Tài liệu Luận văn Tìm một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước qua hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển: LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề
Trong phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, tín dụng nhà nước nói chung và
tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu
tư toàn xã hội, trong đó có nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Bởi vậy, việc huy
động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT (đặc biệt
là ở những nước đang phát triển) là điều cần thiết.
Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án ĐTPT của
các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của
Nhà nước có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các vùng khó khăn cần
khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
...
109 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1047 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước qua hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề
Trong phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, tín dụng nhà nước nói chung và
tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu
tư toàn xã hội, trong đó có nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Bởi vậy, việc huy
động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT (đặc biệt
là ở những nước đang phát triển) là điều cần thiết.
Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án ĐTPT của
các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của
Nhà nước có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các vùng khó khăn cần
khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) là một tổ chức tài chính nhà nước được Chính
phủ thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 để thực hiện nhiệm vụ
huy động, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng ĐTPT, tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu (HTXK). Kể từ khi thành lập đến nay, vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước thông qua hoạt động của Quỹ HTPT đã có những đóng góp nhất định trong việc
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chiến
lược và có lợi thế, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cho
ĐTPT cũng như phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, việc
nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT là điều cần thiết, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi lựa chọn đề tài: " Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ
Hỗ trợ phát triển " để làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành: Kinh tế các ngành sản
xuất và dịch vụ.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
+ Tập hợp một số vấn đề lý luận về tín dụng của Quỹ HTPT và hiệu quả của nó.
+ Phân tích thực trạng hoạt động của Quỹ HTPT, đánh giá những kết quả đạt
được, các hạn chế trong hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT.
+ Xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam, định hướng, mục tiêu phát
triển kinh tế của Đảng và Chính phủ để đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua
Quỹ HTPT từ khi thành lập đến 31-3-2004.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những nguyên lý chung, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu, các
phương pháp thống kê, phân tích, hệ thống, so sánh được sử dụng để nghiên cứu.
Trong nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn và với kinh nghiệm của
một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc... nhằm rút ra
những bài học kinh nghiệm đối với nước ta.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và hiệu quả của nó.
Chương 2: Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển từ năm 2001 đến nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Chương 1
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
và hiệu quả của nó
1.1. Chức năng và vai trò của tín dụng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người vay có hoàn
trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách khác tín dụng là một phạm
trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong đó mỗi tổ chức, cá nhân nhường quyền sử dụng
một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một tổ chức hay cá nhân với những điều kiện ràng
buộc nhất định: về thời hạn hoàn trả (gốc và lãi); lãi suất; cách thức vay mượn và thu hồi...
Quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển rất lâu dài. Trong chế
độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất ở một trình độ rất thấp kém, công cụ lao động
hết sức thô sơ, cuộc sống phải dựa vào tự nhiên, phân công lao động chưa phát triển... do
lực lượng sản xuất thấp kém như vậy nên chưa thể có sản phẩm dư thừa để dự trữ và do
vậy chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống của đầu óc tư hữu và trong xã hội nguyên thủy
chưa thể có quan hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Lực lượng sản xuất phát triển, cùng
với sự phát triển của phân công lao động xã hội, lúc này con người sản xuất sản phẩm
không chỉ đủ cho tiêu dùng mà còn một phần để tích lũy dự trữ, do đó, xuất hiện mầm
mống của chế độ tư hữu (cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra, xã hội lúc này đã có sự
phân chia kẻ giàu, người nghèo và các giai cấp được hình thành. Chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất hành hóa ra đời, do
đó các quan hệ mua, bán trao đổi và vay mượn cũng ra đời và những hình thức vay mượn
đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa của quan hệ tín dụng.
Như vậy có thể khẳng định, tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế sản
xuất hàng hóa, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa, trong điều kiện
nền kinh tế sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa, tiền tệ thì tồn tại tín dụng là một tất
yếu khách quan, bởi vì nền sản xuất hàng hóa và mối quan hệ hàng hóa hình thành quan hệ
hàng hóa tiền tệ trong xã hội, sự tuần hoàn trong quy trình đó của vốn tiền tệ là tiền đề
khách quan phát sinh các quan hệ tín dụng, tính tất yếu khách quan của tín dụng nảy sinh.
Do đặc điểm của tính luân chuyển của vốn trong sản xuất kinh doanh, sự vận động
của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu làm nảy sinh hiện tượng phổ biến là
trong cùng một thời gian có rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân phát sinh nhu
cầu vốn cần được bổ sung với khối lượng và thời gian cần thiết, đồng thời, trong thời gian
đó có nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và dân cư có những lượng tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi trong một thời gian nhất định, mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xen kẽ lẫn nhau
trong quá trình tuần hoàn của vốn tiền tệ, mâu thuẫn đi đến phải được giải quyết bằng các
phương pháp nhất định sao cho phù hợp với quá trình tuần hoàn đó, có nghĩa là phải tiến
hành tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc có hoàn trả nhằm điều hòa kịp
thời giữa cung và cầu vốn tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất liên tục và tiết kiệm vốn. Như vậy, đặc điểm của tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức đã nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải
được giải quyết bằng các quan hệ kinh tế để tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi trên nguyên tắc có hoàn trả, quan hệ này trở thành một yếu tố quan trọng góp
phần thúc đẩy xã hội loài người đi tới văn minh, thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường
dựa trên nền sản xuất lớn hiện đại đó là quan hệ tín dụng.
1.1.2. Bản chất tín dụng
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho
vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử
dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế - xã hội, tín dụng bao giờ cũng có thời
hạn và phải được "hoàn trả". Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được
nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.
1.1.3. Chức năng của tín dụng
Tín dụng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất
những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động của vốn tiền tệ trong
xã hội, tín dụng có ba chức năng chính như sau:
+ Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà
các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng
nhằm phát triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành
chức năng cốt lõi của tín dụng.
Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc
hoàn trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn đồng thời thúc
đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả.
+ Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội
Hoạt động của tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu
thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương tiện thanh
toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, chuyển khoản hoặc bù trừ... cho phép thay
thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó làm giảm bớt các chi phí có liên quan như
in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền...
+ Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của
vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hóa, chi
phí trong các doanh nghiệp, vì vậy qua đó tín dụng không những là tấm gương phản ánh
hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các hoạt
động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, vi phạm luật pháp... trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.1.4. Vai trò của tín dụng
Nói đến vai trò của tín dụng nghĩa là nói đến sự tác động của tín dụng đối với nền
kinh tế - xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm vai trò hai mặt tích cực, mặt tốt, và mặt tiêu
cực, mặt xấu. Chẳng hạn, nếu để tín dụng phát triển tràn lan không kiểm soát, thì không những
không làm cho nền kinh tế phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia tăng gây ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội.
Nếu xét về mặt tích cực, tín dụng có vai trò to lớn sau đây:
Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa lưu thông phát triển: Tín
dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động) cho các
doanh nghiệp các tổ chức kinh tế; tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn
một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, là công cụ thúc đẩy tích tụ vốn cho các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế.
Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả: Trong khi thực hiện
chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng góp phần làm giảm
khối lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp
dân cư, làm giảm lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng
vốn cho nền kinh tế, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ
làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần
làm ổn định thị trường giá cả trong nước...
Ba là, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm: Tín dụng có tác
dụng thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu
đời sống của người lao động. Mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong
việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao động,
đất, rừng... do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng
sản xuất mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, có thể nói, tín dụng có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các
mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển của tín dụng
không những ở đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm
giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước,
làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
1.1.5. Các hình thức tín dụng
* Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa cho nhau.
Tín dụng thương mại ra đời sớm hơn các hình thức tín dụng khác và giữ vai trò là
cơ sở để các hình thức tín dụng khác ra đời.
Tín dụng thương mại ra đời dựa trên nền tảng khách quan là quá trình luân chuyển
vốn và chu kỳ sản xuất kinh doanh không có sự phù hợp và ăn khớp lẫn nhau không những
giữa các doanh nghiệp khác ngành (như công nghiệp, thương mại, xây dựng) mà còn giữa
các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Sự không ăn khớp này dẫn đến hiện tượng trong
một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản xuất ra một lượng hàng hóa đang cần bán, nhưng
chưa cần phải thu tiền ngay, trong khi một số doanh nghiệp khác lại cần mua những sản phẩm
hàng hóa ấy để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền.
Hiện tượng này có thể giải quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua bán chịu
hàng hóa cho nhau. Đó chính là tín dụng thương mại. Như vậy tín dụng thương mại đều có
lợi đối với cả hai phía, và có lợi đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế, bởi vậy tín
dụng thương mại đã tồn tại và phát triển rất mạnh trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa
phát triển cao như hiện nay.
* Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp
và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và
cho vay (cấp tín dụng) đối các đối tượng nói trên. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ
của ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là cho vay dưới dạng tiền tệ. Nguồn vốn tín
dụng mà ngân hàng cho vay ra được hình thành từ những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi ngân
hàng huy động được. Trong quan hệ với các doanh nghiệp và cá nhân, vừa đóng vai trò là
"người đi vay", vừa đóng vai trò "người cho vay".
Tín dụng ngân hàng ra đời phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống
ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chuyên
nghiệp hoạt động của nó hết sức đa dạng và phong phú.
* Tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức tài
chính tiền tệ được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm trợ giúp lẫn nhau để
phát triển kinh tế xã hội của một nước.
* Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước (bao gồm Chính phủ, chính
quyền địa phương...) với các đơn vị và cá nhân trong xã hội, trong đó, chủ yếu là Nhà nước
đứng ra huy động vốn của các tổ chức và cá nhân bằng cách phát hành trái phiếu để sử
dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn xã hội.
Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phục vụ các đối
tượng kinh tế đơn thuần, mà là các đối tượng vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã
hội, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định,
tín dụng nhà nước không phải là khoản thu của Nhà nước.
Cũng giống như mọi loại hình tín dụng khác là thể hiện tính hoàn trả, có thời hạn
và phải trả một khoản tiền về sử dụng vốn vay. Trong tín dụng nhà nước, vốn tiền tệ huy
động được dưới hình thức công trái (trái phiếu Chính phủ) thuộc quyền sử dụng của Nhà
nước, chúng được chuyển thành nguồn tài chính bổ sung của Nhà nước. Vốn ngân sách là
nguồn để hoàn trả tiền vay và lãi vay. Tín dụng nhà nước gắn liền với hoạt động của kiến
trúc thượng tầng chính trị và sự vận động của vốn ngân sách, biểu hiện một bộ phận của
quan hệ tài chính Nhà nước.
Toàn bộ nguồn vốn huy động được dưới hình thức tín dụng nhà nước chủ yếu để
cho vay ưu đãi, ưu tiên cho các dự án và công trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội hoặc đầu tư các dự án phát triển sản xuất kinh doanh.
1.2. tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
1.2.1. Khái niệm
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ ra đời khi mục đích của tín dụng nhà nước
chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả. Tính kinh tế của hoạt động
tín dụng ĐTPT của Nhà nước xuất hiện khi các hoạt động đầu tư được sử dụng từ nguồn
vốn này để tạo ra nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Giống như các
hình thức tín dụng khác, cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần tập
trung được nguồn vốn cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn
và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở rộng và chủ
động trong việc giải quyết các mục tiêu vào ĐTPT.
Tuy nhiên, tín dụng ĐTPT của Nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở
đó tính kinh tế của tín dụng nhà nước không phải là kinh tế đơn thuần. Thông thường tính
kinh tế của tín dụng ĐTPT của Nhà nước có những đặc tính sau:
- Tính kinh tế vĩ mô: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực
then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả nước, hoặc một ngành,
một vùng, hay một khu vực.
- Tính xã hội: Tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà tín
dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết được (do hiệu
quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc qui mô nguồn vốn quá lớn, hay
thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước: việc
làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế
vùng,...
