Tài liệu Luận văn Tìm một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay: 1
Luận văn
Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đội
ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao ở
nước ta hiện nay
2
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá là một quá trình tất yếu tiến lên của mọi
quốc gia phù hợp với xu thế chung của lịch sử phát triển của nhân loại. Tại
hội nghị Trung ương lần thứ VII khoá VII đồng chí Đỗ Mười phát biểu có
đoạn nói "Có thể coi công nghiệp hoá là phương tiện để chuyển tải công nghệ
mới vào cuộc sống, để làm được việc này điều quyết định là ở con người. Qua
đây chúng ta có thể hiểu sâu sắc rằng nâng cao cả mặt bằng dân trí và đỉnh
cao dân trí bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH - HĐH cũng ghi rõ"... đào
tạo bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn
lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng một đội ...
54 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 897 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đội
ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao ở
nước ta hiện nay
2
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá là một quá trình tất yếu tiến lên của mọi
quốc gia phù hợp với xu thế chung của lịch sử phát triển của nhân loại. Tại
hội nghị Trung ương lần thứ VII khoá VII đồng chí Đỗ Mười phát biểu có
đoạn nói "Có thể coi công nghiệp hoá là phương tiện để chuyển tải công nghệ
mới vào cuộc sống, để làm được việc này điều quyết định là ở con người. Qua
đây chúng ta có thể hiểu sâu sắc rằng nâng cao cả mặt bằng dân trí và đỉnh
cao dân trí bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH - HĐH cũng ghi rõ"... đào
tạo bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn
lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng một đội
ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý
giỏi và các nhà khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao...
Động viên sự cống hiến của đồng bào Việt Nam ở nước ngoài góp phần tích
cực xây dựng quê hương xứ sở".
Nhu cầu lao động lành nghề, lao động có chuyên môn kỹ thuật cao là
nhu cầu tất yếu phổ biến cho mọi thời đại, nhưng trong thời kỳ khoa học kỹ
thuật phát triển như vũ bão thì nhu cầu này ngày càng to lớn và bức thiêtài sản
để thích ứng kịp thời với những biến đổi mới. Do đó, xu hướng chung của thế
giới hiện nay là phải học suốt đời, giáo dục trước, việc làm sau. Vấn đề then
chốt để đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh trước hết là chất lượng: chất
lượng sản phẩm, chất lượng công việc mà chất lượng thì không thể tránh khỏi
chủ thể tạo ra nó là con người, là trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Mọi tài
nguyên đều có hạn, chỉ có sức sáng tạo của con người là vô hạn". Đó là một
triết lý. Vì lẽ đó, khi bàn đến chiến lược phát triển kinh tế ở mọi thời đại
người ta thường nói đến yếu tố con người, đến vai trò của lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao.
3
Việt Nam ta từ xưa có truyền thống coi trọng người hiền tài, ngày nay
càng có nhu cầu to lớn và bức thiết đối với người hiền tài, người lao động có
kỹ thuật cao để vươn tới ngang tầm khu vực và thế giới, đứng vững và cạnh
tranh thắng lợi trong cạnh tranh của nền kinh tế thị trường.
Vì vậy cần đánh giá đúng thực trạng tình hình cung và cầu sức lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trên cơ sở đó, phát huy hơn nữa mặt
mạnh, bổ khuyết vào mặt yếu để tiếp tục phát triển bền vững.
Đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay" là một
lĩnh vực bao gồm nhiều vấn đề rộng lớn, đa dạng và phức tạp.
Bài viết này chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề nhằm đạt được
những mục tiêu sau:
Phân tích, đánh giá về thực trạng đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội
ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và những yếu tố cơ bản tác
động tới đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong nền kinh
tế thị trường.
Khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta trong giai đoạn từ nay
đến 2010.
Đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao.
Chương II: Một số nét chủ yếu về thực trạng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay.
4
MỤC LỤC
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÓ
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO .......................................... 7
1. Tầm quan trọng của lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao ................................................................................................. 7
2. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ........................... 8
2.1. Một số khái niệm có liên quan và đặc trưng của nó ....................... 8
2.2. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ........... 11
3. Các yếu tố tác động đến cung cầu của lực lượng lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao. ..................................................................... 14
3.1. Các yếu tố tác động đến cung lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao ....................................................................................................... 14
3.2. Các yếu tố tác động đến cầu ........................................................ 15
Chương II: MỘT SỐ NÉT CHỦ YẾU VỀ THỰC TRẠNG LAO
ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO ....................... 17
I. Cung và các nhân tố tác động tới cung lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao .......................................................................... 17
1. Thực trạng về đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao ................................................................................................ 17
1.1. Đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong
giai đoạn trước đổi mới (1986) ..................................................................... 17
1.2. Trong giai đoạn sau đổi mới ........................................................ 18
2. Một số mặt hạn chế đối với nguồn cung lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao ........................................................................... 19
2.1. Số lượng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao . 19
5
2.2. Cơ cấu lực lượng lao động có trình độ cao .................................. 19
2.3. Chất lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao .......... 21
II. Cầu và các nhân tố tác động tới cầu ........................................... 22
1. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và sự
phân bố ở nước ta hiện nay. ....................................................................... 22
1.1. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ........... 11
1.2. Tình hình phân bố lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở
nước ta hiện nay. .......................................................................................... 23
2. Thực trạng việc làm và sử dụng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay ................................................................. 24
2.1. Thực trạng việc làm ..................................................................... 24
2.2. Thực trạng sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao ....................................................................................................... 25
3. Sự dịch chuyển đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao và tác động của nền kinh tế thị trường đến sự dịch chuyển .... 26
3.1. Sự dịch chuyển đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao .. 26
3.2. Tác động của nền kinh tế thị trường đến sự dịch chuyển của lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ................................... 28
3.3. Ưu nhược điểm của sự dịch chuyển lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao .......................................................................................... 29
4. Nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thời kỳ
1996 - 2000 .................................................................................................. 31
4.1. Về cơ cấu ngành kinh tế .............................................................. 31
4.2. Về cơ cấu thành phần kinh tế ....................................................... 32
4.3. Về cơ cấu công nghệ ................................................................... 32
6
III. Hệ thống chính sách tác động đến cung cầu lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay ...................................... 33
1. Chính sách về giáo dục - đào tạo ................................................. 33
2. Chính sách về tiền lương và đãi ngộ đối với lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao. .......................................................................... 33
3. Chính sách tuyển dụng, sử dụng và phân bổ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao. .......................................................................... 35
4. Những chính sách về phát triển kinh tế thị trường .................... 36
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM SỬ DỤNG CÓ HIỆU
QUẢ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ
THUẬT CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ..................................................... 37
I. Một số nhận xét cơ bản qua đánh giá thực trạng lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta .............................. 37
II. Khuyến nghị một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao .............................. 38
A. Những giải pháp thuộc về GD - ĐT.............................................. 39
1. Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nguồn lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao .............................................................................. 39
2. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục - đào tạo, tăng cường phát hiện bồi
dưỡng và đào tạo nhân tài ............................................................................. 40
3.Phải gấp rút đào tạo một lực lượng chuyên gia dẫn đầu trong từng
ngành, lĩnh vực, đặc biệt là những ngành mũi nhọn ...................................... 40
4. Đa dạng hoá nguồn cung ứng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao ....................................................................................................... 41
7
5. Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế để trao đổi khoa
học với nước ngoài nhằm nâng cao tri thức cho các nhân tài và người lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ................................................... 41
B. Những giải pháp nhằm sử dụng, tuyển dụng, phân bổ lực lượng
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ........................................... 42
1. Các ngành các cấp các đơn vị sản xuất kinh doanh phải nhận thức sâu sắc
hơn nữa vai trò của lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao......... 42
2. Đa dạng hoá cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao 42
3. Thực hiện tốt khâu tuyển dụng lao động vào khu nvực Nhà nước một
cách chặt chẽ và nghiêm túc ......................................................................... 43
4. Tạo điều kiện và môi trường làm việc, sinh hoạt thuận lợi để lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao phát huy tối đa năng lực làm việc
của mình ....................................................................................................... 43
C. Các giải pháp thuộc về chính sách Nhà nước .............................. 44
1. Tiến hành rà soát lại để tiếp tục hoàn thiện chế độ tiền lương trong
các doanh nghiệp và cơ quan để có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với tài năng
và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nói chung ........................ 44
2. Chính sách đầu tư ........................................................................... 45
3. Các chính sách khác. ...................................................................... 45
D. Các giải pháp khác ....................................................................... 46
KẾT LUẬN ................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 51
8
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ
CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO
1. Tầm quan trọng của lực lượng lao động có trình dodọ chuyên
môn kỹ thuật cao.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong giai đoạn tiếp tục đổi mới phát
triển một bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá, mở cửa và đang phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Chúng ta đã là thành viên chính thức của
ASEAN, dang cùng thế giới bước vào thế kỷ 21 trong xu hướng ngày càng
khu vực hoá, quốc tế hoá.
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên vi tính, điện tử, thông tin, sinh học,
hoá học, vật lý siêu dẫn... làm cơ sở phát triển. Chúng ta phải nhanh chóng
tiếp cận, nắm bắt khoa học công nghệ hiện đại, trước hết là những khâu quyết
định để khỏi bị tụt hậu, phải tạo ra nguồn cung lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao cần thiết và đủ cho những mũi nhọn đã được lựa chọn,
những ngành công nghiệp với công nghệ cao. Phải tạo nội lực mạnh mẽ để
hoàn nhập với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Thông qua hoà
nhập mà làm cho nội lực thêm mạnh, bảo đảm sự phát triển đi lên theo đúng
quy luật. Nội lực đó chính là con người, là nguồn lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao. Bởi vì chúng ta đã biết con người là nhân tố quyết định, là
động lực to lớn nhất, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh
thần của xã hội. Vì vậy, nếu phát huy cao độ nhân tố con người thì sẽ tạo nên
một đất nước luôn phồn vinh giàu có. Khi đã đánh giá vai trò của con người
chúng ta coi con người là vốn quý nhất thì người lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao lại là vốn quý nhất của những vốn quý nhất. Đó là chân lý
phổ biến xưa kia cũng vậy, ngày nay cũng vậy và sau này cũng vậy.
9
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao không chỉ là vốn quý
của bản thân người đó mà còn là vốn quý của đơn vị sử dụng, của dân tộc, của
quốc gia. Lao động có trình độ chuyê môn kỹ thuật cao là lực lượng sản xuất,
là động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội, xây dựng bảo vệ tổ
quốc, là quân chủ lực thực hiện các quốc sách hàng đầu, là xúc tác nâng cao
tiềm lực về mặt bằng trí tuệ của các tầng lớp nhân dân.
Một tấm bia ở Văn Miếu ta đã khắc "Các bậc hiền nhân tài giỏi là yếu
tố cốt tử đối với một chỉnh thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước ta tăng
tiến mạnh mẽ, phồn vinh. Khi yếu tố này yếu kém thì quyền lực đất nước bị
suy giảm... những người tài giỏi là một sức mạnh quan trọng đối với một đất
nước".
Nếu nhìn ra thế giới, chúng ta sẽ thấy được vai trò của người lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao lớn lao như thế nào, nó luôn là động lực
hàng đầu trong quá trình tăng trưởng và hiện đại hoá nền kinh tế. Không có
đất nước nào phát triển mà không cần đến đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao. Số lượng và chất lượng của đội ngũ lao động này tỷ
lệ thuận với sự phồn vinh, giàu có của mỗi đất nước. Vì vậy nó là trung tâm
của sự quan tâm chú ý, là nguồn tài nguyên quý giá nhất mà tất cả các quốc
gia cần phải khai thác.
2. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
2.1. Một số khái niệm có liên quan và đặc trưng của nó.
a. Thị trường lao động.
Thị trường theo nghĩa hẹp là nơi tiếp xúc giữa người bán và người mua,
là tổng hợp các sự thoả thuận thông qua đó người bán và người mua trao đổi
hàng hoá và dịch vụ. Theo nghĩa rộng là biểu hiện thu gọi của quá trình thông
qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các
quyết định của các Công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, và các
10
quyết định của các công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được trung hoà
bằng sự điều chỉnh của giá cả.
Thị trường lao động là một tất yếu của nền kinh tế thị trường. Cái cần
mua và bán ở đây là sức lao động - một loại hàng hoá đặc biệt, nó không
giống bất cứ một loại hàng hoá thông thường nào, bởi vì bản thân nó trước hết
là có giá trị sử dụng. Người lao động có thể là người chủ sử dụng chính sức
lao động của bản thân hoặc có thể bán sức lao động cho người khác.
b. Lao động.
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của
cải vật chất và các giá trị tinh thần để thoả mãn nhu cầu của bản thân và xã
hội, là hoạt động gắn liền với sự hình thành và phát triển của loài người. Lao
động có năng suất, chất lượng, hiệu quả là nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội. Nên lao động được coi là hoạt động chủ yếu, là quyền và nghĩa vụ
cơ bản của con người. Nhờ đó, từ nhiều thế kỷ nay đã hình thành bộ môn
khoa học riêng chuyên nghiên cứu về lao động gọi là khoa học lao động.
c. Sức lao động.
Sức lao động là khả năng về trí lực và thể lực của con người để tiến
hành lao động (được hiểu như là khả năng lao động).
Khả năng về thể lực bao gồm khả năng sinh công của cơ bắp và khả
năng chịu đựng các yếu tố bất lợi đến sức khoẻ do tải trọng công việc cũng
như các yếu tố có hại của điều kiện lao động, được quyết định bởi các tố chất
bẩm sinh của cơ thể, quá trình rèn luyện và môi trường điều kiện sống. Khả
năng về trí lực bao gồm khả năng hoạt động của trí óc, khả năng vận dụng tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, khả năng sáng tạo, tác phong, kỷ luật nghề nghiệp...,
khả năng ứng xử trong quan hệ lao động. Khả năng về trí lực được quyết định
bởi di truyền và các yếu tố bẩm sinh của cơ thể; quá trình học tập, rèn luyện,
tích luỹ kinh nghiệm, điều kiện sống và môi trường tự nhiên xã hội.
11
d. Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định
của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một
ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế
xã hội.
e. Nguồn lao động.
Nguồn lao động là toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm
và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất
nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu
cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ việc
hoặc nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ luật lao động).
f. Lực lượng lao động.
Lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người thất nghiệp. Lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn
lao động.
g. Việc làm.
Việc làm là mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Người có việc làm là người làm việc trong mọi lĩnh vực ngành nghề,
đang hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, mang lại thu nhập nuôi
sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội.
h. Thất nghiệp.
Thất nghiệp là tình trạng một bộ phận trong lực lượng lao động muốn
làm việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức tiền công không thấp
hơn mức lương tối thiểu hiện hành. Thất nghiệp là do cung cầu lao động vượt
quá hoặc không phù hợp về cơ cấu với cầu về lao động, làm cho một bộ phận
người lao động không tìm được việc làm.
12
k. Lao động có đào tạo.
Lao động có đào tạo là lao động có những thể chất cần thết được thông
qua một hoặc nhiều đào tạo về trình độ chuyên môn, tay nghề... và có thể đảm
nhiệm những công việc thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình.
m. Lao động không có đào tạo hay lao động phổ thông.
Lao động không có đào tạo là lao động có khả năng lao động nhưng
không được đào tạo qua bất kỳ một trường lớp nào, họ chỉ làm được những
công việc giản đơn mà không cần tới trình độ chuyên môn, tay nghề.
n. Lao động kỹ thuật.
Lao động kỹ thuật là lao động được thừa nhận có những thể chất cần
thiết, có sự hiểu biết kỹ năng trong lao động do được đào tạo chuyên môn và
tích luỹ kinh nghiệm trong thực tế để thực hiện công việc theo nguyên tắc với
công nghệ, trang thiết bị, công cụ riêng nhằm đáp ứng các yêu cầu về số
lượng, chất lượng, an toàn...
o. Lao động phức tạp.
Lao động phức tạp là lao động kỹ thuật có kỹ năng và kỹ sảo đặc biệt
thông qua đào tạo hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, đảm nhận được những
công việc rất phức tạp, đáp ứng được các yêu cầu phát triển của kỹ thuật công
nghệ.
p. Lao động giản đơn.
Lao động giản đơn là lao động có được đào tạo nhưng không chuyên
sâu, họ chỉ đảm nhận được những công việc giản đơn không cần kỹ năng kỹ
sảo đặc biệt.
q. Hiệu quả lao động.
Hiệu quả lao động là lượng giá trị do người lao động sáng tạo ra trong
một đơn vị thời gian lao động.
13
2.2. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
a. Khái niệm về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
Người ta chia lao động ra làm nhiều loại như lao động giản đơn, lao
động phức tạp, lao động trí óc, lao động chân tay...Lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao là loại lao động để chỉ những người lao động có
trình độ cao, lao động có chuyên môn kỹ thuật, là tầng lớp, trí thức, lao động
khoa học kỹ thuật, công nhân bậc cao lành nghề....
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là lao động được thừa
nhận có những thể chất cần thiết, có được trí thông minh và sự giáo dục cần
thiết và đã được sự khéo léo và những trí thức yêu cầu để thực hiện công việc
theo những định chuẩn đầy đủ về an toàn, số lượng và chất lượng.
Theo như luật giữ lao động thương binh xã hội của bộ lao động thương
binh xã hội định nghĩa.
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật có kỹ năng và kỹ xảo đặc biệt thông qua đào tạo hoặc
tích luỹ kinh nghiệm thực tế, đảm nhiệm được những công việc rất phức tạp,
đáp ứng được các yêu cầu phát triển của kỹ thuật công nghệ, có khả năng
truyền nghề và dạy nghề.
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao bao gồm những người
có trình độ cao đẳng, đại học, trên Đại học, Trung học chuyên nghiệp và công
nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
b. Đặc điểm của lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
b1. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được kết tinh trong
mọi sản phẩm hàng hoá (sản phẩm hàng hoá phải có hàm lượng công nghệ
cao) là yếu tố quyết trịnh trong cạnh tranh của nền kinh tế thị trường.
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao bao gồm lao động thể lực
và lao động trí óc. Trong nền sản xuất xã hội, lao động thể lực và lao động trí óc
14
được kết hợp chặt chẽ giữa hai loại lao động và trong cùng một người lao động. Nói
cách khác, mọi lao động đều có ý thức, có mục đích lấy chất lượng làm hàng đầu,
dù bằng thể lực hay trí óc là chủ yếu thì đạt trình độ mới cao, mới mong đứng vững
và thắng lợi trong cạnh tranh. Bởi vì muốn sản phẩm đứng vững và cạnh tranh được
trên thị trường quốc tế thì trong sản phẩm phải có hàm lượng trí tuệ cao. Người lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao không chỉ giàu cho mình, mà còn cho
mọi người, cho xã hội. Quốc gia nào có nhiều lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao thì quốc gia ấy thêm sức mạnh, xã hội nào có nhiều lao động có trình độ
thì xã hội đó văn minh.
b2. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là lao động thể hiện
chí thông minh, sự sáng tạo, kỹ năng, kỹ sảo của con người trong quá trình lao
động.
Sản phẩm của lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là sản
phẩm quý giá đưa lại lợi ích to lớn, có tác động mạnh đến sản xuất, công tác
và phát triển kinh tế xã hội. Rõ ràng người công nhân có trình độ cao tiếp thu
được dễ dàng kỹ thuật tiên tiến, làm ra sản phẩm có chất lượng cao, với số
lượng nhiều hơn người khác có trình độ thấp, có lợi cho bản thân, làm lợi cho
doanh nghiệp, cơ quan. Người kỹ sư, người quản lý có trình độ cao thì giảng
giải, điều hành được công nhân và mọi người lao động khác đạt và vượt yêu
cầu về năng xuất, chất lượng hiệu quả. Người thầy giáo có trình độ cao thì mở
rộng kiến thức sâu sắc cho người học, đào tạo ra những thế hệ giỏi giang, làm
nhân tố tích cực và năng động trong lực lượng sản xuất xã hội. Nhà khoa học
có trình độ cao mới tổng kết được thực tiễn đa dạng một cách đúng đắn, cung
cấp được thông tin và kiến giải khách quan có cơ sở khoa học cho Nhà nước,
hoặc cho đơn vị sử dụng lựa chọn giải pháp phù hợp, mới có được những phát
sinh sáng chế có giá trị cao.
b3. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là loại lao động cần
được đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm suốt đời.
15
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao không phải tự nhiên bản
thân sinh ra mà có, mà nó phải trải qua những thời gian đào tạo kiến thức nhất
định đồng thời nó còn phải cần có một thời gian dài thực tế với công việc để
có những kinh nghiệm, những kỹ năng, kỹ sảo, những phát hiện, khám phá...
Thời gian để một cán bộ khoa học đứng vững trong lĩnh vực của mình,
độc lập trong tư duy sáng tạo và với những kiến thức cùng kinh nghiệm của
mình, sẵn sàng dìu dắt một thế hệ nối tiếp, phải cần tới ít nhất mười năm.
Thực tế cũng xác nhận tốt nghiệp Đại học phải làm việc ít nhất 5 năm liên tục
mới thực phát huy được một phần tác dụng.
3. Các yếu tố tác động đến cung cầu của lực lượng lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao.
3.1. Các yếu tố tác động tới cung lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao.
Khi nói đến cung trên thị trường thì nói đến cung thực tế, cung tiềm
năng và các điều kiện đứng sau cung. Cung lao động đó là số lượng lao động
có thể cung cấp và sẵn sàng cung cấp với một mức lương nhất định. Cung
thực tế bao gồm những người đang đi làm thuê và những người đang tích cực
đi tìm việc để làm thuê. Cung lao động có thể được chia thành cung về lao
động của từng vùng lãnh thổ, của từng khu vực kinh tế, của từng ngành nhất
định hay có thể tính đến cung theo giới tính, tuổi tác, chuyên môn và cơ cấu
ngành nghề.
Nói đến cung lao động, thì điều rất quan trọng đặc biệt phải chú ý đó là
chất lượng của nguồn cung. Chất lượng nguồn cung này thể hiện ở trình độ
đào tạo, trình độ chuyên môn, tay nghề, thể hiện ở kinh nghiệm công tác, làm
việc... Nhân tố quan trọng đặc biệt tác động lên chất lượng của cung đó là hệ
thống giáo dục đào tạo. Một hệ thống giáo dục đào tạo mà đáp ứng được về
chiều rộng và chiều sâu sẽ cung cấp được một nguồn lao động có chất lượng.
Ngược lại, một hệ thống giáo dục đào tạo mà yếu kém, định hướng sai lệch...
16
sẽ không đáp ứng được cho xã hội nguồn cung lao động đạt yêu cầu: chất
lượng của nguồn lao động là yếu tố quan trọng bậc nhất, là động lực thúc đẩy
nền kinh tế, xã hội của đất nước đi lên hiện đại phồn vinh.
Nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là nguồn lao động
có trình độ cao, nguồn lao động phải được trải qua một quá trình đào tạo hoặc
tích luỹ kinh nghiệm lâu dài trong lao động. Trong thực tế ở nước ta, nguồn
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được chia làm hai dạng: đó là
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong quản lý, trong quản lý
khoa học và trong sự nghiệp...
Dạng thứ nhất được dựa vào các tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật của công
nhân và sử dụng bậc của công nhân làm mốc để xác định nguồn lao động có
trình độ. Với những ngành có thang lương. Thì lao động có trình độ là những
người được xếp ở những bậc cao nhất của thang lương. Những ngành nghề có
bảng lương, thì lao động chất xám thường được xếp ở bậc cao nhất của bảng
lương. Nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thuộc loại này
dựa vào hai nguồn:
Nguồn cung từ đào tạo: Có thể từ các trường CĐ - ĐH hoặc THCN, CNKT.
Nguồn cung từ chính nơi sử dụng lao động: tuỳ thuộc vào nhu cầu của
doanh nghiệp.
Dạng thứ hai, căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh công chức công nhân
viên chức hiện có, đối với khu vực hành chính sự nghiệp, những người lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong thời đại mới đều phải có một
tiêu chuẩn bắt buộc là phải có trình độ khoa học vấn tốt nghiệp đại học hoặc
cao đẳng trở lên. Vì vậy nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
trong khối hành chính sự nghiệp chủ yếu và trước hết đưa vào nguồn đào tạo
qua các trường ĐH và CĐ.
3.2. Các yếu tố tác động đến cầu.
17
Cầu lao động là khả năng thuê lao động trên thị trường: đó là số lượng
lao động mà người chủ mong muốn và có khả năng thuê. Cầu lao động cũng
chia ra theo từng vùng, từng ngành nghề, theo thời gian biến động...
Bất kỳ một xã hội nào, một đất nước nào, bất kỳ một ngành nghề hay
một doanh nghiệp nào cũng mong muốn có một đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao đủ về số lượng, tốt về chất lượng.
Việc tuyển chọn, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là một yêu cầu đặt ra hàng đầu đối với mỗi
quốc gia, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp. Không phải cứ đào tạo ồ ạt là sử
dụng được hết.
Trong điều nkiện đất nước hiện nay, do sự phát triển không ngừng của
tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ nên để phù hợp thì nhu cầu về lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cũng biến đổi. Đó phải là một đội ngũ
nắm bắt được những kiến thức công nghệ, nghề nghiệp một cách hoàn chỉnh
phải luôn lao động sáng tạo không ngừng. Và đội ngũ này ngày càng phải mở
rộng, phát triển đông đảo.
Các nhân tố thuộc về các chính sách của Nhà nước, nhưng những chính
sách về đầu tư, phát triển công nghệ, thay đổi các cơ chế quản lý hành chính,
các chính sách trả lương, trả công đều tác động không nhỏ tới biến động nhu
cầu về nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Điều này có thể
thấy rõ trong cuộc đổi mới đất nước hiện nay, từ khi chúng ta chuyển đổi cơ
chế kinh tế nhiều thành phần, nhiều lĩnh vực kinh tế mới đã xuất hiện và phát
triển, nó đã thu hút không ít lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao vào làm việc, làm thay đổi không nhỏ nhu cầu hiện nay về lao động
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
18
CHƯƠNG II
MỘT SỐ NÉT CHỦ YẾU VỀ THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH
ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. CUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CUNG LAO ĐỘNG CÓ
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO.
Cung lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là số lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có thể cung cấp và sẵn sàng cung
cấp với mọi chất lượng nhất định. Như vậy, cung lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao thể hiện chính là ở nguồn lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao. Mà nguồn cung ứng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao chủ yếu là nguồn cung từ đào tạo.
1. Thực trạng về đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao.
1.1. Đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
trong giai đoạn trước đổi mới (1986)
Trong giai đoạn này, kinh tế đất nước chậm phát triển. Lĩnh vực đào
tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được đào tạo theo
kế hoạch háp tập trung. Số sinh viên học nghề ở các trường đào tạo nghề, cao
đẳng hàng năm biến động không đáng kể. Hàng năm chuyển khoảng 209.000
người/năm.
Đặc biệt trong khi mải lo công cuộc kháng chiến, Đảng và Nhà nước
đã sáng suốt chăm lo đến sự nghiệp kiến quốc không chỉ trước mắt mà cả cho
lâu dài, nên đã chủ chương đứng gửi ra nước ngoài để đào tạo thành người lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Mặc dù kinh tế thời kỳ này có nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ đã có
chính sách đầu tư vốn cho đào tạo, các chế độ về tuyển dụng và việc làm.
19
Sinh viên học nghề cũng được hiểu các chế độ vật chất đảm bảo cho việc học
và thực hành nghề đạt kết quả.
1.2. Trong giai đoạn sau đổi mới.
Khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, lĩnh vực đào tạo đội
ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao gặp nhiều khó khăn.
Kinh phí đào tạo của Nhà nước cấp cho lĩnh vực đào tạo nghề chính
quy (CQ) chỉ chiếm 4% ngân sách giáo dục. Số trường đào tạo, lực lượng
giáo viên dạy nghề cũng còn thiếu. Hiện nay trong cả nước chỉ có 5 trường
chuyên đào tạo giáo viên dạy nghề cho các trường và các trung tâm dạy nghề.
Nguồn nhân lực quan trọng bậc nhất phản ánh chất lượng và khả năng
sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật. Tính đến nay, cả nước có trên 9000 tiến
sỹ, phó tiến sỹ, trên 900.000 có trình độ cao đẳng, ĐH, gần 4 triệu là cán bộ
trung học và công nhân kỹ thuật. Lực lượng lao động này đã và đang tích cực
góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đội ngũ cán bộ khoa học
kỹ thuật nước ta thông minh, khiêm tốn, hiếu học và có khả năng tiếp thu, ứng
dụng công nghệ mới. Điều đó được các chuyên gia nước ngoài đánh giá cao.
Nhiều công trình kỹ thuật hiện đại, phức tạp của thế giới như các lĩnh vực
điện tử, viễn thông, dầu khí hoặc lắp đặt các công trình lớn..., lực lượng lao
động nước ta đã tiếp thu và vận hành một cách có hiệu quả, đồng thời còn cải
tiến nâng cao.
Thực trạng đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao trong cả hai giai đoạn đã để lại sự thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cả về số lượng và chất lượng. Hạn
chế đáng kể nguồn cung ứng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
cho quá trình phát triển lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao. Ở nước ta, tỷ lệ công nhân qua đào tạo còn rất thấp so với lao động có
trình độ THCN - CĐ & ĐH.
20
2. Một số mặt hạn chế đối với nguồn cung lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao.
Tuy đã đạt được những thành tự như trên nhưng vẫn không tránh khỏi
có nhiều tồn tại mà trong giai đoạn phát triển mới, nhất là tromg điều kiện
kinh tế thị trường và kinh tế mở phải được rà soát, bổ khuyết để tăng cường
hơn nữa cả về số lượng và chất lượng đội ngũ lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao.
2.1. Số lượng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Để đáp ứng nhu cầu về lao động có trình độ cao trong tổng nhu cầu
phát triển nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, Chính phủ đã có các chỉ tiêu phát triển qua các năm như sau:
So với dân số cả nước thì số lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao quả là rất thấp. Nhưng chính phủ định hướng mục tiêu phát triển đến
năm 2010 là đại học thu hút 20% số người trong độ tuổi từ 18 - 22 tuổi và tập
trung nỗ lực vào vấn đề nâng cao chất lượng.
2.2. Cơ cấu lực lượng lao động có trình độ cao.
a. Tỷ lệ tiến sỹ so với.
ĐH; CĐ so với trung học chuyên nghiệp; ĐH so với công nhân ... thể
hiện ở giai đoạn trên đã nói rõ điều đó còn thấp, nếu không nói là bất hợp lý
(xem biểu 1).
Năm CNKT THCN/CNKT CĐ - ĐH/CNKT
93 - 94 1 1,07 3,02
94 - 95 1 1,96 1,75
95 - 96 1 1,38 2,17
96 - 97 1 1,32 3,10
21
97 - 98 1 1,38 4,09
Theo kinh nghiệm của các nước phát triển tỷ lệ này là 10 - 4 - 1. Như
vậy, việc đào tạo của nước ta theo hình tháp ngược so với thế giới. Điều đó
chứng tỏ đào tạo của ta chưa có chất lượng. Có thể nói những năm gần đây,
xu hướng là tăng số lượng và tỷ trọng đào tạo của lao động có trình ĐH và
trên ĐH, giảm tỷ trọng của lao động THCN, xu hướng này có những mặt tốt
và mặt xấu: việc tăng trình độ ĐH và trên ĐH tức là chất lượng của lao động
chất xám đã tăng lên, tăng lên trong nghiên cứu KH, trong quản lý và trong sự
nghiệp (trong sản xuất kinh doanh gián tiếp). Giảm đội ngũ công nhân kỹ
thuật tức là giảm lao động trực tiếp lao động làm ra sản phẩm của xã hội gây
ra mất cân đối: số người trực tiếp tham gia sản phẩm ít, còn số người đứng
gián tiếp lại nhiều.
Một cơ cấu hợp lý là phải có hình chóp, số người có trình độ cao thì
càng ít (đỉnh hình chóp) còn dưới hình chóp là người có trình độ thấp hơn.
b. Số lượng người tốt nghiệp đai học trở lên so sánh giữa người kinh
với người dân tộc thiểu số thì trong dân tộc thiểu số còn rất nhiều.
Tính 53 dân tộc thiểu số ở nước ta, số có trình độ Đại học chỉ có 6650
người, tiến sỹ chỉ có 114 người. Trong người kinh, số lượng tương ứng là
608727; tỷ lệ tương ứng là 1,1% và 1,2% (số của dân tộc thiểu số so với số
người kinh). Số sinh viên người dân tộc thiểu số ở các trường Đại học niên
khoá 1993 - 1994 chỉ có 207 người. (Nguồn từ Đề tài, "Cung cầu lao động có
trình độ cao và các chính sách điều tiết")
c. Về cơ cấu theo lĩnh vực đào tạo.
Về cơ cấu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo lĩnh vực hiện
nay, một vấn đề nổi lên là nhiều ngành văn hoá, khoa học và công nghệ thiết
yếu chưa có hoặc thiếu nhiều cán bộ sau Đại học, có nhiều ngành trong các
lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật... chưa có
22
người được đào tạo sau đại học. Trong tất cả những ngành này đều thiếu
những người có khả nưang tìm tòi, khám phá ra những phát minh, sáng chế
mới. Đại đa số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao chưa phát huy
được hết khả năng, năng lực của mình trong công việc. Số lượng cung cấp thì
rất lớn nhưng chất lượng đáp ứng được yêu cầu lại rất ít.
d. Cơ cấu theo độ tuổi.
Hiện nay độ tuổi của những người có trình độ đại học trở lên rất cao,
lực lượng trẻ có rất ít, nhất là số có trình độ sau đại học và có học hàm. Nói
chung là 20% cán bộ có trình độ đại học, 32% tiến sỹ, 63% tiến sỹ khoa học
đã trên 50 tuổi. Số cán bộ giảng dạy thâm niên trên 20 năm chiếm 29,28%, số
cán bộ giảng dạy Đại học và cao đẳng, ở độ tuổi dưới 35 chiếm 51,65%.
e. Cơ cấu theo giới.
Về cơ cấu theo giới của đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, vấn đề nổi bật hiện nay là lao động càng ở trình độ cao thì tỷ lệ nữ
giới càng chiếm tỷ lệ nhỏ.
