Tài liệu Luận văn Tình hình triển khai chương trình an sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm nhân thọ: Luận Văn
Đề Tài:
TèNH HèNH TRIỂN KHAI
CHƯƠNG TRèNH AN SINH
GIÁO DỤC TẠI CễNG TY
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Chuyên đề thực tập Bảo hiểm A-37
PHẦN III - TèNH HèNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRèNH AN SINH GIÁO DỤC
TẠI CễNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
29
I - MỘT VÀI NẫT VỀ CễNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ 29
1. Giới thiệu chung về Cụng ty 29
2. Những thuận lợi khú khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em tại
Cụng ty bảo hiểm nhõn thọ
31
II - TèNH HèNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRèNH AN SINH GIÁO DỤC
Ở CễNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
34
1. Đỏnh giỏ chung về kết quả nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em 34
2. Phõn tớch tỡnh hỡnh triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em trong quý I
năm 1999 tại Cụng ty Bảo hiểm nhõn thọ
37
2.1. Cụng tỏc khai thỏc 37
2.2. Cụng tỏc đỏnh giỏ rủi ro ban đầu 37
2.3. Cụng tỏc quản lý hợp đồng 40
2.4. Cụng tỏc tuyển dụng và đào tạo 42
2.5. Cụng tỏc tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý 44
2.6. Cụng tỏc giỏm dịnh bồi dưỡng 47
2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư 47
III - MỘT...
44 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tình hình triển khai chương trình an sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm nhân thọ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn
Đề Tài:
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI
CHƯƠNG TRÌNH AN SINH
GIÁO DỤC TẠI CÔNG TY
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
PHẦN III - TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
29
I - MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ 29
1. Giới thiệu chung về Công ty 29
2. Những thuận lợi khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em tại
Công ty bảo hiểm nhân thọ
31
II - TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC
Ở CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
34
1. Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em 34
2. Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em trong quý I
năm 1999 tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ
37
2.1. Công tác khai thác 37
2.2. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu 37
2.3. Công tác quản lý hợp đồng 40
2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo 42
2.5. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý 44
2.6. Công tác giám dịnh bồi dưỡng 47
2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư 47
III - MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC
48
1. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác 50
2. Đa dạng các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác 50
3. Cần có phương pháp khai thác hợp với từng thị trường 53
4. Công tác tuyển dụng, đào tạo và quản lý cán bộ khai thác 54
5. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 55
6. Một số kiến nghị khác 56
Kết luận 58
1
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải
thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục
đích hàng đầu của chế độ xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước
ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang
có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười
năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã gặt hái
được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã
hội. Nên nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc và phát triển một cách vững
chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài,
sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế đang được điều chỉnh, đIều kiện sống của
nhân dân không ngừng được cảI thiện và nâng cao. Trong xu thế phát triển
toàn diện đó, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra
đời, bảo hiểm nhân thọ là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với
các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều
loạI hình khác nhau như: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5-10 năm, An sinh
giáo dục...Sở dĩ em chọn đề tài:“An sinh giáo dục: Thực trạng và một số
biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo hiểm nhân thọ “ cho
chuyên đề thực tập của mình là vì những lý do sau:
- Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời rất sớm trên thế giới ( năm 1583,
ở Anh) và khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất
muộn ở Việt nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên
thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách
có ý nghĩa kinh tế lớn
- Do nghiệp vụ “ An sinh giáo dục “mới được triển khai ở nước ta, thêm vào đó chúng ta lại thiếu một hệ
thống luật đồng bộ trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, nên khó tránh khỏi những hạn
chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra
giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó
không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty
phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng.
Do vậy công ty bảo hiểm nhân thọ cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty.
- Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các
khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai “ thì chương trình “An
sinh giáo dục “ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau.
Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị
nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới.
2
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.
Phần II: Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ.
Phần III: Tình hình triển khai chương trình An sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm nhân thọ.
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
a. Trên thế giới:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển từ rất lâu trên thế giới. Hình thức bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra
đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là William Gybbon. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi
thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó
giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên bảo hiểm
nhân thọ phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ,
cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ
3
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
thuật nên bảo hiểm nhân thọ đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Với sự xuất hiện các phép tính
xác suất Pascal và Fermat thì sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ là một tất yếu khách quan.
Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhưng chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm
cho các con chiên trong nhà thờ của họ.
Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là công ty đầu tiên bán các hợp
đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo
hiểm.
Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ.
Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ.
Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ những loại hình nhân thọ cơ
bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo
hiểm trợ cấp hưu trí, mỗi công ty bảo hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để đáp
ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Người ta cũng thường có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo hiểm là tai nạn hoặc bệnh tật,
ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng
trên).
Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm trên 50% doanh số của ngành bảo hiểm.
Dưới đây là số liệu thể hiện tỷ trọng doanh số bảo hiểm nhân thọ ở các khu vực trên thế giới trong hai
năm 1990, 1996.
Bảng 1: Doanh số của bảo hiểm nhân thọ so với doanh số ngành bảo hiểm ở các khu vực
Đơn vị tính: %
Năm
Khu vực 1990 1996
Châu Á 33,8 75
Châu Âu 31,4 50
Châu Mỹ 34,8 43
Nguồn tài liệu: Tạp chí Tái bảo hiểm - 1996.
Trong đó, cho đến năm 1993, ở Đông Nam á tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD, doanh số
của bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8% , doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD
chiếm 26,2%.
Có thể đưa ra đây một số ví dụ về sự phát triển bảo hiểm nhân thọ ở một số nước như sau:
Bảng 2: Phí bảo hiểm nhân thọ ở một số nước trên thế giới năm 1993.
Tên nước Tổng phí
bảo hiểm
(tr.USD)
Nhân
thọ (%)
Phi
nhân
thọ (%)
Phí BHNT
trên đầu
người(US/
1000người)
Tỷ lệ
BHNT
trên GDP
(%)
Bảo hiểm
phi nhân
thọ trên
GDP (%)
Hàn Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Singapor
Philipin
Thái Lan
Malaixia
Inđonêxia
Mỹ
Đức
36.050
320.143
9.886
1.666
1.238
2.127
1.989
79,66
73,86
68,77
62,42
59,43
53,64
46,45
20,34
26,14
31,23
37,28
40,57
43,36
53,55
651.201
1.909.870
325.311
358.620
11.294
19.470
48.125
8,68
5,61
3,14
1,89
1,38
0,92
1,43
2,21
1,98
1,43
1,14
0,82
0,80
1,65
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Pháp
Anh
1.233
522.468
107.403
84.303
102.360
30,25
41,44
39,38
56,55
64,57
69,75
58,56
60,62
43,65
35,43
1.974
838.223
524.138
826.320
1.141.450
0,26
3,41
2,25
3,80
7,00
0,60
4,82
3,46
2,82
3,85
Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển - Đại học kinh tế quốc dân.
b.Tại Việt Nam:
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ, trong những năm qua
Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm
nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà
nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nhưng trong
thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình
đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này
đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã triển khai một số loại
hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm
tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ
bảo hiểm không được biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào Việt Nam”, nhưng vào
lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn như:
- Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thường ngày, phần tiết kiệm
rất ít.
- Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Công ty bảo hiểm lúc đó
chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi trường đầu tư chưa phát triển.
- Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giá công ty bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm và khả năng thanh toán của
công ty bảo hiểm.
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo
hiểm sinh mạng con người thời hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ tính đến trong vòng 1
năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó
loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng được nhu cầu cho những người già.
- Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có được nhận lại gì không?
Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đầu
thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm
nhân thọ với hai loại hình mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công
ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký quyết định số
568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này
đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài người
trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi
vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả
thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết
trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
5
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham
gia bảo hiểm nhân thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các
nước phát triển cũng như các nước đang phát triển.Ở châu Á, những năm
gần đây bảo hiểm nhân thọ phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức
năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho
sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi
suất cao.Theo Tài liệu của công ty Bảo Việt nhân thọ, năm 1996, ở châu Á,
tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD trong đó phí bảo hiểm nhân
thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8%. Ơ các nước phát triển có môi trường đầu
tư tốt, bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh mẽ.
Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp
phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo
dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm
nhân thọ nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi
ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong
hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển
đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Muốn thực hiện được thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra thì nhân tố vốn đầu tư
là rất quan trọng. Vốn đầu tư chủ yếu được lấy từ quĩ tích luỹ của nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay
nước ngoài. Theo kinh nghiệm của một số nước phát triển và tình hình kinh tế xã hội thực tế của Việt
Nam thì nhất thiết phải tạo nhanh nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và phải coi đây là biện pháp
chính. Có tích luỹ từ trong nước thì mới tiếp nhận được nguồn vốn từ bên ngoài. Mà quĩ tích luỹ này
được hình thành chủ yếu từ tiết kiệm, để phát huy nguồn vốn này cần phải đẩy mạnh tiết kiệm, tạo khoản
vốn cần thiết để phát triển kinh tế.
Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nước ta thời gian qua là nguồn vốn đầu tư phát
triển bằng nguồn vốn trong nước tăng không đáng kể, mặc dù theo điều tra, vốn trong dân không phải là
nhỏ. Báo Đầu tư số ra gần đây cho biết: Nguồn vốn trong dân ước tính trong các năm :
- Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP.
- Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP.
- Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP.
Dự đoán từ nay đến năm 2000 tỷ lệ này đạt 15% GDP.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ
tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ
không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với
người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít
khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi.
Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có
giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang
huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng
người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách
6
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng lượng vốn mà công ty bảo hiểm nhân
thọ Việt Nam huy động được cũng là hết sức cần thiết trong điều kiện kinh
tế nước ta hiện nay. Nếu như đối với nghiệp vụ bảo hiểm khác thời gian
bảo hiểm thường ngắn, mức phí đóng thường là thấp thì ở nghiệp vụ " An
Sinh Giáo Dục " thời gian bảo hiểm dài, mức phí định kỳ cao. Điều này cho
thấy huy động vốn bằng cách tăng cường triển khai nghiệp vụ "An Sinh
Giáo Dục " là hết sức cần thiết đối với công ty bảo hiểm nhân thọ.
II - MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA BẢO HIỂM
NHÂN THỌ
1.Mục đích
Bảo hiểm nhân thọ là một sự đảm bảo và mang tính chất tương hỗ - đó là mục đích chính, và do đó
bảo hiểm nhân thọ mang tính chất xã hội rất lớn. Số tiền được trả cho thân nhân và gia đình người tham
gia bảo hiểm khi không may gặp rủi ro được bảo hiểm sẽ giúp những người thân chi trả những khoản chi
tiêu rất lớn như: tiền thuốc thang và bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết để ổn định cuộc sống, chi
phí giáo dục con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Không ai muốn nghĩ tới cái chết, nhưng không ai biết nó đến lúc nào. Việc mua một hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ là thể hiện sự chu đáo của mình đối với gia đình. Và nếu như may mắn trong suốt thời hạn
bảo hiểm không có rủi ro thì người được bảo hiểm vẫn nhận lại được số tiền đã nộp cộng thêm lãi nhờ
hoạt động của công ty bảo hiểm. Nhiều khoản tiền nhỏ lúc đó cộng lại đã thành khoản tiền lớn để chi tiêu
cho những công việc lớn, hoặc như dành dụm cho con bằng cách mua hợp đồng “An sinh giáo dục” thì
khi đứa trẻ 18 tuổi đã có một khoản tiền để cấp vốn cho nó làm ăn hoặc chi phí cho nó tiếp tục đi học đại
học. Chi phí giáo dục - một vấn đề lớn trong ngân sách của mỗi gia đình hiện nay và càng trở nên nóng
bỏng trong tương lai.
So với các hình thức tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ có ưu điểm sau:
- Bảo hiểm nhân thọ là hình thức tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch. Khi đã quyết định mua
một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì các khoản phí nhỏ đóng hàng tháng được coi như là các chi phí
thường xuyên như tiền ăn, tiền điện, tiền nước...và người đại lý chính là người thường xuyên nhắc nhở và
thu khoản tiền này.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm
khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một
khoản tiền rất nhỏ.
2 . Ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ
Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác , bảo hiểm nhân thọ có
vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân , mỗi gia đình nói
riêng và của xã hội nói chung .
a.Đối với mỗi cá nhân , gia đình .
- Bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia
đình đối với con cái hay những người phụ thuộc . Ngày nay, khi khoa học
kỹ thuật phát triển , các công nghệ hiện đại giúp cho cuộc sống tiện lợi hơn
, văn minh hơn nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào
, nó cướp đi mạng sống của con người hoặc gây cho con người những
thương tật mà không thể phục hồi trở lại . Chính vì thế , trong xã hội văn
minh hiện nay vẫn có một thực trạng đáng buồn là nhiều gia đình trở nên
khó khăn , túng quẫn khi người trụ cột gia đình không may gặp rủi ro dẫn
tới mất mát hoặc giảm thu nhập. Do đó, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ thì
họ sẽ có một khoản tiền để chi trả, trang trải những chi phí như nằm viện ,
7
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
phẫu thuật , thuốc men , nợ nần , chi phí mai táng hoặc bù đắp một phần
những khoản thu nhập thường xuyên của gia đình bị mất hoặc bị giảm .
Vì thế , bảo hiểm nhân thọ góp phần giảm bớt khó khăn về tài chính khi không may người tham
gia bảo hiểm gặp rủi ro .
-Bên cạnh đó , mỗi người dân lao động đều có ý thức tiết kiệm , dành dụm tiền để thực hiện
những dự định trong tương lai . Bảo hiểm nhân thọ là một trong những biện pháp để thực hiện tiết kiệm
thường xuyên và có kế hoạch đối với từng gia đình . Đặc điểm ưu việt của loại hình bảo hiểm nhân thọ là
khi hết thời hạn bảo hiểm , người được bảo hiểm vẫn được nhận lại toàn bộ số tiền bảo hiểm cho dù trong
thời gian bảo hiểm có xảy ra rủi ro hay không . Không ai dám nói trước về tương lai và tiết kiệm từ hôm
nay để đảm bảo cho ngày mai là biện pháp tích cực và có ý nghĩa nhất vì tương lai tốt đẹp của con cái ,
của gia đình luôn được đảm bảo bằng trình độ học vấn , bằng cấp khoa học , vị trí xã hội vững vàng
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần thực hiện kế hoạch tài chính của từng gia đình : tạo quỹ dành cho
giáo dục con cái , có tiền để chi dùng khi về hưu .
Tóm lại , bảo hiểm nhân thọ có vai trò hết sức quan trọng, to lớn đối với mỗi thành viên trong
toàn xã hội. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mọi người và nhờ có bảo hiểm nhân thọ mà
cuộc sống của con người trở nên hạnh phúc hơn , an toàn hơn .Tham gia bảo hiểm nhân thọ làm người ta
tự tin hơn, quyết đoán hơn vì bảo hiểm nhân thọ giúp người tham gia giảm bớt sự ràng buộc đối với
người thân mà người tham gia phải có trách nhiệm nuôi dưỡng . Chính sự tự tin này làm cho mọi hoạt
động của người tham gia đạt hiệu quả cao hơn . Nhờ những đặc tính ưu việt của mình mà bảo hiểm nhân
thọ đã và đang phát triển rất nhanh rộng khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có trình độ
phát triển, trình độ dân trí và bình quân thu nhập đầu người cao. Đây là nhuyên nhân chính thúc đẩy bảo
hiểm nhân thọ phát triển mạnh ,và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với các hoạt động của cả ngành bảo
hiểm nói chung.
b.Đối với xã hội .
- Bảo hiểm nhân thọ là một hình thức quan trọng để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân
dân, đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm giảm bớt tình trạng vay vốn
nước ngoài với lãi suất cao. Với nguồn vốn lớn thu được từ phí bảo hiểm đã giúp cho công ty đầu tư vào
các lĩnh vực, công trình lớn, đặc biệt là các công trình cơ sở hạ tầng .
Hiện nay ở một số nước trên thế giới, lượng vốn do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp lớn
hơn nhiều so với các tổ chức tài chính khác. Ví dụ như ở Mỹ, năm 1970 số vốn do các công ty bảo hiểm
nhân thọ cung cấp vào thị trường là 9 tỷ USD, trong khi đó số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp là 37
tỷ USD. Nhưng cho đến năm 1991 con số đó đã là: số vốn do công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp: 90,2
tỷ USD, số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp: 85,7 tỷ USD. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế,
lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư Việt Nam là 11 tỷ USD, trong đó có khoảng 50% là dự trữ bằng vàng.
Đây là một lượng vốn nhàn rỗi lớn, mà các tổ chức tài chính chưa huy động được hết, do đó đã để lãng
phí nhiều. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì thế vốn càng là
một nhu cầu tất yếu , bức thiết để tiến hành công cuộc này,với các chính sách mở cửa đất nước nhằm thu
hút vốn đầu tư của nước ngoài song chúng ta lại chưa khai thác hết tiềm năng trong nước. Trước tình
hình này bảo hiểm nhân thọ cần có biện pháp, kế hoạch huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân để phục
vụ cho nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước .
- Bên cạnh vai trò huy động vốn trong nước thì bảo hiểm nhân thọ còn có vai trò thu hút vốn đầu
tư nước ngoài. Vốn đầu tư cho một công ty bảo hiểm lúc đầu thường rất lớn , khi có một chính sách phù
hợp sẽ thu được một lượng vốn đầu tư bên ngoài đáng kể, vì bảo hiểm nhân thọ là một thị trường hết sức
mới mẻ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ có tính chất dài hạn nên nguồn vốn cung cấp cho nền kinh tế cũng lớn. Trong khoảng thời gian này
các nhà đầu tư chưa thu được nhiều lợi nhuận, do đó họ sẽ tiếp tục đầu tư mà không rút khỏi thị trường
Việt Nam.
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo nên phong cách , tập quán sống mới. Tham gia bảo hiểm nhân
thọ thể hiện một nếp sống đẹp, đó là biết lo lắng cho tương lai mình và quan tâm đến tương lai của người
thân, đồng thời góp phần giáo dục con em mình về đức tính tiết kiệm, cần cù và sống có trách nhiệm với
người khác.
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, để góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế .
Vấn đề thất nghiệp luôn được quan tâm bởi chính phủ, các tổ chức xã hội, người lao động...Tỷ lệ
thất nghiệp cao hay thấp đều ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội như tình trạng nền kinh tế, sự ổn
định chính trị, tệ nạn xã hội .v.v. Giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp là mục tiêu của tất cả các chính ohủ và là
mong muốn của toàn thể nhân dân lao động . Để thực hiện mục tiêu này các nước phải chống lại tình
8
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
trạng gia tăng dân số, hạn chế sự tác động của khoa học kỹ thuật . Chính sự mâu thuẫn này làm cho xã
hội luôn có tình trạng thất nghiệp dù chúng ta có cố gắng thế nào đi chăng nữa. Với tư cách là tổ chức
hoạt động kinh doanh, công ty bảo hiểm cũng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của toàn xã hội,
đó là tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp . Trước hết, để đảm bảo cho bộ máy của
mình hoạt động, bảo hiểm nhân thọ đã trực tiếp tạo việc làm cho một bộ phận không nhỏ lực lượng lao
động . Nhữnh người này làm việc trong các mạng lưới của công ty như nhân viên , đại lí , môi giới bảo
hiểm .v.v. Chẳng hạn như riêng ở Hồng Kông chỉ với 6 triệu dân nhưng đã có 35 000 người hoạt động
trong lĩnh vực vực bảo hiểm nhân thọ.
Theo tài liệu thống kê năm 1993 ta có :
Bảng3:Số lao động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ở một số nước
Đơn vị tính: người
Tên nước Đài Loan Hàn Quốc Pháp Mỹ
Số lao động 8.000 14.000 150.000 1.000.000
Nguồn : Tổng cục thống kê
Mặt khác công ty bảo hiểm nhân thọ còn là một tổ chức tài chính trung gian, do đó nó có chức
năng gián tiếp tạo công ăn việc làm thông qua việc đầu tư , cho vay vốn mà công ty thu được từ những
người tham gia bảo hiểm . Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có một chức năng , một vai trò to lớn trong việc
tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp cho xã hội .
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần giải quyết một số vấn đề như :
+ Vấn đề giáo dục
Đầu tư giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển . Trong
khi ngân sách Nhà nước còn eo hẹp và chi phí cho giáo dục ngày càng tăng , chúng ta đã thực hiện một
số giải pháp như : kêu gọi sự đóng góp của các cơ quan , doanh nghiệp cho việc đào tạo giáo dục , triển
khai cho sinh viên vay vốn ngân hàng , hỗ trợ học tập . . . Tuy nhiên đó chỉ là những biện pháp vĩ mô và
mang tính chất tình thế , chưa thực sự huy động các tầng lớp trong xã hội tham gia . Bảo hiểm nhân thọ -
cụ thể là chương trình An sinh giáo dục là một biện pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho việc
giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đấy cũng là một giải pháp góp
phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội . Tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ đảm bảo được quỹ giáo dục
cho con cái ngay cả khi người trụ cột trong gia đình mất hoặc giảm thu nhập .
+ Vấn đề xoá đói giảm nghèo
Mặc dù điều kiện sống đã được nâng cao nhưng không ai lường trước được rủi ro và nó có thể
xảy ra bất cứ lúc nào . Tham gia bảo hiểm nhân thọ là một cách để bảo vệ mỗi cá nhân trong gia đình
chống lại sự bất ổn về mặt tài chính khi rủi ro xảy ra . Xét về mặt xã hội , bảo hiểm nhân thọ đã góp phần
làm giảm người bần cùng nghèo khổ do những rủi ro gây ra .
+ Vấn đề người về hưu và cao tuổi
Điều kiện sống được cải thiện thì đời sống của con người cũng được nâng cao , dẫn tới tỉ lệ
người già ngày càng cao trong dân số . Chính vì thế ta cần phải lo cho tương lai khi về hưu , bảo hiểm
nhân thọ chính là một công cụ để thực hiện điều đó . Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ đã góp phần giảm
bớt gánh nặng trách nhiệm cho xã hội đối với người về hưu , người già...
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần nâng cao phúc lợi xã hội
Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mỗi công dân , sự xuất hiện của bảo hiểm nhân thọ
đã làm cho cuộc sống con người được bảo đảm và phát triển một cách có kế hoạch . Sự phát triển này
khiến chúng ta có độ thoả mãn cao hơn về vật chất và tinh thần . Khi tham gia bảo hiểm nhân thọ chúng
ta sẽ sống thoải mái hơn vì đã có sự đảm bảo nhất định của công ty bảo hiểm . Do vậy, đứng trên phương
diện nào đó thì bảo hiểm nhân thọ đã và đang nâng cao phúc lợi xã hội . Thêm vào đó ,bảo hiểm nhân thọ
đang góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội như cướp bóc , mãi dâm , cờ bạc v.v... Nếu như không có bảo
hiểm nhân thọ thì khi một người là lao động chính trong gia đình gặp tai nạnvà mất khả năng lao động,
lúc đó cuộc sống của toàn thể gia đình sẽ gặp muôn vàn khó khăn . Ai cũng có mưu cầu hạnh phúc , mưu
cầu tồn tại nhưnh khi không thể kiếm sống được bằng lao động , bằng chính sức lực của mình thì rất có
9
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
thể họ sẽ kiếm tiền bằng các biện pháp phi pháp để đạt được mưu cầu này .Với sự đóng góp của mình ,
công ty bảo hiểm nhân thọ đã góp phần hoàn thiện các công trình phúc lợi , các khu vui chơi giải trí công
cộng .
c. Đối với doanh nghiệp:
Doanh nghiệp hoặc cá nhân làm kinh doanh thường mua bảo hiểm nhân thọ với một trong hai lý
do sau:
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cá nhân có thể đảm bảo trả một khoản tiền để công việc kinh
doanh vẫn tiếp tục trong trường hợp tử vong của chủ doanh nghiệp, đối tác hoặc những
người chủ chốt.
Một doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo một số chế độ đãi ngộ cho
người làm công.
Điều đó có nghĩa là bất cứ một doanh nghiệp tư nhân hay các công ty cổ phần hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn đều có thể duy trì hoạt động kinh doanh của mình nếu người chủ doanh nghiệp hoặc
nhân vật chủ chốt bị tử vong.
