Tài liệu Luận văn Tính tích cực nhận thức và mối quan hệ của nó với kết quả học tập của sinh viên trường cao đẳng sư phạm trung ương thành phố Hồ Chí Minh: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------------------
VŨ KIM NGỌC
TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC VÀ
MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
TRUNG ƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ XUÂN HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tính tích cực của con người góp phần quyết định hình thành và phát triển xã
hội loài người. Tính tích cực của con người biểu hiện ở chỗ con người đã chủ động
sản xuất ra những của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển xã hội; chủ
động cải biến môi trường tự nhiên bắt chúng phục vụ mình, chủ động cải biến xã
hội để xã hội ngày càng phát triển theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
Trong hoạt động học tập tính cực là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức
khoa học. Tính...
107 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tính tích cực nhận thức và mối quan hệ của nó với kết quả học tập của sinh viên trường cao đẳng sư phạm trung ương thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------------------
VŨ KIM NGỌC
TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC VÀ
MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
TRUNG ƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ XUÂN HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tính tích cực của con người góp phần quyết định hình thành và phát triển xã
hội loài người. Tính tích cực của con người biểu hiện ở chỗ con người đã chủ động
sản xuất ra những của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển xã hội; chủ
động cải biến môi trường tự nhiên bắt chúng phục vụ mình, chủ động cải biến xã
hội để xã hội ngày càng phát triển theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
Trong hoạt động học tập tính cực là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức
khoa học. Tính tích cực nhận thức có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động,
đặc biệt là hoạt động học tập. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là rất nhiều sinh viên
còn rất thụ động trong việc học. Nhiều nghiên cứu, khảo sát, nhiều cuộc tranh luận
về phong cách học của sinh viên Việt nam đi đến một kết luận chung là rất nhiều
sinh viên chưa tích cực trong hoạt động học tập, nhận thức. Một nghiên cứu mới
đây của PGS.TS Nguyễn Công Khanh, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã chỉ ra
một loạt các con số về phong cách học của sinh viên và trong đó có không ít con số
rất đáng báo động: Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú
học tập; hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học; gần 70% SV cho rằng
mình không có năng lực tự nghiên cứu;… [32]
Vấn đề tính tích cực nhận thức của người học được các nhà tâm lý, giáo dục
học quan tâm, nghiên cứu để nhằm cải tiến chất luợng giáo dục và đào tạo. Trong
công tác đào tạo giáo viên mầm non thì đây cũng là một vấn đề cấp bách.
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt
nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ... của trẻ. Vì vậy,
2
việc xây dựng đội ngũ giáo viên cho bậc học mầm non là nhiệm vụ đặt ra cấp bách
trong quá trình đổi mới và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà.
Hiện nay, ngay cả bậc thấp nhất của ngành đào tạo giáo viên mầm non là
Trung học Mầm Non, thì sinh viên cũng đã phải học rất nhiều. Ngoài các môn năng
khiếu: vẽ, đàn, hát, múa thì để trở thành giáo viên mầm non, tối thiểu nhất các bạn
sinh viên phải học các môn chuyên ngành: Tâm lý trẻ, giáo dục mầm non, Bệnh học
nhi, và hệ thống các môn phương pháp. Đó là chưa kể các môn đại cương: văn học,
toán cao cấp, mỹ thuật, âm nhạc, mỹ học - nghệ thuật học, chính trị...ngoài ra các
môn: ngoại ngữ, tin học cũng là một trong những môn bắt buộc sinh viên phải hoàn
thành để tốt nghiệp. Thế nên, để có được một đội ngũ giáo viên mầm non có chất
lượng thì yếu tố tính tích cực nhận thức của sinh viên có thể xem là một trong
những yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì phải có tính tích cực nhận thức thật cao thì các
bạn sinh viên mới có thể đáp ứng được những yêu cầu cao của công tác đào tạo mà
xã hội đang đòi hỏi.
Thế nhưng, sinh viên sư phạm mầm non hiện nay cũng không tránh khỏi tính
thụ động đang là căn bệnh của sinh viên Việt Nam nói chung. Vì thế, việc nghiên
cứu tính tích cực nhận thức và ảnh hưởng của nó tới kết quả học tập của sinh viên
sư phạm mầm non có một ý nghĩa quan trọng đối với công tác đào tạo giáo viên
mầm non. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để
xây dựng, cải tiến và nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo giáo viên
mầm non hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu các biểu hiện về tính tích cực nhận thức của sinh viên
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của
sinh viên.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục tính tích cực nhận thức nhằm nâng
cao kết quả học tập của sinh viên.
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Biểu hiện và mức độ của tính tích cực nhận thức của sinh viên
- Mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên.
- Một số biện pháp giáo dục nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của
sinh viên
3.2. Khách thể nghiên cứu
- 46 giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm trung ương thành phố Hồ Chí
Minh
- 10 giáo viên là lãnh đạo các trường mầm non thường xuyên tổ chức cho
sinh viên kiến thực tập sư phạm
- 315 sinh viên năm thứ 2 và 3 thuộc các khoa Sư phạm mầm non (SPMN),
Giáo dục đặc biệt (GDĐB) của trường Cao đẳng Sư phạm trung ương
Thành phố Hồ Chí Minh phân
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Sinh viên trường Cao đẳng sư phạm trung ương Tp. HCM có tính tích
cực nhận thức trong học tập cao.
- Mức độ biểu hiện của tính tích cực nhận thức là khác nhau ở các nhóm
sinh viên khác nhau.
- Có mối quan hệ tương quan giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học
tập tại trường sư phạm cũng như kết quả thực tập của sinh viên.
4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về tính tích cực, tính tích cực nhận thức,
tính tích cực nhận thức của sinh viên, mối quan hệ giữa tính tích cực nhận
thức và kết quả học tập của sinh viên.
5.2- Khảo sát mức độ biểu hiện của tính tích cực nhận thức và mối quan hệ
giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên
a- Tìm hiểu thực trạng tính tích cực nhận thức của sinh viên
b- Tìm hiểu thực trạng mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết
quả học tập của sinh viên
c- So sánh sự khác biệt về mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và
kết quả học tập của các nhóm sinh viên.
5.3- Đề xuất một số biện pháp giáo dục nhằm nâng cao tính tích cực nhận
thức của sinh viên.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Kết quả học tập chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau như nhân tố
sinh học, môi trường, giáo dục, xã hội… Song đề tài chỉ tập trung nghiên cứu mối
quan hệ giữa tính tích cực nhận thức trong học tập và kết quả học tập. Do sinh viên
năm 2 và năm 3 mới có hoạt động thực tập tại trường mầm non, phổ thông nên chỉ
nghiên cứu ở SV năm 2 và năm 3.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu
liên quan tới vấn đề tính tích cực nhận thức của sinh viên
7.2- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp anket: Xây dựng anket về tính tích cực nhận thức dựa vào
anket tính tích cực nhận thức của Thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu.
- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
5
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
7.3- Xử lý số liệu: thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows
- Tính điểm trung bình (Mean)
- Đếm tần số, tính phần trăm (Count, Percentile)
- So sánh (dùng kiểm nghiệm T và F)
- Tương quan (Pearson)
8. Đóng góp của đề tài
Giúp giáo viên nắm bắt được thực trạng mức độ tính tích cực nhận thức trong
học tập và ảnh hưởng của nó đến kết quả học tập của sinh viên, trên cơ sở đó xây
dựng những biện pháp giáo dục, dạy học nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của
sinh viên.
6
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1- Một số nghiên cứu về tính tích cực trên thế giới
Tính tích cực từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. có thể
nói đây là vấn đề không còn xa lạ nữa. Đứng ở mỗi góc độ, mỗi trường phái lại
nghiên cứu tính tích cực ở những phương diện khác nhau, nghiên cứu ở những đối
tượng, khách thể khác nhau.
Dưới góc độ triết học, L.Aristova cho tính tích cực nhận thức của con người
xuất hiện trong hoạt động cải tạo, thể hiện thái độ cải tạo của chủ thể nhận thức với
đối tượng nhận thức. Nếu hành động thiếu thái độ cải tạo thì không được coi là tính
tích cực mà ngược lại vẫn bị coi là trì trệ. Tính tích cực nhận thức đòi hỏi ở hai
yếu tố:
- Thái độ lựa chọn đối tượng nhận thức (cái mà anh ta chọn trong thời gian
hiện tại)
- Đặt ra mục đích, nhiệm vụ phải làm, cải tạo đối tượng trong những hoạt
động tiếp theo nhằm giải quyết vấn đề
Dưới góc độ tâm lý – giáo dục
TTCNT từ lâu được xem là yếu tố quan trọng trong tâm lý người, nó giúp
con người nhận thức thế giới ngày càng đầy đủ và bản chất hơn. Từ lâu, các nhà
giáo dục học đã sớm nhận ra tầm quan trọng của TTCNT trong quá trình giáo dục.
Khoảng thời gian từ thế kỷ XVII-XIX, việc phát huy TTCNT của người học
được xem là “nguyên tắc vàng” trong dạy học. Có thể nói người đầu tiên đề cập đến
nguyên tắc này là nhà giáo dục Tiệp Khắc J.A.Cômenxki (1592-1670), theo ông:
“Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát
triển nhân cách... Hãy tìm ra những biện pháp để phát huy tính tích cực của người
học và cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn” [26]. Ông còn chỉ ra
“Tích cực nhận thức không đơn thuần là chỉ ngồi nghe mà phải tìm hiểu bản chất sự
vật, hiện tượng” [26].
7
Với J.J.Rutxô (1713-1784) nhà triết học người Pháp, dạy học phải để “Trẻ
tích cực dành lấy kiến thức bằng con đường tự tìm hiểu, tự khám phá, không nên
học thuộc lòng mà phải sáng tạo. Giáo dục không được áp đặt, người thầy phải đáp
ứng mọi yêu cầu, mong muốn của trẻ” [2].
Thế kỷ XVIII, nhà giáo dục Xô Viết tiêu biểu, K.Đ.Usinxki cũng có quan
điểm “Khi cần dạy trẻ điều gì, chỉ cần cho trẻ tự quan sát, tự phát biểu ý kiến của
mình, tưởng tượng, nhớ lại những gì quan sát được và rút ra kết luận là có hiệu quả
nhất” [26].
J.Dewey (1895-1952) nhà giáo dục người Mỹ chỉ ra “Người giáo viên là
người hướng dẫn trẻ và đáp ứng mọi yêu cầu của trẻ. Còn trẻ phải tích cực trong
mọi hoạt động của mình, là chủ thể nhận thức” [26].
J.Piaget (1896-1980) nhà tâm lý học, giáo dục học tiêu biểu của thế kỷ XX,
người Thụy Sỹ. Với ông, “Quá trình phát triển của trẻ mang tính chủ động và tích
cực” [26]. Ông khuyến khích các chương trình giáo dục mà trong đó nhấn mạnh
việc học tập và tự khám phá của trẻ.
Không chỉ dừng lại ở đó, vấn đề tính tích cực của người học còn tiếp tục
được nghiên cứu ở thế kỷ XX – XXI. Các công trình nghiên cứu của một số nhà
khoa học trên thế giới đề cập đến tính tích cực theo nhiều khía cạnh khác nhau, tác
giả Đào Việt Cường đã tóm tắt trong luận văn thạc sĩ: [8,8]
Thứ nhất, nghiên cứu TTCNT của người học trong mối quan hệ giữa nhận
thức và ý chí (I.F.Kharlômôv, R.A.Đanhilôv, Ôkôn…). Hướng nghiên cứu này hỗ
trợ rất nhiều cho các nhà giáo dục trong việc tìm kiếm con đường và điều kiện cần
thiết nhằm phát huy TTCNT của người học.
Thứ hai, nghiên cứu bản chất và cấu trúc của TTCNT của người lớn và trẻ
em, trong đó đặc biệt lưu ý vai trò chủ động của chủ thể trong quá trình nhận thức
(P.B.Êxipôv, Xavier Roegiers…). Các tác giả này coi TTCNT là thái độ cải tạo của
chủ thể đối với đối tượng nhận thức thông qua việc huy động các chức năng tâm lý
ở mức độ cao.
8
Thứ ba, nghiên cứu về các dấu hiệu của TTCNT và mức độ thể hiện chúng ở
học sinh (X.P.Baranov, A.M.Machiuskin…). Dựa vào việc xác định các dấu hiệu và
mức độ TTCNT của học sinh trong hoạt động học tập, các tác giả đã đề xuất một số
biện pháp nhằm nâng cao TTCNT của học sinh trong quá trình dạy và học.
Thứ tư, nghiên cứu mối quan hệ giữa tính tích cực và tính độc lập nhận thức
của học sinh trong việc hình thành và giải quyết vấn đề nhận thức. Hướng này có
một số quan điểm khác nhau:
- P.B.Êxipôv [26] ngay trong tính tích cực đã có tính độc lập khi hình thành
vấn đề và xác định cách giải quyết vấn đề. Tuy vậy, quan niệm này chỉ đúng
ở mức độ cao của tính tích cực.
- G.I.Sukina [26] tính tích cực được xem như là mức độ chuẩn bị cho tính
độc lập.
- I.I.Lecner [26] tính tích cực là điều kiện của tính độc lập và không thể nào có
tính độc lập mà thiếu tính tích cực, nhưng tính tích cực có thể không kết hợp
với tính độc lập.
- R.A.Đanhilôv … phân loại TTCNT dựa vào chức năng tâm lý và mức độ
huy động các chức năng tâm lý đó.
1.1.2- Một số nghiên cứu về tính tích cực nhận thức tại Việt Nam
Ở Việt Nam, các tác giả như Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo,
Nguyễn Kỳ, Thái Duy Tuyên… đã đề cập đến TTCNT của học sinh trong hoạt động
học tập, cụ thể “TTCNT là thái độ cải tạo thế giới khách thể thông qua sự huy động
mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn đề học tập - nhận
thức” [3, 8-9]. Các tác giả đều nhấn mạnh vai trò chủ thể và sự cần thiết phải phát
huy TTCNT của chủ thể. Tác giả Nguyễn Kỳ cho rằng, “TTCNT là sự ham muốn
hoạt động nhận thức của chủ thể và chính chủ thể chủ động tạo nên những biểu hiện
bên trong và bên ngoài” [17].
Những năm gần đây vấn đề dạy học tích cực đã và đang là chủ trương của
ngành giáo dục nước ta. Một số luận án tiến sĩ, luận văn cao học cũng tập trung
9
nghiên cứu về tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh phổ thông, của
trẻ mẫu giáo. Đất nước ngày càng đổi mới, yêu cầu xã hội ngày càng cao, việc chất
lượng đào tạo bậc đại học, cao đẳng đang là vấn đề nóng hổi, hơn bất cứ bậc học
nào, TTCNT là yếu tố đóng vai trò then chốt cho chất lượng đào tạo. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về tính tích cực cũng như biện pháp nâng cao TTCNT của
sinh viên. Ví dụ như:
- Nguyễn Ngân Giang nghiên cứu về: “Một số biện pháp quản lý hoạt động
học tập theo hướng nâng cao tính tích cực, chủ động sáng tạo của sinh viên
trường cao đẳng giao thông vận tải 3” [13]
- Đào Quốc Trí nghiên cứu: “Một số biện pháp tổ chức quá trình học tập nhằm
phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên các trường kỹ thuật quân
sự” [29]
- ThS. Võ Thị Ngọc Châu: “Nghiên cứu nhu cầu thành đạt và quan hệ của nó
với tính tích cực nhận thức của sinh viên” [6] …
- Lê Thị Ngọc Thương, trong luận văn tốt nghiệp đại học: “Tìm hiểu mức độ
biểu hiện tính tích cực học tập của sinh viên trường đại học sư phạm
TP.HCM trong dạy học theo nhóm trong giờ lên lớp môn giáo dục học” [28] …
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung và sâu
về TTCNT và ảnh hưởng của nó đến kết quả học tập của sinh viên, đặc biệt tại
trường Cao đẳng Sư phạm trung ương TP.HCM. Vì vậy, có thể khẳng định đề tài
này được xem như một nghiên cứu khá lý thú.
