Tài liệu Luận văn Tìm nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên: LUẬN VĂN:
Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy
động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát
triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên
Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hiện
nay, đất nước ta đang trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm
đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển cùng hội nhập với nền kinh
tế khu vực và kinh tế thế giới, trong xu thế quốc tế hoá thời đại mới. Nhất là trong
những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, là một trong
những nước có nền kinh tế tăng trưởng cao. Đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy cần
phải có những điều kiện cần và đủ thúc đẩy nền kinh tế đất nước hàng năm luôn được
phát triển tăng trưởng một cách vững chắc. Một trong những điều kiện cần thiết ấy
chúng ta cần phải kể đến đó là nguồn vốn. Có thể nói nguồn vốn là nguồn lực chính
cần thiết và cơ bản là điều kiện tiền đề để đáp ứng sự phát tri...
57 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 943 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy
động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát
triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên
Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hiện
nay, đất nước ta đang trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm
đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển cùng hội nhập với nền kinh
tế khu vực và kinh tế thế giới, trong xu thế quốc tế hoá thời đại mới. Nhất là trong
những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, là một trong
những nước có nền kinh tế tăng trưởng cao. Đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy cần
phải có những điều kiện cần và đủ thúc đẩy nền kinh tế đất nước hàng năm luôn được
phát triển tăng trưởng một cách vững chắc. Một trong những điều kiện cần thiết ấy
chúng ta cần phải kể đến đó là nguồn vốn. Có thể nói nguồn vốn là nguồn lực chính
cần thiết và cơ bản là điều kiện tiền đề để đáp ứng sự phát triển đó, không ai khác các
NHTM là các chủ thể chính quan trọng nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh
doanh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh
của ngành ngân hàng là đi vay rồi lại cho vay lợi nhuận thu được là phần chênh lệch
giữa thu lãi cho vay và thu từ các dịch vụ khác, hay nói cách khác, lợi nhuận thu được
do sự chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào. Để NHTM hoạt động có hiệu
quả thiết thực thì chi phí đầu vào phải thấp hơn so với lãi suất đầu ra.
Hơn thế nữa, hoạt động của NHTM còn có vai trò quan trọng, là công cụ để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua cung ứng tiền tệ và các chính sách khác.
Là một sinh viên chuyên ngành ngân hàng tài chính, nhận thức được tầm quan
trọng của hệ thống các NHTM nói chung và vai trò của nguồn vốn nói riêng. Em xin
mạnh dạn trình bày một số hiểu biết của em về nguồn vốn qua chuyên đề “Nguồn vốn
và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp
& phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên”
Do phạm vi nghiên cứu chỉ bao gồm nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động
huy động nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần
Giáo mà chủ yếu là hoạt động trên địa bàn đơn vị phụ trách nên em không có nhiều
tham vọng mà chỉ tập trung vào giải quyết các câu hỏi đặt ra đó là : Thực trạng nguồn
vốn và huy động nguồn vốn tại ngân hàng huyện nhà hiện nay ra sao?, đã đáp ứng
được nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của huyện nhà hay
chưa?, những thuận lợi và khó khăn trong công tác phát triển nguồn vốn?, những
giải pháp dự định trong tương lai ít nhất là trong một vài năm tới để khắc phục
những khó khăn và phát huy thế mạnh trên địa bàn để làm tối đa lợi nhuận cho
ngân hàng đồng thời thúc đẩy nền kinh tế huyện nhà phát triển?
Phương pháp nghiên cứu là từ lý thuyết đã được học áp dụng vào thực tế, bổ
sung lẫn nhau, kết hợp các số liệu thực tế tại ngân hàng để phục vụ cho chuyên đề.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm:
Lời mở đầu
Chương I: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
thị trường
Chương II: Thực trạng hoạt động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển
nông thôn huyện Tuần Giáo - tỉnh Điện Biên
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng nông
nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo -tỉnh Điện Biên
Kết luận
ch¬ng I
hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
1.1.1 Khái niệm:
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận
thông qua các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Khái niệm về ngân hàng thương mại
đang dần thay đổi vì sự pha trộn các hoạt động truyền thống của ngân hàng và các loaị
hình trung gian tài chính khác.
1.1.2 Các loại hình ngân hàng thương mại:
Có thể phân chia ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu của
người quản lý.
(1) Các loại hình ngân hàng chia theo hình thức sở hữu:
+ Ngân hàng sở hữu tư nhân:
Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại ngân hàng này
thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương( các ngân hàng này thường gắn
liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương). Chủ ngân hàng thường rất am hiểu
tình hình của người vay, vì vậy hạn chế được sự lừa đảo của khách. Tuy nhiên, do kém
đa dạng, nên khi địa phương đó gặp rủi ro( ví dụ như thiên tai, mất mùa...) ngân hàng
thường không tránh khỏi được tổn thất.
+ Ngân hàng sở hữu của các cổ đông( ngân hàng cổ phần):
Ngân hàng này thường thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc nắm giữ
cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của ngân
hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của ngân hàng đồng thời phải gánh chịu các tổn
thất có thể xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành thông qua tập trung, các ngân hàng
cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các ngân hàng lớn. Các
tổ hợp ngân hàng lớn nhất hiện nay trên thế giới là các ngân hàng cổ phần. Các ngân
hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi
nhánh hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hoá cao nên các ngân hàng cổ phần có thể
giảm rủi ro gây nên bởi tính chuyên môn hoá( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của
một ngành hoặc của một quốc gia...), song chúng thường phải gánh chịu rủi ro từ cơ
chế quản lý phân quyền(nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương đối
độc lập với trụ sở ngân hàng mẹ giám đốc chi nhánh này có thể gây bất cẩn và rủi ro
xảy ra..)
+ Ngân hàng sở hữu nhà nước:
Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp, có thể là nhà nước
trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Các ngân hàng này được thành lập nhằm thực hiện
một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của chính quyền trung ương hoặc
địa phương quy định.
+ Ngân hàng liên doanh:
Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều bên, thường
là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng ưu thế của nhau.
(2) Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động:
+ Tính chất đơn năng:
Ngân hoạt động theo hướng đơn năng: Loại ngân hàng này chỉ tập trung cung cấp
một số dịch vụ ngân hàng, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối
với nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay ( không bảo lãnh hoặc cho thuê)... Tính chuyên
môn hoá cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ giàu kinh nghiệm, tinh thông
nghiệp vụ. Tuy nhiên loại ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh
vực mà ngân hàng phục vụ sa sút. Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm
vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ hạn hẹp..
+ Tính chất đa năng:
Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu
hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng đa năng
thường là các ngân hàng lớn. Tính đa năng giúp các ngân hàng tăng thu nhập và hạn
chế rủi ro.
(3) Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức:
+ Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty:
Ngân hàng sở hữu công ty là ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của công ty, cho
phép ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. Do
luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế các ngân hàng thương mại tham gia trực tiếp vào
một số loại hình kinh doanh như chứng khoán bất động sản...nên các ngân hàng lớn đã
thành lập, hoặc mua lại một số công ty chứng khoán, quỹ đầu tư... nhằm mở rộng hoạt
động. Các ngân hàng không sở hữu công ty có thể do vốn nhỏ, hoặc quy định của luật
không cho phép, hoặc không bị cấm trong việc đưa ra các dịch vụ tài chính.
+ Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh:
Ngân hàng đơn nhất được hiểu là ngân hàng không có chi nhánh tức là các dịch
vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh thường
là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua nhiều đơn
vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi ngân hàng
nhà nước thông qua định mức về vốn chủ sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ,
về sự cần thiết của đội ngũ cán bộ...
1.1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
(1) Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiền tiết kiệm đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh
tế:
+ Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và
đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn
+ Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn
hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm.
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều
tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai cùng có lợi.
Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm.
Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong
một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ
cấp phát hoặc là quan hệ hùn vốn. Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có từ rất lâu và tồn tại
cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô,
thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện
nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm
giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách
chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và
chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua.
Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc mua chứng khoán đó thành
chứng khoán có giá trị nhỏ hơn(dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người.
Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng
trong việc phục vụ những người tiết kiệm.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay
nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực
tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu
thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm
định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được
gọi là “tình trạng thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường
nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm
đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn các công cụ với các yếu tổ rủi
ro- lợi nhuận thấp nhất.
(2) Tạo phương tiện thanh toán:
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng
đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán
khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với
ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp
nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền
kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy
nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện
cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc
gia duy nhất dẫn đến việc nhà nước tập trung quyền lực phát hành(in) vào một tổ chức
hoặc là Bộ tài chinh hoặc là Ngân hàng trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân
hàng thương mại tạo ra các giấy bạc cho riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy
nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được
hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm
nhiều bộ phận. Bộ phận thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông(Mo), thứ hai là số dư trên
tài khoản tiền gửi của khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài
khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn... Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua
hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay(hay tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán(tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền
gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách
hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu(tức
làm tăng số dư tiền gưỉ) của một khách hàng khác tại một ngân hàng từ đó tạo ra
khoản vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể vay lớn hơn dự trữ
dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo khối lượng tiền gửi( tạo phương tiện
thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay(tạo tín dụng).
(3) Trung gian tín dụng:
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ.
Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho
khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng Séc, uỷ nhiệm chi, nhờ
thu,...cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi
khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán
qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở
rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm
cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính
thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn
giữa các ngân hàng ở các quốc gia khác nhau với nhau.
1.1.4 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:
a. Hoạt động huy động vốn:
(1) Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao , do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách
để huy động được tiền .một trong nhưng nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh
toán và tiết kiệm của khách hàng .Ngâng hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản
hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành
được các khoản tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh
nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép nhân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh
.Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi xuất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả
lãi xuất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với
các chủ tàu ở Địa Trung hải với lãi xuất gấp đôi hay gấp ba lãi xuất tiết kiệm. Như vậy
, khi cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi ngân hàng thu “phí” gián tiếp thông qua thu nhập
của hoạt động sử dụng tiền gửi đó.
Hiện nay, hoạt động nhận tiền gửi với các hình thức nhận tiền gửi thanh toán và
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn đang được áp dụng phổ biến rộng rãi.
(2) Phát hành các giấy tờ có giá:
Ngân hàng thương mại phát hành các giấy tờ có giá như Kỳ phiếu, Trái
phiếu,…nhằm huy động vốn chủ yếu đáp ứng cho tài trợ các khoản cho vay trung và
dài hạn. Đây là hoạt động mang lại nguồn vốn tương đối lớn cho các ngân hàng
thương mại lớn có uy tín. Các ngân hàng nhỏ thì hình thức huy động vốn này thường
không hiệu quả và thường sử dụng hình thức này thông qua các ngân hàng đại lý.
(3) Hoạt động đi vay của Ngân hàng thương mại:
Để huy động vốn, Ngân hàng thương mại có thể đi vay Ngân hàng nhà nước, các
tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng nước ngoài…
Ngân hàng thương mại chỉ đi vay Ngân hàng nhà nước khi có chính sách tăng
cung ứng tiền tệ hoặc trong những trường hợp đặc biệt bị thiếu vốn trong thanh toán.
Còn vay các tổ chức tín dụng khác mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại khác
trên thị trường liên ngân hàng phần lớn chỉ đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc và thường
là vay qua đêm.
b. Hoạt động sử dụng vốn:
Đây là hoạt động chủ yếu thứ hai sau hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
- Mua bán ngoại tệ:
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên thực hiện đó là mua bán ngoại tệ:
Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
- Hoạt động cho vay:
+ Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho
vay đối với những người bán(người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để
lấy tiền trước ). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người
mua), giúp họ có vốn để mở hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương
đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã
hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến
tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín
dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
+ Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở
nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn:Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển
ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
- Hoạt động chiết khấu(tái chiết khấu khi khách hàng mang đến giấy tờ có giá đã
chiết khấu trước đây) giấy tờ có giá:
Ngân hàng thương mại chiết khấu giấy tờ có giá(tái chiết khấu) khi khách hàng
mang đến giấy tờ có giá như trái phiếu, …ngân hàng thu lợi nhuận thông qua lãi suất
chiết khấu và tái chiết khấu.