Mặc dù chiếm một tỷ lệ trong các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế xã
hội nhưng lao động có trình độ nữ không thua kém gì so với nam giới. Lao
động nữ có khả năng tiếp thu và phát huy khả nưng của mình chẳng kém gì
nam giới. Vì vậy cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi với
lao động nữ thật phù hợp. Góp phần thực hiện chiến lược "dân giàu, nước
mạnh, xã hội văn minh, công bằng".
2.3. Chất lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Chúng ta đã biết rằng, sinh viên là những người có vai trò quan trọng,
là lực lượng lao động năng động nhất, có trình độ học vấn nhạy cảm với thời
cuộc và những biến động xã hội, là lớp người có khả năng phân tích, xem xét
cuộc sống và xã hội. Là nguồn nhân lực có chất lượng cao cung cấp cho các
23
cơ quan, các đơn vị kinh tế, là những người có trình độ chuyên môn, được đào
tạo có hệ thống trên nhiều lĩnh vực khoa học.
Thời gian qua, sinh viên đã từng bước phát huy được những thế mạnh
của mình, để thực hiện mình sẽ là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao nòng cốt là người chủ tương lai của đất nước. Trong sinh viên
xuất hiện nhiều phong trào học tập ngoại ngữ, tin học, vi tính... đã xuất hiện
nhiều tài năng trẻ, chăm học, ham hiểu biết, nghiên cứu. Nhiều sinh viên đã
đạt được các thành tích cao trong các kỳ thi toàn quốc và quốc tế. Nhiều sinh
viên đã năng động hơn trong việc tìm kiếm việc làm sau khi ra trường. Chúng
ta thấy được sự cố gắng rất to lớn của Đảng Nhà nước và nhân dân ta trong sự
nghiệp trồng người, đã từng bước đáp ứng phần nào về yêu cầu lao động
trong số này đã phát huy được vai trò của mình, cống hiến cho sự nghiệp phát
triển của đất nước trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hay công tác
nghiên cứu, công tác quản lý... nhiều người đã bằng chính sức lực của mình
vươn lên thành những chuyên gia những nhà quản lý những nhà kinh doanh
giỏi, làm giàu cho chính mình, cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khách quan, chủ quan mà đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao chưa thật sự phát huy hết vao trò của mình, chưa có được những yêu
cầu về chất lượng, về số lượng mong muốn.
Thứ nhất là do hệ thống GD - ĐT còn rất nhiều hạn chế, chưa đào tạo
được đông đảo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thật cao có năng
lực, trí tuệ cao trong lao động.
Thứ hai do những chính sách chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với đội
ngũ lao động này chưa hợp lý, chưa đảm bảo được về đời sống vật chất cho
họ để họ dốc hết năng lực, tâm huyết của mình vào sáng tạo.
Thứ ba do còn ảnh hưởng nhiều củan cơ chế quản lý bao cấp trớc đây,
đã ăn sâu vào tư tưởng, suy nghĩ của nhiều người của nhiều đơn vị kinh tế.
II. CẦU VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CẦU
24
1. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và sự
phân bố ở nước ta hiện nay.
1.1. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Nước ta có nguồn nhân lực rất dồi dào để bổ xung cho lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Điều đó được thể hiện ở những
khía cạnh chủ yếu sau:
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực không ngừng phát triển. Số học
sinh tốt nghiệp PTTH tăng mạnh. Năm 1995 có 83 ngàn học sinh. Năm 1998
đạt tới 1,39 triệu học sinh, tăng 60%. Dự kiến đến năm 2010 là 2,37 triệu
(10). Nguồn nhân lực trẻ chiếm 65,2% dân số trong độ tuổi từ 16 - 35 khoảng
26 triệu người. Những năm gần đây số lượng công nhân kỹ thuật đã qua đào
tạo kỹ thuật, tay nghề ở các trường dạy nghề chính quy tăng 2,3 lần từ năm
1994 - 1998. Tuy tăng như vậy nhưng so với những năm 1985 - 1986 vẫn
chưa bằng. Sự gia tăng này sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sựn phát triển
của lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong những năm
tới.
Tính đến năm năm 1995, cả nước có khoảng 2,7 triệu lao động đã được
đào tạo kỹ thuật tay nghề ở các trường dạy nghề và đào tạo tại chỗ. Theo dự
báo số lượng này sẽ tăng lên 19,7 triệu người vào năm 2010. Lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay chưa được quản
lý chặt chẽ, còn thiếu các số liệu đầy đủ như số lượng, chất lượng, những biến
động.
1.2. Tình hình phân bố lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
ở nước ta hiện nay.
a. Tình hình phân bố theo vùng.
Thực trạng của sự phân bố đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao thời gian qua và nay là tập trung quá lớn ở các thành phố lớn. Điều
25
đó gây nên sự mất cân đối giữa các vùng một cách sâu sắc, nhiều vùng, nhiều
địa phương lại không đáp ứng được nhu cầu. Do vậy, đã gây ra tình trạng vừa
thiếu lại vừa thừa đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao giữa
các vùng, gây lên sự lãng phí rất lớn. Đội ngũ lao động này chủ yếu tập tung ở
các thành phố như Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Quảng Nam Đà Nẵng... ở Hà
Nội lực lượng lao động khoa học kỹ thuật chiếm 12,74% lao động của cả
nước. Riêng số lao động có trình độ đại học trở lên chiếm 18,17%. Tỷ lệ này
tương ứng ở TPHCM là 9,45% và 13,96%; Hải Phòng là 3,98% và 3,58%;
Quảnh Nam - Đà Nẵng là 2,31% và 3,01%; ở Lai Châu là 0,42% và0,27%; ở
Minh Hải là 0,45% và 0,45%.
b. Tình hình phân bố theo ngành.
Cùng với số người được tuyển dụng vào các cơ quan Nhà nước, việc
phân bố, sử dụng lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất hợp lý giữa các ngành. Lực lượng lao
động này tập trung ở khu vực phi vật chất và hầu hết các cơ quan trung ương
mà chủ yếu là khối sự nghiệp nghiên cứu và giáo dục đào tạo. Vì vậy bên
cạnh dôi dư lực lượng lao động chất xám ở các cơ quan xí nghiệp thì những
ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội vẫn còn thiếu nhất
là những ngành xã hội cơ bản hay khai thác.
c. Tình hình phân bố theo thành phần kinh tế.
Mặc dù nền kinh tế đã chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp với thành
phần kinh tế quốc doanh là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần đã qua hơn 15 năm, nhưng cho đến nay khi nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao vẫn
còn chiếm tỷ lệ khá cao trong các doanh nghiệp Nhà nước. Có tới 80,43% số
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở thành phần kinh tế Nhà nước.
Kế tiếp là ở thành phần kinh tế tập thể 10,71%.
26
2. Thực trạng về việc làm và sử dụng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay.
2.1. Thực trạng việc làm.
Năm 1998 được ghi nhận là một năm đầy biến động của thị trường lao
động. Nổi bật là việc các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tiến hành sắp xếp
lại để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn tới một bộ phận lớn lao
động không có việc làm. Tiếp đó, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và doanh nghiệp thuộc các loại hình khác phải thu hẹp sản xuất hoặc
ngừng hoạt động do gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Người lao
động bị nghỉ việc hàng loạt. Ngoài ra, tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng
cùng với thiên tai liên tiếp xảy ra như lũ lụt, hạn hán đã tác động mạnh tới
sản xuất nông lâm, ngư nghiệp khiến tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu
việc làm số lượng lớn lan rộng tới các vùng nông thôn và miền núi...
Đối với lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cũng
cùng chung tình trạng, nhưng so với cả nước thì có thấp hơn. Như phân tích ở
trên, do sự phân bố giữa các ngành nghề, các vùng còn thể hiện sự mất cân
đối và bất hợp lý, chỗ thì dư thừa, chỗ thì thiếu, nhiều chỗ đang có nhu cầu về
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao xong vẫn không đáp ứng được.
Ví dụ như khu chế xuất Tân Thuận cần tuyển 150000 công nhân bậc cao
nhưng chỉ đáp ứng nổi 3000 lao động này. Tình hình việc làm của lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được biểu hiện dưới sơ đồ sau:
Hiện tượng thất nghiệp trong giới có học ngày nay có xu hướng ngày
càng mở rộng ở khu vực thành thị. Đó là hiện tượng số học sinh tốt nghiệp
các trường đại học không muốn xa thành phố hoặc không chấp nhận việc làm
có thu nhập thấp. Theo báo cáo hằng năm có khoảng hàng ngàn học sinh tốt
nghiệp ra trường, chen nhau tìm việc làm ở Hà Nội, thành phố HCM,... nhưng
không tìm được việc, rơi vào tình trạng thất nghiệp. Thậm chí ở thành phố Hồ
Chí Minh hàng vài trăm bác sỹ không có việc làm. Trong khi đó các vùng
27
nông thôn miền núi lại thiếu nghiêm trọng lao động khoa học kỹ thuật. Số này
ở thành thị muốn có việc làm với thu nhập cao, phải học thêm ít nhất 2 - 3
bằng nữa như ngoại ngữ, sử dụng vi tính, biết lái xe... để thi tuyển vào các văn
phòng đại diện của các Công ty nước ngoài...
2.2. Thực trạng sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao.
Theo kết quả điều tra tại một số cơ sở về việc sử dụng trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và ngành nghề của lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao còn nổi lên nhiều vấn đề bất hợp lý. Tỷ lệ lao động được sử dụng đúng
ngành nghề và trình độ đào tạo còn rất thấp: Kết quả điều tra mẫu của đề tài
KT 08.14 cho thấy tại nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo trong số 102 cán bộ
khoa học kỹ thuật được điều tra thì chỉ có 42 người là được sử dụng đúng
nghề và trình độ chuyên môn, chiếm 42/102. Hay tại Công ty xây dựng điện I,
trong số 307 cán bộ khoa học kỹ thuật thì chỉ có 126 người được sử dụng
đúng nghề đúng trình độ chuyên môn, chiếm 126/307. Như vậy, việc sử dụng
lao động chất xám hiện nay phần đông là không đúng nghề và đúng trình độ
chuyên môn. Tình trạng này không những phổ biến tại các doanh nghiệp hay
cơ quan Nhà nước mà còn phổ biến tại khá nhiều các doanh nghiệp tư nhân.
Số cán bộ có trình độ Đại học, trên đại học đều chỉ làm việc tại cơ quan
mình và phần lớn là tiến sỹ, phó tiến sỹ ở Hà Nội lị giữ chức vụ lãnh đạo,
thời gian làm công tác quản lý chiến tới 80 - 85% quỹ thời gian. Do đó khả
năng chuyên môn được phát huy khá ít. Trong cùng một lĩnh vực chuyê môn
số tiến sỹ thực sự làm chức năng lãnh đạo tập thể, công tác nghiên cứu khoa
học của ngành mình chưa nhiều.
Tóm lại, việc sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao còn nhiều bất hợp lý giữa công việc với trình độ chuyên môn gây ra
một sự lãng phí sức lao động. Giải pháp cho vấn đề này là một công việc rất
khó khăn, phức tạp, bởi vì đội ngũ này hiện nay đông nhưng chất lượng thực
28
sự lại rất thấp cho nên phương hướng chính đó là phải nâng cao hơn nữa chất
lượng của đội ngũ lao động có trình độ chuyê môn kỹ thuật cao đồng thời làm
công tác điều tiết lao động giữa các vùng, các ngành, các thành phần kinh tế...
3. Sự dịch chuyển đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao và tác động của nền kinh tế thị trường đến sự dịch chuyển.
3.1. Sự dịch chuyển đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao.
a.Sự dịch chuỷen theo thành phần kinh tế.