Nếu người chủ doanh nghiệp chết cổ phần của anh ta trong doanh nghiệp sẽ trở thành một phần
tài sản thừa kế của anh ta và tài sản phải trả được dùng để trả các khoản nợ - kể cả nợ kinh doanh . Nếu
không đủ tiền trả nợ người thực hiện di chúc bị buộc phải bán doanh nghiệp với khoản lỗ lớn để có được
số tiền cần thiết trả các khoản nợ. Đồng thời chỉ định một nhân viên có năng lực tiếp tục kinh doanh.
Thêm vào đó, người chủ sở hữu cho phép bán tài sản của anh ta cho doanh nghiệp theo điều khoản hợp
đồng mua bán nếu thành viên kia không đủ tiền mua doanh nghiệp thì hoạt động bảo hiểm nhân thọ là
cách phổ biến nhất đề cấp vốn cho hoạt động này. Nhân viên mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của chủ
sở hữu doanh nghiệp vừa là chủ hợp đồng vừa là người trả phí bảo hiểm và là người được hưởng quyền
lợi bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm đủ để người đó mua doanh nghiệp.
Bảo hiểm nhân thọ thể hiện ở việc bảo hiểm tính mạng con người. Do đó khi chủ doanh nghiệp
tham gia bảo hiểm nhân thọ thì sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh của công ty và cái chết của người
này có thể gây thiệt hại về tài sản của công ty.
Không chỉ có thế, bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo lập nên mối quan hệ vững chắc giữa chủ
doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong công ty thông qua chế độ đãi ngộ. Với việc doanh nghiệp
tham gia bảo hiểm nhân thọ cho các nhân viên, doanh nghiệp đã góp phần ổn định đời sống cho người
lao động nếu không may họ gặp rủi ro.
3. Đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ
a. Tính đa mục đích của bảo hiểm nhân thọ:
Đối với các loại bảo hiểm khác, người mua bảo hiểm chỉ có một mục đích là khi xảy ra rủi ro được
trả một số tiền đủ để thanh toán các chi phí phát sinh. Trong bảo hiểm nhân thọ, người tham gia trông
mong nhiều hơn và thực sự bảo hiểm nhân thọ mang tính đa mục đích hơn, thể hiện ở:
Thứ nhất, bảo hiểm nhân thọ tạo ra một khoản tiền đáng kể giúp người được bảo hiểm thực hiện
được các ý định, công việc của mình.
Thứ hai, khi người được bảo hiểm đóng vai trò là người trụ cột trong gia đình không may tử vong,
số tiền bảo hiểm lúc này là khoản thu nhập quí giá giúp gia đình người được bảo hiểm trang trải các chi
phí cần thiết.
Thứ ba, trong một giới hạn nhất định, hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn hiệu lực được coi như
một Tài sản thế chấp để người được bảo hiểm vay tiền của ngân hàng.
Thứ tư, bảo hiểm nhân thọ đảm bảo được cuộc sống cho chính người được bảo hiểm lúc tuổi già
hay không may bị tàn tật.
b. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm
hai sự kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng:
10
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Đó là hai sự kiện sống và chết. Trong bất kỳ một loại hình bảo hiểm
nào khác, sự kiện được bảo hiểm chỉ là một rủi ro gây thiệt hại cho người
được bảo hiểm. Nếu như không có rủi ro xảy ra trong thời hạn bảo hiểm
nhà bảo hiểm sẽ hết trách nhiệm với người được bảo hiểm. Nhưng trong
bảo hiểm nhân thọ cụ thể trong loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nhà
bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền nhất định nếu người được bảo hiểm bị
chết trước một thời điểm nào đó đã được ghi trong hợp đồng hoặc nếu
người được bảo hiểm còn sống đến hết thời hạn hợp đồng.
Như vậy, việc trả tiền của nhà bảo hiểm là chắc chắn, nó chỉ còn tuỳ thuộc vào thời gian xảy ra rủi
ro và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm của người được bảo hiểm.
Đây là một đặc trưng rõ nét nhất của bảo hiểm nhân thọ mà không một loại hình bảo hiểm nào
khác có được.
c. Vấn đề duy trì sức mua của đồng tiền trong bảo hiểm nhân thọ:
Vì thời gian của hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ là dải nên người ta không thể không tính đến
sức mua của đồng tiền. Trong thực tế, ở Việt nam có thời kỳ đồng tiền bị mất giá tới hơn 90% trong 10
năm.
Giải quyết vấn đề này nhà bảo hiểm có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Thông qua cơ chế đánh giá lại bằng cách xác định được thời điểm
tính được sự mất giá của đồng tiền. Điều này sẽ làm được nếu tính mức phí
theo các năm. Đây là một công việc khá phức tạp, hiện nay bảo hiểm nhân
thọ ở Việt nam tính theo mức phí cố định.
- Thông qua các cam kết của đôi bên (giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm) không
được biểu hiện bằng tiền. Nghĩa là số tiền bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm sẽ được biểu hiện qua
các hình thức như:
+ Các ngoại tệ (đặc biệt là các ngoại tệ mạnh) có mức mất giá ít. Tuy nhiên điều này liên quan tới
luật pháp của các nước khác nhau.
+ Vàng, chứng khoán có giá, nhà cửa... người ta hy vọng rằng giá trị của các loại này sẽ tăng, ít
nhất cũng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền.
Ngoài các đặc trưng trên, một đặc trưng nữa của bảo hiểm nhân thọ đó là bảo hiểm nhân thọ chịu
sự tác động giao thoa của hai nhân tố: Nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính. Cả hai nhân tố tuổi thọ và
nhân tố Tài chính đều tác động đến quá trình tính phí bảo hiểm và việc đem đầu tư số phí thu được của
công ty bảo hiểm nhân thọ.
Trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, cần phải duy trì sự công bằng trung thực giữa nhà bảo
hiểm với người tham gia bảo hiểm.
Điều này được thể hiện rõ qua việc định phí bảo hiểm đối với các rủi ro có độ trầm trọng tăng lên
hoặc trong trường hợp rủi ro rất xấu. Ở trường hợp thứ nhất phải tăng phí, hoặc trong trường hợp thứ hai
thì phí phải rất cao. Đó là điều quan trọng đối với người làm bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tử kỳ thuần tuý, để đảm bảo sự công bằng, người tham gia bảo hiểm không được
phép thu về những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được khi họ bị tử vong hay sắp bị tử vong.
Trên đây là những đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ, thể hiện sự khác biệt
giữa các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ với các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân
thọ trong hệ thống bảo hiểm.
III . CÁC LOẠI HÌNH BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ CHƯƠNG
TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Như trên đã nêu, bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ mang ý nghĩa
kinh tế - xã hội sâu sắc . Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì
11
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
đóng những khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ
lớn do công ty bảo hiểm quản lívà công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một
khoản tiền khi kết thúc thời hạn hợp đồng bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi
ro xảy ra cho người được bảo hiểm hoặc cho người thừa kế hợp pháp . Do
đó bảo hiểm nhân thọ được hiểu như một sự đảm bảo , một hình thức tiết
kiệm và mang tính chất tương hỗ .Bảo hiểm nhân thọ trên một phương diện
nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội khi đời sống của
nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội chưa đáp ứng được .
1 . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản đang được triển
khai
Hiện nay , hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ ở các nước trên thế
giới đang triển khai 4 loại hình bảo hiểm nhân thọ sau :
a. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn
Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn bao gồm các loại hình bảo hiểm
trong đó tiền bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm bị chết trong
thời hạn bảo hiểm.
b. Bảo hiểm trọn đời
Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ mà thời gian bảo
hiểm không xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế
khi người được bảo hiểm chết. Người được bảo hiểm sẽ đóng phí ngay từ
khi ký hợp đồng cho đến khi chết hoặc đến một độ tuổi nhất định
c. Bảo hiểm trợ cấp hưu trí
Đây là loại hình bảo hiểm đóng phí ngay một lần và công ty bảo
hiểm nhân thọ có trách nhiệm trả trợ cấp định kì cho người được bảo hiểm
đến khi chết . Người mua bảo hiểm thường kết hợp dạng bảo hiểm này với
dạng bảo hiểm hưu trí . Nghĩa là khi về hưu , người được bảo hiểm được số
tiền khá lớn của hợp đồng bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp
hưu trí để đảm bảo cuộc sống ngay sau khi về hưu cho đến lúc chết .
d. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm
. Số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống
đến hết hạn hợp đồng . Thời hạn bảo hiểm được xác định trước . Riêng loại
hình này cũng rất phong phú,đa dạng như “ Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn
, chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( An sinh giáo dục
) , bảo hiểm hưu trí , bảo hiểm cưới xin . Ngoài ra còn có các hợp đồng bảo
hiểm mang tính chất đầu tư , trong đó số tiền trả khi hết hạn hợp đồng, phụ
thuộc vào lĩnh vực và hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người
được bảo hiểm chọn .
Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân
, mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
sao cho phù hợp với mục đích của mình .
12
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
2 . Giới thiệu hai loại hình bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đươc
Bảo Việt triển khai ở Việt Nam ( theo quyết định số 296 / TC /
TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính ).
a. Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm hoặc 10 năm .
- Khi hết hạn hợp đồng , nếu người được bảo hiểm còn sống sẽ được
nhận số tiền đã đóng khi kí hợp đồng .
- Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng hết hạn , Bảo
Việt sẽ trả số tiền đã chọn khi kí hợp đồng cho người thừa kế hợp pháp của
người được bảo hiểm . Nếu khi qua đời ( không phải do tai nạn ) hợp đồng
chưa đủ 1 năm thì Bảo Vệt Nhân Thọ sẽ hoàn lại 80 % số phí bảo hiểm đã
nộp .
- Nếu người được bảo hiểm bị thưong tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , Bảo Việt Nhân Thọ sẽ
trả toàn bộ số tiền bảo hiểm, đồng thời ngừng thu phí nhưng hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực và bảo
đảm đầy đủ các quyền lợ bảo hiểm .
- Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty sẽ trả cho người được bảo hiểm
một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh của Bảo Việt tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng bảo
hiểm .
- Trong thời hạn bảo hiểm hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , nếu người tham gia bảo hiểm
gặp khó khăn về tài chính thì có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồngvà nhận được số tiền gọi là giá trị hoàn lại
hoặc duy trì miễn phí với số tiền bảo hiểm giảm .
b. Chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( chương trình An sinh giáo dục ) .
- Khi trẻ em đến tuổi trưởng thành ( năm 18 tuổi ) Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết
trong hợp đồng .
- Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng thu phí và
trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn 18 tuổi .
- Nếu trẻ em không may bị chết , Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã nộp .
- Nếu người tham gia bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , công ty sẽ
ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực .
- Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được
bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng .
- Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham gia bảo hiểm
có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị hoàn lại .
Cả hai loaị hình này đều thuộc nhóm bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên thể hiện rất rõ nét tính kết
hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm .
Như vậy, nội dung của bảo hiểm nhân thọ rất rộng, rất đa dạng, phong phú. Vì thế, nội dung
chính của đề tài này chỉ giới hạn ở chương trình An Sinh Giáo Dục
13
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
PHẦN II
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ AN
SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BẢO HIỂM
NHÂN THỌ
I . Ý NGHĨA CỦA CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC .
Chương trình An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng thành. Chương trình này là
một loại hình thuộc bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên nó mang tất cả các ý nghĩa , vai trò của bảo hiểm
nhân thọ, ngoài ra nó còn mang một số đặc trưng khác như:
- An sinh giáo dục : một giải pháp đầu tư cho tương lai , giúp con nhà nghèo có thể học đại học .
Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học , mà một trong những nguyên nhân là
do chi phí phải nộp cùng các khoản đóng góp quá cao . Chi phí cho học hành trở thành vấn đề bức xúc
đối với toàn xã hội cũng như các bậc phụ huynh mà phần lớn họ có mức thu nhập thấp . Nhà nước chủ
trương không bao cấp mà thu học phí của sinh viên là thể hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân
cùng làm” trong giáo dục . Đối với sinh viên việc học để tiếp thu kiến thức đã là một công việc gay go ,
vất vả nhưng lo sao cho có đủ tiền nộp học phí là chuyện rất khó khăn . Làm sao để con em mình có tiền
đi học đại học ? Vậy giải pháp có tính khả thi và phù hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì ? Đó là An
sinh giáo dục .
An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được mong ước cho tương lai và đảm bảo quyền
lợi cho chính con cái và gia đình .