10
1.2- NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN
1.2.1- Tính tích cực nhận thức
1.2.1.1- Tính tích cực
Về thuật ngữ, tính tích cực tiếng Latinh là Activus, tiếng Anh là Activity,
dùng để chỉ hai ý:
Tính tích cực gắn bó với hoạt động, là trạng thái hoạt động.
Tính tích cực bao hàm tính chủ động, tính chủ định có ý thức của chủ thể
Tính tích cực là vấn đề trung tâm của nhiều khoa học, thường được bàn cãi
về nhiều thuật ngữ, nguồn gốc và vai trò của nó.
Với tư cách là một khái niệm cơ bản của triết học, tính tích cực đã được các
triết gia nổi tiếng bàn tới như Ampeđôclơ (490-430 tr.cn), Platon (428-348 tr.cn),
Aríttôt (384-322 tr.cn)… hầu hết đều thống nhất ở một số điểm cơ bản:
- Tính tích cực là thuộc tính chung của vật chất, tạo thành sự vận động của vật
chất, có quá trình phát triển gắn với sự tự vận động của vật chất.
- Tính tích cực thể hiện trong sự tác động thay đổi các khách thể khác có nghĩa
là tạo ra sự biến đổi nhất định ở các khách thể, các vật thể có quan hệ đối tác
với mình.
- Tính tích cực là sự phát triển, biến đổi các trạng thái bên trong dưới ảnh
hưởng của các tác động bên ngoài.
Trong tâm lí học cũng có nhiều ý kiến định nghĩa khác nhau về tính tích cực,
mỗi quan niệm đều xuất phát từ những góc độ, cách nhìn nhận riêng và có hạt nhân
hợp lí cơ bản của nó.
Trường phái hành vi chỉ chú ý tính tích cực của động tác tay chân bên ngoài
như động tác bơi lội, đá banh hay chơi tennic. Tuy nhiên, cơ thể sống và chất vô cơ
khác biệt ở những đặc điểm hành vi ở bản thân nó. Trong môi trường vô cơ cũng có
những phản ứng nhưng bản thân chúng không có tính tích cực. Còn đối với cơ thể
sống, những phản ứng đơn giản nhất cũng được thúc đẩy bởi tính tích cực của cơ
thể. Hành vi của cơ thể sống có tính phức tạp không chỉ phụ thuộc vào trạng thái
11
bên trong cơ thể sống. Điểm yếu của trường phái hành vi chỉ chú ý đến nguyên
nhân tích cực nằm ở bên ngoài.
Nguyên nhân của tính tích cực theo những nghiên cứu gần đây cho rằng nó
phụ thuộc vào hoàn cảnh đối tượng mà cơ thể sống hướng tới và nó còn phụ thuộc
vào trạng thái bên trong cơ thể, đó là sự gặp gỡ giữa yếu tố bên trong và bên ngoài,
trong đó yếu tố bên trong giữ vai trò động lực quyết định.
Sự phản ánh tâm lí, theo A. N. Leônchiev không phải là sự phản ánh chết
cứng của gương soi vì sự phản ánh tâm lí có tính chủ thể, là sự phản ánh tích cực,
sinh động, sáng tạo - Đó là tính tích cực của nhân cách.
Khi xem xét tính tích cực với tư cách là nhân cách, A. N. Leônchiev và
V.P.Dintrencô cho rằng tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trong quá trình
nhận thức cảm tính, tư duy, ý chí- cảm xúc. Vì chỉ có tính tích cực của nhận thức
cảm tính mới có hình tượng cảm tính. A. N. Leônchiev cho rằng: “muốn cho hình
tượng nảy sinh, nếu chỉ có sự vật tác động một chiều thì chưa đủ, mà còn cần phải
có quá trình “gặp gỡ” tích cực từ phía chủ thể. Điều đó cho thấy rằng đặc điểm của
đối tượng tri giác không có sẵn và nó chỉ được phản ánh trong chủ thể một khi chủ
thể tích cực phản ánh tri giác là quá trình phản ánh trọn vẹn, đó là sự tích cực hoạt
động có định hướng. Sự phản ánh thụ động chỉ cho thấy cái bề ngoài còn phản ánh
tích cực phản ánh cái bên trong.
Khái niệm tính tích cực được đề cập, bàn cãi nhiều. Nhiều tác giả nghiên cứu
vấn đề tính tích cực theo nhiều góc độ khác nhau. Có bốn xu hướng chính:
- Xu hướng thứ nhất, đại diện là S.Đ Smirnôp, V.P Dintrencô, V.I.
Rômanôp…: tính tích cực được xem xét từ góc độ chức năng, vai trò của
chủ thể với thế giới bên ngoài .
- Xu hướng thứ hai, đại diện là các nhà tâm lí học như P.Ia. Ganpêrin, A.A.
Liublinxcaia, B.G. Iarôxepxki… gắn tính tích cực với hành động và được thể
hiện trong các mức độ lĩnh hội hành động khác nhau, đó cũng chính là chỉ số
đo mức độ phát triển tính tích cực của chủ thể.
12
- Xu hướng thứ ba, điển hình như M.I.Lixina, A.N.Leônchiev, V.S.Iukevich…
nghiên cứu, đánh giá tính tích cực tiếp xúc của trẻ em thông qua các dấu hiệu
biểu hiện, các thành tố tâm lí đặc trưng của tính tích cực.
- Xu hướng thứ tư, qua cách xem xét thuật ngữ “tính tích cực” của các tác giả
XHCN như L.M Ackhanghenxki ( Liên Xô), R. Minle (Cộng hòa dân chủ
Đức), Ia. Nhêtôpilic ( Tiệp Khắc) v.v…tính tích cực bao hàm bốn chỉ số: tính
giá trị của hoạt động và tính tự nguyện; tính hiệu quả của hoạt động mà tính
tích cực hướng tới; tính sáng tạo và tính phát triển.
Nói tóm lại, tính tích cực nằm trong trạng thái hoạt động và được biểu hiện
trong những nhóm hành động. Thuật ngữ “tính tích cực” để chỉ tính sẵn sàng với
hoạt động, là nhu cầu đối với hoạt động. Ở đây nhu cầu vừa là biểu hiện vừa là
thành tố tâm lí bên trong tạo nên nguồn gốc, động lực của tính tích cực.
Nhu cầu cần phải được nhắc đến vì nó là nguồn gốc, động lực của tính tích
cực. Nhu cầu này không phải thuần túy mang tính sinh học, bản năng mà là các nhu
cầu mang tính người như nhu cầu lao động- tính tích cực lao động, nhu cầu học tập-
tính tích cực học tập, nhu cầu nhận thức- tính tích cực nhận thức, nhu cầu giao tiếp-
tính tích cực giao tiếp v.v… nhu cầu tâm lí hoạt động của con người tồn tại như một
thành tố tâm lí bên trong, động lực của tính tích cực.
1.2.1.2- Tính tích cực nhận thức
Tính tích cực nhận thức được nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau:
I.A. Lerơnnhérơ cho rằng tính tích cực nhận thức có liên quan với tính tích
cực chung của nhân cách, là mong muốn nhận thức và tìm kiếm sự sáng tạo. N.A.
Pôlôvnhicôva có quan niệm là sẵn sàng có xu hướng hoạt động nhận thức. Còn Đ.N.
Uznađze lại cho rằng tính tích cực nhân cách là quá trình cá nhân thỏa mãn nhu cầu,
nó xuất hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể với thực tiễn. L.A Aristova cho đó là
sự biểu hiện quan hệ chuyển hóa sáng tạo của cá thể đến các đối tượng nhận thức,
liên quan đến sự thay đổi trong ý thức của nó v.v…
13
Tính tích cực được biểu hiện ở nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung
đặc trưng là sự tìm tòi có chủ đích mà kết quả của nó là sự hình thành tri thức mới
và sự sáng tạo, đồng thời biểu hiện là sự hứng thú với sự tự học, hoặc nắm bắt nội
dung môn học ở mức độ cao hơn do nảy sinh nhu cầu nhận thức. Nó không chỉ là
biết giải một số bài tập nào đó mà còn hiểu rõ, vận dụng trong nhiều tình huống
khác nhau. Từ đó cá nhân chiếm lĩnh được phương pháp luận, đạt được mục đích
học tập.
Chính nhờ sự tích cực hóa quá trình hoạt động nhận thức đã tạo điều kiện mở
rộng, phát triển các hứng thú, là điều kiện cần để vận hành bất kì quá trình trí nhớ
và tư duy. Hoạt động mà thừa những động cơ bên trong sẽ xảy ra tính tích cực nhận
thức ở mức độ cao.
Như vậy, các nhà tâm lí học, đặc biệt những nhà tâm lí học Việt Nam đều
thống nhất với nhau ở điểm: quá trình học tập đòi hỏi hoạt động có chủ đích của các
giác quan, ý chí của trẻ, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong lĩnh hội tri thức, kĩ
năng và kĩ xảo.
Có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tất cả các quan điểm đó có thể khái
quát thành hai quan điểm chung nhất.
- Quan điểm thứ nhất
Tính tích cực nhận thức được xem là một dạng hoạt động hay là trạng thái
của hoạt động dưới góc độ tâm lí. Trong hoạt động dạy học, nó không tồn tại như
một trạng thái, một điều kiện, mà nó còn là kết quả của hoạt động học tập, là mục
đích của hoạt động dạy học.
Có ý kiến khác lại cho rằng tính tích cực nhận thức là sản phẩm của nhân
cách, một thuộc tính của quá trình nhận thức, làm cho quá trình nhận thức luôn đạt
kết quả cao. Trên thực tế, mục đích của việc học không chỉ là nắm vững tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo, mà là hình thành những phẩm chất của nhân cách.
Một trong những phẩm chất đó, theo T.I. Samôva, đó là tính tích cực nhận
thức được biểu hiện ở tính định hướng, tính bền vững của hứng thú nhận thức, học
14
sinh cố gắng tìm tòi phương thức để nắm vững kiến thức, để hành động hiệu quả,
tập trung ý chí để đạt được mục đích học tập.
- Quan điểm thứ hai
Quan điểm thứ hai này nêu bật lên tính chất cải tạo của tính tích cực nhận
thức. Tính tích cực nhận thức của con người xuất hiện trong hoạt động cải tạo, thể
hiện thái độ cải tạo của chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức. Thái độ cải
tạo là điều kiện cần để đánh giá hành động tích cực hay trì trệ. Tính tích cực đòi hỏi
hai yếu tố sau: thái độ lựa chọn đối với đối tượng nhận thức, biết đặt ra mục đích,
nhiệm vụ phải làm, cải tạo đối tượng trong những hoạt động tiếp theo nhằm giải
quyết vấn đề
Nếu thiếu những yếu tố trên, hoạt động chỉ có thể được coi là sự thể hiện
trạng thái hành động nhất định của con người. Trạng thái không tích cực không đòi
hỏi sự thay đổi, sự cải tạo như các hiện tượng tích cực.
Quan điểm trên đã đi sâu vào vấn đề tích cực nhưng vẫn chưa lột tả được mô
hình tâm lí của hoạt động nhận thức. Để có một khái niệm tính tích cực toàn diện,
đúng đắn phải dựa trên cả hai quan điểm đã nêu trên.
Nói tóm lại, tính tích cực nhận thức là tính tích cực tư duy. Các dấu hiệu đặc
trưng của tính tích cực nhận thức là sự nỗ lực về trí tuệ, thao tác tư duy, các hành
động học tập và thể hiện sự quan tâm đến môn học, nhờ vậy người học nắm bắt nội
dung môn học ở mức độ cao hơn.
1.2.1.3- Tính tích cực nhận thức trong học tập của sinh viên
Như trên đã phân tích, các quá trình nhận thức sẽ phản ảnh rất rõ tính tích
cực nhận thức. Những quá trình như là quá trình cảm giác, trí nhớ, tư duy và bao
gồm tất cả các quá trình ý chí, cảm xúc. Trong tính tích cực nhận thức sẽ xác định
sự tham gia của con người với những mức độ khác nhau trong quá trình nắm vững
tri thức và cải tạo trong những tri thức đó. Chính nhờ việc nắm vững tri thức và
những phẩm chất trí tuệ tạo điều kiện cho con người có tính tích cực lao động
sau này.
15
Đối với sinh viên, tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập thường
được thể hiện rõ nhất và đầu tiên ở quá trình của trí nhớ. Trí nhớ không thể tách
khỏi chức năng của não, đó là sự biểu hiện của quá trình tích cực tâm lí và nó là một
thành phần cần thiết trong quá trình nhận thức và tính tích cực nhận thức của sinh
viên không là trường hợp ngoại lệ. Trí nhớ đảm bảo sự giữ gìn và cải tạo lại một
cách tích cực những thông tin được chủ thể tri giác, và trí nhớ thực sự là một điều
kiện quan trọng để nắm vững tri thức. đó là một trong những chìa khóa để bước vào
ngưỡng cửa thành công. Có những thầy cô hay nhà quản lý rất được học trò, nhân
viên yêu mến, đơn giản chỉ vì họ cảm thấy được tôn trọng khi thầy cô hay cấp trên
thường chào và gọi đúng tên họ. Trí nhớ tốt là một trong những lợi thế để học tốt
ngoại ngữ, khỏi phải nói thêm ai trong chúng ta cũng biết là ngoại ngữ có vai trò
như thế nào trong xã hội hiện nay.
Tuy nhiên, nhớ tốt thôi chưa đủ, ngày nay những tài liệu nhận thức yêu cầu
người học phải mở rộng kiến thức, phải làm việc một cách tích cực về trí tuệ. Vì
vậy sinh viên cần phải có sự định hướng, sự nhận thức chung trong các tài liệu học
tập, trong tư duy, trong việc hiểu biết và nắm vững các tài liệu học tập. Chính điều
kiện học tập này đã giúp sinh viên loại trừ việc học thuộc lòng.
Hoạt động tư duy của con người được thể hiện trong việc hiểu những thông
tin được tri giác, nghĩa là chủ thể có mối liên hệ về không gian, thời gian, nguyên
nhân, kết quả, tính lôgic của các phương tiện, các hiện tượng và các tài liệu được
thông báo. Thật ra, nếu không dựa vào hoạt động nhận thức không dựa vào sự hiểu
biết, không nắm vững những giá trị đầy đủ của tri thức. Tất cả phương pháp tích
cực hóa tư duy của người học không chỉ tạo điều kiện phát triển khả năng tư duy,
tưởng tượng trong năng lực sáng tạo, thế giới quan và nhân cách mà còn là điều
kiện cần thiết và quan trọng để nắm vững tri thức một cách nhanh chóng hiệu quả.