- Hoạt động đầu tư chứng khoán:
Ngân hàng thương mại đầu tư chứng khoán của Chính phủ, của các ngân hàng
khác, của các Công ty, Doanh nghiệp… làm ăn hiệu quả, có uy tín chờ đến ngày đáo
hạn hưởng lãi.
Tuy nhiên hoạt động này tuỳ vào loại chứng khoán, loại chứng khoán đầu tư sẵn
sàng để bán thì vốn đầu tư quay vòng nhanh, còn phần lớn chứng khoán đầu tư đều
chờ đến ngày đáo hạn do vậy vốn đầu tư vào loại này thường lớn và sự biến động
dường như là không có.
- Hoạt động kinh doanh chứng khoán:
Ngân hàng thương mại mua chứng khoán để kinh doanh, đặc điểm chung của loại
hoạt động này là thường chiếm độ rủi ro lớn, cần lượng vốn lớn. Chứng khoán mua
vào lại có thể bán ra ngay, nên vốn dự trù cho hoạt động này là tương đối lớn và quỹ
dự phòng rủi ro cho nó là khá lớn.
- Hoạt động góp vốn mua cổ phần:
Ngân hàng thương mại góp vốn mua cổ phần có thể cao hơn hay thấp hơn giá thị
trường. Họ hy vọng vào giá bán những cổ phần này sẽ đem lại lợi nhuận này.
- Hoạt động góp vốn liên doanh:
Ngân hàng thương mại góp vốn liên doanh liên kết với các ngân hàng khác, các
đối tác làm ăn chủ yếu các hoạt động như đồng bảo lãnh, hoạt động đồng tài trợ…
c. Các hoạt động khác:
(1) Bảo quản hộ tài sản:
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các tờ giấy có giá và các tài sản khác
cho khách hàng trong két(vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường
giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc nhưng giấy tờ quan trọng khác với
nguyên tắc an toàn, bí mật, thuật tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ
khác nhu mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toá lãi hoặc cổ tức hộ...
(2) Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn
thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng
để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, khách hàng mang giấy đến
ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí )đã góp phần rút ngắn thời gian king
doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi
thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã
khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thẻ thức thanh toán như
séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L\C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện
thẻ...
(3) Quản lý ngân quĩ:
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá
nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có
kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng
đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý
quản lý cho việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng
dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi
khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
(4) Tài trợ các hoạt động của chính phủ:
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành
trọng tâm của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi
thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân
hàng. Ngày nay, Chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát ngân hàng.
Các ngân hàng được cấp giấy phép hoạt động với điều kiện là họ phải cam kết thực
hiện với một mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.
Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng
lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
(5) Bảo lãnh:
Do khả năng thanh toán của một ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh
cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và
phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng
hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác...
(6) Cho thuê thiết bị trung và dài hạn( Leasing):
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng
sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua(do
vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng
quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua,
trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải
trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng
cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
(7) Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn:
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và Doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài
sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay
hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư... Thậm chí, các ngân hàng
đóng vài trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã
qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn
coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu
tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập Doanh nghiệp.
(8) Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán:
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến cho các
ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ
hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các
ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung
cấp dịch vụ môi giới.
(9) Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm:
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo
đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong
hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc
tổ chức công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm
như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí...
(10) Cung cấp các dịch vụ đại lý:
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng(thường là ngân hàng lớn) cung cấp dịch
vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các
chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong hoạt động đồng tài trợ...
1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại:
1.2.1 Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại:
(1) Vốn chủ sở hữu:
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng( được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải
có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình
thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình
thành loại nguồn vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của
chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
+ Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành ban đầu khác
nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách nhà nước cấp vốn(vốn của
nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần
hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là
vốn thuộc sở hữu tư nhân.
+ Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương
thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân
hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng
thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của ngân hàng về tích luỹ và
tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi
nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm...để mở rộng quy
mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị để gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng
nhà nước quy định. Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên,
song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
+ Các quỹ :
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng
tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn
thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn vốn dưới tác động của lạm phát.
Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và
mệnh giá của cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định cụ thể của từng
nước, các ngân hàng có thể coi quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc..thuộc
vốn chủ sở hữu.
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng
chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân
hàng(vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu
tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Tầm quan trọng của vốn chủ sở hữu:
- Vốn chủ sở hữu là điều kiện tiên quyết để ngân hàng có thể đi vào hoạt động. Như đã
biết, để một ngân hàng được phép thành lập, được cấp giấy phép để đi vào hoạt động
thì chủ sở hữu phải có một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Mặt khác
trước khi tiến hành hoạt động đi vay để cho vay thì ngân hàng cần tiến hành để mua
sắm(hoặc thuê) trụ sở, mua máy móc thiết bị,... và những khoản đó được trang trải từ
vốn chủ sở hữu.
- Vốn chủ sở hữu cần thiết để duy trì hoạt động của ngân hàng. Ngay cả khi ngân hàng
đã đi vào hoạt động, thì việc nâng cấp, sửa chữa nhà, cửa, máy móc, trang thiết bị,
nâng cấp đầu tư vào công nghệ mới, mở chi nhánh ở nước ngoài...phục vụ cho quá
trình kinh doanh của ngân hàng cũng sẽ được tài trợ từ vốn chủ sở hữu. Một ngân hàng
sẽ không thể tồn tại trong môi trường kinh doanh khắc nghiệt nếu nó không tự đổi mới
và nâng cao năng lực cạnh tranh. Phần còn lại của vốn chủ sở hữu sẽ tham gia vào hoạt
động kinh doanh của ngân hàng như: đầu tư vào chứng khoán hoặc cho vay...
- Vốn chủ sở hữu tạo niềm tin trong công chúng và được coi như là một sự đảm bảo về
tài chính đối với chủ nợ. Theo các nhà kinh tế học ngân hàng cần phải đủ mạnh để có
thể đảm bảo với chủ nợ rằng ngân hàng luôn có khả năng thanh toán, chi trả các khoản
tiền bất cứ lúc nào khi họ muốn rút, ngay cả khi nền kinh tế đang gặp khó khăn. Và
khả năng đó sẽ được đảm bảo bằng một lượng vốn chủ sở hữu lớn. Nhìn vào một ngân
hàng có lượng vốn chủ sở hữu lớn, chủ nợ sẽ cảm thấy yên tâm hơn. Sự yên tâm đó
hoàn toàn có cơ sở vì: Trong trường hợp ngân hàng phá sản hoặc ngừng hoạt động, các
khoản tiền gửi sẽ được hoàn trả trước, sau đó đến nghĩa vụ với Chính phủ và người lao
động, các khoản vay, cuối cùng mới đến phần các chủ sở hữu.
- Vốn chủ sở hữu là một tấm đệm phòng chống rủi ro phá sản. Vì vốn giúp trang trải
những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải
quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời. Khi quỹ dự
phòng tổn thất không đủ để bù đắp rủi ro thì vốn chủ sở hữu sẽ được sử dụng để bù
đắp tổn thất bắt nguồn từ các khoản cho vay và đầu tư kém hiệu quả, từ sự quản lý yếu
kém, giúp ngân hàng giữ vững hoạt động cho đến khi các vấn đề khó khăn được giải
quyết. Nếu vốn chủ sở hữu không đủ để bù đắp các tổn thất, ngân hàng không bảo đảm
được khả năng thanh toán thì ngân hàng sẽ phải tuyên bố phá sản.
- Vốn chủ sở hữu có vài trò điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động ngân
hàng chứa đựng nhiều rủi ro, trong khi hoạt động ngân hàng lại có tác động mạnh đến
sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
(2) Vốn nợ:
+ Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi của Ngân hàng thương mại:
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng
giữ hộ tiền của các Doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán( tiền gửi giao dịch, hoặc tiền gửi thanh toán)
Đây là tiền của Doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng
giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của Doanh
nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của Doanh
nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn
chung lãi suất của khoản tiền này là rất thấp( hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài
khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài
khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn của Doanh nghiệp, các tổ chức xã hội:
Nhiều khoản thu bằng tiền của Doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi
trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động
thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân
hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng
các hình thức thanh toán giống như tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu, người gửi
phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức
tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo kỳ
hạn gửi.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Các tầng lớp dân cư có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng(các khoản tiền
tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết
kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời với các khoản tiết kiệm, đặc
biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền gửi tiết kiệm, các ngân
hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quyen giữ vàng và tiền mặt tại
nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng
và lãi suât cạnh tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho mỗi khách hàng gửi tiền tiết
kiệm nhiều chương mục tiết kiệm(hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn và cho mỗi lần
gửi khác nhau.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác:
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương
mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường
không lớn.
+ Tiền vay và nghiệp vụ đi vay của ngân hàng thương mại:
- Vay Ngân hàng nhà nước( NHNN):
Đây là khoản vay nhăm đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách của ngân hàng thương
mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ(thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán),
ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu
của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu( hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được
các ngân hàng thương mại chiết khấu( hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ.
Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng
nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi và dự
trữ( tại NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn một cách chặt chẽ; ngân hàng
thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông
thường NHNN chỉ tái chiết khấu có chất lượng( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả
nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ. Trong
điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại vay
dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
- Vay các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn các ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt
yêu cầu do có kết số dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho
vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm
bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đảm bảo dự
trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay
mượn từ NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn giản, ngân hàng vay mượn liên hệ trực
tiếp với ngân hàng cho vay thông qua ngân hàng đại lý( hoặc ngân hàng nhà nước).
- Vay trên thị trường vốn:
Giống như các Doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng tiến hành vay mượn bằng
cách phát hành các công cụ nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất
nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp
ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn
nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng cho nhu cầu cho vay và đầu tư trung và
dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy
tín hoặc được trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường
khó vay mượn bằng hình thức này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý
hoặc được sự bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn tuỳ thuộc vào
sự phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài
hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên
cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích
hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được các
ngân hàng quan tâm.
(3) Vốn nợ khác:
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác.
+ Tiền uỷ thác:
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ
thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên
nguồn uỷ thác tại ngân hàng.
+ Tiền trong thanh toán:
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong
thanh toán( Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ mở L/C...). Những ngân hàng là
ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của ngân hàng thành viên
chuyển về để thực hiện cho vay.
+ Tiền khác:
Các khoản nợ khác như thuế thu nhập chưa nộp, lương chưa trả...
1.2.2 Các hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là ngành kinh doanh vốn, đi vay để cho vay. Thế nhưng
trong thời gian qua do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho đầu ra chưa thông
suốt, ngân hàng không sử dụng hết nguồn vốn trong khi các nhà sản xuất kinh doanh
lại thiếu vốn, cục bộ ở thành thị lại thiếu vốn trong khi ở nông thôn lại thiếu vốn. Việc
sử dụng vốn cung ứng tín dụng đang là vấn đề được dư luận quan tâm, Ngân hàng nhà
nước liên tục hạ trần lãi suất cho vay bổ sung thể lệ tín dụng để giải quyết đầu ra, kịp
thời cung ứng cho sản xuất kinh doanh. Nhưng vấn đề là ở chỗ phải huy động được
vốn mới có vốn để cho vay, đầu ra thông suốt thì phải lo đến nguồn vốn đầu vào. Thiết
nghĩ cần quan tâm đến vấn đề tạo lập nguồn vốn của ngân hàng.
(1) Vốn chủ sở hữu:
Có thể thấy rằng không chỉ riêng đối với các ngân hàng thương mại mà ở tất cả
các tổ chức tín dụng hoạt động trong nền kinh tế, vốn chủ sở hữu là yếu tố không thể
thiếu được khi khởi đầu thành lập, nó được coi như là tài sản đảm bảo lòng tin của
khách hàng đối với ngân hàng, nó duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân
hàng gặp thua lỗ.
