Luận văn Tìm hiểu xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Tìm hiểu xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN: Xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một hoạt động quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của mỗi quốc gia, nhất là với những nước đang phát triển như Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: "Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh..." và "Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ..." [17, tr. 199]. Thủy sản là mặt hàng chủ lực có lợi thế của Việt Nam, trong hơn thập kỷ qua đã thu được nhiều thành công rực rỡ. Từ mức 550,5 triệu US...

pdf118 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một hoạt động quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của mỗi quốc gia, nhất là với những nước đang phát triển như Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: "Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh..." và "Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ..." [17, tr. 199]. Thủy sản là mặt hàng chủ lực có lợi thế của Việt Nam, trong hơn thập kỷ qua đã thu được nhiều thành công rực rỡ. Từ mức 550,5 triệu USD xuất khẩu vào năm 1995 thì đến năm 2004 đã đạt 2,4 tỷ USD. Mỗi năm bình quân tăng trên 130 triệu USD, với tỷ lệ bình quân là 14,5% mỗi năm. Hiện nay thị trường xuất khẩu thủy sản (XKTS) đã được mở rộng trên 80 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hàng thủy sản Việt Nam đã có chỗ đứng khá vững chắc trên những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản... và chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của cả nước. Thủy sản đang thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu phát triển từ sau khi Mỹ bỏ chính sách cấm vận đối với nước ta (1994). Đặc biệt từ khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Mỹ (BTA) được ký kết và có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, là một bước đột phá và cơ hội lớn cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, cũng như những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh và mở rộng quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị trường Mỹ không chỉ là vấn đề cấp thiết về lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách trước mắt có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Các doanh nghiệp XKTS Việt Nam đã xác định thị trường Mỹ là một thị trường rất quan trọng, có khả năng tiêu thụ chủ yếu các sản phẩm thủy sản có chất lượng và giá trị cao. Đây là một thị trường lớn và đầy tiềm năng triển vọng, nhưng còn rất mới đối với các doanh nghiệp của Việt Nam. Do vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam tiếp tục phát triển vững mạnh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả chọn đề tài: " Xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp " làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết xung quanh vấn đề này. Cụ thể như: - GS.TS Chu Văn Cấp: Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. - GS.TS Võ Thanh Thu: Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001. - TS. Bùi Ngọc Sơn: Một số biện pháp để thâm nhập thành công vào thị trường Mỹ, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 4, 2003. - GS.TS Hoàng Đức Thân: Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Đề tài: Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Mã số: 97-78-060 của Trung tâm Tư vấn và Đào tạo kinh tế thương mại. - Nguyễn Văn Hoàn: Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ những điều cần biết, Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam, số 2/2003. - Dự án STAR Việt Nam và Viện Quản lý Kinh tế Trung ương: Đánh giá tác động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về mặt lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ dưới góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. Từ đó thấy được những thành công và hạn chế, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ thời gian tới có hiệu quả. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài - Làm rõ đặc điểm thị trường Mỹ và những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ. - Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. Là đề tài thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị, do đó luận văn chú ý tới các vấn đề chung có tính chất định hướng ở tầm vĩ mô. