Tài liệu Luận văn Tìm một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam
99 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 994 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Đề tài: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát
hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 2
Lời nói đầu
Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, loài người đã được
chứng kiến những bước phát triển mang tính đột phá của nhiều nghành
khoa học và công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học. Cách đây hơn 10 năm, mạng Internet còn là một lĩnh vực bí ẩn
của riêng các nhà vật lý thì nay nó đã trở thành cuốn bách khoa toàn thư
bình thường của hàng triệu học sinh trên toàn thế giới. Các nhà khoa
học và kinh tế đều khẳng định rằng, sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạnh thông tin được đánh dấu bằng sự ra đời của mạng internet,
các phương tiện khác như Email, máy vi tính các thế hệ, tạp chí điện tử,
là một bước tiến đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người, nâng cao đáng kể năng suất lao động, làm cho thế giới ngày
càng hẹp lại, chất lượng và tốc độ truyền tin ngày càng nhanh. Chính
những phát triển đó đã góp phần tạo nên một nền kinh tế toàn cầu hóa,
nền kinh tế mạng và nền kinh tế tri thức.
Đương nhiên, thừa hưởng thành tựu của công nghệ hiện đại và
khoa học ngân hàng, thẻ thanh toán, một loại thanh toán an toàn, nhanh
chóng, tiện lợi, gọn nhẹ mà không phải dùng tiền mặt đã ra đời, từng
bước thay thế cho một số kiểu thanh toán cũ lỗi thời, không còn thích
hợp ở những lúc và nơi có thể. Cùng với thời gian, các loại thẻ cứ lần
lượt ra đời và được đưa vào sử dụng với quy mô ngày càng lớn, đặc biệt
là trong hệ thống thanh toán toàn cầu trong mấy thập kỷ qua. Thậm chí
ở nhiều nước những loại thẻ này không còn là phương tiện thanh toán
độc tôn của ngân hàng mà nó đã trở thành phổ biến, quen thuộc với cả
nhiều dân thường.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 3
Là con chim đầu đàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong
giao dịch thanh toán quốc tế, được phép của Ngân hàng Nhà nước,
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã bắt đầu thực hiện chế độ thanh
toán thẻ tín dụng quốc tế tù năm 1990. Không dừng ở đó, hơn 10 năm
qua, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn phát hành thẻ tại Việt Nam.
Là người đi sau và còn ít kinh nghiệm, trong hơn 10 năm thực
hiện chế độ thanh toán thẻ, Ngân hàng Ngoại thương không tránh khỏi
những bỡ ngỡ, vấp váp, thậm chí cả thăng trầm. Ví như cơn bão tài
chính tiền tệ Châu á năm 1997 đã làm giảm đáng kể doanh số thanh
toán thẻ. Từ những vấp váp và thăng trầm ấy, điều cần thiết có ý nghĩa
sống còn là tìm ra cho được những giải pháp thích ứng có hiệu quả để
lấy lại được thế cân bằng, khôi phục và phát triển hình thức thanh toán
này trong thời gian tới.
Với nhận thức đó, tôi mạnh dạn nghiên cứu qua tài liệu và thực tế
hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian qua để đưa ra
một số giải pháp trong chuyên đề tốt nghiệp của mình với tựa đề “Một
số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”. Khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thẻ thanh toán
Chương II: Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ
tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát
hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự động
viên, giúp đỡ chỉ bảo và hỗ trợ nhiệt tình , sự động viên khích lệ của
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 4
những người thân gia đình, của các thầy cô, của các bộ Ngân hàng
Ngoại thương.
Nhân dịp này , tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn
Nguyễn Thị Thu Thảo về sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình và có hiệu quả
trong quá trình nghiên cứu, viết và hiệu chỉnh chuyên đề tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Tâm, Phó tổng
Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, chú Hà Văn Hiểu- Trưởng
phòng quản lý thẻ và các cán bộ khác của Ngân hàng Ngoại thương Việt
nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong qua trình thực tập, nghiên
cứu, cung cấp cho tôi tài liệu, số liệu và những thông tin cần thiết khác.
Hà Nội, ngày 27, tháng 4, năm 2003.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 5
CHƯƠNG I
Lí LUậN CHUNG Về THẻ THANH TOáN
I.tổng quan về thẻ thanh toán
1.1 lịch sử ra đời và phát triển của thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
hiện đại và hữu ích. Thẻ ra đời vào năm 1949 do ông Frank Mc Namara, một
doanh nhân người Mỹ sáng chế. Có một lần sau khi dùng bữa tối tại một nhà
hàng, ông bỗng phát hiện ra mình không mang theo tiền mặt. Ông phải gọi
điện cho vợ nhanh chóng mang tiền đến thanh toán. Tình trạng khó xử này
đã khiến ông mày mò chế tạo một phương tiện chi trả tiền mặt trong những
trường hợp tương tự như thế. Thế là lần đầu tiên Mc Namara cho ra đời loại
thẻ mang tên “Diners Club”.
Theo chân “Diners Club”, hàng loạt thẻ mới ra đời như Trip Charge,
Golden Key, Gourmet Club, Espire Club và đến năm 1995, Carte Blanche và
American Express ra đời (1958) và thống lĩnh thị trường. Lúc đầu phần lớn
thẻ chỉ dùng cho giới doanh nhân nhưng các ngân hàng đã thấy rằng giới
bình dân mới là đối tượng sử dụng chủ yếu trong tương lai. Với sự thay đổi
chiến lược khách hàng của mình, các ngân hàng nhanh chóng thâm nhập vào
thị trường thẻ và coi đây là thị trường đầy tiềm năng.
Ngân hàng Mỹ quốc là nơi đầu tiên phát hành thẻ Bank Americard
mà ngày nay là Visa Card. Năm 1966, Bank Americard bắt đầu liên kết với
các liên bang khác để phát triển mạng lưới thẻ này.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 6
Trong khi thẻ Bank Americard đang thành công rực rỡ thì các tổ
chức phát hành thẻ khác cũng đang tìm kiếm khả năng cạnh tranh với loại
thẻ này. năm 1966, một hiệp hội ngân hàng mới, trong đó gồm 14 ngân hàng
của Mỹ đã xây dựng một hệ thống giao dịch tự động nối mạng trong thanh
toán thẻ tín dụng. Ngay sau đó, năm 1967, có bốn ngân hàng bang Califonia
có hiệp hội thẻ mang tên Wessten States Bank Card Association đã liên kết
với hiệp hội ngân hàng Interbank phát hành thẻ Master Charge mà ngày nay
có tên là Master Card. Năm 1979, tổ chức thẻ quốc tế Master Card được
thành lập. Hiện nay hiệp hội có tới 29000 thành viên.
Bên cạnh Visa Card và Master Card, thẻ American Express (Amex)
và JCB của Nhật Bản cũng vươn lên mạnh mẽ. Doanh thu của các loại thẻ
này cũng lên tới hàng trăm tỷ USD với hàng chục triệu thẻ lưu hành.
Với sự phát triển của thẻ thanh toán, các hiệp hội đang cạnh tranh
nhau quyết liệt nhằm dành phần lớn thị trường cho mình. Sự cạnh tranh này
tạo điều kiện cho thẻ thanh toán có cơ hội phát triển nhanh chóng trên phạm
vi toàn cầu.
1.2. Khái niệm, đặc điểm cấu tạo và phân loại thẻ:
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm cấu tạo của thẻ
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
được cung cấp bởi ngân hàng hoặc các công ty lớn. Thẻ được dùng để thanh
toán tiền hàng hoá, dịch vụ mà không dùng tiền mặt. Thẻ cũng được dùng
để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hoặc các máy rút tiền tự động. Số
tiền thanh toán hay rút ra phải nằm trong phạm vi số dư trong tài khoản tiền
gửi hoặc hạn mức tín dụng ngân hàng cho phép.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 7
Kể từ khi ra đời, cấu tạo của thẻ luôn được cải tiến để phù hợp và
thuận lợi cho việc sử dụng, thanh toán thẻ. Thẻ được chế tạo dựa trên những
thành tựu to lớn của công nghệ thông tin điện tử. Thẻ được làm bằng nhựa
cứng, hình chữ nhật với kích thước 9,6 cm x 5,4 cm x 0,076 cm. Mặt trước
của thẻ có in huy hiệu là tên của tổ chức phát hành thẻ (Ví dụ:
Viêtcombank), số thẻ, ngày hiệu lực của thẻ, họ và tên, ảnh của chủ thẻ, số
mật mã của ngày phát hành, ngoài ra còn một đặc điểm không thể thiếu, đó
là biểu tượng riêng của tổ chức thẻ quốc tế (Ví dụ: Tổ chức thẻ Master Card
có biểu tượng là hai hình tròn giao nhau nằm ở góc dưới bên phải của thẻ.
Hình tròn bên phải màu vàng cam, bên trái là màu đỏ, có chữ Master Card
màu trắng chạy ngang giữa. Phía bên trên hai hình tròn này là hai nửa hình
tròn giao nhau in chìm). Riêng số thẻ, ngày hiệu lực và tên số thẻ được in
nổi, Mặt sau của thẻ là một dải băng từ có khả năng lưu giữ thông tin cần
thiết. Phía dưới băng từ là dải ô chữ ký của chủ thẻ.
Trên thế giới hiện nay, có nhiều loại thẻ do các tổ chức khác nhau
phát hành nhưng dù là loại thẻ nào thì về cơ bản cũng có đặc điểm nêu trên
nhằm đảm bảo an toàn và thuận tiện cho các bên tham gia.
1.2.2 Phân loại thẻ
Phân loại theo công nghệ
Thẻ khắc chữ nổi: Đây là loại thẻ được làm dựa trên kỹ thuật khắc
chữ nổi. Đó cũng là loại thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ tiên tiến
này. Trên bề mặt thẻ những thông tin cần thiết được khắc nổi. Hiện nay
người ta không dùng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật sản xuất qua thô sơ, dễ bị
làm giả.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 8
Thẻ băng từ: Thẻ này được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín với hai
băng từ chứa thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ loại này được sử dụng phổ
biến trong vòng 20 năm trở lại đây nhưng đã bộc lộ một số điểm yếu: dễ bị
lợi dụng do thông tin ghi trong thẻ không tự mã hoá được, có thể đọc thẻ dễ
dàng nhờ thiết bị đọc gắn với máy vi tính; thẻ chỉ mang thông tin cố định;
khu vực chứa tin hẹp, không áp dụng các kỹ thuật đảm baỏ an toàn.
Thẻ thông minh (Smart Card): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh
toán. Thẻ thông minh được sản xuất dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, nhờ
gắn vào thẻ một chíp điện tử mà thẻ có cấu tạo giống như một máy tính hoàn
hảo. Thẻ thông minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ khác nhau.
Hiện nay, thẻ thông minh đuợc sử dụng rất phổ biến trên thế giới vì
có ưu điểm về mặt kỹ thuật độ an toàn cao, khó làm giả được, ngoài ra còn
làm cho quá trình thanh toán thuận tiện, an toàn và nhanh chóng hơn.
Phân loại theo chủ thể phát hành
Thẻ do ngân hàng phát hành: Đây là loại thẻ do ngân hàng cung cấp
cho khách hàng, giúp khách hàng sử dụng linh hoạt tài khoản của mình hoặc
sử dụng số tiền do ngân hàng cấp tín dụng.
Thẻ này được phát triển rộng không chỉ trong phạm vi một quốc gia
mà đã phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
- Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: Đây là thẻ du lịch,
giải trí cho các tập đoàn kinh doanh lớn như Diners Club, Amex. Thẻ cũng
được sử dụng trên phạm vi toàn cầu với các quy trình thanh toán không khác
nhiều so với thẻ do ngân hàng phát hành.
Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 9
- Thẻ tín dụng: Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến hiện nay. Chủ
thẻ được sử dụng một hạn mức tín dụng tuần hoàn không phải trả lãi để mua
hàng hoá và dịch vụ. Cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được một báng sao kê
(sao kê là một bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu và trả nợ của chủ thẻ cùng
lãi và phí phát sinh trong một chu kỳ sử dụng thẻ. Sao kê được gửi cho chủ
thẻ hàng tháng ngay sau ngày lập bảng sao kê) do ngân hàng gửi tới. Nếu
khách hàng thanh toán được hết số tiền nợ thì sẽ không phải trả lãi. Còn nếu
trả được một phần (hiện nay quy định thấp nhất là 20% số tiền nợ) thì chủ
thẻ phải trả lãi, trả phí hoặc bị phạt theo quy định của ngân hàng trong từng
thời kỳ.
- Thẻ ghi nợ: Loại thẻ này có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài
khoản tiền gửi hoặc tài khoản séc. Khi mua hàng hoá, dịch vụ, giá trị giao
dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua các
thiết bị điện tử đặt tại nơi tiếp nhận thẻ.
- Thẻ rút tiền mặt tự động: (Thẻ ATM) : Là loại thẻ ghi nợ cho phép
chủ thẻ sử dụng thẻ để rút tiền mặt từ tài khoản của chủ thẻ tại các máy rút
tiền tự động (ATM) hoặc sử dụng các dịch vụ khác mà máy ATM cung ứng.
Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
- Thẻ trong nước: Là lợi thẻ được sử dụng trong phạm vi một quốc
gia, do vậy đồng tiền giao dịch là đồng bản tệ. Thẻ cũng có các đặc điểm
như các loại thẻ khác, song điểm khác chủ yếu là phạm vi sử dụng.
- Thẻ quốc tế: Là loại thẻ được chấp nhận thanh toán trên toàn cầu,
sử dụng ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thr này được khách hàng ưa chuộng
do tính thuận lợi, an toàn. Các ngân hàng cũng có được lợi ích đáng kể với
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 10
loại thẻ này như nhận được nhiều sự giúp đỡ trong nghiên cứu thị trường,
chi phí xây dựng cơ sở chấp nhận thẻ thấp hơn so với tự hoạt động...
Như vậy, mặc dù có nhiều cách phân loại thẻ khác nhau nhưng các
loại thẻ trên đều có đặc điểm chung là dùng để thanh toán hàng hóa và rút
tiền mặt. Do vây, một cách tổng quát người ta gọi là thẻ thanh toán.
1.3 Quy trình phát hành và thanh toán thẻ
1.3.1 Một số khái niệm về các chủ thể tham gia vào công tác phát
hành, sử dụng và thanh toán thẻ
- Ngân hàng phát hành (NHPH): là thành viên chính thức của các tổ
chức thẻ quốc tế, là ngân hàng tiến hành các thủ tục để in thẻ cho khách
hàng. Ngân hàng phát hành có trách nhiệm: xem xét việc phát hành thẻ,
hướng dẫn chủ thẻ sử dụng và thực hiện các quy định cần thiết khi sử dụng
thẻ, thanh toán số tiền trên hoá đơn do ngân hàng đại lý chuyển đến, cấp
phép cho các thương vụ vượt hạn mức. Từng định kỳ, ngân hàng phát hành
phải lập sao kê ghi rõ và đầy đủ các giao dịch phát sinh và yêu cầu thanh
toán đối với chủ thẻ tín dụng hoặc khấu trừ trục tiếp vào tài khoản của chủ
thẻ đối với thẻ ghi nợ.