Tuy vậy, một điều thực tế cho thấy hiện nay là ở các ngân hàng thương mại hiện
nay là có nhiều ngân hàng vừa mới thành lập( Ngân hàng thương mại cổ phần), các
ngân hàng được ngân sách nhà nước cấp vốn ban đầu thì thường thấp... Dưới tình hình
đó các ngân hàng đã có các giải pháp sau để huy động vôn chủ sở hữu:
+ Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên của ngân hàng mình, làm cho họ
trở thành những cổ đông của ngân hàng và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của
ngân hàng. Đối với hình thức này nên có những biện pháp khuyến khích đưa ra những
khen thưởng vật chất.
Đây là hình thức tạo lập mang tính lâu dài, ổn định và cần được chú trọng.
+ Bổ sung từ các quỹ dự phòn tài chính, quỹ trợ cấp, quỹ khen thưởng và các loại quỹ
khác.
+ Lên doanh, liên kết với các tổ chức, các ngân hàng thương mại nước ngoài tranh thủ
các nguồn vốn góp bằng ngoại tệ. Phát hành kỳ phiếu dài hạn, trái phiếu chuyển đổi.
+ Thực hiện tiết kiệm trong quản lý, tổ chức của nội bộ ngân hàng tránh những khâu
lãng phí, thất thoát nguồn vốn, giành những khoản lãng phí không cần thiết đó để bổ
sung thêm vốn chủ sở hữu.
+ Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh, nên tiến hành cổ phần hoá một số để tạo
khả năng huy động tối đa vào vốn của ngân hàng. Ngày nay trên bước đường mở rộng
hoạt động kinh doanh đối ngoại, vai trò của vốn chủ sở hữu đối với các NHTM càng
trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Có sinh lời chính là một tiêu thức quan
trọng trong việc nhận xét, đánh giá về khả năng của NHTM để hội tụ đầy đủ những
điều kiện khi tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của nghành ngân hàng.
(2) Huy động vốn tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn.
Nhìn chung, trước thập niên 70 của thế kỷ XX, tiền gửi không kỳ hạn của nhân
dân là bộ phận lớn nhất trong tài sản nợ của các NHTM ở các nước. Tuy nhiên cho đến
nhưng năm 80 và 90 của thế kỷ XX, mặc dù với việc cải tiến hệ thống quản lý bằng vi
tính, các ngân hàng dễ dàng, vào bất cứ lúc nào chuyển các khoản gửi từ tài khoản tiết
kiệm hoặc tài khoản có kỳ hạn sang tài khoản không kỳ hạn cho nhân dân sử dụng séc
một cách tự động nhưng các khoản gửi không kỳ hạn vẫn chiếm một phần lớn trong tài
sản của các ngân hàng. Có rất nhiều nguyên do giải thích về hiện tưuợng đó. Trước
đây có một người có tiền gửi không kỳ hạn để sử dụng séc chi tiêu cho một việc nào
đó, anh ta phải đến ngân hàng làm thủ tục. Nếu tiền gửi của anh ta đến hạn, chuyện
này không làm anh ta tốn kém mà chỉ mất công đến ngân hàng. Nhưng trong trường
hợp tiền gửi của anh ta chưa đến hạn, tình hình sẽ khách đi, anh ta vừa mất công, vừa
phải chịu mất ít lãi suất và phạt và bị khấu trứ vào lãi suất được hưởng vì đã chuyển
tiền trước thời hạn quy định. Sự phức tạp của vấn đề đã làm cho nhiều người ta nghĩ
rằng nên lưu giữ một ít tiền thường xuyên mang tài khoản séc cho tiện. Điều đó góp
phần cho các khoản gửi không kỳ hạn trở nên nhiều hơn. Nhưng sau đó nó lại bị phần
nào sút giảm về số lượng bởi nguyên nhân là cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, một
ngân hàng tiết kiệm ở Hoa Kỳ đã có một sángkiến. Ngân hàng này đã đưa ra một loại
tài khoản tiền gửi mới, tài khoản Now(Negotiated order of withdraw)- một loại tài
khoản tiết kiệm đặc biệt. Nó cho phép người gưi được rút tiền ra hoặc chuyển tiền bất
cứ lúc nào mà không bị phạt lãi suất và tài khoản này đã nhanh chóng phổ biến ở Châu
âu.
Các ngân hàng thương mại ở Việt nam tiền gửi loại này chủ yếu từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân, tuy nhiên số lượng vẫn còn thấp. Các ngân hàng thương mại Việt
nam đang tăng cường hơn nữa để huy động có hiệu quả:
- Cho phép các cá nhân mở tài khoản thanh toán bằng séc tại ngân hàng nhằm thu hút
các giao dịch qua hệ thống ngân hàng thay cho các giao dịch bằng tiền mặt trong nền
kinh tế. Đối với ngân hàng, một khi dân cư được phép sử dụng rộng rãi tài khoản tiền
gửi không kỳ hạn dùng séc thì một đồng tiền gửi không kỳ hạn tại một ngân hàng
thương mại gia tăng sẽ làm tổng tiền gửi không kỳ hạn trong hệ thống ngân hàng
thương mại sẽ tăng lên gấp bội, có thể từ ba, bốn lần đến mười lần số tiền gửi ban đầu.
Chính vì vậy đây là giải pháp tốt để tăng cường nguồn tài nguyên của ngân hàng đáp
ứng nhu cầu vay vốn của các Doanh nghiệp và của dân cư. Để làm tốt điều này đòi hỏi
các Ngân hàng thương mại phải mở rộng mạng lưới hoạt động, tạo điều kiện cho séc
đươc thanh toán ở mọi nơi, mọi lúc thuận tiện, giúp cho khách hàng thấy được sự hạn
chế yếu tố cồng kềnh và thủ tục đếm tốn kém thời gian của việc thanh toán bằng tiền
mặt.
- Tăng lãi suất đối với loại tiền gửi này. Tuy vậy cần chú ý là rất dễ dẫn đến cạnh tranh
lãi suất giữa các ngân hàng nên cần xem xét cẩn thận và tuân theo quy định của nhà
nước.
- Khuyến khích các đơn vị chi trả lương thưởng cho công nhân qua tài khoản cá nhân
mở tại ngân hàng.
- Phát triển công nghệ thanh toán bằng thẻ tín dụng, thẻ thanh toán đầu tư hơn nữa vào
mạng máy rút tiền tự động ATM đặt tại những nơi đông đân cư và trung tâm thương
mại lớn.
- Với các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và tạo được uy tín trên thị trường thì
cần đặc biệt coi trọng các hình thức hỗ trợ( như quảng cáo, mở rộng các dịch vụ cung
ứng, các mối liên hệ hợp tác trong nước, nước ngoài, tăng thêm những tiện ích cho sản
phẩm của mình.
+ Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm:
Đây là hai loại tiền gửi ổn định và có vai trò chính trong hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại.
Lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn
nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn, lý do ở đây là với khoản vay ổn định này, ngân
hàng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn do đó ngân hàng cũng sẽ trả lãi cao hơn để
kích thích khách hàng đến gửi.
Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định nhưng các loại tiền gửi có kỳ hạn
khác nhau sẽ được trả theo những lãi suất khác nhau. Tại Việt nam, các khoản tiền gửi
này vẫn chủ yếu là các khoản tiền gửi ngắn hạn( với thời hạn là 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng và 12 tháng) thường tập trung cho vay đối với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Hình
thức huy động tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi( kỳ phiếu ngân hàng có
mục đích) với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng- được sử dụng rộng rãi trong một vài năm
gần đây và hiện nay số kỳ hạn đã được các ngân hàng quy định tuỳ theo nhu cầu của
khách tuy vậy thường vẫn tập trung vào các kỳ hạn do ngân hàng đặt ra.
Các cách chủ yếu ngân hàng thương mại dùng huy động tiền gửi có kỳ hạn đó là:
- Huy động từ các quỹ dự phòng, dự trữ, quỹ khen thưởng, phúc lợi của các đơn vị, tổ
chức, từ các tổ chức bảo hiểm xã hội.
- Điều chỉnh lãi suất cho phù hợp, tránh tình trạng mâu thuẫn giữa một bên là lãi suất
thấp thuận lợi cho người đi vay để sản xuất kinh doanh và một bên là người có tiền sẽ
không muốn gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất thấp, nhất là tình trạng đồng tiền bị
mất giá. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định
hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng.
- Đa dạng các chứng chỉ tiền gửi nhằm đáp ứng sự cạnh tranh trong huy động vốn của
các ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư
lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này có thể dùng vốn để đầu tư vào trái phiếu kho bạc hay
thị trường tiền tệ. Các chứng chỉ này thường được các công ty, các quỹ hưu trí và tổ
chức chính quyền đầu tư với khối lượng lớn, được giao dịch trên thị trường chứng
khoán trước hạn định thanh toán. Do đó, đây là một giải pháp có hiệu quả trong huy
động vốn.
- Tạo điều kiện cho khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn. Tuy nhiên cần tránh
tình trạng gửi nhiều thứ sẽ gây tốn kém trong quá trình quản lý vốn, ảnh hưởng đến kế
hoạch của ngân hàng.
Đối với tiền gửi tiết kiệm( chủ yếu là tiết kiệm có kỳ hạn) do đây là một trong
những nguồn vốn chủ lực của ngân hàng, nguồn tiết kiệm vẫn huy động từ các thành
phần chủ yếu sống bằng lợi tức sinh ra từ vốn. Nhưng nguồn vốn này có sự cạnh tranh
về lãi suất huy động cao, đòi hỏi phí tổn cao trong huy động, nên chỉ có các tổ chức tín
dụng chuyên doanh và kho bạc nhà nước có nhu cầu vốn, tính toán đầu ra thông suốt,
có hiệu quả kinh tế mới huy động. Còn các tổ chức tín dụng ngân sách cấp thì không
thể sư sụgn nguồn vốn này mà không được ngân sách nhà nước cấp bù lỗ.
Bên cạnh đó các dịch vụ tiết kiệm qua Bưu điện được triển khai từ năm 1998,
cùng với mạng lưới rộng khắp với hơn 3000 bưu cục hoạt động trải khắp thành thị,
nông thôn, miền núi hải đảo sẵn có bộ máy nhân sự đầy đủ và thời gian làm việc gấp
hai lần so với các ngân hàng. Lợi thế của bưu điện là dịch vụ huy động đơn thuần
không sử dụng vốn, không để dự trữ bắt buộc, không cho vay trực tiếp mà chuyển
thẳng cho Bộ tài chính xem xét đầu tư. Do đó việc huy động các khoản gửi tiết kiệm
của các ngân hàng thương mại càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Các ngân hàng thương mại đang áp dụng một số cách sau:
- Mở các tài khoản cho phép khách hàng được rút tiền trước hạn, tuy nhiên khách hàng
vẫn phải chịu một khoản khấu trừ lãi suất.
- Tranh thủ các nguồn tiền tiết kiệm dài hạn bởi đây sẽ là nguồn vốn ổn định cho các
chương trình cấp tín dụng dài hạn của ngân hàng.
- Huy động các nguồn gửi tiết kiệm từ các quỹ của các cơ quan của công ty, các tổ
chức cá nhân khác trong xã hội. Các ngân hàng thương mại không ngồi chờ khách
hàng đến gửi mà chủ động đến tận nơi, vận động tại chỗ...tạo ra ngày càng nhiều tiện
ích cho sản phẩm của mình.
- Đi đôi với hình thức huy động, để cạnh tranh với ngành bưu điện, các ngân hàng
thương mại cần phải ưu tiên sử dụng vốn( kể cả nguồn hỗ trợ nếu có) cho vay xoá đói
giảm nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn huy động để nhân dân thấy rõ được
lợi ích thiết thực của hai mặt nguồn vốn gửi tiết kiệm vào ngân hàng.
- Liên hệ với các đoàn thể tại các phường xã, khu phố nơi địa bàn huy động để tìm
kiếm, thu hút thêm các khoản tiền gửi tiết kiệm.
(3) Huy động vốn vay:
+ Vay của Ngân hàng Trung ương:
Các ngân hàng thương mại đều được hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng trung
ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ, hoặc qúa kẹt tiền mặt thông qua cửa
ngõ chiết khấu. Ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua
hình thức chiết khấu các thương phiếu của ngân hàng thương mại( hoặc tái chiết khấu
nếu ngân hàng thương mại đã chiết khấu trước đó).