1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Cơ chế kinh tế thị trường luôn có những khuyết tật cố hữu, đó là sự phân hóa giàu
nghèo, khai thác tài nguyên, nguồn lực một cách bừa bãi, ảnh hưởng ô nhiễm môi trường
và sức khỏe dân cư làm thiệt hại đến lợi ích cộng đồng, tính chu kỳ trong phát triển kinh tế
đôi khi dẫn đến sự lầm đường lạc lối như khủng hoảng, độc quyền, lạm phát và thất
nghiệp.
Để đối phó với những khuyết tật này, nền kinh tế hiện đại là nền kinh tế hỗn hợp
giữa thị trường - bàn tay vô hình và sự quản lý của Nhà nước - bàn tay hữu hình đang ngày
càng chiếm ưu thế, ở đây nền kinh tế thị trường gắn liền với vai trò điều tiết kinh tế của
Nhà nước.
Thực hiện vai trò điều tiết kinh tế, Nhà nước thường sử dụng các công cụ tài chính
vốn có như thuế, phí, chi ngân sách nhà nước (NSNN),... Ngoài ra, Nhà nước còn thành
lập các doanh nghiệp nhà nước và thông qua đó thực hiện việc đầu tư theo mục tiêu của
Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Hoạt động của các doanh nghiệp này thường nằm trong
các lĩnh vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực hoạt động có tính
chất xã hội. Đối với các doanh nghiệp này, tùy theo điều kiện lịch sử, đặc điểm kinh tế
từng thời kỳ và yêu cầu phát triển kinh tế đất nước từng giai đoạn mà Nhà nước thường
cung cấp vốn dưới dạng cấp phát trực tiếp không hoàn lại hoặc tín dụng. Như vậy, tín dụng
ĐTPT của Nhà nước là một đòi hỏi khách quan, tất yếu trong đầu tư cơ bản của Chính phủ
trong một giai đoạn lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế ở mỗi nước.
Đối với nền kinh tế chuyển đổi hiện nay, Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng để
tham gia hoạt động ĐTPT là một vấn đề tất yếu, do đó vai trò điều tiết kinh tế của Nhà
nước lúc này cần được tăng cường vì phải xây dựng các nền tảng hạ tầng cơ sở cần thiết
cho nền kinh tế và phần nào hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ
thuật, hạ giá thành, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh sản phẩm,... Để thực hiện được
nhiệm vụ nặng nề này, phạm vi cấp phát không hoàn lại vốn đầu tư từ NSNN cho ĐTPT
kinh tế phải thu hẹp, thay thế vào đó là mở rộng diện tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với
các hoạt động chi ĐTPT của Nhà nước nhưng có khả năng thu hồi vốn. Đấy chính là một
trong những nội dung cải cách NSNN ở các nước chuyển đổi nền kinh tế. Tín dụng ĐTPT
của Nhà nước trong trường hợp này là một hình thức mang tính quá độ để các doanh
nghiệp làm quen dần với cơ chế tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh
của mình. Đối với một số doanh nghiệp nhà nước, tín dụng ĐTPT của Nhà nước có thể là
những bước hỗ trợ chuyển tiếp để phát triển và sau đó có thể chuyển giao cho khu vực
ngoài quốc doanh thông qua cổ phần hóa.
Mặt khác, trong xu thế toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế, để có thể tham gia vào nền
kinh tế thế giới, trong điều kiện các thể chế kinh tế - tài chính của các nước đang phát triển
chưa có thời gian tiếp cận khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế. Nhà nước của các
nước đang phát triển luôn phải thực hiện chức năng trung gian hoặc nhà bảo lãnh cho các
hoạt động tài chính đối ngoại. Thực tế, Nhà nước đã phải đứng ra thực hiện việc cho vay
lại hoặc bảo lãnh đối với các khoản tín dụng nước ngoài.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc điều tiết kinh tế là một việc làm thiết yếu
của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp và tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ
điều tiết kinh tế vĩ mô trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.3. Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Xét trên nhiều phương diện, tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ là biện
pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi bổ sung cho nguồn vốn tài chính Nhà nước mà còn là
công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện việc điều tiết và kiểm soát vĩ mô.
Vai trò điều tiết nền kinh tế và kiểm soát vĩ mô bằng tín dụng ĐTPT của Nhà nước được
biểu hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau:
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc
lành mạnh hóa nền tài chính - tiền tệ quốc gia
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng và phân bổ
nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Việc tập trung và phân bổ nguồn
vốn luôn có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nhà nước có thể tập trung một
cách nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu cầu với thời gian dài và chi phí không cao.
Khả năng này sẽ giúp Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia.
Việc ra đời của cơ chế tín dụng ĐTPT Nhà nước còn là một tác nhân quan trọng
trên thị trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng khoán và của khu vực các
thể chế tài chính phi ngân hàng.
Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng hết sức
quan trọng. Việc xóa bỏ cơ chế tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách là nền tảng cho việc lành
mạnh hóa khu vực tiền tệ - ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định giá trị đồng nội tệ.
Cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời là cơ sở để tách các hoạt động tín
dụng mang tính kinh tế - xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại của khu vực trung
gian tài chính, chuyển hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính sang cơ chế hạch
toán kinh doanh hoàn toàn. Việc tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng ngân hàng có
tác dụng tích cực trong việc hạn chế rủi ro về tính thanh khoản của các ngân hàng thương
mại.
Vấn đề có ý nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã
tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu chuyển, điều hòa các
nguồn tài chính trong nền kinh tế - một vấn đề thiết yếu đối với việc duy trì liên tục và mở
rộng phát triển nền sản xuất hàng hóa.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách tiền tệ... Tín
dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ đắc lực, hữu hiệu của Nhà nước điều tiết nền
kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Mục tiêu đặt ra đối với tín dụng ĐTPT là thực hiện chức năng điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát
triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển các lĩnh vực ngành nghề,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Mặt khác, tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào những
ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tăng sản
phẩm xã hội,... nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, bảo
đảm không tụt hậu hoặc đi chệch xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới, khu
vực.
- Tín dụng ĐTPTcủa Nhà nước nâng cao hiệu quả đầu tư, xóa bao cấp về đầu
tư
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước làm giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà nước đối với
lĩnh vực đầu tư có khả năng hoàn vốn mà trước đây vẫn được Nhà nước cấp không hoàn
lại. Từ đó đã giảm đáng kể áp lực về nguồn vốn đối với NSNN. Đồng thời, tín dụng ĐTPT
của Nhà nước cũng góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư, thúc đẩy
huy động vốn đặc biệt là huy động vốn dài hạn trong mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp
dân cư nhằm thực hiện chủ trương phát huy nội lực cho phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn góp phần nâng cao hiệu quả trong
đầu tư. Các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước được đưa ra chặt chẽ
nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong quá trình đầu tư một cách nghiêm ngặt. Dưới các
áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh
và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các
khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi cho khoản tín dụng nhà nước. Đây cũng là động lực
mạnh mẽ tạo nên tư duy làm ăn có hiệu quả, là yếu tố quan trọng trong việc động viên trí
tuệ, sức lực của toàn dân nhằm phát huy nội lực cho công cuộc xây dựng đất nước.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư đổi mới
công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh
Khi được tiếp nhận nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hoặc được bảo lãnh hay
hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (LSSĐT), các doanh nghiệp thuộc đối tượng sẽ có cơ hội mở
rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ,
tăng qui mô phát triển sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ khuyến khích và lôi kéo các thành
phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết yếu
cho sản xuất hoặc phát triển một số khâu nào đó của quá trình sản xuất. Khi một dự án đầu
tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ sẽ làm cho năng lực sản xuất tăng
lên, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và
chất lượng cao, trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ
tiết kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài
vào, tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới với chất lượng đảm bảo,
giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài để thu ngoại tệ. Các dự án về cơ sở hạ
tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông đường không, bộ, thủy, khu công
nghệ cao... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề phát triển cho các ngành kinh tế
khác.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao động, giữ
vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội
Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng được
Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với mục đích là hỗ trợ các dự
án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình
kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì sẽ không phát triển
được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả kinh tế trực tiếp, do đó, khi
thửùc hieọn ủaàu tử phaựt trieồn saỷn xuaỏt tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa hoặc
các ngành nghề thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà nước đối với các thành phần
kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế... còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động,
giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội, như thông qua chương trình mía đường của
Chính phủ, ngoài ý nghĩa kinh tế góp phần không phải nhập khẩu thì đã tạo được việc làm cho
trên 470.000 nông dân ở các vùng nông thôn, miền núi trồng mía để cung cấp cho các Nhà
máy đường; chương trình đánh cá xa bờ của Chính phủ, ngoài ý nghĩa kinh tế tạo ra hàng hóa
xuất khẩu góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước, còn có ý
nghĩa về chính trị, đó là bảo vệ an ninh bờ biển của nước ta, tạo ra công ăn việc làm cho trên
200.000 lao động tại các tỉnh ven biển...
1.2.4. Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của ngân sách, hoặc nguồn vốn huy động theo kế
hoạch của Nhà nước để phục vụ đầu tư theo chủ trương của Nhà nước.
- Tổ chức làm nhiệm vụ quản lý và cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hệ
thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập và hoạt động theo
nghị định của Chính phủ.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là những dự án đầu tư theo
các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu tư của Nhà nước, theo chính
sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cớ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đã được qui định
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Chu kỳ cho vay thường dài, lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là
lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, do Chính phủ quy định phù hợp với chủ trương
khuyến khích ĐTPT kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
1.2.5. Phân biệt tín dụng ĐTPT của Nhà nước với các hình thức tín dụng
khác
So với các hình thức tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng
quốc tế, tín dụng ĐTPT của nhà nước cũng hoạt động với nguyên tắc vay trả. Tuy nhiên,
tín dụng ĐTPT của Nhà nước với bản chất riêng luôn có những đặc thù so với các loại
hình tín dụng khác, cụ thể:
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước gắn với việc điều tiết kinh tế vĩ mô theo chủ
trương của Nhà nước.
- Đối tượng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tập trung vào
các lĩnh vực then chốt, có tác động đến tăng trưởng kinh tế, mà các thành phần kinh tế
khác không đảm nhận được vì các lý do như mức độ sinh lời thấp, nhu cầu vốn lớn, thời
hạn đầu tư dài,... nên thường phải gắn với những ưu đãi nhất định. Chẳng hạn, lãi suất
thường thấp hơn lãi suất thị trường cùng kỳ, qui mô cho vay lớn hơn và các điều kiện đảm
bảo nợ vay với giá trị thường thấp hơn khoản vay,...
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tính lịch sử, thường tồn tại và phát triển trong
giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các nhà đầu
tư đã quen với hoạt động cạnh tranh,... thì vai trò can thiệp, điều tiết kinh tế của Nhà nước
giảm, nên phạm vi tín dụng đầu tư của Nhà nước thu hẹp lại để chuyển dần sang tín dụng
thương mại.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước do Nhà nước xác định và
được bố trí thông qua kế hoạch đầu tư của Nhà nước.
1.2.6. Các nội dung chính trong quản lý tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước
Hiện nay, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định
số 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ và Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg
ngày 10-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định số
43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ
* Mục đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ các dự án ĐTPT của các
thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước
và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.
* Nguyên tắc tín dụng chỉ hỗ trợ cho những dự án đầu tư Nhà nước cần khuyến
khích, có hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo hoàn trả được vốn vay.
Một dự án có thể được hỗ trợ đồng thời bằng hai hình thức cho vay đầu tư và bảo
lãnh tín dụng đầu tư. Việc cho vay vốn đầu tư phải thực hiện đúng theo mục tiêu và tiến độ
đầu tư của dự án. Dự án đó phải được Quỹ thẩm định phương án trả nợ vốn vay và chấp
thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư.