Trong điều kiện ngày nay khi mà khối lượng kiến thức, kỹ năng kỹ xảo cần
thiết cho mỗi người rất lớn và khối lượng ngày càng tăng thì việc tích cực hoạt động
tư duy chính là phương tiện cần thiết để sinh viên nắm vững tri thức trong tài liệu
một cách chắc chắn và nắm vững được các kĩ xảo, kĩ năng cần thiết. Chính vì vậy,
16
tính tích cực hoạt động tư duy đã trở thành một trong những điều kiện quan trọng để
nắm vững tri thức. Nếu thiếu nó việc nắm vững những khối lượng kiến thức cần
thiết, những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo sẽ không bao giờ đạt được.
Có phương pháp học khoa học, chính là chìa khóa để sinh viên tiến tới cánh
cửa tri thức. Thế nhưng nếu sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức mà không biết
sử dụng hoạt động tư duy để xử lí những tài liệu học tập, không biết cách làm việc
với những tài liệu học tập phức tạp sẽ được xem là không biết cách học. Điều này sẽ
dẫn đến sự quá tải trong việc học từ đó sẽ dẫn đến việc nắm vững tri thức không
chắc chắn và không đầy đủ. Khi biết cách làm việc với tài liệu, với sách vở là biết
cách làm việc trí tuệ phức tạp. Nó được biểu hiện ở chỗ hiểu các bài khóa.
Kết quả của việc tư duy và tập trung chú ý vào tài liệu học tập là ghi nhớ
được nội dung, ý tưởng của tài liệu học tập, phân biệt những điểm quan trọng,
những vấn đề xuyên suốt các phần khác của tài liệu. Đó chính là đặc điểm cơ bản
của tính tích cực nhận thức ở sinh viên.
Trong quá trình học tập sinh viên phải đề ra mục đích rõ ràng và biết cách
tiếp nhận một cách có hệ thống những tài liệu học tập. Trong hoạt động tư duy tích
cực, xác định được mục đích rõ ràng và tiếp nhận có hệ thống là điều kiện cần thiết
để nắm vững tri thức cần thiết. Và việc cấu tạo lại tri thức vừa được nắm vững cũng
là một điều kiện để nắm vững tri thức, nếu tích cực hoạt động tư duy, nó sẽ giúp
sinh viên ghi nhớ chúng một cách bền vững.
Việc so sánh các tài liệu học tập sẽ giúp tri thức đó được ghi lâu trong trí nhớ
hơn, đó là cách thức mới trong quá trình tích cực nhận thức và là một điều quan
trọng. Muốn mở mang kiến thức để có hành trang vào đời (tri thức là sức mạnh),
sinh viên cần tiếp xúc với các tài liệu học tập khác nhau, tìm kiếm thêm tài liệu để
học chứ không phải trông chờ những tài liệu học tập mà giáo viên giao cho.
Theo thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu [6,31]: “Trong quá trình làm việc với các tài
liệu học tập khác nhau, sinh viên đã nảy sinh quá trình so sánh những tài liệu học
tập, điều này cũng sẽ làm tăng cường tính tích cực tư duy của sinh viên, nó cũng
tăng cường chất lượng của tri thức. Những tài liệu học tập này sẽ được ý thức một
17
cách sâu sắc và khắc sâu trong trí nhớ. So sánh không chỉ là điều kiện cơ bản để
tăng cường tính hiệu quả của hoạt động tư duy mà còn là điều kiện để thực hiện các
thao tác phân tích tổng hợp trí tuệ một cách đầy đủ nhất. So sánh cũng là hoạt động
tích cực nhận thức. Trong quá trình này sẽ nảy sinh sự phân biệt những dấu hiệu
khác nhau, tìm kiếm những đặc điểm chung, những đặc điểm riêng của các hiện
tượng khác nhau. Dựa trên cơ sở này mà họ tổng hợp nhờ sự hiểu biết, hay nói cách
khác so sánh là điều kiện bắt buộc của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa.
Nó ảnh hưởng rất lớn đến tư duy khả năng phát triển năng lực nhận thức của người
học. Nếu người học chưa ý thức được các thao tác tư duy này, họ sẽ mắc nhiều sai
lầm. Họ không có số liệu giống nhau, khác nhau của các khách thể so sánh. Không
phân biệt được những dấu hiệu bản chất, không bản chất của đối tượng, không phân
biệt được sự khác nhau giữa chúng. Họ chỉ liệt kê các dấu hiệu và không so ánh
chúng với nhau. Như vậy không thể làm sáng tỏ những đặc điểm chung và đặc điểm
riêng của các đối tượng.”
Từ sự phân tích đó, ta thấy thực chất sinh viên có thể thường xuyên khái quát
hóa tài liệu học tập, biết lựa chọn những gì cơ bản để so sánh xuất phát từ sự phân
biệt các dấu hiệu của đối tượng. Vai trò của so sánh trong quá trình tích cực nhận
thức của người học. Nếu sinh viên so sánh một cách tối đa, tìm sự giống nhau sẽ
dẫn đến sự lựa chọn hợp lí. Việc ý thức được sự giống nhau và khác nhau trong tài
liệu giữ vai trò quan trọng. So sánh sự giống nhau và khác nhau trong tài liệu học
tập có vai trò tích cực và được thực hiện nhờ sự đối chiếu luân phiên giữa các phần
của chúng. Các tài liệu học tập có nội dung ít khác nhau thì việc ghi nhớ và phân
biệt chúng càng khó khăn.
Nói chung, tính tích cực của sinh viên được thể hiện qua việc sinh viên biết
so sánh, đối chiếu các loại tài liệu học tập, tìm ra sự giống và khác nhau của tri thức
trong các nguồn tài liệu khác nhau sẽ giúp sinh viên nắm vững được tri thức.
Một biểu hiện của tính tích cực nhận thức trong học tập của sinh viên nữa là
khả năng độc lập trong học tập, trong tư duy. Đặc trưng hoạt động của sinh viên là
đòi hỏi tính độc lập rất cao trong quá trình học tập, không còn như ở phổ thông. Cụ
18
thể là sẽ không có ai nhắc nhở, kiểm tra việc học thậm chí cả việc đi học đầy đủ các
môn. Để nắm vững tri thức sâu sắc và có hành trang vào đời với điều kiện học tập ở
bậc đại học, phần lớn sinh viên đã phát huy tính độc lập học tập.
Tính độc lập học tập được thể hiện ở chỗ sinh viên nắm vững tri thức trong
giờ học tại lớp và tự học tại thư viện, ở nhà, trong những hoạt động khác. Để chiếm
lĩnh được tri thức, để lưu giữ được tri thức lâu, sinh viên cần có thời gian tự học
nhiều hơn hai ba lần so với thời gian làm việc khác. Sinh viên tự đặt ra cho mình
các câu hỏi, nhiệm vụ tư duy. Điều này bắt sinh viên phải trả lời các câu hỏi đặt ra
và giúp sinh viên tích cực hóa tối đa khả năng tư duy của bản thân. Nó kích thích
các sinh viên so sánh các yếu tố, hình thành ở người học những nguyên tắc, những
qui luật của tài liệu, nắm vững được định nghĩa, bản chất mà thực chất là nắm vững
ý nghĩa tài liệu học tập, giúp người học ghi nhớ chúng một cách chắc chắn.
Những câu hỏi, những khó khăn, cả những hoàn cảnh, tình huống có vấn đề
giữ vai trò quan trọng trong quá trình học tập để tích cực hóa hoạt động nhận thức
và ghi nhớ không chủ định tài liệu học tập. Những yếu tố đó làm cho người học
không thể giải quyết được những nhiệm vụ đã được đề ra với sự giúp đỡ của tri thức
đã có và của những hành động đã nắm vững. Lúc đó sẽ xuất hiện nhu cầu nhận thức
ở mức độ cao, nó tạo điều kiện bên trong để nắm vững tri thức mới.
Lúc này, cần có sự trợ giúp từ phía người khác. Tính tích cực nhận thức của
sinh viên thể hiện khi họ chủ động thảo luận bàn bạc với bạn bè, với các giáo viên.
Sinh viên hội thoại trao đổi trực tiếp về những vấn đề họ quan tâm, vấn đề chưa
được sáng tỏ. Họ mạnh dạn suy nghĩ và trả lời các câu hỏi của giáo viên. Sinh viên
sẽ tự rút ra những kết luận cần thiết, biết cách khái quát hóa để biểu hiện ý tưởng
của mình trong ngôn ngữ trong hành động, nhờ vậy họ sẽ tích cực nhận thức trong
giờ học. Thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu phân tích: Cuộc trò truyện với giáo viên, với
bạn bè cho phép sinh viên điều khiển một cách hiệu quả quá trình nắm vững tri thức
của bản thân và đưa ra những câu hỏi có mục đích và có tính định hướng. Cuộc thảo
luận giúp tích cực hóa quá trình trí nhớ và tư duy của người học bởi vì mỗi khi sinh
viên tự đặt ra câu hỏi bắt buộc họ phải tự suy nghĩ và phải nhớ lại, hồi tưởng lại tri
19
thức. Điều này sẽ giúp sinh viên có thêm kinh nghiệm học tập. Còn việc nhớ lại
được thực hiện do ảnh hưởng của những câu hỏi của giáo viên tạo điều kiện hồi
tưởng lại một cách chắc chắn đầy đủ tài liệu học tập và nó sẽ rèn luyện sự phát triển,
rèn luyện việc củng cố của trí nhớ, rèn luyện tư duy, nó còn giúp đỡ hình thành một
thói quen ổn định trong việc ghi nhớ và giữ gìn tri thức. Việc giữ gìn sẽ dẫn tới việc
hồi tưởng, nhớ lại tài liệu. Chính điều này đòi hỏi sinh viên thường xuyên nỗ lực tư
duy [6,33].
Việc xem lại bài, đọc tài liệu sau khi nghe giảng đã giúp sinh viên tích cực
hoạt động trí tuệ, trong khi đó, sinh viên sẽ phát hiện ra những vấn đề chưa rõ, tự
đặt ra những câu hỏi và tìm kiếm câu trả lời đúng, sau đó, tích cực vận dụng những
tri thức sách vở, phân tích suy nghĩ về chúng, hình dung được mối quan hệ khác
nhau thấy được sự liên kết, nhờ vậy đảm bảo cho sự cải tạo lại một cách sâu sắc gốc
rễ những tài liệu đã nắm vững. Cách tự đặt câu hỏi cho bản thân, cho giáo viên sau
khi nghe giảng và đọc tài liệu là biểu hiện tính tích cực nhận thức mức độ cao.
Cũng theo thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu: “sinh viên thảo luận những vấn đề đã
học, đã đọc với giáo viên sẽ làm tăng cường tính tích cực nhận thức. Vì khi tranh
luận với sinh viên, nếu giáo viên đưa ra cho sinh viên những câu hỏi có tính độc đáo
không rập khuôn, tinh tế, sâu sắc đặc trưng cho từng đối tượng, cho từng khách thể
điều này sẽ kích thích sinh viên hứng thú, tư duy và nó còn là điều kiện cần thiết để
giữ gìn tài liệu học tập trong trí nhớ dài hạn” [6,34].
Hơn thế nữa, biết phân tích, tổng hợp rồi liên hệ tài liệu học tập với kinh
nghiệm sống, áp dụng vào trong hành động thực tiễn của môi trường bên ngoài
(hoạt động thực tiễn) là một hình thức tích cực nhận thức khác của sinh viên. Đó là
sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành. Tóm lại khi nghiên cứu tài liệu, sinh viên
cũng phải có cả tri thức sách vở và tri thức đó phải được áp dụng trong cuộc sống
nhờ vậy tri thức cũng được củng cố chắc chắn hơn.
Bên cạnh đó, sơ đồ hóa nội dung tri thức là một biểu hiện khác của tính tích
cực nhận thức ở mức độ cao. Với sự giúp đỡ điểm tựa nội dung cơ bản của tài liệu
học tập được nắm vững sẽ được biểu hiện trong những sơ đồ trên những ý chính
20
được thể hiện ở dạng bảng biểu, điều này sẽ giúp sinh viên nắm vững tri thức tốt
hơn và ghi nhớ dài hạn. Nhờ tính tích cực nhận thức mà tri thức của sinh viên được
bổ sung, hoàn thiện để ngày càng được phong phú hơn.
Sự nắm vững tri thức và khả năng tích cực tư duy của sinh viên đã giúp việc
học tập của sinh viên đạt kết quả cao.
Nói tóm lại, Sinh viên có nhiều mức độ tích cực khác nhau. Mức độ tích cực
nhận thức của sinh viên ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc vào số lượng, mức độ khó,
nội dung và tính chất của tài liệu học tập. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào sự nỗ lực
trí tuệ với tài liệu học tập và quá trình học tập với tài liệu học tập và sự giữ gìn tri
thức lĩnh hội được trong trí nhớ dài hạn.
Dựa trên cơ sở đặc điểm nhận thức của sinh viên, thạc sĩ Ngọc Châu chia ra ba
mức độ của tính tích cực nhận thức:
Mức độ cao với các đặc trưng là chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức,
có tính tư duy độc lập, hiểu sâu, rộng tài liệu học tập, biết vận dụng tri thức
đã học vào thực tế cuộc sống.
Mức độ trung bình với các đặc trưng: lĩnh hội đầy đủ tri thức trong chương
trình học tập nhưng thụ động, đáp ứng môn học.
Mức độ thấp: Không lĩnh hội đầy đủ những tri thức có những chương trình
học tập rất thụ động, không đáp ứng yêu cầu môn học.
Trên cơ sở những lí luận đã phân tích ở trên, biểu hiện tính tích cực nhận
thức của sinh viên được đo dựa trên một số tiêu chí:
Động cơ thúc đẩy bên trong của quá trình nhận thức: động cơ mang
tính bền vững gồm có động cơ xã hội, động cơ tri thức và động cơ cá
nhân. Khi có động cơ tích cực sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quá trình nhận
thức, sinh viên sẽ học tập một cách hiệu quả hơn
Những hành động và thái độ học tập:
o Hành động trên lớp: khi tích cực trên lớp, sinh viên sẽ tiếp thu
được nhiều tri thức, có cơ hội va chạm, cọ sát với nhiều tư
tưởng, ý kiến khác nhau.
21
o Hành động tự học, tự nghiên cứu: Đây là một loại hoạt động
đặc trưng của sinh viên, giúp sinh viên chiếm lĩnh được tri thức
hiệu quả nhất
o Hành động thể hiện thái độ học tập: thái độ tích cực sẽ giúp
sinh viên tích cực trong mọi loại hoạt động.
Ngòai ra, còn có thể thấy được tính tích cực thể hiện qua sự tự đánh giá của
sinh viên về kết quả hoạt động học tập, hoàn thành các bài tập, hoạt động nghiên
cứu khoa học, hoạt động kiến thực tập…
1.2.2- Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên
1.2.2.1- Đặc điểm tâm lý nổi bật của sinh viên
Sinh viên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người, mà
theo Mác là "tổng hoà của các quan hệ xã hội". Nhưng họ còn mang những đặc
điểm riêng: Tuổi đời còn trẻ, thường từ 18 đến 25 dễ thay đổi, chưa định hình rõ rệt
về nhân cách, ưa các hoạt động giao tiếp, có tri thức, đang được đào tạo chuyên môn.
Sinh viên là những người đang chuẩn bị cho hoạt động mang lợi ích vật chất
hay tinh thần của xã hội. Các hoạt động của họ đều hướng vào việc chuẩn bị tốt
nhất cho hoạt động mang tính nghề nghiệp sau khi hoàn tất quá trình học tập tại các
trường cao đẳng đại học.
Đặc điểm sinh lý: ở lứa tuổi này, các đặc điểm sinh lý xem như đã hoàn
chỉnh. Hoạt động thần kinh đã đạt tới mức trưởng thành. Quan trọng là các
chức năng sinh sản đã bắt đầu phát triển đầy đủ.
