Luận văn Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt

Tài liệu Luận văn Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________ TRẦN THỊ HUỆ TÌNH THÁI GIẢM NHẸ TRONG DIỄN NGÔN TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Trần Thị Huệ LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Dư Ngọc Ngân. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học – Công nghệ sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm TP.HCM, Thư viện tổng hợp TP.HCM, Thư viện Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM và đặc biệt là Quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ - khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm TP.HCM cũng như Quý t...

pdf146 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________ TRẦN THỊ HUỆ TÌNH THÁI GIẢM NHẸ TRONG DIỄN NGÔN TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Trần Thị Huệ LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Dư Ngọc Ngân. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học – Công nghệ sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm TP.HCM, Thư viện tổng hợp TP.HCM, Thư viện Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM và đặc biệt là Quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ - khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm TP.HCM cũng như Quý thầy cô giảng dạy tôi trong thời gian học Cao học đã tận tình giúp đỡ và đóng góp cho tôi những ý kiến quý báu. Đó chính là nền tảng giúp tôi hoàn thành luận văn này. Trần Thị Huệ QUY ƯỚC VIẾT TẮT 1. Hành động ngôn từ: HĐNT 2. Phân tích diễn ngôn: PTDN 3. Quán ngữ tình thái: QNTT 4. Tình thái giảm nhẹ: TTGN 5. Tiểu từ tình thái: TTTT MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại, khái niệm tình thái của logic học được hình thành dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu (necessity) và tính khả hữu (possibility) được phản ảnh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn sắc thái đa dạng. Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, người ta không thể không lưu ý đến mối quan hệ giữa cách con người diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế giới đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con người diễn đạt khác nhau về thế giới. Hơn nữa một trong hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ là giao tiếp xã hội. Trong quá trình giao tiếp, hoạt động trao đổi giữa người nói và người nghe là hoạt động được tiến hành từ cả hai phía. Trong mỗi câu nói của người này hay người kia ngoài nội dung nghĩa biểu hiện, tức nghĩa biểu thị sự tình trong thế giới khách quan, còn có một nội dung nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa sự tình với thế giới khách quan hoặc thái độ của người nói. Nội dung đó, ta gọi là tình thái của câu. Charles Bally đã cho rằng tính tình thái là linh hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái. Mặt khác vấn đề tình thái mà cụ thể là tình thái giảm nhẹ (TTGN) còn gắn liền với tính lịch sự trong giao tiếp, gắn với ngôn ngữ trong sự hành chức của nó. Không thể chỉ xem xét ngôn ngữ như một yếu tố tĩnh tại mà là một hoạt động mang tính liên cá nhân. Giao tiếp như thế nào để đạt được hiệu quả giao tiếp và hơn thế nữa làm thế giao tiếp phải thể hiện nét văn hóa, lịch sự là một điều quan trọng. Nắm bắt về TTGN mà cụ thể là việc nắm bắt hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN sẽ góp phần giúp cho hoạt động giao tiếp đạt được những yêu cầu này. Về lĩnh vực tình thái trong tiếng Việt, từ những năm 40 với các tác giả Trần Trọng Kim, Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ trong “Grammaire Annamite”, tình thái đã được chú ý đến khi các tác giả đề cập đến “thái độ của người nói”. Sau này, những nghiên cứu có tính chất khai phá và đi sâu hơn về tình thái đã xuất hiện với các tác giả như Hoàng Phê [64], [65]; Nguyễn Đức Dân [11]; Cao Xuân Hạo [23], [24], [25]. Rồi đến những chuyên khảo về tình thái cũng liên tục xuất hiện từ Phạm Hùng Việt [92]; Nguyễn Văn Hiệp [28], [29], [30], [31]; Phạm Thị Ly [51]; Nguyễn Thị Lương [48]; Nguyễn Thị Ngọc Hân [27]…Các tác giả nghiên cứu nhiều phương diện của vấn đề tình thái như: nghĩa tình thái của từ; logic tình thái đến logic ngôn ngữ học; từ ngữ pháp chức năng đến ngữ dụng học và đặc trưng tình thái của từ, của câu; chuyên sâu hơn về đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt, về tiểu từ tình thái, vị từ tình thái…Tuy nhiên, nghiên cứu về TTGN mà cụ thể hơn nghiên cứu chi tiết để hệ thống hóa các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt vẫn còn bỏ ngỏ cho dù thực tế việc sử dụng các phương tiện biểu thị TTGN rất phổ biến trong diễn ngôn tiếng Việt Những vấn đề đã trình bày ở trên đã khuyến khích chúng tôi chọn đề tài “Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu của mình. Về mặt lí luận: Trên cơ sở kế thừa và phát triển các thành tựu đã có, khi nghiên cứu về TTGN và xây dựng được một hệ thống các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt, chúng tôi hy vọng mang đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về vấn đề tình thái trong ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng. Về mặt thực tiễn: Chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần trong việc ứng dụng cho việc giao tiếp và dạy tiếng. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi biết vận dụng những phương tiện tình thái trong đó có phương tiện TTGN. Việc dạy tiếng Việt cho người Việt cũng như cho người nước ngoài sẽ đơn giản hơn, hiệu quả hơn khi chúng ta giúp họ nhận biết và sử dụng một hệ thống phương tiện biểu thị tình thái nói chung TTGN nói riêng của tiếng Việt. Bởi nó là một trong những cơ sở để người nói tạo dựng phát ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm bắt đúng ý định giao tiếp của người nói. 2. Lịch sử vấn đề Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TTGN, các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt nhưng qua quá trình tổng hợp và tham khảo tài liệu chúng tôi nhận thấy những công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trên còn rất hạn chế, có thể nói chỉ có một bài viết của tác giả Nguyễn Xuân Thơm [79] là đề cập đến TTGN nhưng giới hạn trong diễn ngôn đàm phán thương mại quốc tế. Bởi vậy, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ điểm qua một số công trình nghiên cứu có tính chất nổi bật về vấn đề tình thái trong tiếng Việt nói chung, trong đó có những nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề về phương tiện biểu thị tình thái. Về các tác giả nước ngoài: Các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev, Bystrov khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga) đã có đề cập đến tiểu từ tình thái. Họ phân loại tiểu từ tình thái theo tiêu chí ngữ nghĩa như: tiểu từ có tính chất nghi vấn, tiểu từ nhấn mạnh, tiểu từ chỉ ra sự đối lập. Tuy nhiên họ xem tiểu từ tình thái như là một từ loại của tiếng Việt hơn là một phương tiện biểu thị tình thái [theo 51; 34]. Một tác giả nước ngoài khác cũng quan tâm đến ngữ pháp tiếng Việt, đó là V.S. Panfilov (2003). Trong chương VIII của cuốn sách “Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt” [62] (cũng viết bằng tiếng Nga do Nguyễn Thủy Minh dịch), ông đã trình bày về bán hư từ, trong đó có đề cập ngắn gọn đến từ tình thái. Ông cho rằng: “Lớp ngữ pháp này bao gồm những từ như: có lẽ, hình như, quả nhiên, đương nhiên…Những từ này được sử dụng với chức năng định ngữ của câu, thể hiện sự đánh giá đối với sự việc được nhắc tới trong câu, hoặc đối với chính phát ngôn như một hành động lời nói” [62; 277]. Như vậy, có thể thấy chưa có một tác giả nước ngoài nào nghiên cứu chuyên sâu về tình thái cũng như những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt. Về các tác giả trong nước: Có thể chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến tình thái trong tiếng Việt thành hai nhóm: (1) Các tác giả không trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái nhưng trong quá trình xử lí các vấn đề khác họ đã có ít nhiều đụng chạm đến một bộ phận vấn đề tình thái, như: Nguyễn Kim Thản (1977), Đái Xuân Ninh (1978), Lê Cận – Phan Thiều (1983), Bùi Tất Tươm (1997), Đinh Văn Đức (2001), Diệp Quang Ban (2008), Nguyễn Thiện Giáp (2008). (2) Các tác giả trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái, họ nghiên cứu rất chi tiết và có nhiều kiến giải sâu sắc vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến những tên tuổi như: Hoàng Phê, Hồ Lê, Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Đức Dân, Hoàng Tuệ, Phạm Hùng Việt, Huỳnh Văn Thông, Nguyễn Thị Lương, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Văn Hiệp, Lê Đông, Nguyễn Xuân Thơm, Phạm Thị Ly, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị Ngọc Hân, Ngô Thị Minh, Võ Đại Quang. Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về một số đóng góp của các tác giả nhóm 2 này. Có thể nói Hoàng Phê với bài viết “Phân tích ngữ nghĩa” (1975) [64], “Toán tử logic – tình thái” (1984) [65] và Hồ Lê (1979) với bài viết “Vấn đề logic ngữ nghĩa và tính thông tin trong lời nói” [44] đã gợi mở cho nhiều nghiên cứu về nghĩa tình thái xuất hiện sau này. Hoàng Phê (1984) đi sâu trong việc vận dụng logic của ngôn ngữ tự nhiên để phân tích ngữ nghĩa của một số từ thường dùng hoặc của những đơn vị mà ông gọi là “toán tử logic – tình thái” – phương tiện biểu thị tình thái. Ông cho rằng “nếu quan niệm toán tử trong ngôn ngữ là những đơn vị ngôn ngữ mà khi dùng tác động đến các đơn vị ngôn ngữ thuộc một cấp độ nào đó thì cho ta những đơn vị ngôn ngữ mới (thường là cùng cấp độ), thì có thể nói rằng có toán tử ở tất cả các cấp độ” [65; 5]. Như vậy có toán tử ở cấp độ ngữ âm như thanh điệu, cấp độ từ vựng, cấp độ cú pháp...“Về hình thức toán tử logic – tình thái có thể là một từ, một tổ hợp từ (có khi có hình thức câu) hoặc chỉ đơn giản là một ngữ điệu” [65; 7]. Cũng trong “Toán tử logic – tình thái”, ông phát biểu rằng “Con người sử dụng ngôn ngữ không chỉ nói về hiện thực, mà còn nói nhận thức, sự đánh giá, thái độ của mình, không những nói bằng hiển ngôn, mà còn dùng tiền giả định và nói bằng hàm ngôn. Tất cả những điều đó làm cho tương ứng với các kết tố mệnh đề, ngôn ngữ tự nhiên sử dụng một loạt những toán tử logic – tình thái có chức năng tạo ra những lời có yếu tố tình thái và có thể có cấu trúc ngữ nghĩa nhiều tầng (tiền giả định, hiển ngôn, hàm ngôn)” [65; 7]. Rõ ràng những công trình của Hoàng Phê nêu trên là những đóng góp quý báu cho việc nghiên cứu các phương tiện biểu thị tình thái nói chung, TTGN nói riêng. Sau này, Hồ Lê (1992), trong “Cú pháp tiếng Việt” [45], còn xem trật tự từ như là một trong những phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Việt. Việc đảo trật tự, thay đổi cấu trúc của câu có thể thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào đó trong phát ngôn. Năm 1985, Phan Mạnh Hùng có bài viết “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và ranh giới từ” [36]. Tác giả đã có những nhìn nhận sâu hơn về tiểu từ tình thái tiếng Việt trong khung nghiên cứu từ loại như vị trí các tiểu từ trong hệ thống từ loại, khả năng các tiểu từ kết hợp với nhau…. Cũng đi vào lĩnh vực phân tích ngữ nghĩa của lời nhưng ở góc độ của logic tình thái, Nguyễn Đức Dân (1987) đã có những công trình có tính chất quan trọng về logic tình thái. Trong “Logic – Ngữ nghĩa – Cú Pháp” [11], ông cho rằng: “Logic tình thái là một công cụ hữu hiệu để miêu tả và nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Và các ngôn ngữ tự nhiên cũng đặt ra hàng loạt vấn đề về tình thái logic” [11; 39]. Nguyễn Đức Dân đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề tình thái như sau: “Tình thái là một vấn đề rất rộng và còn rất mông lung mà các nhà logic học, các nhà kí hiệu học và các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Nhưng từ các cách tiếp cận khác nhau và các phương pháp khác nhau lại dẫn đến những kết quả gặp gỡ nhau” [11; 40]. Tác giả cũng nêu ra tính đa nghĩa của từ tình thái. Chỉ cần thay thế từ tình thái này bằng từ tình thái khác trong cùng một phát ngôn sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau về phát ngôn đó (ví dụ từ có thể và từ phải). Và tác giả còn cho rằng điều đó là do các tác tử tình thái thuộc về hai lớp tình thái khác nhau: tình thái đạo nghĩa và tình thái nhận thức [11; 41]. Hoàng Tuệ (1988) với hai bài viết: “Nhận xét về thời, thể và tình thái trong tiếng Việt” [87; 729] và “Về khái niệm tình thái” [87; 734] in trong “Hoàng Tuệ tuyển tập Ngôn ngữ học” (2001) cho ta một cái nhìn khái quát về vấn đề tình thái trong