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ thời điểm từ 1994 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tế, cùng với phương pháp hệ thống, điều tra, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc những thông tin trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả trước. 6. Những đóng góp của luận văn Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản, các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng thủy sản. Đề xuất được những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn về hoạt động xuất khẩu thủy sản 1.1. vai trò và nội dung của Hoạt Động Xuất Khẩu Thủy Sản 1.1.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu thủy sản 1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm xuất khẩu thủy sản * Khái niệm xuất khẩu thủy sản ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, người ta lại có định nghĩa khác nhau về xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất như sau: Xuất khẩu là việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là mua bán trao đổi hàng hóa. Khi sản xuất hàng hóa phát triển và trao đổi giữa các quốc gia mở rộng đã mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia thì hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của một quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Thủy sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa hẹp, sản xuất ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa thủy sản để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Các sản phẩm hàng hóa đa dạng do ngành thủy sản sản xuất ra bao gồm như: cá các loại, tôm các loại, nhuyễn thể các loại và các thủy hải sản đặc biệt khác [19, tr. 198]. Ngành thủy sản gồm hai bộ phận sản xuất chủ yếu là: ngành nuôi trồng và ngành công nghiệp thủy sản. Ngoài ra, để phục vụ cho sản xuất kinh doanh còn có các hoạt động sản xuất phụ trợ và phục vụ khác. Cơ cấu ngành thủy sản có thể được minh họa như sau: Hình 1.1: Mô hình cơ cấu ngành thủy sản Từ cách tiếp cận trên, chúng ta có thể hiểu: Xuất khẩu thủy sản là việc bán những sản phẩm thủy sản trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng tích lũy cho ngân sách nhà nước. Xuất khẩu thủy sản là một ngành sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào nguyên liệu từ khai thác và nuôi trồng thủy sản trong nước. * Bản chất của xuất khẩu thủy sản Thực chất của xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ là sự trao đổi lao động kết tinh giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hóa. Trong đó, những nước đang phát triển xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của mình sang thị trường các nước phát triển nhằm phát huy tối ưu lợi thế tuyệt đối và tương đối của quốc gia mình trong trao đổi và buôn bán quốc tế. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ cũng vậy. Hàng thủy sản của Việt Nam Ngành thủy sản Ngành nuôi trồng thủy sản Ngành công nghiệp thủy sản - Nuôi thủy sản nước ngọt - Nuôi thủy sản nước lợ - Nuôi trồng hải sản - Sản xuất giống Các ngành phụ trợ và phục vụ - Đóng sửa tàu thuyền - Sản xuất dụng cụ đánh bắt - Dịch vụ vận chuyển, cảng, kho lạnh - Sản xuất nước đá, thức ăn cho nuôi trồng Ngành khai thác - Đánh bắt hải sản - Khai thác các sản phẩm nuôi trồng Ngành chế biến - Đông lạnh - Đồ hộp - Hàng khô, xông khói, Nội địa Xuất khẩu vào thị trường Mỹ được kết tinh bởi lao động hao phí của những ngư dân và lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu của Việt Nam. Do đó, trong trao đổi ngang giá, cả Việt Nam và Mỹ đều thu được lợi. Việt Nam đã nhận được ngoại tệ mạnh để có thể mua máy móc, thiết bị và kỹ thuật hiện đại nhằm thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH, phát triển đất nước. Người tiêu dùng Mỹ được mua hàng thủy sản giá rẻ, chất lượng cao. Chính vì vậy mà D. Ricardo cho rằng, xuất khẩu đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia và làm tăng sản xuất, tiêu dùng quốc tế. * Các hình thức xuất khẩu thủy sản Có nhiều hình thức xuất khẩu thủy sản, nhưng có hai hình thức xuất khẩu chủ yếu là: Xuất khẩu trực tiếp: Là việc các nhà sản xuất kinh