* Nguồn vốn tín dụng: Bao gồm các nguồn sau: Vốn điều lệ của Quỹ; vốn NSNN
cấp hàng năm; vốn thu hồi nợ hàng năm; vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ; vốn vay
nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại; vốn huy động như vay lại các
Quỹ: Tích lũy nước ngoài; tiết kiệm bưu điện; bảo hiểm xã hội hoặc huy động khác.
Nguồn vốn này được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu: Cho vay đầu tư, hỗ trợ LSSĐT,
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư, trả nợ vốn vay.
* Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được
thực hiện thông qua các hình thức: Cho vay trung dài hạn để đầu tư, hỗ trợ LSSĐT, bảo
lãnh tín dụng đầu tư.
Đối tượng cho vay đầu tư: Là các dự án ĐTPT có khả năng thu hồi vốn trực tiếp
(bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công
nghệ mở rộng sản xuất) của các thành phần kinh tế đầu tư tại các vùng khó khăn theo quy
định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước
(sửa đổi) thuộc các ngành. Các dự án có sử dụng vốn HTPT chính thức (ODA) cho vay lại.
Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Điều kiện cho vay: Dự án phải thuộc đối tượng quy định, có đầy đủ thủ tục đầu
tư và xây dựng theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Chủ đầu tư là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tổ chức
và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, sản xuất kinh doanh có lãi, có
phương án trả được nợ vay được Quỹ chấp nhận, thực hiện các quy định về đảm bảo tiền
vay theo quy định của Nhà nước.
Mức vốn cho vay: Mức vốn cho vay đối với các dự án đặc biệt: theo Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ. Mức vốn cho vay đối với các dự án thuộc các chương trình phát
triển kinh tế của Nhà nước: 85% - 100% tổng vốn đầu tư của dự án. Mức vốn cho vay đối với
các dự án khác: 50% - 70% tổng vốn đầu tư.
Thời hạn cho vay: Tối đa 10 năm, trường hợp đặc biệt trên 10 năm.
Lãi suất cho vay: Tại thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay là 5,4%/ năm. Khi lãi suất
cơ bản của Ngân hàng Nhà nước tăng, giảm 10%, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định điều
chỉnh. Một số dự án thuộc diện được ưu đãi đặc biệt, lãi suất cho vay 3%/ năm và 0%/
năm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng.
Đảm bảo tiền vay: Nếu chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước được dùng tài sản
hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay. Nếu chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp
nhà nước, ngoài việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay, phải có tài
sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay. Những trường hợp đặc biệt do Thủ
tướng quyết định.
Rủi ro và xử lý rủi ro: Các dự án vay vốn bị rủi ro do các nguyên nhân khách
quan:
- Do chính sách nhà nước thay đổi, do biến động của giá cả thị trường trong và
ngoài nước ngoài dự kiến đã tính toán trong dự án khả thi mà chủ đầu tư gặp khó khăn
trong việc trả nợ vay, thì được xem xét gia hạn nợ, miễn, giảm lãi tiền vay, khoanh nợ.
- Do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ làm mất tài sản, được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền xác nhận mà chủ đầu tư không trả được nợ, thì sau khi đã nhận được tiền
bồi thường của cơ quan bảo hiểm (nếu có) được xem xét xóa một phần hoặc toàn bộ nợ
vay.
Các khoản bù đắp rủi ro nói trên được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng
rủi ro được trích 2% từ nguồn thu lãi cho vay hàng năm. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro
không đủ bù đắp thì Hội đồng quản lý Quỹ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định.
- Thẩm quyền xử lý rủi ro: Quỹ quyết định gia hạn nợ, miễn giảm lãi tiền vay. Thủ
tướng chính phủ quyết định khoanh nợ, xóa nợ trên cơ sở đề nghị của Quỹ.
Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Đối tượng hỗ trợ LSSĐT: Là các dự án thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư
theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư
trong nước (sửa đổi) do chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp
tại Việt Nam để đầu tư, đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay.
Mức hỗ trợ LSSĐT: Mức hỗ trợ LSSĐT hàng năm của dự án được tính bằng nợ
gốc trong hạn thực trả trong năm nhân với 50% lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước,
nhân (x) với thời hạn thực vay đối với nợ gốc được hỗ trợ lãi suất. Thời hạn hỗ trợ LSSĐT
tối đa bằng thời hạn quy định đối với dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư
Đối tượng được bảo lãnh: Là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được
hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) nhưng không được hỗ trợ LSSĐT, không được
vay hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Mức bảo lãnh: Đối với các dự án đặc biệt thực hiện theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, các dự án nông
nghiệp, mức bảo lãnh tối đa đến 100% số vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Đối với các dự án
khác mức bảo lãnh từ 50% đến 80% trị giá khoản vay.
Thời hạn bảo lãnh: Phù hợp với thời hạn vay vốn trong hợp đồng tín dụng đã ký
giữa chủ đầu tư với tổ chức tín dụng cho vay thực hiện dự án.
Điều kiện được bảo lãnh: Đã được tổ chức tín dụng thẩm định cho vay và có văn
bản yêu cầu bảo lãnh. Được Quỹ HTPT chấp thuận phương án tài chính, phương án trả nợ
vốn vay và phải có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh.
Phí bảo lãnh: 0,5%/năm tính trên số tiền đang bảo lãnh. Đối với các dự án sản
xuất hàng xuất khẩu: 0,3%/ năm tính trên số tiền đang bảo lãnh.
+ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-09-
2001 của Thủ tướng Chính phủ
Tín dụng ngắn hạn HTXK là ưu đãi của Nhà nước nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế và cá nhân phát triển sản xuất hàng xuất khẩu theo chính sách khuyến
khích xuất khẩu của Nhà nước.
Hình thức tín dụng ngắn hạn được quy định theo các nội dung chủ yếu sau:
Đối tượng được vay vốn ngắn hạn HTXK là các đơn vị thực hiện xuất khẩu
hàng hóa, gồm các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh các mặt hàng thuộc chương trình
ưu tiên khuyến khích xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định hàng năm hoặc trong
từng thời kỳ.
Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng 80% lãi suất tín dụng ĐTPT
của Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng và được giữ cố định trong suốt thời hạn vay vốn.
Hiện nay đang áp dụng mức lãi suất 0,36%/ tháng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất
nợ trong hạn.
Thời hạn cho vay: Tùy thuộc nhu cầu sử dụng vốn để thực hiện hợp đồng xuất
khẩu nhưng tối đa không quá 12 tháng. Trường hợp cho vay xuất khẩu hàng trả chậm đến
720 ngày thực hiện theo danh mục mặt hàng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Hình thức cho vay: Có hai hình thức cho vay: Cho vay trước khi giao hàng: theo
hợp đồng xuất khẩu hoặc theo L/C, hoặc cho vay sau khi giao hàng: cho vay theo bộ
chứng từ hợp lệ.
Mức vốn cho vay: Tối đa 70% giá trị hợp đồng xuất khẩu, 80% trị giá L/C hoặc
90% giá trị bộ chứng từ hàng xuất.
1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
+ Các nhân tố về môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội
- Môi trường chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của bất kỳ
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội nào. Trong tình hình chính trị không ổn định, thì
không chỉ riêng doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh mà bản thân tổ chức cho vay cũng khó
có thể tập trung vào đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh và trong điều kiện như vậy việc
duy trì sự phát triển như cũ đã là khó chứ chưa nói đến việc mở rộng. Hơn nữa sự bất ổn
về chính trị sẽ dẫn đến sự mất lòng tin đầu tư của dân chúng cũng như các chủ doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Khả năng huy động vốn khó khăn, vì vậy nguồn vốn cho
ĐTPT cũng sẽ bị hạn chế.
- Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ có tác dụng
rất lớn đến chất lượng công tác tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu.
- Một hệ thống pháp luật đầy đủ, chuẩn tắc và đồng bộ trước hết sẽ tạo niềm tin
được bảo hộ chính đáng trong quá trình đầu tư, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp cũng
như tổ chức tín dụng hoạt động được thuận lợi.
- Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế - xã hội tác
động lên hoạt động của doanh nghiệp, đó chính là các cơ chế chính sách của Nhà nước đề
ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt được những mục
tiêu đề ra trong tương lai. Môi trường kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho lưu thông hàng
hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt động tín dụng sẽ thuận lợi hơn. Nền kinh tế
ổn định tăng trưởng tốt thì có nghĩa là đầu tư sẽ tăng, đồng thời với nó là hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả cao và có khả năng hoàn trả được vốn vay.
+ Các nhân tố về tổ chức quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước
- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng: Năng lực thẩm định trước khi cho vay:
đây là yếu tố đảm bảo chất lượng của khoản vay và dự án. Năng lực thẩm định cao sẽ loại
trừ được sai lệch trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp, việc dự đoán tương lai hoạt
động, khả năng sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất lượng tín dụng càng lớn.
Theo dõi chặt chẽ tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo cho việc sử dụng
vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Nâng cao năng lực giám sát
và xử lý tín dụng cũng chính là biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng.
- Tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và qui trình nghiệp vụ: Quy định rõ về
quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận sẽ có tác động lớn trong các mối
quan hệ của từng bộ phận trong quá trình quản lý từ khâu thẩm định đến khi thiết lập quan
hệ tín dụng và thu hồi hết nợ, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tình trạng
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong tín dụng.
Quy trình nghiệp vụ khoa học, quy định rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân từng
bộ phận sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay,
giảm yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Các nhân tố về phía tổ chức hưởng hỗ trợ tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu
hiện giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định: Biểu hiện cụ thể là quá
trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, đầu tư trước đây có kết quả như thế nào.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể
hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn sử dụng. Năng
lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn
thì càng có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.
- Khả năng tổ chức, quản lý của doanh nghiệp: Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ
máy có năng lực quản lý phù hợp. Năng lực quản lý còn thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch
toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với các qui định của pháp luật.
- Sự đáp ứng của dự án với điều kiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước: Dự án đầu tư
phải thuộc đối tượng cần được khuyến khích đầu tư theo qui định của Nhà nước. Dự án
phải chứng minh được sự cần thiết, mục đích, kết quả của đầu tư. Sự phù hợp của quá trình
đầu tư với qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chủ đầu tư phải có đủ vốn tự có
tham gia đầu tư theo tỷ lệ qui định, có khả năng hoàn trả nợ từ bản thân dự án và từ các
khoản thu nhập hợp pháp khác của doanh nghiệp.
1.3. Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát triển
1.3.1. Tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển
Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính nhà nước, được Chính phủ thành lập theo
Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 6-7-1999 để thực hiện chính sách hỗ trợ ĐTPT của
Nhà nước thông qua một số hoạt động như cho vay, thu nợ các dự án đầu tư; bảo lãnh vay
vốn đối với các chủ đầu tư; tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh đối với các quỹ đầu tư; hỗ trợ
LSSĐT đối với các dự án ưu đãi của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực,
chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư...
Hoạt động của Quỹ không vì mục đích lợi nhuận, nhưng phải bảo đảm hoàn vốn và bù đắp
chi phí. Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản nộp NSNN để giảm lãi suất cho vay và
giảm phí bảo lãnh. Quỹ HTPT được NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, bố trí vốn hỗ trợ
LSSĐT, được bù đắp rủi ro do nguyên nhân khách quan khi thực hiện cho vay đầu tư và bảo
lãnh tín dụng đầu tư. Đồng thời, với tính chất cho vay ưu đãi, hoạt động cho vay đầu tư
của Quỹ luôn có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thương mại trên thị trường. Trong
trường hợp lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động, Quỹ được Nhà nước cấp bù chênh
lệch lãi suất. Đây là điểm hết sức khác biệt so với các tổ chức tín dụng khác. Như vậy, hoạt
động cơ bản của Quỹ HTPT là hoạt động tín dụng, một trong những nội dung của tín dụng
nhà nước.
1.3.2. Quan điểm về hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại".
Đây là khái niệm chung nhất về hiệu quả. Vậy, trong trường hợp cụ thể đối với hoạt động
tín dụng của Quỹ thì hiệu quả được hiểu như thế nào?