Đặc điểm tâm lý
Năng lực trí tuệ phát triển mạnh, biểu hiện rõ nhất trong tư duy sâu sắc và
rộng, năng lực giải quyết nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp hơn, có
tiến bộ rõ rệt hơn trong các lập luận logic, trong việc lĩnh hội tri thức. Trí
tưởng tượng, sự chú ý đã phát triển thành khả năng hình thành ý tưởng
trừu tượng, khả năng phán đoán, năng lực hiểu biết và học tập. Tính nhạy
bén cao độ nên sinh viên có khả năng giải thích và gán ý nghĩa cho những
22
ấn tượng cảm tính trước đây. Sự phát triển trên kết hợp óc quan sát tích
cực, nghiêm túc sẽ tạo cho sinh viên cách lĩnh hội một cách tối ưu nhất.
Đây chính là cơ sở của quá trình học ở đại học, cao đẳng và sau khi tốt nghiệp
Sự phát triển tình cảm ở mức cao trào, có thể nói là thời kì mùa xuân của
đời người, một thời kì đầy cảm xúc với mỗi cá nhân. Trong cuộc sống sinh
viên gặp rất nhiều tình huống đòi hỏi họ phải phán đóan, phải quyết định
trong khi bản thân họ chưa có đủ kinh nghiệm và hiểu biết, nên thường
xuất hiện những phản ứng như thiếu tự tin, từ chối, không dám đối mặt
hoặc làm một cách miễn cưỡng.
Một đặc trưng quan trọng nữa là sự phát triển tự ý thức. Tự ý thức có chức
năng điều chỉnh nhận thức, thái độ của bản thân, là quá trình quan sát,
phân tích, tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động, kết quả hoạt động của cá
nhân. Tự ý thức của sinh viên được hình thành trong quá trình xã hội hóa
và liên quan chặt chẽ với tính tích cực nhận thức.
Đặc điểm xã hội
Đặc trưng của lứa tuổi này là nghề nghiệp, là sự lựa chọn con đường sống.
Sinh viên quan tâm đến việc hoạch định sự nghiệp cũng như hướng đến
đời sống hôn nhân. Kế hoạch đường đời là một hiện tượng đồng thời của
thể chế xã hội, định hướng cho hoạt động của sinh viên và bắt đầu bằng sự
lựa chọn nghề nghiệp.
Nhìn chung, sinh viên thuộc lớp thanh niên có độ tuổi từ 18 đến 23 – 25, là
giai đọan chuyển từ sự chín muồi thể lực chuyển sang trưởng thành về phương diện
tâm lý xã hội, là thời kì phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm mỹ,
giai đọan hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt, sinh viên có đầy đủ những
quyền lợi và trách nhiệm của một người trưởng thành, của một công dân. Họ có kế
hoạch riêng cho hoạt động của mình, chịu trách nhiệm về hành vi và độc lập trong
phán đoán. Đây là thời kì có nhiều biến đổi về mặt động cơ, về thang giá trị xã hội,
xác định con đường sống tương lai, và bắt đầu dấn thân thể nghiệm mình trong mọi
lĩnh vực của cuộc sống.
23
1.2.2.2- Đặc điểm họat động học tập của sinh viên
Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập, tự lực cao. Sinh viên
phải tự nghiên cứu, tự lực là chính. Vì đặc điểm tâm lý xã hội của lứa tuổi này là
chọn lựa nghề nghiệp nên họat động học tập của sinh viên mang tính định hướng và
nghị lực, ý chí ở mức độ cao nhất.
Hiện nay, các trường đại học, cao đẳng có sự thay đổi lớn về mục tiêu, nội
dung, chương trình- hình thành các môn học mang tính liên ngành, tích hợp do sự
bùng nổ thông tin và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, làm thay đổi
phương pháp, phương tiện dạy và học, đòi hỏi sinh viên phải tăng cường khả năng
học tập độc lập mới có thể đáp ứng được. Chế độ học tập đang mềm hóa từ niên chế
sang chế độ tín chỉ, có khả năng phát huy cao độ tính độc lập, tính cá thể, năng động
sáng tạo của sinh viên trong học tập.
Động cơ học tâp của sinh viên đang có xu hướng xáo trộn thứ bậc do sức ép
của xã hội, động cơ nghề nghiệp tăng lên, vượt qua các động cơ khác. Ngoài ra, một
đặc điểm rất đáng chú ý đang xuất hiện trong những người trẻ hôm nay, liên quan
đến sự phát triển của công nghệ thông tin với tư cách là một cuộc cách mạng, đó là
sự hình thành một môi trường ảo, hình thành một lối sống ảo. Đặc điểm này chỉ
biểu hiện trong giới trẻ, đặc biệt những người có tri thức như sinh viên. Hình thành
một phương pháp tư duy của thời đại công nghệ thông tin: Ngôn ngữ ngắn gọn, viết
bằng bàn phím thay vì cây bút, có tính lắp ghép chính xác, hệ thống, hạn chế sự bay
bổng về mặt hình tượng trực quan. Con người vì thế sống trong một môi trường ảo,
và cái hiện thực ở đây là cái hiện thực ảo, giao tiếp ảo. Và từ đó hình thành nên
nhiều giá trị mang tính hiện đại cao. [28]
Khi tiến hành hoạt động học tập ở đại học, cao đẳng, sinh viên không chỉ có
năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính
chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo ở mức độ cao. Dưới sự
hướng dẫn của giảng viên, sinh viên không máy móc tiếp thu những tri thức có sẵn
mà có khả năng tiếp nhận những tri thức với óc phê phán, hoài nghi khoa học, lật
ngược vấn đề, đào sâu hoặc mở rộng. Sinh viên bước đầu tìm kiếm chân lý mới: đó
24
là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được tiến hành ở mức độ từ thấp đến cao
tùy theo chương trình bộ môn, từ bài tập nghiên cứu sau mỗi học phần, niên luận,
khóa luận, luận văn tốt nghiệp. Hoạt động nghiên cứu này giúp sinh viên từng bước
vận dụng những tri thức khoa học, hình thành những phẩm chất tác phong của nhà
nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết những vấn đề do thực tiễn cuộc sống xã hội,
nghề nghiệp đặt ra.
Hoạt động học tập của sinh viên bao gồm cả hoạt động trên lớp và ngoài lớp.
Hoạt động trên lớp theo thời khóa biểu nên sinh viên được thông báo trước và có kế
hoạch học tập, còn hoạt động ngoài lớp là sự hoàn thành có logic các giờ học trên
lớp. Hoạt động ngoài lớp không có sự kiểm soát chặt chẽ của người giáo dục nhưng
các kết quả hoạt động sẽ được phân tích, đánh giá qua bài kiểm tra, thi cử
Hoạt động học tập của sinh viên thật sự là hoạt động lao động trí óc căng
thẳng. Cường độ hoạt động phụ thuộc vào nội dung tính chất phức tạp của nhiệm vụ,
vào trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, động cơ tâm thế chung của sinh viên. Vì vậy,
cần có một sự động viên một cách có mục đích đối với sinh viên trong quá trình
giảng dạy của giảng viên, phải có sự hướng dẫn, định hướng và kiểm tra đánh giá
phù hợp.
1.2.3- Ảnh hưởng của tính tích cực nhận thức tới kết quả học tập của sinh viên
Qua những sự phân tích trên, tính tích cực nói chung có vai trò quyết định
đối với sự thành công của hoạt động. Đặc biệt, phần (1.1-3), với họat động học tập,
TTCNT đóng vai trò then chốt đối với kết quả của hoạt động này.
Nếu sinh viên xác định được mục đích và nhiệm vụ học tập sẽ có kế hoạch
hoạt động học tập chủ động và luôn thực hiện tốt kế họach ấy. TTCNT còn thể hiện
ở chỗ sinh viên phải huy động tất cả các chức năng tâm lý, đặc biệt là chức năng tư
duy. Sự kết hợp giữa các yếu tố nhận thức và yếu tố tình cảm ý chí càng linh hoạt
bao nhiêu thì người học càng tích cực trong học tập bấy nhiêu và sẽ có được kết
quả cao.
25
TTCNT của người học càng cao thì việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức diễn ra
càng dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn bởi các chức năng tâm lý cao cấp, cụ thể hơn
là các thao tác tư duy logic: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa.
Những thao tác tư duy này giúp người học nắm rõ vấn đề, rõ những mối liên hệ bên
trong và qui luật của tri thức. Có thể nói, TTCNT làm cho sinh viên nắm bắt kiến
thức một cách chính xác, sâu sắc, vững chắc và có khả năng vận dụng vào thực tiễn.
Ngược lại, nếu thiếu TTCNT sẽ làm giảm khả năng lĩnh hội, thậm chí nó còn làm
hao mòn trí tuệ.
Việc phát huy TTCNT hết sức quan trọng và nó thể hiện trong mọi khâu của
hoạt động học tập và rèn luyện của sinh viên. Từ hoạt động trước khi đến lớp, trong
lớp học, sau giờ học, hoạt động thực hành thực tập và cả các hoạt động ngoại khóa.
Nếu có TTCNT, sinh viên sẽ có sự chuẩn bị chu đáo cho giờ học, có kế
họach mục đích học tập rõ ràng, mà ta cũng biết, thành tố mục đích đóng vai trò
định hướng cho hoạt động. Khi đã có sự chuẩn bị tốt, khi vào giờ học, sinh viên có
đầy đủ cơ sở để phát huy những hoạt động nhận thức như trí nhớ, tư duy, liên
tưởng, những hoạt động so sánh, tổng hợp, lưu giữ… sẽ hoạt động hết sức hiệu quả.
Sau giờ học, những kiến thức đã có sẽ được lưu giữ và sẽ phát huy trong việc phát
triển tri thức, giải bài tập hoặc vận dụng vào các hoạt động khác.
TTCNT không chỉ thể hiện ở việc ghi nhớ kiến thức hay ở tư duy trừu tượng
mà nó còn thể hiện trong kiểu tư duy trực quan hình ảnh, thể hiện ra một cách cụ
thể trong các hoạt động thực hành, thực tập. Trong những biểu hiện TTCNT thì khả
năng vận dụng lý thuyết vào giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn là một yếu tố khá
quan trọng. Có những sinh viên khả năng ghi nhớ, liên tưởng, phân tích, tổng
hợp… không thật sự xuất sắc nhưng khả năng vận dụng vào thực tế rất tốt hoặc họ
có những năng khiếu nhất định (mà có khi việc kiểm tra đánh giá tại trường sư
phạm không đo được), thì những sinh viên này cũng có thể đạt được những thành
tích rất cao trong họat động thực hành, thực tập. Điều đó giải thích cho việc tại sao
có những sinh viên có kết quả học tập tại trường sư phạm rất cao nhưng kết quả
thực hành thực tập sư phạm lại không như mong muốn, và ngược lại có những sinh
26
viên không phải là sinh viên giỏi, xuất sắc tại trường sư phạm nhưng lại có kết quả
thực tập cao. Do đó, để tìm hiểu mối quan hệ giữa TTCNT với kết quả học tập của
sinh viên, không thể chỉ dừng lại việc tìm hiểu kết quả điểm số tại trường sư phạm,
mà còn cần phải tìm hiểu cả kết quả theo sự tự nhận xét của sinh viên và đặc biệt là
kết quả thực hành, thực tập nữa.
1.2.4- Một số biện pháp nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của sinh viên
Việc tìm ra các biện pháp để nâng cao tính tích cực nhận thức của người học
từ lâu đã được nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới. Những biện pháp từ phía nhà
trường, có những biện pháp đối với họat động dạy của thầy và cũng có những biện
pháp thuộc hoạt động học của trò. Có thể nêu khái quát một số biện pháp điển hình
như sau:
1.2.4.1- Phía nhà trường
- Cần trang bị đầy đủ những điều kiện, trang thiết bị cần thiết cho việc dạy và
học theo hướng tích cực: tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ giáo viên;
số lượng học viên không quá đông ở mỗi lớp; quan tâm đầu tư trang bị thư
viện, hệ thống thông tin, cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học…
- Quan tâm đến công tác kiểm tra, đánh giá, thi cử phải được tiến hành thật
khách quan và nghiêm túc, với yêu cầu cao, chấp nhận sự loại trừ. Đặc biệt
khuyến khích những ý kiến sáng tạo, độc lập của sinh viên. Cần có sự thay
đổi đồng bộ ở các môn học, quán triệt tư tưởng tất cả các giảng viên trong
việc kiểm tra đánh giá sinh viên. Công cụ đánh giá phải đa dạng, kết hợp
nhiều dạng thức khác nhau (trên lớp, ở nhà, vấn đáp, viết, trắc nghiệm, thi
nhóm…)
- Cần thống nhất mục tiêu đào tạo của chương trình, môn học trong tòan thể
nhà trường, phổ biến những mục tiêu đó cho SV ngay từ đầu khóa và ngay
trước từng môn học để giúp sinh viên có kế họach học tập ngay từ đầu.
27
- Ngoài ra, cùng cần quan tâm đến những hoạt động rèn luyện khác ngòai hoạt
động học tập như hoạt động ngoại khóa, hoạt động Đòan, hội, xã hội giúp SV
được phát triển nhiều kĩ năng, biết vận dụng những gì đã học vào thực tế và
quan trọng nhất là nâng cao tính tích cực nhận thức của SV.
1.2.4.2- Phía giáo viên
- Nhằm giúp SV phát huy TTCNT, GV cần giúp SV nhận thức được ý nghĩa lí
thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề học tập, nghiên cứu.
- GV cần luôn nghiên cứu để nội dung dạy học phải mới, nhưng không qúa xa
lạ với SV mà cái mới phải liên hệ, phát triển cái cũ và làm cho SV thấy được
khả năng áp dụng trong tương lai. Kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi
với sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận thức của SV.
- Phải dùng các phương pháp đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so
sánh, tổ chức thảo luận, sêmina và phối hợp chúng với nhau.
- Cần biết sử dụng, khai thác được hiệu quả của các phương tiện dạy học hiện
đại.
- Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau: cá nhân, nhóm, tập thể,
tham quan…
- Luôn giao nhiệm vụ, ra những bài tập luyện tập, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn trong các tình huống mới.
- Tăng tỉ lệ giờ thực hành, thực tập. Giao nhiều nhiệm vụ hơn cho SV, yêu cầu
cao hơn nhưng phải vừa sức và quan trọng là GV cần phải rèn luyện kĩ năng,
thói quen tự học cho SV.
- Thường xuyên kiểm tra đánh giá, khen thưởng và kỉ luật kịp thời, đúng mức.
- Kích thích TTCNT qua thái độ, cách ứng xử giữa GV và SV.
1.2.4.3- Phía sinh viên
- Cần chú ý rèn luyện cho SV phương pháp học và tự học bằng cách giao
nhiệm vụ trên lớp, về nhà, giao bài tập nhóm; tổ chức các cuộc hội thảo, giao
28
lưu trao đổi kinh nghiệm học tập, nghiên cứu khoa học. Từ việc hình thành kĩ
năng, thói quen tự học trên lớp, ở nhà sẽ dần hình thành thói quen tự học mọi
lúc mọi nơi cho SV. SV cần phải biết tự học. Mỗi GV là người giác ngộ sinh
viên tinh thần tự học, sự cần thiết của tự học. Vũ khí chính trong việc tự học
là nguồn tư liệu trên các phương tiện thông tin trong sách, trên mạng internet.