Một điều cho thấy, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển, cho dù ngân
hàng trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp thế
nào đi nữa nó vẫn phải cho các ngân hàng thương mại vay khi họ kẹt thanh toán để
tránh những cơn khủng hoảng tài chính không đáng có và thực hiện tốt chức năng là
người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại.
Đứng về phía các ngân hàng thương mại, vay tại Ngân hàng trung ương là một
dịch vụ hết sức tiện lợi vào những khi Ngân hàng trung hạ lãi suất chiết khấu trong
chính sách cúng ứng tiền tệ mở rộng để kích thích đầu tư.
Trường hợp không may là khi Ngân hàng thương mại đến vay giữa lúc Ngân
hàng trung ương không muốn khuyến khích sự bành trướng tín dụng, hoặc thậm chí nó
đang thắt chặt cung ứng tiền tệ để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đẩy
lên cao với những khoản lỗ trông thấy kh vay vốn ngân hàng trung ương, các ngân
hàng thương mại chỉ miễn cưỡng vay trong tình huống thắt chặt ngặt nghèo, và tìm
mọi cách trả nợ nhanh nhất. Khi đó các khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong
tổng tài sản nợ.
+ Vay trên thị trường qua phát hành các chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu:
Các ngân hàng thương mại hiện nay đã huy động vốn qua các chứng chỉ tiền gửi
có mệnh giá lớn. Mức lãi suất các chứng chỉ này được thoả thuận trực tiếp giữa ngân
hàng và người gửi tiền cũng giống như các nước, loại chứng chỉ này chỉ được đổi
thành tiền khi đến hạn, để phân biệt nó với các loại tiền gửi có kỳ hạn.
Các khoản vay trên thị trường hiện nay chủ yếu thông qua hình thức phát hành
trái phiếu. Đây là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức ghi
nhận giấy nợ do các tổ chức tín dụng( bao gồm các ngân hàng thương mại) phát hành.
Hình thức huy động vốn này đã giúp cho các ngân hàng thương mại chủ động
trong việc huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư dài hạn và vốn này có tính ổn định
cao về thời gian sử dụng và lãi suất.
Do trái phiếu là hàng hoá của thị trường chứng khoán cho nên theo kinh nghiệm
của các nước Châu Âu thì để huy động được nhiều nguồn vốn vay này đòi hỏi các trái
phiếu phải được giao dịch chính thức hoặc giao dịch tự do trên một hoặc nhiều sở giao
dịch chứng khoán. Đó chính là nơi tạo điều kiện cho người đầu tư vào trái phiếu có thể
thu hồi vốn bất cứ lúc nào bằng việc bán chúng trên thị trường chứng khoán.
+ Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng thương mại vay lẫn nhau
trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay, nhưng
thực chất nó là hình thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự thoả thuận và sự
hợp tác đôi bên cùng có lơị. Tuy nhiên sự thoả thuận đôi bên cùng có lợi chỉ có khi cả
hai ngân hàng cùng gặp khó khăn và cùng tìm đến nhau, còn khó khăn chỉ thuộc về
phía một ngân hàng thì chắc chắn ngân hàng đó phải chịu thiệt.
Ngoài mục đích vay để thanh toán, ngân hàng thương mại còn sử dụng vốn vay
này để kinh doanh và đảm bảo dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng trung ương.
Với huy động nguồn vốn này cho thấy thị trường liên ngân hàng là rất cần thiết
đặc biệt là tranh thủ các khoản vay ngoaị tệ...
+ Vay nước ngoài:
Hiện nay các ngân hàng thương mại ở Việt Nam được phép vay vốn của các tổ
chức nước ngoài qua các hình thức:
- Vay bằng tiền( vay tài chính).
- Nhập khẩu hàng hóa dịch vụ trả chậm theo phương thức mở thư tín dụng.
- Thuê tài chính nước ngoài.
- Phát hành trái phiếu ra nước ngoài.
- Các loại hình vay nước ngoài khác...
Đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những điều kiện theo quy định của
ngân hàng nhà nước.
Để huy động nguồn vốn này, các ngân hàng thương mại cần có những giải pháp
sử dụng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả và đặc biệt nên sử dụng vào việc triển khai
các chương trình quốc gia, tham gia các kế hoạch cụ thể do thủ tướng chính phủ ra
quyết định để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ phía nhà nước.
(4) Huy động vốn khác:
+ Nâng cao nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn nước ngoài:
Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng bảo lãnh, chịu trách nhiệm trả tiền thay cho
bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa
vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể trong thư bảo lãnh
của ngân hàng. Nước ta hiện nay việc bảo lãnh chủ yếu dưới hình thức mở L/C trả
chậm phát hành thư bảo lãnh.
Đây là nghiệp vụ mang lại rất nhiều lợi nhuận trong các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam. Đã giải quyết được vấn đề thiều vốn của các Doanh nghiệp. Tuy nhiên điều
đáng lo ngại hiện nay là nợ quá hạn bảo lãnh còn tồn đọng và kéo dài, quản lý vay nợ
còn thiếu trách nhiệm, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ.
Đặc biệt là tình trạng đảo nợ giữa các chi nhánh, đảo nợ nội tệ đối với ngoại tệ khiến
cho nợ sấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn ngày càng cao. Chính vì vậy ngân hàng
thương mại cần kiếm soát chặt chẽ quy trình bảo lãnh, chỉ bảo lãnh cho những dự án
khả thi và thu hồi nợ nhanh. Cần có chính sách chế độ về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
có nghiệp vụ giỏi, am hiếu Luật quốc tế trực tiếp là UCP 500 nhạy bén với những phát
sinh của thị trường.
Bảo toàn nguồn vốn và tìm kiếm lợi nhuận chính từ giải pháp tạo lập vốn hữu
hiệu của các ngân hàng.
+ Khai thác nguồn vốn từ những người Việt nam đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài:
Kể từ khi nền kinh tế mở cửa, lượng người làm ăn sinh sống ở nước ngoài ngày
càng đông. Trong số này lượng người có trình độ lao động cao chiếm số đông chính vì
vậy hàng năm họ gửi một phần thu nhập về trong nước, đi du lịch... là rất lớn.
Để thu hút nguồn vốn này đòi hỏi các ngân hàng thương mài cần thiết phải điều
chỉnh lại các quy định trong việc chuyển tiền kiều hối theo hướng đơn giản về thủ tục
gửi và nhận tiền miễn thuế chuyển tiền kiều hối thuế thu nhập.
+ Huy động vàng trong dân cư:
Mặc dù tiền mặt vẫn chiếm số lượng lớn trong lưu thông nhưng lượng vàng cất
giữ trong dân cư ở Việt Nam còn rất lớn. Tại thành thị hầu như gia đình nào cũng cất
giữ vàng dưới hình thức đồ tranh trí, tranh sức( vòng, nhẫn, khuyên tai...). Mặt khác do
những năm vừa qua, chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á, đồng
tiền Việt nam bị mất giá và biến động liên tục, người dân có xu hướng dùng tiền mặt
để mua ngoại tệ hoặc vàng để cất giữ...Chính vì vậy việc huy động tiền vàng đã được
chú ý và được triển khai ở một số ngân hàng ngay từ khi có chủ trương của Chính phủ
và Ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, hình thức này có độ rủi ro rất cao và việc khó khăn trong khâu bảo
quản, đảm bảo an toàn của vàng tại các ngân hàng. Mặt khác, ngân hàng thương mại
đang trong thời kỳ củng cố, sắp xếp lại nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
nhất là trong năm 2004 vừa qua giá vàng tăng đột biến đã làm cho việc huy động vàng
gần như dừng hẳn ở các ngân hàng thương mại.
+ Ngoài ra ngân hàng thương mại còn có thể tạo vốn qua việc thu hút tiền nhàn rỗi từ
hoạt động uỷ thác về dịch vụ xã hội như dịch vụ: Câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè, các
kế hoạch khác. Các kế hoạch này được tạo ra để khuyến khích những người tiết kiệm
ký thác mỗi tuần một số tiền nhất định tại ngân hàng. Số tiền này sau một thời gian
nhất định sẽ là một số tiền đủ lớn để khách hàng sử dụng chi trả có các kế hoạch( dịch
vụ) trên.
1.2.3 Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế thị trường:
+ Đối với ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là Doanh nghiệp chỉ đi vay rồi lại cho vay, do vậy thấy
ngay rằng huy động vốn là một trong những công việc quan trọng hàng đầu trong các
hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Huy động vốn trước hết là để có vốn đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư vào các hoạt
động khác.
- Huy động vốn tốt tạo tiền đề để mở rộng quy mô, chất lượng kinh doanh, dịch vụ
ngày càng được hoàn thiện tăng nhiều tiện ích hơn.
- Huy động vốn là nơi diễn ra sự cạnh tranh trong lãi suất huy động. Do vậy cũng
quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Huy động vốn còn có vai trò thể hiện ngân hàng có làm ăn phát đạt hay không?, thể
hiện sức mạnh của ngân hàng.
...
+ Đối với nền kinh tế:
Xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, huy động vốn của các ngân hàng thương mại
giúp cho quá trình luôn chuyển vốn diễn ra nhanh chóng, vòng quay vốn diễn ra nhanh
hơn.
Huy động vốn của ngân hàng làm cho lượng vốn ứ đọng trong nền kinh tế nhanh
chóng đưa vào lưu thông di chuyển vốn từ những nơi đang thừa vốn tạm thời đến nơi
đang thiếu vốn.
Huy động vốn kích thích đầu tư, các nhà đầu tư vào bất kỳ một lĩnh vực gì cũng
cân nhắc xem giữa đầu tư vào dự án so với gửi tiết kiệm ngân hàng thì nơi nào có hiệu
quả hơn. Chính vì vậy mà hoạt động đầu tư luôn diễn ra sôi động.
Trong chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương muốn
mở rộng cung ứng tiền tệ thì thường hạ lãi suất chiết khấu xuống, hoặc lãi suất tái chiết
khấu hay giảm dự trữ bắt buộc để kích thích các ngân hàng thương mại đi vay để đầu
tư ngược lại nó để thắt chặt cung ứng tiền tệ nó lái giảm lãi suất chiết khấu vì vậy huy
động vốn của ngân hàng thương mại cũng là đối tượng để Ngân hàng Trung ương điều
chỉnh công cụ chính sách tiền tệ của mình.
...
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại:
Một nền kinh tế lành mạnh và không ổn định sẽ không thể thiếu những kênh dẫn
vốn từ những người thặng dư vốn đến những người có nhu cầu vốn. Với vai trò là
trung gian tài chính, ngân hàng được ví như một hệ thống máy bơm tiền vào trong nền
kinh tế. Ngân hàng tổ chức kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình
thức huy động, cho vay và đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn hoạt
động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới
chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Các nhân tố khách quan:
(1) Các nhân tố vĩ mô:
+ Môi trường kinh tế xã hội- chính trị:
Kinh tế phát triển bền vững dựa trên nền tảng chính trị ổn định, và bất cứ sự phát
triển kinh tế nào cũng phải tính đến sự phù hợp với sự phát triển của xã hội đương
thời. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của
nền sản xuất xã hội. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển
của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
+ Nhân tố pháp luật:
Pháp luật là công cụ để quản lý xã hội của nhà nước. Đó là những quy tắc sử sự
mang tính bắt buộc chung đối với mọi thành viên trong xã hội. Hoạt động ngân hàng
tất nhiên cũng phải chịu sự điều chỉnh, giám sát của pháp luật. Hơn thế, vì có chức
năng tạo tiền, ngân hàng cũng phải chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp luật
Việt nam. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng nước ta có quan
hệ chặt chẽ với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ngân hàng. Khi mới
thành lập ngân hàng là cơ quan quản lý tiền tệ tín dụng và là tổ chức kinh doanh không
vì lợi nhuận. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, ngân hàng được coi là tổ chức kinh
doanh tiền tệ với mục tiêu sinh lời. Khi có pháp lệnh về ngân hàng, ngân hàng hoạt
động rất rầm rộ nhưng thiếu tính tổ chức do những quy định lỏng lẻo trong pháp lệnh.