Hoạt động tín dụng của Quỹ được xem là có hiệu quả khi nó mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội cho cả Quỹ, các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và cả nền kinh tế
quốc dân. Nghĩa là, bên cho vay, trong đó có Quỹ thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời
gian trong hạn. Còn đối với khách hàng vay vốn, nhờ có vốn tín dụng được vay đã góp
phần làm cho họ sản xuất kinh doanh có lãi, làm cho họ thực hiện được chức năng vốn có
của mình và đối với nền kinh tế quốc dân, khoản tín dụng đó phải có ảnh hưởng tích cực
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là việc Quỹ HTPT cùng các
đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và các cơ quan chức năng chủ động tìm ra giải pháp
để bên cho vay hạn chế tới mức thấp nhất nợ quá hạn phát sinh; bên đi vay vốn sản xuất
kinh doanh sử dụng vốn vay có hiệu quả, có lợi nhuận càng cao càng tốt và hoạt động của
Quỹ HTPT sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ
phát triển
Muốn tăng trưởng kinh tế thì phải huy động tối đa các nguồn lực cho ĐTPT. Tín
dụng trung dài hạn nói chung và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói riêng là một
trong những nguồn vốn quan trọng cho ĐTPT. Quỹ HTPT, với tư cách là đầu mối trung
tâm tiếp nhận, huy động, quản lý và thực hiện nguồn vốn này, có vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ nhất: Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông
qua hoạt động, Quỹ hỗ trợ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp ĐTPT sản xuất thuộc các
ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến
khích đầu tư.
Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ sẽ làm
cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã,
phong phú về chủng loại và chất lượng cao. Do đó, nhu cầu tiêu dùng của xã hội sẽ tăng
lên. Nếu các dự án đầu tư vào sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất có hiệu quả,
trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết kiệm được
một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài vào. Nếu đầu
tư vào công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng sẽ tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với
sản phẩm mới với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước
ngoài để thu ngoại tệ.
Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông
đường không, bộ, thủy, khu công nghệ... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề
phát triển cho các ngành kinh tế khác.
Thứ hai: Thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu. Đối với những nước đang phát
triển, nếu kim ngạch xuất khẩu tăng lên, hàng hóa đứng vững được trên thị trường quốc tế
với thị phần ổn định sẽ khẳng định: sản phẩm có sức cạnh tranh cao, máy móc thiết bị,
trình độ công nghệ đã được quan tâm đúng mức. Quy chế tín dụng xuất khẩu mới mở ra
theo đó khuyến khích đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu không kể trung, dài
hay ngắn hạn và ngành nghề. Đây thực sự là một kích thích tố mạnh mẽ nhằm tăng kim
ngạch xuất. Như vậy, hoạt động của Quỹ HTPT là một trong những nhân tố thúc đẩy xuất
khẩu của nước nhà.
Thứ ba: Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Với
đặc điểm hạn chế về đối tượng được hưởng ưu đãi theo quy định hiện hành của Chính phủ,
thông qua các hoạt động của mình, Quỹ có thể tập trung cho vay phát triển ngành này, hay
ngành khác. Điều đó, có nghĩa là khuyến khích và thúc đẩy lĩnh vực, ngành đó phát triển
hơn so với các ngành khác. Như vậy, hoạt động của Quỹ có tác động đối với các ngành kinh
tế và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là đặc biệt quan tâm tới công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh
tế đối ngoại; nâng cấp cải tạo và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế; xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu
đòi hỏi bức bách phải có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và
hiệu quả.
Thứ tư: Tạo thêm việc làm cho người lao động. Giải quyết việc làm là vấn đề hết
sức quan trọng mà bất cứ nhà nước nào trên thế giới đều rất quan tâm. Một trong những ưu
tiên của Quỹ là các dự án đầu tư tạo thêm được nhiều việc làm mới. Khi thực hiện ĐTPT
sản xuất, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế... còn tạo việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã hội.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ
trợ phát triển
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT. Tuy
nhiên, những nhân tố cơ bản, quan trọng và tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động tín dụng của Quỹ bao gồm: Năng lực quản lý của người lãnh đạo Quỹ, chính sách lãi
suất của Nhà nước, năng lực giám sát và thẩm định của đội ngũ cán bộ thuộc Quỹ và tổ
chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ.
- Yếu tố con người, tổ chức, chính sách luôn luôn có tầm quan trọng đặc biệt.
Năng lực quản lý của người lãnh đạo có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động của
Quỹ. Nếu năng lực của người lãnh đạo yếu, bộ máy tổ chức không hợp lý, các sách lược
kinh doanh không phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì
các hoạt động của Quỹ, mà chủ yếu là hoạt động tín dụng có hiệu quả thấp hoặc không có
hiệu quả và ngược lại.
- Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính, mục tiêu của Quỹ không vì mục đích lợi
nhuận. Song, Quỹ HTPT vẫn phải bảo tồn được vốn của mình khi cho vay đầu tư, để có
nguồn vốn tái đầu tư và cũng hạn chế sự bao cấp của nhà nước. Vì vậy, lãi suất là yếu tố
quan trọng không chỉ đối với hoạt động của Quỹ mà còn giúp chủ thể vay vốn sử dụng vốn
vay có hiệu quả hơn. Lãi suất của Quỹ do Nhà nước quy định thường thấp hơn so với lãi
suất Ngân hàng. Trong những trường hợp thị trường biến động, sự chênh lệch giữa lãi suất
cho vay ưu đãi và lãi suất cho vay thương mại là rất lớn hoặc không đáng kể. Nếu chính
sách lãi suất của Nhà nước không được điều chỉnh kịp thời thì hoạt động của Quỹ sẽ bị ảnh
hưởng rất lớn. Các khách hàng có thể sẽ tìm đến với các ngân hàng thương mại khi sự
chênh lệch đó là ít mặc dù họ được ưu đãi về vay vốn đầu tư thay vì đến với Quỹ. Hoặc có
thể họ sẽ tập trung tới Quỹ, khi đó Quỹ sẽ khó có khả năng đáp ứng kịp thời. Do vậy, hiệu
quả hoạt động tín dụng của Quỹ hỗ trợ sẽ thấp.
- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng của Quỹ HTPT:
Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đảm bảo hiệu quả của
khoản vay và dự án. Nếu năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong việc cung
cấp thông tin của khách hàng cũng như khả năng sử dụng vốn vay của khách hàng. Năng
lực thẩm định của cán bộ tín dụng thể hiện ở năng lực phân tích tài chính và xử lý các
thông tin tín dụng. Nếu thiếu khả năng này, tổn thất trong hoạt động tín dụng sẽ không
tránh khỏi. Do đó, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT sẽ thấp.
Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng như
ban đầu dự đoán, hạn chế xảy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng. Theo dõi sát sao và chặt
chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo việc sử dụng
vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi.
- Tổ chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ: Hoạt động của Quỹ HTPT có triển khai
được thuận lợi và có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ chức bộ máy và quy
trình nghiệp vụ. Việc quy định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận, mối
quan hệ của từng bộ phận sẽ có tác dụng quan trọng trong quá trình thực hiện từ thẩm định
đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi vốn (gốc + lãi). Quy trình quản lý tín dụng
được bố trí khoa học, rõ ràng sẽ góp phần quan trọng làm nâng cao chất lượng của thông
tin tới cấp ra quyết định cho vay, giảm các yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng
để nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT.
1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của
Quỹ Hỗ trợ phát triển
* Các chỉ tiêu định tính
Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện qua khả năng thu được
nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng đối với Quỹ
HTPT; khả năng sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn từ Quỹ và tác động đến
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, về mặt định tính, chất lượng hoạt động tín
dụng được đánh giá qua các mặt sau:
Thứ nhất: Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện ở khả năng
thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng. Nghĩa
là, hoạt động tín dụng phải bảo đảm để Quỹ HTPT thực hiện được chức năng mà Nhà
nước đã giao, đồng thời phải mang lại thu nhập cho Quỹ HTPT đủ để trang trải các khoản
chi phí liên quan và hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro (không thu hồi được vốn cho vay
hoặc thu hồi chậm).
Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT còn thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng. Nói cách khác, đối với bên đi vay thì điều này trước hết biểu hiện ở
chỗ thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên, vẫn phải bảo đảm những nguyên tắc an toàn
cần thiết và theo những quy trình nhất định), cung cấp vốn đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời.
Qua đó, bên đi vay sẽ tiết kiệm được các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là sẽ
không bỏ lỡ những cơ hội sản xuất kinh doanh tốt.
Thứ hai: Khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả của bên đi vay. Nói một cách
khác, bên đi vay sử dụng vốn vay được từ Quỹ HTPT phục vụ tốt hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như mục tiêu khi đi vay đề ra.
Thứ ba: Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng, địa phương
và cả nước. Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả bên đi vay và Quỹ đều hoạt động tốt. Nó
được biểu hiện ở chỗ, hoạt động của Quỹ sẽ đóng góp vào việc tăng cường cơ sở vật chất
kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chủ trương,
định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tạo thêm việc làm cho người
lao động, nâng cao mức sống người dân.
Nhìn chung, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một chỉ tiêu rất tổng
hợp, được đánh giá trên quan điểm của cả ba đối tượng: Quỹ HTPT, khách hàng vay vốn
của Quỹ và nền kinh tế - xã hội. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ đánh giá hiệu
quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT một cách khái quát. Muốn có những kết luận chính
xác hơn, cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể liên quan đến Quỹ.
Riêng nhân tố kinh tế - xã hội rất khó có các chỉ tiêu định lượng để đo lường tác động cụ
thể đối với từng hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT đến sự phát triển chung đối với phát
triển kinh tế của đất nước. Đồng thời, do nhân tố bên đi vay của Quỹ cũng rất đa dạng như
các doanh nghiệp, các dự án, các chương trình mục tiêu nên cũng rất khó đưa ra được các
chỉ tiêu định lượng cụ thể chung cho đối tượng này. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà
người ta có thể đánh giá hiệu quả kinh tế trên cả hai mặt định tính và định lượng. Đôi khi
chỉ đánh giá trên các khía cạnh ở tầm vĩ mô.
* Các chỉ tiêu định lượng
- Doanh số và tốc độ tăng doanh số: Doanh số cho vay là số tiền mà Quỹ cho các
khách hàng vay. Tốc độ tăng doanh số cho vay được thể hiện qua công thức:
Doanh số cho vay kỳ này
Tốc độ tăng doanh số = - 1 x 100
Doanh số cho vay kỳ trước
Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng, còn tốc độ tăng
doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức cho vay qua các thời kỳ. Doanh
số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh cho thấy khả năng mở rộng tín dụng của Quỹ.
Tuy nhiên, như trên đã phân tích, đó mới chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu
quả tín dụng của Quỹ mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân tích các chỉ tiêu khác.
- Tổng vốn huy động: Đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô số vốn mà Quỹ huy động
từ các nguồn: ngân sách, vay nợ nước ngoài,... trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ
tiêu này biểu hiện khả năng cho vay của Quỹ. Nếu tổng vốn huy động cao, khả năng cho
vay lớn và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu định lượng
khác để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của. Chẳng hạn, nếu tổng vốn huy động của
Quỹ, trong khi doanh số cho vay nhỏ, tốc độ tăng doanh số cho vay chậm thì hiệu quả hoạt
động của Quỹ không cao.
- Hiệu suất sử dụng vốn:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = x 100
Tổng nguồn vốn
Hiệu suất sử dụng vốn nói lên khả năng cho vay vốn so với tổng nguồn vốn của
Quỹ. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ có thể ngày càng cao
và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một
cách tổng quát, không chỉ dựa trên cơ sở chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả tín dụng của
Quỹ. Bởi vì, đánh giá như vậy là phiến diện, sẽ dễ dẫn đến đánh giá sai. Chẳng hạn, tỷ nợ
quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng vốn cũng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của
Quỹ HTPT chưa chắc đã cao, thậm chí còn thấp.
- Tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Quỹ trong quá trình
cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động của Quỹ càng tốt và ngược lại. Bởi
vì, chỉ tiêu này cao sẽ chứng tỏ Quỹ đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, trong thực tế, do
những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng của Quỹ là không
thể thể tránh khỏi. Vì vậy, chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như giới hạn
an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể
chấp nhận được.
Hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một hoạt động tín dụng chính sách cho
ĐTPT, không vì mục đích lợi nhuận, hoạt động của Quỹ chủ yếu hoạt động và tổ chức
thực hiện cho vay đầu tư theo định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ, hàng năm, vì mục
đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã được quy định rõ: tín dụng ĐTPT của Nhà nước
nhằm hỗ trợ các dự án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực
quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà
nước thì sẽ không phát triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả
kinh tế trực tiếp, nên hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ là một khái niệm tổng hợp, vừa
mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng, nó được biểu hiện qua các chỉ tiêu liên quan
đến nhiều đối tượng: Quỹ HTPT, bên đi vay của Quỹ và quan trong nhất là tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vì là hoạt động tín dụng chính sách nên các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
tín dụng của Quỹ HTPT mang nhiều tính chất định tính hơn là tính định lượng (đây là một
đặc điểm khác biệt lớn so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại), nên trong luận
văn sẽ đi sâu vào phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT trên một số các chỉ
tiêu định tính; có một số chỉ tiêu mang tính chất định lượng hay định tính đánh giá hiệu
quả của Quỹ và nó có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, có thể là bổ sung cho nhau nhưng
cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Do đó, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt
động tín dụng của Quỹ HTPT thì phải đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ thống
cả trên tầm vi mô cũng như vĩ mô. Đồng thời, cũng cần căn cứ vào định hướng, chủ trương
ĐTPT trong từng lĩnh vực, ngành hay chương trình, dự án cụ thể để có sự đánh giá mức độ
ưu tiên cho chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, cho đối tượng này hay đối tượng khác.
1.4. Kinh nghiệm hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của một số nước trong
khu vực và trên thế giới
1.4.1. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Hàn Quốc
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cánh từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Vào cuối
giai đoạn "cất cánh", Hàn Quốc trở thành một nước công nghiệp. Sự phát triển nhanh
chóng đó có hai yếu tố quan trọng góp phần, một là chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất
khẩu, hai là chính sách tạo nguồn vốn hợp lý. Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ để huy
động các nguồn lực, trong đó có tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Đầu tư của Nhà nước nói
chung của tín dụng ĐTPT của Nhà nước nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ
trợ các ngành kinh tế phục vụ chiến lược phát triển trong thời kỳ này.
Chính phủ Hàn Quốc đã phân bổ các nguồn tài chính thông qua Quỹ đầu tư quốc
gia để hỗ trợ cho các ngành được khuyến khích đầu tư. Các chính sách được áp dụng cho
vay có chọn lọc, ưu tiên lãi suất cho phát triển những ngành công nghiệp có mục tiêu quốc
gia. Từ năm 1973, Hàn Quốc chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp nặng như
công nghiệp sắt, thép, kim loại màu… và công nghiệp hóa chất như phân bón, sơn, chất
dẻo... bằng cách cho vay ưu đãi với lãi suất thấp.
Chính phủ hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu thông qua các biện pháp chủ yếu như:
cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu một số sản phẩm
quan trọng, cho vay với lãi suất ưu đãi để sản xuất hàng xuất khẩu, cấp tín dụng cho các
nhà nhập khẩu khẩu nguyên liệu thô và thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu, cho vay để
chuyển đổi nhà máy sang sản xuất hàng xuất khẩu,...
Từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 đã xuất hiện những dấu hiệu phát
triển mất cân đối buộc Chính phủ phải điều chỉnh chính sách phát triển. Trước hết, Chính
phủ giảm hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay xuất khẩu, tín dụng ĐTPT của Nhà nước
cấp cho các công ty thuộc diện được vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước cho xuất khẩu
với lãi suất thấp. Mặt khác, Nhà nước chuyển sang khuyến khích phát triển doanh nghiệp
có quy mô vừa và nhỏ, tín dụng ĐTPT của Nhà nước được ưu tiên phân bổ cho khu vực
này.
Tóm lại, sự tăng trưởng kinh tế nhanh của Hàn Quốc trong 4 thập kỷ liên tiếp phần
lớn nhờ thực hiện các chính sách thúc đẩy xuất khẩu và công nghiệp hóa chất với sự hỗ trợ
tài chính mạnh mẽ từ NSNN và tín dụng đầu tư Nhà nước.
1.4.2. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Trung Quốc
Cùng với công cuộc cải tổ nền kinh tế, Trung Quốc đã cải tổ hệ thống tín dụng
nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng đầu tư Nhà nước
ngày càng được hoàn thiện.
Một trong các nội dung của công cuộc cải cách cơ chế quản lý vốn đầu tư xây
dựng cơ bản là xác định rõ phạm vi đầu tư từ ngân sách và phân biệt ranh giới danh mục
các công trình dự án đầu tư công cộng và các công trình dự án đầu tư có khả năng thu hồi
vốn. Hoạt động tín dụng đầu tư nhà nước dưới các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh tín
dụng đầu tư, bảo hiểm tín dụng và hỗ trợ LSSĐT.
Việc thực hiện tín dụng đầu tư của Nhà nước do ba Ngân hàng: Ngân hàng phát
triển, Ngân hàng phát triển nông nghiệp và Ngân hàng xuất nhập khẩu. Ngân hàng phát
triển nông nghiệp chuyên về lĩnh vực nông nghiệp, Ngân hàng phát triển chuyên về lĩnh
vực xây dựng cơ bản và Ngân hàng xuất nhập khẩu chuyên về lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Trong ba ngân hàng này chỉ có Ngân hàng phát triển là ngân hàng chính sách thuần túy,
hai ngân hàng còn lại hoạt động có tính lưỡng chế, vừa kinh doanh đồng thời vừa tiếp nhận
và quản lý nguồn vốn nhà nước hỗ trợ cho từng lĩnh vực.
1.4.3. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Đài Loan
Trong những năm 1959 đến 1972, Đài Loan thực hiện vai trò hỗ trợ cho các ngành
công nghiệp nhẹ có định hướng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động. Trong đó có biện
pháp hỗ trợ tài chính của Nhà nước là cấp tín dụng đầu tư với lãi suất thấp. Chế độ ưu đãi
đối với các công ty tham gia phát triển các ngành công nghiệp chiến lược bao gồm:
- Sự trợ giúp vốn của Nhà nước: Các công ty đáp ứng được tiêu thức trên có thể đề
nghị sự giúp đỡ từ phía Chính phủ khi tiêu thức xác định các công ty được phân hạng và
Chính phủ có thể trợ giúp khoảng 50% số vốn của toàn bộ chương trình hỗ trợ;
- Cho vay với lãi suất thấp: Năm 1982, Chính phủ đã lập quỹ với số tiền 250 triệu
USD để đảm bảo các khoản cho vay với lãi suất thấp đối với các công ty trong ngành công
nghiệp chiến lược. Các khoản vay với lãi suất thấp được các công ty dùng để mua máy
móc, thiết bị là chủ yếu.
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở
các nước, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu cho việc thực hiện tín
dụng ĐTPT của Nhà nước ở Việt Nam.
Thứ nhất, các biện pháp hỗ trợ tài chính cho đầu tư được thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, trong đó bên cạnh hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách là cấp tín
dụng ĐTPT của Nhà nước. Để quản lý hiệu quả nguồn vốn này, cần huy động các tổ chức
tín dụng, ngân hàng tham gia vào việc huy động vốn để cho vay theo các đối tượng được
Nhà nước quy định hoặc Nhà nước hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng đầu tư và quản lý
thống nhất thông qua một đầu mối.
Thứ hai, để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, cần
thành lập một tổ chức có đủ năng lực và thẩm quyền để điều hòa vốn và quản lý chung.
Thứ ba, hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước được áp dụng rộng rãi và luôn
được điều chỉnh trong mỗi thời kỳ.
Thứ tư, lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước thấp hơn lãi suất vay vốn trên thị
trường tự do. Lãi suất vay vốn thấp là công cụ quan trọng của Nhà nước trong hỗ trợ vốn
dài hạn để phát triển một số ngành công nghiệp then chốt cần nhiều vốn trong thời kỳ đầu
của giai đoạn tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế phục vụ
chiến lược phát triển của Chính phủ.
Thứ sáu, đối tượng cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước không nên quá
rộng, làm cho các doanh nghiệp ỷ lại, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và
tăng khoản nợ của Chính phủ.
Thứ bảy, bên cạnh hỗ trợ đầu tư thông qua tín dụng ĐTPT, Nhà nước còn phải
thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp hỗ trợ khác.
Thứ tám, để có đủ nguồn vốn cho vay ĐTPT cần đa dạng hóa các hình thức huy
động. Bên cạnh việc đẩy mạnh huy động nguồn vốn dưới hình thức trái phiếu trên thị
trường trong nước, chúng ta cũng nên khẩn trương tiến hành huy động vốn dưới hình thức
phát hành trái phiếu quốc tế.
Chương 2
Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng
đầu tư phát triển của Quỹ hỗ trợ phát triển
từ năm 2001 đến nay
2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Quỹ hỗ trợ phát triển
2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nhiệm vụ chủ yếu của Quỹ Hỗ trợ phát triển
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước đã chủ trương đổi mới toàn diện
cơ chế quản kinh tế từ hình thức kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực ĐTPT đã có những bước thay đổi quan trọng nhằm huy
động tối đa các nguồn vốn thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm phát
triển đất nước. Các dự án ĐTPT cơ sở hạ tầng, các dự án mang tầm chiến lược quốc gia,
thuộc ngành kinh tế mũi nhọn, các dự án thuộc vùng khó khăn, kém phát triển thường đòi
hỏi lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên các nhà đầu tư thường không muốn
hoặc không có khả năng đầu tư. Vì vậy, các dự án này thường được Chính phủ tài trợ.
Với yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu tư, Chính phủ đã thay đổi cơ
chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chuyển từ hình thức cấp phát sang hình thức tín
dụng đầu tư đối với những dự án cần khuyến khích đầu tư và có khả năng thu hồi vốn trực
tiếp. Ban đầu thực hiện tín dụng chỉ thu hồi nợ gốc (không thu lãi) sau chuyển sang cơ chế
cho vay thu hồi cả nợ gốc và lãi (lãi suất thấp). Kênh tín dụng mới này thực chất là tín
dụng ưu đãi của Nhà nước (hiện nay gọi là tín dụng ĐTPT của Nhà nước).
Bên cạnh đó, để thực hiện việc cấp và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ NSNN,
nhằm đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước, để tập trung các
nguồn vốn, các chương trình cho vay ưu đãi của Nhà nước vào một đầu mối, nâng cao hơn
nữa vai trò và chất lượng của công tác
tín dụng ĐTPT của Nhà nước, ngày 8-7-1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
50/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ HTPT. Từ 1-1-2000, Quỹ HTPT chính
thức hoạt động và thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Hiện nay, Quỹ Hỗ trợ phát triển có 62 chi nhánh và 1 văn phòng đại diện đặt tại 62
tỉnh, thành hoạt động dưới sự chỉ đạo của Quỹ Trung ương tại Hà Nội. Quỹ hỗ trợ phát triển
có quan hệ mật thiết với các cơ quan khác của Chính phủ như với Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ và các cơ quan
chức năng khác.