- Chú ý xây dựng động cơ học tập cho SV bằng việc giáo dục ý thức, thái độ
với nghề, nêu lên nhiệm vụ, ý nghĩa của nội dung học, yêu cầu của thực tiễn
xã hội…
- Xây dựng động cơ, hứng thú học tập của SV còn bằng những cách kiểm tra,
đánh giá sát sao, đúng thực lực của SV, đảm bảo đánh giá đúng, công bằng;
khen thưởng khi SV có thành tích tốt, kỷ luật khi SV sai phạm.
- Phát triển kinh nghiệm sống của HS trong học tập qua các phương tiện thông
tin đại chúng và các hoạt động xã hội.
- Tạo không khí đạo đức lành mạnh trong lớp, trong trường, tôn vinh sự học
nói chung và biểu dương những SV có thành tích học tập tốt.
- Có sự động viên, khen thưởng từ phía gia đình và xã hội.
29
Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ TÍNH TÍCH CỰC NHẬN
THỨC CỦA SINH VIÊN
2.1. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
2.1.1. Mục đích khảo sát
- Tìm hiểu thực trạng biểu hiện, mức độ và những yếu tố ảnh hưởng đến
tính tích cực nhận thức trong học tập của sinh viên trường Cao đẳng Sư
phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập
của sinh viên.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giáo dục tính tích cực nhận
thức nhằm nâng cao kết quả học tập của sinh viên.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu thực trạng
Sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó phương pháp anket
được xem là phương pháp chủ đạo, các phương pháp còn lại là các phương pháp bổ
sung, hỗ trợ.
2.1.2.1. Phương pháp anket
- Xây dựng anket về tính tích cực nhận thức dựa vào anket tính tích cực
nhận thức của Thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu.
- Phiếu anket cho giảng viên được xây dựng trên cơ sở những tiêu chí
đánh giá tính tích cực sinh viên và lấy ý kiến chuyên gia được xây dựng
trên cơ sở lấy ý kiến chuyên gia.
- Phiếu anket ban giám hiệu trường mầm non được xây dựng trên cơ sở
lấy ý kiến chuyên gia
2.1.2.2. Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
Tiến hành với sinh viên, giảng viên, chuyên gia, thủ thư nhằm bổ sung cứ
liệu cho các phương pháp khác để góp phần làm rõ thực trạng.
2.1.2.3. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này được sử dụng hai lần với hai mục đích khác nhau:
30
Lần 1: Chỉnh sửa phiếu thăm dò ý kiến sinh viên; xây dựng phiếu thăm dò
giảng viên và ban giám hiệu trường mầm non
Lần 2: Đánh giá về tính cần thiết và khả thi của những biện pháp nhằm
nâng cao tính tích cực nhận thức của sinh viên
2.1.2.4. Phương pháp xử lý thông tin
Thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows:
- Tính điểm trung bình (Mean)
- Đếm tần số, tính phần trăm
- So sánh (dùng kiểm nghiệm T và F)
- Tương quan (Pearson)
2.1.3. Công cụ nghiên cứu
Có 3 loại phiếu anket:
2.1.3.1. Phiếu dành cho 315 sinh viên: [phụ lục 2] đo tính tích cực nhận thức
của sinh viên. Phiếu được xây dựng dựa trên phiếu anket tính tích cực nhận thức
của Thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu. Thu phiếu thăm dò 50 sinh viên và thăm dò ý kiến
chuyên gia để chỉnh sửa phiếu
Phiếu anket gồm 4 câu hỏi:
Câu 1: Động cơ học tập là biểu hiện của tính tích cực nhận thức. Do đó, để
đo tính tích cực nhận thức của SV ngoài hành động trên lớp, hành động tự học, tự
nghiên cứu, hành động vận dụng hay thái độ học tập mà còn cần đo cả động cơ
học tập
Gồm 31 biểu hiện 3 lựa chọn:
- Thường xuyên: 1 điểm
- Thỉnh thoảng: 2 điểm
- Không bao giờ 3 điểm
Đo mức độ thường xuyên của những biểu hiện tích cực nhận thức, xây dựng
dựa trên những tiêu chí:
Động cơ lĩnh hội tri thức [phụ lục 2, Câu 1: Nội dung ý kiến 15, 19, 20, 28]
Động cơ xã hội [phụ lục 2, Câu 1: Nội dung ý kiến 29, 30]
31
Động cơ cá nhân [phụ lục 2, Câu 1: Nội dung ý kiến 12, 19, 21, 25, 31]
Hành động trên lớp [phụ lục 2, Câu 1: Nội dung ý kiến 1, 2, 3, 5, 8]
Hành động tự học, tự nghiên cứu [phụ lục 2, Câu 1: Nội dung ý kiến 4, 6, 7,
10, 11, 16, 26]
Hành động vận dụng [phụ lục 2, Câu 1: Nội dung ý kiến 13]
Hành động thể hiện thái độ học tập [phụ lục 2, Câu 1: Nội dung ý kiến 17, 18,
19, 22, 23, 24, 27]
Câu 2. Gồm các tình huống để đo mức độ tích cực nhận thức của sinh viên
[phụ lục 2, Câu 2]
Quá trình học tập ở bậc cao đẳng đòi hỏi SV cần có tính độc lập, tự giác cao.
Do đó, cần dựa vào những đặc điểm sau để đặt ra các tiêu chuẩn đo mức độ tính tích
cực nhận thức đối với:
- Nội dung và tính chất tài liệu
- Số lượng tài liệu học tập, độ khó của tài liệu học tập
- Nỗ lực hoạt động trí tuệ với tài liệu học tập
- Quá trình làm việc với tài liệu học tập
Một câu có 3 nội dung tương đương với ba mức độ.
- Mức độ cao - Nội dung 1: đánh số 1
- Mức độ trung bình - Nội dung 2: đánh số 2
- Mức độ thấp - Nội dung 3: đánh số 3
Câu 3. [phụ lục 2, Câu 3] Ngòai kết quả điểm số học kì và thực tập, còn có
thể đo kết quả học tập của SV qua kết quả tự đánh giá của sinh viên
Gồm 8 nội dung: đo mức độ hài lòng của sinh viên qua việc sinh viên tự
đánh giá kết quả các hoạt động tại trường, hoạt động kiến thực tập và hoạt động
nghiên cứu khoa học… Mỗi nội dung có 3 lựa chọn:
- Hoàn tòan không: 0 điểm
- Ít: 1 điểm
- Nhiều: 2 điểm
Câu 4: [phụ lục 2, Câu 4]
32
Tìm hiểu những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến tính tích cực học tập của
SV. Gồm 15 yếu tố với 3 lựa chọn:
- Hoàn toàn không: 0 điểm
- Ít: 1 điểm
- Nhiều: 2 điểm
2.1.3.2. Phiếu dành cho 46 giảng viên: [phụ lục 3] tìm hiểu về tính tích cực
của sinh viên qua nhận xét đánh giá của giảng viên và những biện pháp nhằm nâng
cao tính tích cực nhận thức trong học tập của sinh viên
Gồm 2 câu:
Câu 1: Đánh giá của giảng viên về những biểu hiện tích cực nhận thức trong
học tập của sinh viên
- Nhiều (>85% sinh viên): 1 điểm
- Ít (khoảng 50% sinh viên): 2 điểm
- Rất ít (<25% sinh viên): 3 điểm
Câu 2: Đánh giá của giảng viên về mức độ cần thiết và tính khả thi của
những biện pháp nâng cao tính tích cực nhận thức cho sinh viên. Gồm 16 biện pháp,
được đánh giá như sau:
a) Tính cần thiết
- Rất cần thiết: 1 điểm
- Cần thiết: 2 điểm
- Không cần thiết: 3 điểm
b) Tính khả thi
- Cao: 1 điểm
- Trung bình: 2 điểm
- Thấp: 3 điểm
2.1.3.3. Phiếu dành cho ban giám hiệu một số trường mầm non thường
xuyên tổ chức cho sinh viên kiến thực tập sư phạm [phụ lục 4]: tìm hiểu những biểu
hiện tính tích cực nhận thức của sinh viên trong hoạt động kiến thực tập.
Phiếu gồm hai câu hỏi:
33
Câu 1: Đánh giá của ban giám hiệu về số lượng sinh viên có biểu hiện tích
cực nhận thức. Gồm 20 biểu hiện, ba lựa chọn:
- Nhiều (>85% sinh viên): 1 điểm
- Ít (khoảng 50% sinh viên): 2 điểm
- Rất ít (<25% sinh viên): 3 điểm
Câu 2 là Câu hỏi mở: Ý kiến đề xuất những biện pháp giáo dục cho trường
CĐSP TW TP. HCM nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của SV
2.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
2.2.1. Tính tích cực nhận thức của sinh viên
2.2.1.1. Biểu hiện tính tích cực nhận thức của sinh viên
a) Nhóm động cơ bên trong thúc đẩy sinh viên tích cực nhận thức
Kết quả khảo sát được tổng hợp ở bảng 1 cho thấy, tính tích cực nhận thức
mức độ cao của sinh viên có điểm trung bình 7.66, xếp thứ nhất; tính tích cực nhận
thức mức độ thấp lại đứng thứ 3 (TB chỉ có 2.25). Đây là một kết quả khá tốt, kết
quả này cho thấy đa số sinh viên của trường đều tích cực nhận thức ở mức cao hoặc
trung bình, chỉ có một số ít có mức độ nhận thức thấp. Điều này là một trong những
điều kiện thuận lợi giúp sinh viên lĩnh hội sâu sắc và ghi nhớ tài liệu học tập, nắm
vững tri thức.
Trong nhóm động cơ học tập thì động cơ lĩnh hội tri thức xếp thứ nhất (TB=
1.33), động xã hội thứ hai (TB= 1.42), động cơ cá nhân ít thường xuyên nhất xếp
thứ ba (TB= 1.67). Điều này đáng mừng vì cho thấy sinh viên học vì tri thức, vì
mục đích chính của người học là trang bị tri thức vững vàng để chuẩn bị cho tương
lai. Trong khi đó, những động cơ cá nhân… lại ít thường xuyên hơn, điều này khẳng
định rõ hơn động cơ học tập của sinh viên hợp lý và rất tích cực.
Xét các động cơ cụ thể trong các nhóm động cơ: Hai động cơ học để hiểu bài,
học để nâng cao trình độ đều xếp thứ nhất (TB= 1.26) trong nhóm động cơ lĩnh hội
tri thức. Trong xã hội hiện nay, tri thức được đánh giá cao, là một trong những nhân
tố quyết định sự thành công của cá nhân.
34
Bảng 1: Mô tả mức độ thường xuyên và thứ bậc của tính tích cực nhận thức
của sinh viên toàn mẫu
TT Tiêu chí
Sinh viên
TB Thứ bậc
1
2
3
Tính tích cực nhận thức mức độ cao
Tính tích cực nhận thức mức độ trung bình
Tính tích cực nhận thức mức độ thấp
7.66
7.09
2.25
1
2
3
4
5
6
Động cơ lĩnh hội tri thức
Động cơ xã hội
Động cơ cá nhân
1.33
1.42
1.67
1
2
3
7
8
9
10
Hành động trên lớp
Hành động tự học, tự nghiên cứu
Hành động vận dụng
Thái độ học tập
1.44
1.80
1.36
1.88
2
3
1
4
11
12
13
14
Học để thỏa mãn nhu cầu tri thức
Học để hiểu bài
Học để nâng cao trình độ
Học để làm chủ kiến thức
1.45
1.26
1.26
1.34
4
1
1
3
15
16
Học để không thua kém bạn bè
Học để làm việc có ích cho xã hội
1.59
1.25
2
1
17
18
19
20
21
Học để có bằng cấp
Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành
Học để đảm bảo cuộc sống của mình và gia đình
Học để được điểm cao
Học để chứng tỏ năng lực bản thân
1.90
1.67
1.34
1.93
1.50
4
3
1
5
2
22
23
24
25
26
Đến lớp nghe giảng
Ghi bài đầy đủ
Chăm chú nghe giảng
Suy nghĩ và phát biểu ý kiến trong giờ học
Suy nghĩ trả lời câu hỏi của giáo viên và đưa ra kết luận riêng của mình
1.02
1.38
1.30
1.91
1.59
1
3
2
5
4
27
28
29
30
31
32
33
34
Xem lại bài sau khi nghe giảng
Tích cực bổ sung kiến thức
Tự giác tham khảo tài liệu
Đối chiếu nôi dung trong các tài liệu học tập, tìm sự khác biệt giữa chúng
Nghiên cứu kĩ các vấn đề đã học và đọc
Chuẩn bị làm thí nghiệm, thảo luận và làm bài tập đầy đủ
Tích cực học ngọai ngữ để đọc sách chuyên môn
Tham gia tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ vấn đề đã học
1.87
1.80
1.86
1.95
1.82
1.53
2.02
1.57
6
3
5
7
4
1
8
2
35
36
37
38
39
40
41
Khi sắp thi mới học bài
Chỉ cần đạt yêu cầu các môn
Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành
Ngại trả lời trong các buổi thảo luận
Xao lãng trong giờ học
Không thích học
Hứng thú học một số môn yêu thích
1.64
1.96
1.67
2.05
2.18
2.47
2.24
1
3
2
4
5
7
6
35
Ý thức được vai trò của tri thức, sinh viên đã thường xuyên học vì hai động
cơ này. Hai động cơ này có trung bình bằng nhau và cao nhất trong nhóm động cơ
lĩnh hội tri thức đã chứng tỏ điều đó. Điều này càng khẳng định thêm khi xem bảng
23 [phụ lục 1], nhận thấy lựa chọn thường xuyên cho hai động cơ này có tần số
bằng nhau (N= 239), cao nhất trong ba lựa chọn.
Ngoài ra, động cơ học để làm việc có ích cho xã hội trong nhóm động cơ xã
hội cũng có tần số lựa chọn thường xuyên là N= 239. Trong nhóm động cơ xã hội,
động cơ học để làm việc có ích cho xã hội (TB=1.25) thườngxuyên hơn động cơ
học để không thua kém bạn bè (TB=1.59). Từ đó cho thấy, sinh viên đã học vì
những động cơ rất tích cực, nhờ thế mà việc lĩnh hội tri thức được tốt hơn.
Sinh viên đã trưởng thành trong suy nghĩ, không còn học vì điểm số vì trong
nhóm động cơ cá nhân động cơ học để được điểm cao (TB=1.93, đứng thứ 5), động
cơ học để có bằng cấp (TB=1.90, thứ 4) có thứ bậc thấp nhất, đây là những động cơ
thường thấy ở học sinh phổ thông. Mức thường xuyên của động cơ học để được
điểm cao là N=93, sinh viên chỉ thỉnh thoảng học vì động cơ này thôi (N=150)
[bảng 23, phụ lục 1]. Bên cạnh đó, từ đặc điểm, sinh viên là lứa tuổi có đầy đủ
những quyền lợi và trách nhiệm của một người trưởng thành, của một công dân. Họ
có kế hoạch riêng cho hoạt động của mình, chịu trách nhiệm về hành vi và độc lập
trong phán đoán. Đây là thời kì có nhiều biến đổi về mặt động cơ, về thang giá trị xã
hội, xác định con đường sống tương lai, và bắt đầu dấn thân thể nghiệm mình trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống. Do đó mà những động cơ học để chứng tỏ năng lực bản
thân (thứ 2), học để làm việc có ích cho xã hội (thứ 1) và học để đảm bảo cuộc sống
của mình và gia đình (thứ 1) đều có thứ bậc cao nhất trong các nhóm động cơ, và
tần số lựa chọn “thường xuyên cũng rất cao N= 76, 239 và 231.