Sự phát triển trong giai đoạn này của ngành ngân hàng được ví như trái bong bóng, với
một thực tế là sau 5 năm thực hiện pháp lệnh, dư nợ khó đòi của các ngân hàng chiếm
tới hơn 40% tổng tài sản. Sang giai đoạn 95-98, những điều chỉnh của nhà nước làm
mọi việc trở nên trái ngược với quy định trước đó. Do các quy định quá chặt chẽ, hầu
như các ngân hàng không muốn làm gì. Cùng với tỷ lệ lạm phát thấp là vấn đề thừa
vốn ở các ngân hàng. Vốn không vận động tức là ngành ngân hàng dậm chân tại chỗ.
Đến năm 98, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã nâng cao quyền tự quyết, tự
chịu trách nhiệm cho các ngân hàng. Các quy định mang tính gián tiếp và thoáng hơn
tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng phát triển.
Liên quan trực tiếp đến cơ cấu vốn của ngân hàng, pháp luật cũng có những quy
định cụ thể như: quy định vốn pháp định để ngân hàng thành lập, quy định tỷ lệ vốn
huy động so với vốn chủ sở hữu...
+ Các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính Phủ:
- Chính sách tiền tệ:
Chính là việc điều tiết cung tiền của Chính phủ với công cụ chính là nghiệp vụ thị
trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất chiết khấu.
Nghiệp vụ thị trường mở là việc Chính phủ mua bán trái phiếu từ công chúng. Ơ
đây chúng ta quan tâm đến ngân hàng. Khi Chính Phủ mua trái phiếu từ các ngân
hàng, dự trữ của ngân hàng tăng, dẫn đến tăng khả năng cho vay của các ngân hàng.
Đây có thể coi là một hành động kích cầu của nền kinh tế, làm tăng thu nhập dẫn đến
tăng tiết kiệm, như vậy quay trở lại làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Việc quy định
tỷ lệ dự trữ bắt buộc một lần nữa ảnh hưởng đến hoạt động cho vay và đi vay của ngân
hàng. Còn lãi suất chiết khấu tác động trực tiếp đến một khoản mục nguồn vốn của
ngân hàng là khoản vay của chính phủ, về cả cơ cấu cũng như chất lượng.
- Chính sách tài chính:
Hai công cụ của chính sách này là Thuế và Chi tiêu Chính phủ.
Chi tiêu Chính phủ, theo mô hình số nhân chi tiêu của Keynes, sẽ có tác động
kích cầu đối với nền kinh tế.
Thuế thu nhập trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng. Nó làm giảm lợi
nhuận ngân hàng, như thế ảnh hưởng đến lợi nhuận giữ lại là một nhân tố quan trọng
làm tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Thuế cũng ảnh hưởng đến thu nhập của khách
hàng của ngân hàng, gồm dân cư và các Doanh nghiệp. Thuế thu nhập cao sẽ làm giảm
khát vọng làm giàu của các Doanh nghiệp, như thế cầu về vốn giảm, làm ảnh hưởng
đến việc huy động vốn của các ngân hàng.
Liên quan đến thuế, có một nhân tố khuyến khích hoạt động đi vay, là nguyên tắc
tiết kiệm thuế từ vốn vay trong tài chính doanh nghiệp. Tất nhiên nó sẽ quay trở lại tác
động đến việc huy động vốn của ngân hàng.
- Chính sách thương mại:
Chính sách thương mại bao gồm tất cả những chính sách liên quan về thương mại
trong quá trình hoạt động đã ngày càng hòan chỉnh.
Nó có tác động rất lớn và trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và do đó
nó làm ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các ngân hàng.
(2) Các yếu tố cạnh tranh trên thị trường:
+ Cạnh tranh với các đối thủ của ngân hàng:
Ngân hàng là mảnh đất màu mỡ cho khát vọng làm giàu, vì vậy hoạt động ngân
hàng luôn có sự cạnh tranh rất khốc liệt. Các đối thủ của ngân hàng bao gồm các ngân
hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như các công ty tài chính, công ty
bảo hiểm, quỹ tín dụng nhân dân, các hiệp hội tiết kiệm...Họ đang cạnh tranh với nhau
để tìm kiếm các nguồn tiết kiệm và thị trường dịch vụ. Cạnh tranh thúc đẩy các ngân
hàng cung cấp các tiện ích ngày càng tốt hơn cho khách hàng. Công chúng có một mức
thu nhập khá hơn từ các khoản tiết kiệm của mình. Nhiều loại tiền gửi mới được phát
triển. Lãi suất cho vay và điều kiện cho vay cũng được thông thoáng hơn. Đầu năm 90,
thời gian xét duyệt có khi vài tuần, nay chỉ vài ngày, chuyển tiền chỉ mất vài giờ. Cạnh
tranh buộc các ngân hàng phải áp dụng công nghệ mới, thay đổi mức lương, quảng cáo
và đặc biệt chú ý đến chất lượng các dịch vụ.
+ Các nhân tố liên quan đến khách hàng:
Khách hàng của ngân hàng bao gồm các cá nhân, Doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội.
Việc huy động vốn trước hết phụ thuộc vào thu nhập của khách hàng. Thu nhập
cao thì tỉ lệ tiết kiệm cận biên cũng tăng. Như vậy ngân hàng có điều kiện thuận lợi để
huy động nguồn tiền gửi cũng như đi vay.
Độ nhạy cảm của khách hàng với lãi suất: Khi thấy ngân hàng khác có cơ chế lãi
suất hấp dẫn, phù hợp hơn, khách hàng có thể chuyển khoản tiền gửi của mình sang
ngân hàng đó và làm giảm nguồn tiền huy động của ngân hàng hiện tại. Thường thì ở
đây có một vấn đề thông tin không cân xứng, tức là các ngân hàng nắm được nhiều
thông tin về thị trường tín dụng hơn khách hàng.
Việc ra quyết định thay đổi liên quan đến khoản tiền gửi hay cho vay của khách
hàng còn phụ thuộc vào sức mạnh của họ. Các khách hàng lớn, khoản tiền họ cho ngân
hàng vay là nguồn tài chính quan trọng đối với ngân hàng. Vì thế họ có một sức mạnh
nhất định khi thương lượng với ngân hàng về lãi suất tiền vay, lãi suất tiền gửi. Ngân
hàng bắt gặp vấn đề rủi ro lãi suất cùng với áp lực tăng lãi suất đầu vào, chi phí và tính
không ổn định của nguồn vốn tăng lên. Như vậy tức là giảm chất lượng nguồn vốn.
Hơn nữa, các khách hàng nhỏ cũng đòi hỏi phải được đối sử công bằng. Ngân
hàng một lần nữa đứng trước áp lực tăng lãi suất nhằm giữ uy tín cho khách hàng.
Quan hệ với khách hàng cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cơ cấu và
chất lượng nguồn vốn. Khi khách hàng tin tưởng vào ngân hàng, khoản tiền gửi của họ
có xu hướng gia tăng và thời hạn rút tiền cũng kéo dài hơn. Quan hệ tốt với ngân hàng
cũng có lợi cho khách hàng vì họ có thể vì thế mà được hưởng những ưu tiên của ngân
hàng.
+ Các nhân tố khác:
Trước hết, nói về chu kỳ kinh doanh. Sản lượng của nền kinh tế luôn biến động
theo một dạng hình sin. Tại thời điểm thịnh vượng của chu kỳ kinh doanh, hoạt động
ngân hàng chắc chắn sẽ khởi sắc. Trong xã hội các nguồn lực tài chính trở nên dồi dào,
nhu cầu đầu tư phát triển lớn là cơ hội để ngân hàng tăng nguồn huy động về cả số
lượng và chất lượng. Điều ngược lại xảy ra khi nền kinh tế ở trong thời kỳ suy thoái.
Việc huy động vốn của ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố thời vụ. Ví dụ
trong dịp tết nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng cao, tất nhiên sẽ tiết kiệm ít đi,
thậm chí họ có thể rút tiền gửi về để tiêu sài. Quy mô, chất lượng các khoản tiền gửi
giảm. Biến động trên các thị trường vàng, USD, bất động sản cũng là tiêu chí để khách
hàng quyết định chọn phương tiện giữ giá tài sản. Và gửi tiền vào ngân hàng là cách
giữ tiền an toàn nhất, ít rủi ro nhất.
Các nhân tố chủ quan:
Thứ nhất là lịch sử uy tín của ngân hàng, nhân tố này tạo dựng một thương hiệu
vững chắc cho ngân hàng. Nhân tố này gắn liền với quan hệ giữa ngân hàng với khách
hàng. Nhờ đó ngân hàng có thể thu hút nguồn vốn, được coi như nguồn năng lượng để
ngân hàng hoạt động.
Thứ hai, về mạng lưới và địa điểm trụ sở của ngân hàng. Để vươn lên cạnh tranh
trước hết phải chiếm ưu thế về mặt địa lý. Ngân hàng phải có một mạng lưới sâu rộng,
đặt tại những địa điểm thuận lợi trên cơ sở tính toán đến các yếu tố: Môi trường cạnh
tranh, dân cư và thu nhập của vùng, là trung tâm kinh tế văn hoá đầu mối giao thông...
Thứ ba, việc huy động vốn của ngân hàng phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu, chiến
lược, chính sách của ngân hàng. Ngân hàng phải căn cứ vào tình hình dự trữ chiến
lược dự trữ để huy động các khoản vay sao cho phù hợp. Để quản lý rủi ro lãi suất
ngân hàng thường muốn kéo dài kỳ hạn các khoản mục huy động. Nhưng kỳ hạn dài
thì lãi suất lại phải cao. Các tính toán về chi phí, doanh thu, nhận định về tình hình lạm
phát sự cạnh tranh trên thị trường...làm ảnh hưởng đến cơ cấu và chất lượng nguồn
vốn.
Thứ tư, các nhân tố mang tính chất nguồn lực bao gồm vốn, lao động, kỹ thuật.
ch¬ng Ii
thực trạng hoạt động huy động vốn tại nhno & ptnt huyện tuần giáo – Tỉnh
điện biên
2.1 Khái quát chung về NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo – Tỉnh Điện Biên:
2.1.1 Quá trình phát triển của NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo:
Ngày 26/3/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành
Nghị định số 53/HĐBT, theo Nghị định này, Ngân hàng Việt Nam được tách thành 2
hệ thống: Hệ thống Ngân hàng Nhà nước với chức năng làm công tác quản lý tiền tệ-
tín dụng. Hệ thống Ngân hàng Thương Mại quốc doanh có chức năng kinh doanh tiền
tệ-tín dụng và dịch vụ Ngân Hàng.
Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn ngày nay tiền thân là Ngân hàng
phát triển Nông nghiệp Việt Nam trước đây, có mạng lưới rộng khắp vươn tới tất cả
các xã, phường, vùng sâu, vùng xa. Có các Chi nhánh từ Trung ương đến các tỉnh và
các huyện với chức năng:
Huy động tất cả các khoản tiền nhàn rỗi của các đơn vị, tổ chức kinh tế và dân
cư làm nguồn vốn kinh doanh. Cung ứng đầy đủ và kịp thời vốn tín dụng, phục vụ nhu
cầu phát triển sản xuất-kinh doanh của các tổ chức kinh tế và các hộ sản xuất trong
lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, thực hiện các dịch vụ Ngân Hàng.
Ngân Hàng Nông nghiệp huyện Tuần Giáo là một Chi nhánh của Ngân Hàng
Nông nghiệp tỉnh Điện Biên, thuộc hệ thống Ngân Hàng Nông nghiệp Việt Nam cũng
có sự thay đổi như vậy. Đồng thời cũng có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của một Ngân
Hàng thương mại hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng.
Được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1988, hoà chung vào công
cuộc đổi mới của đất nước, của toàn ngành ngân hàng. Ngày mới thành lập với đội ngũ
trên 70 cán bộ nhân viên từ chi nhánh Ngân hàng nhà nước huyện chuyển sang, trình
độ kiến thức ngân hàng trong nền kinh tế thị trường hạn chế, cán bộ có trình độ đại
học chưa đến 3%. Cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, trang thiết bị cũ kỹ, hệ thống
thanh toán và dịch vụ thủ công. Tài sản nhỏ bé: nguồn vốn 781 triệu đồng, dư nợ 659
triệu đồng, trong đó: 83 triệu đồng nợ quá hạn khó đòi, chiếm 13% tổng dư nợ, vốn
đầu tư trung dài hạn chiếm 6%, cơ cấu tín dụng mất cân đối kinh tế quốc doanh chiếm
trên 90% dư nợ...