- Chủ thẻ: là người có tên ghi trên thẻ, được dùng thẻ để thanh toán
hàng hoá, dịch vụ thay tiền mặt. Do vậy không áp dụng chế độ uỷ quyền sử
dụng thẻ cho người thứ hai. Chỉ có chủ thẻ mới có quyền sử dụng thẻ. Mỗi
khi thanh tóan cho cơ sở chấp nhận thẻ, chủ thẻ xuất trình thẻ để cơ sở kiểm
tra theo quy định và lập biên lai thanh toán. Ngoài ra chủ thẻ có thể sử dụng
thẻ để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc tại các ngân hàng đại lý.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 11
- Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): là đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ
có ký kết với ngân hàng thanh toán về việc chấp nhận thanh toán thẻ như:
cửa hàng, khách sạn, nhà hàng...Thông thừờng các đơn vị này được ngân
hàng trang bị máy móc kỹ thuật để chấp nhận thanh toán tiền hàng hóa, dịch
vụ bằng thẻ.
- Ngân hàng thanh toán (NHTT): là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng
với ĐVCNT và thanh toán các chứng từ giao dịch do ĐVCNT xuất trình.
Đối với thẻ Visa Card và Master Card thì ngân hàng thanh toán phải là thành
viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế đó. Một ngân hàng vừa có thể đóng
vai trò là ngân hàng thanh toán vừa đóng vai trò là ngân hàng phát hành.
- Tổ chức thẻ quốc tế: là tổ chức cho phép ngân hàng phát hành thẻ
và làm trung tâm xử lý, cấp phép, thông tin giao dịch, thanh toán của các
ngân hàng thành viên trên toàn thế giới. Mỗi tổ chức thẻ quốc tế đều có tên
trên sản phẩm của mình. Khác với ngân hàng thành viên, tổ chức thẻ quốc tế
không có quan hệ trực tiếp với chủ thẻ hay đơn vị chấp nhận thẻ, mà chỉ
cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho quy trình thanh
toán, cấp phép cho ngân hàng thành viên một cách nhanh chóng.
* Một số khái niệm khác
-Danh sách Buletin: là danh sách báo động khẩn cấp, liệt kê những
thẻ không được cấp phép, thanh toán. Đó là những thẻ chi tiêu quá hạn mức,
thẻ giả đang lưu hành, thẻ bị lộ mật mã cá nhân, thẻ bị mất cắp, thất lạc...
-Số PIN: là mã số cá nhân riêng chỉ dành cho chủ thẻ nhằm mục đích
thực hiện các giao dịch rút tiền tại các máy rút tiền tự động. Mã số này do
ngân hàng phát hành cung cấp cho chủ thẻ nên chỉ một mình chủ thẻ được
biết...
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 12
1.3.2 Phát hành thẻ
Khi muốn sử dụng thẻ, khách hàng phải đến ngân hàng để làm một số
thủ tục cần thiết như điền vào giấy xin phát hành thẻ. Khi đến ngân hàng để
xin phát hành thẻ, chủ thẻ cần xuất trình các giấy tờ tuỳ thân như chứng
minh thư nhân dân hoặc quân đội hoặc hộ chiếu. Ngoài ra còn phải xuất
trình một số giấy tờ khác như: giấy thông hành, biên lai trả lương, nộp thuế
thu nhập...
Khi nhận đủ hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định lại. Thông thường
ngân hàng xem xét tính chính xác của hồ sơ, tình hình tài chính (nếu khách
hàng là công ty), hay các khoản thu nhập thường xuyên của khách hàng (nếu
là cá nhân) hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, mối quan hệ
tín dụng trước đây (nếu có).
Nếu hồ sơ xin phát hành thẻ đã phù hợp thì ngân hàng sẽ tiến hành
phân loại khách hàng. Đối với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản vì
khách hàng đã có tài khoản tại ngân hàng. Còn đối với thẻ tín tụng, ngân
hàng phải tiến hành phân loại khách hàng để có một chính sách tín dụng
riêng. Thông thường có hai loại hạn mức tín dụng:
+ Hạn mức theo thẻ vàng: Thường cấp cho nhân vật quan trọng, có
quan hệ tốt với ngân hàng hoặc có thu nhập cao và ổn định. Hạn mực tín
dụng theo thẻ vàng thường cao hơn nhiều so với thẻ chuẩn (hiện nay quy
định tối đa là 90.000.000 VND, tối thiểu là 50.000.000 VND).
+ Theo hạn mức chuẩn: Hạn mức tín dụng theo thẻ chuẩn thấp hơn so
với thẻ vàng, chủ yếu cung cấp cho giới bình dân nhưng khách hàng ở đây
cũng phải đủ tiêu chuẩn, điều kiện để nhận thẻ tín dụng (quy định từ
50.000.000 VND và tối thiểu là 10.000.000 VND).
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 13
Sau khi thẩm định và phân loại khách hàng, nếu khách hàng đáp ứng
đủ điều kiện thì ngân hàng tiến hành in thẻ cho khách hàng. Trước khi phát
hành thẻ, ngân hàng yêu cầu chủ thẻ ký tên và đăng ký chữ ký mẫu ở ngân
hàng. Sau đó bằng kỹ thuật riêng của từng ngân hàng phát hành, ngân hàng
tiến hành đưa những thông tin cần thiết lên thẻ, đồng thời mã hoá và ấn định
mã số các nhân (PIN) cho chủ thẻ, nhập các thông tin, dữ liệu cần thiết để
quản lý sau này.
Khi ngân hàng giao thẻ cho khách hàng thì giao luôn số PIN, yêu cầu
chủ thẻ giữ bí mật. Nếu để lộ số PIN thì mọi rủi ro gây nên chủ thẻ phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Sau khi giao thẻ cho khách hàng, coi như nghiệp vụ phát hành thẻ đã
kết thúc.
Thời gian kể từ khi khách hàng đề nghị mua thẻ đến khi nhận được
thẻ thông thường không qua 5 ngày.
1.3.3. Thanh toán thẻ
Sơ đồ quy trình thanh toán thẻ
CHỦ THẺ
NGÂN HÀNG
PHÁT HÀNH
ĐƠN VỊ CHẤP
NHẬN THẺ
NGÂN HÀNG
THANH TOÁN
TỔ CHỨC THẺ
QUỐC TẾ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 14
+ Chấp nhận thẻ
Khách hàng sau khi mua thẻ có thể sử dụng ngay thẻ đó để mua hàng
hoá, dịch vụ tại các ĐVCNT. Khách hàng xuất trình thẻ, ĐVCNT sẽ tiến
hành kiểm tra tính hợp lệ của thẻ. Sau khi kiểm tra xong, ĐVCNT sẽ lập hóa
đơn thanh toán và yêu cầu chủ thẻ ký vào đó. ĐVCNT sẽ so sánh chữ ký đó
với chữ ký mẫu trên thẻ. Hoá đơn thường được lập thành 4 liên, khách hàng
giữ 1 liên, ĐVCNT giữu 1 liên , còn lại 2 liên sẽ được nộp lại cho ngân
hàng. Sau một khoảng thời gian nhất định (thường là một tuần) các ĐVCNT
sẽ lập bản kê cho từng loại thẻ để nộp ngân hàng đề nghị thanh toán.
+ Xin cấp phép
Trường hợp giá trị giao dịch bằng hoặc vượt mức thanh toán,
ĐVCNT phải liên hệ với ngân hàng phát hành thông qua ngân hàng thanh
toán và trung tâm xử lý số liệu thuộc tổ chức thẻ quốc tế để xin cấp phép.
Ngân hàng phát hành sau khi kiểm tra hạn mức tín dụng sẽ trả lời cấp phép
cho ĐVCNT thông qua trung tâm và ngân hàng thanh toán.
Sơ đồ tổng quát về cấp phép
+Thanh toán
Ngân hàng
phát hành
Ngân hàng
thanh toán
Trung tâm xử
lý số liệu
Đơn vị chấp
nhận thẻ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 15
Tại ngân hàng thanh toán: khi tiếp nhận hoá đơn và bảng kê, ngân
hàng phải tiến hành tính hợp lệ của các thông tin trên hoá đơn. Nếu không có
vấn đề gì thì ngân hàng tiến hành ghi nợ vào tài khoản của mình và ghi có
vào tài khoản của ĐVCNT. Việc ghi sổ này phải tiến hành ngay trong ngày
nhận được hoá đơn và chứng từ của ĐVCNT.
Sau đó ngân hàng thanh toán tổng hợp dữ liệu gửi đến trung tâm xử
lý dữ liệu (trường hợp nối mạng trực tiếp). Nếu ngân hàng thanh toán không
được nối mạng trực tiếp thì gửi hoá đơn, chứng từ đến ngân hàng mà mình
làm đại lý thanh toán
Trung tâm sẽ tiến hành chọn lọc dữ liệu, phân loại để bù trừ giữa các
ngân hàng thanh toán và ngân hàng phát hành, đồng thời thực hiện báo có và
báo nợ trực tiếp cho các ngân hàng thành viên. Việc xử lý bù trừ, thanh toán
được thực hiện thông qua ngân hàng thanh toán và ngân hàng bù trừ.
Ngân hàng phát hành khi nhận thông tin, dữ liệu sẽ tiến hành thanh
toán. Định kỳ trong tháng, ngân hàng phát hành lập bảng sao kê báo cho chủ
thẻ các khoản chủ thẻ đã sử dụng và yêu cầu chủ thẻ thanh toán (đối với thẻ
tín dụng).
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát hành và thanh toán thẻ
1.4.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát hành của thẻ
* Trình độ dân trí và sự phát triển của nền kinh tế
Trình độ nhận thức của người dân là yếu tố quan trọng để đánh giá sự phát
triển của một xã hội. Trình độ dân trí cao cũng đồng nghĩa với một nền kinh tế
phát triển về mọi mặt, tiếp cận được với nền văn minh thế giới, ứng dụng được
những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhất phục vụ nhu cầu cần thiết của
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 16
con người. Vì vậy, khi trình độ dân trí của một nước phát triển chắc chắn người ta
sẽ tiếp cận với một phương tiện thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và an toàn nhất,
đó là thẻ- một phương tiện thanh toán đa tiện ích, cùng với sự phát triển này thì tất
yếu doanh số phát hành thẻ lúc này sẽ tăng cao.
* Quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng
Ngân hàng phát hành phải có một quy mô hoạt động rộng và uy tín
cao không những tại thị trường trong nước mà trên cả thị trường quốc tế. Có
mối quan hệ với tư cách là thành viên chính thức của các tổ chức thẻ Quốc tế
nổi tiềng nhất trên thế giới, có một hệ thống các phương tiện cập nhật nhanh
chóng, hiện đại, an toàn. Có như vậy mới có thể cạnh tranh được trên thị
trường một cách mạnh mẽ.
* Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được xem là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của thẻ. Một môi trường pháp lý hoàn thiện, chặt
chẽ, đầy đủ, hiệu lực mới có thể đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các bên tham
gia vào quá trình phát hành thẻ.
1.4.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thanh toán thẻ
* Thu nhập của người dùng thẻ
Thu nhập cao đồng nghĩa với mức sống cao hơn. khi đó, nhu cầu của
con người không chỉ đơn thuần là mua được hàng hoá mà họ yêu cầu phải
mua hàng hoá đó với một đọ thoả dụng tối đa. Thẻ thanh toán sẽ đáp ứng
được nhu cầu của họ. Khi mức sống được nâng cao, nhu cầu du lịch, giải trí
của con người cũng cao hơn. Khi ấy thẻ thanh toán là phương tiện hữu hiệu
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 17
nhất đáp ứng nhu cầu này của họ. Vì vậy, thu nhập của người dùng thẻ càng
cao thì nhu cầu thanh toán bằng thẻ càng nhiều.
* Trình độ kỹ thuật công nghệ của ngân hàng
Thanh toán thẻ gắn liền với các máy móc thiết bị hiện đại. Nếu hệ
thống máy móc này có trục trặc thì sẽ gây ra ách tắc trong toàn hệ thống. Vì
vậy, đã đưa ra dịch vụ thẻ thì ngân hàng phải đảm bảo một công nghệ thanh
toán hiện đại theo kịp công nghệ của thế giới.
Hơn nữa, chỉ có trình độ kỹ thuật cao thì việc vận hành, bảo sưỡng và
duy trì hệ thống máy móc phục vụ cho phát hành và thanh toán thẻ mới có
hiệu quả cao, giảm được giá thành phục vụ, từ đó thu hút thêm được người
sử dụng nó.
* Thói quen tiêu dùng của người dân
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thẻ. Thói
quen tiêu dùng của người dân sẽ tạo ra một môi trường thanh toán cho thanh
toán thẻ. Nếu như một thị trường mà người dân chỉ có thói quen tiêu dùng
bằng tiền mặt sẽ không thể là một môi trường tốt để phát triển thị trường thẻ,
chỉ khi mà việc thanh toán được thực hiện chủ yếu qua hệ thống ngân hàng
thì thẻ thanh toán mới thực sự phát huy hết hiệu quả của nó.
* Số lượng các đơn vị chấp nhận thẻ
Số các đơn vị chấp nhận thẻ đóng vai trò rát quan trọng trong nghiệp
vụ thanh toán thẻ, là cầu nối của hoạt động thanh toán giữa ngân hàng và
chủ thẻ. Nếu trong một môi trường không tồn tại một mạng lưới ĐVCNT đa
dạng, chất lượng thì sẽ không thể đảm bảo “lượng cung” để kích thích dân
chúng trong và ngoài nước sử dụng thẻ. Vì vậy, một môi trường với một
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 18
mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ dày đặc sẽ là điều kiện để hoạt động thanh
toán thẻ phát triển mạnh mẽ.
* Các chính sách, biện pháp của nhà nước
Trong khi thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của mình nhà nước
luôn có những chính sách cụ thể can thiệp như tăng thuế, hay có những biện
pháp cứng rắn đối với các nghành hay đối với từng người dân nhằm duy trì
một mặt bằng kinh tế chính trị của toàn xã hội.
1.5 Một số tiện ích của thẻ thanh toán
1.5.1 Đối với chủ thẻ (Cardholder)
Thẻ tín dụng là hình thức chi tiêu trước, trả tiền sau. Khác với cho vay
thông thường, thẻ cho phép khách hàng sử dụng tín dụng của ngân hàng mà
không phải đến ngân hàng xin vay.
Khác với cho vay thông thường khi đến hạn khách hàng phải thanh
toán hết một lần thì thẻ tín dụng cho phép khách hàng có thể thanh toán một
lượng tối thiểu (hiện nay khoảng 20%) hoặc có thể trả hơn hạn mức này mà
không phải chịu một khoản phạt nào từ ngân hàng. Thông thường khách
hàng không trả hết ngay một lần mặc dù họ có đủ tiền thanh toán. Theo
thống kê, khoản 70% khách hàng không trả ngay toàn bộ số tiền thanh toán.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 19
Xét về khía cạnh an toàn, việc thẻ bị rơi hoặc mất cắp chưa chắc đã bị
rủi ro mất tiền. Điều này khác với tiền mặt khi mất nghĩa là khả năng mất
tiền là chắc chắn.