- An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc
Là một loại hình của bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nên người tham gia chương trình An sinh giáo
dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù rủi ro không xảy ra .
Tuy nhiên, nó lại thể hiện tính nhân văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác không thể hiện được. Có
thể cùng nhận một khoản tiền như bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm , 10 năm nhưng nó mang một ý
nghĩa to lớn hơn rât nhiều. Trong một xã hội nói chung và một gia đình nói riêng, các thế hệ đi trước
thường có mối quan tâm đặc biệt đối với các thế hệ đi sau và chương trình An sinh giáo dục đã thể hiện
rõ sự quan tâm đặc biệt đó . Nó thể hiện sự chăm lo sâu sắc của ông bà , cha mẹ đối với con cháu và
ngược lại , nó làm cho thế hệ trẻ chúng ta biết sống vì người khác, hiểu rõ hơn sự quan tâm của ông bà ,
cha mẹ để phấn đấu hơn trong học tập và rèn luyện .
- An sinh giáo dục còn góp phần tạo nên một phong cách , tập quán và lối sống mới .
Người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm , tạo quyền lợi cho chính mình và con cháu mình .
Điều đó thể hiện một nét sống đẹp là biết chăm lo cho con cái và biết tự lo cho chính bản thân . Cha mẹ
tham gia chương trình An sinh giáo dục là một cách để giáo dục con cái mình và sống có trách nhiệm với
người khác .
- Tham gia chương trình An sinh giáo dục là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội .
Vì “ Trẻ em hôm nay , thế giới ngày mai “ nên đầu tư cho giáo dục phải được coi là một trong
những nhân tố then chốt cho sự phát triển , nó làm cho sự tiến bộ xã hội không ngừng được nâng cao .
An sinh giáo dục là một trong những giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho giáo
dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đây là giải pháp góp phần xây
dựng mục tiêu công bằng xã hội . Bảo đảm tương lai cho con em mình, cũng nên được coi là trách nhiệm
của mỗi gia đình - tế bào của xã hội với chức năng cơ bản tạo ra thế hệ kế cận ưu tú hơn.
- An sinh giáo dục là chưong trình bảo hiểm cho cả người tham gia bảo hiểm và người được bảo
hiểm .
Đây là một đặc trưng của bảo hiểm trẻ em vì khi ông ba, cha mẹ tham gia chương trình An sinh
giao dục cho con em mình thì đồng thời cũng bảo hiểm cho bản thân mình.Đó là quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm.
* Một số điểm khác nhau giữa bảo hiểm trẻ em ( An sinh giáo dục)
và bảo hiểm học sinh :
- Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trẻ em dài hơn ( có thời hạn từ 5 đến 17 năm ) , còn
bảo hiểm học sinh có thời hạn từng năm .
14
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
- Phạm vi của hợp đồng An sinh giáo dục hẹp hơn : sự kiện bảo hiểm chỉ có các trường hợp là
chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn, còn bảo hiểm học sinh có phạm vi bảo hiểm rộng hơn : chết ,
thương tật , ốm đau , nằm viện , giải phẫu ...
- Trong hợp đồng An sinh giáo dục , người được bảo hiểm chắc chắn nhận được số tiền bảo
hiểm khi hết hạn hợp đồng , còn với bảo hiểm học sinh thì số tiền bảo hiểm chỉ nhận được khi có sự kiện
được bảo hiểm xảy ra . Trường hợp bảo hiểm học sinh,khi hết hạn hợp đồng mà không gặp rủi ro thì
người được bảo hiểm sẽ không nhận lại được khoản gì . Đây là điểm khác biệt rõ nhất giữa An sinh giáo
dục và bảo hiểm học sinh và với tất cả các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác .
-Độ tuổi tham gia của chương trình An Sinh Giáo Dục khác với bảo hiểm toàn diện học sinh
II . NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TRẺ EM ( ASGD ) .
A . Hợp đồng bảo hiểm
Giấy yêu cầu bảo hiểm , điều khoản và các phụ lục là những bộ phận
cơ bản của hợp đồng bảo hiểm .
1 . Giấy yêu cầu bảo hiểm
Khái niệm : là thể hiện ý nguyện được bảo hiểm , là bằng chứng của người tham gia bảo hiểm và
người mua bảo hiểm .
Nội dung của giấy yêu cầu : giấy yêu cầu là một ophần quan trọng của hợp đồng bảo hiểm .
Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về bản thân : tên , tuổi , giới tính , chỗ ở , sở
thích ; về tình trạng sức khoẻ : về điều kiện bảo hiểm mà minh lựa chọn theo mẫu đã in sẵn . Trên cơ sở
giấy yêu cầu bảo hiểm , công ty bảo hiểm sẽ xem xét có nhận bảo hiểm hay không . Nếu đồng ý chấp
nhận bảo hiểm , công ty sẽ đưa ra một mức phí phù hợp . Sau khi nhận được số phí đầu tiên , công ty sẽ
phát hành hợp đồng bao gồm điều khoản và các phụ lục . Một bản gửi lại cho khách hàng , một bản giữ
lại ở công ty cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm.
2 . Các khái niệm chung .
2.1. Người tham gia bảo hiểm :
Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60 , là người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm , đồng
thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm .
Tên người tham gia bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm , là người mà sinh mạng và cuộc
sống và sinh mạng của họ được bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm .
2.2. Người được bảo hiểm :
Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 ( tính đến thời diểm gửi giấy yêu cầu bảo hiểm ) . Tên
người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm .
2.3.Tai nạn
Trong bảo hiểm nhân thọ quy ước “ Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và
trực tiếp của một lực mạnh , bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm hoặc người
tham gia bảo hiểm , loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá
trình thoái hoá “ . Như vậy những thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn , cảm , trúng gió bất ngờ đối với
người bảo hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm .
2.4.Thương tật toàn bộ vĩnh viễn .
Là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn toàn hoặc không thể
phục hồi được chức năng của :
- Hai tay hoặc hai chân hoặc . . .
- Một tay , một chân hoặc hai mắt hoặc . . .
- Một tay , một mắt hoặc . . .
- Một chân , một mắt hoặc . . .
2.5. Giá trị giải ước ( hay giá trị hoàn lại ) :
15
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trong thời
hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực .
Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở nên . Giá trị giải ước ứng với
mỗi năm hợp đồngvào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo hiểm ( là ngày kỉ niệm hàng năm của hợp đồng
bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời hạn bảo hiểm ) .
Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng góp với công ty
bảo hiểm , nó chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo hiểm đã đóng , vì người tham gia bảo hiểm phải
thanh toáncho công ty những khoản chi phí đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp
đồng , chi phí khai thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút , hấp dẫn đối với
khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ hay không .
2.6.Số tiền bảo hiểm giảm
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên . Người tham gia bảo hiểm có thể
ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo
hiểm bị giảm .
Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia bảo hiểm nhân thọ trong những
lúc gặp khó khăn , đây là sự linh động của bảo hiểm nhân thọ ứng với mỗi điều kiện khác nhau .
2.7.Phạm vi bảo hiểm :
Do đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ nên phạm vi bảo hiểm ( rủi ro ) phải gắn liền với cuộc
sống của con người . Do vậy ta phải phân ra :
- Rủi ro được bảo hiểm ( sự kiện được bảo hiểm )
+ Rủi ro còn sống : người được bảo hiểm sống đến hết hạn hợp đồng bảo hiểm .
+ Rủi ro tử vong : đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân : chết do tai nạn hoặc chết cho
bệnh tật .
Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm , trong bảo hiểm nhân thọ còn có quy định về rủi ro loại
trừ . Việc đưa ra các rủi ro nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của nhà bảo hiểm , mặt khác gián tiếp giáo
dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật , tôn trọng pháp luật , có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro .
- Rủi ro loại trừ xảy ra do mật số nguyên nhân sau :
+ Hành động cố ý của người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm hoặc người được thừa kế
.
+ Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm .
+ Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu , bia , ma tuý hoặc các chất
kích thích tương tự .
+ Do động đất , núi lửa v .v . . .
+ Do chiến tranh , bạo động v.v . . .
3 . Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm
a . Trách nhiệm của các bên .
* Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm ;
- Kí hợp đồng bảo hiểm : người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm , cùng công ty bảo
hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng .
- Trách nhiệm khai báo rủi ro : Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm , người tham gia hợp đồng bảo
hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm ( kê khai tình trạng sức khoẻ
) .
- Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm : đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty bảo hiểm , theo
quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sởthời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp
đồng . Người tham gia baỏ hiểm phải đóng đầy đủ phí theo quy định và đúng hạn .
- Trách nhiệm khai báo , thông báo tổn thất : khi có sự cố rủi ro xảy ra , người tham gia bảo
hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất , tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm
cho công ty bảo hiểm biết . Bên cạnh đó phải cung cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực ,
chính xác để công ty căn cứ trả tiền bảo hiểm . Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ .
* Trách nhiệm của công ty bảo hiểm :
- Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm. - Đề phòng ,
hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực .
- Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là thuế như đối với
các doanh nghiệp khác .
- Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật .
b . Quyền lợi bảo hiểm
16
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi , khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn , công ty bảo hiểm nhân
thọ sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm .
2) Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chểttước ngày hợp đồng bảo hiểm hết hạn , công ty bảo hiểm
nhân thọ sẽ hoàn trả 100% số phí đã nộp . Tại sao khi rủi ro xảy ra đối với ngưòi được bảo hiểm thì công
ty chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp mà không phải là số tiền bảo hiểm ? Vì khi người tham gia bảo hiểm
nhân thọ kí kết hợp đồng với mục đíchlà đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành . Do vậy khi
người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của chương trình này không còn nữa , nên công ty bảo
hiểm chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp .
3) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết
3.1. Do tai nạn xảy ra sau 01 ngàykể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ
ngừng thu phí bảo hiểm từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo ngay sau ngày xảy r tai nạn và hợp đồng bảo
hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm .
Trường hợp tai nạn xảy ra trước thời gian 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công
ty bảo hiểm sẽ hoàn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo
hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ .
3.2.Do các nguyên nhân khác ( trừ trường hợp tự tử và nhiễm virut HIV ) .
Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chưa đủ 1 năm , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ hoàn trả cho
người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm 80% số phí bảo hiểm đã nộp và hợp đồng bảo hiểm
này sẽ bị phá bỏ .
Khi hợp đồng bảo hiểm này có hiệu lực từ một năm trở lên , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ
ngừng thu phí bảo hiểm tiếp sau ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ
các quyền lợi bảo hiểm .
3.3.Do nguyên nhân tự tử hoặc do nhiễm virut HIV .
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng
thu phí bảo hiểm kể từ ngày đến kì thu phí tiếp theo ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vãn tiếp
tục duy trì với đày đủ quyền lợi bảo hiểm .
4) Trong trường hợp người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn
do tai nạn .
Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn ( tai nạn được
bảo hiểm ) thì sẽ được hưởng quyền lợi như phần 3.1 trên, nghĩa là :
Tai nạn xảy ra sau một ngày hợp đồng có hiệu lực thì công ty sẽ ngừng thu phí và hợp đồng bảo
hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm.
Tai nạn xảy ra trước một ngày hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng này sẽ bị xoá bỏ và công ty sẽ
hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người thừa kế hợp pháp.
Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn xảy ra sau 1 ngày
kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm nhân thọ trả cho người được bảo hiểm số tiền
trợ cấp hàng năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cam kết cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn . Trường
hợp tai nạn xảy ra trước một ngày nói trên , công ty bảo hiểm nhân thọ hoàn trả 80% số phí đã nộp cho
người tham gia bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị huỷ bỏ .
Ngoài các quyền lợi nói trên và khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , công ty
bảo hiểm còn có thể trả một khoản tiền lãi từ kết quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty cho người
tham gia bảo hiểm vào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo hiểm hoặc khi thanh toán giá trị giải ước hoặc vào
ngày thanh toán tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết và trả cho người được bảo
hiểm vào ngày đáo hạn của hợp đồng .
4 . Thủ tục bảo hiểm
4.1. Khi yêu cầu bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm phải điền đầy đủ , trung thực vào giấy yêu cầu bảo
hiểm , xuất trình giấy khai sinh của người được bảo hiểm và giấy khai sinh hoặc chứng minh thư hay hộ
khẩu của người tham gia bảo hiểm cho công ty bảo hiểm nhân thọ.