Sự dịch chuyển của đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao theo thành phần kinh tế xuất hiện vào những năm 1989 - 1990. Khi nước
ta tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với cơ chế
kinh tế nhiều thành phần. Một bộ phận công nhân kỹ thuật bậc cao, có nhiều
năm công tác tuổi đời khá cao, sức khoẻ hạn chế đã xin ra khỏi các doanh
nghiệp Nhà nước, sang làm việc tại các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp tư
nhân, hoặc tự tạo dựng việc làm cho bản thân và gia đình.
Một số doanh nghiệp Nhà nước lại tiến hành liên doanh với nước
ngoài. Khi đó, đại bộ phận công nhân có tay nghề bậc cao trong doanh nghiệp
được chuyển sang làm việc tại các doanh nghiệp liên doanh. Do được đầu tư
trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại, công nghệ sản xuất đổi mới, hệ thống dây
chuyền tự động hoá cao, nhiều công nhân kỹ thuật bậc cao không còn thích
hợp, đặc biệt là yêu cầu về sức khoẻ, sự dẻo dai, tinh nhanh... Khi đó số công
nhân này sẽ là sự yếu kém cho các doanh nghiệp liên doanh. Một số được các
doanh nghiệp linh hoạt tạo nguồn vốn, giải quyết cho về theo chế độ thoả
thuận. Một số phải nhờ hoặc một số tự bản thân thương lượng xin chuyển ra
khỏi doanh nghiệp. Số công nhân bậc cao còn đủ sức khoẻ, đảm đương được
công việc mới sẽ được doanh nghiệp đào tạo thêm để phát huy tay nghề.
b. Sự dịch chuyển theo vùng.
29
Sự dịch chuyển lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao theo vùng phụ thuộc rất nhiều vào tiềm năng, mức độ phát triển kinh tế
của các khu vực, các tỉnh, các khu công nghiệp.
Ở các khu vực phía Bắc, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
ở một số tỉnh đã chuyển dịch về Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Bởi vì, nơi
đây là nơi tập chung nhiều tiềm lực về kinh tế, tiếp thu nhiều tiến bộ khoa học
kỹ thuật hiện đại. Ở đó họ có thể phát huy hết mọi khả năng của mình, có điều
kiện tiếp cận và học hỏi thế giới.
Cũng như vậy, ở khu vực phía Nam, lực lượng động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao ở một số tỉnh chuyển dịch về TPHCM, Đồng Nai, Bình
Dương... chuyển dịch về các các khu vực công nghiệp, khu chế xuất.
c. Sự chuyể dịch theo ngành.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
theo ngành ở nước ta đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng bổ sung theo
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ngành nông - Lâm nghiệp sẽ giảm
dần từ 63% (2000) xuống 20% (2020). Công nghiệp - xây dựng tăng từ 20%
(2000) lên 40% (2020).
Sự chuyển dịch có cấu trạo lao động này đã tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động có nhiều cơ hội chuyển đổi chỗ làm việc, đặc biệt là lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Tạo ra sự chuyển dịch lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao từ ngành này sangn ngành kia và dịch chuyển
trong phạm vi từng ngành. Hiện nay, ngành điện tử và điện, ngành kỹ thuật
hoá chất, ngành chế tạo máy... đang thu hút được sự chuyển dịch của lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhiều hơn.
3.2. Tác động của nền kinh tế thị trường đến sự dịch chuyển của lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
30
Khi đề cập đến nền kinh tế thị trường, một trong những nội dung quan
trọng là quan tâm đến vấn đề thị trường và quy luật điều chỉnh theo quan hệ
cung cầu. Thị trường sức lao động cũng không nằm ngoài quy luật đó. Quan
hệ cung cầu của thị trường sức lao động ở nước ta có sự can thiệp quản lý của
Nhà nước đã tạo ra sự chuyển dịch của lực lượng ldd có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao. Điều đó được biểu hiện ở những nội dung sau:
Nền kinh tế thị trường càng phát triển và hiện đại thì mức độ cạnh tranh
càng tăng, tính gay gắt quyết liệt càng cao. Các nhà sản xuất kinh doanh
không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm. Áp dụng khoa học kỹ
thuật hiện đại, đổi mới công nghệ để giành ưu thế cạnh tranh, mở rộng thị
phần, tăng lợi nhuận.
Mặt khác nền kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động
của nền kinh tế thị trường. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong
các ngành, các lĩnh vực, tập trung cho đầu tư vốn, nhanh chóng thừa hưởng
các thành quả của khoa học kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến. Tăng
cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp.
Hiện nay ở nước ta đã có hơn 1500 doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài. Trước tình hình đó, nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao càng lớn lao và cấp bách, chắc chắn sự chuyển dịch của lực lượng
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao càng mạnh mẽ và sôi động hơn.
Vấn đề toàn cầu hoá kinh tế và xu thế hội nhập lao động trong khu vực
và thế giới đã tạo điều kiện cho những người lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao học hỏi và làm việc ở một số nước có nền kinh tế thị trường
phát triển, những nước có nhu cầu tiếp cận lao động nước ngoài dưới các hình
thức chuyên gia, xuất nhập khẩu lao động, nhận đấu thầu các công trình xây
dựng...
31
Tuy vậy, việc sử dụng cán bộ khoa học và công nhân lành nghề còn tuỳ
tiện là lãng phí hơn. Do chưa có nhận thức quan điểm đúng, nên việc sắp xếp
bố trí và đề bạt có khi còn chưa đúng người, đúng việc, đúng năng lực và
nguyện vọng. Vì vậy, nhìn chung sử dụng lao động thời gian này vẫn còn
chưa thật sự có hiệu quả.
3.3. Ưu - nhược điểm của hiện tượng "chuyển dịch lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao" trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, một hiện tượng đang được mọi
người, mọi doanh nghiệp, mọi nhà lãnh đạo Nhà nước đặc biệt quan tâm đó là
hiện tượng "Chuyển dịch lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao" từ
khu vực kinh tế Nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân, các Công ty xí
nghiệp liên doanh và văn phòng đại diện nước ngoài tại Việt Nam. Tuyệt đại
đa số lớp trẻ muốn làm việc cho các Công ty liên doanh, các Công ty tư nhân,
không muốn làm việc trong khu vực Nhà nước...những người có kiến thức, có
khả năng, thường là lao động trẻ và ngày càng có xu hướng vào làm việc
đông. Trong khi đó, không dám nói và tất cả nhưng hầu như hiện nay, tuyệt
đại đa số sinh viên ra trường không muốn làm việc cho khu vực Nhà nước,
không muốn tiếp tục nghiên cứu khoa học. Đội ngũ cán bộ hiện đại hoặc là có
trình độ kém hoặc là những người trình độ nhưng tuổi hầu như đã khá cao,
chưa có chính sách tuyển dụng, đào tạo lớp cán bộ trẻ để bổ sung, nên tạo ra
một sự hẫng hụt về đội ngũ lao động có trình độ này - tình trạng này đang xảy
ra ở hầu hết các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu khoa học lớn.
Những người có trình độ, có thực tài thì dần dần cũng bị cuốn hút theo nền
kinh tế thị trường, mà chuyển nghề, chuyển từ các Công ty Nhà nước sang các
Công ty liên doanh, các tổ chức nước ngoài và các Công ty tư nhân.
Có thể nói rằng, những nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự
chuyển chất xám đã nên trên đó là chính sách đãi ngộ, sử dụng cán bộ của
Nhà nước và điều kiện làm việc.
32
Như trên đã nêu sự chênh lệch quá lớn mức thu nhập giữa lao động
chất xám ở trong khu vực Nhà nước với khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt
là các Công ty liên doanh và các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam đã là một
nguyên nhân chính quyết rũ, thu hút lực lượng lao động này rời khu vực Nhà
nước.
Một nguyên nhân quan trọng khác tác động tới hiện tượng chuyển dịch
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là chính sách sử dụng cán bộ
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao của Nhà nước trong nhiều năm
qua.
Nguyên nhân nữa là do điều kiện lao động quá thiếu thốn và lạc hậu.
Hiện nay tại các cơ quan Nhà nước, thiếu thốn từ sách báo, tài liệu nghiên cứu
làm việc đến những trang thiết bị thiết yếu hiện nay như máy tính, phương
tiện thông tin liên lạc, các thiết bị văn phòng.
Qua phân tích và đánh giá trên, chúng ta thấy được sự dịch chuyển của
nguồn lao động chất xám hiện nay là hoàn toàn biện chứng. Chúng ta phải có
một quan niệm đúng đắn về hiện tượng này nởi vì chấp nhận nền kinh tế thị
trường là đồng nghĩa với chấp nhận sự cạnh tranh, sức lao động là hàng hoá,
có giá trị và giá trị sử dụng có thể được trao đổi trên thị trường.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch này không phải hoàn toàn là tiêu cực. Nó
cũng có những ý nghĩa nhất định. Đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao trong sự chuyển dịch này đã có điều kiện làm việc, học tập
những công nghệ trang thiết bị tiên tiến của các nước phát triển. Họ có điều
kiện học tập được tác phong làm việc, tác phong công nghiệp hoá. Làm việc
với các liên doanh nước ngoài, trước hết giải quyết được vấn đề về thu nhập.
Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn khó khăn, vấn đề thu nhập của
người dân cũng là một chuyện mà Nhà nước cần phải xem xét. Làm việc với
các doanh nghiệp nước ngoài, không chỉ là làm giàu cho họ mà cũng chính là
làm giàu cho chính đất nước mình.
33
4. Nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
4.1. Về cơ cấu ngành kinh tế.
Từ nền kinh tế dựa trên cơ sở nông nghiệp lạc hậu chuyển dần sang
phát triển các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phát triển các ngành
công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên (khai thác, lọc và hoá dầu), phát
triển ngành điện, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành dịch vụ dịch
vụ, giao thông vận tải thông tin liên lạc... Một số ngành công nghiệp trọng
điểm và dịch vụ sẽ phát triển với tốc độ trên 10%/năm.
34
Biểu đồ: Cơ cấu lao động theo ngành của Việt Nam (%)
Năm Nông lâm CN - XD Dịch vụ
2000 63 20 17
2010 (dự đoán) 38 33 29
2020 (dự đoán) 20 40 40
4.2. Về cơ cấu thành phần kinh tế.
Kinh tế quốc doanh được sắp xếp lại và củng cố, chú trong những
ngành và lĩnh vực then chốt, mức thu hút lao động tăng ít. Kinh tế hợp tác
được củng cố và phát triển theo những hình thức thích hợp, có lựa chọn kinh
tế tư nhân, cá thể được đào tạo điều kiện rộng rãi, thu hút lao động lớn. Kinh
tế hỗn hợp bằng liên doanh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất,
khu công nghiệp được phát triển, thu hút từ 10 - 15 tỷ Mỹ Kim vốn nước
ngoài cần trên 20 vạn lao động và cần lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao.
4.3. Về cơ cấu công nghệ.
Công nghệ truyền thông phải được hiện đại hoá cần thiết, một số đơn vị
đi vào các ngành công nghệ hiện đại như lọc, hoá dầu, điện tử, sinh học, vật
liệu mới, năng lượng mới, phải cần đến hàng vạn cán bộ và công.
Như vậy, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 nước ta tất yếu sẽ hình
thành những ngành mũi nhọn như khai thác và chế biến dầu khí cả ở phái nam
và phía Bắc, khai thác và chế biến một số khoáng sản và tài nguyên biển. Một
số ngành dịch vụ như du lịch quốc tế, vận tải quốc tế, một số ngành công
nghệ cao như điện tử, vật liệu mới, chế biến nông lâm sản và thực phẩm. Đòi
hỏi bám sát trình độ khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới, phải đào
tạo 1-2 triệu kỹ sư, cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật lành nghề, có trình
độ cao, không chỉ cho thành phần quốc doanh mà cả cho kinh tế tư nhân, cá
thể, kinh tế hỗn hợp liên doanh.