Khi sử dụng thẻ tín dụng, khách hàng không phải mang theo một
lượng tiền mặt lớn dễ gây rủi ro bị mất cũng như việc bảo quản cũng rất
phức tạp. Chưa kể đến việc rất bất tiện khi sử dụng tiền mặt khi tiêu ở các
nước khác nhau. Việc dùng thẻ tín dụng hoặc thẻ thanh toán đảm bảo khả
năng chi tiếu đa ngoại tệ, không bị lệ thuộc vào ngoại tệ của nước nào.
Với việc ra đời Internet và các dịch vụ toàn cầu khác, thẻ tín dụng
đóng vai trò rất lớn trong việc cho phép người mua hàng có thể đặt mua
hàng qua Internet. Có thể nói thương mại điện tử phát triển dựa vào rất nhiều
khả năng sử dụng tiền điện tử, đặc biệt là thẻ thanh toán.
1.5.2 Đối với ngưòi bán hàng (ĐVCNT) (Merchant hay Retailer)
Việc sử dụng thẻ làm công cụ thanh toán làm cho người tiêu dùng
thuận tiện và dễ dàng hơn trong việc mua hàng. Điều này tạo điều kiện cho
người bán hàng có cơ hội tăng doanh số bán hàng của mình.
Tạo cơ hội mở rộng thị trường bán hàng cho người bán. Thị trướng sẽ
trở thành toàn cầu đối với họ một khi cho phép người tiếu dùng mua bán
hàng hoá trên Internet hoặc trong kinh doanh thương mại điện tử.
Với việc chấp nhận thẻ thanh toán, người bán hàng có khả năng giảm
thiểu các chi phí về quản lý tiền mặt như bảo quản, kiểm đếm nộp vào tài
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 20
khoản ở ngân hàng...Ngoài ra, việc thanh toán giữa người mua và người bán
được ngân hàng bảo đảm vừa nhanh chóng, thuận tiện và chính xác.
1.5.3 Đối với ngân hàng
Thẻ tín dụng là một cách dễ nhất cho ngân hàng mở rộng tín dụng và
cũng là một phương thức tạo thuận tiện cho khách hàng muốn vay ngân
hàng. Do hạn mức tín dụng là tuần hoàn nên khách hàng có thể vay tiền,
hoàn trả và vay lại tiếp mà không phải đến ngân hàng xin khoản vay mới.
Một khi khách hàng đã thanh toán, hạn mức tín dụng tự động được tăng lên.
Điều này đồng nghĩa với việc khách hàng đã được ngân hàng chấp nhận một
khoản vay mới (hạn mức tín dụng mới).
Việc sử dụng thẻ thanh toán tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể
mở rộng thị trường và tăng thêm khách hàng mà không cần phải mở thêm
nhiều chi nhánh. Ngoài ra, một cách gián tiếp, lượng tiền gửi của khách hàng
xét trên cả hai đối tượng: chủ thẻ (người mua) và người bán sẽ tăng lên vì cả
hai đối tượng này đều được những lợi ích nhất định khi chấp nhận sử dụng
thẻ thanh toán.
Việc thanh toán bằng thẻ tạo điều kiện huy động vốn cho ngân hàng,
bổ sung nguồn vốn cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng tốt nguồn vốn
thanh toán này để phục vụ hoạt động sản xuất doanh. Đây là một nguồn vốn
rất lớn cần được khai thác.
1.6 Một số rủi ro trong phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ
Như phần trên đã trình bày, thẻ thanh toán có rất nhiều ưu điểm. Chính
nhờ có những ưu điểm đó mà hiện nay trên thế giới, dịch vụ thẻ thanh toán rất
phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên còn xuất hiện một số rủi ro
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 21
và nguy cơ rủi ro cần quan tâm. Về cơ bản có tám loại rủi ro chính. Những rủi
ro này đều có thể xảy đến với một hoặc nhiều bên tham gia.
- Loại rủi ro thứ nhất: Đơn phát hành với các thông tin giả mạo: Ngân
hàng có thể phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xinh phát hành với các
thông tin giả mạo do không thẩm định kỹ các thông tin mà khách hàng đưa
đến. Trường hợp này có thể dẫn đến những rủi ro về tín dụng cho ngân hàng
phát hành khi chủ thẻ sử dụng thẻ hoặc không có khả năng thanh toán.
- Loại rủi ro thứ hai: Thẻ giả: Thẻ do các tổ chức tội phạm hoặc các
cá nhân làm giả với các thông tin có được từ các chứng từ giao dịch hoặc thẻ
bị mất cắp, thất lạc. Thẻ giả được sử dụng tạo ra các giao dịch giả mạo gây
tổn thất cho ngân hàng phát hành bởi theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế,
ngân hàng phát hành phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch sử
dụng thẻ giả có mã số (PIN) của ngân hàng phát hành. Đây là rủi ro đặc biệt
nguy hiểm khó quản lý vì nằm ngoài sự tiên liệu của ngân hàng phát hành.
- Loại rủi ro thứ ba: Thẻ bị mất cắp, thất lạc: Chủ thẻ bị mất cắp, thất
lạc thẻ và bị người khác sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho ngân
hàng phát hành để có biện pháp hạn sử dụng thẻ hoặc thu hồi thẻ. Các tổ
chức tội phạm có thể in nổi và mã hoá lại các thẻ để thực hiện các giao dịch
giả. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ hoặc ngân hàng phát
hành. Loại rủi ro này chiếm tỷ lệ lớn trong các loại, xấp xỉ 49%.
- Loại rủi ro thứ tư: Chủ thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng phát
hành gửi đến: Ngân hàng phát hành gửi thẻ cho chủ thẻ bàng đường bưu
điện nhưng thẻ bị đánh cắp trên đường gửi. Thẻ bị sử dụng trong khi chủ thẻ
chính thức không biết gì về việc thẻ đã được gửi cho mình. Nếu không có
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 22
biện pháp gì quản lý đảm bảo, ngân hàng phát hành chịu mọi rủi ro đối với
các giao dịch trong trường hợp này.
- Loại rủi ro thứ năm: Thanh toán hàng hoá, dịch vụ qua thư, điện
thoại: Cơ sở chấp nhận thẻ cung cấp hàng hoá, dịch vụ qua thư, điện thoại
trên sơ sở thông tin về thẻ như: loại thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ.
Trong trường hợp chủ thẻ chính thức không phải là người đặt mua hàng thì
giao dịch đó cơ sở chấp nhận thẻ bị ngân hàng thanh toán từ chối thanh toán.
Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho cơ sở chấp nhận thẻ hoặc ngân hàng
thanh toán.
- Loại rủi ro thứ sáu: Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng: Đến kì phát
hành lại thẻ, ngân hàng phát hành nhận được thông báo thay đối địa chỉ của
chủ thẻ và được yêu cầu gửi về địa chỉ mới. Do không kiểm tra tính xác thực
của thông báo đó nên ngân hàng phát hành đã gửi thẻ về địa chỉ theo yêu cầu
nhưng thực ra đây không phải là yêu cầu của chủ thẻ đích thực. Tài khoản
của chủ thẻ đã bị người khác sử dụng và chỉ được phát hiện khi chủ thẻ
không nhận được thẻ nên liên lạc với ngân hàng phát hành hoặc khi ngân
hàng yêu cầu chủ thẻ thanh toán sao kê. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro
cho chủ thẻ hoặc ngân hàng phát hành.
- Loại rủi ro thứ bảy: Nhân viên cơ sở chấp nhận thẻ in nhiều hoá đơn
thanh toán của chủ thẻ. Khi thực hiện giao dịch, nhân viên cơ sở chấp nhận
thẻ đã cố tình in nhiều bộ hoá đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao một bộ hoá
đơn cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó nhân viên cơ sở chấp
nhận thẻ mạo chữ ký thật của chủ thẻ để nộp hoá đơn thanh toán cho ngân
hàng thanh toán. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng phát hành
hoặc cơ sở chấp nhận thẻ.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 23
- Loại rủi ro thứ tám:Tạo băng từ giả: Là loại giao dịch thẻ sử dụng
kỹ thuật công nghệ cao, trên cơ sở thu thập các thông tin trên băng từ của thẻ
thật thanh toán tại cơ sở chấp nhạn thẻ, các tổ chức tội phạm làm thẻ giả đã
sử dụng phần mềm riêng để mã hoá và in tạo ra các băng từ trên thẻ giả. Sau
đó chúng thực hiện giao dịch giả mạo thẻ. Loại giả mạo này đang tăng
nhanh ở các nước tiên tiến.
Tóm lại, song song với những lợi ích mà dịch vụ thẻ mang lại cho
chủ thẻ, cho ngân hàng...vẫn còn có những rủi ro và nguy cơ rủi ro đối với
họ. Tuy nhiên, nếu các bên liên quan cùng phối hợp thông tin cho nhau, có
các biện pháp phòng ngừa tốt thì vẫn có thể tránh được những rủi ro trên.
II. kinh nghiệm và xu thế phát triển của công tác phát hành, sử dụng
và thanh toán thẻ trên thế giới
2.1 Kinh nghiệm của tổ chức thẻ American Express
Mỹ là nơi sinh ra thẻ đồng thời cũng là nơi phát triển nhất của các loại
thẻ. Khu vực này dường như đã bão hoà về thẻ tín dụng, do đó sự cạnh tranh
và phân chia thị trường rất khốc liệt. Do vậy, việc học hỏi kinh nghiệm của
những tổ chức thẻ của Mỹ là không thể không thể nói tới. ở đây em xin trình
bày những chiến lược kinh doanh thẻ nổi bật của tổ chức thẻ American
express đã làm cho tổ chức thẻ du lịch và giải trí của Mỹ này trở thành một
tập đoàn kinh doanh thẻ lớn trên thế giới:
Ngay từ khi chiếc thẻ Amex ra đời lần đầu tiên vào năm 1958, Tổ
chức này đã xác định cho mình thị trường chủ yếu đó là giới bình dân. Họ
cho rằng đây mới là đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu.
Để cạnh tranh với các tổ chức lớn như Visa Card và Master Card, tổ
chức này đã không ngừng nghiên cứu phát hành các loại thẻ mới nhằm đáp
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 24
ứng tốt hơn cho nhu cầu của thị trường. Năm 1987, American express cho ra
đời loại thẻ tín dụng mới có khả năng cung cấp tín dụng tuần hoàn cho
khách hàng có tên là Optima Card để cạnh tranh với Visa và Master Card.
American Express không ngừng mở rộng thị trường bằng nhiều hình
thức quảng cáo, khuyến mại. Tháng 11 năm 1998, khi American Express
tung ra thị trường thẻ ấn Độ các thẻ tín dụng của mình, họ đã gặp rất nhiều
khó khăn như: thu nhập có thể dùng để chi tiêu của dân nước này không cao,
trong đó có 30 triệu người lớn có thể sử dụng thẻ tín dụng. Ngoài ra người
ấn Độ thích sử dụng tiền mặt và hầu hết người sử dụng thẻ tín dụng đều
thanh toán các hoá đơn thanh toán của họ trước khi chúng bắt đầu phát sinh
các khoản lãi phải trả ngân hàng. Đứng trước thách thức này, American
Express đã quyết tâm tập trung vào những người đang sử dụng thẻ tín dụng
bằng cách cung cấp cho họ những khoản tín dụng rẻ hơn.
Khi mới xâm nhập vào thị trường Canada, American Express thấy
khách hàng ở đây khá trung thành với ngân hàng của họ nên họ chỉ chấp
nhận thẻ của hiệp hội Visa và Master đã hoạt động lâu đời ở đây. Đánh giá
được thuận lợi của đối thủ, American Express đã tạm thời hướng vào mục
tiêu chính là người du lịch Canada và nghành hàng không nước này.
Với một số những giải pháp đã thực hiện, American Express hiện nay
đã thực sự trở thành một tổ chức thẻ lớn trên thế giới.
2.2 Xu thế phát triển thẻ tín dụng tại một số khu vực trên thế giới
Với tốc độ phát triển nhanh chóng như hiện nay, trong tương lai thẻ
thanh toán vẫn sẽ là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt được
ưa chuộng, nhất là trong tầng lớp dân cư. Số lượng thẻ sẽ tiếp tục tăng ở các
thị trường trên thế giới. Nhưng tốc độ phát triển của thẻ tại các khu vực cụ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 25
thể sẽ có những thay đổi rõ rệt. Điều này được thể hiện rõ qua bảng tổng kết
và dự báo sau:
Bảng 1: Bảng tổng kết và dự báo các thị trường thẻ trên thế giới
Năm 1995 Năm 2000 Năm 2005 Thị trường
DS thanh toán
(tỷ USD)
Tỷ lệ
(%)
DS thanh toán
(tỷ USD)
Tỷ lệ
(%)
DS thanh
toán (tỷ
USD)
Tỷ lệ
(%)
Mỹ 547,53 6 1246,1 44 2200,79 39
Châu âu 352,85 8 728,16 6 1420,73 26
Châu á-TBD 206,52 7 594,84 1 1407,33 25
Canada 50,85 4 81,21 121,54 2
Mỹ la tinh 41,23 3 109,36 283,57
Trung đông
Châu phi
19,65 2 55,2 144,51
Tổng cộng 1245,67 00 2815,41 100 5585,47 100
Nguồn: Vietcombank
Theo bảng tổng kết dự báo trên, trong thời gian tới, Mỹ vẫn là nước
có doanh số thanh toán thẻ lớn nhất trên thế giới, mỗi năm doanh số này vẫn
tăng 20%. Điều này dễ hiểu bởi Mỹ là quê hương của thẻ thanh toán. Trong
năm 1995, Mỹ là nước có doanh số thanh toán thẻ lớn nhất trên thế giới
(chiếm 46%). Tuy năm 2000, doanh số có tăng nhiều so với năm 1995
nhưng tỷ trọng lại giảm xuống còn 44%, chứng tỏ thị phần của Mỹ có xu
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 26
hướng giảm và dự kiến đến năm 2005 giảm xuống còn 39%. Nguyên nhân là
do sự vươn lên của các thị trường mới khác.
Châu âu là thị trường lý tưởng cho các tổ chức thẻ hoạt động và phát
triển. Người dân ở đây sử dụng thẻ do sự tiện lợi nhiều hơn là được cấp tín
dụng và thẻ được xem như là một phương thức thanh toán của tầng lớp
thượng lưu. Vì vậy thẻ vẫn là một phương tiện thanh toán được ưa chuộng.
Doanh số thanh toán thẻ trong năm năm từ 2000 đến 2005 tăng khoảng
195% (từ 728,16 tỷ USD năm 2000 lên đến 1420,73 tỷ USD năm 2005).
Nhưng giống như thị trường Mỹ thị phần của nó cũng giảm đi để nhường
chỗ cho những thị trường tiềm năng khác.
Khu vực Châu á -TBD là một khu vực rộng lớn với khoảng 41 quốc
gia. Đây chính là mảnh đất tiềm năng đối với thị trường thẻ bởi sự chuyển
mình vươn lên về mặt kinh tée của nhiều nước trong khu vực như Triều
Tiên, Trung Quốc... Thẻ hiện nay chủ yếu được sử dụng ở một số nước như
Nhật Bản, Singapo... nên doanh số thanh toán còn thấp so với thị trường
khác. Nhưng với nhịp độ phát triển kinh tế như hiện nay, thị trường thẻ khu
vực sẽ đuổi kịp và vượt Mỹ và Châu âu trong thời gian không xa.