tương quan đối chiếu với khái niệm thời, thể và tình thái trong ngôn ngữ Châu Âu. Tác giả cũng đề cập đến sự thể hiện ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt. Luận án phó tiến sĩ của Phạm Hùng Việt năm 1996, sau này được xuất bản thành sách có tựa đề “Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại” (2003) [92], đã đề cập đến chức năng cơ bản của những đơn vị mà ông gọi là “trợ từ câu”, “trợ từ bộ phận” trong tiếng Việt hiện đại. Cũng trong cuốn sách này, khi trình bày về phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ học ông đã đề cập đến các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Ông cho rằng: “Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình thái, các phương tiện dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng” [92; 37]. Ông đã liệt kê một hệ thống các phương tiện như: ngữ âm (ngữ điệu, trọng âm), từ vựng (động từ tình thái, phụ từ, trợ từ, thán từ, quán ngữ tình thái), ngữ pháp (đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu...). Đặc biệt qua phân tích cách sử dụng của trợ từ tiếng Việt, tác giả đã cho rằng: “trợ từ tiếng Việt có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành vi ngôn ngữ khác nhau gồm cả các hành vi ngôn ngữ chân thực và các hành vi ngôn ngữ gián tiếp” [92; 133]. Điều này chứng tỏ khả năng to lớn của trợ từ tiếng Việt trong việc tham gia biểu thị các ý nghĩa hàm ẩn của phát ngôn. Theo chúng tôi, các hành động ngôn từ (HĐNT) gián tiếp, cách biểu thị ý nghĩa hàm ẩn cũng có thể là phương tiện biểu thị ý nghĩa TTGN. Nghiên cứu chuyên sâu về vị từ tình thái là luận án tiến sĩ “Vị từ tình thái tiếng Việt” [80] của tác giả Huỳnh Văn Thông (1996). Sau này, tác giả còn có bài viết “Mấy nhận xét về vị từ tình thái và ý nghĩa thể trong tiếng Việt” (2000) [81] đã đề cập đến vấn đề tình thái mà cụ thể là vị từ tình thái ở nhiều mức độ và góc cạnh khác nhau. Nguyễn Thị Lương (1996) nghiên cứu chuyên sâu về “Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” [48] (gồm mười tiểu từ tình thái: à, ư, hả, sao, phỏng, chắc, chăng, chứ, nhỉ nhé). Luận án phó tiến sĩ này của tác giả đã “vận dụng lí thuyết hành vi ngôn ngữ vào việc nghiên cứu chuyên sâu mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi nhằm tìm ra các hành vi ngôn ngữ mà tiểu từ tình thái dứt câu có khả năng biểu thị trong những ngữ cảnh cụ thể mà chúng xuất hiện, miêu tả đánh giá hiệu lực của các hành vi đó” [48; 2]. Cũng như công trình nêu trên của tác giả Phạm Hùng Việt, trong phần cơ sở lí luận của luận án, tác giả Nguyễn Thị Lương đã nêu ra những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái tương tự, bao gồm: phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tác giả xếp mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi nêu trên thuộc phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái chủ quan. Đi sâu vào việc miêu tả những phương tiện của tiếng Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình thái, Cao Xuân Hạo (1998), trong công trình “Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa” [23], đã có những kiến giải và nhận xét hết sức sâu sắc về tiền giả định và hàm ý trong một số vị từ tình thái tiếng Việt. Sau này trong “Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng” (2006) [25] một lần nữa ông trở lại vấn đề tình thái qua việc phân tích rất chi tiết về đề tình thái - siêu đề và thuyết tình thái – thuyết giả. Ông xem chúng như những phương tiện đặc thù của tiếng Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình thái. Nguyễn Văn Hiệp (2001) nghiên cứu trọng tâm vào các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt. Trong “Về một khía cạnh phân tích tầm tác động tình thái” [29], tác giả nghiên cứu về những vấn đề như: điều kiện tình thái cuối câu xuất hiện, khả năng kết hợp của các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt. Một đóng góp quan trọng của Nguyễn Văn Hiệp là đã miêu tả và phân loại các tiểu từ tình thái cuối câu một cách rõ ràng. Bài viết “Hướng đến một cách miêu tả và phân loại các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt” [28] của ông đã góp phần làm nên cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về lớp từ này. Và trong công trình chung Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003) “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học” [17], hai tác giả đã khái quát về khái niệm tình thái “góp phần làm rõ một số phương diện chính yếu của phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ cũng như những vấn đề có liên quan” [17; 63]. Không những thế, năm 2007, trong “Một số phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ” [30], Nguyễn Văn Hiệp một lần nữa đã “nêu ra một bức tranh đa góc cạnh về tình thái” [30; 27] khi đi vào phân tích một cách chi tiết và nêu ra một số đối lập chủ yếu của tình thái trong ngôn ngữ. Đến năm 2008, trong công trình “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” [31], công trình mà trong đó Nguyễn Văn Hiệp đã tổng hợp lại nhiều vấn đề về tình thái, tác giả nhận định rõ vai trò của tình thái rằng: “Nếu không quan tâm đến các bình diện của tình thái, thì chúng ta sẽ không thể hiểu được bản chất của ngôn ngữ, với tư cách là công cụ con người dùng để phản ảnh thế giới trong hoạt động nhận thức và tương tác xã hội. Không có tình thái, nội dung được thể hiện trong câu nói chỉ là những mảnh nguyên liệu rời rạc.” [31; 74] Có thể nói bài viết đề cập trực tiếp nhất đến TTGN là bài viết “Các phương thức biểu thị tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn đàm phán thương mại quốc tế” [79] của Nguyễn Xuân Thơm (2002). Tác giả tập trung nghiên cứu về các phương thức biểu thị thái độ đối với người nghe trong diễn ngôn đàm phán tiếng Anh và tiếng Việt và đã đưa ra một số phương thức sau: sử dụng yếu tố đánh dấu lịch sự (please – xin), sử dụng nguồn lực ý nghĩa tích cực của từ, sử dụng nguồn lực các lượng từ hạn định, sử dụng nguồn lực từ tình thái. Bài viết này khá thú vị tuy nhiên nó chỉ giới hạn trong diễn ngôn đàm phán thương mại. Tác giả Phạm Thị Ly (2003) nghiên cứu theo hướng đối chiếu về phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái, đó là “Đối chiếu một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt và tiếng Anh” [51]. Khi lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ nguồn, tác giả đã đi vào phân tích, tìm hiểu thức của vị từ như một phương tiện đặc thù diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Anh để đối chiếu với những phương tiện diễn đạt ý nghĩa tương ứng của tiếng Việt. Và khi lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ nguồn, tác giả chọn tiểu từ tình thái như một phương tiện quan trọng diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Việt mà tiếng Anh không có. Như vậy trọng tâm của luận án là đi vào nghiên cứu đối chiếu thức vị từ và tiểu từ tình thái mà thôi. Cũng trong luận án này, tác giả cho rằng “Tiếng Việt còn có một phương tiện hết sức đặc thù để diễn đạt ý nghĩa tình thái, đó là những yếu tố tình thái được xử lý như một phần đề hoặc như một phần thuyết của câu” [51; 77]. Đây chính là cái mà Cao Xuân Hạo gọi là siêu đề và thuyết giả như đã nêu trên. Công trình chung “Thành phần câu tiếng Việt” [83] của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (2004) đã dành hẳn một chương để trình bày về một thành phần phụ của câu: tình thái ngữ. Hai tác giả không chỉ trình bày khái niệm về tình thái ngữ mà còn phân biệt tình thái ngữ với các thành tố khác trong câu, phân loại tình thái thái ngữ và nêu ra điều kiện sử dụng của chúng trong câu. Cũng nghiên cứu theo hướng đối chiếu như tác giả Phạm Thị Ly, Nguyễn Thị Ngọc Hân (2005) đã có công trình nghiên cứu “Tiểu từ tình thái cuối câu trong hội thoại tiếng Việt (so sánh với tiếng Nhật) và việc giảng dạy nó cho người Nhật” [27]. Hai công trình của hai tác giả này có giá trị ứng dụng cao vào việc dạy tiếng cho người nước ngoài. Luận án đã khảo sát con đường chuyển nghĩa của các tiểu từ tình thái cuối câu, sự gắn kết chặt chẽ của chúng với phát ngôn, tình trạng niềm tin của người nói được thể hiện qua sự có mặt của chúng trong phát ngôn. Tác giả Ngô Thị Minh (2005) với bài viết “Bàn thêm một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái trong ngôn ngữ hội thoại” [54], đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, đã cho rằng: “Ngôn ngữ hội thoại mang nhiều yếu tố tình thái và phương tiện biểu hiện loại ý nghĩa này cũng khá đa dạng” [54;1]. Ngoài các phương tiện về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp như đã nêu ở trên, tác giả đã bổ sung thêm ba phương tiện: sử dụng tiếng chửi, lời nói tục; sử dụng các thành ngữ quán ngữ; sử dụng kiểu nói lửng. Ngoài ra, còn có tác giả Võ Đại Quang (2008) bàn về “Tình thái trong câu – phát ngôn: một số vấn đề lí luận cơ bản” [72]. Tác giả giúp người đọc nhận thấy “mối liên hệ giữa tình thái và các thành tố ngữ nghĩa khác trong phát ngôn và về những vấn đề, những yếu tố cần yếu trong nghiên cứu về tình thái của đơn vị “câu” (sentence) với tư cách là những phát ngôn (utterances) trong giao tiếp liên nhân” [72; 1]. Trong phần viết về các phương thức chuyển tải nghĩa tình thái trong ngôn ngữ, tác giả cho rằng tình thái có thể được chuyển tải bằng phương tiện ngôn ngữ thông qua con đường từ vựng hóa, ngữ pháp hóa và ngôn điệu hóa. Như vậy, quan điểm của tác giả về các phương tiện biểu thị tình thái cũng giống như các tác giả khác đã nêu ở trên tuy nhiên tác giả đã khẳng định rõ vai trò của các phương tiện biểu thị tình thái bằng lời nhận xét: “Việc học và sử dụng chuẩn xác các phương tiện tình thái sẽ giúp ích rất nhiều trong việc duy trì và cải thiện quan hệ liên nhân trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể bằng ngôn từ.” [72; 8] Có thể nói việc nghiên cứu về tình thái, vấn đề nghĩa tình thái trong tiếng Việt đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Từ bước đầu tiên chỉ là những quan sát để phân tích một số nét thái độ của người nói đối với hiện thực quan sát được, các nhà Việt ngữ học đã không ngừng tiến vào những lĩnh vực mới mẻ như logic học, logic tình thái, ngữ dụng học hoặc theo quan điểm của ngữ pháp chức năng để phân tích, đánh giá về những nội dung tình thái thể hiện trong phát ngôn tiếng Việt. Điều này cho chúng ta thấy sự quan tâm của các nhà nghiên cứu về hoạt động và tầm tác động của lời nói trong giao tiếp. Những công trình nghiên cứu mà chúng tôi chọn lọc và nêu ra ở trên sẽ là những kiến thức căn bản và hữu ích giúp chúng tôi xử lí đề tài của mình. Mặt khác, nó cũng cho chúng tôi nhận thấy vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về TTGN, về các phương tiện biểu thị TTGN mà chúng tôi đã chọn thực sự là một vấn đề mới, hấp dẫn và đáng được quan tâm. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là nghiên cứu về TTGN mà trọng tâm là khảo sát và xác lập một hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. Để đạt được mục đích này, chúng tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: 3.1 Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu Việt ngữ học, luận văn đưa ra khái niệm về TTGN, nội dung của TTGN, vai trò của tình thái – TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. 3.2 Thu thập và khảo sát ngữ liệu, lọc ra các dẫn chứng có biểu thị TTGN. 3.3 Từ nguồn ngữ liệu, luận văn tổng hợp và lập ra một danh sách các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt, xác định tiêu chí nhận diện (nếu có) cho mỗi phương tiện và xếp các phương tiện vào từng nhóm. 3.4 Miêu tả, phân tích những đặc điểm cơ bản của các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 4.1 Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây: 4.1.1 Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Dựa trên nền tảng lí thuyết tiếp thu được từ các nhà ngôn ngữ học đi trước, phần cơ sở lí luận mà chúng tôi trình bày trong chương 1 đều là những tổng kết hoặc những điều được học hỏi từ những công trình nghiên cứu có liên quan. Nắm vững phần lí thuyết, chúng tôi lấy đó làm cơ sở để tiến hành công việc khảo sát, phân tích và xác lập hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. 