35
Từ nay đến năm 2010, thị trường sức lao động sẽ được phát triển và mở
rộng, nhưng cũng trong thời gian này, mỗi năm vẫn bình quân có xấp xỉ 1
triệu người đến tuổi lao động. Vì vậy việc đào tạo nghề, đào tạo lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao không dừng lại ở số lao động có việc làm
hiện tại mà còn phải thực hiện cả đối với người sắp bước vào tuổi lao động.
III. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG ĐẾN CUNG CẦU LAO
ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.
1.Chính sách về giáo dục đào tạo.
Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy những giá
trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát
huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt nam.
Trong chính sách giáo dục đào tạo cần chú ý đến việc bồi dưỡng và đào
tạo lại người lao động đang làm và sẽ làm đòi hỏi một nội dung bồi dưỡng và
đào tạo lại người lao động tuỳ theo từng vị trí và chức năng nhiệm vụ của
mỗi người lao động đang làm và sẽ đòi hỏi một nội dung bồi dưỡng và đào
tạo lại phù hợp với mục tiêu cần đạt được. Với đội ngũ công nhân kỹ thuật
thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với quá trình sản xuất thì yêu cầu bồi dưỡng
và đào tạo lại được đặt dưới áp lực và trách nhiệm to lớn là phải cung cấp cho
xã hội một lực lượng lao động làm ra được nhiều hàng hoá số lượng, chất
lượng cao hơn và hoàn thiện hơn nữa. Hiện nay việc biết nhiều nghề đang là
một số vấn đề quan tâm cần thiết của nhiều người, là xu hướng chung, một
người lao động không chỉ biết và giỏi chuyên môn của mình mà còn phải biết
thêm nhiều nghề khác, ví dụ sử dụng máy vi tính, lái xe, tạp vụ…. Mới đáp
ứng được yêu cầu công việc trong các doanh nghiệp.
36
2. Chính sách tiền lương và đãi ngộ đối với lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao.
Trong các điều kiện kinh tế mới bắt đầu phát triển, ngân sách nhà nước
còn eo hẹp, nhưng nhà nước vẫn cố gắng cải cách một bước chế độ tiền
lương, trong các thang lương, các bảng lương mới đã chú ý quán triệt một
bước nguyên tắc phân phối theo lao động bên cạnh thâm niên công tác đã chú
trọng đáng kể đến học vấn, bằng cấp. Trong chính sách công nghiệp hoá hiện
đại hoá. Đảng chủ trương tạo điều kiện hơn nữa cho những người có tài, cống
hiến nhiều hơn so sự nghiệp chung. Tuy nhiên giữa đòi hỏi thực tế và những
cải tiến như đã nói trên còn một khoảng cách khá xa.
Thứ nhất, những biện pháp cải tiến còn mang tính chất nửa vời chắp vá
và đối phó, thiếu tầm chiến lược.
Trong các biện pháp nói ở đây, trước hết phải đề cập đến những gì liên
quan tới nguồn thu nhập. Sau cải cách hệ thống tiền lương, tiền công, thu
nhập chính thức trung bình của một cán bộ, kỹ sư, cứ nhân tuổi trung bình
khoảng trên 500.000đ/1 tháng. Với mức thu nhập này mới chỉ nuôi đủ chính
bản thân người lao động một cách chật vật, chưa đủ tích luỹ tái sản xuất mở
rộng, chưa đủ cho thế hệ con cái gia đình họ, chưa xứng đáng với cường độ trí
lực, thể lực tiêu hoa, với thời gian tích luỹ hàng chục năm của họ.
Thứ hai, chưa tạo lập được một thước đo chuẩn nào về lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong các thang bảng lương, hệ số chênh
lệch giữa các bậc có phần thấp, giữa các bậc cao và bậc thấp, chênh lệch về
thu nhập chưa cao, chưa đáng giá đúng thực chất, chất lượng trình độ của lao
động giữa các bậc mà chỉ theo qui định cứ đủ số năm qui định là mặc nhiên
được nâng bậc, mà không phải qua thi tuyển hoặc đánh giá chặt chẽ, tạo ra sự
ỷ lại việc nâng cao trình độ,” Cứ sống lâu là lên lão làng”.
Bên cạnh d dó trong các chế độ đãi ngộ đối với lao động, chưa quan
tâm thật sự đối với những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở
37
vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn miền núi. Chưa tạo ra môi trường và điều
kiện thuận lợi để thu hút đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao làm việc tại những nơi đó. Chính đây là một nguyên nhân tạo nên sự tập
trung quá lớn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tại thủ độ Hà nội.
Trong khi đó rất nhiều huyện lại rất thiếu độ ngũ này. Vấn đề giải tảo dần sự
tập trung lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhưng chưa thực sự.
Các chính sách đãi ngộ của nhà nước chưa đủ mạnh hoặc chưa có độ thu hút
lực lượng này.
3. Chính sách tuyển dụng, sử dụng và phân bố lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao.
Các chính sách tuyển dụng sử dụng và phân bố nguồn lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao của nhà nước trong thời kỳ trước đây, khi nền
kinh tế còn trong cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp có ảnh hưởng vô cùng lớn
đến tình hình phân bố và sử dụng vcũngc như các vấn đề về số lượng, chất
lượng của nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Ta điểm qua
vài nét chính trong chính sách này thời gian qua.
Việc tuyển dụng lao động phải phục tùng theo kế hoạch từ trung ương
không chấp nhận thị trường lao động, không thừa nhận quan hệ cung cầu lao
động. Cơ chế tuyển dụng có 2 hình thức toàn dân và tập thể nước.
Về cơ chế phân bố thời kỳ này là cơ chế gò bó, cứng nhắc và không có
khả năng di chuyển.
Như vậy, chính sách tuyển dụng và phân bố lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao thời kỳ này không có cơ sở kinh tế mà được hành
chính hoá cao độ. Cơ chế này đã tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước tuyển
dụng lao động một cách ồ ạt, không tính đến nhu cầu sản xuất và công tác. Vì
vậy, khi số lượng biên chế tăng đến một qui mô quá lớn, làm giảm hiệu lực bộ
máy, ít hiệu quả.
38
Hiện nay, sau khi có nghị quyết đại hội VI Đảng cộng sản Việt nam thì
chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao theo cơ chế thị trường. Trong giai đoạn này, nhà nước giao quyền tự chủ
cho các đơn vị sử dụng lao động, tự do kinh doanh. Khuyến khích lao động
chất xám tự do làm giàu bằng mọi hình thức miễn là chính đáng, không vi
phạm pháp luật. Để phát huy tiềm năng và sức sáng tạo của lực lượng lao
động này. Trên cơ sở chế quản lý mới, cần thừa nhận mọi người lao động
được tự do làm việc theo hợp đồng thoả thuận, tự do chuyển đổi nơi công tác
khi họ cần thiết và khi tìm được môi trường thuận lợi hơn, nghĩa là thừa nhận
sự tồn tại khách quan của thị trường lao động.
4. Những chính sách về phát triển kinh tế thị trường,
Khuyến khích tự do kinh doanh, tự do sản xuất, phát triển dịch vụ, cơ
sở hạ tầng, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế. đã từng bước có những kết quả
tốt. Nhiều người đã mạnh dạn kinh tế phát đạt giàu có, đứng vững trong thị
trường. Nhều nhà máy doanh nghiệp mới mọc lên thu hút một lượng không
nhỏ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tham gia làm việc. Nhiều
kiến thức thông tin mới đã tiếp thu từ bên ngoài, nhiều tổ chức, cá nhân nước
ngoài đã hỗ trợ giúp đỡ cho việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao.
39
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ LỰC
LƯỢNG KINH DOANH CÓ TRÌNH ĐỘ LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ
CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO Ở NƯỚC TA.
I. MỘT SỐ NHẬN XÉT CƠ BẢN QUA ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT
CAO Ở NƯỚC TA.
Qua phân tích thực trạng tình hình lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao trong thời gian qua, ta thấy số lượng, chất lượng, mức độ phát triển
của lực lưeợng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta nói
chung và ở trong các doanh nghiệp nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu đòi
hỏi các doanh nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa theo kịp với sự
biến đổi to lớn của nền kinh tế thị trường ở nước ta giai đoạn hiện nayvà
những năm tới.
Xét về góc độ ngoại diện của nó ta thấy số lượng nguồn lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong những năm vừa qua có phần tăng lên,
giáo dục và đào tạo đã có nhiều cố gắng và đạt một số thành tựu đáng kể.
Song nghiêm túc xem xét vẫn thấy còn nhiều bấp cập trong quá trình đáp ứng
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH- HĐH. Lại càng sốt
ruột khi thấy chỉ còn rất ít thời gian nữa phải đạt chỉ tiêu 22- 25% lao động
qua đào tạo như nghị quyết đại hội 8 đã đề ra. Sự băn khoăn và sốt ruột ấy có
cơ sở khi ta nhìn sâu vào thực trạng đội ngũ lao động kỹ thuật” cổ xanh” và
“cổ trắng” của đất nước. Chúng ta từng thừa nhận” kỹ thuật là khoá, văn hoá
là chìa” vậy mà đến 75% lao động ở đây chưa quan PTTH, làm thế nào để
tiếp thu kỹ thuật công nghiệp mới.
Do ảnh hưởng nặng nề cuả nền kinh tế kém phát triển, lạc hậu trong
suốt một thời gian dài do cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, cơ chế tuyển
40
dụng lao động nói chung và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nói
riêng của nhà nước theo kế hoạch hoá tập trung từ trung ương theo 2 hình
thức duy nhất: nhà nước và tập thể. Tuyển dụng theo chỉ tiêu và biên chế, đến
tuổi thì về hưu và được hưởng chế độ tiền lương, BHXH. Vai trò tự chủ của
các DN không có môi trường thuận lợi để phát triển. Lực lượng lao động có
tay nghề bậc cao ít có điều kiện để phát triển. Thông thường cứ theo thời hạn
thì thi lên bậc. Một số trường dạy nghề chủ yếu đào tạo ra công nhân bậc 2
hoặc bậc 3, và muốn họ trở thành công nhân lành nghề bậc cao thì phải mất
hơn mười năm.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường , do ảnh hưởng của khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, cũng như tác động xu thế hội nhập lao động, xu
thế toàn cầu hoá… đến thị trường sức lao động ở nước ta làm tăng thêm sự
thiếu hụt lực lượng công nhân kỹ thuật có tay nghề bậc cao cả về số lượng và
chất lượng.
Tình hình việc làm của lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao cho thấy số người thất nghiệp rất nhiều. Đặc biệt hiện nay vấn đề
sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm ngày càng gia tăng.
II. KHUYẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM SỬ DỤNG CÓ
HIỆU QUẢ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
KỸ THUẬT CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Qua phân tích, đánh giá thực trạng về cung cầu lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao chúng ta thấy được mặt tích cực đã làm được và
những mặt tiêu cực vẫn còn tồn tại hiện nay của lực lượng lao động này. Để
bước vào thế kỷ XXI một cách mạnh mẽ và vững vàng thì phương hướng
mạnh mẽ cho vấn đề cung cầu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
là phải tiếp tục phát huy những mặt tích cực, hạn chế và xoá dần những mặt
tiêu cực, tiến tới cung ứng, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động có
41
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Để làm được điều đó, tôi xin mạnh dạn
kiến nghị một số giải pháp sau:
A. NHỮNG GIẢI PHÁP THUỘC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nguồn lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao.