Bước vào thương trường như vậy quả là hết sức khó khăn. Nhưng đến nay sau 16
năm xây dựng, đối mặt với bao khó khăn thử thách của cơ chế thị trường, được sự lãnh
đạo, chỉ đạo giúp đỡ của ngân hàng cấp trên và cấp uỷ chính quyền địa phương, cùng
với sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ, nhân viên ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn huyện Tuần Giáo đã tự khẳng định mình, trưởng thành và phát triển đi
lên
Về cơ cấu tổ chức Ngân Hàng Nông nghiệp huyện Tuần Giáo tính cho đến ngày
31/12/2004 gồm có: NHNo&PTNT huyện Tuần giáo gồm có 2 phòng nghiệp vụ:
Phòng kinh doanh, Phòng kế toán- Ngân quỹ và một chi nhánh Ngân hàng cấp III-
Mường ẳng trực thuộc, có 3 tổ cho vay lưu động nông thôn. Tổng biên chế toàn chi
nhánh đến 31/12/04 là 29 CBCNV.
Trong đó: Cán bộ nam là 15 đồng chí chiếm 51,7% trên tổng số CBCNV, cán bộ
nữ là 14 đồng chí chiếm 48,3% trên tổng số CBCNV toàn chi nhánh.
Dân tộc thái 5 đồng chí chiếm 17,2 % tổng số CBCNV
Dân tộc Mông 1 đồng chí chiếm 3,4% tổng số CBCNV .
-Về trình độ : Đại học, cao đẳng 12 đ/c chiếm 41% tổng số CBCNV, trung học 16 đ/c
chiếm 55% tổng số CBCNV , khác 1 đ/c chiếm 4% tổng số CBCNV
Từ khi được thành lập đến nay với vai trò của một Ngân Hàng thương mại đóng
trên địa bàn, hoạt động kinh doanh Ngân Hàng Nông nghiệp huyện Tuần Giáo đã đóng
góp không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và không
ngừng phát triển đi lên, ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế
thị trường.
2.1.2 Các hình thức huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn( viết tắt là NHNo) tỉnh điện biên
huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các TCKT-XH; các TCTD.
- Nhận tiền gửi tiết kiêm.
- Phát hành kỳ phiếu.
- Phát hành trái phiếu.
- Các hình thức huy động khác.
(1) Nhận tiền gửi thanh toán của các TCKT-XH; các TCTD:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tuần giáo huy động tiền gửi
thanh toán của các cá nhân, tổ chức kinh tế-xã hội, tổ chức tín dụng trên địa bàn với lãi
suất nhỏ với phương châm phục vụ khách hàng tiện lợi trong thanh toán qua ngân
hàng.
Với loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ngân hàng huy động dưới hình thức mở các
tài khoản tiền gửi cho các cá nhân, tổ chức kinh tế-xã hội, các tổ chức tín dụng…và
tiến hành thanh toán khi khách hàng có nhu cầu thanh toán. Loại tiền gửi này tuy
không ổn định nhưng nó cũng là nguồn đảm bảo khả năng thanh khoản cao cho ngân
hàng trong những trường hợp cấp thiết.
Trong một vài năm gần đây, khi trình độ của người dân ngày càng được nâng cao,
công tác marketing ngân hàng ngày càng được quan tâm, các sản phẩm dịch vụ Ngân
hàng Tuần giáo đáp ứng ngày càng nhiều tiện ích đã làm cho người dân dần quyen với
việc dùng các dịch vụ của ngân hàng nên lượng tiền huy động được dưới hình thức này
ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng Tuần giáo.
Thể hiện khá rõ trong bảng sau:
Bảng 1: tình hình huy động tiền gửi thanh toán qua một số năm
đơn vị: triệu đồng
TGThanh
toán
Năm
TG Thanh toán
huy động được
+,- %
2000 3.35
2001 473 798 20
2002 12.71 7.38 175
2003 12.60 311 (3)
2004 14.77 2.17 19
(2) Nhận tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngân hàng cho khách hàng gửi dưới hình thức mở sổ
tiết kiệm. Trước đây, chủ yếu là các loại tiết kiệm có kỳ hạn thường là do ngân hàng
đặt ra như kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng. Nhưng hiện nay ngân hàng đã
thoả thuận với khách hàng về kỳ hạn để phù hợp với từng loại khách hàng và lượng
tiền mà khách hàng gửi vào tạo ra sự thoải mái cho khách hàng. Mới đây Ngân hàng
Tuần giáo đã mở rộng thêm các thể thức tiết kiệm với các hình thức trả lãi linh hoạt:
Các thể thức tiết kiệm:
Ngoài các thể thức tiết kiệm đang áp dụng, NHNo Điện Biên đang phát hành
thêm 2 loại thể thức tiết kiệm mới như sau:
Tiền gửi tiết kiệm gửi góp:
+ Bao gồm các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, tuỳ khách hàng lựa chọn
nhưng tối thiểu là 3 tháng.
+ Khách hàng phải gửi đều đặn theo định kỳ đã thoả thuận với ngân hàng. Đến định kỳ
gửi góp, Khách hàng không đến gửi tiền theo hợp đồng thì phải gửi bù vào định kỳ
tiếp theo, nếu khách hàng không đến gửi đúng kỳ quá 2 lần thì toàn bộ số dư đã gửi tại
NHNo sẽ được NHNo chuyển sang tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và khách hàng
được hưởng theo lãi suất không kỳ hạn kể từ ngày khách hàng gửi tiền lần đầu.
Tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi bậc thang:
+ Khách hàng gửi tiền một lần vào một sổ tiết kiệm nhưng có thể được rút tiền gốc
nhiều lần. Trường hợp khách hàng có nhu cầu gửi tiền nhiều lần thì mỗi lần gửi được
mở một sổ tiết kiệm riêng.
+ Khi rút tiền gốc( một phần hay toàn bộ) Ngân hàng sẽ tính trả tiền lãi tương ứng với
số tiền lãi tương ứng với số tiền gốc đó cho khách hàng theo bậc lãi suất quy định.
+ Ngân hàng chỉ tính và trả lãi cho khách hàng khi khách hàng rút tiền gốc, không
chấp nhận việc khách hàng lĩnh tiền lãi mà không rút gốc.
Quy định về trả lãi:
Tiền gửi tiết kiệm gửi góp:
+ Tối đa bằng 90% mức lãi suất có kỳ hạn cùng thời hạn. Tiền lãi được tính hàng
tháng và được thanh toán cùng với gốc vào ngày kết thúc kỳ hạn gửi góp.
+ Khi kết thúc kỳ hạn gửi góp, khách hàng được rút toàn bộ số tiền gửi góp và số tiền
lãi. Trường hợp khách hàng không đến rút tiền thì NHNo tự động nhập lãi vào gốc và
chuyển sang tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn kể từ ngày sau khi kêt thúc kỳ hạn.
+ Nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn trước hạn:
Khách hàng không được rút một phần tiết kiệm mà phải rút toàn bộ số tiền đã gửi
và được NHNo trả lãi bằng mức lãi suất không kỳ hạn cho toàn bộ số tiền đã gửi góp.
Trường hợp thời hạn gửi đã được lên 2/3 thời gian khách hàng đã thoả thuận gửi góp
thì được hưởng lãi tối đa bằng 70% lãi suất gửi góp cùng thời gian.
Tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi bậc thang:
Khách hàng được hưởng lãi trên số dư tiền gửi với lãi suất bậc thang luỹ tiến như
sau:
+ Lãi suất bậc thang tối đa được tính theo kỳ hạn 24 tháng kể từ ngày gửi tiền. Trường
hợp NHNo không quy định kỳ hạn trên 12 tháng thì kỳ hạn tối đa là 12 tháng. Sau 12
tháng khách hàng chưa rút vốn thì được hưởng lãi suất 12 tháng hiện hành của NHNo.
+ NHNo quy định thời gian cho mỗi bậc lãi suất là 3 tháng, trong bậc đó khách hàng
được hưởng lãi suất như sau:
Bậc 1: Từ khi gửi đến dưới 3 tháng, hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Bậc 2: Từ 3 tháng đến dưới 6 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 3 tháng.
Bậc 3: Từ 6 tháng đến dưới 9 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 6 tháng
Bậc 4: Từ 9 tháng đến dưới 12 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 9 tháng
Bậc 5: Từ 12 tháng đến dưới 24 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 12 tháng
Bậc 6: Từ 24 tháng trở lên, hưởng lãi suất bằng 110% lãi suất có kỳ hạn 12 tháng.
Các mức lãi suất nêu trên được tính bằng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn thông
thường hiện hành và được ghi ngay vào sổ tiết kiệm bậc thang khi khách hàng gửi vào.
Các hình thức huy động khác đó là: Quảng cáo, dự thưởng, trao quà,.. Cứ mỗi
khoản tiền gửi tiết kiệm 5 triệu đồng được trao một phiếu dự thưởng,..
Tình hình huy động tiền gửi tiết kiệm được thống kê trong bảng sau:
Bảng 2: Tình hình huy động tiền gửi tiết kiệm
Đơn vị: Triệu đồng
TGT/kiệm
Năm
KH12 tháng
T/hiện +,- % T/hiện +,- %
2000 2.927 5.477
2001 2.068 (859) (29) 9.821 4.334 79
2002 2.327 113 5 4.314 (5.507) (56)
2003 3.233 906 39 .5061 747 17
2004 3.530 297 9 4.852 (209) (4)
(3) Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu:
Năm 2000 Ngân hàng huy động 41 triệu đồng, năm 2001 được 1.827 triệu đồng, năm
2002 được 1.735 triệu đồng, năm 2003 được 1.900 triệu đồng, năm 2004 được 4.213
triệu đồng.
Thực ra, nguồn huy động từ phát hành các loại giấy tờ có giá này tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tuần giáo chưa có hiệu quả, bởi nhiều nguyên
do:
Do Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tỉnh Điện biên chỉ là một chi
nhánh trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam, Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tuần giáo chỉ là một chi nhánh cấp II chịu
sự quản lý của Ngân hàng Điện biên do vậy quy mô rất nhỏ.
Ngoài ra, nhu cầu vốn chưa thực sự lớn, cùng nhiều nguyên nhân khác khiến cho hoạt
động huy động vốn này chưa phát huy hiệu quả.