4.1.2 Phương pháp thống kê: Khi làm việc với một nguồn ngữ liệu từ ca dao đến các tác phẩm truyện ngắn của nhiều tác giả khác nhau như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Thị Thu Huệ …, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để định lượng ngữ liệu và từ đó xác lập từng phương tiện biểu thị TTGN cụ thể. Tư liệu chọn lọc không chỉ được chúng tôi sử dụng làm cơ sở cho việc đánh giá, xác lập và phân loại nêu trên mà còn được sử dụng vào việc nêu ra ví dụ trong quá trình miêu tả, phân tích từng phương tiện. 4.1.3 Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu khi trình bày về từng phương tiện biểu thị TTGN đã được xác lập ở trên. Các nhận định đưa ra chủ yếu dựa vào kết quả phân tích, miêu tả ngữ liệu. 4.1.4 Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng: Với tư cách là một quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp, diễn ngôn bao hàm cả các yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh tình huống, yếu tố dụng học và các tác động của các chiến lược văn hóa ở người sử dụng ngôn ngữ. Do đó khi nghiên cứu TTGN trong diễn ngôn, chúng tôi luôn ý thức về sự chi phối các yếu tố này, đặc biệt là yếu tố ngữ cảnh tình huống. Thông qua phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng, việc xác định về TTGN cũng như việc miêu tả, phân tích các cứ liệu luôn được chúng tôi xem xét một cách toàn diện, đặt trong một ngữ cảnh cụ thể. 4.2 Nguồn ngữ liệu Để tạo sự phong phú về ngữ liệu cũng như để có được độ tin cậy trong quá trình thống kê, phân tích và nhận xét, chúng tôi mở rộng nguồn ngữ liệu trích dẫn từ ca dao đến những tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng trước đây như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…cho đến những sáng tác được nhiều người biết đến của những nhà văn mới sau này trong các tuyển tập văn mới. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú ý đến nguồn ngữ liệu trong giao tiếp hàng ngày. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được phân thành hai chương: Chương 1: Luận văn trình bày những cơ sở lí thuyết cơ bản liên quan đến đề tài như: về diễn ngôn; về tính tình thái và TTGN trong ngôn ngữ; một số vấn đề khác về TTGN trong ngôn ngữ, trong đó có đề cập về lịch sự và lịch sự ngôn ngữ, vai trò của TTGN trong diễn ngôn, trong giao tiếp. Chương 2: Qua khảo sát, luận văn xác lập, phân loại và miêu tả các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. ********* Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH THÁI VÀ TÌNH THÁI GIẢM NHẸ TRONG DIỄN NGÔN 1.1 Về diễn ngôn 1.1.1 Khái niệm diễn ngôn Việc nghiên cứu diễn ngôn được hình thành trong lòng ngôn ngữ học nhưng nó không xuất hiện ngay trong một lúc bằng một sáng kiến riêng mà trải qua một quá trình tìm kiếm hướng đi. Có thể thấy sau khi ngôn ngữ học tiền cấu trúc của F. de Saussure và cấu trúc luận của L. Bloomfield phát triển rực rỡ thì việc tiếp cận những giới hạn cuối cùng trong lí thuyết của họ đã dẫn đến sự thu hút chú ý của các nhà nghiên cứu về các cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu. Những cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu được nêu lên thành đối tượng nghiên cứu vào những năm 60 của thế kỷ XX dưới tên “Ngôn ngữ học văn bản” (Text Linguistics), “Phân tích văn bản” (Text Analysis), “Phân tích chức năng” (Functional Analysis). Ở giai đoạn “ngữ pháp văn bản”, phân tích diễn ngôn (PTDN) chủ yếu thao tác với “liên kết” và đã có một loạt các công trình nghiên cứu, nổi bật như “Cohesion in English” (Liên kết trong tiếng Anh) [95] của M.A.K. Halliday và R. Hasan. Ở thời kỳ hậu “ngữ pháp văn bản”, khi vấn đề mạch lạc và cấu trúc của văn bản càng được quan tâm hơn thì các nhà ngôn ngữ học đã đề nghị gọi địa hạt mới này là PTDN. Phải ghi nhận rằng người đầu tiên đề cập đến và đưa ra cái tên PTDN là Z. Harris với tác phẩm “Discourse Analysis” (1952), người thứ hai được biết đến là Mitchell và người có công truyền bá PTDN cùng với tên gọi của nó là T.A. Van Dijk. Với Z. Harris, PTDN đã có được một đối tượng nghiên cứu rõ ràng. Đó là diễn ngôn. Từ khi PTDN trở thành một lĩnh vực được nhiều người quan tâm, đã có nhiều đường hướng PTDN ra đời. Nguyễn Hòa, (2008), trong “Phân tích diễn ngôn, một số vấn đề lí luận và phương pháp” [34] đã tổng hợp và nêu lên các đường hướng chính như sau: đường hướng dụng học với hai nhánh, một nhánh dựa trên lí thuyết hành động nói (speech acts) của J.L. Austin và một nhánh dựa trên tư tưởng triết học nguyên tắc cộng tác của H.P. Grice; đường hướng ngôn ngữ học xã hội tương tác; đường hướng dân tộc học giao tiếp; đường hướng thừa nhận các biến thể ngôn ngữ ít nhiều mang tính khuôn mẫu về mặt xã hội và ngôn ngữ; đường hướng giao tiếp liên văn hóa. Các đường hướng nghiên cứu trên đã cho thấy xu hướng nghiên cứu chức năng khi PTDN. PTDN nhất thiết là sự phân tích ngôn ngữ hành chức, ngôn ngữ trong sử dụng (language in use). Như vậy, không thể giới hạn nó ở việc miêu tả các ngôn ngữ hình thức tách biệt với các mục đích hay chức năng mà các hình thức này được sinh ra để đảm nhận trong xã hội loài người. G. Brown & G. Yule và H.G. Widdowson đã xem diễn ngôn là một tiến trình giao tiếp. Ở đó nhà nghiên cứu sẽ nghiên cứu từ, ngữ và câu xuất hiện trong dữ liệu thành văn của diễn ngôn để làm bằng chứng về sự nỗ lực của người phát (người viết/người nói) để chuyển giao thông điệp cho người nhận (người nghe/người đọc). Cũng phải đặc biệt chú ý đến tình huống, hoàn cảnh ảnh hưởng đến kết cấu diễn ngôn [theo 34; 48]. Như vậy, do đã được xác định là một sự kiện hay quá trình giao tiếp cho nên diễn ngôn không phải chỉ là một đoạn hay một chuỗi các câu bất kỳ mà nó là toàn bộ sự kiện giao tiếp có tính mục đích, thống nhất và có mạch lạc được ghi nhận lại bằng toàn bộ văn bản. Có thể chấp nhận định nghĩa ngắn gọn của Nguyễn Hòa như sau: “Diễn ngôn là sự kiện hay quá trình giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất có mục đích không có giới hạn được sử dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể” [34; 33]. Và như vậy, là một sự kiện giao tiếp hoàn chỉnh, diễn ngôn phải có tính chủ đề từ chủ đề bộ phận đến chủ đề chung, có mạch lạc. Để tạo nên mạch lạc, diễn ngôn không những phải thể hiện sự liên kết trên nhiều phương diện mà còn là sự tổ chức một cách hợp lí các yếu tố quan yếu có giá trị giao tiếp tuân theo quy tắc cần và đủ (nói thế nào là đủ, là đúng trọng tâm; nói thế nào là thừa, rườm rà, lạc đề). Nói đến “hoàn cảnh giao tiếp cụ thể” là nói đến tác động của các yếu tố tình huống ngoài ngôn ngữ đối với sự hoạt động của ngôn ngữ như: yếu tố văn hóa, yếu tố dụng học. Sự kết hợp các yếu tố trên không đơn thuần là phép tính cộng mà nên được hiểu như một hàm có nhiều biến. Ở Việt Nam, việc quan tâm đến diễn ngôn, PTDN đã được khẳng định thông qua nhiều nghiên cứu của các tác giả như Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu (1985), Trần Ngọc Thêm (1985), Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo (1991), Diệp Quang Ban (1998) (2009), Nguyễn Thiện Giáp (2000) (2008), Nguyễn Hòa (2005) (2008). Các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề như: chiếu vật và chỉ xuất, lí thuyết hành động ngôn ngữ, lí thuyết hội thoại, ý nghĩa tường minh, ý nghĩa hàm ngôn, ngữ cảnh và ý nghĩa, diễn ngôn và PTDN, diễn ngôn và văn hóa, dụng học giao văn hóa…vv 1.1.2 Diễn ngôn và văn bản Có thể nói diễn ngôn (discourse) và văn bản (text) là hai khái niệm cơ bản trong lí luận PTDN. Trong thực tế, việc phân định rạch ròi diễn ngôn và văn bản là điều không đơn giản. Nhiều tác giả sử dụng diễn ngôn cũng như là văn bản. Có khi văn bản còn được hiểu theo hai phương diện: là sản phẩm (product) và là quá trình (process). Với nghĩa là sản phẩm, văn bản là một thực thể có thể ghi nhận lại được và có một cấu trúc nhất định; với nghĩa là một quá trình, văn bản là sự lựa chọn nghĩa liên tục, một quá trình vận động qua các ngữ vực (register). Diệp Quang Ban (2009), trong “Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản” [4] đã tổng hợp và phân tích một số định nghĩa nhằm phân biệt diễn ngôn và văn bản như sau: Trước tiên R. Barthes (1970) cho rằng đối tượng khảo sát được gọi là “diễn ngôn” cũng là “văn bản”, nhưng văn bản do ngôn ngữ học nghiên cứu, còn diễn ngôn do “ngôn ngữ học diễn ngôn” nghiên cứu với những nội dung nghiên cứu riêng. Ở đây, Barthes đã có tính đến các mục đích giao tiếp (mặt xã hội) và sự liên thông giữa văn hóa với ngôn ngữ. I. Bellert (1971) xem diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn, trong đó việc lí giải nghĩa của mỗi phát ngôn lệ thuộc vào sự lí giải những phát ngôn trong chuỗi. Do đó, sự giải thuyết tương đương một phát ngôn tham gia diễn ngôn đòi hỏi phải biết ngữ cảnh đi trước. Như vậy, có thể hiểu tên gọi diễn ngôn của bà bao gồm cả văn bản. G. Cook (1989) định nghĩa xem “văn bản là một chuỗi ngôn ngữ lí giải được ở mặt hình thức, bên ngoài ngữ cảnh” và “diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích” [theo 4; 199 – 200]. Cook đã xác định sự khác biệt giữa diễn ngôn và văn bản dựa trên sự đối lập giữa chức năng và hình thức. Diễn ngôn thể hiện tính chức năng của ngôn ngữ trong khi văn bản thể hiện mặt hình thức của ngôn ngữ hành chức. Cũng theo Diệp Quang Ban, (1998), trong “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” [1], các khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản” đã từng được sử dụng qua các giai đoạn như sau: (1) Văn bản được dùng để chỉ chung các sản phẩm của ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói có mạch lạc và liên kết. (2) Có sự đối lập giữa diễn ngôn và văn bản: sử dụng văn bản để chỉ sản phẩm ngôn ngữ viết và diễn ngôn chỉ ngôn ngữ nói. (3) Diễn ngôn được dùng như văn bản ở ý nghĩa (1) M.A.K Halliday và R. Hasan (1976) là các tác giả thể hiện quan điểm thứ nhất. Thuật ngữ hai tác giả này sử dụng là “text – văn bản”. Theo hai tác giả này, “văn bản có thể là bất kỳ đoạn văn nào, viết hay nói, dài hay ngắn tạo nên một chỉnh thể thống nhất, hoàn chỉnh”, “văn bản là một đơn vị ngôn ngữ hành chức” và “văn bản là một đơn vị ngữ nghĩa.” [95; 1- 2] Hồ Lê (1996) theo hướng thứ hai: “Văn bản là chỉnh thể của một sản phẩm viết để diễn đạt trọn vẹn một ý kiến về một vấn đề hoặc một hệ thống vấn đề. Ngôn bản là chỉnh thể của một sản phẩm nói để diễn đạt trọn vẹn một ý kiến về một vấn đề hoặc một hệ thống vấn đề” [46; 55]. D. Nunan trong “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” (bản dịch của Hồ Mỹ Huyền - Trúc Thanh) (1997) thì sử dụng “thuật ngữ văn bản để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp”. Còn “thuật ngữ diễn ngôn lại để chỉ việc giải thuyết sự kiện giao tiếp trong ngữ cảnh.” [60; 21] G. Brown & G. Yule (2002) trong “Phân tích diễn ngôn” xem “văn bản như là một thuật ngữ khoa học để chỉ dữ liệu ngôn từ của một hành vi giao tiếp”. Ở một đề mục cụ thể, hai tác giả đã khẳng định: “sự biểu hiện của diễn ngôn: văn bản.” [5; 22] Theo Nguyễn Hòa (2008), H.G. Widdowson cũng là một tác giả có cách phân biệt diễn ngôn và văn bản giống với G. Brown & G. Yule và D. Nunan. H.G. Widdowson xem diễn ngôn là một quá trình giao tiếp. Kết quả về mặt tình huống của quá trình này là sự thay đổi trong sự thể: thông tin được chuyển tải, các ý định được làm rõ, và sản phẩm của quá trình này là Văn bản. [theo 34; 32] Từ những quan điểm nêu trên, rõ ràng là trên một phương diện nhất định, diễn ngôn hay văn bản có thể coi là hai mặt của một sự vật, tuy ngoại diên của diễn ngôn rộng hơn so với văn bản, bởi lẽ với tư cách là một quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp, nó còn bao hàm cả các yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh tình huống, yếu tố dụng học và các tác động của các chiến lược văn hóa ở người sử dụng ngôn ngữ. Có thể hiểu văn bản như là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể. Chúng tôi tán đồng quan điểm của Nguyễn Hòa: “Nên thấy rằng, trong thực tế rất khó có thể phân biệt rạch ròi giữa diễn ngôn và văn bản bởi lẽ trong văn bản sẽ có cái diễn ngôn, trong diễn ngôn sẽ có cái văn bản. Cho nên sự phân biệt chỉ mang tính chất tương đối. Đây không phải là hai thực thể tách biệt mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn ngữ hành chức trong bối cảnh giao tiếp xã hội.” [34; 33] 1.1.3 Các kiểu loại diễn ngôn Trong thực tế, việc phân loại diễn ngôn là một vấn đề phức tạp, có nhiều cách phân loại diễn ngôn khác nhau, song vẫn có những giao nhau trên nhiều phương diện. Lí do chủ yếu là ngôn ngữ tồn tại trong vô vàn các tình huống giao tiếp và như vậy sẽ có vô vàn các dạng diễn ngôn sử dụng theo từng tình huống. Theo Hatim và Mason, sự phân loại chỉ dựa trên “trường diễn ngôn” suy cho cùng chỉ là lời phát biểu về chủ đề và ta sẽ có các loại diễn ngôn về giáo dục, tôn giáo hay khoa học. Sự phân loại này ít có giá trị dự báo về tính chất của diễn ngôn. [theo 34] Nếu dựa trên chức năng thuần túy, chúng ta sẽ có được sự phân loại như diễn ngôn “văn học”, diễn ngôn “thơ ca”. Tuy nhiên các nhà PTDN ít khi bàn đến diễn ngôn văn chương vì