Như vậy, qua kết quả khảo sát trên toàn mẫu cho thấy sinh viên có những
động cơ học tập tích cực, hợp lí, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, đây
là điều kiện thuận lợi để sinh viên tiếp thu và tích lũy tri thức, và có khả năng đạt
được kết quả cao trong học tập.
36
Sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm trung ương Tp. Hồ Chí Minh là những
giáo viên tương lai, là những người sẽ trực tiếp tham gia vào quá trình trồng người,
một sứ mệnh cao cả của xã hội. Nếu như đa số sinh viên học vì những động cơ cá
nhân, hay tệ hơn nữa là học đơn thuần chỉ vì không muốn thua kém bạn bè, học vì
điểm số hay học vì để có được tấm bằng thì điều đó thật nguy hiểm. Nhưng may
mắn thay, sinh viên lại thường xuyên học vì những động cơ tích cực hơn như học vì
tri thức, học vì ích lợi của xã hội… Được thúc đẩy bởi những động cơ tích cực, việc
học của sinh viên sẽ thuận lợi hơn, dễ tích lũy tri thức hơn, quá trình rèn luyện của
sinh viên, quá trình đào tạo của nhà trường sẽ có khả năng thu được kết quả tốt đẹp
hơn. Và, xã hội sẽ có được những giáo viên có tri thức, có chuyên môn và có tâm
với nghề.
b) Nhóm hành động và thái độ biểu hiện tính tích cực
Được thúc đẩy bởi những động cơ bên trong, tính tích cực nhận thức của sinh
viên được thể hiện ra bên ngoài ở hành động ở lớp, hành động tự học, tự nghiên cứu,
hành động vận dụng và thái độ học tập.
Hành động vận dụng xếp bậc một về mức độ thường xuyên (TB=1.36), hành
động trên lớp xếp bậc hai (TB=1.44), kế đến là hành động tự học, tự nghiên cứu
(TB=1.80) và cuối cùng là thái độ học tập (TB=1.88). Vì khách thể nghiên cứu là
sinh viên năm hai, ba, đã đi sâu học những môn phương pháp, chuyên ngành, có
nhiều giờ thực hành, thực tập hơn nên hành động vận dụng thường xuyên nhất,
thường xuyên hơn tất cả các hành động khác. Đây thuộc về hành động vận dụng
trong học tập, tri thức có nắm vững hay không một phần phụ thuộc vào loại hành
động này. Ngược lại, hành động vận dụng đạt hiệu quả cao, phải thường xuyên hành
động tự học tự nghiên cứu, thế nhưng hành động tự học, tự nghiên cứu chỉ đứng thứ
ba, sau cả hành động trên lớp. Có lẽ do đặc thù của ngành nghề (giáo dục mầm non
và giáo dục đặc biệt) là chuyên về kĩ năng, thao tác, ít lí luận, do đó, sinh viên ít tự
học mà vận dụng, rèn luyện thường xuyên hơn.
Đứng thứ hai là nhóm hành động trên lớp. Hành động đến lớp nghe giảng
được thực hiện thường xuyên nhất (N=306) vì trường điểm danh rất chặt chẽ, đây là
37
qui chế, do đó sinh viên đã rất nghiêm túc thực hiện. Tuy nhiên, tuy là qui chế
nhưng vẫn có một số ít (N=9) chỉ thỉnh thoảng đến lớp. Như đã nói trên, đặc thù của
ngành này là rèn tay nghề, kĩ năng, thao tác, thế mà vẫn có 9 sinh viên trong mẫu ít
khi đến lớp, như thế thì làm sao thu được kết quả cao. Đứng thứ hai là chăm chú
nghe giảng. Ghi bài (TB=1.381, Thường xuyên N=220) và chăm chú nghe giảng
(TB=11.30, Thường xuyên N=206) có trung bình, tần số gần bằng nhau. Hành động
suy nghĩ và phát biểu ý kiến trong giờ học có thứ bậc thấp nhất, N=223 ở lựa chọn
thỉnh thỏang, thường xuyên là N=60. Đây là hành động học tập mang tính tích cao
giúp sinh viên tăng cường hoạt động trí tuệ nhưng nó có mức thường xuyên thấp,
một phần do cách dạy của giáo viên thiên về độc thoại, phần khác do sinh viên chưa
chịu khó động não trong quá trình học tập, ngoài ra cũng cần quan tâm đến vấn đề sỉ
số lớp học, khi lớp học quá đông thì cơ hội để sinh viên phát biểu là rất ít. Như vậy
đây cũng là con số hợp lí đối với thực trạng sỉ số tại trường hiện nay, vì nếu gần 100
sinh viên trong giờ học mà thường xuyên phát biểu thì không có đủ thời gian. Chính
sỉ số lớp quá đông cũng là một trong những nguyên nhân làm sinh viên thụ động
hơn không chỉ đối với việc phát biểu trên lớp mà cả đối với những hoạt động thực
hành thực tập.
Xếp thứ ba trong nhóm các hành động và thái độ là Hành động tự học, tự
nghiên cứu. Trong những hành động này thì hành động Chuẩn bị làm thí nghiệm,
thảo luận và làm bài tập đầy đủ xếp thứ nhất (TB=1.53), thứ hai là Tham gia tranh
luận với bạn bè để làm sáng tỏ vấn đề đã học (TB=1.57). Xem bảng thống kê tần số
nhận thấy hai hành động này có lựa chọn thường xuyên và thỉnh thoảng cũng gần
bằng nhau: Chuẩn bị làm thí nghiệm, thảo luận và làm bài tập đầy đủ Thường xuyên
N=162, thỉnh thỏang N=139; Tham gia tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ vấn đề
đã học thường xuyên N=146, thỉnh thoảng N=159; trong khi đó Đối chiếu nội dung
trong các tài liệu học tập, tìm sự khác biệt giữa chúng xếp thứ hạn gần cuối (thứ 7,
TB=1.95), điều đó một lần nữa có thể là do đặc thù ngành nghề nên sinh viên
thường quan tâm và tích cực hơn trong những hành động liên quan đến thực hành,
rèn luyện, và ít thực hiện những hành động liên quan nghiên cứu lí luận.
38
Xếp thứ ba là Tích cực bổ sung kiến thức (TB=1.80), tần số lựa chọn thỉnh
thoảng N= 206, Tự giác tham khảo tài liệu N=208 (thứ 5, TB= 1.86). Hai hành động
này là loại hành động ở mức độ cao của tính tích cực nhận thức. Nhưng xếp thứ tư
là Nghiên cứu kĩ các vấn đề đã học và đọc (TB=1.82, Thỉnh thoảng N=211), thứ sáu
là Xem lại bài sau khi nghe giảng (TB=1.87, Thỉnh thoảng N=231). Kết quả này
chứng tỏ sinh viên chưa có phương pháp học, lẽ ra nghiên cứu kỹ vấn đề đã học và
xem lại bài sau khi nghe giảng cần được thực hiện thường xuyên hơn hành động bổ
sung kiến thức và tham khảo tài liệu, bởi vì hành động sau là hệ quả của hành động
học tập trước.
Tích cực học ngoại ngữ để đọc sách chuyên môn, hành động này xếp cuối
cùng trong nhóm hành động tự học tự nghiên cứu (TB=2.02). Như vậy sinh viên chỉ
mới ở mức độ thỉnh thoảng học ngoại ngữ mà học ngoại ngữ không thể ở dạng thỉnh
thoảng mà phải thường xuyên mới đạt hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, khi
nguồn tư liệu rất phong phú, nhiều cơ hội để giao lưu học hỏi, và nhất là khi chương
trình và cách tổ chức quá trình giáo dục theo hướng đổi mới, với bậc mầm non là
tích hợp các hoạt động, nếu thiếu vốn ngoại ngữ sẽ khó tham khảo thêm tư liệu, có
sự sáng tạo, phát kiến trong công việc, hạn chế khả năng phát triển chuyên môn,
không đáp ứng được yêu cầu đổi mới.
Cuối cùng là Thái độ học tập (TB=1.88). Trong nhóm này, ba hành động có
thứ bậc cao nhất là Khi sắp thi mới học bài (bậc 1), Chỉ cần đạt yêu cầu các môn
(bậc 3) và Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành (bậc 3), kết quả
này một lần nữa chứng tỏ sinh viên chưa có phương pháp học, nên chỉ học trước lúc
thi và và còn có tâm lý phân biệt môn chính môn phụ (chuyên ngành). Tuy nhiên,
thái độ của sinh viên nhìn chung là tốt bởi vì “không thích học” có thứ bậc thấp nhất
trong nhóm (TB=2.47), trung bình tiệm cận tới giá trị thấp nhất (3), trong số liệu
thống kê bảng 1 không có hành động nào lại có trung bình thấp đến vậy. Như vậy
hầu hết sinh viên có thái độ học tập tích cực, thái độ tích cực sẽ dẫn đến hành động
học tập tích cực.
39
Tóm lại, học tập của sinh viên được thúc đẩy bởi ba động cơ, trong đó động
cơ lĩnh hội tri thức xếp bậc một. Sinh viên có thái độ học tập tích cực nhưng lại
chưa có phương pháp học nên quá trình học được tiến hành chưa hợp lý. Kết quả
này phản ánh rõ đặc thù của ngành nghề và bậc học đào tạo nên sinh viên rất tập
trung vào những hành động thực hành, thực tập và vận dụng mà không đánh giá
đúng mức việc trau dồi lí luận.
2.2.1.2. Tính tích cực nhận thức xét theo năm
2.2.1.2.1. Năm thứ 2
Kết quả khảo sát bảng 2 cho thấy mức độ trung bình của tính tích cực nhận
thức (TB=7.45) cao hơn so với mức cao của tính tích cực nhận thức (TB=6.99).
Mức độ thấp của tính tích cực nhận thức đứng thứ ba (TB=2.55). Sau một năm học
tại trường, sinh viên đã có kinh nghiệm trong việc học, có lẽ do yêu cầu của việc
học không cao, lại chưa phải là năm cuối nên sinh viên chưa bị áp lực của việc thực
tập, của việc tốt nghiệp nên sinh viên chỉ mới tích cực ở mức trung bình.
a) Nhóm động cơ bên trong thúc đẩy sinh viên tích cực nhận thức
Xét các động cơ học tập, động cơ lĩnh hội tri thức xếp thứ nhất (TB= 1.37),
kế đến là động cơ xã hội (TB= 1.43) và cuối cùng là động cơ cá nhân (TB=1.64)
Nhìn chung sinh viên năm 2 có động cơ thúc đẩy ở mức trung bình gần 1.5.
Trong đó, động cơ lĩnh hội tri thức vẫn có mức độ thường xuyên nhất. Xét các động
cơ học tập cụ thể, động cơ học để hiểu bài, học để nâng cao trình độ vẫn thường
xuyên nhất. Động cơ thỏa mãn nhu cầu tri thức xếp bậc thấp nhất. Điều đó cho thấy
sinh viên chỉ học vì những động cơ thật cụ thể, để hiểu bài, để nâng cao trình độ là
những mục tiêu rất rõ ràng, gắn liền với nghề nghiệp. Còn nhu cầu tri thức đối với
sinh viên có lẽ nghe mơ hồ quá.
Đối với động cơ xã hội và động cơ cá nhân thì có thứ bậc cũng giống với kết
quả khảo sát chung toàn mẫu. Thường xuyên nhất vẫn là hành động Học để làm
việc có ích cho xã hội và Học để đảm bảo cuộc sống của mình và gia đình
(TB=1.32), trung bình bằng nhau.
40
Bảng 2: Mô tả mức độ thường xuyên và thứ bậc của tính tích cực nhận thức
của sinh viên theo năm
TT Tiêu chí
Năm 2 Năm 3
TB
Thứ
bậc
TB
Thứ
bậc
1
2
3
Tính tích cực nhận thức mức độ cao
Tính tích cực nhận thức mức độ trung bình
Tính tích cực nhận thức mức độ thấp
6.99
7.45
2.55
2
1
3
8.40
6.68
1.92
1
2
3
4
5
6
Động cơ lĩnh hội tri thức
Động cơ xã hội
Động cơ cá nhân
1.37
1.43
1.64
1
2
3
1.28
1.42
1.71
1
2
3
7
8
9
10
Hành động trên lớp
Hành động tự học, tự nghiên cứu
Hành động vận dụng
Thái độ học tập
1.48
1.83
1.42
1.86
2
3
1
4
1.42
1.77
1.29
1.91
2
3
1
4
11
12
13
14
Học để thỏa mãn nhu cầu tri thức
Học để hiểu bài
Học để nâng cao trình độ
Học để làm chủ kiến thức
1.48
1.31
1.31
1.39
4
1
1
3
1.41
1.20
1.21
1.29
4
1
2
3
15
16
Học để không thua kém bạn bè
Học để làm việc có ích cho xã hội
1.53
1.32
2
1
1.65
1.18
2
1
17
18
19
20
21
Học để có bằng cấp
Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành
Học để đảm bảo cuộc sống của mình và gia đình
Học để được điểm cao
Học để chứng tỏ năng lực bản thân
1.82
1.63
1.32
1.86
1.54
4
3
1
5
2
1.99
1.71
1.37
2.01
1.47
4
3
1
5
2
22
23
24
25
26
Đến lớp nghe giảng
Ghi bài đầy đủ
Chăm chú nghe giảng
Suy nghĩ và phát biểu ý kiến trong giờ học
Suy nghĩ trả lời câu hỏi của giáo viên và đưa ra kết luận riêng của mình
1.04
1.37
1.35
1.98
1.65
1
3
2
5
4
1.02
1.40
1.24
1.83
1.51
1
3
2
5
4
27
28
29
30
31
32
33
34
Xem lại bài sau khi nghe giảng
Tích cực bổ sung kiến thức
Tự giác tham khảo tài liệu
Đối chiếu nôi dung trong các tài liệu học tập, tìm sự khác biệt giữa chúng
Nghiên cứu kĩ các vấn đề đã học và đọc
Chuẩn bị làm thí nghiệm, thảo luận và làm bài tập đầy đủ
Tích cực học ngọai ngữ để đọc sách chuyên môn
Tham gia tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ vấn đề đã học
1.89
1.82
1.90
2.05
1.88
1.53
2.04
1.54
5
3
6
8
4
1
7
2
1.85
1.77
1.83
1.83
1.74
1.53
2.00
1.60
7
4
5
5
3
1
8
2
35
36
37
38
39
40
41
Khi sắp thi mới học bài
Chỉ cần đạt yêu cầu các môn
Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành
Ngại trả lời trong các buổi thảo luận
Xao lãng trong giờ học
Không thích học
Hứng thú học một số môn yêu thích
1.58
1.92
1.63
2.07
2.16
2.44
1.26
2
4
3
5
6
7
1
1.71
2.01
1.71
2.03
2.20
2.51
1.21
2
4
2
5
6
7
1
41
Xem bảng 24 [phụ lục 1], tần số lựa chọn mức độ thường xuyên của nhóm
động cơ này khá cao, cao hơn hẳn so với những động cơ khác. Động cơ học để hiểu
bài và học để nâng cao trình độ có phần trăm lựa chọn thường xuyên cao hơn 70%.
Động cơ học để đảm bảo nhu cầu cuộc sống của mình và gia đình là 72.7%, và động
cơ Học để làm việc có ích cho xã hội là 70.3%.