Châu Mỹ La Tinh là châu lục có sự phát triển kinh tế không đồng
đều. Cho đến đầu thập niên 90, kinh tế ở đây mới bắt đầu ổn định và có đầu
tư nước ngoài. Điều này mở ra một thị trường mới đầy hấp dẫn cho dịch vụ
thẻ. Thẻ ở đây vẫn còn tương đối xa lạ nhưng với việc ổn định kinh tế như
hiện nay, trong tương lai sẽ trở thành một phương tiện thanh toán chủ yếu.
Doanh số thanh toán thẻ sẽ tăng mạnh, năm 1995 con số này ở mức 41,23 tỷ
USD nhưng đến năm 2005 sẽ là 238,57 tỷ USD với tốc độ tăng 259%. Đây
là thị trường có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong thời gian tới.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 27
Trung Đông và Châu Phi là hai vùng nổi tiếng về du lịch, ở đây thu
hút phần lớn khách du lịch là Châu âu, là thị trường tốt để dịch vụ thẻ phát
triển. Doanh số thanh toán thẻ trong những năm qua tăng mạnh và trong thời
gian tới (trong vòng 5 năm tăng khoảng 3 lần) chủ yếu là do lượng khách
nước ngoài ra vào nhiều. Việc sử dụng thẻ trong dân cư còn rất hạnh chế do
điều kiện và kinh tế tôn giáo... Trong những năm tới, thanh toán thẻ ở đây
vẫn còn là thị trường khiêm tốn nhất, chưa xứng với tiềm năng của nó.
Như vậy, trên thế giới, doanh số ngày càng tăng lên từ 1245,67 tỷ
USD (1995) lên 2815,41 (2000) và dự kiến sẽ còn tăng lên đến 5585,47 tỷ
USD (2005). Do đó, dịch vụ thẻ có xu hướng phát triển rất mạnh trên thế
giới trong những năm qua và những năm sắp tới.
2.3 Triển vọng phát triển công nghệ thẻ ở Việt Nam
Với xu hướng phát triển chung của thế giới, Việt Nam không thể tách
mình ra khỏi xu hướng này nếu muốn phát triển nghành ngân hàng nói riêng
và nền kinh tế nói chung. Do đó, từ năm 1993, khi NHNT VN lần đầu tiên
đưa công nghệ thẻ vào Việt Nam với mục đích thay thế các công cụ thanh
toán truyền thống, thì hàng loạt thẻ thanh toán đã xuất hiện với tư cách là
phương tiện thanh toán mới trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như thẻ
Master Card năm 1996 và thẻ Visa Card năm 1997, thẻ tín dụng nội địa cả
ACB và chắc chắn sau này sẽ có nhiều loại thẻ thanh toán khác sẽ lần lượt ra
đời, tạo thuận lợi và an toàn nhất cho các bên tham gia. Nếu chỉ dựa thuần
tuý vào con số thống kê về số người sử dụng thẻ thì có thể chưa thấy hết
được tiềm năng phát triển ứng dụng công nghệ thẻ thanh toán ở Việt Nam.
Nhưng nếu xét từ xu hướng phát triển, yêu cầu hội nhập và đặc biệt là từ góc
độ của nhà kinh doanh ngân hàng, thị trường thẻ ở Việt Nam lại có tiềm
năng rất lớn trong việc ứng dụng công nghệ thẻ thanh toán. Các ngân hàng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 28
Việt Nam đang tận dụng lợi thế của người đi sau đang tiến hành hiện đại hoá
ngân hàng, tiêu chuẩn hoá các nghiệp vụ và từng bước đa dạng hoá và hiện
đại hoá các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng được công
nghệ hoá cao, trong đó hầu hết là các dịch vụ thẻ thanh toán như ATM, thẻ
tín dụng, tiền ghi nợ kết hợp với thẻ tín dụng hoặc tiền điện tử, thương mại
điện tử, Internet Banking...
Đây là những yêu cầu mới đang đặt ra mà các ngân hàng thương mại
sớm phải thực hiện trong quá trình hội nhập. Như vậy, có thể khẳng định
Ngân hàng- một trong ba thành phần chính tham gia vào quá trình thực hiện
các giao dịch bằng thẻ thanh toán- luôn phải sẵn sàng và tạo điều kiện để
phát triển các dịch vụ này. Đối với hai thành phần còn lại, người sử dụng
thẻ- người tiêu dùng và người chấp nhận thẻ hay người bán hàng cũng cần
làm quen với phương thức thanh toán mới, hiện đại. Đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp Việt nam- những nhà sản xuất đang có xu hướng muốn đưa
hàng của mình vượt ra khỏi ngoài biên giới quốc gia, ngoài các yếu tố về
chất lượng hàng hoá, chính sách giá cả cũng như các chính sách hậu mãi
(sau bán hàng), họ cũng phải quan tâm đến các phương thức thanh toán mới
đang thịnh hành trên thị trường thế giới. Do vậy, các đơn vị chấp nhận thẻ
thanh toán sẽ tăng lên rất nhanh về số lượng trong thời gian tới nếu như Việt
Nam tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế được toàn cầu hoá cao.
Vì vậy, điều cơ bản là tiềm năng hay khả năng phát triển thẻ thanh toán ở
Việt Nam hiện nay chủ yếu là dựa vào người sử dụng thẻ. Rõ ràng là cùng
với xu hướng hội nhập, những dịch vụ ngân hàng hiện đại được phổ biến,
đời sống đã và đang ngày đuợc tăng lên, việc chấp nhận thẻ đã trở nên phổ
biến. Việc mở tài khoản tại ngân hàng phục vụ không chỉ đơn thuần cho việc
đầu tư lấy lãi mà còn phục vụ cho việc thanh toán hoặc cho các mục đích
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 29
đầu tư khác. Khi những chi phí chi việc bảo quản, sử dụng tiền mặt truyền
thống và tính bất tiện, không an toàn của chúng ngày càng được nhận rõ thì
những tập quán này sẽ sớm được thay thế bằng các phương thức thanh toán
hiện đại, trong đó có thẻ thanh toán.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 30
Chương ii
Thực trạng của công tác phát hành và Thanh toán thẻ tại ngân
hàng ngoại thương việt nam
I. tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ thẻ ở ngân hàng ngoại
thương việt nam
Như trên đã nêu, với xu hướng phát triển chung của thế giới và triển
vọng rất lớn trong việc phát triển dịch vụ thẻ ở Việt Nam, Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam (NHNTVN) - một trong những ngân hàng lớn của Việt
Nam- muốn phát triển theo hướng chung đó thì phải cần ứng dụng công
nghệ thẻ vào hoạt động kinh doanh của mình.
NHNT như đã biết là một ngân hàng lớn có nhiều kinh nghiệm trong
công tác thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế. NHNT trong nhiều năm
qua luôn đi đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Qua thực tế hoạt động và
kinh doanh trong lĩnh vực này, NHNT đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm,
đồng thời tạo được nhiều mối quan hệ kinh doanh với các ngân hàng và tổ
chức tài chính , tín dụng, kinh tế lớn trong và ngoài nước. Do có những mối
quan hệ rộng rãi này và nhờ vào bề dày trong thanh toán quốc tế, NHNT cần
phải ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động của mình nếu ngân hàng không
muốn bị tụt hậu so với thế giới. Đó cũng là một tất yếu đối với toàn bộ hệ
thống ngân hàng Việt nam nói chung.
Thẻ ra đời trên cơ sở những thành tựu của công nghệ thông tin. ở
Việt Nam hiện nay công nghệ thông tin cũng như hệ thống thông tin liên lạc
đang đạt được những bước tiến vượt bậc, ví dụ như Việt Nam đã tạo ra
nhiều mạng nội bộ ngoài dịch vụ Internet có chất lượng tốt. Như vậy có hệ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 31
thống thông tin tốt, NHNT ứng dụng công nghệ thẻ nhằm mở rộng hệ thống
dịch vụ của mình để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng nhằm đạt hiệu quả
cao trong dịch vụ thanh toán.
Như đã trình bày ở phần trên (chương I, phần II, 4), thẻ có rất nhiều
tiện ích không chỉ đối với khách hàng mà còn đối với cả ngân hàng như
thanh toán gọn nhẹ, nhanh chóng, an toàn thuận tiện... Do vậy, việc ứng
dụng công nghệ thẻ là rất cần thiết vì nhờ có ứng dụng công nghệ này, hệ
thống ngân hàng Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng vừa có thể tranh
được tụt hậu với ngân hàng khác, vừa có thể tiếp cận và giao dịch được với
các ngân hàng nước ngoài thì hệ thống Ngân hàng Việt Nam mới phát triển
được, từ đó giúp cho việc ổn định và phát triển kinh tế dẫn đến ổn định về
chính trị.
Vì thẻ có rất nhiều tiện ích nên các ngân hàng trên thế giới áp dụng
nhiều dẫn đến việc phát triển mạnh của dịch vụ thẻ, đồng thời dẫn đến sự
cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng nhằm dành được thị phần lớn cho
mình. Như vậy phát triển dịch vụ thẻ là một xu thế khách quan nên buộc
NHNT phải quan tâm, nếu không sẽ bị giảm sức cạnh tranh, không tiến kịp
với tốc đọ phát triển của thế giới.
Việt Nam đang mở cửa, do vậy đầu tư nước ngoài sẽ ồ ạt tràn vào thị
trường Việt Nam nhằm khai thác thị trường mới này. Là một ngân hàng
trong nước, lại có bề dày kinh nghiệm về thanh toán quốc tế, NHNT không
thể không tăng cường áp dụng những dịch vụ mới nhằm đáp ứng tốt nhu cầu
trong nước để tranh thủ dành thị phần trong sự cạnh tranh khốc liệt với các
ngân hàng nước ngoài khác.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 32
Như vậy, vì những lợi thế và nguyên nhân trên, NHNT không thể
không áp dụng thanh toán thẻ vào hoạt động kinh doanh của mình. Đây là
một xu thế phát triển chung của tất cả các ngân hàng.
II.thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại NHNT
VN
2.1 Công tác phát hành thẻ ở NHNT VN
2.1.1 Quy trình phát hành thẻ tại NHNT VN
NHNT VN hiện nay chỉ phát hành 2 loại thẻ tín dụng quốc tế là Visa
Card và Master Card. Thẻ tín dụng do NHNT phát hành là một phương tiện
thanh toán với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp căn cứ
vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ, tài sản thế chấp của khách hàng.
Khách hàng có thể dùng thẻ để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại 14 triệu điểm
thanh toán, rút tiền mặt tại các ngân hàng và các máy rút tiền ở Việt Nam
cũng như ở các nước trên khắp thế giới. Đây là một hình thức chi tiêu trước,
trả tiền sau với thời hạn ưu đãi không thu lãi từ 10 đến 45 ngày. Khách hàng
có thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ
tín dụng theo sao kê hàng tháng.
Thẻ phát hành bao gồm hai loại: thẻ cá nhân và thẻ cá nhân do công
ty uỷ quyền sử dụng.
Thẻ công ty (do cá nhân được uỷ quyền sử dụng) là loại thẻ do các tổ
chức làm đơn xin sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán bằng nguồn
tiền của mình.
Thẻ cá nhân: là thẻ do cá nhân sử dụng và chịu trách nhiệm thanh
toán bằng nguồn tiền của mình.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 33
Mỗi loại thẻ được chia làm hai hạng: thẻ vàng và thẻ chuẩn.Thẻ vàng
có hạn mức chi tiêu tối thiểu là 50 triệu VND, tối đa là 90 triệu VND.
Thẻ chuẩn có hạn mức tín dụng thấp hơn hạn mức tối thiểu của thẻ
vàng, 50 triệu VND và có số tiền tối thiểu là 10 triệu VND.
* Đối tượng phát hành và sử dụng thẻ:
- Các các nhân được các tổ chức, công ty sau đây uỷ quyền (là đại
diện hợp pháp) xin phát hành và sử dụng thẻ: các cơ quan Nhà nước, đoàn
thể; các doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); các tổ chức
quốc tế, cơ quan ngoại giao và các tổ chức nước ngoài khác tại Việt Nam.
- Các cá nhân đủ 18 tuổi trở lên, không mất trí, không phải là người
đang chấp hành án hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp dưới
18 tuổi thì cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có bảo lãnh
của một người thứ ba (bố, mẹ, người đỡ đầu) theo pháp luật của Việt Nam.
- Người nước ngoài: Ngoài yêu cầu trên phải có thời hạn cư trú và
làm việc tại Việt Nam bằng thời hạn phát hành thẻ + 40 ngày.
Các tổ chức, cá nhân nêu trên có thể mở tài khoản tiền gửi tại NHNT
hoặc tại các ngân hàng thương mại khác nhưng các tổ chức, cá nhân đó phải
có năng lực tài chính lành mạnh ( như đối với tổ chức thì cần phải có khả
năng trả nợ, không có nợ qua hạn đối với NHNT; đối với cá nhân thì có thu
nhập ổn định, có uy tín). Trong trường hợp không có những điều kiện nêu
trên thì họ có thể thế chấp, cầm cố hoặc ký quỹ.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 34
* Các bước phát hành thẻ tín dụng tại NHNT
(1) Chủ thẻ đến ngân hàng làm thủ tục xin phát hành thẻ
(2) Nhận được hồ sơ yêu cầu sử dụng thẻ, chi nhánh kiểm tra theo
quy chế về việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của
Tổng Giám đốc NHNT. Nếu có sai sót hoặc chưa đầy đủ, chi nhánh yêu cầu
khách hàng chỉnh sử bổ sung.
Trong vòng 4 ngày kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ, chi nhánh
có trách nhiệm thẩm định bộ hồ sơ và quyết định chấp nhận hay từ chối phát
hành thẻ. Trường hợp chấp nhận, chi nhánh có trách nhiệm phân loại khách
hàng để làm rõ các yếu tố sau: hạng thẻ vàng hay thẻ thường, hạn mức tín
dụng, thời hạn thẻ.
Sau khi duyệt hồ sơ và xác định các yếu tố trên, chi nhánh điện cho
Trung ương (Trung tâm thẻ) qua mạng nội bộ yêu cầu phát hành ngay trong
ngày làm việc, đồng thời mở hồ sơ khách hàng để theo dõi những thông tin
cần thiết.
CHỦ THẺ CHI NHÁNH
PHÁT HÀNH
TRUNG TÂM THẺ
(1)
(4)
(3) (5) (2)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 35
- Điện yêu cầu phát hành thẻ phải được trưởng phòng duyệt. Đồng
thời chi nhánh gửi Fax cho trung tâm thẻ giấy yêu cầu phát hành thẻ đã được
giám đốc chi nhánh duyệt.
- Nhận được điện yêu cầu và giấy yêu cầu sử dụng thẻ của khách
hàng, trung tâm thẻ tiến hành các bước sau:
+ Kiểm tra đối chiếu các thông tin trên file với các thông tin nhận qua
Fax, sau đó cập nhật thông tin và tạo hồ sơ khách hàng tại trung tâm thẻ.
+ In thẻ bằng máy chuyên dụng.
+ Xác định mã số các nhân của chủ thẻ (trường hợp thẻ được dùng để
rút tiền mặt tại các máy ATM).