loại diễn ngôn này là đối tượng của tu từ học, nó có đặc tính nghệ thuật, mang nhiều dấu ấn tác giả. K. Hausenblas đã đưa kiểu phân loại theo cấu trúc của diễn ngôn. Chẳng hạn theo khuôn hình văn bản có thể có các diễn ngôn được xây dựng theo những khuôn hình cứng nhắc (như các tờ khai trong tiếng Anh) , diễn ngôn theo khuôn hình mềm dẻo (như bài báo, bài luận án, bài bình luận) và các diễn ngôn có khuôn hình tự do (như các tác phẩm văn học). Theo cấu trúc nội tại, các tiêu chí sau đây được tính đến: (1) Tính đơn giản/tính phức tạp trong cấu trúc (2) Tính độc lập/tính phụ thuộc của diễn ngôn (3) Tính liên tục/gián đoạn của diễn ngôn Kết quả là có thể có: (1) Diễn ngôn với các mức độ phức tạp khác nhau như diễn ngôn có một văn bản duy nhất, hay diễn ngôn chứa hai văn bản. (2) Diễn ngôn tự do và diễn ngôn phụ thuộc. (3) Diễn ngôn liên tục và diễn ngôn gián đoạn (dẫn theo Diệp Quang Ban (1998) trong “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” [1]) Theo M.A.K. Halliday, một trong những tác giả có công làm cho thuật ngữ “ngữ vực” (register) chứa được nội dung mà nó có: chỉ một lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ, có thể phân loại diễn ngôn theo trường diễn ngôn, bầu không khí diễn ngôn và cách thức diễn ngôn. Trường diễn ngôn bao gồm các chủ đề được đề cập đến và cũng thể hiện phần nội dung mệnh đề của mục đích giao tiếp. Bầu không khí diễn ngôn thể hiện mối quan hệ giữa các cá nhân tham gia bao gồm cả ý nghĩa dụng học. Cách thức diễn ngôn chỉ phương tiện ngôn ngữ sử dụng: ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết. Trong ba biến kể trên thì biến nội dung thông báo là quan trọng nhất. M.A.K. Halliday đã sử dụng các tham số này để phân loại ngữ vực. Song trong thực tế rất khó có thể nói về một sự phân loại tuyệt đối. Các ngữ vực thường giao nhau thông qua các thể loại. Ví như bài giảng, xét theo trường diễn ngôn thì đây là ngữ vực khoa học nhưng xét theo phương tiện sử dụng (ngôn ngữ nói) thì lại có nhiều đặc tính của ngôn ngữ hội thoại. Tuy nhiên, ba biến mà M.A.K. Halliday đưa ra có ý nghĩa nhất định trong mục đích phân loại diễn ngôn. Nói cách khác, ngữ vực là sự phân chia bao trùm nhất và dưới ngữ vực là các tiểu ngữ vực (sub – register), dưới tiểu ngữ vực có thể có các thể loại (genre) – các kiểu diễn ngôn cụ thể. Từ tiếng Anh, tác giả Nguyễn Hòa [34] đã đưa ra sự phân loại diễn ngôn như sau: Stt Các ngữ vực Các tiểu ngữ vực và các thể loại diễn ngôn cụ thể 1 Ngữ vực báo chí có thể gồm có các thể loại: tin, bài bình luận, tin vắn, phóng sự điều tra, quảng cáo, bài tường thuật… 2 Ngữ vực văn chương có thể gồm có các tiểu ngữ vực: văn xuôi, thơ, văn học dân gian và các thể loại cụ thể như: truyện ngắn, tiểu thuyết văn học, tiểu thuyết lịch sử, thơ ca, kịch… Stt Các ngữ vực Các tiểu ngữ vực và các thể loại diễn ngôn cụ thể 3 Ngữ vực chính luận có thể gồm có các tiểu ngữ vực: pháp lí, ngoại giao, thương mại…và các thể loại cụ thể như: bản hiến pháp, luật, công ước, công hàm, hợp đồng, thông báo, thông cáo, quy định, biên bản, tờ trình… 4 Ngữ vực khoa học có thể gồm có các tiểu ngữ vực: kinh tế, văn hóa, toán, hóa, sinh vật, giáo dục… và các thể loại cụ thể như: luận án, luận văn, báo cáo khoa học, sách giáo khoa, giáo trình, bài thuyết trình, tổng luận… 5 Ngữ vực hội thoại thường ngày có thể gồm có các thể loại: nói chuyện, phiếm đàm, tâm sự, chào hỏi, cuộc tranh luận, phỏng vấn… Sự phân chia này khá đơn giản và rõ ràng. Hiện nay, trước sự phức tạp và chưa thống nhất trong việc phân loại diễn ngôn thì theo chúng tôi, cách phân loại này cũng có thể là một tham khảo đáng quan tâm. 1.1.4 Ngữ cảnh trong phân tích diễn ngôn Có thể khẳng định rằng PTDN không thể thoát ly khỏi ngữ cảnh. Tất cả các đường hướng PTDN đều coi trọng ngữ cảnh. D. Hymes (1962) xem vai trò của ngữ cảnh trong nhận thức, một mặt, như để giới hạn các cách hiểu có thể có được và, mặt khác, như để hỗ trợ cách hiểu theo dự định: “Việc sử dụng một hình thức ngôn ngữ nào đó sẽ xác định một phạm vi giới hạn của các ý nghĩa. Ngữ cảnh có thể hỗ trợ cho một phạm vi giới hạn của các ý nghĩa. Khi một hình thức được dùng trong một ngữ cảnh, nó có thể giới hạn các ý nghĩa có thể có được đối với ngữ cảnh đó ra khỏi các ý nghĩa mà hình thức này có thể chuyển tải: ngữ cảnh này loại các ý nghĩa có thể có được ra khỏi các ý nghĩa mà ngữ cảnh có thể hỗ trợ.” [theo 5; 67] D. Hymes cũng cho rằng nếu có sự hiểu biết về người phát trong một sự kiện giao tiếp thì nhà PTDN có thể tưởng tượng ra điều người ấy có thể nói; nếu hiểu biết về người nhận giúp nhà phân tích không đi quá xa. Và nếu chúng ta biết về điều đang được nói đến (phạm trù chủ đề) thì dự đoán của chúng ta sẽ được giới hạn nhiều; nếu chúng ta còn có thêm thông tin về bối cảnh về mặt không gian, thời gian của sự kiện và về các quan hệ thực thể của các đối tượng tương tác như dáng ngồi, đứng, điệu bộ, vẻ mặt...thì dự đoán của chúng ta có thể được giới hạn nhiều hơn nữa. Một số các đặc điểm còn lại của ngữ cảnh mà D. Hymes (1964) đưa ra là: kênh (channel) giao tiếp (giao tiếp giữa các đối tượng tham gia vào sự kiện diễn ra như thế nào: bằng lời nói, viết, ra dấu, những dấu hiệu bằng khói…); mã (code) (ngôn ngữ gì, phương ngữ gì, phong cách ngôn ngữ đang được dùng); hình thức thông điệp (message form) (hình thức gì được dùng: bông đùa, tranh luận, bài thuyết giáo, thư tình, thơ…); sự kiện (event); giọng điệu (key); mục đích (purpose). D. Nunan trong “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” (bản dịch của Hồ Mỹ Huyền - Trúc Thanh) (1997) [60] cũng đưa ra nhận xét: “PTDN liên quan đến việc nghiên cứu trong sử dụng” và “rõ ràng rằng ngữ cảnh là một khái niệm quan trọng trong PTND. Ngữ cảnh quy chiếu về tình huống gây ra diễn ngôn và tình huống trong đó diễn ngôn được gắn vào” [60; 21 – 22]. D.Nunan còn cho rằng có hai loại ngữ cảnh khác nhau: ngữ cảnh ngôn ngữ và ngữ cảnh phi ngôn ngữ (ngữ cảnh thuộc về kinh nghiệm mà trong đó diễn ngôn xảy ra). Ngữ cảnh ngôn ngữ là ngôn ngữ bao quanh hoặc đi kèm với sản phẩm diễn ngôn đang được phân tích. Ngữ cảnh phi ngôn ngữ gồm: kiểu loại của sự kiện giao tiếp (truyện cười, câu chuyện, bài thuyết trình…); đề tài; mục đích của sự kiện, bối cảnh (vị trí, thời gian trong ngày, mùa trong năm và những phương diện vật lý của tình huống…); người tham dự giao tiếp và mối quan hệ giữa họ; những hiểu biết cơ sở và những giả định làm cơ sở cho sự kiện giao tiếp. G. Brown & G. Yule trong “Phân tích diễn ngôn” (2002) (bản dịch của Trần Thuần) đã khẳng định rằng ngay cả “nhà ngữ pháp câu muốn phát biểu về “tính chấp nhận được” của một câu trong khi xác định xem chuỗi ngôn ngữ do ngữ pháp của anh ta sản sinh ra có phải là câu đúng trong ngôn ngữ hay không, thì anh ta đang ngầm vận dụng các thành tố ngữ cảnh” và “bất kỳ phương pháp phân tích nào trong ngôn ngữ học có liên hệ đến các thành tố ngữ cảnh, nhất thiết thuộc về lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ gọi là ngữ dụng học. Nghiên cứu PTDN chắc chắn dính líu đến nghiên cứu cú pháp và ngữ nghĩa nhưng chủ yếu vẫn là nghiên cứu ngữ dụng học.” [5; 50] Trong PTDN, cũng như trong ngữ dụng học, chúng ta phải quan tâm đến điều người sử dụng ngôn ngữ đang làm và giải thích những đặc điểm ngôn ngữ trong diễn ngôn như là phương tiện được dùng để thực hiện điều họ đang làm. “Nhà PTDN xử lý dữ liệu của anh ta như là dữ kiện (văn bản) của một quá trình động, trong đó ngôn ngữ được sử dụng như một công cụ giao tiếp trong ngữ cảnh mà qua đó người viết/người nói thể hiện nghĩa và đạt được ý định (diễn ngôn).” [5; 51] Rõ ràng chúng ta đều thừa nhận chức năng giao tiếp của ngôn ngữ nhưng chức năng này không thể xảy ra trong một chân không. Nói rõ hơn, ngữ cảnh là một đối tượng có liên quan đến giao tiếp ngôn ngữ trong một tam giác: ngôn ngữ - giao tiếp – ngữ cảnh. Có thể thấy rằng nội dung giao tiếp của diễn ngôn bao gồm hai loại nội dung khác nhau, đó là: nội dung ngữ nghĩa (nội dung mệnh đề cơ bản của diễn ngôn) và thông tin ngữ cảnh. Nội dung mệnh đề của diễn ngôn được thể hiện qua hệ thống ngôn ngữ thường khá rõ ràng trong khi đó nội dung ngữ cảnh khó xác định hơn. Tuy nhiên nội dung ngữ cảnh lại có giá trị quan trọng trong việc hiểu nội dung giao tiếp của diễn ngôn. Có thể mượn ví dụ sau của Nguyễn Hòa để thấy vai trò của ngữ cảnh trong việc hiểu nội dung giao tiếp của diễn ngôn: Ví dụ: (1) (a) A: (nhìn B và nói với ngữ điệu bình thường) Khi nào lên trường, ghé qua trung tâm, gửi hộ mình bảng điểm lên cho thầy Phúc. B: Vâng ạ. (b) A: (ngỡ ngàng nhìn vào bảng điểm còn ở trên bàn và kêu lên) Trời ơi? B: Em sẽ mang lên cho thầy Phúc ngay. [34; 169] Lời đề nghị ở (a) rất bình thường. A đề nghị B thực hiện một hành động “gửi bảng điểm cho thầy Phúc” (thể hiện quy tắc nội dung mệnh đề); A cho rằng B có khả năng thực hiện được và sẽ thực hiện được hành động trên (quy tắc chuẩn bị); A thực sự muốn B thực hiện hành động này (quy tắc chân thành); phát ngôn của A được coi như là một cố gắng để B thực hiện (quy tắc cốt yếu). Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta cũng bắt gặp phát ngôn như trường hợp (b). Với ngữ cảnh kèm theo (ngỡ ngàng nhìn vào bảng điểm còn ở trên bàn và kêu lên) cùng phát ngôn “Trời ơi?” thì nội dung thông điệp không còn được hiểu là lời đề nghị bình thường như trường hợp (a). Hai ví dụ trên cho thấy mối quan hệ giữa phát ngôn và ngữ cảnh rất quan trọng, không chỉ cho việc hiểu nội dung giao tiếp của diễn ngôn mà còn cần thiết cho việc phân tích mối quan hệ giữa các phát ngôn trong diễn ngôn Nguyễn Hòa cho rằng “ngữ cảnh có thể là kiến thức nền (văn hóa, xã hội), là tình huống, hay chính là văn bản.” [34; 180]. Kiến thức nền có thể hiểu là kiến thức văn hóa và kiến thức về tất cả các loại thế giới bao gồm cả thế giới thực hữu và thế giới tưởng tượng, về kinh nghiệm về các quy tắc hành xử trong xã hội và trong giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, kiến thức nền này không tĩnh mà luôn luôn động, luôn có sự bổ sung. Nguyên tắc loại suy trong hiểu diễn ngôn đã được dựa trên kiến thức nền này. Hơn nữa, chúng ta phải thừa nhận rằng diễn ngôn luôn tồn tại trong một ngữ cảnh rất năng động: ngữ cảnh luôn thay đổi và luôn được tạo ra trong quá trình giao tiếp. Chính vì thế mà G. Brown & G. Yule trong “Phân tích diễn ngôn” [5] đã đưa ra khái niệm “ngữ cảnh mở rộng” (expanding context) để giải quyết vấn đề này. Tóm lại, ngữ cảnh là một khái niệm rất quan trọng trong lí luận PTDN, nó chính là môi trường hoạt động của hệ thống ký hiệu ngôn ngữ. Ý nghĩa chính xác, ý nghĩa tình thái của một phát ngôn chỉ được thể hiện đầy đủ khi phát ngôn ấy được đặt trong một ngữ cảnh cụ thể. Có thể nói: nếu văn bản là sự thể hiện của phần “cái được nói” của diễn ngôn thì ngữ cảnh lại kết hợp với phần này để tạo ra diễn ngôn. Do đó, việc xác định TTGN trong diễn ngôn ở luận văn này, chúng tôi luôn chú trọng đến vai trò to lớn của ngữ cảnh. 1.2 Về tình thái và tình thái giảm nhẹ trong ngôn ngữ 1.2.1 Về tình thái trong ngôn ngữ 1.2.1.1 Khái niệm “tình thái” Tình thái vốn là một khái niệm của logic học, gắn với sự phân loại các phán đoán, các mệnh đề lôgic. Theo Nguyễn Đức Dân (1998), trong “Logic và Tiếng Việt”, thì từ thời Aristotle, tính tình thái đã được bàn đến trong phần bàn về mệnh đề tình thái và tam đoạn luận tình thái. Trong ngôn ngữ học, khái niệm tình thái (modality, modalité) không phải là mới. Tuy nhiên nó được hiểu không giống nhau ở các khuynh hướng ngôn ngữ học khác nhau. Ch. Bally cho rằng cần phân biệt trong câu hai yếu tố khác nhau là: (1) Dictum – thuật ngữ chỉ nội dung biểu hiện có tính chất cốt lõi về ngữ nghĩa của câu. (2) Modus – thuật ngữ chỉ thái độ của người nói với nội dung phát ngôn. Từ sự phân biệt nêu trên của Ch. Bally, nhiều nhà ngôn ngữ học hiện nay đã thống nhất xác định hai thành phần trong nghĩa của câu như sau: (1) Nội dung nghĩa biểu hiện: là phần cốt lõi của câu. Nó được tạo nên bởi nội dung của sự tình, bao gồm lõi hạt nhân của vị từ và những tham tố xoay quanh nó. Nghĩa biểu hiện là nội dung chính của mệnh đề. (2) Nội dung nghĩa tình thái: được tạo nên từ mối quan hệ giữa nội dung của câu với hiện thực khách quan, với tình huống phát ngôn, với người nói, tức thái độ của người nói với nội dung ấy. Như vậy, tình thái thuộc bình diện ngữ nghĩa và có thể nói tình thái là phần tất yếu, là “linh hồn” của câu. Rõ ràng khi tạo ra một phát ngôn, một thông điệp chúng ta có thể bộc lộ thái độ và cách đánh giá của mình về tính chất thực hay không thực, tất yếu hay không tất yếu, có thể có hay không thể có…vv của sự kiện nêu ra trong lời nói. Người tiếp