doanh bán hàng thủy sản trực tiếp cho người mua hàng không thông qua trung gian. Xuất khẩu gián tiếp: Là xuất khẩu hàng thủy sản thông qua trung gian thương mại. Ngoài ra còn có các hình thức XKTS khác: - Hoạt động tái xuất khẩu: Là hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản đã nhập về trong nước thông qua chế biến (sơ chế và tái chế). - Xuất khẩu hàng đổi hàng: Là một phương thức xuất khẩu mà trong đó người XKTS đồng thời là người nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Trong quá trình buôn bán, ký hợp đồng, thanh quyết toán vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá chung. - Xuất khẩu tại chỗ: Là hoạt động cung cấp hàng thủy sản cho đối tượng là người nước ngoài đang ở nước sở tại như các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế… Trong trường hợp này hàng thủy sản có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm được chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh. * Đặc điểm của xuất khẩu thủy sản Thứ nhất, thủy sản là loại hàng hóa mang nặng tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết ngư trường nên XKTS cũng mang tính thời vụ. Đối tượng của XKTS là cá và sinh vật sống dưới nước. Vì vậy để đảm bảo cho nguồn nguyên liệu cung cấp đều đặn, liên tục cho XKTS đòi hỏi phải tăng khai thác hải sản song song với việc bảo vệ nguồn lợi, tiến hành nuôi trồng và phát triển các giống loài để phục vụ cho việc xuất khẩu lâu dài. Công việc này phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, trình độ công nghệ và nỗ lực của con người. Cũng do đối tượng là các sinh vật sống dưới nước, trữ lượng khó xác định một cách chính xác, đồng thời các sinh vật có thể di chuyển tự do; bên cạnh đó là các điều kiện khí hậu, thời tiết, dòng chảy, địa hình, thủy văn... tạo nên tính mùa vụ phức tạp cả về không gian và thời gian nên việc XKTS cũng mang tính thời vụ. Ngày nay, nhờ phát triển nuôi trồng thủy sản nên các doanh nghiệp trong ngành thủy sản đã hạn chế được tính mùa vụ từ nguyên liệu khai thác. Bên cạnh đó, sản phẩm thủy sản lại có tính chất mau hư hỏng và ươn thối, sản phẩm thủy sản khi đưa ra thị trường đã phải trải qua quá trình từ tươi sống, đông lạnh, rã đông và đem bán như thủy sản tươi tại quầy. Việc cấp đông đặc biệt quan trọng để ngăn ngừa sự ươn hỏng vì tốc độ ươn hỏng ở thủy sản cao hơn hai lần so với các loại Protein khác như thịt gà, thịt bò hay thịt lợn. Chính điều này làm cho giá trị thủy sản giảm rất nhanh, thậm chí trong vài giờ nếu nhiệt độ tăng lên trên 0oC. Để khắc phục điều này đòi hỏi các cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu (TSXK) phải có hệ thống kho lạnh trữ lạnh nguyên liệu lâu dài đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu của thị trường nước ngoài. Thứ hai, XKTS là ngành đòi hỏi có tính hỗn hợp, tính liên ngành cao. XKTS bao gồm nhiều hoạt động sản xuất cụ thể có tính chất tương đối khác nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo một chuỗi mắt xích từ khâu: khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản. Khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, các hoạt động sản xuất cụ thể nói trên chưa có sự tách biệt rõ ràng, thậm chí còn lồng ghép vào nhau. Với điều kiện như vậy, khối lượng sản phẩm sản xuất ra còn ít, chất lượng thấp và chủ yếu đáp ứng nhu cầu thị trường nhỏ hẹp. Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội làm cho các hoạt động trên được chuyên môn hóa ngày càng cao và có tính độc lập tương đối. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm TSXK, tính liên kết vốn có của các hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thủy sản lại đòi hỏi phải gắn bó các ngành chuyên môn hóa hẹp nói trên trong một tổng thể thống nhất, ở trình độ cao hơn mang tính liên ngành. Như vậy, để tạo ra một sản phẩm TSXK có chất lượng cao đòi hỏi phải có tính liên ngành, tính hỗn hợp cao của các hoạt động sản xuất vật chất tương đối khác gồm nuôi trồng, khai thác, chế biến TSXK là đặc điểm của ngành XKTS. Ngoài những đặc điểm chung như trình bày trên, XKTS Việt Nam còn có những đặc điểm riêng: Một là, thủy vực và nguồn lợi thủy sản Việt Nam đa dạng và khá phong phú. Nếu không kể tiềm năng mặt nước và nguồn lợi thủy sản nội địa, ta còn có tiềm năng về biển cho phát triển thủy sản. Biển Đông của Việt Nam có diện tích 3.447 ngàn km2, độ sâu trung bình 1.140 m và bờ biển dài trên 3.260 km, khá dồi dào về nguồn lợi sinh vật biển...