2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo:
Số liệu tổng hợp được thống kê trong bảng sau
Bảng 3: Bảng thống kê số liệu từ năm 2000 đến năm 2004
( Đơn vị: Triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm
2000
2001 2002 2003 2004
T/hiện (+,-) % T/hiện (+,-) % T/hiện (+,-) % T/hiện (+,-) %
A.Tổng nguồn
vốn
16.659 23.799 7.140 43 28.614 4.815 20 26.726 (1.888) (7) 39.970 13.244 50
1.Nguồn vốn tự có 12.399 16.662 4.263 34 19.012 2.350 141 20.350 1.388 7 22.759 2.409 12
+Không kỳ hạn 3.935 4.733 798 20 12.371 7.638 175 12.060 311 (3) 14.377 2.317 19
+Có KH<12T 2.927 2.068 (859) (29) 2.327 113 5 3.233 906 39 3.530 297 9
+Có KH>12T 5.477 9.821 4.334 79 4.314 (5.507) (56) 5.061 747 17 4.852 (209) (4)
2.Nguồn vốn khác 4.260 7.137 2.877 68 9.602 2.465 35 6.376 (3.2260 (34) 17.211 10.835 17
+TCKBNN,BHXH 3.799 4.638 869 23 5.602 934 20 4.231 (1.371) (24) 10.320 6.089 144
+TG khác 41 2.469 2.008 436 4.000 1.531 62 2.145 (1.855) (46) 6.891 4.746 2
Bảng 4: Bảng thống kê dư nợ cho vay và dư nợ quá hạn
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2000
2001 2002 2003 2004
T/hiện +,- % T/hiện +,- % T/hiện +,- % T/hiện +,- %
A.Tổng
dư nợ
cho vay
23.374 38.791 15.417 66 63.515 2.474 64 80.493 16.978 27 99.565 19.072 24
+Ngắn
hạn
7.038 14.561 7.523 107 30.201 15.640 107 46.086 15.885 53 43.259 (2.827) (6)
+Trung
hạn
16.336 24.230 7.894 48 33.314 9.084 37 34.407 1.093 3 56.306 21.899 64
B.Dư nợ
quá hạn
529 64 465 (88) 60 (4) (6) 187 127 212 200 13 7
(Để cho thuận tiện trong phân tích so sánh lập thêm bảng số 4)
Từ bảng trên ta thấy:
Chênh lệch giữa vốn huy động được và dư nợ cho vay:
16659
23374 23799
38791
28614
63515
26726
80493
39970
99565
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
90000
100000
Nguån vèn/D nî
N¨m
BiÓu ®å so s¸nh tæng nguån vèn vµ d nî cho
vay( triÖu ®ång)(biÓu ®å 1)
Nhìn vào bảng số liệu cho thấy vốn huy động được luôn nhỏ hơn dư nợ cho
vay. Chênh lệch này thấp nhất là vào năm 2000 và lên đến cao nhất là năm 2004,
cụ thể là: Năm 2000 chênh lệch là 6.715 triệu, năm 2001 là 14.992 triệu, năm
2002 là 34.901 triệu, năm 2003 là 53.767 triệu, năm 2004 là 59.595 triệu.
2000 2001 2002
2003 2004
Số chênh lệch này ngày càng tăng lên, dư nợ ngày càng lớn hơn so với
nguồn vốn, ngân hàng luôn ở trong tình trạng thiếu vốn
Tốc độ tăng nguồn vốn, dư nợ cho vay và tăng nguồn vốn so với dư nợ cho
vay:
+ Tăng nguồn vốn:
Năm
Tăng tuyệt đối so với năm
2000(Triệu đồng)
01 7140
02 11955
03 10067
04 23311
1 2 3 4
7140
11955
10067
23311
0
5000
10000
15000
20000
25000
Sè t¨ ng tuyÖt
®èi(TriÖu ®ång)
N¨m
BiÓu ®å ph¶n ¸nh t¨ng nguån vèn (biÓu ®å 2 )
Nhìn chung với vốn huy động được qua các năm đều tăng, song tăng không
đều đặn:
Năm 2001 so với năm 2000 tăng tuyệt đối là 7.140 triệu, tăng tương đối là
43%; Năm 2002 so với năm 2001 tăng tuyệt đối là 4.815 triệu, tăng tương đối là
20%; Năm 2003 so với năm 2002 tăng tuyệt đối là (1.888)triệu, tăng tương đối là
(7)%; Năm 2004 so với năm 2003 tăng tuyệt đối là 13.244 triệu, tăng tương đối
là 50%.
Trong đó đáng chú ý là năm 2003 vốn huy động lại giảm(số tuyệt đối giảm
1.888 triệu, số tương đối giảm 7%)
+ Tốc độ tăng dư nợ cho vay:
Năm
Tăng tuyệt đối so với năm 2000(triệu
đồng)
01 15417
02 17891
03 34869
04 36776
1 2 3 4
15417
17891
34869
36776
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
sè t¨ ng tuyÖt
®èi d nî
N¨m
BiÓu ®å ph¶n ¸nh t¨ng d nî cho
vay( biÓu ®å 3 )
Tăng dư nợ cho vay về số tuyệt đối vẫn tăng dần qua các năm(năm 2001 so
với năm 2000 tăng là 15.417 triệu, năm 2002 so với 2001 là 2.479 triệu, năm
2003 so với năm 2002 là 16.987 triệu, năm 2004 so với năm 2003 là 19.072 triệu.
Tuy vậy về số tương đối thì lại giảm dần qua các năm(năm 2001 so với năm
2000 tăng 66%, năm 2002 so với năm 2001 tăng 64%, năm 2003 so với năm
2002 tăng 27%, năm 2004 so với năm 2003 tăng 24%.
Qua xem xét tốc độ tăng nguồn vốn và tốc độ tăng dư nợ cho vay có thể
thấy tốc độ gia tăng dư nợ cho vay nhanh hơn là nguồn vốn nhưng chỉ có một
điểm khác là tăng tương đối nguồn vốn thì không đều đặn, tăng tương đối dư nợ
là giảm dần.
Về cơ cấu nguồn:
Một số biểu đồ thể hiện cơ cấu nguồn vốn qua các năm:
c¬ cÊu nguån vèn n¨m 2000( triÖu ®ång)(h1)
41(TG khac)
3799(TGKBNN,BHX
H)
5477(KH>12t)
2927(KH<12t)
2935(KKH)
kkh
c¬ cÊu nguån vèn n¨m 2001( TriÖu ®ång)(h2)
4733
2068
9821
4638
2469
c¬ cÊu nguån vèn n¨m 2002( TriÖu ®ång)(H3)
12371
23274314
5602
4000
c¬ cÊu nguån vèn n¨m 2003( triÖu ®ång)(h4)
12060
3233
5061
4231
2145
C¬ cÊu nguån vèn n¨m 2004 (triÖu ®ång)(H5)
14377
3530
4852
10320
6891
Trong tổng nguồn vốn huy động được, nguồn vốn tiền gửi luôn chiếm tỷ
trọng lớn(năm 2000 nguồn vốn tiền gửi là 12.399 triệu, năm 2001 là 16.662 triệu,
năm 2002 là 19.012 triệu, năm 2003 là 20.350 triệu, năm 2004 là 22.759 triệu.).
Trong đó tiền gửi không kỳ hạn thường chiếm tỷ trọng lớn(năm 2000 tiền gửi
không kỳ hạn là 3.935 triệu, năm 2001 là 4.733 triệu, năm 2002 là 12.371 triệu,
năm 2003 là 12.060 triệu, năm 2004 là 14. 377 triệu.).
Còn tiền gửi tiết kiệm chiếm khối lượng nhỏ, trong đó tiền gửi tiêt kiệm nhỏ
hơn 12 tháng có phần lớn hơn.
Về dư nợ cho vay:
Trong dư nợ cho vay tại ngân hàng không có dư nợ dài hạn, trong đó dư nợ
trung hạn lớn hơn dư nợ ngắn hạn.
Dư nợ ngắn hạn(năm 2000 là 7.038 triệu, năm 2001 là14.561 triệu, năm
2002 là 30.201 triệu, năm 2003 là 46.086 triệu, năm 2004 là 43.254 triệu.), dư nợ
trung hạn( năm 2000 là16.336 triệu, năm 2001 là 24. 230 triệu, năm 2002 là 33.
314 triệu, năm 2003 là 34.407 triệu, năm 2004 là 56.306 triệu.).
2.2.1 Những mặt được, tồn tại và nguyên nhân:
Sau 16 năm xây dựng, đối mặt với bao khó khăn thách thức của cơ chế thị
trường, được sự lãnh đạo, giúp đỡ của ngân hàng cấp trên và cấp uỷ, chính quyền
địa phương, cùng với sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ, nhân viên ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tuần giáo đã tự khẳng định được
mình, trưởng thành và phát triển đi lên.
Thực hiện phương châm đi vay rồi lại cho vay Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn huyện Tuần giáo đã tập trung đẩy mạnh công tác huy động
nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn tự lực trên địa bàn. Đa dạng hoá các hình thức
huy động vốn, sử dụng linh hoạt các loại lãi suất, đi đôi với đổi mới phong cách
giao dịch, lề lối làm việc, tăng cường công tác tuyên truyền tiếp thị, đầu tư trang
thiết bị và công nghệ ngân hàng phục vụ tiện ích khách hàng nhanh chóng, tiện
lợi. Nhờ vậy nguồn vốn huy động trên địa bàn ngày càng tăng trưởng nhanh, năm
sau cao hơn năm trước. Chỉ tính đến tháng 8 năm 2002 tổng nguồn vốn huy động
đạt 23.682 triệu đồng, tăng 30 lần so với ngày mới thành lập. Trong đó nguồn
vốn nội lực đạt 17.616 triệu đồng, tăng 22,5 lần, bình quân hàng năm tăng
152,4%. Nguồn vốn tăng trưởng khá và vững chắc, tạo điều kiện để mở rộng cho
vay, đáp ứng nhu cầu vốn trên địa bàn.
Từ những hình thức mà NHNo&PTNT huyện Tuần Giáo đã áp dụng để huy
động vốn và kết quả hoạt động huy động vốn ở trên rút ra một số tồn tại và
nguyên nhân của những tồn tại như sau:
+ Tồn tại:
- Hình thức huy động vốn tại ngân hàng còn ít, chưa có nhiều nghiệp vụ như các
ngân hàng ở các trung tâm đô thị lớn. Công tác marketing ngân hàng còn chưa
được phát huy một cách tối đa để huy động nguồn vốn nội lực sẵn có trên địa bàn
vốn đã ít ỏi.
- Nguồn vốn huy động được qua các năm chưa đủ để cho vay.
- Nợ quá hạn vẫn còn, trong một số năm trên nợ quá hạn còn kéo dài chưa sử lý
được.
- Trong cơ cấu nguồn vốn huy động tiền gửi thanh toán vẫn chiếm tỷ trọng lớn
nhưng tiền gửi loại này do không có kỳ hạn nên ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong khâu lập kế hoạch sử dụng vốn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn vẫn chưa
linh hoạt thay đổi kỳ hạn để phù hợp với từng loại khách hàng từng trường hợp
cụ thể thực tế chủ yếu vẫn là các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng là
chủ yếu chỉ gần đây ngân hàng mới đưa ra kỳ hạn linh hoạt phù hợp với từng loại
khách hàng.
- Nguồn tiền gửi tiết kiệm huy động của cán bộ công nhân viên trong nội bộ ngân
hàng tuy đã có nhưng vẫn chưa lớn, cần phải tận dụng tối đa nguồn này.
- Hình thức huy động vàng trong dân cư chưa có, hiện nay ước tính lượng vàng
trong dân cư có thể là không nhỏ.
- Mạng lưới hoạt động còn hạn hẹp(hiện trong huyện chỉ có trụ sở tại thị trấn
huyện Tuần Giáo, một chi nhánh cấp III tại trị trấn Mường ẳng, ban lãnh đạo
ngân hàng đang trình bản kế hoạch lên lãnh đạo huyện uỷ xin mở thêm chi nhánh
cấp III tại thị tứ Huổi lóng trong năm 2005).
+ Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, huyện Tuần Giáo là một huyện thuộc tỉnh Điện biên là một huyện
miền núi, gần đây lại tách tỉnh(từ tỉnh Lai châu tách làm hai tỉnh đó là: Tỉnh Điện
biên và tỉnh Lai châu), dân cư trong vùng chủ yếu là đồng bào là các dân tộc
thiểu số(người dân tộc thái chiếm đa số) trình độ dân trí thấp chủ trương đường
lối của Đảng và nhà nước đến với người dân còn hạn chế.
Thứ hai, tại huyện Tuần Giáo hiện nay chỉ có NHNo&PTNT huyện và một
phòng giao dịch của Ngân hàng chính sách xã hội mới mở nhưng hoạt động chủ
yếu nhờ vào nguồn uỷ thác, ngoài ra có Bưu điện với các hình thức huy động tiết
kiệm và bảo hiểm cũng có mặt. Do đó tính cạnh tranh chưa cao, đã không tạo
động lực thúc đẩy ngân hàng trong khâu huy động vốn.
Thứ ba, NHNo&PTNT huyện Tuần Giáo được thành lập từ năm 1988 cho
đến nay tuy đã được 16 năm nhưng so với các ngân hàng khác chưa có bề dày
tích luỹ, lại liên tục phải điều cán bộ lên tỉnh và đi các đơn vị khác nên đã gặp
không ít khó khăn.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, mức thu nhập của người dân còn thấp nên lượng tiền gửi tiết kiệm
vào ngân hàng nhỏ. Đặc biệt là nhu cầu thanh toán của người dân còn chưa nhiều
chủ yếu vẫn dùng tiền mặt trong thanh toán trực tiếp. Người dân còn chưa có thói
quen thanh toán qua ngân hàng họ chủ yếu chỉ sử dụng các dịch vụ hêt sức đơn
giản và các hoạt động tín dụng vay mượn là chủ yếu.