Những động cơ Học để có bằng cấp, Học để được điểm cao, Học đạt yêu cầu
môn phụ và học tốt môn chuyên ngành có tần số lựa chọn mức độ thường xuyên
thấp hơn 50%. Như vậy, nhìn chung sinh viên năm 2 có mức độ thường xuyên ở
những động cơ tích cực cao hơn hẳn so với những động cơ không tích cực. Những
động cơ tích cực sẽ thúc đẩy hoạt động học tập đạt hiệu quả cao hơn.
b) Nhóm hành động và thái độ biểu hiện tính tích cực
Nhìn chung, mức độ thuờng xuyên và thứ bậc của các hành động và thái độ
của sinh viên năm 2 không khác so với sinh viên tòan mẫu nhiều. Hành động vận
dụng xếp bậc một về mức độ thường xuyên (TB= 1.42), hành động trên lớp xếp bậc
hai (TB=1.48), kế đến là hành động tự học, tự nghiên cứu (TB= 1.83) và cuối cùng
là thái độ học tập (TB= 1.86).
Trong nhóm hành động trên lớp, Hành động đến lớp nghe giảng được thực
hiện thường xuyên nhất (96.4%) vì đây là qui chế, do đó sinh viên buộc phải
nghiêm túc thực hiện. Chăm chú nghe giảng và ghi bài có mức thường xuyên gần
70%. Hành động suy nghĩ và phát biểu ý kiến trong giờ học có thứ bậc thấp nhất,
chỉ ở mức độ thỉnh thoảng 73.3%.
Về thái độ học tập (TB=1.88). Trong nhóm này, sinh viên năm 2 cũng giống
như sinh viên toàn mẫu có thái độ học tập tích cực: Không thích học có thứ bậc thấp
nhất (thứ 7 và TB=2.44, tiến gần tới 3).
Như vậy, sinh viên năm 2 có thái độ học tập tốt, tính tích cực ở mức trung
bình và cũng chưa có phương pháp học.
2.2.1.2.2. Năm thứ 3
Kết quả bảng 2 cho thấy tính tích cực nhận thức mức độ cao của sinh viên
năm 2 có điểm trung bình 8.40, xếp thứ nhất; tính tích cực nhận thức mức độ trung
42
bình xếp thứ hai (TB= 6.68), mức độ thấp đứng thứ 3 (TB chỉ có 1.92). Vì là sinh
năm cuối, sắp tốt nghiệp, với nhiều áp lực và nhiệm vụ học tập nên sinh viên có tính
tích cực ở mức độ cao. TB của mức độ thấp chỉ có 1.92, thấp hơn cả trung bình của
mức độ này xét trên toàn mẫu.
a) Nhóm động cơ bên trong thúc đẩy sinh viên tích cực nhận thức
Về các động cơ học tập, động cơ lĩnh hội tri thức xếp thứ nhất (TB= 1.28), kế
đến là động cơ xã hội (TB= 1.42) và cuối cùng vẫn là động cơ cá nhân (TB=1.71).
Động cơ lĩnh hội tri thức của sinh viên năm 3 có mức độ thường xuyên khá
cao (TB gần bằng 1). Xét các động cơ học tập cụ thể, động cơ học để hiểu bài, học
để nâng cao trình độ vẫn thường xuyên nhất (1.20 và 1.21). Xem bảng 24 [phụ lục
1], tần số lựa chọn mức độ thường xuyên của hai động cơ này trên 80%. Chưa bao
giờ cần thiết hơn lúc này, tri thức là hành trang đảm bảo cho các hoạt động gắn liền
chuyên môn và nghề nghiệp của sinh viên năm cuối, vì thế nhu cầu học để hiểu bài,
học để nâng cao trình độ mới có mức thường xuyên cao như thế.
Đối với động cơ xã hội và động cơ cá nhân thì có thứ bậc cũng giống với kết
quả khảo sát chung toàn mẫu. Động cơ học để có bằng cấp có tới 36% sinh viên lựa
chọn “không bao giờ”. Đây là con số cao nhất cho lựa chọn này trong nhóm động
cơ. Sinh viên xác định rõ nghề nghiệp, thái độ tích cực. Học không vì động cơ này
sẽ giúp sinh viên lĩnh hội được kiến thức tốt hơn.
b) Nhóm hành động và thái độ biểu hiện tính tích cực
Mức độ thuờng xuyên và thứ bậc của các hành động và thái độ của sinh viên
năm 3 giống với sinh viên tòan mẫu. Hành động vận dụng xếp bậc một về mức độ
thường xuyên (TB=1.29), hành động trên lớp xếp bậc hai (TB=1.42), kế đến là hành
động tự học, tự nghiên cứu (TB= 1.77) và cuối cùng là thái độ học tập (TB=1.91).
Trong nhóm hành động trên lớp, Hành động đến lớp nghe giảng được thực
hiện thường xuyên nhất (98%) vì đây là qui chế, do đó sinh viên buộc phải nghiêm
túc thực hiện, và lại là sinh viên năm cuối nên hầu như không có sinh viên vắng mặt,
chỉ có 2% sinh viên thỉnh thoảng vắng mặt. Mức độ thường xuyên của những hành
43
động trên lớp và những hành động tự học tự nghiên cứu cũng không khác với sinh
viên xét trên toàn mẫu.
Trong nhóm Hành động tự học, tự nghiên cứu, hành động Chuẩn bị làm thí
nghiệm, thảo luận và làm bài tập đầy đủ xếp thứ nhất (TB=1.53), thứ hai là Tham
gia tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ vấn đề đã học (TB=1.60). Nghiên cứu kĩ
các vấn đề đã học và đọc xếp thứ 3 (TB=1.74); trong khi đó Xem lại bài sau khi
nghe giảng lại xếp thứ 7 (TB= 1.85). Những số liệu thống kê không hợp lí đó chứng
tỏ sinh viên không có phương pháp học, không xem lại bài sau khi nghe giảng,
không hiểu sinh viên nghiên cứu kĩ những vấn đề đã học bằng cách nào? Không
tham khảo tài liệu, không nghiên cứu lí luận, không biết sinh viên tranh cãi gì với
bạn… Đã là sinh viên năm 3 mà tính tích cực tự học không cao, chưa có phương
pháp học, vấn đề đặt ra là nhà trường, thầy cô đã không chú ý rèn luyện cho sinh
viên phương pháp học tập, không chú ý hình thành thói quen tự học cho sinh viên.
Về thái độ học tập, trong nhóm này, sinh viên năm 3 có điểm đặc biệt là:
mức độ thường xuyên hầu như không có ở biểu hiện Xao lãng trong giờ học (0.7%)
và Không thích học (2%). Đây không còn là giai đoạn để sinh viên suy nghĩ đến
những chuyện khác, động cơ và định hướng nghề đã rõ ràng, do đó sinh viên rất tập
trung trong quá trình học, chỉ thỉnh thoảng xao lãng. Thái độ không thích học hầu
như không còn vì đây là giai đoạn học chuyên ngành nhiều, thực hành thực tập gắn
với nghề nên sinh viên sẽ thấy hứng thú hơn những năm học trước (học nhiều
những môn cơ bản, cơ sở, lí luận nhiều).
Như vậy, sinh viên năm 3 có thái độ học tập tốt, tính tích cực ở mức trung
bình và cũng chưa có phương pháp học.
2.2.1.2.3. So sánh tính tích cực nhận thức giữa năm thứ 2 và năm thứ 3
Sinh viên năm ba theo lẽ thường sẽ có tính tích cực nhận thức cao hơn và
thường xuyên hơn vì là sinh viên năm cuối, sắp ra trường, sắp phải hành nghề, và
đang thực hiện rất nhiều việc gắn chặt với nghề như thực hành, thực tập những môn
chuyên ngành, phải đối diện với đợt thực tập sư phạm khó khăn, đầy thử thách và
một kì thi tốt nghiệp đầy căng thẳng. Xem bảng 3 nhận thấy có sự khác biệt ý nghĩa
44
giữa tính tích cực nhận thức mức độ cao (P=0.000) và trung bình (P= 0.004). Tính
tích cực nhận thức mức độ thấp không có sự khác biệt ý nghĩa vì P= 0.013>0.005.
Bảng 3: So sánh mức độ và các tiêu chí tích cực nhận thức giữa các năm
TT Tiêu chí
Mức độ thường xuyên Kiểm nghiệm t
Năm 2 Năm 3 t P
1
2
3
Tính tích cực nhận thức mức độ cao
Tính tích cực nhận thức mức độ trung bình
Tính tích cực nhận thức mức độ thấp
6.99
7.45
2.55
8.40
6.68
1.92
-3.768
2.904
2.480
0.000
0.004
0.013
4
5
6
Động cơ lĩnh hội tri thức
Động cơ xã hội
Động cơ cá nhân
1.37
1.43
1.64
1.28
1.42
1.71
2.202
0.210
-1.643
0.028
0.834
0.101
7
8
9
10
Hành động trên lớp
Hành động tự học, tự nghiên cứu
Hành động vận dụng
Thái độ học tập
1.48
1.83
1.42
1.86
1.42
1.77
1.29
1.91
2.281
1.590
2.417
-1.355
0.023
0.113
0.016
0.177
11 Kết quả tự đánh giá 1.42 1.54 5.238 0.023
12 Kết quả kiến thực tập 8.06 9.01 53.699 0.000
13 Kết quả học kì I 7.32 7.70 1.629 0.203
Tính tích cực nhận thức mức độ cao của sinh viên năm ba (TB=8.4, bậc 1)
cao hơn của năm hai (6.99, bậc 2). Điều đó là hợp lí vì như đã nói trên, sinh viên
năm ba với những áp lực của tốt nghiệp nên buộc phải học tập một cách tích cực thì
mới đạt yêu cầu. Sở dĩ không có sự khác biệt ý nghĩa ở mức độ thấp là vì đây là số
sinh viên không tích cực nên cho dù sức ép của áp lực năm ba cũng không làm số
sinh viên này thay đổi.
Không có sự khác biệt ý nghĩa về động cơ học tập của sinh viên năm hai và
năm ba. Động cơ là cái bền vững bên trong, khó thay đổi bởi những điều kiện bên
ngoài nên sẽ khó thấy được sự thay đổi nào ở đây.
Cũng không có sự khác biệt ý nghĩa nào về các hành động và thái độ học tập
giữa hai năm. Đây là điều không bình thường, tại sao sau ba năm học tại trường, với
vô số tác động sư phạm mà sinh viên năm ba vẫn không có gì thay đổi về phương
pháp học cũng như thái độ học tập? Điều đó chứng tỏ nhà trường, các giáo viên đã
không có nhiều tác động sư phạm để sinh viên sau ba năm học tại trường ngoài việc
lĩnh hội tri thức, cái quan trọng hơn chính là phương pháp học. Phương pháp học
45
được xem là chìa khóa của sự thành công trong giai đoạn bùng nổ thông tin như
hiện nay.
Xem thêm bảng 24 [phụ lục 1], không có sự khác biệt nào giữa sinh viên
năm hai và năm ba về các hành động cụ thể, ngoại trừ hành động Đối chiếu nội
dung trong các tài liệu học tập, tìm sự khác biệt giữa chúng (P=0.001). Như vậy,
sinh viên năm ba thực hiện thường xuyên hành động này hơn sinh viên năm hai.
Đây là hành động thể hiện tính tích cực nhận thức ở mức độ cao, do đó, sinh viên
năm ba thực hiện thường xuyên hơn.
Về kết quả học tập, có sự khác biệt ý nghĩa giữa sinh viên năm hai và năm ba
về kết quả kiến thực tập (P=0.000). Sinh viên năm ba có trung bình điểm kiến thực
tập cao hơn năm hai. Điều này là hợp lí vì sinh viên năm ba có sự chuẩn bị chu đáo
hơn về chuyên môn, được đảm nhận hoàn toàn công việc của một giáo viên và các
em tích cực ở mức độ cao hơn.
Như vậy, sinh viên năm ba tích cực nhận thức ở mức độ cao hơn sinh viên
năm hai, nhưng cũng như năm hai, sinh viên năm ba cũng không có phương pháp
học vì thứ bậc các hành động như nhau, hầu như không có sự khác biệt ý nghĩa nào.
Kết quả kiến thực tập của sinh viên năm ba cao hơn sinh viên năm hai.
2.2.1.3. Tính tích cực nhận thức xét theo học lực
2.2.1.3.1. Học lực xếp loại giỏi
Theo kết quả bảng 4, sinh viên có học lực xếp loại giỏi có thứ bậc mức độ
tích cực giống với khảo sát trên toàn mẫu: tính tích cực nhận thức mức độ cao của
sinh viên có điểm trung bình 9.01, xếp thứ nhất; tính tích cực nhận thức mức độ
trung bình xếp thứ hai (TB=6.18), còn tính tích cực nhận thức mức độ thấp xếp thứ
3 (TB=1.8). Nhờ có tính tích cực nhận thức mức độ cao nên việc học của sinh viên
mới đạt hiệu quả, học lực xếp loại giỏi.
a) Nhóm động cơ bên trong thúc đẩy sinh viên tích cực nhận thức
Xét các động cơ học tập, động cơ lĩnh hội tri thức xếp thứ nhất (TB= 1.32),
kế đến là động cơ xã hội (TB= 1.52) và cuối cùng là động cơ cá nhân (TB=1.84).