+ Tạo hồ sơ quản lý thẻ với các thông tin cần thiết theo quy định.
(3) Nhận được yêu cầu của chi nhánh, trung tâm thẻ hoàn thiện việc
cá nhân hoá thẻ và gửi thẻ về chi nhánh giao cho khách hàng trong vòng 3
ngày làm việc kể từ khi nhận được đủ hồ sơ từ chi nhánh phát hành thẻ. Thẻ
được gửi trong thư bì kín bằng thư bảo đảm, mã số cá nhân phải được gửi
bảo đảm bằng phong bì tách riêng với thẻ.
(4) Tại chi nhánh phát hành, sau khi nhận được thẻ đã cá nhân hoá và
mã cá nhân thì thông báo cho khách hàng đến nhận.
Trước khi giao thẻ cho khách hàng, chi nhánh yêu cầu chủ thẻ ký vào
mặt sau của thẻ. Sau đó, chủ thẻ có thể hoàn toàn sử dụng thẻ cho hoạt động
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt.
(5) Cuối mỗi tháng, chi nhánh phát hành sẽ nhận sao kê chi tiết
những khoản khách hàng đã tiêu trong tháng được gửi đến từ trung tâm thẻ
và gửi cho khách hàng để yêu cầu chủ thẻ thanh toán.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 36
2.1.2 Phân tích và đánh giá kết quả công tác phát hành thẻ tại NHNT
Cho đến nay, NHNT đã tiến hành Master Card đã được gần 10 năm
và Visa Card được gần 5 năm. Khoảng thời gian từ 1995 trở về trước, trong
những bước đi chập chững ban đầu, NHNT chỉ phát hành được 302 thẻ
trong vòng gần 3 năm. Bắt đầu từ năm 1996, cùng với sự khởi sắc của thị
trường thẻ Việt Nam, tình hình phát triển thẻ tại NHNT đã có những bước
tiến rõ rệt thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình phát hành thẻ Master Card qua các năm
(1996- 2002)
Số thẻ phát hành Doanh số sử dụng Chi tiêu
Năm Số thẻ
(cái)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
Doanh số (triệu
VND)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
1996 389 - 17.065 -
1997 419 + 7,7% 17.722 + 3,8%
1998 340 - 0,19% 31.000 + 74,9%
1999 650 + 91% 29.000 - 6,5%
2000 184 - 71,7% 29.658 + 2,3%
2001 626 + 240,2% 32.933 + 11,1%
2002 1060 + 69.3% 50.200 +52,4%
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT - năm 2002)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 37
Bảng 2: Tình hình phát hành Visa Card
Đơn vị: Triệu VND
Số thẻ phát hành Doanh số sử dụng Chi tiêu
Năm Số thẻ
(cái)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
Doanh số
(triệu VND)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
1998 1305 - 17.000 -
1999 720 - 41,8% 36.000 + 111,8%
2000 1.143 + 58,8% 39.683 +10,2%
2001 2.431 + 112,7% 92.227 +132,45
2002 6.650 173,5% 204.530 +121,8%
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT –năm 2002)
Nhìn vào bảng tổng kết trên ta thấy trong năm 1996 có sự tăng vọt về
số lượng Master Card phát hành so với các năm trước, bất chấp sự cạnh
tranh trong hoạt động phát hành từ phía ngân hàng cổ phần Châu á. Số thẻ
phát hành năm 1996 cao hơn tổng số thẻ đã phát hành 3 năm trước (1996 là
389 thẻ còn tổng số thẻ 3 năm trước là 302 thẻ). Sự khởi săc này một phần
bắt nguồn từ sự ổn định về kinh tế và tiền tệ trong nước. Trong năm 1996,
nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định, đầu tư nước ngoài tăng mạnh,
thương mại quốc tế cũng đạt được những kết quả đáng kể, từ đó thu hút
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 38
được lượng lớn khách nước ngoài tới Việt Nam. Chính sự ổn dịnh về kinh tế
và tiền tệ đã ảnh hưởng tích cực tới công tác phát hành thẻ tại NHNT. Ngoài
những nguyên nhân trên còn có những nguyên nhân chủ quan từ chính bản
thân ngân hàng. Trong hai năm 1995, 1996, NHNT lần lượt trở thành thành
viên chính thức của hai tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất đó là Visa và Master
Card. Với việc trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ lớn này,
NHNT đã củng cố được lòng tin của khách hàng và vị thế của mình trên thị
trường thẻ Việt Nam. Đây chính là tiền đề quan trọng giúp ngân hàng đạt
được kết quả như vậy.
Sang đến năm 1997, số lượng Master Card phát hành tiếp tục tăng
nhưng với tốc độ chậm chạp. Cả năm 1997 ngân hàng phát hành được 419
thẻ , tăng 30 thẻ (tăng 7,7%) so với năm 1996. Tuy nhiên doanh số sử dụng
thẻ tăng không nhiều (từ 17.065 triệu VND lên17.722 triệu VND), tăng
3,8% so với năm 1996. Sự giảm sút phát hành thẻ chủ yếu là do khủng
hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu nổ ra ở một số nước Châu á vào tháng 7. Số
thẻ được phát hành chủ yếu tập trung vào thời gian đầu của năm 1997.
Trong nửa cuối của năm, mặc dù đồng Việt Nam vẫn tương đối ổn định,
nhưng do tâm lý lo sợ khủng hoảng sẽ lan tới Việt Nam nên tiến độ phát
hành thẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trong năm 1998, tình hình kinh tế của Việt Nam không có dấu hiệu
khả quan hơn, thêm vào đó là hai lần điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà
Nước tạo ra những cơn sốt đô la trên thị trường tư nhân đã ảnh hưởng không
tốt tới công tác phát hành thẻ tại NHNT. Tổng số thẻ Master Card phát hành
trong năm chỉ đạt 340 thẻ với doanh số sử dụng là 31.000 triệu VND. Tuy
doanh số sử dụng có tăng hơn so với năm 1997 nhưng có cũng không cho ta
thấy những dấu hiệu tích cực vì số thẻ giảm qúa nhiều so với năm 1997:
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 39
giảm 97 thẻ, giảm 0,19%. Nguyên nhân chủ yếu là do sự mất giá của đồng
Việt Nam. Số thẻ phát hành đa phần được sử dụng ở nước ngoài bằng USD
vì vậy khi quy về đồng Việt Nam có sự tăng trưởng về số lượng.
Cũng trong năm này, NHNT bắt đầu phát hành thẻ Visa Card. Sự
xuất hiện của Visa Card cũng là một nguyên nhân làm giảm số lượng Master
Card phát hành. Visa Card là một loại thẻ nổi tiếng trên thế giới, với số
ĐVCNT không thua kém Master Card. Bản thân ngân hàng đã gia nhập tổ
chức thẻ quốc tế Visa Card từ năm 1996, với hai năm chuẩn bị để phát hành
Visa Card, cùng với những kinh nghiệm đã thu được từ hoạt động phát hành
Master Card nên ngay trong năm đầu tiên phát hành Visa Card, NHNT đã
phát hành được 1305 thẻ với doanh số sử dụng thẻ là 17.000 triệu VND. Ta
thấy rằng tuy số lượng thẻ được phát hành nhiều nhưng doanh số sử dụng lại
không cao lắm. Nguyên nhân là do thẻ Visa Card đến tháng 4/1998 mới
được phát hành. Tuy nhiên trong năm đầu tiên số lượng phát hành thẻ như
vậy là rất khả quan.
Năm 1999, việc phát hành Visa Card bị chậm lại đáng kể. Số thẻ phát
hành trong năm chỉ còn hơn một nửa so với năm trước (năm 1998 là 1305
thẻ còn năm 1999 giảm xuống chỉ còn720 thẻ, giảm 585 thẻ với tỷ lệ giảm
41,8%). Nguyên nhân chủ yếu là do máy in thẻ Visa Card bị hỏng không
khắc phục được trong hai tháng cuôí quý 3 mà lại không có máy dự phòng
nên buộc khách hàng phải chuyển sang dùng Master Card hoặc sang ngân
hàng khác. Tuy nhiên, doanh số sử dụng lại tăng lên do khách hàng đã bắt
đầu quen sử dụng Visa Card (từ 17.000 triệu VND của năm 1998 lên 36.000
triệu năm 1999, tăng 111,8%.
Trong khi Visa Card phát hành giảm mạnh thì Master Card tăng lên
đáng kể. Việc Master Card phát hành năm 1999 tăng lên 650 thẻ, tăng thêm
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 40
310 thẻ với tỷ lệ tăng 91%so với năm 1998 một phần do khách hàng sử dụng
Visa Card chuyển sang. Tuy nhiên phải tính đến khâu tiếp thị của NHNT.
Trong năm 1999, NHNT đã đẩy mạnh mở rộng số cơ sở chấp nhận thẻ, tích
cực giới thiệu và quảng cáo cho thẻ Master Card. Bên cạnh đó, tình hình
kinh tế xã hội có những cguyển biến tích cực. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và
đô la Mỹ khá ổn định. Trong cả năm 1999, không có lần sốt giá USD nào.
Giá USD bình quân ở mức 14.060 VND. Sự ổn định tiền tệ đã tạo thêm
động lực cho khách hàng sử dụng thẻ tín dụng do Việt Nam phát hành nói
chung và NHNT phát hành nói riêng.
Tuy số Master Card phát hành tăng lên rõ rệt nhưng doanh số sử
dụng lại không tăng nhanh chứng tỏ việc sử dụng loại thẻ này vẫn còn tương
đối ít. Sở dĩ như vậy là do trong năm 1999, chính phủ đã đưa ra chính sách
kích cầu nên đã làm giảm giá của một số mặt hàng tiêu dùng trong nước.
Hoạt động kinh doanh nhà hàng khách sạn, du lịch có chiều hướng giảm (có
nơi giá khách sạn giảm xuống tới 30%). Thẻ tín dụng của NHNT có một
phần sử dụng trong nước nên doanh số sử dụng giảm xuống.
Sang đến năm 2000, tình hình phát hành 2 loại thẻ này tuy có tăng
nhưng còn chậm. Trong năm nay lại xảy ra sự chênh lệch số thẻ phát hành
giữa Visa Card và Master Card. Số lượng thẻ Master Card giảm nhiều,
khoảng 466 thẻ (giảm 71,7%) so với năm 1999. Nguyên nhân của tình trạng
này một phần là do thói quen sử dụng thẻ Visa Card, một phần là vì thời
gian đầu máy in thẻ của NHNT không in được do loại thẻ Master Card có độ
kháng từ cao nên buộc phải nâng cấp, buộc các chủ thẻ phải chuyển sang
dùng thẻ Visa. Tuy nhiên, doanh số sử dụng thẻ Master Card lại không giảm
mà lại tăng chút ít so với 1999, tăng 2,3%. Như vậy chứng tỏ khách hàng
cũng đã dần quen thuộc với sử dụng thẻ Master Card.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 41
Ngược lại so với Master Card, năm 2000 số lượng thẻ Visa đã tăng
lên đáng kể, lớn nhất trong 3 năm gần đây, với số lượng 1.143 thẻ, tăng 523
thẻ, với tỷ lệ tăng 58,8% so với năm 1999. Đạt được thành tích như vậy, một
phần là do sự nỗ lực của cán bộ phòng thẻ trong việc nâng cao chất lượng
phục vụ khách hàng, tăng cường việc khuếch trương quảng cáo cho sản
phẩm dịch vụ này, một phần là do máy in thẻ Visa Card đã được sửa chữa, ít
trục trặc như những năm trước, do đó đã không gây ấn tượng khó chịu cho
chủ thẻ. Qua đây có thể nhận thấy rằng khả năng việc mở rộng phát hành
Visa Card là rất triển vọng. Vì vậy NHNT cần chú ý đến hoạt động phát
hành Visa Card.
Tổng chi tiêu của chủ thẻ đối với hai loại thẻ năm 2000 đã tăng lên
nhiều hơn so với năm 1999 là 15% (từ 61.000 triệu VND năm 1999 lên
69.340 triệu VND năm 2000) chứng tỏ việc sử dụng thẻ của khách hàng đã
trở nên quen thuộc và đã có sự tự tin về thẻ do NHNT phát hành hơn.
Sang năm 2001, hoà cùng với xu thế đi lên của nền kinh tế đất nước
trong năm đầu của thế kỷ 21, doanh số phát hành thẻ tại NHNT VN cũng
đánh dấu một bước phát triển vượt bậc. So với năm 2000, tổng số thẻ phát
hành cho cả hai loại thẻ là Visa và Master Card là 3.057 thẻ, tăng 131,7%,
đưa tổng số thẻ từ khi phát hành đến nay là hơn 9000 thẻ. Số thẻ phát hành
tăng nhiều như vậy là so NGNT đã tìm nhiều biện pháp khắc phục để hạn
chế những nguyên nhân yếu kém trước đây. Cụ thể là NHNT đã cải tiến
công nghệ , đầu tư nhân lực, trí tuệ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, nhằm mục
tiêu đem đến cho khách hàng một chất lượng dịch vụ cao hơn. Vì vậy, cho
tới nay máy in thẻ rất ít khi bị hoảng vặt, chất lượng in thẻ bảo đảm hơn, đẹp
hơn, không còn tình trạng ảnh của chủ thẻ bị hỏng, phai mờ như trước đây,
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 42
cho phép NHNT tăng thời hạn hiệu lực của thẻ lên 2 năm, theo nguyện vọng
của các chủ thẻ.
Tuy nhiên, máy in thẻ dự phòng cho tới nay vẫn chưa được trang bị
một cách đồng bộ, còn chắp vá, chưa có một hệ thống sự phòng về máy in
thẻ. Sang năm 2002, khi triển khai phát hành thẻ ATM, khối lượng thẻ sẽ là
rất lớn. Nếu không kịp trang bị máy dự phòng, thì khó có thể đáp ứng được
nhu cầu sử dụng thẻ để chi tiêu hoặc đi công tác xa, ngân hàng sẽ không thể
đáp ứng được nhu cầu một cách kịp thời, dễ xảy ra sự mất tín nhiệm của
khách hàng.
Mặc dù NHNT đã thực hiện phát hành khuyến mại một tháng miễn
phí thường niên cho thẻ Master, nhưng số lượng thẻ của cả hai loại thẻ do
NHNT phát hành vẫn còn chưa cân đối. Tuy trong 2001, số lượng phát hành
thẻ của cả hai loại thẻ đều tăng lên rõ rệt. Tuy thẻ Visa có số lượng phát
hành cao hơn hẳn so với thẻ Master Card, nhưng nếu tính về sự tăng trưởng
phần trăm của từng loại thẻ qua một năm thì thẻ Master lại có độ tăng trưỏng
cao hơn. Thẻ Visa phát hành được 2.413 thẻ, trong khi đó số thẻ được phát
hành của Master Card là 626 thẻ. Với con số này, so với số lượng thẻ phát
hành năm 2000 thì năm 2001 thẻ Visa Card tăng 112,7% và thẻ Master Card
tăng 240%. Đây là một kết quả thực sự khả quan cho sự phát triển thẻ ở Việt
Nam nói chung và NHNT nói riêng, nhất là trong giai đoạn tăng trưởng của
nền kinh tế đất nước hiện nay.