nhận sẽ có những phán đoán tình thái bằng cách dựa vào những tri thức của họ và những thông tin khác mà họ có được để đánh giá và kết luận xem thái độ của người nói như thế nào, cái điều được nói ra là sự thực hay hư cấu, có lý hay không có lý, đáng tin cậy hay không. Đó là bản chất của vấn đề tình thái. Và chính yếu tố tình thái tạo nên tính cụ thể sinh động cho lời nói. Ví dụ: (2) Anh ấy đến. Anh ấy đến rồi. Anh ấy đến rồi kìa! Anh ấy đến kìa. Hình như anh ấy đến. Anh ấy lại đến. Anh ấy cứ đến mãi. Các câu trên rõ ràng cùng nhận định về một sự tình “anh ấy đến” nhưng chúng khác nhau chính là do tình thái trong câu. Mỗi câu đã bộc lộ thái độ nhận định về sự tình trên khác nhau. Từ sự phân biệt hai bộ phận dictum và modus, Ch.Bally đã định nghĩa: “Tình thái là thái độ của người nói được biểu thị đối với sự việc hay trạng thái diễn đạt trong câu.” [theo 48; 10] Cách kiến giải trên của Ch.Bally vẫn được nhiều nhà ngôn ngữ học chấp nhận, nhất là trong hướng nghiên cứu hoạt động ngôn ngữ. Tuy có những hướng giải quyết khác nhau về vấn đề tình thái nhưng tựu trung lại các tác giả vẫn có một sự thống nhất cơ bản về những điểm chủ yếu của khái niệm tình thái. Có thể nêu ra cụ thể một vài quan điểm như sau: (1) V.N. Bondrenko đưa ra định nghĩa: “Tính tình thái là một phạm trù ngôn ngữ chỉ ra đặc điểm của các mối quan hệ khách quan (tình thái khách quan) được phản ánh trong nội dung của câu và chỉ ra mức độ của tính xác thực về nội dung của chính câu đó theo quan niệm của người nói (tình thái chủ quan).” [theo 92; 31] Phạm Hùng Việt đồng tình với quan điểm trên và cho rằng: “Tính tình thái là phạm trù ngữ pháp - ngữ nghĩa biểu thị quan hệ của người nói với nội dung thông báo (tình thái chủ quan) và quan hệ của nội dung thông báo với hiện thực khách quan (tình thái khách quan).” [91; 48] (2) A.M Peskovskij, vận dụng quan điểm và phương pháp dụng học để phân tích về khái niệm tình thái, cho rằng phạm trù tình thái thể hiện quan hệ giữa người nói với mối liên hệ do nó lập nên, giữa nội dung của một phát ngôn cụ thể và thực tế, tức là mối quan hệ với mối quan hệ. Theo đó tình thái được nghiên cứu như một phạm trù phức thể, nhiều phương diện tác động lẫn nhau một cách tích cực với toàn hệ thống của các phạm trù chức năng ngữ nghĩa khác của ngôn ngữ và được liên hệ chặt chẽ với các phạm trù của ngữ dụng học. Theo cách nhìn này, trong phạm trù tình thái, người ta còn xét đến cả sự phản ánh các tương tác phức tạp giữa bốn nhân tố của quá trình giao tiếp: người nói, người đối thoại, nội dung của phát ngôn và thực tế. [theo 92; 38] Gắn với quan điểm của A.M Peskovskij là quan điểm của ba tác giả người Pháp: Jean Louis Chiss, Jacques Filliolet, Dominique Mainguneau. Họ cho rằng tình thái có ba chức năng: thể hiện quan hệ giữa người nói và người đối thoại; thể hiện quan hệ giữa người nói và nội dung thông báo thông qua những phạm trù logic như tất yếu, khả năng hay là những phán đoán về giá trị như hạnh phúc, sợ…; thể hiện quan hệ giữa hành động phát ngôn đối với một đặc thù thông báo riêng của nó. [96; 16] M.V. Liapon cũng đồng tình với A.M Peskovskij khi cho rằng “tính tình thái là một phạm trù chức năng ngữ nghĩa thể hiện các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn đối với thực tế cũng như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau của điều được thông báo” [theo 92; 31] (3) N. Chomsky, người mở đường cho ngữ pháp tạo sinh, có một cách nhìn khác về tình thái khi cho rằng: Câu bao giờ cũng phải là câu khẳng định (declarative), hay là câu nghi vấn, hay là câu mệnh lệnh. Tính chất khác nhau của những câu đó là “tình thái”. Như vậy, tình thái là yếu tố bắt buộc phải có, để cùng với “hạt nhân” tạo ra “câu cơ sở” (câu cơ sở thuộc cấu trúc sâu, tồn tại trong tư duy người nói. Từ cấu trúc sâu này trong thực tiễn hoạt động ngôn ngữ, nó trải qua những “cải biên” để chuyển sang “cấu trúc bề mặt”). Và không thể nào có một câu mà không có tình thái, tức không thuộc một trong các kiểu câu nói trên. Cũng không thể nào lại có một câu có 2, 3 tình thái, tức là cùng một lúc thuộc 2, 3 kiểu câu [theo 87; 743 – 744]. (4) Vận dụng ngữ pháp chức năng và lý thuyết dụng học vào tiếng Việt, đồng thời nhận thức về giá trị của tác tử tình thái trong hệ thống, Đỗ Hữu Châu [8] cho rằng phạm trù tính tình thái truyền đạt quan hệ giữa nhận thức của người nói với nội dung của câu và quan hệ của nội dung này với thực tế mọi ngôn ngữ. Nội dung này có thể được khẳng định, được phủ định, được yêu cầu hay bị cấm đoán, được cầu mong hay đề nghị…Từ đó, các câu được phân chia theo phạm trù tính tình thái thành các câu: tường thuật, hỏi, mệnh lệnh, cầu khiến… Cao Xuân Hạo cũng khẳng định: “Nội dung của bất kỳ một lời phát ngôn nào cũng chứa đựng một tình thái (nếu không phải là kết hợp nhiều lớp tình thái)” [25; 98]. Ông cho rằng các yếu tố tình thái phần lớn đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến ba phạm trù tính hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng như trong logic nhưng dưới nhiều sắc thái khác nhau và có nhiều cách biểu hiện khác nhau. Ngoài ba phạm trù đó, tình thái liên quan đặc biệt đến thái độ và cách đánh giá của người nói. T. Givón cũng đặc biệt nhấn mạnh về thái độ của người nói khi ông phát biểu quan niệm của mình về tình thái một cách ngắn gọn rằng: “Tình thái biểu thị thái độ người nói đối với phát ngôn.” [ theo 72; 5] Theo T. Givón, thái độ bao gồm hai loại đánh giá của người nói về thông tin của phát ngôn được chuyển tải qua nội dung mệnh đề: a. Những đánh giá, nhận thức về tính hiện thực, khả năng, lòng tin, sự chắc chắn hay bằng chứng. b. Những đánh giá giá trị về ước muốn, sự ưa thích, ý định, năng lực, sự ràng buộc hay sự điều khiển. Từ những quan điểm được trình bày ở trên về tình thái, chúng ta nhận thấy một vấn đề nổi bật mà các tác giả quan tâm khi đề cập đến tình thái là thái độ, cách đánh giá của người nói. Hoàng Phê (1989) cho rằng tình thái phản ánh nhận thức, sự đánh giá, thái độ của con người đứng trước hiện thực nên chính yếu tố tình thái này tạo nên tính cụ thể và sinh động của lời nói. [66; 139] Có thể rút ra những điểm quan yếu về tình thái như sau: Tình thái cùng với nội dung mệnh đề là hai thành phần cần yếu tạo nên cấu trúc ngữ nghĩa của phát ngôn. Tình thái là một phạm trù rộng lớn thể hiện thái độ, những cách đánh giá khác nhau của người nói đối với nội dung mệnh đề, với người đối thoại và với các nhân tố khác của ngữ cảnh liên quan đến sự tình được phản ánh. Tình thái phản ánh cách thực hiện mối liên hệ tiềm năng giữa các yếu tố ngôn liệu, cho biết mối liên hệ ấy là có thực hay không có thực (hiện thực hay phi hiện thực), là tất yếu hay không tất yếu, là có thể hay không có thể. Tình thái phản ánh các mối quan hệ phức tạp giữa bốn nhân tố của quá trình giao tiếp: người nói, người đối thoại, nội dung của phát ngôn và thực tế. Đó là: quan hệ giữa người nói đối với nội dung được thông báo (tình thái chủ quan); quan hệ giữa điều được thông báo với hiện thực (tình thái khách quan); quan hệ giữa người nói với mối quan hệ do nó lập nên giữa nội dung của một phát ngôn cụ thể và thực tế (quan hệ giữa tình thái khách quan và tình thái chủ quan); quan hệ giữa người nói và người đối thoại hoặc giữa nội dung phát ngôn với mục đích giao tiếp (tình thái của hành động phát ngôn). Kế thừa và tiếp thu những quan điểm nêu trên của các tác giả về vấn đề tình thái, luận văn cố gắng làm rõ về tình thái giảm nhẹ và xác lập một hệ thống các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt dựa trên quan niệm chung về tình thái ngôn ngữ, đó là: thái độ, cách đánh giá của người nói đối với người đối thoại, đối với nội dung mệnh đề. 1.2.1.2 Các kiểu loại tình thái Theo Phạm Thị Ly [51], khó có thể đưa ra một bảng phân loại rành mạch các kiểu loại tình thái trong ngôn ngữ học vì hai lý do sau: Thứ nhất: Các kiểu loại ý nghĩa tình thái là hết sức đa dạng trong các ngôn ngữ khác nhau và cách mã hóa các ý nghĩa này trong hình thức ngôn ngữ cũng khác nhau. Ví dụ trong tiếng Việt có nhóm tiểu từ tình thái diễn đạt thái độ của người phát ngôn đối với người tiếp nhận nhưng trong tiếng Anh lại không có. Thứ hai: Có một tình trạng phổ biến trong nhiều ngôn ngữ là một phương tiện hình thức có thể diễn đạt những ý nghĩa tình thái khác nhau. Nói cách khác, cách biểu đạt ý nghĩa tình thái có sự lệ thuộc vào ngôn cảnh trong giao tiếp. Mặt khác, còn có thể thấy rằng, nếu trong logic học, tình thái của một mệnh đề thường được nghiên cứu qua ba thông số: Tính khả năng (±) Tính tất yếu (±) Tính hiện thực (±) thì trong ngôn ngữ học, tình thái của phát ngôn còn được nghiên cứu qua nhiều thông số khác nhau như thái độ, sự đánh giá của người nói. Chính sự kết hợp của các thông số này với ba thông số nêu trên của logic học đã tạo nên cách nhìn sinh động và phong phú khi phân loại tình thái trong ngôn ngữ. Có thể điểm qua một số cách phân loại như sau: (1) V.N. Bondarenko sau khi phân tích các hướng nghiên cứu về tính tình thái đã chỉ ra rằng chỉ có hai nhóm ý nghĩa sau đây mới đúng là các ý nghĩa tình thái: - Tính khả năng, tính thực tế và tính cần yếu. Nhóm ý nghĩa này là cơ sở cho tình thái khách quan (objective modality) - Sự nghi ngờ, tính không chắc chắn (giả định khả năng) và tính dứt khoát. Nhóm ý nghĩa này là cơ sở cho tình thái chủ quan (subjective modality). [theo 92; 33] (2) E.M. Volf đã nêu lên một số kiểu ý nghĩa tình thái. Theo tác giả sự đánh giá có thể được coi như một trong những kiểu tình thái trùm lên trên nội dung được miêu tả của sự biểu thị ngôn ngữ. Ngoài ra còn có những kiểu tình thái khác: - Tình thái cần yếu - Tình thái mong muốn (nguyện vọng) - Tình thái yêu cầu - Tình thái khuyên nhủ - Tình thái ngăn cấm và cảnh cáo trước - Tình thái răn đe [theo 92; 33 - 34] (3) J. Lyons (1980), trong “Semantique Linguistique” (Ngữ nghĩa của ngôn ngữ), nêu ra ba loại tình thái: - Tình thái tất yếu và khả năng (La modalité nécessité et possibilité) (bắt nguồn từ sự phân chia của các nhà logic). - Tình thái nhận thức (La modalité de cognition) (liên quan đến tính thực tế, tính hiện thực) - Tình thái nghĩa vụ (La modalité déontique) (gắn với một lĩnh vực của logic tình thái, đó là logic về nghĩa vụ và cho phép. Loại này liên quan đến các kiểu câu mệnh lệnh: yêu cầu thực hiện, ra lệnh thực hiện, cấm đoán thực hiện). Ông còn cho rằng, về mặt lí thuyết, có thể phân tình thái nhận thức thành hai loại: tình thái chủ quan và tình thái khách quan, nhưng đó không phải là sự phân chia có thể tiến hành một cách hoàn toàn rạch ròi. [97; 406 - 412] Sau đó năm 1990, ông bổ sung thêm hai loại nữa là: - Các thì ngữ pháp như một loại tình thái (Les temps grammatical comme modalité) - Bắt buộc, cho phép, cấm đoán, miễn trừ (L' obligation, la permission, l' interdiction et la dispence) (4) M.V. Liapon chia ý nghĩa tình thái ra thành hai loại: - Tình thái khách quan: thể hiện mối quan hệ giữa cái được thông báo với thực tế ở bình diện hiện thực tính và phi hiện thực tính. Tình thái khách quan là dấu hiệu tất yếu của một phát ngôn bất kỳ. - Tình thái chủ quan: là quan hệ của người nói với điều được thông báo, là dấu hiệu không bắt buộc của một phát ngôn. [theo 48; 12] (5) Jean Louis Chiss, Jacques Filliolet, Dominique Maingueneau thống nhất phân chia tình thái ngôn ngữ ra làm ba loại như sau: - Tình thái của hành động phát ngôn (La modalité d' énonciation) - Tình thái của lời phát ngôn (La modalité d' énoncé) - Tình thái của thông báo (La modalité de message) [theo 10; 16] (6) Cao Xuân Hạo phân biệt hai loại tình thái khác nhau: - Tình thái của hành động phát ngôn ( La modalité d' énonciation): Tình thái này sẽ bộc lộ đầy đủ khi ta xét đến tình huống sử dụng. Tình thái của hành động phát ngôn thuộc lĩnh vực dụng pháp. - Tình thái của lời phát ngôn (La modalité d' énoncé): liên quan đến thái độ của người nói đối với điều mình nói ra hoặc đến quan hệ giữa sở đề và sở thuyết của mệnh đề. Loại tình thái này thuộc bình diện nghĩa học. [25; 97- 98] Các loại tình thái chủ yếu của hành động phát ngôn gồm: tình thái nghi vấn, tình thái cầu khiến, tình thái cảm thán và tình thái trần thuật. Các loại tình thái chủ yếu của lời phát ngôn gồm: tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Tình thái khách quan là dấu hiệu tất yếu của một phát ngôn, thể hiện mối quan hệ giữa cái được thông báo với hiện thực khách quan. Trong ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt, tình thái khách quan được thể hiện qua các từ tình thái gắn liền với vị ngữ. Tình thái chủ quan thể hiện ở quan hệ của người nói đối với điều được thông báo và quan