[19, tr. 21]. Với tiềm năng mặt nước lớn và nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam hoàn toàn có thể phát huy lợi thế của mình trong việc XKTS, nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường nước ngoài và đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao. Hai là, XKTS Việt Nam đang ở trình độ thấp, có mặt còn lạc hậu, đang trong quá trình đổi mới để phát triển và hội nhập quốc tế. Việc phát triển nuôi trồng thủy sản vẫn thiếu ổn định do còn nhiều hạn chế về giống và thủy lợi, chưa thực hiện tốt chương trình quản lý chất lượng theo hệ thống phân tích mối nguy hiểm và các điểm kiểm soát tới hạn (HACCP) và quản lý dư lượng một số chất độc hại (kiểm soát dư lượng và tiêu chuẩn vùng nuôi), đến ngày 5/01/2004, Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIGAVED) mới chính thức được ra mắt và đi vào hoạt động. Về khai thác nguồn lợi thủy sản biển đến nay vẫn chậm đổi mới công nghệ, công cụ và phương thức khai thác lạc hậu so với một số nước trong khu vực; chưa có sự gắn kết chặt chẽ khai thác với bảo quản chế biến. Trình độ chế biến xuất khẩu còn lạc hậu chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên năng lực cạnh tranh của hàng TSXK Việt Nam rất yếu. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. XKTS Việt Nam đang có nhiều thách thức nhưng cũng đang có nhiều cơ hội, điều đó đòi hỏi chúng ta phải có nhiều nỗ lực, có phương pháp và bước đi thích hợp vượt qua những khó khăn, thách thức để hội nhập và phát triển. 1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu thủy sản đối với phát triển kinh tế - xã hội Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế nước ta. Những năm gần đây, thủy sản luôn là mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trí cao trong số các mặt hàng xuất khẩu, sau dầu thô và dệt may. Có thể nói, ngành thủy sản với xuất khẩu là động lực chủ yếu đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và phát triển các lĩnh vực khác trong ngành thủy sản như khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần. Có thể cụ thể hóa một số vai trò của XKTS như sau: Một là, XKTS tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ CNH, HĐH đất nước. Để tiến hành quá trình CNH, HĐH cần phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Các nguồn vốn để nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, hoạt động thu từ hoạt động du lịch... Trong đó nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu là xuất khẩu. Đối với những nước có tiềm năng về thủy vực và nguồn lợi thủy sản thì việc phát triển ngành thủy sản sẽ tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị và tăng thu ngoại tệ cho đất nước thực hiện quá trình CNH, HĐH. Trong những năm gần đây, XKTS đã đóng góp không nhỏ trong tổng sản phẩm quốc nội. Vai trò đó thể hiện rất cụ thể ở giá trị xuất khẩu của ngành ngày càng tăng (xem phụ lục 1). Hai là, XKTS góp phần phát huy lợi thế so sánh của đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kinh tế thủy sản phát triển. Nước ta có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ưu đãi, thuận lợi cho quá trình khai thác, nuôi trồng thủy sản. Tiềm năng, nguồn lợi tài nguyên sinh vật biển và vùng nước nội địa Việt Nam rất phong phú, có nhiều loài có giá trị kinh tế cao phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, lực lượng lao động Việt Nam dồi dào, cần cù và thông minh, khéo léo. XKTS đã phát huy được lợi thế so sánh đó, tăng thu nhập ngoại tệ, góp phần giảm bớt sự thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước. Trong hơn hai thập kỷ qua, XKTS đã đóng vai trò "đòn bẩy" mở đường thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành kinh tế thủy sản từ khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến cho đến dịch vụ hậu cần nghề cá. Có thể nói rằng, XKTS không phát triển thì các lĩnh vực khác trong ngành thủy sản không thể phát triển. Chính sự lớn mạnh của XKTS đã tạo đầu ra sự phát triển không ngừng của công nghiệp khai thác và nuôi trồng