4.2. Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham gia bảo
hiểm không tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng
thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty bảo hiểm nhân thọ trước kỳ
nộp phí tiếp theo 15 ngày,và công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ thông báo bằng
văn bản cho người tham gia bảo hiểm biết về số tiền bảo hiểm giảm tại
17
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
thời điểm dừng đóng phí trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông
báo của người tham gia bảo hiểm.
4.3. Trong thời gian 14 ngày kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham gia BH có quyền từ chối
không tiếp tực tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp này người tham gia bảo hiểm được nhận 100% số
phí đã nộp.
4.4. Huỷ bỏ và thay đổi hợp đồng bảo hiểm:
a) Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực công ty bảo hiểm nhân thọ không có quyền huỷ
bỏ hay thay đổi các điều khoản, điều kiện của hợp đồng này trừ khi đã có thoả thuận khác nhau giữa công
ty bảo hiểm nhân thọ và người tham gia bảo hiểm
b) Trường hợp người tham gia bảo hiểm có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm
- Khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ hai năm, công ty bảo hiểm nhân
thọ không hoàn trả lại số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm.
- Khi hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ thanh toán cho
người tham gia bảo hiểm giá trị giải ước tính đến thời điểm, nhận được yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng và
khoản tiền lãi của hợp đồng này từ kết quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty.
B. Phí và số tiền bảo hiểm
1. Phí bảo hiểm và nguyên tắc tính phí
Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm , phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ bảo hiểm để chi
trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí.
Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm đảm bảo trách
nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm như: chết, hết
hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo cho việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách
nhiệm của người tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước những rủi
ro đã được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Phí bảo hiểm có thể nộp một lần ngay sau khi ký hợp đồng hoặc có thể nộp định kỳ trong năm.
Phí nộp một lần sẽ phải đóng góp ít hơn so với tổng số chi phí đóng góp hàng kỳ do hiệu quả đầu tư của
việc đóng phí một lần cao hơn và chi phí quản lý thấp hơn.
Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách
nhiệm của công ty bảo hiểm và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm
tính theo giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Trách nhiệm của người được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bằng trách nhiệm của công ty
bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng
Phí bảo hiểm gồm hai phần: phí thuần và phụ phí.
+ Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm.
+ Phụ phí gồm:
- Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý...
- Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi phí thu phí BH ...
- Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường.
18
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Cách xác định phí:
a. Phí thuần:
Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là:
- Tuổi thọ của người được bảo hiểm cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong.
- Lãi xuất kỹ thuật: lãi xuất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí.
Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm , số tiền bảo hiểm, cách thức nộp phí,
tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn.
Qua bảng tỉ lệ tử vong ta có thể đưa ra số lượng những người còn sống (lx+n) ở lứa tuổi x sau n năm.
Từ đây có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong của một người ở độ tuổi x sau n năm.
Tuổi
(x)
Số người
sống
(lx)
Số người chết
(dx)
Tỷ lệ chết
(1000.qx)
Lãi xuất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư cac khoản phí để đưa ra một phần lãi làm
giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng cao thì càng phải kích thích được số lượng
người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm phải đưa vào lãi suất tiền gửi để tính phí.
Trước khi tính phí ta cần hiểu một số khái niệm sau:
x: tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu được nhận bảo hiểm.
lx: số người sống
l(x+n): số ngưòi được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng.
d(x+k): số người được bảo hiểm chết trong năm hợp đồng k.
n: thời hạn hợp đồng.
v: thừa số chiết khấu v=1/1+i.
T(x+k): số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm hợp đồng k.
C: số tiền bảo hiểm.
p: phí thuần.
p”: phí toàn phần.
Do bảo hiểm nhân thọ gồm nhiều trường hợp được trả số tiền bảo hiểm. Do vậy phải xác định phí bảo
hiểm cho từng trường hợp.
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hợp đồng:
nv
lx
nlxCP +=1
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp
đồng:
∑−
=
++=
1
0
2/1
2
n
k
kvvkP
lx
kdxP
19
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn
do tai nạn:
∑−
=
+ +=
1
0
3 )(4
n
k
kkx vkn
lx
TCP
( Theo điều qui định của nghiệp vụ thì khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn sẽ được
công ty bảo hiểm trả định kỳ 1/4 số tiền bảo hiểm trong những năm còn lại của hợp đồng).
Phí bảo hiểm nhân thọ được xây dựng trên cơ sở P1 ,P2 ,P3.
P = P1 + P2 + P3.
b. Phí toàn phần:
Trên cơ sở phí thuần, nhà bảo hiểm căn cứ vào các khoản phụ phí để tính ra khoản phí mà
người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm.
Phí toàn phần = Phí thuần + Phụ phí
Thông thường thu phí chiếm khoảng 5% phụ phí, trong đó:
+ 3% chi phí quản lí
+ 2% chi phí khai thác hợp đồng
Mức phí không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm,
người tham gia bảo hiểm có thể nộp theo tháng, quý, năm hoặc theo 2 kì
trong năm. công thức tính phí nộp mỗi kì (F) theo phí tháng như sau:
Nếu nộp phí theo quý thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
Fquí = Ftháng * 3*0,98
(so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo quý giảm 2 %)
Nếu nộp phí hai kỳ trong năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
F2 kì = Ftháng * 6 * 0,96
( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo hai kỳ trong năm giảm 4 %)
Nếu nộp phí theo năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
Fnăm = Ftháng * 12 * 0,92
( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo năm giảm 8 %)
Phí bảo hiểm cho các mức số trên bảo hiểm được tính theo tỉ lệ sau:
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 5 triệu đến 30 triệuVNĐ- tính bằng
100% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 31 triệu đến 40 triệuVNĐ- tính bằng
98% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 41 triệu đến 50 triệuVNĐ- tính bằng
97% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
2 . Số tiền bảo hiểm
Đây là hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với người bảo hiểm . Trong bảo hiểm nhân
thọ ( cụ thể là bảo hiểm trẻ em) nhà bảo hiểm sẽ đưa ra nhiều mức số tiền khác nhau và người tham gia
bảo hiểm sẽ dựa trên khả năng tài chính của mình để lựa chọn số tiền thích hợp nhất .
Đây cũng là số tiền người tham gia đăng kí với công ty bảo hiểm nhân thọ.
Người tham gia bảo hiểm nhân thọ có quyền lựa chọn một trong các mức số tiền bảo hiểm sau :
3 triệu , 10 triệu , 15 triệu , 20 triệu , 30 triệu , 40 triệu , 50 triệu .
Phí bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm =
Tỷ lệ phí
20
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
3 . Quỹ dự phòng phí và quỹ dự phòng bồi thường
a . Quỹ dự phòng phí
Quỹ dự phòng phí là quỹ đảm bảo cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng hoặc khi
người bảo hiểm chết .
Nguyên tắc : dựa trên trách nhiệm tại thời điểm của công ty và người tham gia bảo hiểm . Theo
thời hạn của hợp đồng thì trách nhiệm đóng phí của người tham gia bảo hiểm ngày một giảm đi trách
nhiệm phải đóng phí ) còn trách nhiệm của công ty ngày càng tăng lên .
Thời điểm tính : cuối năm nghiệp vụ .
Quỹ này đảm bảo khả năng chi trả của công ty bảo hiểm. Quỹ được trích từ phí thu của người
tham gia bảo hiểm và lãi đầu tư từ dự phòng phí năm trước; phí thu trong năm .
b . Quỹ dự phòng bồi thường
Quỹ dự phòng bồi thường là quỹ đảm bảo cho những khiếu nại đã xảy ra nhưng chưa thông báo
( vào năm tài chính trước ) hoặc những khiếu nại đã giải quyết nhưng chưa thanh toán .
Nguyên tắc : dựa trên phương pháp thống kê của các năm trước về tỷ lệ những khiếu nại đã xảy
ra nhưng chưa baó cáo hoặc chưa thanh toán trên tổng số khiếu nại của một số năm trước đó .
Quỹ này giúp cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh trong năm tài chính đó được đúng hơn .
Ngoài ra quỹ này nhiều khi còn tránh cho công ty phải nộp vào ngân sách Nhà nước số lượng tiền lớn ,
do lãi của năm đó lớn bằng cách trích vào quỹ theo tỷ lệ . Quỹ được trích từ tổng doanh thu
C. Chi trả bảo hiểm
1.Trường hợp sống đến hết hạn hợp đồng
Với : Hợp đồng bảo hiểm gốc , công ty sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ký kết trong hợp đồng
.
2.Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo
hiểm bị chết
Với : - Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm
- Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Giấy chứng từ
Công ty bảo hiểm xem xét các giấy trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam kết trong hợp đồng .
3. Trường hợp ngưòi tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo
hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn .
Với :
- Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm
- Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Biên bản tai nạn có xác nhận của công an hoặc cơ quan của người tham gia bảo hiểm làm việc
hoặc chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn .
- Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật của người được bảo hiểm
hoặc người tham gia bảo hiểm .
Công ty bảo hiểm xem xét các giấy tờ trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam kết trong hợp đồng .
4 . Trường hợp huỷ bỏ hợp đồng đã có giá trị hoàn lại
Vớí :
- Giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng
- Hợp đồng bảo hiểm gốc .
Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm
không trung thực , hoặc không chấp hành đúng các điều quy định trong hợp
đồng , công ty bảo hiểm có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền
bảo hiểm tuỳ theo mức độ vi phạm .
Công ty bảo hiểm có trách nhiệm giải quyết và trả tiền bảo hiểm hoặc thanh toán giá trị hoàn lại
, hoặc số phí đã nộp trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ . Nếu quá thời hạn
21
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
trên thì khi thanh toán công ty bảo hiểm phải trả thêm lãi của số tiền này theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm
thời hạn 3 tháng do Ngân hàng Nhà nước quy định trong hợp đồng .
22
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
PHẦN III
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH
GIÁO DỤC TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
I. MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1. Giới thiệu chung về công ty
Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ chính thức được thành lập theo quyết
định số 568TC/QĐ -TCCB ngày 22/6/1996 của Bộ tài chính .
Bảo Hiểm Nhân Thọ trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) triển khai hoạt
động từ 1/8/1996 với hai sản phẩm là bảo hiểm Nhân Thọ có thời hạn 5 năm ,10 năm và bảo hiểm trẻ em
-chương trình đảm bảo trẻ em đến tuổi trưởng thành.
Sau 3 năm đi vào hoạt động với vốn điều lệ là 20 tỷ VNĐ , công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ đã
không ngừng lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu .Từ lúc đầu thành lập với bao nhiêu khó khăn nay
đã trở thành một đơn vị kinh doanh lớn mạnh với hai công ty là Bảo Hiểm Nhân Thọ Hà Nội và Bảo
Hiểm Nhân Thọ miền Nam .Hiện nay toàn công ty có 1335 đại lý chính thức và 649 đại lý phi chính thức
, trong đó chỉ tính riêng Hà Nội có 224 đại lý với đội ngũ cán bộ lành nghề đã làm cho Bảo Hiểm Nhân
Thọ có mức tăng trưởng cao , số lượng người tham gia bảo hiểm ngày càng đông và chất lượng sản phẩm
ngày một tăng, điều đó đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
Theo Quyết định số 11GD-HĐQG ngày 10/7/1996 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Bảo
hiểm Việt Nam , hiện nay tổ chức bộ máy của Bảo Việt Nhân Thọ bao gồm :
-Giám đốc
-Các phó giám đốc
-Các phòng quản lý và các phòng nghiệp vụ
-Các chi nhánh và các phòng Bảo Hiểm Nhân Thọ theo địa bàn trực thuộc công ty .
Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất , là đại diện pháp nhân của công ty và chịu trách
nhiêm trước hội đồng quản trị , Tổng giám đốc Bảo Việt và trước pháp luật về điều hành và hoạt động
của công ty .
Phó giám đốc là người giúp giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của công ty
theo phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giám
đốc phân công thực hiện.
Công ty có hai phòng quản lý là phòng tổng hợp và phòng tài chính kế toán.
+ Phòng tổng hợp là bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của công ty, có chức năng tổng
hợp , tổ chức cán bộ , thi đua tuyên truyền, quảng cáo... Phòng tổng hợp đảm bảo cơ sở vật chất cho mọi
hoạt động của công ty. Chủ động quan hệ với các phòng khác trong công ty .