Thứ hai, trình độ của một số cán bộ còn hạn chế đặc biệt là khâu thẩm định
đánh giá tài sản của khách hàng vay đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động phát
triển nguồn vốn của ngân hàng.
Thứ ba, mạng lưới huy động chưa rộng như đã nêu trên do địa hình phức tạp
chủ yếu là núi non hiểm trở và thưa dân nhiều khu vực tình hình trật tự trị an còn
phức tạp là lý do ngân hàng không thể mở thêm chi nhánh đã làm cho việc huy
động vốn rất hạn chế.
Thứ tư, do hiện nay ngân hàng chỉ có dịch vụ mở tài khoản tiền gửi thanh
toán, gửi tiền tiết kiệm dự giải thưởng trúng vàng và chuyển tiền điện tử. Các
dịch vụ khác như đổi tiền, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh, cho thuê tài sản, kinh
doanh chứng khoán, chiết khấu,... vẫn chưa có mà các nguồn này nếu có lại là
nguồn tạo vốn rất lớn cho ngân hàng. Chính vì vậy là lý do công tác phát triển
nguồn vốn thêm phần hạn chế.
ch¬ng Iii
giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại nhno&PTNT huyện
tuần giáo
3.1 Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT
huyện Tuần Giáo:
Trên cơ sở định hướng chiến lược kinh doanh năm 2005 của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn tỉnh Điện biên và kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh
doanh năm 2004 của chi nhánh, tập thể CBCNV Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn huyện Tuần giáo đề ra các mục tiêu, giải pháp quan trọng nhằm
ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2005,
cụ thể như sau:
(1) Nguồn vốn tự huy động trên địa bàn tăng trưởng từ 18-20%; Đến cuối năm
đạt từ 26-27 tỷ.
(2) Dư nợ tăng trưởng từ 18-20%; Đến cuối năm tổng dư nợ đạt từ 117 tỷ đến
119 tỷ đồng.
(3) Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ.
(4) Kinh doanh có lãi, đảm bảo đủ hệ số tiền lương theo quy định của nghành.
Ngoài ra ban giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phất triển nông thôn
huyện Tuần giáo đã có những chủ chương riêng trong công tác huy động nguồn
vốn đó là:
Trước hết, mục tiêu đặt ra là gia tăng nguồn vốn để giải quyết tình trạng mất
cân đối giữa nguồn vốn và dư nợ cho vay. Phát huy tối đa nguồn vốn nội lực
giảm thiểu nguồn vốn khác để tránh phải trả mức phí cao. Không chỉ tìm cách gia
tăng nguồn vốn mà còn tìm cơ hội cho vay và đầu tư sao cho thật cân đối giữa
vốn huy động và cho vay.
Có giải pháp thích hợp trong huy động vốn để cạnh tranh với ngành Bưu
điện, Bảo hiểm bởi vì hiện nay dịch vụ bưu điện cũng rất thuận tiện, cước phí
cũng rẻ, không phải dự trữ, không đầu tư ngay mà chuyển thẳng cho Bộ tài chính
nên cũng là một vấn đề quan trọng trong định hướng huy động vốn của ngân
hàng.
Đảm bảo một mức thích hợp trong cơ cấu nguồn vốn để tránh chi phí nguồn
vốn lớn đồng thời vẫn đạt được mục tiêu đặt ra về huy động vốn.
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện
Tuần Giáo:
Phát huy hơn nữa những thành tích đã đạt được trong năm qua, tập thể
CBCNV Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tuần giáo ra sức
phấn đấu thi đua chào mừng những ngày lễ lớn của đất nước, đặc biệt chào mừng
kỷ niệm 75 năm ngày thành lập ĐCSVN, tiến tới đại hội Đảng các cấp. Nghiêm
túc thực hiện tốt 17 giải pháp của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt nam và 8 giải pháp chính của Ngân hàng nông nghiệp tỉnh đã nêu trong báo
cáo tổng kết năm 2004 của Ngân hàng cấp trên. Chi nhánh cụ thể hoá và chú
trọng các giải pháp như sau:
(1) Bám sát mục tiêu chiến lược kinh doanh của nghành và mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của địa phương. Tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền địa phương và ngân hàng nông nghiệp cấp trên, tăng cường sự phối hợp
giữa các ban nghành đoàn thể trên địa bàn chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của
chi nhánh có hiệu quả.
(2) Công tác huy động vốn: áp dụng nhiều hình thức huy động và sử dụng linh
hoạt nhiều loại lãi suất có tính hấp dẫn để thu hút khách hàng. Tăng cường công
tác thông tin tuyên truyền, tiếp thị tới đông đảo nhân dân nắm được chính sách,
tiện ích, an toàn của tiền gửi. Phong cách giao dịch luôn tận tình, chu đáo hiệu
quả. Tổ chức màng lưới huy động tại các điểm đông dân cư, như: Thị tứ Minh
Thắng-xã Quài nưa; Thị tứ xã Búng lao và Thị tứ Huổi lóng-xã Mùn chung; Giáo
khoán chỉ tiêu huy động nguồn vốn đến tổ nhóm và từng cán bộ tín dụng. Thực
hiện tốt chiến lược khách hàng trên tất cả các lĩnh vực nhằm tăng trưởng nguồn
vốn đáp ứng yêu cầu kinh doanh của chi nhánh.
(3) Công tác đầu tư tín dụng: Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho vay các thành phần
kinh tế trên địa bàn, đặc biệt đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay thành phần
kinh tế hộ gia đình, đảm bảo cung ứng tín dụng nhanh chóng, kịp thời, tránh gây
phiền hà cho khách hàng. Đồng thời coi trọng việc kiểm tra, kiểm soát về hoạt
động tín dụng, tập trung chấn chỉnh và nâng cao chất lượng trong công tác đầu
tư.
Trong công tác đầu tư tín dụng việc thẩm định khách hàng và dự án đầu tư phải
được coi trọng hàng đầu.
(4) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trên tất cả các mặt nghiệp vụ, tổ
chức phân tích đánh giá đúng thực trạng nợ trong hạn, nợ đã được điều chỉnh và
gia hạn nợ.
(5) Nâng cao năng lực tài chính, đầu tư cho vay mang lại hiệu quả, thu lãi tiền
vay đảm bảo đạt 95% kế hoạch trở lên.
(6) Thường xuyên và tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm, nhận thức đúng đắn về văn hoá Doanh nghiệp
trong kinh doanh.
(7) Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong Doanh nghiệp, phát huy tinh thần đoàn
kết thống nhất cao giữa chi bộ Đảng, chuyên môn và các tổ chức đoàn thể.
Kết luận
Qua nghiên cứu thực trạng nguồn vốn và công tác phát triển nguồn vốn tại
NHNo&PTNT huyện Tuần Giáo trong một vài năm gần đây(từ năm 2000 đến
năm 2004) những câu hỏi đặt ra đã được giải đáp.
Thực trạng nguồn vốn huy động tại đơn vị đã được làm rõ. Tất cả các số
liệu thu thập được mặc dù chỉ là con số thời điểm(vào ngày 31/12 hàng năm),
nhưng nó cũng phần nào phản ánh thực trạng hoạt động huy động vốn tại đơn vị.
Còn việc đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh trong địa
bàn đơn vị phụ trách chưa? thì có thể đưa ra câu trả lời đó là chưa bởi vì thực
trạng những năm qua ngân hàng luôn ở trong tình trạng thiếu vốn do còn một số
những khó khăn nhất định đã phân tích trên đây.
Những thuận lợi và khó khăn trong công tác huy động vốn nói riêng và
trong hoạt động của ngân hàng huyện nhà nói chung đã được phân tích rõ nhưng
cần thấy thêm một điều đó là hiện tại tính cạnh tranh tại địa phương còn chưa
cao, số lượng các Doanh nghiệp làm ăn lớn tại địa bàn còn ít nên rủi ro trong
hoạt động ngân hàng còn nhỏ, tuy thế với tốc độ phát triển kinh tế như hiện tại thì
trong tương lai gần đây nền kinh tế sẽ phát triển rất nhanh, vì vậy bản thân ngân
hàng cần có những cải tổ về tất cả các mặt để nhanh chóng nắm bắt lấy cơ hội và
giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Riêng bản thân em nhận thấy: Kinh tế huyện nhà trên cả số liệu trong báo
cáo tình hình kinh tế xã hội của huyện nhà và thực tế những gì thấy được sự biến
chuyển của nền kinh tế tại huyện Tuần Giáo trong những năm gần đây có tốc độ
phát triển là tương đối cao, số lượng các Doanh nghiệp trước đây rất ít chỉ với 4
Doanh nghiệp, nhưng cho đến nay đã có 10 Doanh nghiệp trong đó có 7 Doanh
nghiệp là Doanh nghiệp tư nhân, 3 Doanh nghiệp Nhà nước. Tuy con số Doanh
nghiệp là ít ỏi so với các khu vực khác nhưng đối với một huyện miền núi thì đó
là con số rất đáng khích lệ. Vì đối tượng này là đối tượng thường xuyên giao dịch
với ngân hàng và giao dịch với khối lượng lớn.
Trình độ dân trí của người dân đã được nâng lên đáng kể, cơ sở vật chất kỹ
thuật của huyện ngày càng được hoàn thiện...
Với tình hình trên, ngoài những định hướng và giải pháp trong thời gian tới
ở trên em thiết nghĩ ngân hàng nên nhìn nhận lại một cách cụ thể tất cả các
nguồn có thể huy động, cân nhắc chi phí huy động với lợi nhuận thu được, mạnh
dạn đưa thêm các loại hình dịch vụ mới như: cho thuê tài sản, bảo lãnh, cung cấp
thử một số dịch vụ thẻ thử nghiệm thị trường bởi vì trên địa bàn huyện hiện nay
lượng người có trình độ văn hoá tương đối cao và có thu nhập từ trung bình trở
lên không phải là nhỏ...nhưng vẫn trên cơ sở đảm bảo giảm thiểu rủi ro và tối đa
lợi nhuận cho ngân hàng.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “Ngân hàng thương mại” do TS Phan Thị Thu Hà khoa ngân hàng
tài chính trường đại học kinh tế quốc dân chủ biên, NXB Thống kê-8/2004.
2. “tiền tệ, ngân hàng & thị trường tài chính”, frederic s.mishkin.
3. “Nghiệp vụ ngân hàng trung ương”-Hoàng Xuân Quế-Khoa ngân hàng tài
chính trường đại học kinh tế quốc dân, NXB Thống kê Hà nội/2003.
4. “Quản trị ngân hàng thương mại”-Piter S.Rose-NXB Tài chính.
5. “Sổ tay tín dụng ngân hàng nông nghiệp &phát triển nông thôn việt nam”.
6. “báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2000, 2001, 2002, 2003,
2004”
Error! Mục lục
Lời mở đầu 0
chương I hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế 3
1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: 3
1.1.1 Khái niệm: 3
1.1.2 Các loại hình ngân hàng thương mại: 3
1.1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
5
1.1.4 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại: 7
1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại: 12
1.2.1 Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại: 12
1.2.2 Các hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại: 17
1.2.3 Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường: 26
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại: 27
chương Ii thực trạng hoạt động huy động vốn tại nhno & ptnt
huyện tuần giáo – Tỉnh điện biên 32
2.1 Khái quát chung về NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo – Tỉnh Điện
Biên: 32
2.1.1 Quá trình phát triển của NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo: 32
2.1.2 Các hình thức huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo:
34
2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần
Giáo: 38
2.2.1 Những mặt được, tồn tại và nguyên nhân: 53
chương Iii giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại
nhno&PTNT huyện tuần giáo 56
3.1 Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT
huyện Tuần Giáo: 56
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện
Tuần Giáo: 57
Kết luận 58
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên.pdf