hệ giữa người nói đối với người nghe. Nó chủ yếu được thể hiện bởi các trợ từ tình thái trong câu. Có thể thấy rằng, cách phân loại của Cao Xuân Hạo thể hiện một quan điểm rất rộng về tình thái, cho phép người nghiên cứu có thể xử lí rất nhiều hiện tượng ngôn ngữ khác nhau trong một khung thống nhất là tình thái. Luận văn tiếp nhận theo cách phân loại này của Cao Xuân Hạo. 1.2.1.3 Các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong ngôn ngữ Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình thái, các phương tiện dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng. Có một số công trình đã đề cập đến các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ nói chung trong tiếng Việt nói riêng như Nguyễn Thị Lương (1996) [48], Phạm Hùng Việt (2003) [92], Nguyễn Văn Hiệp (2008) [31]…Tuy nhiên, có thể tổng hợp một số phương tiện chính biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt như sau: (1) Phương tiện ngữ âm: dùng ngữ điệu, trọng âm để thể hiện thái độ, tình cảm hoặc yêu cầu của mình. (2) Phương tiện ngữ pháp: là các cách như đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc cú pháp của câu để thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm cần nhấn trong phát ngôn ; sử dụng kiểu câu thường được coi là câu ghép, trong đó có một thành phần biểu thị tình thái, còn thành phần kia chuyên tải nội dung câu. (3) Phương tiện từ vựng gồm: - Động từ tình thái : muốn, định, hòng, toan, dám, tin, nghĩ, tưởng, cho là… - Phụ từ : đã, sẽ, đang, cũng, vẫn… - Trợ từ: à, ư, nhỉ, nhé, chính, cả, ngay… - Thán từ: chà, ôi, ôi chao, ối… - Một số đơn vị từ vựng khác (thường được gọi là quán ngữ) như: có lẽ, hình như, chắc chắn là… 1.2.2 Về tình thái giảm nhẹ trong ngôn ngữ 1.2.2.1 Khái niệm “tình thái giảm nhẹ” Qua quá trình thu thập và nghiên cứu tài liệu, chúng tôi nhận thấy chưa có một khái niệm rõ ràng nào về TTGN. Bởi thế, trước khi đi vào trình bày chi tiết hơn về từng phương tiện biểu thị TTGN ở Chương 2, ở phần đề mục này chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết những vấn đề cơ bản nhất về TTGN. Trước tiên, nên đặt khái niệm TTGN trong mối tương quan với khái niệm nói giảm, nói tránh và uyển ngữ, nhã ngữ để nhận thấy những nét tương quan và khác biệt của chúng. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8, tập một, đã trình bày về khái niệm nói giảm nói tránh như sau: “Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.” [68; 108] Ví dụ: (3) Bài thơ của anh dở lắm. - Bài thơ của anh chưa được hay lắm. [68; 109] Đinh Trọng Lạc trong “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt” đã cho rằng nói giảm là một phương tiện tu từ và nó “làm giảm nhẹ, làm yếu đi một đặc trưng tích cực nào đó của đối tượng được nói đến.” [39; 51] Ví dụ: (4) Học hành thì cậu ấy không lười đâu, nhưng đã thật chăm chưa thì phải nói là chưa. Ông cũng phân biệt hai thuật ngữ “phương tiện tu từ” và “biện pháp tu từ”. Ông cho rằng, nói một cách khái quát nhất, phương tiện tu từ là phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật – logic) ra, chúng còn có ý nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ; còn biện pháp tu từ là cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ, không kể là trung hòa hay tu từ trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ. Từ đó, tác giả xếp nói giảm là một phương tiện tu từ trong nhóm phương tiện tu từ ngữ nghĩa. [39; 5] Về uyển ngữ, tác giả Nguyễn Đức Dân trong bài viết “Từ cấm kị và uyển ngữ” trích trong “Một số vấn đề về phương ngữ xã hội” [42] đã cho rằng uyển ngữ ra đời từ động lực chính là sự xuất hiện những điều kiêng kị và những từ cấm kị. Tránh dùng những từ cấm kị là lí do căn bản để tạo thành uyển ngữ. Uyển ngữ chính là lối nói trại đi vì lý do tế nhị. Đứng trước một từ cấm kị, thô lậu hay chưa nhã mà ta không được dùng hoặc không nên dùng, người ta tìm cách dùng những từ ngữ khác thay thế cho thanh nhã, lịch sự, cho có văn hóa và để tỏ sự tôn trọng người khác. Những từ này gọi là uyển ngữ. Ví dụ: (5) đi ỉa = đi cầu, đi đồng, đi đại tiện; xác chết = thi hài; hộc máu = thổ huyết; bệnh cùi, bệnh hủi = bệnh phong…vv Từ đó, ông định nghĩa: “Uyển ngữ là cách dùng một từ, một nhóm từ theo lối nói gián tiếp ít mang ý nghĩa trực tiếp và không diễn đạt một cách cụ thể điều được nói tới. Đó là cách diễn đạt một sự vật, một sự việc nghe chói tai hoặc một điều cấm kị bằng những lời ít trần trụi hơn, “mềm” hơn, tạo ra cảm giác dễ nghe, dễ chịu hơn.” [42; 52] Cũng theo ông, có các phương thức tạo uyển ngữ như sau: uyển ngữ được cấu tạo bằng cách viết tắt và lược từ; bằng cách vay mượn từ ngữ từ những ngôn ngữ khác vì những từ ngoại lai ít gây ra những liên tưởng xấu, thô lậu; bằng phương pháp chuyển nghĩa, mở rộng nghĩa hoặc hoán dụ; bằng biện pháp đọc chệch âm. Lê Thiếu Ngân trong bài viết “Nhã ngữ - những ứng xử văn hóa” [58] đã định nghĩa về nhã ngữ như sau: “Nhã ngữ là cách dùng từ, ngữ thay thế cho những từ, ngữ khác mà ta thấy không tiện, không muốn nói thành lời. Những từ ngữ mà chúng ta tránh dùng, gọi tên những sự vật, hiện tượng hoặc là thô tục, cấm kỵ, thiếu tế nhị, hoặc là đau buồn, gây tổn thương, phản cảm cho người khác như: ốm đau, già, xấu, chết, thất bại, thi trượt, mất việc, hèn nhát, tình dục, bài tiết…” [58; 39]. Tác giả cũng đưa ra một số ví dụ về nhã ngữ: Ví dụ (6): Chỉ cái chết gồm những từ đồng nghĩa: từ trần, hy sinh, băng hà, về với tổ tiên, về với thế giới bên kia, về với cát bụi.. Chỉ mặt trái tiêu cực, những tồn tại của xã hội: dưới mức no đủ (chỉ nạn nghèo đói), chờ việc, chưa có công ăn việc làm (nạn thất nghiệp), kinh tế đi xuống (khủng hoảng, suy thoái)… Cách nói mềm mại, tế nhị, tránh gây tổn thương: không được khỏe, không được xinh…[58; 42 – 43] Tác giả còn cho rằng nhã ngữ là một biến thể của uyển ngữ, là cách nói tốt, nói đẹp. Nhã ngữ có hai loại: nhã ngữ ngôn ngữ thường là một từ hoặc một cụm từ, ít nhiều đã được định hình ý nghĩa trong cộng đồng ngôn ngữ (mặc dù có những trường hợp chưa được ghi lại trong từ điển) và nhã ngữ văn cảnh gắn chặt với văn cảnh, mang đậm tính sáng tạo cá nhân của người nói, gắn chặt vào những văn cảnh đơn lẻ. Ví dụ (7): Nửa chừng xuân, thoắt gẫy cành thiên hương - (Truyện Kiều) [58; 39 - 40] Trương Viên, trong luận án tiến sĩ “Nghiên cứu uyển ngữ trong tiếng Anh và việc chuyển dịch sang tiếng Việt”, cũng đã cho rằng: “Uyển ngữ là một từ hay một ngữ cố định được cấu tạo lại, diễn đạt lại từ một nội dung đã có để thể hiện một cách thích hợp tế nhị và thẩm mỹ; là lời nói được sử dụng trong những tình huống hay văn bản giao tiếp lịch sự, trang trọng, đầy tri thức văn hóa, liên quan đến cái đẹp trong việc dùng từ ngữ.” [90; 11] Ví dụ: (8) Theo Trương Viên có một nhóm uyển ngữ mang dáng vẻ khoa học khi nói đến tình trạng sa thải nhân công hàng loạt ở Hoa Kỳ và Anh Quốc hiện nay: Personnel surplus reduction (giảm bớt sự thặng dư về nhân sự); internal reorganization (tái tổ chức nội bộ); executive culling (giảm cắt bộ phận điều hành); workforce adjustment (điều chỉnh lực lượng lao động)… [90; 105] (9) Uyển ngữ tương đương với hành động lời nói: Shop door is open! (Xem chừng dây kéo) My friend is visiting. (Mình tới tháng) [90; 39] Trương Viên đã đề cập nhiều đến loại uyển ngữ là danh từ/ngữ; động từ/ngữ, tính từ/ngữ. Về loại uyển ngữ có cấu trúc cú pháp là một mệnh đề, tương đương với một phát ngôn hay một hành động lời nói, tác giả cho rằng chỉ chiếm 1%. [90; 197]. Cũng phải lưu ý rằng định nghĩa và những phân tích của Trương Viên hướng đến đối tượng là uyển ngữ trong tiếng Anh. Như vậy, nói giảm hay uyển ngữ, nhã ngữ chủ yếu dừng lại ở mức độ là một phương tiện hay biện pháp tu từ và đa số được xét trên bình diện phong cách học, tu từ học hoặc từ vựng học (một từ, một nhóm từ, một ngữ cố định). Có những uyển ngữ, nhã ngữ mang tính cố định và phổ biến trong một cộng đồng, một dân tộc (như: chết = qua đời, hy sinh…; đi ỉa = đi cầu, đi đồng, đi đại tiện, đi toilet, đi WC…). Cũng cần phải lưu ý rằng uyển ngữ, nhã ngữ có liên quan mật thiết đến văn hóa, phong tục tập quán và tôn giáo. Vậy TTGN là gì? Chúng ta có thể xuất phát từ những vấn đề căn bản của tình thái làm cơ sở hiểu về TTGN. Như trên đã trình bày, trong mỗi phát ngôn luôn tồn tại hai nội dung: nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái.Và có thể nói tình thái là phần tất yếu, “là linh hồn” của câu. Tình thái cùng với nội dung mệnh đề là hai thành phần cần yếu tạo nên cấu trúc ngữ nghĩa của phát ngôn. Do đó, nếu xem tình thái là một phạm trù rộng lớn, mang tính tất yếu, thể hiện thái độ, những cách đánh giá khác nhau của người nói đối với nội dung mệnh đề, với người đối thoại và với các nhân tố khác của ngữ cảnh liên quan đến sự tình được phản ánh thì theo chúng tôi, TTGN cũng là một phạm trù tuy ngoại diên và nội hàm của nó được thu gọn hơn trong nội dung “giảm nhẹ”. Có thể đưa ra khái niệm về TTGN như sau: TTGN là một phạm trù thể hiện thái độ, cách đánh giá có tính giảm nhẹ, tế nhị và lịch sự của người nói đối với nội dung mệnh đề, đối với người đối thoại và với nhân tố khác của ngữ cảnh liên quan đến sự tình nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong giao tiếp, tạo mối quan hệ liên nhân mang tính tích cực. Và cũng như phạm trù tình thái, để biểu thị ý nghĩa TTGN sẽ có một hệ thống các phương tiện cụ thể . Ví dụ: (10) Chị Dậu đấu dịu: Xin ông làm phúc để cho tôi cho cháu nó bú cái đã…[21; 137] Phương tiện ngữ điệu “(đấu) dịu” kết hợp với các từ có ý nghĩa bổ trợ, giảm mức áp đặt “xin”, “làm phúc” đã được Chị Dậu sử dụng để thể hiện thái độ nhẹ nhàng, “xuống nước” của chị trước tên lính, làm giảm không khí căng thẳng và thái độ bực tức của tên lính khi hắn đến bắt chị đi hầu quan. Tuy nhiên cũng phải lưu ý rằng, mỗi ngôn ngữ sẽ có những phương tiện đặc thù riêng để biểu thị ý nghĩa tình thái nói chung, TTGN nói riêng. Ví như trong tiếng Anh thì thức của vị từ là một trong những phương tiện quan trọng để diễn đạt ý nghĩa tình thái hay các vị từ tình thái như can, could, will, would trong tiếng Anh luôn được huy động để biểu thị ý nghĩa TTGN trong các phát ngôn nghi vấn, cầu khiến. Trong khi đó các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của tiếng Việt là một phương tiện đặc thù biểu thị ý nghĩa tình thái nói chung, TTGN nói riêng trong tiếng Việt. Cũng nên lưu ý rằng việc nghiên cứu về TTGN phải được xem xét như một phạm trù phức thể, nhiều phương diện tác động lẫn nhau một cách tích cực với toàn bộ hệ thống của các phạm trù chức năng ngữ nghĩa khác của ngôn ngữ và được liên hệ chặt chẽ với các phạm trù của ngữ dụng học. Đến đây chúng ta có thể thấy rõ mối tương quan và khác biệt giữa nói giảm, giữa uyển ngữ, nhã ngữ và TTGN. TTGN ở một cấp độ rộng hơn, bao quát hơn. Vì thế để biểu thị TTGN cũng có thể sử dụng cách thức của nói giảm và uyển ngữ, nhã ngữ như: dùng hình thức phủ định các từ có ý nghĩa tích cực trong hành động ngôn từ mang nghĩa tiêu cực (như: Đấy, thế mà lúc nãy tôi bảo nhà tôi rằng tôi học quốc ngữ, nhà tôi cứ không bằng lòng [6; 163] hay Có ra kia mở cánh cửa sổ mà cũng không chịu khó [13; 45]); cũng có thể dùng các tiểu từ tình thái chuyên biệt (ạ, nhé, nhỉ, thôi, nào…); hoặc cũng có thể sử dụng không phải một từ, một cụm từ hay một ngữ cố định mà là cả một phát ngôn hay một chuỗi các phát ngôn nối tiếp trong cách thức rào đón - nói vòng; hoặc khai thác cả phương tiện về ngữ điệu, khoảng im lặng, quán ngữ tình thái…- những phương tiện mà nói giảm, uyển ngữ không thể khai thác. Và TTGN không chỉ sử dụng “trong những tình huống hay văn bản giao tiếp lịch sự, trang trọng, đầy tri thức văn hóa” (như định nghĩa về uyển ngữ của Trương Viên nêu trên) mà nó được vận dụng trong mọi diễn ngôn giao tiếp dù trang trọng hay đời thường nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp. Như vậy là một tiểu phạm trù nằm trong phạm trù tình thái, TTGN có khả năng khai thác tối đa nhiều loại phương tiện để thể hiện nội dung “giảm nhẹ” của mình. Tuy nhiên, khi đặt vấn đề nghiên cứu TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt chúng tôi nhận thấy cần phải chú trọng bình diện ngữ nghĩa – ngữ dụng của TTGN. Bởi lẽ diễn ngôn luôn tồn tại trong một ngữ cảnh năng động (ngữ cảnh luôn thay đổi trong các quá trình giao tiếp) và ý nghĩa tình thái nói chung TTGN nói riêng của một phát ngôn chỉ được thể hiện đầy đủ khi phát ngôn ấy được đặt trong một ngữ cảnh cụ thể. Cơ sở này đã giúp chúng tôi trong việc xác lập, chọn lọc và đưa ra những phương tiện biểu thị TTGN trong chương 2. Luận văn của chúng tôi đặc biệt chú trọng đến những phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. Theo