thủy sản (xem phụ lục 2). XKTS đã góp phần chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong khai thác và nuôi trồng thủy sản theo hướng có giá trị xuất khẩu cao đáp ứng nhu cầu của thị trường nhập khẩu đòi hỏi. Chính vì vậy, trong những năm qua ngành khai thác đã chú ý phát triển những mặt hàng thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, mực... còn trong nuôi trồng có: tôm sú, tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá tra, cá ba sa, cá song, cá giò, nhuyễn thể… Thực hiện các Quyết định 393/TTg, Quyết định 159/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc đầu tư đóng tàu khai thác xa bờ đã được phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng sản phẩm chế biến xuất khẩu từ nguồn nguyên liệu khai thác xa bờ tăng lên hàng năm. Góp phần chuyển dịch được một bộ phận ngư dân từ làm ăn cá thể sang làm ăn có tổ chức như các tập đoàn sản xuất, tổ hợp tác sản xuất, hợp tác xã. Năm 2003 đã thành lập mới được 527 hợp tác xã, tổ khai thác hải sản xa bờ với hơn 19.000 lao động trực tiếp trên biển. Ba là, XKTS đóng góp vào việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. XKTS đã thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất của toàn ngành thủy sản theo hướng CNH, HĐH đặc biệt là khu vực chế biến thủy sản. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản đã đi đầu trong số các ngành kinh tế trong công cuộc đổi mới và hội nhập khu vực và quốc tế với một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối cao. Sự ra đời hàng loạt nhà máy chế biến thế hệ mới bên cạnh các nhà máy được nâng cấp với quy mô lớn, công nghệ hiện đại đã góp phần đưa công nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam lên thứ hạng cao trên thế giới. Bên cạnh đó đã có hoạt động nghiên cứu, chế tạo các thiết bị và đã thành công ở các cơ sở Searefico, Năm Dũng, Hà Yên... như: thiết bị cấp đông IQF, gia nhiệt, mạ băng, thiết bị đóng gói... đã đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghiệp. Thêm vào đó, dù các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) là những yêu cầu rất cao đối với sản xuất nhưng nhiều nhà máy đã kịp thời nâng cấp, đổi mới, tiếp cận được trình độ của các nước tiên tiến đặc biệt là việc áp dụng HACCP. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản thì phương pháp nuôi công nghiệp đã được hình thành ở nhiều địa phương trên khắp cả nước. Có nhiều khu nuôi công nghiệp tập trung có diện tích trên 500 ha với những thiết bị hiện đại được trang bị cho nghề nuôi, sử dụng thức ăn công nghiệp. Hoạt động nuôi trồng được kiểm soát chặt chẽ, tuân thủ theo các quy định quốc tế như Quy phạm thực hành tốt (GAP  Good Aquaculture Practise). Trong lĩnh vực khai thác, ngư dân đã sử dụng các phương tiện đánh bắt hiện đại như phương tiện thông tin liên lạc, thiết bị tầm ngư, máy định vị… Đặc biệt, đội tàu khai thác hải sản xa bờ đã được trang bị các thiết bị hiện đại để có thể khai thác hiệu quả và dài ngày trên biển. Đến nay đã hình thành đội tàu khai thác hải sản xa bờ trên 6.000 chiếc, trong số đó dân tự đầu tư đóng trên 4.000 chiếc. Cùng với sự hiện đại hóa của ngành thủy sản, đội ngũ những người lao động nghề cá cũng trưởng thành nhanh chóng, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý các doanh nghiệp. Bốn là, XKTS có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Sự phát triển của XKTS kéo theo sự phát triển kinh tế thủy sản đã tạo ra việc làm cho hàng triệu lao động từ sản xuất nguyên liệu đến dịch vụ cho sản xuất thủy sản, chế biến thủy sản. Hiện nay, theo thống kê của Bộ Thủy sản cho thấy, tổng số lao động trong ngành thủy sản hiện nay có khoảng gần 4 triệu người [12, tr. 7]. Nhìn chung, đời sống của người ngư dân ổn định và ngày càng được cải thiện. Công tác xóa đói giảm nghèo và bộ mặt nông thôn ven biển ngày càng đổi mới. Năm là, XKTS là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Phát triển của ngành thủy sản nói chung, của XKTS nói riêng đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho quan hệ thương mại quốc tế. Nếu năm 1996, quan hệ thương mại quốc tế của ngành thủy sản mới chỉ dừng ở con số 30 nước thì đến năm 2001, hàng thủy sản Việt Nam đã có bán tại 