46
Bảng 4: Mô tả mức độ thường xuyên và thứ bậc của tính tích cực nhận thức
của sinh viên theo học lực
TT Tiêu chí
Giỏi Khá TBK
TB
Thứ
bậc
TB
Thứ
bậc
TB
Thứ
bậc
1
2
3
Tính tích cực nhận thức mức độ cao
Tính tích cực nhận thức mức độ trung bình
Tính tích cực nhận thức mức độ thấp
9.01
6.18
1.80
1
2
3
7.67
7.27
2.06
1
2
3
6.23
7.70
3.08
2
1
3
4
5
6
Động cơ lĩnh hội tri thức
Động cơ xã hội
Động cơ cá nhân
1.32
1.52
1.84
1
2
3
1.30
1.41
1.65
1
2
3
1.38
1.34
1.53
2
1
3
7
8
9
10
Hành động trên lớp
Hành động tự học, tự nghiên cứu
Hành động vận dụng
Thái độ học tập
1.33
1.69
1.38
1.98
1
3
2
4
1.46
1.79
1.33
1.90
2
3
1
4
1.52
1.94
1.38
1.76
2
4
1
3
11
12
13
14
Học để thỏa mãn nhu cầu tri thức
Học để hiểu bài
Học để nâng cao trình độ
Học để làm chủ kiến thức
1.50
1.22
1.22
1.34
4
1
1
3
1.38
1.24
1.27
1.33
4
1
2
3
1.53
1.33
1.30
1.35
4
2
1
3
15
16
Học để không thua kém bạn bè
Học để làm việc có ích cho xã hội
1.85
1.20
2
1
1.53
1.29
2
1
1.43
1.24
2
1
17
18
19
20
21
Học để có bằng cấp
Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành
Học để đảm bảo cuộc sống của mình và gia đình
Học để được điểm cao
Học để chứng tỏ năng lực bản thân
2.07
1.77
1.56
2.09
1.70
4
3
1
5
2
1.97
1.69
1.23
1.96
1.42
5
3
1
4
2
1.59
1.51
1.33
1.72
1.48
4
3
1
5
2
22
23
24
25
26
Đến lớp nghe giảng
Ghi bài đầy đủ
Chăm chú nghe giảng
Suy nghĩ và phát biểu ý kiến trong giờ học
Suy nghĩ trả lời câu hỏi của giáo viên và đưa ra kết
luận riêng của mình
1.02
1.27
1.18
1.77
1.41
1
3
2
5
4
1.02
1.46
1.32
1.93
1.58
1
3
2
5
4
1.05
1.35
1.38
2.03
1.77
1
2
3
5
4
27
28
29
30
31
32
33
34
Xem lại bài sau khi nghe giảng
Tích cực bổ sung kiến thức
Tự giác tham khảo tài liệu
Đối chiếu nôi dung trong các tài liệu học tập, tìm sự
khác biệt giữa chúng
Nghiên cứu kĩ các vấn đề đã học và đọc
Chuẩn bị làm thí nghiệm, thảo luận và làm bài tập đầy đủ
Tích cực học ngọai ngữ để đọc sách chuyên môn
Tham gia tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ vấn
đề đã học
1.79
1.71
1.71
1.73
1.71
1.45
1.93
1.52
7
3
3
6
3
1
8
2
1.87
1.75
1.88
1.99
1.82
1.49
2.02
1.51
5
3
6
7
4
1
8
2
1.96
2.00
2.00
2.09
1.92
1.70
2.11
1.73
4
5
5
7
3
1
8
2
35
36
37
38
39
40
41
Khi sắp thi mới học bài
Chỉ cần đạt yêu cầu các môn
Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành
Ngại trả lời trong các buổi thảo luận
Xao lãng trong giờ học
Không thích học
Hứng thú học một số môn yêu thích
1.82
2.13
1.77
2.13
2.24
2.57
1.22
3
4
2
4
6
7
1
1.66
1.98
1.69
2.04
2.18
2.49
1.25
2
4
3
5
6
7
1
1.42
1.75
1.51
1.97
2.11
2.33
1.23
2
4
3
5
6
7
1
47
Nhìn chung, các động cơ bên trong thúc đẩy sinh viên giỏi tích cực nhận thức
cũng không khác với sinh viên toàn mẫu. Tuy động cơ giống nhau nhưng không có
ý chí, không có phương pháp học, không có thái độ học tập tích cực thì cũng không
thu được kết quả tốt, đó mới làm nên sự khác biệt giữa sinh viên giỏi và những sinh
viên khác.
b) Nhóm hành động và thái độ biểu hiện tính tích cực
Mức độ thuờng xuyên và thứ bậc của các hành động và thái độ của sinh viên
giỏi có điểm khác biệt so với sinh viên toàn mẫu. Hành động trên lớp xếp bậc một
về mức độ thường xuyên (TB=1.33), hành động vận dụng xếp bậc hai (TB= 1.38),
kế đến là hành động tự học, tự nghiên cứu (TB= 1.69), và cuối cùng là thái độ học
tập (TB= 1.98). Mức độ cao và trung bình có điểm trung bình gần bằng nhau, trong
khi đó, điểm trung bình của mức độ thấp thì khá cao, điều đó hợp lí vì để có được
kết quả cao trong học tập đòi hỏi sinh viên phải phấn đấu, nỗ lực học tập, thường
xuyên tích cực trong các hoạt động học tập.
Cụ thể thứ bậc các hành động trong nhóm hành động trên lớp không khác với
kết quả khảo sát trên toàn mẫu. Tuy nhiên, xem bảng 25 [phụ lục 1], những hành
động đến lớp nghe giảng, ghi bài đầy đủ, chăm chú nghe giảng hoàn toàn không có
lựa chọn “không bao giờ” (0%). Là nhóm sinh viên học lực giỏi nên ý thức được
tầm quan trọng của giờ lên lớp. Đó là điều hợp lí vì muốn có được tri thức, không
nên tìm ở đâu xa, trước hết là trong giờ học trên lớp. Bài giảng của giảng viên là
những nội dung đã được chắt lọc, những nội dung cơ bản nhất. Có được những kiến
thức cơ bản đó rồi mới xem xét tới những nguồn tri thức khác. Sinh viên giỏi cũng
tỏ ra tích cực hoạt động trên lớp hơn. Điều đó được thể hiện qua hành động Suy
nghĩ và phát biểu ý kiến trong giờ học, Suy nghĩ trả lời câu hỏi của giáo viên và đưa
ra kết luận riêng của mình, đây là hai hành động thể khiển tính tích cực cao. Hai
hành động này có lựa chọn “không bao giờ” rất thấp: 4.9% và 1.2%.
Hành động tự học tự nghiên cứu cũng như thái độ học cũng giống kết quả
khảo sát trên toàn mẫu. Như vậy nhìn chung sinh viên giỏi có mức độ nhận thức ở
mức độ cao. Tuy nhiên, tuy là sinh viên giỏi nhưng vẫn không có phương pháp học
48
vì thứ bậc của nhóm hành động tư học, tự nghiên cứu không có khác biệt với
toàn mẫu.
2.2.1.3.2. Học lực xếp loại khá
Kết quả khảo sát bảng 4 cho thấy mức độ thường xuyên và thứ bậc của
tính tích cực nhận thức của sinh viên học lực khá giống với sinh viên toàn
mẫu về thứ bậc các tiêu chí và hành động: tính tích cực nhận thức mức độ cao
của sinh viên có điểm trung bình 7.6, xếp thứ nhất; tích cực mức trung bình xếp thứ
hai (TB=7.27) và tính tích cực nhận thức mức độ thấp đứng thứ 3 (TB chỉ có 2.06).
Nhóm động cơ bên trong thúc đẩy sinh viên tích cực nhận thức và nhóm
hành động và thái độ biểu hiện tính tích cực có thứ bậc hoàn toàn giống với khảo sát
sinh viên toàn mẫu nên xin không bình luận gì thêm
2.2.1.3.3. Học lực xếp loại Trung bình khá - Yếu
Kết quả khảo sát bảng 4 cho thấy mức độ trung bình của tính tích cực nhận
thức (TB= 7.70) cao hơn so với mức độ cao của tính tích cực nhận thức (TB= 6.23).
Mức độ thấp của tính tích cực nhận thức đứng thứ ba, nhưng lại có trung bình khá
cao (TB=3.08). Cho thấy sinh viên có học lực trung bình khá- yếu có tính tích cực
nhận thức ở mức trung bình.
a) Nhóm động cơ bên trong thúc đẩy sinh viên tích cực nhận thức
Xét các động cơ học tập, đặc biệt động cơ lĩnh hội tri thức xếp thứ hai
(TB=1.38), nhường thứ bậc cao nhất cho động cơ xã hội (TB=1.34) và cuối cùng là
động cơ cá nhân (TB=1.53). Đối với những sinh viên này việc học thường xuyên
được thúc đẩy bởi động cơ xã hội, bởi bạn bè hơn là vì học vì tri thức.
Xét thứ bậc các động cơ cụ thể trong ba nhóm động cơ không khác nhiều so
với thứ bậc khi xét toàn mẫu. Tuy nhiên xem bảng 25 [phụ lục 1], có khác về tần số
lựa chọn của một số động cơ. Như động cơ học vì có ích cho xã hội (mức độ thường
xuyên (75.9%), học để nâng cao trình độ, học để đảm bảo cuộc sống của mình và
gia đình (72.2%) cao nhất trong nhóm các động cơ. Đặc biệt động cơ học vì bằng
cấp trên 50%, tỉ lệ cao nhất trong các nhóm, cho thấy sinh viên nhóm này học vì
những động cơ không tích cực nên kết quả học tập không cao.
49
b) Nhóm hành động và thái độ biểu hiện tính tích cực
Hành động vận dụng xếp bậc một về mức độ thường xuyên (TB= 1.38), hành
động trên lớp xếp bậc hai (TB=1.52), kế đến là thái độ học tập (TB= 1.76), và cuối
cùng là hành động tự học, tự nghiên cứu (TB= 1.94). Số liệu trên cho thấy sinh viên
có kết quả học tập thấp là điều dễ hiểu vì hoạt động quan trọng trong hoạt động học
tập của sinh viên chính là hoạt động tự học, tự nghiên cứu, đây là một khác biệt đặc
trưng của hoạt động học tập của sinh viên và học sinh phổ thông, vậy mà sinh viên
lại rất ít khi tự học, tự nghiên cứu. Hành động vận dụng là hành động thường xuyên
nhất. Một phần do đặc thù của ngành nghề (giáo dục mầm non và giáo dục đặc biệt)
là chuyên về kĩ năng, thao tác, do đó, sinh viên ít tự học mà vận dụng, rèn luyện
thường xuyên hơn.
Trong nhóm hành động trên lớp, hành động đến lớp nghe giảng được thực
hiện thường xuyên nhất (TB=1.05). Xếp thứ hai là Ghi bài đầy đủ (TB=1.35), kế
tiếp là chăm chú nghe giảng (TB=1.38). Thứ tư và thứ năm là hai hành động còn lại.
Nhìn chung, về thứ bậc thì không có nhiều khác biệt so với các nhóm khác.
Thái độ học tập xếp thứ ba (TB=1.76). Trong nhóm này, ba hành động có thứ
bậc cao nhất là Hứng thú học một số môn yêu thích (TB=1.23), Khi sắp thi mới học
bài (TB= 1.42), Học đạt yêu cầu môn phụ và học tốt môn chuyên ngành (TB= 1.51).
Trong khi đó những hành động thể hiện thái độ tích cực thì lại chỉ ở mức thỉnh
thoảng trên 70%: Xem lại bài sau khi nghe giảng (75.9%), Tích cực bổ sung kiến
thức (74.7), Tự giác tham khảo tài liệu (77.2%); và còn có một số ít sinh viên không
bao giờ có những hành động này (>10%)
Hành động tự học, tự nghiên cứu có thứ bậc từ cao đến thấp như sau:
- Chuẩn bị làm thí nghiệm, thảo luận và làm bài tập đầy đủ bậc 1, TB= 1.70
- Tham gia tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ vấn đề đã học bậc 2, TB=1.73
- Nghiên cứu kĩ các vấn đề đã học và đọc bậc 3, TB= 1.92
- Xem lại bài sau khi nghe giảng xếp bậc 4, TB= 1.96
- Tích cực bổ sung kiến thức bậc 5, TB= 2.00
- Tự giác tham khảo tài liệu bậc 5, TB= 2.00
50
- Đối chiếu nội dung trong các tài liệu học tập, tìm sự khác biệt giữa chúng
bậc 7, TB=2.09
- Tích cực học ngọai ngữ để đọc sách chuyên môn bậc 8, TB= 2.11
Thứ bậc như trên của hành động tự học không logic. Muốn chuẩn bị làm bài
tập và làm thí nghiệm đầy đủ và đạt được hiệu quả nên thường xuyên xem lại bài
sau khi nghe giảng, sau đó mới nghiên cứu kỹ các vấn đề đã học. Dựa trên cơ sở
hiểu biết những tri thức cơ bản mới có thể vận dụng nó vào việc giải bài tập và
chuẩn bị thí nghiệm một cách đúng đắn nhất, hiệu quả nhất. Sinh viên có học lực
trung bình- yếu chưa biết cách tổ chức trình tự các hành động học tập một cách hợp
lí để đạt hiệu quả cao nhất. Các em thường làm bài tập ngay, khi không làm được
hay khi có yêu cầu chuẩn bị thực hành mới mở sách xem lại, vừa xem phần lí thuyết,
vừa làm bài tập. Với cách học như vậy sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn.
Nếu biết tổ chức quá trình học tập hợp lí hơn (đúng thứ bậc các hành động
học tập) thì có thể cải thiện phần nào kết quả học tập của sinh viên học lực trung
bình khá – yếu.
2.2.1.3.4. So sánh tính tích cực nhận thức giữa các nhóm học lực
Bảng 5: So sánh mức độ và các tiêu chí tích cực nhận thức giữa các nhóm học lực
TT Tiêu chí
Mức độ thường xuyên Kiểm nghiệm F
Giỏi Khá TBK F P
1
2
3
Tính tích cực nhận thức mức độ cao
Tính tích cực nhận thức mức độ trung bình
Tính tích cực nhận thức mức độ thấp
9.01
6.18
1.80
7.67
7.27
2.06
6.23
7.70
3.08
14.800
9.033
7.784
0.000
0.000
0.001
4
5
6
Động cơ lĩnh hội tri thức
Động cơ xã hội
Động cơ cá nhân
1.32
1.52
1.84
1.30
1.41
1.65
1.38
1.34
1.53
1.089
3.726
13.696
0.338
0.025
0.000
7
8
9
10
Hành động trên lớp
Hành động tự học, tự nghiên cứu
Hành động vận dụng
Thái độ học tập
1.33
1.69
1.38
1.98
1.46
1.79
1.33
1.90
1.52
1.94
1.38
1.76
8.907
11.093
0.378
11.561
0.000
0.000
0.686
0.000
11 Kết quả tự đánh giá 1.63 1.46 1.34 15.945 0.000
12 Kết quả kiến thực tập 8.99 8.45 8.14 34.303 0.000
13 Kết quả học kì I 8.28 7.46 6.76 278.35 0.000
51
Bảng 5 cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa rất lớn giữa ba nhóm sinh viên có
học lực giỏi, khá và trung bình khá – yếu về cả ba mức độ tích cực nhận thức
(P<0.005). Sinh viên giỏi thường xuyên tích cực cao (TB=9.01) thường xuyên hơn
tích cực mức độ thấp (TB=1.8). Sinh viên khá có mức độ tích cực cao và trung bình
tương đương nhau (TB=7.67~7.27). Ngược lại, sinh viên trung bình khá – yếu
thường xuyên tích cực ở mức trung bình hơn mức độ cao (TB=7.70>6.23); trong đó
sinh viên trung bình khá – yếu có điểm trung bình mức độ thấp cao nhất trong ba
nhóm. Chính vì vậy mà chất lượng, nội dung tri thức của nhóm sinh viên có học lực
trung bình sẽ thấp hơn các sinh viên khá, giỏi.
Có sự khác biệt ý nghĩa về động cơ cá nhân giữa ba nhóm sinh viên
(P=0.000). Sinh viên trung bình khá – yếu có mức thường xuyên ở động cơ này cao
nhất (TB=1.53), kế đến là sinh viên khá (TB=1.65) và cuối cùng ít thường xuyên
nhất là sinh viên giỏi (TB=1.84).
Xem bảng 25 [phụ lục 1], các động cơ trong nhóm động cơ cá nhân có sự
khác biệt ý nghĩa: Học để đảm bảo cuộc sống của mình và gia đình (P=0.000), Học
để được điểm cao (P=0.005) và Học để chứng tỏ năng lực bản thân (P=0.003).
Nhóm có học lực thấp thì thường xuyên học vì động cơ này hơn là nhóm có học lực
cao hơn. Ví dụ: lựa chọn thường xuyên của Học để đảm bảo cuộc sống của mình và
gia đình có 51.2% sinh viên giỏi chọn, 72.2% sinh viên trung khá- yếu chọn; còn
Học để được điểm cao 19.5% sinh viên giỏi chọn, 41.8% sinh viên trung khá- yếu
chọn. Yếu tố này đã góp phần ảnh hưởng tới kết quả học tập.
Ngoại trừ Hành động vận dụng không có sự khác biệt, còn lại Hành động
trên lớp, Hành động tự học, tự nghiên cứu và Thái độ học tập có sự khác biệt rất lớn
(P= 0.000). Trong ba nhóm sinh viên, sinh viên giỏi thường xuyên hành động trên
lớp (1.33) và hành động tự học, tự nghiên cứu (TB=1.69) nhất.
Xét các hành động trên lớp, bảng 25 [phụ lục 1] cho thấy hành đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTLH027.pdf