+ Phòng tài chính kế toán là bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của công ty .Có trách
nhiệm xây dựng chỉ tiêu nội bộ , chịu trách nhiệm về tài chính và thống kê tình hình thu chi của công ty
.Tham gia xây dựng chế độ tài chính của Bảo Hiểm Nhân Thọ .
Phòng nghiệp vụ bao gồm:
+ Phòng quản lý hợp đồng bảo hiểm là bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của công ty , có
chức năng thực hiện quản lý tình trạng hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm và giải quyết mọi khiếu nại của
khách hàng liên quan đến hợp đồng bảo hiểm .
23
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
+ Phòng phát hành hợp đồng bảo hiểm là bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty , có chức có
chức năng thực hiện công tác đánh giá rủi ro, chấp nhận (từ chối ) và phát hành hợp đồng bảo hiểm .
+ Phòng đại lý bảo hiểm : là bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty , có chức năng thực hiện
công tác phát triển , tổ chức và quản lý đại lý của công ty.
Tất cả các phòng này đều quan hệ rất mật thiết với nhau và cùng ban giám đốc đánh giá tình
hình hoạt động kinh doanh , đề ra các biện pháp và sách lược để phù hợp với tình hình.
2. Những thuận lợi khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm trẻ em tại công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ .
Kể từ ngày thành lập công ty đến nay , trong suốt quá trình triển khai nghiệp vụ công ty chịu
ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố thuận lợi cũng như khó khăn tác động trực tiếp và gián tiếp đến tình
hình hoạt động và khả năng phát triển nghiệp vụ của công ty .Cụ thể là một số thuận lợi và khó khăn cơ
bản sau:
a. Những thuận lợi :
Thứ nhất: Theo xu hướng phát triển chung của nền kinh tế nước ta những năm gần đây , thực hiện công
cuộc đổi mới nền kinh tế trong nước bắt đầu ổn định và phát triển ,tốc độ tăng trưởng GDP đạt đến con
số khả quan là 7-9%. Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở con số dưới 10% , giá trị đồng tiền ổn định ,đời
sống nhân dân được nâng lên.Tương ứng với mức thu nhập tăng lên thì nhu cầu tiết kiệm để giành cho
tương lai cũng tăng lên .Nhưng do đặc thù của khoản tiết kiệm nhỏ này của người dân mà các hình thức
huy động gửi tiền tiết kiệm khác không phù hợp .Cho nên với những ưu điểm của nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ chắc chắn sẽ phát triển ở Việt Nam.
Thứ hai: Để điều chỉnh và tạo môi trường hành lang pháp luật thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm , Bộ tài chính đã ban hành các văn bản pháp quy quan trọng đó là thông tư số 26/1998/TT-BTC về
hướng cẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện để hoạt động kinh doanh bảo hiểm
,thông tư số 27/1998/TT-BTC về việc hướng dẫn hoạt động khai thác và quản lý bảo hiểm và thông tư số
28/1998 TT-BTC về việc hoạt động đại lý, cộng tác viên bảo hiểm .
Thứ ba: Công ty bảo hiểm nhân thọ là Công ty bảo hiểm trực thuộc Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam ,
do đó công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ được thừa hưởng uy tín hơn 30 năm hoạt động của Bảo Việt đem lại
,đồng thời luôn nhận được sự quan tâm ,giúp đỡ ,chỉ đạo của Tổng công ty .Đây là một thuận lợi mà
không phải công ty nào cũng có được.
Thứ tư: Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ được sự quan tâm theo dõi chỉ đạo của Bộ tài chính .Hiện tại trong
giai đoạn đầu , công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ là công ty bảo hiểm duy nhất được triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ trên địa bàn cả nước , nên trước mắt nghiệp vụ của công ty chưa gặp phải sự cạnh tranh
nào trên thị trường khi công ty mới bước vào hoạt động chưa đủ mạnh.Cũng trong giai đoạn này ,Bộ tài
chính tạm thời không tính thuế doanh thu với hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ của
công ty .Đây cũng là yếu tố tích cực tạo điều kiện cho nghiệp vụ của công ty phát triển.
Thứ năm: Công ty có mạng lưới cộng tác viên là các công ty bảo hiểm địa phương ở các tỉnh trực thuộc
hệ thống Bảo Việt , điều đó tạo điều kiện cho công ty có thể phát triển nghiệp vụ này rộng khắp trên cả
nước. Mô hình tổ chức cũng như chất lượng cán bộ từ quản lý đến khai thác của công ty ngày càng được
củng cố và hoàn thiện cả về chất lượng và số lượng .
24
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Thứ sáu: Là công ty bảo hiểm đầu tiên triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ nên rất được các công ty
bảo hiểm nhân thọ nước ngoài quan tâm để hợp tác hoạt động? Do vậy thời gian đầu công ty đã được các
công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài cung cấp cho nhiều tài liệu để nghiên cứu học hỏi. Ngoài ra họ
còn tạo điều kiện cho cán bộ của công ty đi học để nâng cao trình độ nghiệp vụ...
b. Những khó khăn.
Thứ nhất: Nhìn chung nhận thức của mọi người về bảo hiểm nhân thọ còn hạn chế, do vậy việc triển khai
mở rộng của nghiệp vụ vẫn còn nhiều khó khăn.
Thứ hai: Người dân chưa thực sự tin tưởng vào giá trị của đồng tiền sau một thời gian dài, và với đặc
điểm của các sản phẩm Bảo Hiểm Nhân Thọ là loại hình bảo hiểm mang tính chất dài hạn, do vậy họ nghĩ
rằng số tiền nhận được trong tương lai sẽ có giá trị bị giảm đi rất nhiều
Thứ ba: Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường tuy có tác động tích cực song cũng
tạo ra sự phân hoá sâu sắc giữa các tầng lớp dân cư , để lại khoảng cách giầu nghèo lớn .Mặc dù những
năm gần đây thu nhập bình quân đầu người có tăng lên song thực tế mức sống của phần đông người dân
lao động và cán bộ công nhân viên chức vẫn còn ở mức thấp trong khi họ là những người có ý thức tiết
kiệm cho tương lai nhưng mức phí phần nào không phù hợp với khả năng tài chính của họ.
Thứ tư: Sản phẩm Bảo Hiểm Nhân Thọ đã được Tổng công ty hoàn thiện , thay đổi nhưng người dân lại
cảm thấy thiệt thòi vì chi phí bảo hiểm cao hơn khi so sánh các sản phẩm NA1,2,3 với NA 4,5,6. Một số
điểm quy định trong điều khoản bảo hiểm nhân thọ còn cứng nhắc , chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng
của khách hàng.
Thứ năm: Chương trình phần mềm tin học quản lý nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ còn nhiều bất cập ,
không ổn định và đầy đủ theo yêu cầu quản lý đã gây nhiều khó khăn cho công ty.
Thứ sáu: Mô hình tổ chức và quản lý hệ thống đại lý Bảo Hiểm Nhân Thọ chưa được Tổng công ty quy
định thống nhất. Vì vậy ,trong quá trình thực hiện công ty vừa phải nghĩ , vừa phải làm .
Thứ bảy: Đội ngũ cán bộ có chuyên môn được đào tạo cơ bản còn ít trong khi đó phạm vi hoạt động của
công ty lại quá rộng .Do vậy việc quản lý rất khó khăn, đòi hỏi số đông cán bộ phải có năng lực .
Mặc dù trong năm 1998 có nhiều khó khăn tác động đến sự phát triển của nghành bảo hiểm nói
chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng .Nhưng với sự nỗ lực ,cố gắng phấn đấu của tập thể cán bộ công
nhân viên toàn công ty trong công tác kinh doanh.công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
25
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
II.TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO
DỤC Ở CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
Bảng 4: Kết quả kinh doanh từ năm 1996 đến năm 1998
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998
1.Số lượng hợp đồng khai thác mới (Hợp đồng)
-Tổng số
-Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
-Tỷ lệ phần trăm trong tổng số %
1043
264
26,31
6579
2806
42,65
17822
8299
46,57
2.Doanh thu
-Doanh thu từ phí bảo hiểm
+Kế hoạch doanh thu
+Tỷ lệ đạt kế hoạch %
-Doanh thu phí bảo hiểm trẻ em
+Tỷ lệ trong tổng doanh thu (%)
-Doanh thu từ hoạt động đầu tư
2013
1500
134,2
775
38,5
0
4245
2000
212,5
1707
40,2
727
30.054
20.000
150
12.800
42,59
8132
3.Số hợp đồng trả tiền bảo hiểm
-Tổng số hợp đồng giải quyết trả tiền bảo hiểm
-Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
-Hợp đồng bảo hiểm trẻ em huỷ bỏ
2
0
2
6
2
17
5
9
4.Tổng chi
-Chi trả tiền bảo hiểm
+Tổng số
+Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
+Chi trả giá trị tự giải ước do hợp đồng bị huỷ
bỏ
-Chi hoa hồng
+Tỷ lệ trên doanh thu %
-Chi quản lý kinh doanh
7,8
0
103
5,12
17
1,3
191
6,975
995,8
36,9
2,4
19,02
3500
11,6
3082
Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ
Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 1996 tuy gặp nhiều khó
khăn nhưng công ty cũng đạt được một số kết quả đáng chú ý sau:
-Từ chỉ tiêu (1) ta thấy :Số lượng hợp đồng bảo hiểm trẻ em không ngừng tăng lên cả về mặt
tuyệt đối và tương đối , so với năm 1996 có 1043 tổng số hợp đồng , trong đó hợp đồng bảo hiểm trẻ em
26
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
là 264 hợp đồng chiếm 25,31% ,đến năm 1997 là 2806 hợp đồng trong tổng số 6578 hợp đồng, chiếm
42,65% .Đến cuối năm 1998 thì con số này là 8299 hợp đồng trong 17.822 hợp đồng chiếm 46,57%. Như
vậy số lượng người tham gia ngày càng đông chứng tỏ rằng công ty đã có những cố gắng trong việc nâng
cao chất lượng sản phẩm, tăng cường tuyên truyền quảng cáo,tạo sự tin tưởng cho khách hàng .
Từ chỉ tiêu (2) ta có:
Nhìn chung công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh thu, đặc biệt là năm 1997 đã
hoàn thành vượt mức kế hoạch là 112,5%
Đến hết năm 1996 , công ty mới đi vào hoạt động được năm tháng, doanh thu phí bảo hiểm của
công ty đã là 2013 tỷ đồng , trong đó từ nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em là 775 triệu đồng chiếm 38,5% .Đây
là con số khá khiêm tốn nhưng cũng đủ thể hiện được sự nỗ lực của cán bộ nhân viên công ty mới bước
đầu khởi hành trên lĩnh vực này , đồng thời phản ánh được phần nào sự chấp nhận của thị trường về sản
phẩm mới này của công ty .Đến cuối năm 1998 , doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em này đã là
12.800 tỷ VNĐ trong tổng số 30.054 tỷVNĐ chiếm 42,59% doanh thu toàn công ty. Điều đó cho ta thấy
doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm này đang có xu hướng chiếm phần lớn tổng doanh thu của công ty và
thể hiện tiềm năng đang dần được khai thác.
Doanh thu của nghiệp vụ này năm 1998 so với hai năn trước tăng lên rất nhanh, so với năm
1996 nó tăng 12 tỷ VNĐ tức gần gấp 6 lần ,so với năm 1997 là 11 tỷ VNĐ, gần gấp 7 lần .
Môi trường đầu tư của ta ngày càng được mở rộng cả về mặt chiều rộng lẫn chiều sâu , nên
doanh thu từ hoạt động đầu tư của công ty cũng không ngừng tăng lên.,so với năm 1996 ta mới đi vào
kinh doanh nên hoạt động đầu tư chưa thu được kết quả , thì đến năm 1997 , doanh thu của hoạt động
đầu tư là 727 triệuVNĐ chiếm 17,12% tổng doanh thu và đến năm 1998 đã là 8.132 triệu VNĐ chiếm
27,1% tổng doanh thu.
Từ đó , cho thấy nghiệp vụ này không ngừng được hoàn thiên và nâng cao cả về chất lượng và
số lượng , Công ty đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong khâu tổ chức , cũng như khâu khai thác,trình độ
của cán bộ , đại lý được nâng cao và đăc biệt là coi trọng mở rộng quy mô mạng lưới khai thác xuống tất
cả các quận huyện thuộc địa bàn Hà Nội (gồm 9 phòng khai thác và 2 tổ với 243 cán bộ khai thác ).