2.1.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển trong thời
gian qua
+ Tình hình huy động vốn và quản lý điều hành nguồn vốn
Khi mới thành lập, Quỹ HTPT có vốn điều lệ là 3000 tỷ đồng, sau đó Quỹ được bổ
sung thêm 2000 tỷ đồng nữa nên hiện nay vốn điều lệ của Quỹ là 5.000 tỷ đồng. Nguồn
vốn của Quỹ cho hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước bao gồm: vốn được Nhà nước cấp
bổ sung hàng năm cho đến khi đủ vốn điều lệ, các nguồn theo theo chỉ định và tự huy
động.
Đối với nguồn vốn tự huy động, vốn vay từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Quỹ
Tiết kiệm bưu điện là nguồn vốn mang tính kế hoạch và do Chính phủ ấn định về số vốn
vay, mức lãi suất. Nguồn này có ưu điểm là tương đối ổn định, thời hạn vay vốn dài
(khoảng 5 năm). Tuy nhiên, do quy mô nhỏ nên chưa đáp ứng nhu cầu về vốn của Quỹ
HTPT.
Từ năm 2002, Quỹ HTPT chính thức phát hành trái phiếu Chính phủ thông qua thị
trường chứng khoán tập trung. Mặc dù tỷ trọng nguồn này chiếm nhỏ trong tổng nguồn
vốn cho vay tín dụng nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện để mở rộng
hoạt động cho vay và đầu tư của Quỹ (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1: Nguồn vốn hoạt động của Quỹ HTPT
trong 3 năm 2001, 2002, 2003
Đơn vị: Tỷ đồng
Nội dung
Năm
2001
Tỷ
trọng
Năm
2002
Tỷ
trọng
Năm
2003
Tỷ
trọng
(%) (%) (%)
A. Vốn điều lệ và các quỹ 4.098 9.58 4.981 9.37 5.131 7.6
B. Vốn huy động 11.82
9
27,7 18.517 34.8 30.28
4
44.8
1. Tiết kiệm bưu điện 2.640 3.755 1.800
2. Bảo hiểm Xã hội VN 7.700 8.900 1.000
3. Vay Quỹ tích lũy trả nợ
nước ngoài
1.339 1.336 823
4.Vốn NS chuyển cho vay
các chương trình
0 600 1.000
5. Trái phiếu Kho bạc 150 544 500
6. Trái phiếu Chính phủ 0 1.586 5.371
7. Chi nhánh Quỹ huy động 0 495 2196
8. Nguồn khác (khấu hao
ngành điện, cấp phát ủy
thác)
0 2.602 10.02
8
C. Nguồn ghi thu ghi chi
ODA cho vay lại
26.71
9
62.65 29.648 55.7 32.88
4
48.7
Tổng cộng 42.64
6
53.146 67.50
5
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003 của Quỹ HTPT).
Bước sang năm 2003, công tác huy động vốn được Quỹ HTPT xác định là một
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, rất nặng nề. Việc huy động vốn của Quỹ HTPT trong năm
2003 có nhiều khó khăn hơn trước do nhu cầu vốn trung dài hạn để đầu tư rất lớn trong khi
lãi suất huy động vốn trên thị trường biến động phức tạp. Từ đầu năm, Quỹ HTPT đã trình
Hội đồng quản lý, Bộ trưởng Bộ Tài chính phương án huy động vốn để đáp ứng nhu cầu
giải ngân và hoàn trả các nguồn vốn huy động đến hạn. Ngoài các nguồn vốn theo chỉ định
của Chính phủ, Quỹ đã chú trọng đa dạng hóa các nguồn vốn huy động khác, đặc biệt đẩy
mạnh huy động vốn tại các Chi nhánh Quỹ, từng bước đảm bảo nhu cầu cho vay trên địa
bàn.
Tính đến hết ngày 31-3-2004, toàn hệ thống Quỹ HTPT đã huy động được 7462 tỷ
đồng vốn từ các nguồn, đạt 30% kế hoạch năm (trong đó thu hồi nợ cho vay ngắn hạn
HTXK, cho vay tín dụng đầu tư trung, dài hạn 1.745 tỷ đồng (xem bảng 2.2).
Bảng 2.2: Tình hình thực hiện nguồn vốn hoạt động
của Quỹ HTPT trong quý I/2004
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn vốn
Kế hoạch được
Thủ tướng CP giao
Thực hiện
Tỷ lệ% so
với kế hoạch
Tổng cộng 7462
- Công ty DVTKBĐ 2.500 730 29.2%
- Thu hồi nợ dài hạn 4.000 600 15%
- Thu hồi nợ ngắn hạn 1.145
- Huy động khác
Trong đó:
+ Trái phiếu CP
+ Huy động tại Chi
nhánh
+ Huy động từ BHXH
12.100 4.987
2.840
579
200
41.2%
(Nguồn: Báo cáo của Quỹ HTPT quý I/2004).
Về cơ bản, trong 3 tháng đầu năm 2004, Quỹ HTPT đã đảm bảo đủ vốn để đáp
ứng nhu cầu giải ngân cho các dự án. Trong đó, đã giải ngân các dự án đầu tư trung và dài
hạn với số vốn là 2.000 tỷ, đạt 15% kế hoạch; cho vay ngắn hạn HTXK 2.200 tỷ đồng đạt
46% kế hoạch giao, cấp hỗ trợ LSSĐT 25 tỷ đồng đạt 25% kế hoạch và đảm bảo thanh
toán các khoản vốn huy động đến hạn trả nợ.
Song song với việc huy động vốn, công tác quản lý điều hành nguồn vốn đã đặc
biệt được chú trọng. Nguồn vốn về cơ bản đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu
của các Chi nhánh Quỹ. Quỹ HTPT bước đầu đã ban hành quy định về quản lý và điều
hành nguồn vốn theo hướng quản lý tập trung thống nhất, nâng cao trách nhiệm huy động
vốn và sử dụng vốn.
+ Tình hình cho vay, giải ngân, thu hồi nợ vay các dự án vay vốn tín dụng đầu tư
Trong thời gian qua, do chủ động được trong việc triển khai nhiệm vụ, đồng thời,
kịp thời nghiên cứu tổng hợp trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chủ động phối hợp
với các ngành, các cấp có liên quan để xử lý, giải quyết các vướng mắc nên công tác giải
ngân, thu hồi nợ vay các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã được thực hiện
triển khai đạt kết quả tốt, có thể thấy được tình hình công tác cho vay, giải ngân cho số dự
án vay vốn qua các năm (xem bảng 2.3).
Bảng 2.3: Tình hình cho vay, giải ngân, thu nợ các dự án vay vốn
tín dụng ĐTPT của Nhà nước (nguồn vốn trong nước)
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/ 2004
1 Số dự án vay vốn 960 1.246 412
2 Số vốn giải ngân 9.376 13.475 1.200
3 Thu nợ 2.912 4.066 790
Trong đó: + Gốc 2.299 3.266 600
+ Lãi 613 800 190
4 Dư nợ 21.848 30.281 32.500
Trong đó: + Nợ quá hạn 635 1.020 1.290
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).
Trong quý I/2004, Quỹ HTPT đã giải ngân các dự án đầu tư trung và dài hạn cho
các dự án chuyển tiếp và dự án mới với số vốn là 2.000 tỷ, đạt 15% kế hoạch; cho vay
ngắn hạn HTXK 2.200 tỷ đồng đạt 46% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Tổng dư nợ vay đến 31-3-2004 là 32.500 tỷ đồng, tăng 7% so với thời điểm 31-12-
2003, trong đó nợ quá hạn là 1.290 tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ vay vốn tín dụng đầu
trung dài hạn bằng nguồn vốn trong nước (trong đó nợ quá hạn của 02 chương trình mía
đường và đánh cá xa bờ chiếm 43% tổng số nợ quá hạn của toàn hệ thống).
Tổng số lãi đến hạn chưa trả là 970 tỷ đồng, tăng 10% so với thời điểm 31-12-
2003, trong đó lãi đến hạn chưa trả của hai chương trình mía đường và đánh bắt hải sản xa
bờ là 420 tỷ đồng chiếm 51% tổng số lãi đến hạn trả chưa trả của toàn hệ thống Quỹ
HTPT.
Quỹ HTPT đã đảm bảo được vốn cho 44 dự án nhóm A là các dự án đầu tư theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ (bao gồm cả chuyển tiếp và khởi công mới) với số
vốn giải ngân 5629 tỷ đồng, các chương trình lớn của Chính phủ như: Đóng mới tàu biển:
971 tỷ đồng; xi măng: 1500 tỷ đồng; thép: 800 tỷ đồng; dệt may: 700 tỷ đồng; chế biến
thủy sản: 820 tỷ đồng,...
Có thể nói, trong thời gian qua, tuy có những khó khăn nhất định thuộc về cơ chế,
chính sách, nhưng Quỹ luôn chủ động tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương
trong việc xây dựng hướng dẫn và triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước để tập trung vốn đầu tư theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ góp phần vào thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hàng năm. Quỹ luôn chủ động, sáng tạo
trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhiều khó khăn vướng mắc đã được tháo gỡ kịp
thời như: bảo đảm tiền vay, đối tượng cho vay tín dụng xuất khẩu, điều chỉnh các dự án
nhóm A, thực hiện phân cấp mạnh cho các đơn vị thuộc hệ thống nhằm tăng tính chủ động
và nâng cao vai trò trách nhiệm của đơn vị, rút ngắn thời gian thẩm định và quyết định cho
vay, hỗ trợ LSSĐT, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư nắm bắt thời cơ sản xuất
kinh doanh.
+ Tình hình cho vay, giải ngân, thu hồi nợ vay đối với tín dụng ngắn hạn hỗ trợ
xuất khẩu
Thực hiện Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng Chính
phủ, Quỹ HTPT đã thực hiện cho vay ngắn hạn HTXK đối với các đối tượng được hưởng
ưu đãi theo danh mục mặt hàng do Bộ Thương mại quy định.
- Trong 3 tháng của quý IV năm 2001, Quỹ HTPT thực hiện cho vay 150 tỷ đồng
đối với 85 hợp đồng xuất khẩu; trong năm 2002, có 14 mặt hàng thuộc diện được vay vốn.
Quỹ HTPT thực hiện cho vay 3.222 tỷ đồng đối với 923 hợp đồng xuất khẩu, đạt 179% kế
hoạch năm.
- Trong năm 2003 có 21 mặt hàng thuộc diện được vay vốn ngắn hạn HTXK tại
Quỹ HTPT gồm: Gạo; lạc nhân; cà phê; chè, hạt tiêu, hạt điều (đã qua chế biến), rau quả
(hộp, tươi, khô, sơ chế, nước quả); đường; thủy sản; thịt gia súc, gia cầm; gốm, sứ; đồ gỗ
mỹ nghệ; mây tre lá; sản phẩm tơ và lụa; sản phẩm dây điện, cáp điện; sản phẩm cơ khí...
Quỹ đã thực hiện cho vay 6.320 tỷ đồng đối với 1.800 hợp đồng xuất khẩu, đạt 206% kế
hoạch năm
- Một số mặt hàng mới như đường, sản phẩm tơ và lụa; sản phẩm dây điện, cáp
điện, khăn bông,... Quỹ HTPT đang tích cực triển khai (riêng mặt hàng máy tính nguyên
chiếc xuất khẩu trả chậm sang Cu Ba, gạo xuất khẩu trả chậm sang thị trường một số nước
Đông Nam á, Quỹ HTPT triển khai theo một cơ chế cho vay đặc biệt theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ).
- Trong quý I/2004, Quỹ HTPT đã thực hiện cho vay trên 2.500 tỷ đồng đối với
149 hợp đồng xuất khẩu, đạt 46% kế hoạch năm 2004 được Thủ tướng Chính phủ giao;
Mặt hàng được HTXK tập trung, chiếm tỷ trọng lớn nhất là thủy hải sản và gạo, điều, cà
phê chủ yếu sang thị trường EU, Mỹ, Trung Đông, ASEAN (xem bảng 2.4 và 2.5).