Trong sự nghiệp CNH – HĐH hiện nay, nhân tố quyết định thắng lợi là
phải bồi dưỡng, phát huy được nguồn lực to lớn của nhân dân, vừa nâng cao
mặt bằng dân trí, vừa nâng cao đỉnh cao dân trí. Việc chuẩn bị cho nguồn lực
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu mới trước hết là nhiệm
vụ trung tâm của công tác giáo dục và đào tạo. Đây là nguồn cung cấp quan
trọng nhất của lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Để có được nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có
chất lượng cao phải hết sức coi trọng chất lượng đào tạo trên các mặt:
- Chất lượng giá viên: đổi mới và bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiệp
vụ chuyên môn, tư duy kinh tế, phương pháp sư phạm, nâng cao hơn nữa tinh
thần trách nhiệm của người thầy. Phải chú trọng vấn đề giáo viên phải có
trình độ trên mức dậy học của mình tức là giáo viên đại học phải có trình độ
cao học trở lên.
- Chất lượng trang bị giảng dạy: Phải đổi mới và nâng cấp các phòng
thí nghiệm, các xưởng thực hành, các thư viện, các phòng ban. Trang bị đầy
đủ các sách báo, tài liệu, các dụng cụ đồ nghề có liên quan tới việc đào tạo
giảng dạy và phù hợp với công nghệ kỹ thuật tiên tiến.
- Chương trình giảng dạy: Đổi mới nội dung giáo án gắn với yêu cầu
sử dụng của doanh nghiệp, cơ quan thuộc ngành nghề đào tạo. Trong chuyên
ngành khoa học kỹ thuật chuyên môn phải bám sát những chương trình dạy
quốc tế.
42
- Thực hiện chặt chẽ nghiêm túc chế đoịo thi cử, bằng cấp. Tuyển sinh
chặt chẽ, không hạ thấp tiêu chuẩn và điều kiện dự thi. Sàng lọc kỹ càng trong
quá trình dạy học, theo tiêu chuẩn quốc tế đối với những ngành nghề chuyên
khoa học kỹ thuật.
2. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, đào tạo, tăng cường phát hiện bồi
dưỡng và đào tạo nhân tài.
a. Tạo cơ hội cho đông đảo mọi người lao động tiếp thu học vấn đại học.
Vì rằng được hấp thu học vấn đại học con người sẽ có tầm nhìn rộng
lớn và tư duy sâu sắc hơn, đó là điều kiện để phát huy tài năng, do vậy nó làm
tăng một cách cơ bản khả năng xuất hiện nhân tài.
b. Quá trình đào tạo và phương hướng đào tạo phải khắc phục.
Tính đồng loại mà lưu ý đến hoàn cảnh năng lực, bản sắc của mỗi cá
nhân. hiện nay chúng ta vẫn chưa thực sự có đổi mới theo hướng này, Quy
trình đào tạo này mềm dẻo, thuận lợi cho người học có tính đến những đặc
điểm về hoàn cảnh và năng lực của người học. Mô hình đào tạo này tạo cơ hội
cho sinh viên chọn đúng ngành nghề mà họ thực sự có sở trường, có khả năng
chọn cho mình một chương trình riêng thích hợp.
c. Tiếp tục duy trì và tăng cường các biện pháp, phong trào nhằm
khuyến khích tài năng trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Cùng với việc tìm những biện pháp hợp lý để tănng quy mô đào tào Đaị
học, thiết kế lại và hoàn thiện mục tiêu, nôi dung quy trình phường pháp đào
tạo nhằm đảm bảo điều kiện vững chắc để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài,
chúng ta cần tiếp tục duy trì và tăng cường các hoạt động khuyến khích tài
năng: các kỳ thi Olimpic, các giải thưởng nghiên cứu khoa học, các học bổng
đặc biệt. Cần tuyên truyền đề mở rộng phạm vi các học bổng đặc biệt khuyến
khích nhân tài các Công ty, các tổ chức trong và ngoài nước.
43
3. Phải gấp rút đào tạo một lực lượng chuyên gia dẫn đầu trong
từng ngành lĩnh vực đặc biệt là những ngành mũi nhọn.
Đó là những ngành có tác động trực tiếp đến nâng cao trình độ công
nghệ của nhiều ngành. Những lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng và triển khai gắn với sự phát triển của ngành công nghệ sinh học, chế
biến vật liệu mới, công nghệ về nguồn năng lượng tái tạo. cả những lĩnh vực
liên quan đến nhập tin và chuyển giao công nghệ cũng như ở ngành giáo dục
đào tạo cần phải rút đào tạo một lực lượng chuyên gia đầu bàn để đáp ứng với
đòi hỏi của giai đoạn mới.
4. Đa dạng hoá nguồn cung ứng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao.
Nguồn cung ứng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao không
chỉ dựa vào nguồn đào tạo mới tại các trường mà còn có một nguồn khác
không kém phần quan trọng là đào tạo lại số lượng lao động nói chung nhấtlà
số có trình độ cao đẳng đại học hoặc đang giữa bậc lao động cao làm việc
trong các doanh nghiệp cơ quan. Số này có lợi thế là đã cód ít nhiều kinh
nghiệm thực tế. Việc đa dạng hoá các hình thức đào tạo có thể là gửi đi đào
tạo lại theo hình thức tập trung hoặc tại chức hoặc kết hợp trong sản xuất,
công tác. Ngoài đào tạo lại kỹ thuật và chuyên môn, đặc biệt chú trọng ngoại
ngữ nhất là tiếng Anh – ngôn ngữ chung của thế giới.
5. Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế để trao đổi
khoa học với nước ngoài nhằm nâng cao tri thức cho các nhân tài và
người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Trong thời đại xu hướng quốc tế hoá sản xuất với đời sống ngày một
gia tăng, các kiến thức khoa học mới, các sáng chế công nghệ trường có tính
quốc tế rộng rãi. Với hệ thống thông tin toàn cầu và nền kinh tế quốc tế hoá,
nếu nhân tài lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được thêm tính
quốc tế thì tri thức càng rộng, càng thuận tiện để phát triển. Vì vậy cần có cơ
44
chế và chính sách chuẩn bị những dự án cho những người nghiên cứu khoa
học, những nhân tài trong các ngành, các lĩnh vực được mở rộng giao lưu và
hợp tác quốc tế trao đổi kiến thức, khoa học với nước ngoài mà không gây
thiệt hại cho lợi ích của dân tộc.
B. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM SỬ DỤNG, TUYỂN DỤNG, PHÂN
BỔ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN KỸ
THUẬT CAO.
1. Các ngành, các cấp, các đơn vị sản xuất kinh doanh phải nhận
thức sâu sắc hơn nữa vai trò của lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao và phải có trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng đào tạo, đào tạo lại
nguồn cung ứng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cho đơn vị
mình.
Tiến vào công nghệ hoá, hiện đại hoá mà không có hiệu quả. Bới vậy,
từng ngành, từng cấp từng đơn vị sản xuất kinh doanh phải nhận thức mà
chăm lo bồi dưỡng đào tạo mọi điều kiện để có thể đáp ứng được yêu cầu
không chỉ có chất lượng tầm cỡ quốc gia mà phải vươn lên tầm cỡ quốc tế.
2. Đa dạng hoá cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong giai đoạn
mới của cách mạng được đặt ra trong rất nhiều lĩnh vực: sản xuất kinh doanh,
nghiên cứu khoa học cơ bản, nghiên cứu khoa học ứng dụng, quản lý nhà
nước giáo dục, y tế, thông tin văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao, an ninh
quốc phòng.
Đối tượng cung ứng lao động chất xám trước tiên vẫn phải hướng về
khu vực nhà nước, nhưng không có nghĩa là chỉ bó hẹp cho khu vực nhà nước
mà phải mở rộng ra các thành phần kinh tế khác, các ngành nghề khác. Bời vì
các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, trong các ngành kinh tế, các
vùng kinh tế đều cần có nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
45
để phát triển các nghiên cứu triển khai, sáng chế tiếp thu và vận hành những
công nghệ có ý nghĩa sống còn đòi hỏi với họ trong cạnh tranh thị trường.
Nếu chúng ta có nguồn lao động chất xám dồi dào thì không phải lo
lắng về hiện tương” chuyển dịch lao động có trình đoịo chuyên môn kỹ thuật
cao” từ quốc doanh ra ngoài quốc doanh và vào các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài hiện nay. Vấn đề đặt ra là phải tăng cường quản lý, phải có
chính sách phù hợp với lực lượng lao động này.
3. Thực hiện tốt khâu tuyển dụng lao động vào khu vực nhà nước
một cách chặt chẽ và nghiêm túc là tiền đề cho việc sử dụng hợp lý và phát
huy cao đoịo khả năng làm việc cuỉa các nhân tài và người lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Học qua các trường tuyển chọn sàng lọc, nhiều bước đã đành, trừ
những người đang đào tạo bổ xung, hoặc đào tạo lại, còn thì một sinh viên dù
đã tốt nghiệp CĐ- ĐH, THCN hay CNKT thì cũng phải được tuyển chọn qua
một cửa nữa mới vào làm việc taị các doanh nghiệp, cơ quan.
Đây là bước kiểm điểm trình độ của nguồn cung trước nguồn cầu.
Việc thi tuyển vào công sở, thử việc vào doanh nghiệp làm càng chặt
chẽ, nghiêm túc càng đảm bảo đúng tiêu chuẩn, khách quan công bằng lựa
chọn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao càng chính xác của người
lao động.
4. Tạo điều kiện và môi trường làm việc, sinh hoạt thuận lợi để lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao phát huy tối đa năng lực làm việc
của mình và đây cũng là nhân tố tích cực tham gia đioêù chỉnh cơ cấu sản
xuất nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao giữa các ngành, các
vùng.
Đối với lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, việc tạo thuận
lợi cho các điều kiện môi trường làm việc, sinh hoạt, có ý nghĩa rất quan
46
trọng. Cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra như vũ bão,
việc cung cấp thông tin kịp thời cho lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao nhất là các khoa học không thể thiếu. Các trang bị phương tiện thí
nghiệm, các cơ sở triển khai giúp cho lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các kết qủa nghiên
cứu vào thực tiễn.
Đặc biệt, trước yêu cầu phải điều chỉnh cơ cấu sử dụng nguồn lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao giữa các ngành và các vùng thì việc tạo
điều kiện và môi trường thuận lợi về việc làm cho lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao được chuyển đến các vùng miền núi nông thôn, còn
phải chăm lo giải quyết điều kiện thuận lơị về ăn ở, sinh hoạt đi lại cho bản
thân họ và gia đình.
C. CÁC GIẢI PHÁP THUỘC VỀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC
NHẰM SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ NGUỒN LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ
CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT CAO.
1. Tiến hành rà soát lại để tiếp tục hoàn thiện chế độ tiền lương
trong các doanh nghiệp và cơ quan để có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với
các tài năng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nói chung.
Bởi vì muốn cho KHCN trở thành động lực của sự phát triển trước hết
phải tìm ra động lực cho sự phát triển của bản thân khoa học và công nghệ.
Động lực này nằm ở lợi ích những người nghiên cứu, phát minh và ứng dụng
có hiệu quả khoa học công nghệ. Bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh
thần, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị xã hội. Sản phẩm của người lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, nó là
hàng há đặc biệt được mở rộng thị trường lưu thông, được trả công tương
xứng với những giá trị đích thực của chúng và phải có những giá trị đúng
mức. Nếu trả lương cho lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao không
tương xứng với giá trị của lao động sáng tạo thì họ sẽ lấy lại giá trị bằng cách
47
khác, và trước sau để sống, họ sẽ có cách thu nhập tương đướng với giá trị
đích thực họ bỏ ra.