- Mặt khác ta xét về số hợp đồng trả tiền bảo hiểm trong ba năm ta thấy: Năm 1996 có 2 trường
hợp phải bồi thường nhưng không phải hợp đồng bảo hiểm trẻ em nên số tiền bồi thường cho nghiệp vụ
này không có. Đến năm 1997 thì số tai nạn xảy ra trong nghiệp vụ này tăng lên 8 trường hợp trong tổng
số 6 trường hợp bồi thường và năm 1998 là năm trường hợp trong tổng số 17 trường hợp .Do vậy , cùng
với việc không ngừng có nhiều người tham gia vào loại hình bảo hiểm này thì cùng với nó số tai nạn rủi
ro được công ty bảo hiểm cũng tăng lên , đòi hỏi công ty phải tăng cường đề phòng và hạn chế tổn thất .
Tổng số các khoản chi thì khoản chi hoa hồng cho người khai thác vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất .
Năm 1996 , chi hoa hồng là 103 triệu , chiếm 5,12% tổng doanh thu , đến năm 1997 con số này là 191
triệu VNĐ tức 6,97% và năm 1998 là 3,5 tỷ chiếm 11,60% .Đến năm 1998 số tiền này tăng vọt lên là chủ
yếu do công ty tiến hành mở rộng mạng lưới đại lý khai thác , do đó số lượng nhân viên khai thác tăng
lên làm cho khoản chi hoa hồng ở mức khá cao. Nếu cơ cấu này tiếp tục diễn biến trong vài năm tới , thì
công ty cần phải điều chỉnh lại tỷ lệ .
Trong tổng số chi phí thì chi trả tiền bảo hiểm chiếm một tỷ lệ ít ,năm 1996 với tổng số tiền chi
trả là 7,8 triệu VNĐ nhưng không phải nghiệp vụ này , năm 1997 là 17,8 triệuVND , trong đó giải quyết
trả tiền cho nghiệp vụ này là 4,3 triệu VNĐ .Đến năm 1998 là 2,4 triệuVNĐ trong số 36,9 triệu . Như vậy
trong tổng số tiền chi trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm thì số tiền chi trả tiền bảo hiểm cho
nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em chiếm một tỷ lệ rất ít, khoảng 6% , điều đó chứng tỏ chất lượng sản phẩm này
tốt.
27
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Đến năm 1998 có 31 hợp đồng huỷ bỏ sau hai năm và công ty đã chi trả giá trị giải ước là 65,52
triệu VNĐ , trong đó nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em có 9 hợp đồng với số tiền trả cho khách hàng là 19,02
triệu . Điều này cho thấy chúng ta cần phải nâng cao nghiệp vụ này, không ngừng hoàn thiện sản phẩm
để cho người tham gia bảo hiểm tin tưởng vào loại hình này. Tuy nhiên tổng số tiền chi trả bảo hiểm cho
nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em chỉ là 21,42 triệu VNĐ, chiếm 20.09% chi trả tiền bảo hiểm cho các nghiệp vụ
,số tiền này không cao nằm trong khuôn khổ cho phép , thể hiện được chất lượng khai thác của công
ty.Đây là điều chúng ta cần quan tâm để duy trì để nâng cao hiệu quả khai thác.
2. Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
trong quý I năm 1999 tại công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ.
Mọi nghiệp vụ bảo hiểm dù nhân thọ hoặc phi nhân thọ cũng đều phải qua các bước : khai thác ,
đánh gía rủi ro , công tác quản lý , theo dõi và lưu trữ hợp đồng , công tác đề phòng , hạn chế tổn thất ,
công tác giám định .Mà nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ thường là rất dài so với phi nhân thọ. Do vậy việc
đánh giá kết quả kinh doanh của nghiệp vụ này sẽ không được cụ thể, mà ở đây chúng ta chỉ đánh giá sơ
lược kết quả ở quý I năm 1999 .
2.1. Công tác khai thác:
Khai thác là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ
nghiệp vụ nào .
Mục tiêu của công tác khai thác bảo hiểm là tác động được số đông người tham gia, thực chất
của công tác này là tuyên truyền vận động các đối tượng hiểu về nội dung, mục đích , ý nghĩa của nghiệp
vụ .Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em không chỉ mới đối với mọi người dân mà còn mới đối với cả
người làm trong công tác bảo hiểm . Do vậy , công tác tuyên truyền quảng cáo đối với nghiệp vụ này
càng quan trọng hơn .
Làm tốt công tác khai thác có ý nghĩa rất lớn đối với việc triển khai nhiệm vụ, tạo cơ sở đảm
bảo cho việc triển khai thành công .Thông qua khâu khai thác mới vận động được mọi người tham gia
bảo hiểm từ đó có phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm , tạo điều kiện thực hiện các công việc
tiếp theo .Ngược lại khâu khai thác làm không tốt , số lượng người tham gia ít, không đảm bảo nguyên
tắc "số đông bù số ít" thì việc hoạt động của công ty khó có thể được bảo đảm.
Nhận thức được điều đó, công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ một mặt tiến hành các biện pháp tuyên
truyền , giải thích trên các phương tiện thông tin đại chúng về các điều khoản quy tắc chung về bảo hiểm
Nhân Thọ , mặt khác công ty chú trọng xây dựng mạng lưới đại lý , cộng tác viên rộng khắp. Đây là một
việc làm hết sức cần thiết đối với công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ và đã thu được nhiều kết quả đáng khích
lệ .
- Trong 4 tháng đầu năm , công ty đã khai thác mới được 4881 hợp đồng. Như vậy số hơp đồng
có hiệu lực tính đến hết ngày 30 tháng 4 năm 1999 là 25.824 hợp đồng .
Bảng 5: Kết quả khai thác theo từng loại sản phẩm
Đơn vị tính: hợp đồng
Loại sản phẩm Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4
Bảo hiểm và tiết kiệm 5 năm(NA4) 554 274 473 695
28
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Bảo hiểm và tiết kiệm10 năm (NA5) 33 15 30 39
An sinh giáo dục ( NA6 ) 594 306 634 937
Tổng 1478 595 1137 1617
Nguồn: Công ty bảo hiểm nhân thọ
Xét theo thời gian thì tháng 2 số hợp đồng giảm xuống rồi tăng dần
lên trong 2 tháng sau với tháng 4 đạt số hợp đồng cao nhất trong quý I là
1671 hợp đồng .Trong đó số lượng từng sản phẩm trên tổng số các hợp
đồng không ngừng tăng lên qua các tháng , tháng 1, tỷ lệ hợp đồng an sinh
giáo dục trên tổng số hợp đồng là 40,19% ;tháng 2 là 51,42% ;tháng 3 là
53,76%, đến tháng 4 con số này đã là 56,07% .Như vậy cho thấy sản phẩm
an sinh giáo dục chiếm một tỷ trọng rất lớn trong các sản phẩm bảo hiểm
Nhân Thọ , và nó không ngừng tăng lên cả về số tương đối và số tuyệt đối,
thể hiện tiềm năng rất to lớn của sản phẩm này.
Bảng 6: Tình hình huỷ bỏ hợp đồng
Đơn vị tính: Hợp đồng
Loại sản phẩm Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
Bảo hiểm và tiết kiệm 5 năm (NA4) 29 5 18
Bảo hiểm và tiết kiệm 10 năm ( NA5) 2 0 6
An sinh giáo dục ( NA6 ) 46 78 67
Tổng cộng 77 83 91
Nguồn: Công ty bảo hiểm nhân thọ
Số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ cũng tăng lên qua các tháng, trong đó số hợp đồng bảo hiểm trẻ em
bị huỷ bỏ chiếm một tỷ lệ khá lớn. Chỉ riêng trong tháng 3 nó đã chiếm 73,62% tổng số hợp đồng bị huỷ bỏ.
Chính vì vậy không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm An Sinh Giáo Dục là hết sức cần thiết
để có thể giảm bớt số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ.
Nhận xét chung:
Tuy tình hình kinh tế quý I/1999 có nhiều yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động khai thác ,
nhưng kết quả đạt được là khả quan, đáng khích lệ , thể hiện ở những mặt sau:
-Sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên từ cán bộ quản lý đến cán bộ khai thác .
29
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
-Mạng lưới khai thác ngày càng được mở rộng , chất lượng cán bộ khai thác ngày càng được
nâng cao
-Đã hình thành mạng lưới khai thác với cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh từ cấp công ty , phòng , tổ
,sinh hoạt của phòng khai thác dần dần đi vào nề nếp. Đa số các trưởng phòng khai thác , các tổ trưởng
đã hoàn thành được các công việc được giao về các mặt như : tổ chức khai thác , quản lý duy trì chế độ
sinh hoạt hàng ngày , đôn đốc , kiểm tra cán bộ khai thác trong thực hiện các quy định của công ty .
- Các phòng đã chủ động tìm ra các phương pháp khai thác riêng theo từng địa bàn hoạt động
.Tuy nhiên ,vẫn còn xảy ra tình trạng chồng chéo , cạnh tranh giữa các phòng khai thác
-Công tác tuyên truyền quảng cáo đã làm cho nhiều người hiểu và tin tưởng vào sự hoạt động
của công ty nên đã làm cho nhu cầu bảo hiểm Nhân Thọ tăng .
Một số nguyên nhân dẫn tới việc khâu khai thác có phần chậm lại trong tháng 2 là :
-Số lượng ngày nghỉ ,ngày lễ lớn làm cho người dân không tập trung vào loại hình bảo hiểm này
.
-Sự khủng hoảng tài chính khu vực vẫn chưa khắc phục hết dẫn đến tâm lý vẫn còn hoang mang
của khách hàng về sản phẩm bảo hiểm Nhân Thọ .
-Do sự thay đổi về cách thức quản lý kinh doanh của Tổng công ty trong tháng 2 và chuẩn bị
hai sản phẩm mới vào đầu tháng 7: bảo hiểm niên kim và bảo hiểm trọn đời .
-Trình độ khai thác của các cán bộ không đồng đều .Một số cán bộ khai thác còn thiếu kinh
nghiệm , cũng như các kỹ năng giao tiếp còn yếu. Hiện nay, các cán bộ có khả năng khai thác tốt lại quản
lý nhiều hoạt động, quỹ thời gian để thu phí định kỳ chiếm thời gian phần lớn trong ngày ,nên chưa phát
huy được khả năng khai thác mới .
-Từ đầu năm, hầu hết các phòng đầu sử dụng phương pháp khai thác thông qua hình thức tuyên
truyền, giới thiệu tập thể. Sử dụng phương pháp có thể khai thác được nhiều hợp đồng cùng một lúc
nhưng tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng cũng cao .Để nâng cao chất lượng khai thác, công ty đã thay đổi phương
pháp khai thác và khuyến khích cán bộ khai thác tập trung trong việc giới thiệu, khai thác đối với những
cá nhân , do đó số lượng hợp đồng khai thác mới cũng giảm
- Một số cán bộ còn chưa xác định được đúng đắn nghề nghiệp , chưa thực sự chăm chỉ, quyết
tâm .
- Việc áp dụng quy trình khai thác mới theo quy định của Tổng công ty đã có tác dụng nâng cao
chất lượng khai thác nhưng cũng làm cho số lượng hợp đồng khai thác giảm .
2.2. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu.
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm nhân thọ cũng rất
coi trọng công tác đánh giá rủi ro nhằm loại bỏ hoặc từ chối không bảo
hiểm cho các sự cố rủi ro chắc chắn xảy ra liên quan đến trách nhiệm bồi
thường của nhà bảo hiểm. Bên cạnh đó, bảo hiểm nhân thọ còn mang nét
đặc thù riêng, việc trả tiền bảo hiểm là chắc chắn, chỉ có thời điểm trả tiền
bảo hiểm là không chắc chắn. Do vậy với những rủi ro chắc chắn xảy ra thì
việc từ chối không nhận bảo hiểm là cần thiết.
Yêu cầu của công tác này rất cao, khoản chi cho nó được tính vào phí bảo hiểm, nó được chi
ngay vào thời điểm ký hợp đồng và hiệu qủa kinh doanh của nghiệp vụ cũng phần nào phụ thuộc vào
công tác này.
30
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Nội dung công việc bao gồm:
- Đánh giá tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm.