Biểu đồ 1: Biểu đồ tình hình phát hành thẻ Visa và Master Card
tại NHNT VN (1996- 2000)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 43
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
ThÎ Master
ThÎ Visa
Từ biểu đồ 1 ta thấy mặc dù phát hành sau nhưng số lượng thẻ Visa
Card là lớn hơn rất nhiều so với Master Card. Điều này chứng tỏ thẻ Visa
Card có uy tín với khách hàng nhiều hơn. Tuy nhiên do có sự chênh lệch qua
nhiều giữa hai loại thẻ nên NHNT bên cạnh việc tăng số lượng Visa Card
cũng cần có những chính sách thích hợp để cả hai loại thẻ được phát triển
đồng đều.
Biểu đồ 2: Tình hình chung về phát hành thẻ ở NHNT VN
(1996-2002)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 44
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tæng sè thÎ
Biểu đồ 2 cho thấy trong 2 năm 1996, 1997 chưa phát hành thẻ Visa
Card, số thẻ Master Card chênh lệch nhau không đáng kể. Ba năm 1998,
1999, 2000, 2001, 2002 phát hành thêm Visa Card, tổng số thẻ tăng lên
nhiều nhưng số lượng thẻ trong 3 năm này cũng xấp xỉ nhau. Điều này
chứng tỏ hoạt động thẻ nhìn chung là ít có biến chuyển lớn. Nguyên nhân
chủ yếu của hiện này là do NHNT có nhiều đối thủ cạnh tranh nên việc tăng
thêm thị phần là rất khó. Ngoài ra, đối tượng sử dụng thẻ chỉ hạn chế ở
những đối tượng đi nước ngoài làm việc hoặc đi du lịch, công tác chứ trong
đại đa số tầng lớp dân cư vẫn chưa sử dụng thẻ.
Nhìn vào doanh số sử dụng thẻ, có thể thấy doanh số sử dụng thẻ do
NHNT phát hành tăng dần theo các năm. Năm 1998, doanh số sử dụng thẻ
mới chỉ là 48 tỷ VND thì đến năm 1999 là 65 tỷ (tăng 35%). Tới năm 2000,
doanh số sử dụng thẻ lại tăng lên tới 69,3 tỷ VND (tăng 7%) so với năm
1999 và đến năm 2002 con số này đã tăng đột biến lên tới gần 300 tỷ. Điều
này chứng tỏ thẻ tín dụng ngày càng được sử dụng rộng rãi và có một tiềm
năng phát triển mạnh.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 45
Nếu xét riêng cho từng loại thẻ, có thể thấy được tuy số lượng thẻ
Master Card phát hành ít hơn thẻ Visa Card nhưng doanh số sử dụng của hai
loại thẻ này lại gần tương đương nhau. Năm 1998, tổng số thẻ được phát
hành của Visa và Master là 1305 và 1450 chiếc, nhưng chỉ sau 1 năm phát
hành, thẻ Visa đã chứng tỏ ưu thế của mình bằng doanh số tăng lên không
ngừng qua các năm: 1999 là 36 tỷ VND (tăng 112% so với năm 1998), năm
2000 tăng lên xấp xỉ 40 tỷ VND (tăng 11% so với năm 1999) và đến năm
2002 với tổng doanh số sử dụng thẻ là 254,73 tỷ VND thì doanh số sử dụng
thẻ Visa chiếm tới 86%.
Nhưng thực tế hiện nay thì mỗi loại thẻ đều có những ưu điểm riêng.
Nếu như thẻ Visa có số lượng phát hành nhiều hơn vì có được sự tích luỹ
kinh nghiệm từ các loại thẻ ra đời trước nó và có một sự đầu tư khuyếch
trương cùng những ưu đãi trong thời gian đầu nên đã thu hút một số lượng
lớn số lượng khách hàng, thì thẻ Master lại có những ưu thế hơn ở chỗ nó ra
đời trước thẻ Visa 5 năm nên có được một lượng ổn định những khách hàng
trung thành mà trong đó phần lớn là những người có thu nhập cao, sử dụng
thẻ vàng.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, theo xu hướng kinh tế của Việt Nam,
tâm lý tiêu dùng của người Việt Nam và mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ
thì thẻ Visa chắc chắn sẽ ngày càng tăng lên về số lượng thẻ phát hành.
Biểu đồ 2: Cơ cấu phát hành thẻ Visa Card và Master Card
ở NHNT (năm 2002)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 46
14%
86%
Master
Visa
Như đã phân tích ở trên, trong năm 2002 số lượng thẻ Visa Card lớn
hơn rất nhiều so với Master Card. Biểu đồ 3 này chỉ là hình ảnh minh hoạ
cho thị phần của Visa Card so với Master Card: Visa Card chiếm hơn 86 %
trong tổng số thẻ phát hành ở NHNT năm 2002, trong khi đó Master Card
chỉ chiếm gần 14%. Điều này cho thấy tuy có một sự cố xảy ra, song xu thế
phát triển của Visa Card là rất lớn.
Một điều đáng chú ý trong hoạt động phát hành thẻ của NHNT là
công tác phòng chống rủi ro. Trong suốt 10 năm thực hiện phát hành thẻ, số
các trường hợp rủi ro là rất ít. Từ năm 1993 đến nay chỉ có 4 trường hợp thẻ
bị mất, không kịp đưa vào danh sách Buletin nên bị lợi dụng với số tiền tổn
thất vào khoảng 5.000 USD. Ngoài ra số rủi ro xảy ra là không đáng kể.
Năm 2002, tỷ lệ rủi ro trong thu nợ hầu như không có (0,05%). Thành công
này xuất phát từ việc ngân hàng đã tuân thủ chặt chẽ các quy định về việc
phát hành thẻ nhất là trong khâu thẩm định hồ sơ khách hàng. Thẻ thường
được giao tận tay khách hàng, đồng thời khi mua thẻ khách hàng phải ký
quỹ một số tiền nhất định, do đó không xảy ra rủi ro tín dụng (chỉ có vài
trường hợp nợ quá hạn). Bên cạnh đó cũng phải kể đến một số nguyên nhân
khách quan tạo nên sự thành công này đó là: NHNT tuy là một ngân hàng
lớn tại Việt Nam nhưng so với thế giới và khu vực thì có vẫn còn nhỏ bé, số
lượng thẻ phát hành lại chưa nhiều. Do vậy, thẻ do Ngân hàng phát hành
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 47
chưa là đối tượng cho các tổ chức tội phạm quốc tế làm giả. Hơn nữa, các tổ
chức tội phạm trong nước chưa đủ trình độ làm giả. Chính điều này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong công tác phòng chống rủi ro.
Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng việc tuân thủ quá chặt chẽ các
quy định trong khâu phát hành đã ảnh hưởng tới kết quả phát hành thẻ tại
Ngân hàng. Trong thời gian tới, Ngân hàng nên xem xét để có thể giảm thiểu
những ảnh hưởng này, đồng thời vẫn đảm bảo phát hành an toàn.
Về tổng quan, tình hình phát hành thẻ tại NHNT trong những năm
qua còn hạn chế. Số lượng thẻ phát hành còn ít so với tiềm năng.
Thẻ chủ yếu phát hành cho người nước ngoài, và người Việt Nam đi
công tác học tập ở nước ngoài.
Chỉ có một phần nhỏ phát hành được người Việt Nam sử dụng để tiêu
dùng trong nước. Do vậy, công tác phát hành còn phụ thuộc vào bên ngoài,
cụ thể là số khách nước ngoài vào Việt Nam và người Việt Nam ra nước
ngoài. Thực tế này rất bất lợi cho NHNT khi có sự biến động nào đó trong
quan hệ quốc tế hoặc tình hình kinh tế ở nước ngoài. Về lâu dài thì ngân
hàng phải tìm kiếm khách hàng ở thị trường nội địa và việc phát hành thẻ
phải phục vụ cho nhu cầu trong nước. Có làm được như vậy thì công tác
phát hành thẻ của ngân hàng mới có phát triển vượt bậc, từ đó đẩy mạnh
công tác thanh toán thẻ, đưa công tác thanh toán có những biến đổi về chất.
2.2 Công tác thanh toán thẻ tại NHNT VN
Từ năm 1991, NHNT VN đã bắt đầu tham gia thanh toán thẻ tín dụng
quốc tế với vai trò làm đại lý thanh toán ba loại thẻ là:
+ VISA
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 48
+ MASTER CARD
+JCB
Ngay trong những năm đầu thực hiện nghiệp vụ thanh toán này,
NHNT đã có doanh số thanh toán thẻ tương đối khả quan là 7,85 triệu USD.
Năm 1994, NHNT VN lại tham gia thanh toán thêm một loại thẻ nữa là:
+AMEX
Kể từ đó cho đến nay Vietcombank chính thức là đại lý thanh toán
cho 4 loại thẻ tín dụng quốc tế nói trên và ngày càng thành công trên lĩnh
vực này.
2.2.1. Quy trình thanh toán thẻ tại NHNT VNTại đơn vị chấp
nhận
* Tại đơn vị chấp nhận thẻ
Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) là các tổ chức hay cá nhân cung ứng
hàng hoá hay dịch vụ chấp nhận thẻ làm phương tiện thanh toán.
Chủ thẻ Chi nhánh
Vietcombank
phát hành
Đơn vị chấp
nhận thẻ
Ngân hàng đại
lý thanh toán
Trung tâm
thẻVietcomban
Trung tâm thẻ
quốc tế
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 49
Khi chủ thẻ xuất trình thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, hoặc
tạm ứng tiền mặt tại ngân hàng đại lý thanh toán, các đơnvị chấp nhận thẻ,
hay ngân hàng phải kiểm tra:
+ Tính hợp lệ của thẻ
+ Danh sách thẻ cấm lưu hành (Buletin) và các thông báo khác của
ngân hàng
+ Kiểm tra chứng minh thư hoặc hộ chiếu của chủ thẻ khi nghi vấn.
Nếu giá trị vượt quá giá trị hạn mức thanh toán thì đơn vị chấp nhận
thẻ phải liên hệ xin cấp phép.
Khi có trả lời cấp phép, đơn vị chấp nhận thẻ phải thực hiện đúng
theo yêu cầu của trung tâm thẻ.
Trong thời hạn tối đa không quá 4 ngày làm việc kể từ ngày thực
hiện giao dịch, các ĐVCNT phải xuất trình các hoá đơn giao dịch cho ngân
hàng đại lý thanh toán của NHNT hoặc cho NHNT.
* Tại chi nhánh NHNT làm đại lý thanh toán
Căn cứ vào hoá đơn và bảng kê do các ĐVCNT gửi đến, chi nhánh
kiểm tra tính hợp lệ của hoá đơn và nhập dữ liệu để lập hồ sơ nhờ thu và
theo dõi hồ sơ ĐVCNT.
Hoá đơn được lưu lại để dùng làm chứng từ gốc nhằm tra soát và giải
quyết khiếu nại về thẻ phát sinh sau này.
Chi nhánh được quyền tạm ứng tiền cho ĐVCNT trên sơ sở tổng giá
trị hoá đơn sau khi trừ đi phí mà ĐVCNT phải thanh toán với ngân hàng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 50
theo tỷ lệ đã quy định trong hợp đồng đại lý đã ký kết với NHNT. Đồng thời
chi nhánh lập bảng kê theo mẫu quy định và gửi về trung tâm thẻ nhờ thu.
Bảng kê được phân thành hai loại: Bảng kê lập cho thẻ do NHNT
phát hành và bảng kê cho thẻ do ngân hàng phát hành.
Nếu nhận được báo có do trung tâm thẻ gửi về chi nhánh đối chiếu
với hồ sơ gốc nếu khớp đúng thì làm thủ tục tất toán tài khoản nhờ thu.
* Tại trung tâm thẻ
Căn cứ vào bảng kê đó, các chi nhánh gửi đến nhờ thu. Trung tâm thẻ
nhập dữ liệu vào máy để lập hồ sơ quản lý thẻ.
Đối với thẻ do NHNT phát hành, Trung tâm báo nợ chi nhánh tổng
giá trị hoá đơn của các chủ thẻ do ngân hàng phát hành theo mẫu quy định,
có kê chi tiết các giao dịch theo từng thẻ.
Đối với thẻ do chi nhánh NHNT thanh toán (kể cả thẻ do NHNT phát
hành và thẻ do ngân hàng khác phát hành), trung tâm thẻ báo có cho chi
nhánh số tiền chi nhánh ngân hàng đã thanh toán cho ĐVCNT (tổng giá trị
hoá đơn- phí thu của cơ sở chấp nhận thẻ + phí chi nhánh được hưởng hoa
hồng). Báo có ghi rõ số tham chiếu của bảng kê hoá đơn do chi nhánh lập
gửi Trung tâm thẻ. Đồng thời Trung tâm thẻ tổng hợp thẻ do ngân hàng khác
phát hành và làm thủ tục nhờ thu đối với tổ chức thẻ quốc tế.
Nếu nhận được báo có của nước ngoài, trung tâm thẻ đối chiếu với
hồ sơ gốc và tất toán khoản có liên quan.
Đối với thẻ của NHNT phát hành được thanh toán ở nước ngoài, khi
nhận được bảng kê báo nợ của tổ chức thẻ quốc tế, Trung tâm cập nhật dữ
liệu cần thiết vào hồ sơ thẻ và hạch toán báo nợ cho các chi nhánh liên quan.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 51
Trong giấy báo nợ gửi các chi nhánh, Trung tâm thẻ phải ghi đầy đủ
các dữ liệu để chi nhánh có cơ sở tra soát khiếu nại có thể phát sinh sau này.
Tổ chức thẻ hiện nay thanh toán theo phương thức bù trừ, do vậy khi
nhận được giấy báo thanh toán của nước ngoài, phải đối chiếu cẩn thận các
bảng kê ngân hàng nhờ thu, bảng kê nước ngoài báo nợ.
Hàng tháng vào ngày sao kê, Trung tâm thẻ lập sao kê chi tiết các
giao dịch đã phát sinh trong kỳ của từng thẻ và gửi cho chi nhánh qua mạng
vi tính.
* Tại chi nhánh NHNT làm chức năng phát hành
Nhận được giấy báo nợ do Trung tâm thẻ gửi về, chi nhánh lập hồ sơ
cần thiết vào hồ sơ khách hàng và hạch toán vào tài khoản thanh toán thẻ
thanh toán với ngân hàng không thuộc hệ thống NHNT.
Căn cứ vào hợp đồng đại lý, ngân hàng đại lý gửi nhờ thu cho Trung
tâm thẻ, Trung tâm thẻ tiến hành các bước xử lý như trường hợp nhận được
nhờ thu của chi nhánh NHNT và tiến hành thanh toán theo thoả thuận ghi
trong hợp đồng đã ký.