Dĩ nhiên việc cải cách tiền lương còn phải tiếp tục hoàn thiện. Trong
quá trình hoàn thiện tất cả phải đánh giá lại những mặt được chủa các chính
sách trả lương hiện hành và những tồn tại cần nghiên cứu bổ xung, sửa đổi.
Đặc biệt là chính sách trả lương đối với những lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao, nhưng chủ thể đi đầu trong công cuộc CNH - HĐH đang
được nghiên cứu để có kích thích mạnh hơn nữa.
2. Chính sách đầu tư.
Mở rộng phương thức đầu tư ngân sách cho KHCN và Giáo dục - đào
tạo, để tạo ra nguồn cung cấp lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
đáp ứng nguồn cầu khắt khe trong thời đại mới, vấn đề đầu tư cho KHCN và
giáo dục - đào tạo là một yêu cầu cấp bách không chỉ của nhà nước mà còn là
của các doanh nghiệp. việc đầu tư càng lớn thì dĩ nhiên hiệu quả càng cao.
Người ta cho rằng nếu đầu tư cho GD - ĐT 1$ thì sẽ thu lại 4$. Ở nước ta,
việc đầu tư cho hai lĩnh vực này còn rất hạn chế, trong khi đó ở các nước tỷ lệ
đầu tư lớn hơn ở nước ta rất nhiều. Trung Quốc: 4% GDP và còn huy động
nhiều nguồn lực khác trong xã hội, nhiều nước khác tới 5% GDP, ở Việt nam
mới chỉ là 2% GDP. Về số lượng thì theo kinh nghiệm của các nước đang
phát triển, ngân sách nhà nước đầu tư cho KHCN khoảng 1/4 kinh phí cần
thiết còn 3/4 là nguồn lực của doanh nghiệp, vì đã đến lúc các doanh nghiệp
phải phát triển các nghiên cứu triển khai khác tiếp thu và sáng chế những
công nghệ mới có ý nghĩa sống còn đối với họ trong cạnh tranh.
3. Các chính sách khác.
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tự nó điều chỉnh theo
quan hệ cung cầu trong cơ chế thị trường. Nhưng sự vận động của nó cần phải
có sự định hướng, quản lý và can thiệp của nhà nước nhằm hướng nó đi theo
48
những quy luật, ngăn ngừa, đề phòng khi xuất hiện những biến động gây hậu
quả xấu cho nền kinh tế xã hội.
- Tổ chức kiện toàn hệ thống thống kê lực lượng lao động chất xám ở
các ngành, các đơn vị một cách liên tục và thường xuyên cả về số lượng cũng
như về chất lượng của đội ngũ naỳ. Nhằm nắm được cung cầu làm cơ sở để
quyết định chính sách, kế hoạch, quy hoạch của đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao. Có nắm chắc được thực trạng tình hình thì mới có
những giải pháp phù hợp được.
- Nhà nước thông qua hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, chỉ đạo việc
điều tiết hợp lý, cung ứng và đáp ứng tối đa lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao cho các đơn vị sử dụng lao động có nhu cầu bức
xúc.
- Đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài nên thực hiện triệt để việc
tuyển dụng lao động qua các trung tâm dịch vụ việc làm, không để tự do lao
động như thời gian qua.
- Đối với người lao động, kiên quyết thực hiện việc bồi dưỡng cho phí
đào tạo đối với mọi người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động, có như vậy mới hạnc hế được hiện tượng “nước chảy về chỗ trũng,
ngoài vòng pháp luật”.
- Đối với những sinh viên tố nghiệp ra trường hiện nay cần phải có một
chính sách bắt buộc theo kiểu chế độ lao động nghĩa vụ 2 đến 3 năm phục vụ
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội của thủ đô, có sự quản lý, phân
công của ban tổ chức chính quyền thành phố.
D. GIẢI PHÁP KHÁC.
Vấn đề đặt ra là để thực hiện được thực tế tại Việt nam trong giai đoạn
hiện nay, thì chúng ta phải làm cụ thể việc gì, làm như thế nào và bằng cách
nào? Đây mới thực sự là câu hỏi mà tất cả mọi người, tất cả mọi nhà lãnh đạo,
49
mọi nhà ra chính sách chiến lược, mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế
quan tâm.
Nếu đi sâu phân tích vào từng giải pháp thì cuối cùng sẽ đi đến một
đích chung đó là làm sao để có tiền, có vốn trong giai đoạn hiện nay của đất
nước. Thật vậy, vấn đề nổi bất hiện nay là nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu
cầu của nguồn cung lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Để làm
được điều này thì việc đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục là yếu tố quan
trọng nhất. Việc này liên quan đến nâng cấp cho cơ sở vật chất, trang bị thiết
bị dậy học, đãi ngộ giáo viên… Tất cả những vấn đề này đều cần tiền và vốn
của nhà nước của các cơ quan đơn vị.
Đối với cung: Thứ nhất việc đầu tư nước ngoài trực tiếp vào ngành GD
- ĐT, KHCN, nâng cao đỏi mới trang thiết bị giảng dạy, làm việc đổi mới
giáo trình tài liệu nghiên cứu, dạy học, đầu tư nâng cao chất lượng giáo viên,
các quỹ phát triển học bổng và nhân sang thực tế, khảo sát, học tập tại các
nước đó.
Thứ hai, các DN nước ngaòi đầu tư vào Việt nam, phát triển sản xuất,
mở rộng kinh doanh nên thu hút lực lượng lớn lao động vào làm việc. Để đáp
ứng được với công việc thì người lao động của ta phải có trình độ năng lực
làm việc được trong môi trường cộng nghệ tiên tiến, hiện đại. Do vậy mà tạo
nên sự tự vận động buộc người lao động phải nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chuyên môn... hình thành nên các xu hướng học tiếng Anh, vi tính,
phải có bằng đại học, phải có học vị… hiện nay của lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao của Việt nam.
Thứ ba, được tiếp xúc với những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến nước
ngoài, được làm việc cùng với họ, thì đội ngũ lao động chất xám tất yếu sẽ có
được những hiểu biết tăng lên, những kiến thức mới của thế giới. Do vậy mà
chất lượng, cách suy nghĩ và làm việc tất yếu được thay đổi tiến bộ hơn.
50
Đối với cầu: Đầu tư nước ngoài vào góp phần mở rộng phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới thu hút ngày càng đông đảo
lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao vào làm việc.
Việc đầu tư nước ngoài voà các ngành nghề, các thành phần kinh tế các
vùng lãnh thổ sẽ giúp thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao,
giải quyết được các bất hợp lý trong phân bố hiện nay của lực lượng lao động
này giữa các thành phần kinh tế, giữa các lãnh thổ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong hoàn cảnh kinh tế đất nước
ta hiện nay, thì việc đầu tư của nước ngoài vào là một nhân tố có ý nghĩa, có
tầm quan trọng vô cùng to lớn, mau chóng đuổi kịp các nước đi trước.
51
KẾT LUẬN
Hiện nay, nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn tiếp tục đổi mới,
phát triển một bước công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong quá trình này đòi
hỏi tất cả chúng ta phải tập trung phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo tiền
đề vững chắc để bước vào thế kỷ XXI. Theo quy luật chung thì sự phát triển
lâu dầi bền vững chắc của mỗi đất nước bao giờ cũng do yếu tố nguồn nhân
lực quyết định. Vì dù cho các yếu tố thiên nhiên khác có vai trò quan trọng
nước mắt nhưng cũng sẽ dần dần mất đi. Trong yếu tố nguồn nhân lực thì
nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là nguồn nhân tài có vai
trò quyết định.
Qua khảo sát, phân tích đánh giá về thực tế sử dụng lực lượng lao động
có trình độ chuyên môn kỹc thuật cao, tôi nhận thấy qua hơn 15 năm thực
hiện đổi mới của Đảng, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao đã có sự chuyển biến tiến bộ rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Thể hiện
quy mô cơ cấu đã tăng lên theo hướng tích cực, nhiều đổi mới trong hệ thống
giáo dục - Đào tạo, mọi người năng động hơn trong giải quyết tìm kiếm việc
làm.. tuy vậy, vẫn còn rất nhiều tồn taị cần giải quyết. Đó là chất lượng hiện
nay của nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao chưa đáp ứng
được yêu cầu, trong cơ cấu vẫn còn nhiều bất hợp lý giữa giới tính, độ tuổi,
trình độ đào tạo. Đặc biệt là sự lãng phí lớn trong phân bổ sử dụng lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hiện nay. Nhiều sinh viên ra trường
không có việc làm, chính sách đãi ngộ chưa thực sự thoả đáng để khuyến
khích người lao động dốc hết tâm huyết với nghề nghiệp. Chính những điều
này đã gây ra hiện tượng” chuyển dịch lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao” làm lãng phí nguồn tài nguyên quý giá của đất nước.
Khắc phục những tồn tại yếm kém trên là một yêu cầu bức bách đòi hỏi
không chỉ riêng nhà nước, chính quyền các địa phương mà tất cả mọi doanh
nghiệp, mọi người đều phải có trách nhiệm cùng thực hiện.
52
Với bài viết này tác giả hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé nhằm hoàn thiện
hơn nữa vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao, tiến tới thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước thành công.
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo giáo dục thời đại số 17/1999
2. Chính sách đào tạo người lao động trong cơ chế thị trường. Bộ giáo
dục đào tạo đề tài KX. –07 - 14
3. Cung cầu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đề tài cấp
bộ năm 1996
4. Đánh giá của TS Nguyễn Quốc Anh, Ban khoa giáo trung ương về
chính sách giáo dục đào tạo và sử dụng vốn nguồn nhân lực trong
thời kỳ công nghệ.
5. Các cơ quan chính phủ. Doanh nghiệp lớn của nhà nước, dự báo nhu
cầu cơ bản của thị trường NXB thống kê
6. Kết quả điều tra xã hội học năm 1997 cuỉa TLĐLĐViệt nam vè trình
độ tay nghề của công nhân lao động ở 21 tỉnh thành.
7. Kết qủa điều tra tiền lương, thu nhập trong doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài năm 1995 – Viện KHLĐ và các vấn đề xã hội.
8. Kinh tế học Đaivd Begg.
9. Giáo trình hiệu quả các dự án đầu tư- trường đại học KTQD.
10. Niên giám thống kê và vụ THCN – Dạy nghề bộ GDĐT.
11. Nghiên cứu tổng thể về GD - ĐT và phần tích nguồn nhân lực. Dự
án quốc gia – VIE 89/002.
12. Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học để đáp ứng yêu cầu CNH-
HĐH đất nước (hội nghị chuyên đề bộ GD- ĐT Hà nội tháng)
13. Sự mất cân đối trong đào tạo nguồn nhân lực ở Việt nam và giải
pháp: TS. Trần Kiểm - Viện KHGD.
14. Tin kinh tế ngày 06/ 1996.
15. Tạp chí lao động xã hội.
16. Tham khảo số liệu điều tra 110 doanh nghiệp có vốn ĐTNN năm
1998 về tình hình THBLLĐ.
54
17. Thời báo kinh tế ngày 17/06/1998
18. Phát triển nguồn nhân lực thông qua phương thức GĐ- ĐT nhà
trường – viện KTGD.
19. Thực trạng lao động việc làm ở Việt nam – NXB thống kê năm
1998.
20. Sổ tay thống kê thông tin thị trường lao động Bộ LĐTBXH.
21. Thuật ngữ lao động TBXH- LĐTBXH năm 1999.
22. Văn kiện đại hội VIII hội nghị TW2.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay.pdf