Bảng 2.4: Tình hình cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu
Đơn vị: Tỷ đồng
STT Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/ 2004
1 Số khoản vay 923 2.292 149
2 Số vốn cho vay 3.222 6.200 2.200
3 Thu nợ gốc 2.316 5.900 1.200
4 Dư nợ 1.015 2.000 2.100
Trong đó: Nợ quá hạn 8 212 100
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).
Bảng 2.5: Cơ cấu cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu theo mặt hàng
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Mặt hàng
Năm 2002 Năm 2003
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
1 Gạo 1.095 34,0% 1.779 28.1%
2 Thủy hải sản 1.176 36,5% 3.138 49.6%
3 Điều 136 4,2% 299 4.7%
4 Dệt may 397 12,3% 194 3%
5 Dệt kim 0 0,0% 96 1.5%
6 Cà phê 82 2,5% 130 2%
7 Mặt hàng khác 336 10,5% 684 10.8%
Tổng cộng 3.222 100% 6.320 100%
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2002, 2003).
Về thị trường xuất khẩu: Quỹ HTPT đã cho vay để thực hiện hợp đồng xuất khẩu
sang thị trường 28 quốc gia, trong đó thị trường Mỹ, Nhật, Liên minh châu Âu và các nước
Đông Nam á là những thị trường lớn. Cơ cấu cho vay theo thị trường (xem bảng 2.6).
Bảng 2.6: Cơ cấu cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu theo thị trường
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Thị trường
Năm 2002 Năm 2003
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
1 Đông Nam á 644 20,0% 1.412 22,3%
2 Mỹ 697 21,6% 2.283 36.1%
3 Nhật 600 18,6% 784 12.4%
4 Trung Đông 537 16,7% 137 2,1%
5 Liên minh Châu Âu 236 7,3% 451 7,1%
6 Trung Quốc 43 1,3% 113 1.7%
7 Nga 15 0,5% 20 0.3%
8 Khác 450 14,0% 1.120 17.7%
Tổng cộng 3.222 100% 6.320 100%
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2002, 2003).
Trong cho vay ngắn hạn HTXK, các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng vay
71%, các loại hình doanh nghiệp khác chiếm 29% (công ty trách nhiệm hữu hạn 16,13%,
công ty cổ phần 7,52%,...).
Để đạt được kết quả trên, trong thời gian qua Quỹ đã sửa đổi, bổ sung các Quy
chế, Quy trình cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nhanh nhất
đối với nguồn vốn này, việc phân cấp cho các Chi nhánh quyết định cho vay được mở rộng
hơn giải quyết yêu cầu HTXK của các doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo an toàn các
khoản vay, thông qua đó Quỹ đã tập trung cho vay đối với những mặt hàng thuộc diện
khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ, mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh, góp phần thu ngoại tệ về cho đất nước.
+ Tình hình thực hiện hỗ trợ LSSĐT
Trong năm 2001, Quỹ HTPT đã ký kết 261 hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 261 dự án
với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 149,6 tỷ đồng, số thực cấp năm 2001 là 1,6 tỷ đồng. Năm
2002, Quỹ HTPT đã ký kết 471 hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 471 dự án với tổng số vốn
cam kết hỗ trợ là 284,9 tỷ đồng, số thực cấp năm 2002 là 31,8 tỷ đồng. Năm 2003, đã ký
kết hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 350 dự án với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 215 tỷ đồng,
số thực cấp là 117 tỷ đồng bằng 78% kế hoạch năm. Quý I/2004, Quỹ HTPT đã ký kết hợp
đồng hỗ trợ LSSĐT cho 92 dự án với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 100 tỷ đồng, số thực
cấp là 25 tỷ đồng bằng 25% kế hoạch năm (xem bảng 2.7).
Bảng 2.7: Tình hình thực hiện hỗ trợ LSSĐT
Đơn vị: Tỷ đồng
Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004
Số dự án hỗ trợ LSSĐT 471 350 92
Số vốn cam kết 284,9 215 100
Số đã cấp 31,8 117 25
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).
Tính đến 31-3-2004, tổng số dự án được Quỹ HTPT cấp hưởng hỗ trợ LSSĐT lên
1276 dự án với tổng số vốn hỗ trợ 776 tỷ đồng. Với số vốn cam kết hỗ trợ LSSĐT này,
Quỹ HTPT đã góp phần thu hút trên 25.000 tỷ đồng từ các tổ chức tín dụng để ĐTPT. Có
thể nói, hình thức hỗ trợ LSSĐT thực sự là hình thức hỗ trợ có hiệu quả của Nhà nước, vừa
đạt mục tiêu huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho ĐTPT, vừa giảm dần sự bao cấp
của Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các chủ
đầu tư trong vay và trả nợ vốn vay.
Tuy nhiên, tình hình thực hiện kế hoạch hỗ trợ LSSĐT đạt thấp so với kế hoạch đề
ra nguyên nhân là do việc cấp hỗ trợ LSSĐT thường tập trung vào nửa cuối năm do nhiều
công trình, dự án được duyệt quyết toán và đưa vào sử dụng vào thời điểm cuối năm. Mặt
khác, vào thời điểm cuối năm, việc tổng hợp, kiểm tra đánh giá tình hình trả nợ vốn vay
các ngân hàng thương mại của các chủ đầu tư mới có số liệu đầy đủ. Dự kiến trong năm
2004, Quỹ HTPT sẽ thực hiện 100% kế hoạch hỗ trợ LSSĐT được Thủ tướng Chính phủ
giao.
Công tác hỗ trợ LSSĐT trong thời gian qua cũng chịu tác động khá lớn của sự
biến động lãi suất trên thị trường tài chính, tiền tệ. Do lãi suất vay vốn trên thị trường trong
thời gian qua luôn ở mức khá cao trong khi lãi suất vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
vẫn chưa được điều chỉnh, khoảng cách giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thương mại quá lớn
đã làm giảm tính hấp dẫn của hình thức hỗ trợ LSSĐT do mức được hỗ trợ trở lên ít đi
tương đối.
Ngoài ra, một số dự án đề nghị được hỗ trợ LSSĐT không đủ điều kiện để được hỗ
trợ theo qui định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ về tín
dụng ĐTPT của Nhà nước, ví dụ như đã được vay một phần vốn tín dụng ưu đãi của Nhà
nước; hoặc đã đầu tư trước khi Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Nghị định 35/2002/NĐ-CP).
+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư
Hình thức hỗ trợ của Nhà nước thông qua bảo lãnh tín dụng đầu tư chưa thu hút
được sự quan tâm của các chủ đầu tư vì theo nhiều ý kiến từ các Bộ, địa phương và các
chủ đầu tư, thì việc thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư sẽ dẫn đến dự án vừa phải qua hai
đầu mối là tổ chức tín dụng và Quỹ HTPT thẩm định chặt chẽ như dự án vay vốn tín dụng
đầu tư, vừa phải chịu lãi suất cao của tổ chức tín dụng cộng với phí bảo lãnh của Quỹ
HTPT, hơn nữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại phải có tài sản thế chấp theo quy
định.
Vì vậy, việc bảo lãnh tín dụng đầu tư được triển khai rất chậm, thực tế trong năm
2000 chỉ có một dự án của tư nhân ở Vĩnh Long đề nghị Quỹ bảo lãnh nhưng qua thẩm
định dự án không bảo đảm đủ điều kiện bảo lãnh theo quy định của Chính phủ nên Quỹ
không chấp thuận bảo lãnh.
Năm 2001, có 8 dự án đề nghị Quỹ bảo lãnh tín dụng đầu tư với số tiền 201 tỷ
đồng, trong đó có một số dự án xin bảo lãnh để vay vốn đầu tư bằng ngoại tệ tại các ngân
hàng. Trong năm 2001, Quỹ HTPT mới chỉ ký được 2 hợp đồng bảo lãnh tín dụng đầu tư
với số tiền 19,6 tỷ đồng.
Trong năm 2002, không dự án nào được Quỹ HTPT bảo lãnh vay vốn đầu tư do có
sự thay đổi trong quy định về bảo lãnh tín dụng đầu tư. Theo Nghị định 43/1999/NĐ-CP
ngày 29-06-1999 của Chính phủ, trong trường hợp dự án được Quỹ HTPT bảo lãnh vay
vốn tại các ngân hàng thương mại, nếu khách hàng không trả được nợ vay (một phần hoặc
toàn bộ) cho tổ chức tín dụng cho vay vốn, Quỹ HTPT sẽ đứng ra trả toàn bộ phần thiếu.
Tuy nhiên, Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quỹ chế tín dụng HTXK lại quy định trách nhiệm về tài chính
khi chủ đầu tư không trả được nợ "Tổ chức tín dụng cho vay vốn và Quỹ HTPT cùng chịu
trách nhiệm ngang nhau về tài chính đối với khoản đã bảo lãnh". Chính vì quy định này,
nên các tổ chức tín dụng khó chấp nhận bảo lãnh của Quỹ HTPT.
Mặc dù vậy, trong năm 2003, Quỹ HTPT đã bảo lãnh vay vốn đầu tư cho 3 dự án,
với số tiền bảo lãnh 7,9 tỷ đồng. Quý I/2004, Quỹ HTPT chưa nhận được hồ sơ dự án
thuộc diện ưu đãi đầu tư của các Doanh nghiệp gửi đến đề nghị Quỹ HTPT bảo lãnh.
Nhìn chung, các Bộ, ngành, địa phương các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự quan
tâm đến hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư nên việc đăng ký kế hoạch chậm và số dự án
chưa nhiều.
Bảng 2.8: Tình hình thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư
Đơn vị: Tỷ đồng
Nội dung Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Số dự án bảo lãnh TDĐT 2 0 3
Số vốn cam kết 19,6 0 7,9
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT 2002, 2003).
Đánh giá chung: Công tác bảo lãnh tín dụng đầu tư còn nhiều hạn chế do hình
thức này không hấp dẫn các nhà đầu tư vì vừa phải vay thương mại với lãi suất cao, vừa
phải chịu phí bảo lãnh (0,5%/năm). Ngoài ra mức bảo lãnh chỉ dừng ở 50% và 70% tổng
số vốn vay là còn thấp.
Trong năm 2004, khi Nghị định mới thay thế Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-
1999 của Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư được hấp dẫn
hơn và Quỹ HTPT sẽ tích cực tuyên truyền để đẩy mạnh hình thức hỗ trợ này của Nhà
nước đối với các doanh nghiệp.
+ Công tác quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại
Nhiệm vụ quản lý, cho vay lại các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA (nguồn
vốn HTPT chính thức) theo ủy quyền của Bộ Tài chính được coi là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của hệ thống Quỹ HTPT.
Tính đến 31-3-2004, Quỹ HTPT đã triển khai việc quản lý cho vay lại đối với 233
dự án từ nguồn vốn ODA của 22 tổ chức đa phương và song phương trên thế giới với tổng
số vốn vay theo hiệp định khoảng 5 tỷ USD tương đương 80.000 tỷ VND được phân bổ
cho các ngành kinh tế sau:
- 55 dự án thuộc lĩnh vực năng lượng (cải tạo, xây dựng các nhà máy điện, trạm
biến áp, đường dây và trạm truyền tải điện,...) với số vốn vay tương đương 3 tỷ USD,
chiếm 65,6%.
- 45 dự án thuộc lĩnh vực cấp thoát, nước và xử lý nước thải với số vốn vay tương
đương trên 500 triệu USD, chiếm 9,5%.
- 48 dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm thủy sản với số vốn vay tương đương trên 169
triệu USD chiếm 3,5%.
- 84 dự án thuộc các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, viễn thông,... với
số vốn vay tương đương trên 1 tỷ USD chiếm trên 21%.
Tính đến 31-3-2004, tổng dư nợ vốn ODA cho vay lại do Quỹ HTPT đang quản lý
là 33.100 tỷ đồng (tương đương 2,5 tỷ USD).