chúng tôi, có ít nhất có hai phương thức để biểu thị TTGN: (1) thái độ giảm nhẹ của người nói đối với người nghe. (2) thái độ giảm nhẹ của người nói đối với nội dung mệnh đề. Hai phương thức này tương tác với nhau trong một tổ chức diễn ngôn. Trong quá trình xử lý đề tài chúng tôi lưu ý cả hai phương thức, tuy nhiên đặc biệt chú trọng đến phương thức thứ nhất. Hiểu biết về TTGN, hiểu biết về các phương tiện biểu thị TTGN là có thể sử dụng các phương tiện ấy trong các tình huống giao tiếp. Cũng phải thấy rằng muốn sử dụng hiệu quả các phương tiện biểu thị TTGN, mà nhất là đối với người nước ngoài học tiếng Việt, thì cần phải có một nền tảng kiến thức về văn hóa, xã hội, phải thông qua tương tác theo từng ngữ cảnh, trong từng tình huống giao tiếp cụ thể. Và như vậy, TTGN và khả năng sử dụng các phương tiện biểu thị TTGN được bao hàm trong năng lực giao tiếp. 1.2.2.2 Nội dung của tình thái giảm nhẹ Dựa vào khái niệm về TTGN nêu trên, dựa vào nguồn ngữ liệu đã sưu tập, có thể xác định những nội dung của TTGN như sau: - Hạ thấp tầm quan trọng, làm giảm bớt sự to tát của sự việc mà người nói đưa đến cho người nghe. Ví dụ: (11) Vợ anh khổ quá nên đâm lắm lời tí thôi. [10; 415] Vợ chồng Đức đã dồn hết vốn liếng và cầm cố cả căn nhà để chuyển sang nghề nuôi chó Nhật. Nhưng thật không phải dễ với cái nghề mới này. Con chó Minu đẻ khó và suýt chết. Trước cảnh sắp mất cả chì lẫn chài, vợ Đức suốt ngày mắng nhiếc, trách móc và than khóc. Biết vậy, Thủy - người cầm cố căn nhà của Đức- đã động viên Đức bằng cách bào chữa cho thái độ của vợ Đức. Sự xuất hiện của từ hạn định tí kết hợp với tiểu từ tình thái cuối phát ngôn thôi trong phát ngôn trên của Thủy đã làm giảm mức độ to tát của sự việc, giảm bớt mâu thuẫn căng thẳng giữa hai vợ chồng Đức và đồng thời làm giảm tâm trạng thất vọng, bực tức của Đức khi nghĩ về vợ. - Làm giảm mức độ áp đặt, mức độ đe dọa thể diện người nghe trong các hành động cầu khiến, làm cho phát ngôn cầu khiến trở nên thân tình, mềm mại dễ nhận được sự chấp nhận từ phía người nghe hơn. Ví dụ: (12) Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng: Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn. [1; 47] (13) Bẩm cụ, ở ngoài con ít người quen, không tiện chỗ nào cho cháu trọ học, và nơi thành thị là chốn ăn chơi, cái hay thì ít mà cái dở thì nhiều, con sợ chú nó là con nhà hiếm, tính quen nuông chiều sẵn, hoặc giả nhiễm thói hư chăng, nên đánh liều xin cụ cho cháu được ở hầu đây…[5; 10] (14) Cụ cho phép con hỏi nhà con một câu thôi. [6; 108] (15) Xin ông làm phúc nới rộng nút thừng ra cho! [21; 40] Trong ví dụ (12), khi thấy Chí Phèo say khướt bước vào nhà, Bá Kiến lại dùng tiền để mua chuộc. Nhưng Bá Kiến bất ngờ bởi lần này Chí không nhận tiền. Trước cách nói khác lạ của Chí, Bá Kiến dịu giọng một cách khéo léo để “vừa đấm vừa xoa” trước Chí Phèo. Ví dụ (13) là cách nói rào đón khéo léo của ông tổng Hưởng khi đưa con đến trọ tại nhà cụ Cử. Biết rằng ở lại nhà cụ Cử là tiện cả đôi đường nên ông tổng Hưởng đã rào đón một cách nhún nhường để mong cụ Cử cho phép. Ví dụ (14) và (15) lần lượt là lời cầu khiến mềm mỏng, van nài của anh Pha muốn hỏi vợ một câu trước khi bị giải đi hầu quan và của Chị Dậu khi thấy chồng bị cai lệ trói quá chặt. Trong những tình huống căng thẳng như vậy thì sự xuất hiện của các từ bổ trợ, giảm mức áp đặt (xin, cho phép, làm phúc) kèm theo tiểu từ tình thái (thôi) trong các phát ngôn của hai nhân vật đã làm cho lời đề nghị nhẹ nhàng, dễ được chấp thuận hơn, giảm bớt sự căng thẳng. - Tạo sắc thái tình cảm, thân mật, lễ phép, tạo sự nhẹ nhàng, mềm mỏng cho phát ngôn, làm tăng mối thiện cảm, kêu gọi sự tán đồng và thể hiện sự mong muốn nhận được sự đồng tình, chấp nhận của người nghe (thể hiện rõ nhất với nhóm phương tiện tiểu từ tình thái và nhóm các từ có ý nghĩa bổ trợ, giảm mức áp đặt). Ví dụ: (16) Thôi ông ạ, con mình không lấy nó thì lấy người khác, đã ế đâu mà sợ. [2; 346] (17) Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào thư thả tôi sẽ đi làm và nộp sau. [9; 72] (18) Đêm nay thầy em ở nhà trông nồi bánh nhá. [23; 241] Ví dụ (16) là lời phân trần, động viên nhẹ nhàng của bà đồ với ông đồ khi thấy ông đau đớn và thất vọng vì cả gia đình bị lừa. Họ đã chuẩn bị tiệc để đón con rể quý nhưng nó lại lấy ngay con gái nhà bên cạnh. Tiểu từ tình thái ạ giúp cho câu nói của bà đồ trở nên nhẹ nhàng, thuyết phục hơn. Trong ví dụ (17), vì cha của anh Tư Bền ốm nặng, anh không dám bỏ cha ở nhà một mình để đi hát nên vẫn chưa kiếm được tiền trả nợ cho ông chủ rạp. Từ bổ trợ xin trong phát ngôn của anh Tư Bền đã làm cho lời khất nợ của anh trở nên lịch sự, lễ phép và nhẹ nhàng hơn. Ở ví dụ (18), đêm 30 Tết, Lạt vẫn muốn đi cấy cùng tổ đội, biết Keng sẽ không cho đi vì tết nhất đến nơi, chưa chuẩn bị gì và con còn quá nhỏ. Lạt đã khéo léo bắt đầu câu chuyện bằng cách nhờ chồng trông chừng nồi bánh. Tiểu từ tình thái nhá trong lời mở đầu của Lạt tạo nên sự thân mật, nhẹ nhàng, mong muốn nhận được sự đồng tình của chồng. - Thể hiện tình cảm, thái độ, ý định một cách tự nhiên mà tế nhị, ý tứ và khéo léo. Làm giảm đi cách nói thẳng thắn, trực tiếp dễ gây mất lòng, mất thể diện đối với người nghe. Ví dụ: (19) Bác cháu có gì, ông cho đóng hạng một đồng thôi chứ? [6; 186] (hỏi – từ chối, phản bác) (20) Thầy me cháu nhiều lúc quá thiên…[8; 81] (21) Tôi nói câu này, (nếu) nên thì các bác nghe, (nếu) không nên thì lời tôi lại trả tôi. [21; 162] (22) Hình như anh đánh giá anh Hoài không đúng. [23; 316] Trong ví dụ (19), khi thấy bọn hương lý, phó đội và phần thu cố tình tính thuế sai, ép mình phải nộp, anh Pha sửng sốt và giận dữ nhưng với những người dân “thấp cổ bé họng” như anh, sự phản kháng quyết liệt sẽ chẳng mang lại được gì mà chỉ làm chúng chèn ép thêm. Biết thế nên anh Pha chỉ dám phản ứng nhẹ nhàng, ý tứ bằng một câu hỏi. Ở ví dụ (20), Nga buồn và thất vọng khi cha mẹ mình luôn có tư tưởng phân biệt giai cấp, chỉ biết xem trọng danh vọng và vật chất, luôn khinh thường, xúc phạm những người nghèo. Tuy vậy Nga cũng không thể nói thẳng suy nghĩ của mình với chú Tham tuy chú là chú ruột, là người hiểu chuyện và biết thông cảm. Cách nói bỏ lửng của Nga phần nào tế nhị hơn đồng thời cũng thể hiện được tâm trạng dằn vặt của Nga. Trong ví dụ (21), khi biết chị Dậu phải lên dinh quan làm vú nuôi, anh Dậu lại đau ốm mà nhà không còn gì ăn nên bà cụ láng giềng muốn xin cái Tỉu về cho thằng cả bà nuôi vì cháu bà mới mất. Nhưng biết nhà chị Dậu đang trong cảnh đau thương: chồng bệnh quặt quẹo, vợ phải bỏ quê đi làm xa, cái Tí vừa bị bán, nợ nần chồng chất…nên bà cụ không dám mở lời một cách đường đột. Câu hỏi ướm với cặp quan hệ từ giả định nếu… thì…đã giúp bà cụ thể hiện ý định của mình tế nhị hơn, ý tứ hơn. Ở ví dụ (22), Vân rất buồn và giận chồng khi thấy chồng có thái độ xem thường và xa lánh Hoài, người bạn nối khố từ bé của Trọng. Trọng nghĩ Hoài đến thăm vì lợi dụng, vì một điều gì đó cần nhờ vả. Tiếp xúc với Hoài, Vân hiểu ở Hoài là một tình bạn trong sáng và thân thiết. Không muốn chồng có những suy nghĩ xấu về bạn, nhưng cũng không thể phê phán chồng một cách thẳng thắn, Vân đã “đánh động” chồng bằng cách nói tế nhị với quán ngữ hình như và cách nói giảm nhẹ khéo léo “không đúng” thay vì nói “sai”. Vân muốn Trọng phải tự nhận biết và thay đổi quan điểm. Cũng có thể nói rằng phần lớn các phát ngôn biểu lộ phép lịch sự hay sự tế nhị cũng đều là các phát ngôn biểu thị TTGN. 1.2.2.3 Các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái giảm nhẹ Trên cơ sở hiểu về TTGN như đã nêu ở trên và trên cơ sở kế thừa sự phân loại các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong ngôn ngữ được nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ đồng tình, cùng với quan điểm tập trung chủ yếu vào bình diện ngữ dụng, luận văn đã đi vào chọn lọc và xác lập một hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. Để có tính khái quát trong việc phân loại các phương tiện, chúng tôi phân loại thành hai nhóm phương tiện lớn, đó là: các phương tiện trực tiếp và các phương tiện gián tiếp. - Các phương tiện trực tiếp bao gồm 7 phương tiện: (1) Dùng tiểu từ tình thái (2) Dùng các từ có ý nghĩa bổ trợ, giảm mức áp đặt (xin, xin phép, làm ơn, giúp…) trong các hành động cầu khiến (yêu cầu/ đề nghị/ sai/ bảo/ ra lệnh…) (3) Dùng từ, tổ hợp từ có ý nghĩa hạn định – giảm thiểu (chút, một chút, chút xíu, ít, một ít, hơi, một lát….) (4) Dùng hình thức phủ định các từ có ý nghĩa tích cực trong hành động ngôn từ mang nghĩa tiêu cực (không chịu khó, không bằng lòng, không đẹp lắm…) (5) Dùng quán ngữ tình thái (có lẽ, nghe đồn, khí không phải, hình như, hình như…thì phải…) (6) Dùng kiểu phát ngôn điều kiện, giả định (nếu (như)…thì…, giá (như)…thì…) (7) Dùng ngữ điệu - Các phương tiện gián tiếp gồm 3 phương tiện: (1) Dùng lối nói rào đón – nói vòng (2) Dùng khoảng im lặng, kiểu nói lửng (3) Dùng hành động ngôn từ gián tiếp (trong hành động ngôn từ mang nghĩa tiêu cực: yêu cầu/từ chối/ phản bác/chê trách – mắng mỏ) Các phương tiện trên được xác lập còn thông qua quá trình khảo sát ngữ liệu của chúng tôi; trong mối quan hệ với cách thức giao tiếp, với đặc trưng văn hóa của người Việt, một nền văn hóa đậm chất nho giáo, đề cao vai trò của cách thức cư xử, của lời ăn tiếng nói – “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Có thể thấy một điểm nổi bật trong giao tiếp của người Việt là ở những tình huống cầu khiến, khó nói, cần sự tế nhị người Việt thường có xu hướng tạo giải pháp mở, hướng về chính mình thông qua sự nhún nhường của chính mình. Người nói không mang “cái tôi” của mình để áp đặt cho người khác mà là mang “cái tôi” của người khác để áp đặt vào mình. Hay nói rộng ra, người Việt không mang cái cá nhân để áp đặt lên xã hội mà khép mình vào xã hội, vào cộng đồng. Ngoài ra, việc xác lập các phương tiện biểu thị TTGN còn được đặt trong mối quan hệ với khả năng hoạt động đa dạng và các sắc thái ý nghĩa tinh tế của từ ngữ tiếng Việt; thông qua nền tảng lí luận về tính lịch sự, phương châm và chiến lược lịch sự trong giao tiếp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trong một phát ngôn cụ thể có thể sử dụng phối hợp nhiều phương tiện biểu thị TTGN, không nhất thiết chỉ sử dụng một phương tiện trong một phát ngôn. Ví dụ: (23) Cụ cho phép con vào một tí, hỏi chồng con xem đầu đuôi ra làm sao. [6; 105] Chị Pha, trong “Bước đường cùng”, đã sử dụng kết hợp hai phương tiện: sử dụng từ có ý nghĩa bổ trợ, giảm mức áp đặt (cho phép) và sử dụng từ có ý nghĩa hạn định - giảm thiểu (một tí) để bày tỏ yêu cầu của mình một cách nhũn nhặn trước đội lệ. Luận văn cũng giới hạn việc xác định hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN. Chúng tôi tập trung vào những phương tiện có tính nổi bật và phổ biến trong diễn ngôn tiếng Việt, không xem xét những cách nói mang tính sáng tạo cá nhân, phụ thuộc vào từng văn cảnh đơn lẻ, thiếu tính khái quát (như trường hợp “nhã ngữ văn cảnh” mà Lê Thiếu Ngân đề cập ở trên). Những nội dung chi tiết hơn về từng phương tiện sẽ được chúng tôi trình bày cụ thể trong chương 2 của luận văn. 1.3 Một số vấn đề khác về tình thái giảm nhẹ trong ngôn ngữ Trong quá trình xử lý đề tài, chúng tôi xét thấy vấn đề lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ có liên quan rõ nét đến TTGN trong diễn ngôn. Không thể xem xét ngôn ngữ như một yếu tố tĩnh tại mà phải là một hoạt động mang tính liên cá nhân. Trong hoạt động ấy thì yêu cầu giao tiếp như thế nào để đạt được hiệu quả giao tiếp và hơn thế nữa giao tiếp như thế nào để thể hiện nét văn hóa, lịch sự là một điều quan trọng. Rõ ràng, những kiến thức về TTGN mà cụ thể là việc nắm bắt và biết sử dụng các phương tiện biểu thị TTGN sẽ giúp cho hoạt động giao tiếp đạt được những yêu cầu này. Hay cũng có thể nói rằng phần lớn các phát ngôn biểu lộ phép lịch sự, sự tế nhị cũng đều là các phát ngôn biểu thị TTGN. Vì thế việc nghiên cứu về lịch sự trong hội thoại sẽ giúp chúng ta nắm được các nguyên tắc cần thiết, từ đó hiểu sâu sắc việc sử dụng các phương tiện biểu thị TTGN. Do đó, ở đề mục này, chúng tôi muốn làm rõ một vài nội dung cơ bản về lịch sự - lịch sự ngôn ngữ cũng như cho thấy vai trò của TTGN trong giao tiếp. 1.3.1 Về lịch sự và lịch sự ngôn ngữ 1.3.1.1 Khái niệm lịch sự - lịch sự ngôn ngữ Lịch sự (politeness) là một thuộc tính thuộc phạm trù ứng xử của con người trong giao tiếp. Nó là một nhân tố quan trọng có tính chất điều hòa các quan hệ liên nhân. Nó không chỉ chi phối quá trình vận động hội thoại mà còn chi phối hiệu quả giao tiếp. Vì thế, nó được xem là thuộc tính của diễn