2.2.2. Phân tích và đánh giá kết quả công tác thanh toán thẻ tại NHNT
Không giống với công tác phát hành thẻ, công tác thanh toán thẻ tại
NHNT bắt đầu sớm hơn. Năm 1990, hoạt động thanh toán được triển khai
bước đầu và đến năm 1991 hoạt động này bắt đầu đi vào nề nếp. Hoạt động
thanh toán thẻ có phần sôi động hơn, phát triển hơn.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 52
Bảng 3: Bảng tổng kết tình hình thanh toán thẻ tại NHNT
Đơn vị 1.000USD
Thẻ
Visa Card Masters
Card
Amex JCB Tổng
cộng
1991 6.558 1.0 - 100 7.858
1992 11.012 4.031 - 500 15.543
1993 18.686 8.368 - 847 27.901
1994 39.287 17.444 19.438 1.715 77.884
1995 55.761 24.321 38.921 3.265 122.268
1996 55.299 26.204 41.000 4.000 126.803
1997 38.402 19.114 35.944 2.589 96.155
1998 33.500 16.200 29.500 1.700 80.900
1999 34.000 15.000 24.500 1.100 74.600
2000 37.00 15.700 17.000 1.50 71.000
2001 37.992 15.521 18.013 1.241 72.767
2002 61.817 24.162 28.820 1.365 116.164
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT - năm 2002)
Năm
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 53
Nhìn vào bảng tông kết, ta có thể thấy rằng trong năm 1991 doanh số
thanh toán là 7,858 triệu USD, nhưng chỉ sau 1 năm con số này đã tăng lên
gấp đôi. Năm 1992 doanh số là 15,543 triệu USD. Trong những năm tiếp
theo từ 1993 đến 1995 doanh số luôn tăng với tốc độ đáng mừng khoảng
200%. Năm 1994 với việc triển khai thanh toán thêm thẻ Amex doanh số
tăng lên với tốc độ kỷ lục nhất khoảng 2,4 lần từ 27,901 triệu USD năm
1993 lên 77,884 triệu USD. Tuy nhiên năm 1995 mới là năm có doanh số
thanh toán tăng nhiều nhất với lượng tăng là 44 triệu USD. Sau năm 1995
tốc độ tăng doanh số có phần chững lại. So với năm 1995, doanh số thanh
toán của ngân hàng trong năm 1996 chỉ tăng được hơn 4 triệu USD. Tuy vậy
đây cũng là những năm đỉnh cao trong gần 10 năm thực hiện hoạt động
thanh toán thẻ của NHNT. Năm 1997, cùng với nhiều hoạt động khác của
ngân hàng, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu
vực, hoạt động thanh toán thẻ của ngân hàng sút giảm một cách đáng kể. Từ
chỗ doanh số đạt 126,503 triệu USD năm 1996, thì năm 1997 chỉ còn 96,115
triệu USD. Tình trạng này nằm trong xu thế chung của thị trường thẻ Việt
Nam.
Năm 1998 vẫn chưa phải là một năm khả quan của công tác thanh
toán thẻ tại NHNT. Cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực vẫn chưa có
dấu hiệu chấm dứt mà ngược lại đang tiếp tục lan rộng. Lượng khách nước
ngoài tiếp tục giảm, do đó doanh số thanh toán cũng giảm theo. Tình hình
sút giảm này không chỉ diễn ra ở NHNT mà còn diễn ra ở nhiêù ngân hàng
khác trong hoạt động thanh toán thẻ. Mặc dù NHNT đã tìm mọi biện pháp
nhằm cải thiện tình hình như mở rộng ĐVCNT, khuyến khích các cơ sở đẩy
mạnh việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng... nhưng hoạt động thanh
toán thẻ vẫn không có dấu hiệu khả quan hơn.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 54
Việc sút giảm trong hoạt động thanh toán thẻ tiếp tục diễn ra trong
năm 1999. Cả năm 1999, tổng doanh số thanh toán chỉ đạt khoảng 71 triệu
USD. Ngoài nguyên nhân như số khách nước ngoài vào giảm, tình hình kinh
doanh trong lĩnh vực như nhà hàng, khách sạn có sự chậm lại, giá cả hàng
hoá khác trong nước nói chung có xu hướng giảm, có một nguyên nhân quan
trọng khác là sự cạnh tranh của các ngân hàng khác làm cho thị phần thanh
toán của NHNT nhỏ đi đáng kể. Đặc biệt năm 1999, JCB, vốn chỉ do NHNT
làm đại lý thanh toán độc quyền tại Việt Nam, đã ký hợp đồng thanh toán
với ngân hàng khác nên doanh số thanh toán thẻ JCB giảm đáng kể, khoảng
gần 56% so với năm 1998 làm tổng số thanh toán cũng giảm theo.
Sang đến năm 2000, hoạt động thanh toán thẻ không khởi sắc. Tuy
nhiên có tăng chút ít so với năm 1999, đạt doanh số tương đương là 71,06
triệu USD. Nguyên nhân tăng chủ yếu là do năm 2000 là năm cuối cùng để
bước vào thiên niên kỷ mới, lượng khách du lịch tăng, đương nhiên các dịch
vụ thẻ cũng tăng theo. Ngoài ra, trong thời gian sắp bước sang thiên niên kỷ
mới, tổng cục du lịch cũng đề ra chủ trương “Việt Nam là điểm đến của
thiên niên kỷ mới”, do đó đã có rất nhiều hoạt động khuyến khích dịch vụ du
lịch phát triển nên dịch vụ thẻ cũng có doanh số tăng.
Hầu hết doanh số thanh toán của các loại thẻ đều tăng lên. Riêng thẻ
Amex bị giảm từ 151 nghìn USD năm 1999 xuống còn 110,738 nghìn USD
năm 2000, giảm 26,7% vì tổ chức thẻ Amex đã ký thêm hợp đồng thanh
toán với các ngân hàng UOB, nên việc phân chia thị phần và doanh số là
không thể tránh khỏi.
Nhìn chung doanh số thẻ thu được nhiều hầu hết là ở các thành phố
lớn như Thành Phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.... Đây là những thanh phố hiện
đại ở Việt Nam.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 55
Sang năm 2001, hoạt động thanh toán thẻ tại NHNT VN lại có phần
khởi sắc hơn. Trong năm 2001, doanh số thanh toán 4 loại thẻ đạt 72.767
triệu USD. Đây là một dấu hiệu khả quan cho hoạt động thanh toán thẻ tại
NHNT, đồng thời nó cũng bẻ ngoặt xu hướng giảm liên hoàn của doanh số
thẻ trong 5 năm qua.
Để thấy rõ hơn sự thay đổi từng năm của doanh số thanh toán thẻ tại
NHNT trong 13 năm hoạt động, ta có sơ đồ biểu diễn sau đây:
Biểu đồ 4: Biểu đồ biểu diễn doanh số thanh toán thẻ theo từng
năm tại VCB (1991- 2002)
Thẻ
Visa Card Masters
Card
Amex JCB Tổng cộng
Năm 1991 6.558 1.0 0 100 7.858
Năm 1992 11.012 4.031 0 500 15.543
Năm 1993 18.686 8.368 0 847 27.901
Năm 1994 39.287 17.444 19.438 1.715 77.884
Năm 1995 55.761 24.321 38.921 3.265 122.268
Năm 1996 55.299 26.204 41.000 4.000 126.803
Năm 1997 38.402 19.114 35.944 2.589 96.155
Năm 1998 33.500 16.200 29.500 1.700 80.900
Năm 1999 34.000 15.000 24.500 1.100 74.600
Năm 2000 37.00 15.700 17.000 1.50 71.000
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 56
Năm 2001 37.992 15.521 18.013 1.241 72.767
Năm 2002 61.817 24.162 28.820 1.365 116.164
Biểu đồ 5: Số phí thu được trong thanh toán thẻ tại NHNT
(1991- 2002)
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nguồn thu chủ yếu của Viêtcombank từ hoạt động thanh toán là
khoản phí mà các ĐVCNT hoặc các điểm ứng tiền mặt trả cho Ngân hàng
thanh toán tính trên tỷ lệ % giá trị giao dịch. Khoản phí này ngân hàng thanh
toán sẽ nhận được từ ngân hàng phát hành sau khi trừ đi giá trị giao dịch mà
NHNT ứng trước cho ĐVCNT, điểm ứng tiền mặt. Là một ngân hàng thanh
toán lớn, NHNT VN có nguồn thu rất lớn từ khoản phí này. Tỷ lệ phí quy
định cho từng loại thẻ khác nhau tuỳ thuộc và ngân hàng thanh toán. Trước
khi hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ ra đời, một số ngân hàng nước
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 57
ngoài thường cố tình hạ thấp mức phí nhằm tăng tính cạnh tranh, chiếm lĩnh
thị trường gây ra nhiều khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam. Sau khi ra
đời, để giải quyết vấn đề trên, hiệp hội đã quy định giới hạn cho tỷ lệ phí
này. Tỷ lệ phí giao động trong khoảng 2,5- 3,0%/1 giao dịch, riêng thẻ
Amex quy định mức phí cao nhất là 3,6% cho một giao dịch. Nhưng để làm
được đại lý thanh toán, Vietcombank cũng phải nộp một số khoản nhất định
cho các tổ chức thẻ quốc tế hoặc tổ chức phát hành thẻ. Nguồn thu phí của
Vietcombank biến động thường xuyên tuỳ thuộc vào doanh số thanh toán thẻ
và chính sách phát triển của từng ngân hàng trong từng thời kỳ.
Nhìn vào biểu đồ 4 và 5 ta thấy gần như số phí thu được tăng giảm
theo doanh số thanh toán thẻ của ngân hàng. Cụ thể, số phí thu được qua các
năm như sau: năm 1996 đạt 1179 nghìn USD, tăng 12 % so với năm 1995.
Nhưng từ năm 1997 đến năm 1999 thì số phí thu được lại tiếp tục giảm, chỉ
đến năm 2000, phí thu được của NHNT mới có phần khởi sắc và sang đến
năm 2001 thì tăng vọt lên một lượng lớn là 44% so với năm 2000, đạt 1183
nghìn USD. Số phí thu được trong năm 2001 và 2002 tăng lên lớn hơn cả
doanh số thu phí tăng cao nhất từ trứơc đến nay vào năm 1996. Đây là một
thành công vượt bậc của NHNT trong thời kỳ phát triển của đất nước.
Từ 1991 đến 1996, doanh số thanh toán và số phí thu được tăng lên
đều là do NHNT lúc này chưa có đối thủ cạnh tranh trong công tác thanh
toán thẻ, nên lượng khách sử dụng thẻ tăng dần lên. Tuy nhiên năm 1997,
doanh số thanh toán thẻ và số phí ngân hàng thu được lại giảm nhiều (doanh
số giảm 24%, phí giảm 25%). Nguyên nhân chủ yếu là do NHNT đã phải
chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của một số ngân hàng như: UOB, ANZ, ACB,
Hôngkông Bank và còn có thêm 2 thành viên mới là eximbank và Sài Gòn
Bank. Doanh số thanh toán thẻ chủ yếu từ thẻ của doanh nhân và khách du
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 58
lịch nước ngoài sử dụng ở Việt Nam. Trong khi đó tốc độ đầu tư nước ngoài
và du lịc vào Việt Nam đang chững lại và có xu hướng giảm. Trong những
năm tiếp theo (từ 1998-2000), doanh số thanh toán tuy giảm nhưng số phí
ngân hàng thu được lại tăng lên đáng kể, cao nhất là năm 1998 là 1167 nghìn
USD. Điều này chứng tỏ trong những năm qua, hoạt động thanh toán thẻ của
NHNT đã có những bước phát triển theo chiều sâu. NHNT trong năm 1998
đã trang bị thêm cho các ĐVCNT gần 200 máy thanh toán tự động. Với loại
máy này, phải trả lại phí ít hơn là máy cà tay. Hơn nữa ta thấy cơ cấu thanh
toán thẻ đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là tỷ trọng thanh toán thẻ Amex, loại
thẻ có số phí thu được cao, tăng mạnh qua các năm. Tuy được đưa vào thanh
toán muộn hơn so với các loại thẻ khách nhưng số phí do Amex đem lại luôn
tăng cho dù doanh số thanhh toán có giảm. Đây là một sự chuyển biến tích
cực trong hoạt động thanh toán thẻ tại NHNT.
Từ năm 1991 đến năm 2000, số ĐVCNT tăng lên rõ rệt với số lượng
tăng lên liên tục qua các năm. Trong hơn 10 năm thực hiện thanh toán, số cơ
sở chấp nhận thẻ từ 105 đơn vị (1991) đã tăng đến 2510 đơn vị (2000), tăng
2405 đơn vị. Số ĐVCNT tăng lên là một điều quan trọng để tăng doanh số
thanh toán trong thời gian tới, nhất là khi tình hình thế giới và trong nước
khả quan hơn và là tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công tác phát hành thẻ
của NHNT phục vụ tiêu dùng trong nước trong thời gian sắp tới.
Một công việc quan trọng có liên quan đến việc thanh toán thẻ là việc
phòng chống rủi ro. Cho đến nay, thất thoát của ngân hàng trong công tác
thanh toán lên đến hàng trăm nghìn đô la, riêng năm 1998, thất thoát khoảng
83.000 USD (theo số liệu báo cáo của phòng quản lý thẻ của NHNT trung
ương). Như vậy, khoản thất thoát trung bình hàng năm (trừ năm 1998) xấp
xỉ 2000 USD. Nguyên nhân chính của tổn thất này là do NHNT là ngân hàng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 59
đại lý thanh toán chưa đáp ứng được nhu cầu về công nghệ cao cho
ĐVCNT, trình độ hiểu biết của đội ngũ nhân viên về công nghệ còn thấp nên
NHNT phòng chống rỉu ro trong thanh toán vẫn chỉ ở mức hướng dẫn cho
các chi nhánh và các ĐVCNT chấp hành tốt quy trình thanh toán thẻ mà
chưa có biện pháp phòng chống thẻ giả, hơn nữa kinh nghiệm về phòng
chống rủi ro của ngân hàng còn chưa nhiều.
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại NHNT còn là một nghiệp
vụ nhỏ trong hoạt động của toàn ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ dịch vụ
này chưa được thống kê chính xác bởi một số chi phí của nó chưa được hạch
toán riêng vẫn còn nằm trong chi phí của hoạt động thanh toán quốc tế. Vì
vậy hiện nay ta chỉ đánh giá được chính xác hiệu quả của hoạt động này
thông qua số phí thu được và doanh số thanh toán và phát hành. Hiện nay,
hầu hết số phí thu được đều sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động thẻ. Do vậy,
có thể nói hoạt động phát hành và thanh toán thẻ chưa đóng góp gì được vào
tổng lợi nhuận của toàn ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này đem lại nhiều
lợi ích cho các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Những lợi ích này
hoàn toàn chưa thể đo đếm bằng những con số cụ thể mà chỉ mới đánh giá
được một cách định tính. Ta có thể thấy rõ được điều này qua phần III,
chương II.
III. Một số hạn chế, khó khăn cần giải quyết trong công tác phát
hành và thanh toán thẻ tại NHNT VN
Nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ tuy là một nghiệp vụ mới mẻ
tại Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng, nhưng ngân hàng đã khai thác
triệt để và đã thu được một số kết quả như: Ngân hàng đa dạng hoá được
hoạt động kinh doanh của mình, thiết lập được quan hệ mật thiết với nhiều
cơ sở kinh doanh trong nước, khuyến khích dân cư mở tài khoản tiền gửi
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 60
thanh toán, tiền gửi tiết kiệm dùng cho mục đích cụ thể tại NHNT. Cũng qua
việc thực hiện thanh toán thẻ, ngân hàng được gia nhập vào các tổ chức thẻ
quốc tế lớn như là Visa Card và Master Card, ngân hàng không ngừng ứng
dụng khoa học công nghệ hiện đại trong lĩnh vực phát hành và thanh toán
thẻ quốc tế....