- Đánh giá khả năng tài chính của khách hàng liên quan đến trách nhiệm đóng phí đủ, đúng hạn
trong suốt thời hạn hợp đồng.
- Đánh giá hành vi pháp luật của người tham gia bảo hiểm, xem xét mục đích của người tham
gia bảo hiểm (có lợi dụng bảo hiểm để hưởng quyền lợi bảo hiểm không ?)
Năm 1998 công tác đánh giá rủi ro phần nào được xem nhẹ, hầu hết khách hàng khi kê khai giấy
yêu cầu bảo hiểm xong là cán bộ khai thác viết hoá đơn thu phí và lập tức công ty phát hành hợp đồng.
Tuy nhiên chưa có trường hợp nào trục lợi bảo hiểm xảy ra.
Năm 1999 để thực hiện phương châm “ tăng trưởng và tăng cường quản lý” công ty đã thực hiện
quy trình khai thác mới. Giấy yêu cầu bảo hiểm sau khi được đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm thì cán
bộ khai thác mới tiến hành thu phí bảo hiểm đầu tiên. Kết quả của công tác đánh giá rủi ro ban đầu rất
quan trọng, nó ảnh hưởng đến chất lượng khai thác bởi vì các cán bộ khai thác là những người trực tiếp
tiếp xúc với khách hàng. Để thực hiện công việc trên, công ty đã biên soạn tài liệu và tập huấn quy trình
đánh giá rủi ro cho cán bộ khai thác và thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh các phòng khai thác trong việc
thực hiện quy trình khai thác của Tổng công ty. Tất cả các giấy yêu cầu bảo hiểm đều được cập nhật vào
sổ, sau đó đánh giá rủi ro theo các yếu tố về sức khoẻ, tài chính của người tham gia bảo hiểm để xem xét
quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo hiểm.
Công ty đã thường xuyên nghiên cứu tìm hiểu các trường hợp hoàn phí trong vòng 14 ngày,
những trường hợp chết do bệnh tật, tiến hành kiểm tra sức khoẻ những khách hàng có độ tuổi trên 50 và
có nghi ngờ về những điều kê khai trong giấy yêu cầu bảo hiểm để đánh giá tình hình sức khoẻ, bệnh tật
và các nguyên nhân gây tử vong cũng như khả năng tài chính của khách hàng giúp cho việc hoàn thiện
quy trình đánh giá rủi ro.
Đầu năm 1999 công ty đã từ chối chấp nhận bảo hiểm 9 trường hợp trong đó có 6 trường hợp
bảo hiểm trẻ em, chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+ Người tham gia bảo hiểm không đảm bảo sức khoẻ.
+ Người tham gia bảo hiểm không phải là bố mẹ trẻ em hay người giám hộ hợp pháp hoặc
không đủ giấy tờ hợp lý cần thiết để nhận bảo hiểm như quy định trong điều khoản.
+ Người tham gia bảo hiểm quá tuổi theo quy định
2.3. Công tác quản lý hợp đồng.
Việc cập nhật cấp nhận hoá đơn thu phí bảo hiểm đầu tiên và định kỳ được tiến hành đầy đủ,
chính xác và tạm thời. Hàng tháng công ty đã tiến hành đối chiếu số liệu thu phí bảo hiểm giữa nghiệp vụ
với kế toán, đảm bảo chính xác số phí thu trong tháng và số hoá đơn phát hành.
Giải quyết những đề nghị của khách hàng liên quan đến tình trạng hiệu lực của hợp đồng như:
thay đổi về địa chỉ, định kỳ thu phí, huỷ bỏ hợp đồng, thay đổi cán bộ khai thác theo dõi hợp đồng... được
thực hiện một cách nhanh chóng kịp thời không để tồn đọng và đảm bảo việc theo dõi thu phí không bị
bỏ sót và từ đó tính hoa hồng cho cán bộ khai thác một cách chính xác.
Khi có hợp đồng phát sinh các yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, cán bộ của công ty đã
phối hợp ngay với cán bộ khai thác liên hệ với khách hàng để hướng dẫn các thủ tục trả tiền bảo hiểm,
xác minh các giấy tờ liên quan hồ sơ trả tiền bảo hiểm đảm bảo đầy đủ, đúng theo quy định của Tổng
công ty và nhanh chóng hoàn tất hồ sơ trong thời gian sớm nhất. Trong năm không có bất kỳ một khiếu
kiện nào của khách hàng liên quan đến công tác giải quyết quyền lợi bảo hiểm cũng như tình trạng hiệu
lực của hợp đồng.
31
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Đầu các tháng, công ty thực hiện in kế hoạch thu phí phát cho cán bộ khai thác để thực hiện thu
phí định kỳ đầy đủ và theo dõi tình hình thu phí của từng hợp đồng. Phối hợp với cán bộ khai thác kiểm
tra đối chiếu tình hình thu phí, nợ phí và có biện pháp để thu. Kịp thời thông báo bằng văn bản các hợp
đồng nợ phí theo hai lần: lần 1 sau 30 ngày lần 2 sau 70 ngày và gửi thông báo chia lãi cho các hợp đồng
đã có hiệu lực trên 2 năm giải quyết các yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng, những hợp đồng nhận giá trị giải ước
và những hợp đồng nợ phí quá 70 ngày theo đúng quy định của Tổng công ty.
Công ty đã tiến hành mở sổ theo dõi chi tiết tình trạng của hợp đồng như: sổ theo dõi các hợp
đồng huỷ bỏ, sổ theo dõi thanh toán tiền bảo hiểm, sổ theo dõi hợp đồng hoàn phí, sổ theo dõi hợp đồng
thay đổi địa chỉ. Thống kê tỷ lệ thu phí đúng hạn, tỷ lệ phí duy trì của hợp đồng của từng cán bộ khai thác
phục vụ cho công tác đánh giá, phân loại cán bộ khai thác cuối tháng việc lập báo cáo nghiệp vụ được
đảm bảo đầy đủ nội dung, đúng thời gian theo quy định của Tổng công ty.
Tuy nhiên do trình độ, kinh nghiệm của cán bộ cũng như chương trình phần mềm quản lý hợp
đồng còn hạn chế nên dẫn đến không theo dõi được tình trạng nộp phí của từng hợp đồng. Từ đó không
xác định tình trạng nợ phí của hợp đồng và việc xác định nhiều khi chưa chuẩn xác. Vì vậy Công ty đã
tập trung mạnh vào việc giải quyết các hợp đồng nợ phí.
Tính đến hết ngày 31 tháng 5 năm 1999 toàn công ty có:
+ 672 hợp đồng nợ phí trên 30 và dưới 70 ngày với tổng số phí nợ là 421 triệu đồng
+ 135 hợp đồng nợ phí trên 70 ngày với tổng số phí là 49 triệu đồng.
Một số nguyên nhân chính dẫn đến tình hình nợ phí nhiều trong thời gian qua là:
+ Do khách hàng đi công tác xa dẫn đến nợ phí trong một thời gian dài, sau đó khách hàng lại
đóng phí đuổi. Vì vậy hợp đồng luôn luôn ở trong tình trạng nợ phí.
+ Khách hàng gặp nhiều khó khăn tạm thời về vấn đề tài chính.
+ Khách hàng không nộp phí nhưng cũng không ký vào giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng.
+ Thời gian đầu công ty tập trung nhiều vào khai thác cho nên buông lỏng công tác quản lý hợp
đồng, thêm vào đó lại khai thác nhiều tại thị trường giáo dục. Do đó trong thời gian nghỉ hè, giáo viên các
trường đều nghỉ học. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thu phí không hoàn thành
theo kế hoạch.
+ Việc đối chiếu số liệu, xác định hợp đồng nợ phí, gửi thông báo nợ phí của công ty đến khách
hàng trong những tháng đầu năm chưa thực hiện đầy đủ, còn nhiều thiếu sót.
+ Một số cán bộ khai thác chạy theo khai thác hợp đồng mới, do đó còn lơi là trong công tác thu
phí định kỳ.
Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian qua công ty đã tiến hành hàng loạt các biện pháp đồng
bộ như:
+ Thường xuyên gửi thông báo đến từng cán bộ khai thác và từng khách hàng thông báo tình
trạng nợ phí từ 30 đến 70 ngày, trên 70 ngày.
+ Cùng cán bộ khai thác đến từng khách hàng tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ phí
và có biện pháp giải quyết cụ thể cho từng trường hợp cụ thể. Trường hợp khách hàng không có lý do
chính đáng thì tiến hành làm thủ tục huỷ bỏ theo quy định của điều khoản hợp đồng.
+ Cung cấp các thông tin về quá trình nộp phí của khách hàng như ngày nôp tổng số tiền đã nôp
.v.v. để khách hàng yên tâm biết rõ tổng số phí đã đóng và số phí còn thiếu để đốc thu.
+ Việc đưa chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch thu phí là một chỉ tiêu đánh giá xét thưởng thi đua đã
góp phần thúc đẩy cán bộ khai thác tăng cường thu phí và giảm bớt số phí nợ.
2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo.
32
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Trong 4 tháng đầu năm 1999, Công ty đã tuyển dụng 2 khoá cán bộ khai thác khoá 10 và khoá
11 với số lượng là 78 người. Rút kinh nghiệm của những lần tuyển chọn trước, công ty đã áp dụng quy
trình tuyển chọn mới, từ đó đã khắc phục được những điểm yếu của những lần tuyển chọn trước đây: như
chú trọng vào việc định hướng công việc của cán bộ khai thác bảo hiểm nhân thọ cho tuyển viên trước
khi tham dự phỏng vấn nhằm loại bỏ những cá nhân chưa xác định đúng đắn nghề nghiệp, tuyển chọn
những người có hộ khẩu Hà Nội, có lý lịch bản thân cũng như gia đình rõ ràng, có khả năng tài chính ổn
định nhằm hạn chế khả năng chiếm dụng phí. Đồng thời sau khi phỏng vấn Công ty đã tiến hành thẩm
tra, xác minh lý lịch của từng người.
Những người này sau khi được tuyển chọn ban đầu sẽ tham dự các khoá đào tạo kéo dài trong 6
- 7 ngày. Nội dung các khoá đào tạo đó đã được sửa đổi và phong phú hơn. Cụ thể ngoài việc trang bị các
kiến thức đại cương về bảo hiểm nói chung, bảo hiểm nhân thọ, quy trình khai thác, Marketing trong bảo
hiểm, Công ty đã tiến hành trang bị các kiến thức về thực hành bán hàng và tổ chức thực tập các kỹ năng
bán sản phẩm.
Hiện nay tổng số cán bộ khai thác toàn công ty là 224 người. Trong đó:
+ Đại lý chuyên nghiệp là: 209 người.
+ Đại lý bán chuyên nghiệp: 15 người.
+ Cộng tác viên bảo hiểm có 3 đơn vị là: Trung tâm chuyển tiền Bưu điện Hà Nội, công ty
NASSCO và công ty Du lịch cựu chiến binh.
Đầu tháng 3 năm 1999 công ty đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ về các sản phẩm mới cho toàn bộ
cán bộ khai thác. Sau khoá tập huấn công ty đã tổ chức kiểm tra, kết quả cho thấy hơn 75% tổng số cán
bộ khai thác đạt kết quả từ trung bình khá trở lên. Số cán bộ không đạt yêu cầu và không tham dự kiểm
tra, công ty đã yêu cầu dừng không cho khai thác sản phẩm mới cho đến khi kiểm tra đạt yêu cầu mới cho
tiếp tục khai thác. Qua đợt tập huấn và thực tiễn khai thác cho thấy cần thiết phải tăng cường công tác
trao đổi thường xuyên nghiệp vụ và nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật.
Để triển khai bảo hiểm Nhân thọ trọn đời và bảo hiểm niên kim vào đầu tháng 7. Công ty đã tổ
chức tập huấn cho 22 cán bộ khai thác về 2 nghiệp vụ bảo hiểm trên nhằm triển khai thí điểm nghiệp vụ
này.
Trong tháng 4 có 28 cán bộ khai thác thôi việc chiếm tỷ lệ 16% số tuyển dụng mới trong năm do
công việc không phù hợp và chất lượng công việc không đạt yêu cầu quy định.
Từ công tác tuyển chọn và đào tạo ban đầu công ty đã rút được nhiều những kinh nghiệp sau:
+ Chỉ tập trung tu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ.pdf