Đa số các dự án có số vốn vay lớn đang trong giai đoạn giải ngân, dự kiến từ năm
2004, các dự án này bắt đầu đến hạn trả nợ gốc. Đến nay, Quỹ HTPT đã thu và hoàn trả
Quỹ Tích lũy trả nợ nước ngoài 4.811 tỷ đồng, gồm: 2.206 tỷ đồng gốc, 2.605 tỷ đồng lãi,
tỷ lệ nợ quá hạn 0,3% (xem bảng 2.9).
Bảng 2.9: Tình hình cho vay lại vốn ODA
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004
1 Số dự án ODA quản lý 210 227 233
2 Số vốn giải ngân 3.763 3.282 1.560
3 Thu nợ 1.621 1.429 443
Trong đó: + Thu gốc 831 812 268
+ Thu lãi 790 617 175
4 Dư nợ 28.312 30.782 33.100
Trong đó: + Nợ quá hạn 70 93 133
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT năm 2002, 2003, Quý I/2004)
Tính đến 31-3-2004, đã có 98 dự án sử dụng nguồn vốn ODA cho vay lại thuộc
các lĩnh vực hạ tầng: Cải tạo nhà máy điện, nâng cấp hệ thống cấp nước, giao thông vận tải
đã hoàn thành đi vào sản xuất và phát huy hiệu quả đầu tư đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ
trả nợ như: Dự án Nhiệt điện Phả Lại (vốn vay Chính phủ Nhật Bản), dự án cải tạo lưới
điện ba thành phố Hà Nội - Nam Định - Hải Phòng (vốn vay ADB), dự án Nhà máy
Đường Lam Sơn (vốn vay Chính phủ ấn Độ)…
Tuy nhiên, đến nay đã có 16 dự án phát sinh nợ quá hạn, các dự án này không phát
huy được hiệu quả đầu tư, giá thành sản xuất cao hơn giá bán dẫn đến sản xuất kinh doanh
thua lỗ mà nguyên nhân chủ yếu là do báo cáo khả thi không sát với tình hình thực tế sản xuất
kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Thực tế các dự án sau khi đầu tư công suất sử dụng thấp, thậm
chí có dự án chỉ đạt 10% công suất thiết kế như dự án sản xuất nhũ tương nhựa đường (vốn
vay Chính phủ Tây Ban Nha), dự án sản xuất téc nhựa Thái Bình (vốn vay Chính phủ ấn
Độ)…
2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
qua hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển
2.2.1. Những kết quả đạt được
* Chỉ tiêu định tính
Hiệu quả đối với nền kinh tế xã hội:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải đầu tư ở mức độ
cao, trong đó quan trọng là đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tăng cường hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh, tạo nên những
bước chuyển biến về chất và lượng trong lực lượng sản xuất, từ đó nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước đã được các Bộ ngành, các địa phương và các đơn vị,
cá nhân trong nền kinh tế triển khai thực hiện một cách nghiêm túc.
Trong hoạt động cho vay đầu tư của Quỹ HTPT, cho vay đầu tư cho các dự án lớn
của Chính phủ (Nhóm A) và cho vay theo các chương trình kinh tế có một vị trí rất quan
trọng. Hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT đã tạo điều kiện tập trung vốn đầu tư cho các
chương trình lớn, dự án quan trọng và then chốt của nền kinh tế: Điện, than, xi măng, chế
biến đường, phát triển bưu chính viễn thông, phát triển cây công nghiệp, khu công nghiệp,
khu chế xuất...
Với vai trò là một công cụ của Chính phủ trong việc thực thi chính sách hỗ trợ
ĐTPT của Nhà nước, Quỹ HTPT đã luôn bám sát thực tiễn kinh tế đất nước, đáp ứng nhu
cầu vốn và dẫn vốn cho nhiều dự án lớn quan trọng, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đến nay trên
4.000 dự án (trong đó có 32 dự án nhóm A) đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, tạo
việc làm trực tiếp cho gần 410.000 người lao động và hàng triệu lao động gián tiếp, tăng
thu cho NSNN hàng năm gần 1.400 tỷ đồng và tăng kim ngạch xuất khẩu ước tăng trên
360 triệu USD/ năm; Ngoài ra, trong thời gian qua gần 1.300 dự án với tổng số vốn hỗ trợ
LSSĐT khoảng 750 tỷ đồng đã được Quỹ ký kết hợp đồng hỗ trợ lãi suất, góp phần thu hút
hàng chục ngàn tỷ đồng từ các tổ chức tín dụng cho ĐTPT; Sau gần 3 năm triển khai tín
dụng HTXK ngắn hạn Quỹ HTPT đã cho vay gần 17.000 tỷ đồng hỗ trợ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu thực hiện trên 5.500 hợp đồng xuất khẩu thuộc các nhóm mặt hàng được
Chính phủ khuyến khích xuất khẩu...
Có thể nhận thấy một số kết quả cơ bản sau hơn 04 năm hoạt động của Quỹ HTPT
thể hiện ở một số mặt cụ thể sau:
- Thông qua việc hỗ trợ các dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp, góp phần tăng cường
cơ sở vật chất kinh tế-xã hội, thu hút và tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản
xuất phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với đặc điểm là tập trung sự hỗ trợ của Nhà nước
đối với các dự án thuộc các lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích phát triển. Tính đến
thời điểm 31-3-2004, Quỹ HTPT đã cho vay đầu tư gần 7000 dự án với tổng số vốn cam
kết trên 120.000 tỷ đồng, trong đó hầu hết là các dự án nhóm A của Chính phủ (59 dự án),
các chương trình kinh tế lớn như cơ khí, đóng tàu biển, đóng mới toa xe đường sắt, điện,
than, thép, xi măng, chế biến nông lâm thủy sản, dệt may, sản xuất hàng xuất khẩu, kiến cố
hóa kênh mương, giao thông nông thôn, các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở, trồng rừng
nguyên liệu tập trung... Đến nay, gần 2.700 dự án vay vốn từ Quỹ đã hoàn thành đưa vào
khai thác sử dụng, sản xuất kinh doanh, trong đó có nhiều dự án nhóm A của Chính phủ,
phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội rất thiết thực. Các dự án về cơ sở hạ tầng như thông tin
liên lạc, giao thông đường bộ, thủy,... có một ý nghĩa rất quan trọng làm tiền đề phát triển
cho các ngành kinh tế khác.
Vốn đầu tư từ Quỹ HTPT đã được tập trung để triển khai một số chương trình kinh
tế lớn của Chính phủ:
+ Chương trình kiên cố hóa kênh mương: Với đặc điểm nông nghiệp, nông thôn
nước ta hiện nay, sản xuất hàng hóa chưa phát triển cao, để phát triển một cách toàn diện
nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy, trong xây dựng
cơ cấu kinh tế hợp lý, Đảng ta coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, với cơ cấu: nông,
lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới và tín dụng
giành cho nông nghiệp nông thôn được đặt trong hệ thống hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý
đó; Hàng năm, Chính phủ đã dành vốn tín dụng ĐTPT cho ngân sách tỉnh vay với lãi suất
0% để thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương, ngân sách tỉnh trả nợ dần trong
thời hạn 5-6 năm. Đến nay Quỹ đã cho vay 3.000 tỷ để thực hiện chương trình này, ngoài
việc thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, nhờ có vốn của Quỹ HTPT cho vay đã
làm thay đổi diện mạo nông thôn với việc tạo ra gần 30.000 km kênh mương nội đồng
được cứng hóa, có thời hạn sử dụng lâu dài, hàng vạn km giao thông nông thôn đã được
Quỹ đầu tư tạo tiền đề cho phát triển giao thông vận tải, sản xuất kinh doanh, đời sống
nông dân ở nông thôn được cải thiện đáng kể.
+ Chương trình đóng tàu khai thác hải sản xa bờ: Trong thời gian qua, Quỹ đã
cho các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và hộ ngư dân vay hơn trên 2000 tỷ để nuôi
trồng, chế biến thủy hải sản, đóng mới và cải hoán gần 1.000 con tàu có công suất lớn;
Hơn 900 con tàu đã hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần nâng cao năng lực và sản lượng
khai thác xa bờ, tái tạo môi trường và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh thái biển, tạo khả năng
khai thác lâu dài, kim ngạch xuất khẩu hàng thủy hải sản tăng khá, đứng hàng thứ hai sau
xuất khẩu dầu thô, tạo thêm công ăn việc làm cho trên 700.000 ngư dân vùng ven biển, đời
sống của một bộ phận bà con ngư dân đã được cải thiện đáng kể.
+ Chương trình mía đường: Thực hiện mục tiêu chương trình 1 triệu tấn đường
vào năm 2000 của Chính phủ, tính đến nay, Quỹ đã cho vay gần 1500 tỷ đồng để đầu tư 30
Nhà máy đường, trên 300 tỷ đồng để đầu tư vùng nguyên liệu mía cho các nhà máy. Đến
nay, chương trình 1 triệu tấn đường đã hoàn thành, thu hút trên 300.000 lao động trực tiếp,
tạo thêm việc làm cho trên 700.000 lao động nông nghiệp, ổn định đời sống cho khoảng
1,4 triệu người, đời sống nông dân ở một số vùng trồng mía được cải thiện rõ rệt.
Có thể nói, nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng vốn ĐTPT toàn xã hội, thông qua vốn tín dụng ưu đãi của Quỹ HTPT,
năng lực của một số ngành kinh tế đã có bước tăng trưởng nhất định, góp phần tăng năng
lực sản xuất và tăng trưởng kinh tế, các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như: thông tin liên
lạc, công trình giao thông đường bộ, thủy, khu công nghệ cao... có ý nghĩa quan trọng làm
tiền đề cho phát triển của các ngành khác; nhờ có vốn đầu tư của Quỹ HTPT mà công suất
phát điện tăng hơn 2.000 Mega Watt; năng lực sản xuất thép tăng 1,6 triệu tấn; phân bón
hóa chất tăng 650 nghìn tấn; xi măng tăng hơn 5 triệu tấn; sản xuất giấy tăng hơn 150
nghìn tấn; diện tích cà phê tăng hơn 100 nghìn héc ta...
Đến 31-3-2004, tổng dư nợ cho vay đầu tư của Quỹ HTPT đạt 65.600 tỷ đồng.
Trong đó vốn trong nước thực hiện 32.500 tỷ đồng, vốn ODA cho vay lại thực hiện 32.100
đồng. Tỷ trọng của các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 36% năm
2001 lên 50,6% vào 2003, góp phần quan trọng vào tăng tốc giá trị công nghiệp từ 13,9%
lên 16% trong năm 2003 và quý đầu năm 2004.
Hiệu quả đối với các doanh nghiệp
- Nguồn tín dụng từ Quỹ HTPT với chi phí vốn rẻ (lãi suất thấp) và các điều kiện
tín dụng ưu đãi đã thực sự tạo điều kiện hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong sản
xuất và xuất khẩu Việt Nam đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, hạ thấp giá thành sản
phẩm, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
- Cải cách và tăng cường sức mạnh cũng như hiệu quả của khu vực tài chính là
một yêu cầu đúng đắn và bức thiết, trong thời gian qua, thông qua các hoạt động của mình,
Quỹ HTPT đã góp phần có những tác động vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đến hoạt động của các
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng như:
+ Hình thức cho vay trực tiếp để đầu tư các dự án tạo điều kiện để các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính - tín dụng khác cùng cho vay, hình thành cơ cấu nguồn
vốn đa dạng để đầu tư.
+ Hình thức hỗ trợ LSSĐT tạo điều kiện tích cực thúc đẩy tín dụng trung dài hạn
của các tổ chức tín dụng. Tính đến nay, Quỹ HTPT đã hỗ trợ theo hình thức này cho 1.276
dự án với số vốn cam kết là 776 tỷ đồng, thu hút trên 21.000 tỷ đồng từ các tổ chức tín
dụng cho ĐTPT.
+ Nhờ có lượng tín dụng lớn và dài hạn từ Quỹ HT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.pdf