ngôn. C. K. Orecchioni đã khẳng định: “Chúng tôi chấp nhận rằng phép lịch sự liên quan tới tất cả các phương diện của diễn ngôn.” [theo 9; 256] Đã có nhiều công trình của các tác giả nước ngoài về lịch sự như R. Lakoff, G. Leech, S. Levinson & P. Brown, G.Yule, G. Green, C. K. Orecchioni….Các tác giả đã khảo sát ứng xử lịch sự trong ngôn ngữ trên nhiều hướng và đã xây dựng mô hình lịch sự chung cho các ngôn ngữ. Có thể điểm qua một số tác giả với những quan điểm nổi bật sau: R. Lakoff là người mở đầu cho việc nghiên cứu phép lịch sự dưới cái nhìn ngôn ngữ học. R. Lakoff đã đánh giá rất cao quan điểm “nguyên tắc cộng tác” trong hội thoại của H.P. Grice, tuy nhiên ông đã mở rộng một số khái niệm gắn liền với ngữ cảnh giao tiếp. Theo R. Lakoff lịch sự là tôn trọng nhau. Nó là biện pháp được sử dụng để giảm bớt trở ngại trong tương tác giữa các cá thể. Ông định nghĩa: “Lịch sự như là một phương thức để giảm thiểu sự xung đột trong diễn ngôn (…); Những chiến lược lịch sự có nhiệm vụ đặc biệt là làm cho cuộc tương tác được thuận lợi.” [theo 9; 256] G. Leech đã xây dựng mô hình lịch sự trên cơ sở cho rằng lịch sự là chiến lược hay phương tiện tránh đụng độ trong giao tiếp. Ông cho rằng phép lịch sự liên quan chặt chẽ tới lợi ích hay tổn thất gây ra cho người nghe cho nên mục tiêu của nó, như một nguyên tắc, là: “tối thiểu hóa những lối nói bất lịch sự và tối đa hóa những lối nói lịch sự”. Theo ông, lịch sự có chức năng: “gìn giữ sự cân bằng xã hội và quan hệ bè bạn, những quan hệ này khiến chúng ta có thể tin rằng người đối thoại với chúng ta tỏ ra trước hết là cộng tác với chúng ta.” [theo 9; 256] S. Levinson & P. Brown được xem là hai chiến lược gia về lịch sự. Hai ông xây dựng lý thuyết lịch sự trên khái niệm thể diện mượn của E.Goffman. S. Levinson & P. Brown cho rằng để đạt được mục đích lịch sự, bên cạnh những quy ước chung, mỗi cộng đồng còn tạo dựng cho mình những quy ước chuẩn mực riêng, sao cho các hành động ngôn ngữ tự thân khi sử dụng không làm thương tổn đến thể diện âm tính (negative face) (là sự mong muốn về việc hành động của mình không bị người khác ép buộc, mong muốn được tự do hành động, trù tính) và thể diện dương tính (positive face) (là sự mong muốn hình ảnh cái tôi của mình được người khác xác nhận, bênh vực ủng hộ). S. Levinson & P. Brown định nghĩa về lịch sự như sau: “Lịch sự chỉ bất cứ phương thức nào được dùng để tỏ ra lưu ý đến tình cảm (feelings) hay là thể diện của nhau trong hội thoại, bất kể khoảng cách xã hội giữa người nói và người nghe như thế nào” Lý thuyết của S. Levinson & P. Brown là lý thuyết được giới nghiên cứu ở phương Tây cũng như Việt ngữ học đánh giá rất cao. Ở Việt Nam, các tác giả như Nguyễn Đức Dân (1998) (Ngữ dụng học), Đỗ Hữu Châu (2001) (Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 – Ngữ dụng học), Nguyễn Thiện Giáp (2007) (Dụng học Việt ngữ)…đã mở đường cho việc giới thiệu và nghiên cứu lý thuyết lịch sự ngôn ngữ. 1.3.1.2 Các phương châm lịch sự Để hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả, những người tham gia vào quá trình giao tiếp cần phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. G. Leech đưa ra một nguyên tắc, như đã nêu ở trên, là: “tối thiểu hóa những lối nói bất lịch sự và tối đa hóa những lối nói lịch sự”. Dựa trên bốn phương châm hội thoại của P.Grice (gồm có: phương châm về lượng, phương châm về chất, phương châm về sự thích hợp, phương châm về cách thức), G. Leech đã cụ thể hóa nguyên tắc trên thành sáu phương châm sau: - Phương châm khéo léo (tact maxim): giảm đến mức tối thiểu những điều thiệt và tăng đến mức tối đa những điều lợi cho người. - Phương châm hào hiệp (generosity maxim): giảm đến mức tối thiểu những điều lợi và tăng đến mức tối đa những điều thiệt cho ta. - Phương châm tán thưởng (approbation maxim): giảm đến mức tối thiểu những lời chê và tăng đến mức tối đa những lời khen cho người. - Phương châm khiêm tốn (modesty maxim): giảm đến mức tối thiểu việc khen ta và tăng đến mức tối đa sự chê bai ta. - Phương châm tán đồng (agreement maxim): giảm đến mức tối thiểu sự bất đồng và tăng đến mức tối đa sự đồng ý giữa ta và người. - Phương châm cảm thông (sympathy maxim): giảm đến mức tối thiểu ác cảm và tăng đến mức tối đa thiện cảm giữa ta và người. Theo G. Leech, những phương châm trên có tính chuyên dụng đối với những hành động ở lời nhất định. Phương châm khéo léo, hào hiệp chuyên dùng cho hành động cầu khiến và cam kết; phương châm tán thưởng chuyên dụng cho hành động biểu cảm và xác tín; phương châm khiêm tốn, tán đồng và cảm thông đều chuyên dụng cho hành động xác tín. Tuy nhiên trên thực tế, trong hoạt động giao tiếp khó có thể tuân thủ trọn vẹn tất cả các phương châm này. Trong trường hợp ấy, sẽ phải sử dụng các chiến lược lịch sự dương tính và lịch sự âm tính để đảm bảo hiệu quả của hoạt động giao tiếp. 1.3.1.3 Các chiến lược lịch sự Trước khi đi vào tìm hiểu về các chiến lược lịch sự, chúng ta cần hiểu về thể diện. Có thể nói thể diện là hình ảnh “cái tôi” trước công chúng của một con người, nó liên quan đến tình cảm và ý thức xã hội của bản thân mà ai cũng có mong muốn mọi người nhận ra. Thể diện được S. Levinson & P. Brown định nghĩa: “hình ảnh – về - ta – công cộng mà mỗi thành viên (trong xã hội) muốn mình có được”. Và J. Thomas cho rằng “cái hình ảnh này có thể bị làm tổn hại, được giữ gìn hay được đề cao trong tương tác.” [theo 9; 264] Bởi thế, trong hoạt động giao tiếp, con người cần có ý thức giữ thể diện cho mọi người kể cả chính mình. Thực tế, ý thức bảo toàn thể diện, sự lo ngại mất thể diện luôn là đặc trưng tâm lý chung của tất cả mọi người. Cách thức giữ thể diện hữu hiệu nhất là lịch sự, là trong giao tiếp ngôn ngữ phải biết sử dụng các phương tiện ngôn ngữ thích hợp để vừa đạt hiệu quả giao tiếp tối ưu vừa tạo dựng quan hệ liên nhân thân thiện. Theo S. Levinson & P. Brown, thể diện gồm hai phương diện: - Thể diện âm tính: là mong muốn không bị can thiệp, mong muốn được hành động tự do theo cách mình đã chọn, là nhu cầu được độc lập, tự do trong hành động, không bị người khác áp đặt. - Thể diện dương tính: là cái được phản ánh trong ý muốn mình được ưa thích, tán thưởng, tôn trọng, đánh giá cao. [theo 9; 264] G. Yule giải thích đơn giản rằng: “thể diện âm tính là nhu cầu được độc lập còn thể diện dương tính là nhu cầu được liên thông với người khác.” [theo 9; 264] Như vậy, giữ thể diện là một yêu cầu có tính chất nguyên tắc trong hội thoại. Thế nhưng trong giao tiếp có những hành động, những nghi thức về bản chất đi ngược lại mong muốn thể diện của người nói và/hoặc người nghe, tức có nguy cơ đe dọa thể diện, cả thể diện âm tính cũng như dương tính. Cũng theo S. Levinson & P. Brown, những hành động như mệnh lệnh, cầu khiến, gợi ý, nhắc nhở, khuyên nhủ, dặn dò…có nguy cơ đe dọa thể diện âm tính của người nghe; những hành động như phê bình, chê, chửi…có nguy cơ đe dọa thể diện dương tính của người nghe; những hành động như tặng, biếu, hứa hẹn…có nguy cơ đe dọa thể diện âm tính của người nói; và những hành động như xin lỗi, cảm ơn, tự phê bình…luôn tiềm ẩn khả năng đe dọa thể diện dương tính của người nói. Mức độ đe dọa thể diện được đánh giá bằng ba thông số: tương quan quyền lực, khoảng cách xã hội giữa người nói và người nghe và mức độ áp đặt của các hành vi ở lời trong phát ngôn của người nói. Một khi đánh giá đúng mức độ đe dọa thể diện, người nói sẽ dùng các chiến lược lịch sự phù hợp để đạt hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Nhìn chung có hai chiến lược lịch sự là: chiến lược lịch sự âm tính (negative politeness strategy) và chiến lược lịch sự dương tính (positive politeness strategy). Chiến lược lịch sự âm tính: hướng vào thể diện âm tính, vào lãnh địa của người tiếp nhận. Có thể nói rằng đây là chiến lược có tính né tránh, không dùng những hành vi làm phương hại tới thể diện của người khác hoặc bù đắp, giảm nhẹ mức độ của các hành vi này. Khi sử dụng chiến lược lịch sự âm tính, người nói có khuynh hướng tỏ rõ sự tôn trọng, nhấn mạnh quyền tự do của người nghe. Theo S. Levinson & P. Brown có 10 chiến lược lịch sự âm tính, cụ thể như sau: (một số ví dụ chúng tôi trích dẫn từ ngữ liệu do chúng tôi khảo sát, có nêu rõ nguồn.) (1) Dùng cách nói gián tiếp Ví dụ: (24) Như thế thì tao còn biết từ chối người ta thế nào cho tiện? [2; 127] (2) Dùng các yếu tố rào đón Ví dụ: (25) Thôi thì mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi trầu đến kêu với ông để cho các cháu được lễ các cụ……[2; 136] (3) Tỏ rõ sự bi quan Ví dụ: (26) Biết là không hy vọng gì nữa nhưng anh thử cố giúp tôi một lần nữa được không? (4) Giảm thiểu sự áp đặt Ví dụ: (27) Hình như chị không đồng ý hẳn những ý kiến của Trọng. [23; 300] (5) Tỏ rõ sự kính trọng Ví dụ: (28) Bẩm chúng con thấy cụ lớn cũng dễ dàng, lại hay tiếp người bản xứ nên con sang thăm và hầu chuyện, và xem cụ lớn có điều gì chỉ bảo không, thế thôi ạ. [17; 44] (6) Xin lỗi Ví dụ: (29) Xin lỗi cô, cô cho tôi gặp năm phút được không? [14; 35] (7) Dùng phát ngôn phiếm chỉ Ví dụ: (30) Dậy đi cả phòng ơi! (8) Trình bày hành vi đe dọa thể diện như một quy tắc Ví dụ: (31) Dậy sớm tập thể dục là có lợi cho sức khỏe. Dậy đi! (9) Sử dụng thủ pháp danh hóa Ví dụ: (32) Sự từ chối của anh làm tôi thất vọng. (10) Sử dụng lối nói trắng để bày tỏ sự biết ơn của người nói đối với người nghe. Ví dụ: (33) Tôi vô cùng biết ơn anh nếu anh giúp tôi tìm ra cháu bé Hoặc sử dụng lối nói trắng để thể hiện người nghe không phải chịu ơn người nói về việc người nói đã giúp đỡ người nghe làm việc gì đó. Ví dụ: (34) Mày ngại không có tiền à? Cái đó không hề gì. Tao cho mày vay. Mấy hột mà sợ. [6; 67] Chiến lược lịch sự dương tính: hướng vào thể diện dương tính của người nghe nhằm thực hiện những hành vi tôn vinh thể diện, là những hành vi làm gia tăng một trong hai thể diện của người nghe. Khi sử dụng chiến lược lịch sự dương tính người nói cũng đồng thời làm gia tăng thể diện của mình bằng cách cố ý nhấn mạnh mục đích phát ngôn, để người nghe nhận thấy người nói có cùng mong muốn, mục đích như mình. Chiến lược lịch sự dương tính được hiện thực hóa bằng 15 chiến lược giao tiếp cụ thể: (1) Bày tỏ sự chú ý của ngưới nói đối với người nghe Ví dụ: (35) Chắc là bạn đói lắm rồi! (2) Sử dụng lối nói tán dương, cường điệu Ví dụ: (36) Cậu ăn mặc mốt nhất trường đấy. (3) Gia tăng sự quan tâm của người nói đối với người nghe Ví dụ: (37) Cậu đừng lo lắng, không sao đâu. (4) Sử dụng những dấu hiệu thể hiện người nói cùng nhóm với người nghe Ví dụ: (38) Em gái ơi sao mà khó tính thế? (5) Tìm kiếm sự tán đồng bằng những đề tài mà cả người nói và người nghe cùng quan tâm Ví dụ: (39) Cậu có nhớ Hải “tồ” không? Nó đã đỗ đại học rồi đấy. Tớ mới gặp hôm qua. Cậu ấy hỏi thăm cậu. (6) Tránh sự bất đồng Ví dụ: (40) Chúng tôi rất mong các anh hợp tác với chúng tôi để giải quyết chuyện này. (7) Nêu những lẽ thường Ví dụ: (41) Ai giàu ba họ, ai khó ba đời, anh đừng nản chí! (8) Pha trò, khôi hài Ví dụ: (42) Em cứ khóc thế này thì nước mắt chảy thành sông thành suối cuốn trôi anh và em đi mất đấy. (9) Quan tâm đến sở thích của đối tác Ví dụ: (43) Biết cậu thích nhạc Trịnh, tớ mua ngay giúp cậu CD nhạc Trịnh mới nhất đây này. (10) Mời, hứa hẹn Ví dụ: (44) Tối thứ bảy đi cà phê nhé? (11) Tỏ ra lạc quan Ví dụ: (45) Cậu chỉ cần đọc kỹ hướng dẫn thêm một lần nữa thôi, cậu sẽ làm được ngay. (12) Lôi kéo người nghe cùng làm chung một việc Ví dụ: (46) Chúng mình đi thư viện đi. (13) Nêu lí do của hành động Ví dụ: (47) Chị phải đi thư viện, em nấu cơm giúp chị nhé. (14) Đòi hỏi sự có đi có lại Ví dụ: (48) Hôm qua em nấu cơm, hôm nay đến chị đấy nhé. (15) Trao tặng người nghe một cái gì đó (tặng phẩm, sự cộng tác, sự thông cảm) Ví dụ: (49) Sếp mắng cậu thế thôi. Thương cho voi cho vọt mà. Tớ cũng vẫn hay bị thế. Trong quá trình khảo sát, xử lý đề tài, chúng tôi nhận thấy chiến lược lịch sự âm tính được vận dụng nhiều hơn trong diễn ngôn tiếng Việt, nhất là khi người nói thực hiện hành động cầu khiến. Những chiến lược lịch sự cụ thể này rất hữu ích cho chúng tôi trong việc xác lập những phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. 1.3.2 Vai trò của tình thái giảm nhẹ trong giao tiếp Với những nội dung đã trình bày ở trên, đến đây chúng ta có thể khái quát ngắn gọn vai trò của TTGN trong diễn ngôn, trong giao tiếp. Trước hết phải thấy rằng trong bất kỳ một phát ngôn nào cũng tồn tại hai yếu tố nghĩa: nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái. Như vậy, cũng có nghĩa là có sự tồn tại của các phát ngôn b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH031.pdf
Tài liệu liên quan