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2004 con số này đã là 80 nước và vùng lãnh thổ. Quan hệ thương mại thủy sản được mở rộng tại Mỹ và các nước EU là một đóng góp đáng kể của ngành thủy sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế của nền kinh tế nước ta. Quan hệ thương mại thủy sản được mở rộng đã dẫn đến các quan hệ với nhiều ký kết song phương và đa phương với các nước Đan Mạch, Nhật Bản. Nga, Mỹ, Hàn Quốc với các tổ chức quốc tế như FAO, UNDP, ADB, WB... Các ký kết này đã phát huy hiệu quả to lớn trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của ngành thủy sản nói riêng của cả nước nói chung. Cũng trên cơ sở này, tạo điều kiện cho Việt Nam hiểu đầy đủ hơn về pháp luật và thông lệ quốc tế giúp cho nền kinh tế Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới. 1.1.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu thủy sản Hoạt động XKTS cũng như hoạt động xuất khẩu những hàng hóa khác phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau, từ việc nghiên cứu thị trường, lập và triển khai thực hiện phương án kinh doanh đề ra, thực hiện hợp đồng ký kết đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức thận trọng, linh hoạt. 1.1.2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thủy sản Có thể khẳng định rằng, trong điều kiện mà thương trường thủy sản quốc tế có những biến động hàng ngày và sự biến động đó ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động XKTS thì công tác nghiên cứu thị trường XKTS phải được xem như một khâu quan trọng nhất và được thực hiện ngay từ đầu. Nếu như hoạt động này được tiến hành tốt thì sẽ giúp cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại mặt hàng thủy sản thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung ứng, giá cả trên thị trường. Thông thường việc nghiên cứu thị trường XKTS cần tập trung làm rõ những vấn đề căn bản sau:  Thị trường XKTS nào có triển vọng đối với hàng thủy sản Việt Nam.  Khả năng tiêu thụ những sản phẩm TSXK của thị trường đó.  Thị trường đó đang cần những mặt hàng TSXK nào.  Tình hình cung cấp thủy sản cho thị trường đó của các nước xuất khẩu.  Hệ thống luật pháp và các quy định bắt buộc khi đưa hàng TSXK vào thị trường đó.  Hệ thống phân phối tiêu thụ TSXK trên thị trường đó như thế nào. Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp chính là: nghiên cứu tại văn phòng và nghiên cứu tại hiện trường. Kết quả của việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu sẽ là cơ sở giúp các doanh nghiệp xây dựng phương án xuất khẩu và lựa chọn phương thức giao dịch hiệu quả. 1.1.2.2. Lập phương án kinh doanh Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường XKTS, các doanh nghiệp lập phương án kinh doanh cho mình, phương án này là kế hoạch hoạt động của các doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm: - Lựa chọn nguồn hàng TSXK: Muốn tạo được nguồn hàng thủy sản ổn định, các doanh nghiệp XKTS phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc tiếp cận thị trường. Việc nghiên cứu nguồn hàng TSXK nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc điểm riêng của từng loại mặt hàng thủy sản. Ngoài ra, việc nghiên cứu nguồn hàng TSXK còn nhằm xác định mặt hàng thủy sản dự định xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu của thị trường xuất khẩu về ATVSTP hoặc theo các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp XKTS hướng dẫn kỹ thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước họ. - Lựa chọn phương thức kinh doanh: Phổ biến và sử dụng nhiều nhất vẫn là phương thức kinh doanh trực tiếp không qua trung gian. Tuy nhiên, cần căn cứ vào đặc điểm thị trường và khả năng của doanh nghiệp để lựa chọn phương thức kinh doanh cho phù hợp. - Lựa chọn khách hàng: Việc chọn đối tác đúng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tránh được những rủi ro, phiền toái trong hoạt động kinh doanh. Do vậy, bạn hàng cần phải quen biết, có uy tín trong kinh doanh, có thực lực tài chính và giữ chữ tín trong quan hệ làm ăn. 1.1.2.3. Tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu thủy sản Trong đàm phán để ký kết hợp đồng XKTS, các bên tham gia phải tiến hành một loạt các công việc liên quan như: tổ chức đàm phán, soạn thảo hợp đồng