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, ban đầu cũng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn vướng mắc và hoạt động kinh doanh thẻ cũng không phải là
ngoại lệ. Trong quá trình ứng dụng dịch vụ thẻ, NHNT gặp phải một số hạn
chế, khó khăn sau:
3.1 Đối tượng sử dụng thẻ còn hạn chế
Sự hạn chế về đối tượng sử dụng thẻ tín dụng do VCB phát hành là
một trong những khó khăn lớn nhất gây ảnh hưởng đến số lượng thẻ tín
dụng. Đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu của NHNT là khách hàng đi du học, đi
công tác ở nước ngoài và số ít quan chức cấp cao của Nhà nước. Nguyên
nhân dẫn đến sự hạn chế trong đối tượng sử dụng thẻ là do:
Thu nhập của dân cư Việt Nam còn qua thấp. Bộ phận có thu nhập
khá còn quá ít và phân tán.
Tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của người Việt
Nam. Thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư chiếm tỷ lệ nhỏ.
Trình độ dân trí ở Việt Nam chưa cao. Người dân không quen tiếp cận
với những hình thức thanh toán qua ngân hàng. Thanh toán bằng thẻ là một
hình thức mới và hiện đại, thêm vào đó hoạt động Maketing sản phẩm thẻ
của NHNT còn chưa rộng rãi nên người dân chưa hình dung được thẻ tín
dụng là thế nào, do đó họ chưa thể tin tưởng vào dịch vụ này để họ có thể sử
dụng.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 61
Tài khoản cá nhân tại ngân hàng vẫn còn ít. Nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế tiền mặt, do đó nhu cầu mở tài khoản tại ngân hàng của dân cư là
chưa cấp bách và cần thiết nên việc mở tài khoản tại ngân hàng ít là điều dễ
hiểu.
Điều kiện cho vay đối với khách hàng sử dụng thẻ tín dụng của
NHNT là rất ngặt nghèo, hầu như các cá nhân muốn sử dụng thẻ đều phải có
thế chấp hoặc ký quỹ với một tỷ lệ nào đó tuỳ thuộc vào từng đối tượng
khách hàng (hiện nay quy định là bằng 125% hạn mức tín dụng của thẻ tín
dụng).
Lãi suất của các khoản nợ chưa thanh toán của khách hàng cao (bằng
lãi suất cho vay ngắn hạn). Do vậy hầu hết các chủ thẻ đều thanh toán toàn
bộ số dư nợ phát sinh trong kỳ, họ không muốn kéo dài thời gian trả nợ để
chịu lãi.
Hạn mức tín dụng tối thiểu của thẻ là10 triệu đồng là cao so với mức
thu nhập của người dân Việt Nam.
Chủ thẻ sử dụng thẻ tín dụng của NHNT để rút tiền mặt chịu phí rút
tiền mặt cao (3% số tiền rút cộng thêm 4%- tối thiểu là 50.000 VND- khi
ngân hàng yêu cầu chủ thẻ thanh toán số tiền trong kỳ), nhất là trong điều
kiện ngân hàng đang cần khuyến khích sử dụng thẻ.
Mạng lưới và loại hình các đơn vị chấp nhận thẻ của NHNT vẫn còn ít
và hạn chế, chỉ tập trng ở các đơn vị như nhà hàng, khách sạn, trung tâm du
lịch, đại lý bán vé máy bay... mà ở những nơi này khách hàng Việt Nam
không chi tiêu thường xuyên. Do vậy, việc sử dụng thẻ thực sự thay thế cho
tiền mặt ở mọi lúc, mọi nơi chưa được chứng minh.
3.1 Môi trường thanh toán thẻ nhỏ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 62
Môi trường thanh toán thẻ được xem như là yếu tố có ảnh hưởng lớn
doanh thu thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của NHNT, ảnh hưởng đến việc
thu hút nhiều đối tượng sử dụng thẻ. Cho đến nay, môi trường thanh toán thẻ
nhỏ là một hạnh chế trong việc phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế
của NHNT. Tồn tại này do các nguyên nhân sau:
Thói quen ưa thích thu tiền mặt của các đơn vị cung ứng hàng hoá,
dịch vụ. Mặc dù là ĐVCNT nhưng nhiều đơn vị không sẵn sàng chấp nhận
thanh toán thẻ. Thẻ là phương tiện thanh toán cuối cùng khi khách hàng
không có tiền mặt.
Trình độ hiểu biết của các cơ sở cung ứng hàng hoá, dịc vụ về thanh
toán bằng thẻ tín dụng quốc tế còn nhiều hạn chế, trong khi đó Marketing về
thẻ thanh toán của NHNT lại chưa có hiệu quả nhiều.
Trang thiết bị thanh toán bằng thẻ mà NHNT cung cấp cho các
ĐVCNT còn thiếu, dẫn đến tình trạng các ĐVCNT đã chuyển sang làm điểm
tiếp nhận thẻ cho các ngân hàng khác.
Việc phối hợp xây dựng quy trình về quản trị hệ thống vẫn còn yếu.
Chủ thẻ sử dụng thẻ tín dụng hiện nay chủ yếu là người nước ngoài
chứ không phải là người dân Việt Nam do đó cũng là một hạn chế của các
ĐVCNT.
Cấp phép là việc nhằm đảm bảo an toàn cho NHNT nhưng các
ĐVCNT lại phải chịu những khoản phí khi phải xin cấp phép.
3.2 Công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu
Nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế đòi hỏi
những trang thiết bị kỹ thuật cao và hiện đại cùng với một đội ngũ cán bộ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 63
công nhân viên có đủ khả năng quản lý và vận hành hệ thống theo tiêu chuẩn
quốc tế. Song cho đến nay, công nghệ phục vụ cho nghiệp vụ thẻ của NHNT
lại chưa đáp ứng được yêu cầu về phát hành và thanh toán thẻ quốc tế, tồn
tại này là do các nguyên nhân sau:
Hệ thống phần mềm quản lý thanh toán giữa trung tâm thẻ và các chi
nhánh, ngân hàng đại lý thanh toán của NHNT vẫn chưa được hoàn chỉnh,
còn thiếu các yếu tố cần thiết trong thanh toán.
Phần cứng hệ thống quản lý phát hành và thanh toán thẻ chưa đảm
bảo đủ công suất cho nghiệp vụ thẻ hoạt động hiệu quả và ổn định.
Hệ thống máy ATM (máy rút tiền tự động) còn qua ít (70 cái). Do đó
chủ thẻ ít có cơ hội rút tiền mặt tại các máy ATM, mà chủ yếu là chủ thẻ
phải đến các quầy rút tiền mặt trong hệ thống thanh toán của NHNT. Điều
này gây tâm lý khó chịu cho khách hàng do không thuận tiện, nhanh chóng.
Ngân hàng chưa có đội ngũ nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp, những
người có khả năng đảm bảo cho hệ thống thiết bị phục vụ nghiệp vụ thẻ
được vận hành liên tục. Hầu hết những máy hỏng hóc về kỹ thuật đều phải
mời nhà cung cấp máy giúp đỡ để khắc phục. Điều đó dẫn đến việc bảo trì,
sửa chữa máy móc tốn kém và triển khai chậm.
NHNT chưa có máy dự phòng thay thế cho những máy hỏng, do vậy
khi xảy ra sự cố đã làm gián đoạn việc phát hành và thanh toán thẻ dẫn đến
tâm lý chán nản cho khách hàng sử dụng thẻ.
Chi phí đầu tư công nghệ cao nhưng chưa mang lại được nhiều hiệu
quả.
3.3 Rủi ro phát sinh trong phát hành và thanh toán thẻ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 64
Việc phòng chống rủi ro được NHNT thực hiện tương đối tốt. Tuy
nhiên trong quá trình phát hành và thanh toán thẻ vẫn không thể tránh khỏi
những rủi ro. Như đã phân tích ở trên, trong nghiệp vụ phát hành ngân hàng
đã chịu tổn thất là 5000 USD còn trong thanh toán là 100.000 USD mà chưa
có biện pháp khắc phục. Nguyên nhân chính của tồn tại chính là:
Trung tâm thẻ chưa có những thông tin kịp thời về rủi ro, thẻ cấm lưu
hành để cung cấp cho các ĐVCNT, chi nhánh NHNT trong thời gian này
đơn vị đã tiếp nhận thẻ.
ĐVCNT của NHNT có hành vi gian dối hoặc ngại xin cấp phép.
ĐVCNT chia giá trị một giao dịch thẻ làm nhiều hoá đơn thanh toán có giá
trị nhỏ để tránh xin cấp phép từ trung tâm thẻ của NHNT.
Thẻ thanh toán là một hình thức ứng dụng công nghệ cao nên việc bọn
tội phạm sử dụng thẻ giả mạo trùng với thẻ đang lưu hành của NHNT đã
nằm ngoài khả năng phòng chống của NHNT. Đây là loại rủi ro đặc biệt và
khó quản lý nhất hiện nay của NHNT.
Chi phí phòng chống rủi ro lớn.
Như vậy, kết thúc chương 2 chúng ta đã biết được hoạt động phát
hành và thanh toán thẻ quốc tế tại NHNT trong thời gian từ 1991- 2002, hoạt
động này vẫn chưa thực sự phát triển so với thế mạnh thanh toán quốc tế của
NHNT. Tuy nhiên, vấn đề chính của chương 2 là em đã rút ra được một số
vướng mắc đã làm cho hoạt động kinh doanh thẻ của NHNT chưa phát triển
trong thời gian qua. Những vướng mắc này là mục tiêu giải quyết ở chương
ba
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 65
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 66
Chương iii
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác
phát hành và thanh toán thẻ
tại ngân hàng ngoại thương việt nam
I. định hướng phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại nhnt
việt nam
1.1 Định hướng phát triển thẻ thanh toán trong hệ thống NHVN
Trước một tình hình thực tế là tình hình sử dụng quá nhiều tiền mặt
trong nền kinh tế không có dâú hiệu giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên
gây nhiều khó khăn cho nền kinh tế và các cơ quan quản lý nhà nước, Ngân
hàng Nhà nước cùng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang có hoạt
động cụ thể nhằm đẩy mạnh phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ở Việt
Nam.
Định hướng phát triển nghiệp vụ thẻ ở nước ta trong thời gian tới
phải mang tính tập trung, đồng bộ, đều khắp, vừa kết hợp tận dụng mọi
nguồn lực của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng có mạng lưới rộng khắp.
Khuyến khích các ngân hàng tham gia vào hoạt động thẻ, kể cả các chi
nhánh ngân hàng tại các tỉnh. Các ngân hàng phối kết hợp với nhau trong
việc xây dựng một hệ thống máy móc kỹ thuật nhằm làm cho quá trình thanh
toán được thuận lợi, nhanh chóng, tránh tình trạng việc ai nấy làm như hiện
nay. Ngân hàng Nhà nước sẽ xúc tiến để chuẩn bị cho ra đời một trung tâm
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 67
thanh toán trong tương lai nhằm quản lý và tạo điều kiện thanh toán nhanh
chóng cho các ngân hàng.
Trong giai đoạn tới hứa hẹn có nhiều ngân hàng tham gia vào thanh
toán thẻ và như vậy thị trường thẻ sẽ trở nên sôi động hơn. Cho đến nay,
ngoài các ngân hàng đi trước trong hoạt động này như NHNT VN, ngân
hàng cổ phần á châu... đã và đang có nhiều ngân hàng khác nhập cuộc với
nhiều mức độ khác nhau. Ngoài ra còn nhiều ngân hàng khác đang trong quá
trình chuẩn bị và học tập kinh nghiệm. Ngân hàng nhà nước sẽ tạo điều kiện
tốt nhất cho các ngân hàng này tham gia hoạt động thẻ một cách nhanh
chóng, đồng thời là chiếc cầu nối liên kết các ngân hàng để cùng giúp nhau
phát triển nghiệp vụ thanh toán này. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ
triển khai hàng loạt máy ATM dành cho thẻ quốc tế và nội địa. Trong những
năm tới, thẻ là thị trường rộng lớn bỏ ngỏ cho các ngân hàng, các tổ chức tài
chính trong và ngoài nước.
Trong tháng 9 năm 1998, một hội thảo với chuyên đề “mở rộng phạm
vi sử dụng và phát hành thẻ ở ngân hàng Việt Nam” đã được tổ chức tại Việt
Nam. Tại hội thảo, nhiều chuyên gia ngân hàng đã tham dự và đã mở rộng ra
một triển vọng to lớn cho việc phát triển thẻ ở Việt Nam. Do đó, trong thời
gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ có kế hoạch tổ chức một cuộc hội thảo
chuyên đề như trên nhằm chuẩn bị tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của một
trung tâm thanh toán bù trừ thẻ , séc và có thể là hối phiếu thương mại.
1.2 Định hướng phát triển của NHNT trong hoạt động phát hành
và thanh toán thẻ
Phát hành và thanh toán thẻ chưa phải là một nghiệp vụ lớn tại
NHNT VN. Nếu đem so sánh lợi nhuận thu được từ hoạt động này với thu
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
NguyÔn ThÞ Thu HiÒn – Líp Ng©n hµng 41A 68
nhập của toàn ngân hàng, ta có thể thấy rõ điều này. Tuy nhiên trong chiến
lược phát triển của ngân hàng, ban lãnh đạo ngân hàng vẫn coi trọng công
tác này. Trong những năm trước mắt, phát hành và thanh toán thẻ vẫn tiếp
tục được đẩy mạnh ở NHNT. Đặc biệt ngân hàng sẽ dành phần lớn số phí
thu được từ hoạt động này để tái đầu tư và các mặt của công tác phát hành
và thanh toán thẻ.
* Đối với nghiệp vụ phát hành thẻ
Tập trung nỗ lực để đẩy mạnh công tác phát hành thẻ, từng bước đưa
công tác này trở thành hoạt động chính trong hoạt động thẻ tại ngân hàng.
Phối hợp phòng thẻ với các phòng ban khác như phòng tín dụng,
phòng hối đoái nhằm tạo nên sự nhịp nhàng trong phát hành thẻ, đưa nghiệp
vụ phát hành thẻ thực sự trở thành một hình thức cho vay mới của ngân
hàng.
Xúc tiến các chương trình tiếp thị, quảng cáo, khuyến mãi lớn nhằm
giới thiệu sản phẩm mới của ngân hàng.
Xem xét, nghiên cứu việc liên kết phát hành thẻ với các tổ chức tín
dụng như các cá nhân, tổ chức kinh doanh, tổ chức xã hội khác. Nghiên cứu
nhằm đa dạng hoá các sản phẩm thẻ tín dụng phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ
khác nhau của khách hàng.
Tiếp tục nghiên cứu để cho ra đời các sản phẩm thẻ phục vụ nhu cầu
chi tiêu đang tăng lên của các công ty, tổ chức như thẻ mua sắm, thẻ công ty.
Trong đó có thể nghiên cứu tiếp tục khai thác việc phát hành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.pdf