* Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Hoàn thiện tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào phải đảm bảo cung cấp thông tin cần
thiết cho nhà quản trị DN để đưa ra những quyết định kịp thời. Đồng thời phải đảm bảo
nguyên tắc tiết kiệm chi phí. Lợi ích thông tin KTQT các yếu tố đầu vào mang lại phải lớn
hơn chi phí tạo ra chúng.
3.1.2. Các yêu cầu cơ bản tổ chức kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhà
nước
* Tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào phải thỏa mãn yêu cầu quản lý kinh tế - tài
chính của DNNN
KTQT nhằm phục vụ yêu cầu của nhà quản trị DN nên phải dựa theo yêu cầu của
công tác quản lý kinh tế, tài chính trong DN để tổ chức KTQT nhằm đáp ứng yêu cầu
thông tin cụ thể. Nhu cầu thông tin của từng DN là khác nhau, từng cấp quản trị trong mỗi
DN cũng khác nhau nên phải xác định rõ nhu cầu để tổ chức công tác KTQT các yếu tố
đầu vào sao cho thỏa mãn yêu cầu quản trị DN.
* Tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm tổ chức
kinh doanh, quy trình công nghệ... của DNNN
KTQT các yếu tố đầu vào nhằm cung cấp thông tin cho nhà quản trị đưa ra các
quyết định quản lý và điều hành hoạt động KD của DN nên phải tổ chức KTQT các yếu tố
đầu vào phù hợp với đặc điểm tổ chức SX, quy trình công nghệ... của DN để đảm bảo thu
nhận, xử lý và cung cấp thông tin một cách thích hợp, kịp thời, giúp nhà quản trị có được
căn cứ khoa học và thực tiễn cho việc đưa ra quyết định quản lý đối với các yếu tố đầu vào
một cách phù hợp.
* Tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu của
quản lý và trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ kế toán
Việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin KTQT các yếu tố đầu vào do đội ngũ
kế toán và những người được phân công thực hiện nên việc tổ chức phù hợp với trình độ
chuyên môn của họ sẽ giúp họ hiểu và thu thập thông tin một cách chính xác, đáng tin cậy,
nếu chính bản thân họ không hiểu được thì cũng không tạo ra thông tin thích hợp. Mặt
khác, trong quá trình thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin, chính họ phải tham gia phát
hiện những sai lệch, bất thường cần điều chỉnh kịp thời nên càng cần thiết phải tổ chức cho
phù hợp với trình độ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ của họ.
* Tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào phải phù hợp với tình hình trang bị cơ sở
vật chất kỹ thuật cho công tác kế toán của DN
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác kế toán có vai trò rất lớn trong việc
cung cấp các thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm chi phí cho công tác kế
toán. Thông tin của KTQT các yếu tố đầu vào cung cấp thường có được nhờ vào việc tính
toán, tổng hợp rất nhiều số liệu cho nên phải chú ý tới tình hình trang thiết bị phục vụ cho
công tác kế toán.
3.2. Nội dung tổ chức Kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các Doanh
nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện nay
Điều 10, khoản 3 Luật Kế toán quy định: "Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng kế
toán quản trị phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động" [3, tr. 9], nhưng đến hiện nay vẫn chưa
có văn bản hướng dẫn cụ thể nào về tổ chức áp dụng KTQT nói chung, KTQT các yếu tố
đầu vào trong các DNNN nói riêng. Trong phần này luận văn trình bày một số ý kiến về
việc tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN trong điều kiện hiện nay trên cơ
sở thực trạng đã trình bày ở chương 2.
3.2.1. Tổ chức bộ máy kế toán trong doanh nghiệp nhà nước để thực hiện
công tác kế toán quản trị các yếu tố đầu vào
Như đã trình bày ở chương 2 của luận văn, các DNNN hiện nay đã tổ chức bộ máy
kế toán theo quy định của Nhà nước có tính đến đặc điểm của từng DN. Tuy nhiên, việc tổ
chức bộ máy kế toán mới chỉ chú ý tập trung vào công tác thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin theo nội dung kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, chỉ có một số biểu hiện chưa
mang tính hệ thống về KTQT các yếu tố đầu vào, chưa phân định nhiệm vụ, chức năng cho
các nhân viên kế toán trong việc thực hiện KTTC và KTQT các yếu tố đầu vào. Do vậy, để
thực hiện tốt KTQT, trước hết phải tổ chức bộ máy kế toán trong DNNN, đảm bảo thực
hiện KTQT.
ở chương 1, luận án đã phân tích và đưa ra kết luận rằng mô hình tổ chức KTQT
phù hợp với các DNNN ở Việt Nam hiện nay là mô hình kết hợp KTTC và KTQT trong
một tổ chức, một bộ máy kế toán. Trong phần này, luận văn trình bày cụ thể về tổ chức bộ
máy kế toán theo mô hình kết hợp KTTC và KTQT các yếu tố đầu vào trong cùng một bộ
máy kế t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay 4.pdf