kinh tế, chuẩn bị thực hiện hợp đồng; hai bên cần tiến hành đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp, hoặc thông qua điện thoại, Internet... Kết quả của đàm phán, các bên đi đến ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng XKTS phải đảm bảo tuân thủ luật pháp quốc gia của hai nước và luật pháp quốc tế. Những điều khoản trong hợp đồng XKTS phải rõ ràng chặt chẽ như: Tên hàng (Commodity), Điều kiện phẩm chất (Quality), Điều kiện về số lượng (Quatity), Điều khoản giao hàng (Shipment/Delivery), Điều khoản giá cả (Price), Điều khoản thanh toán (settement payment), Điều khoản bao bì, ký mã hiệu (Packaging, marking), Điều khoản bảo hành (warranty), Bảo hiểm (Insurance), phạt bồi thường thiệt hại (Penalty)... Đồng thời trong hợp đồng XKTS phải xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên. 1.1.2.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu thủy sản Việc thực hiện hợp đồng XKTS là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hợp đồng kinh doanh XKTS, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và các mối quan hệ với bạn hàng ở các nước. Bất cứ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu đều có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như làm chậm tiến độ hợp đồng, suy giảm chất lượng hàng hóa… dẫn đến những tranh chấp khiếu nại rất khó giải quyết, gây tổn thất về mặt kinh tế. Do đó, tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo nhằm nâng cao lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 1.2. Đặc điểm thị trường Mỹ và những nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 1.2.1. Một số đặc điểm về thị trường Mỹ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (tiếng Anh là: United states of America - US) thường gọi là Hoa Kỳ hay Mỹ có diện tích 9.269.000 km2 với số dân 290 triệu người (năm 2003). Thu nhập bình quân đầu người là 36.300USD. Hiện nay, Mỹ được ví như là một thị trường "không đáy", một thị trường xuất khẩu khổng lồ của tất cả các nước trên thế giới. Để có thể thâm nhập thành công vào một thị trường như vậy trước hết cần phải tìm hiểu môi trường kinh doanh cũng như hệ thống pháp luật của Mỹ để từ đó có những cách thức tiếp cận phù hợp. Dưới đây là những đặc điểm nổi bật của thị trường Mỹ: 1.2.1.1. Đặc điểm về kinh tế Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay: Một là, về quy mô kinh tế. Hiện nay, dù không còn chiếm ưu thế tuyệt đối trên lĩnh vực mậu dịch và tiền tệ quốc tế, thậm chí còn ở vào tình trạng phải cạnh tranh gay gắt với các nền kinh tế khác, Mỹ vẫn giữ địa vị cường quốc số một về kinh tế và quân sự. Năm 2000, GDP của Nhật bằng 32% GDP của Mỹ, Đức bằng 19,4%, Pháp bằng 14,6% và Anh bằng 13,7%. Mỹ là nước có thu nhập quốc dân lớn nhất. Năm 2002 GDP của Mỹ là 10.450 tỷ USD chiếm trên 21% tổng thu nhập quốc dân toàn cầu [45, tr. 98]. Hai là, về tốc độ tăng trưởng. Từ thập kỷ 90 trở lại đây, Mỹ đã duy trì được mức tăng trưởng GDP cao hơn mức tăng trưởng chung của cả khối G7. Mức tăng trưởng GDP bình quân của Mỹ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi đó tốc độ của các nước G7 là 2,6%. Song từ năm 2000 trở lại đây tốc độ tăng GDP thực tế của nước này không ổn định và thấp hơn so với mức bình quân của thập kỷ 90. Cụ thể mức tăng năm 2000 là 5%; năm 2001 do ảnh hưởng của sự kiện 11/9 nên tốc độ tăng chỉ còn 0,5%; năm 2002 là 2,2% và năm 2003 là 3,1%; năm 2004 khoảng 4 - 4,5% [45, tr. 98]. Ba là, về cơ cấu kinh tế. Mỹ hiện nay có tới 80% GDP được tạo ra từ ngành dịch vụ; công nghiệp chỉ chiếm 18% và nông nghiệp chỉ đóng góp 2%. Các ngành công nghiệp chính của Hoa Kỳ bao gồm: dầu lửa, sắt thép, ô tô, hàng không, viễn thông, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng... Các sản phẩm nông nghiệp chính của Mỹ bao gồm: lúa mì, ngô, bông, thịt bò, gia cầm, lâm sản, cá, các loại ngũ cốc khác... [42, tr. 26]. Có thể nói, hiện nay nền kinh tế Mỹ phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức nhưng xét một cách tổng thể, thì địa vị số một về kinh tế của Mỹ đã tồn tại suốt trong nhiều thập kỷ qua và sẽ còn tiếp tục được duy trì trong thập kỷ tới. 1.2.1.2. Đặc điểm về chính trị Mỹ là một Nhà nước được tổ chức theo chế độ cộng hòa dân chủ tư sản Tổng thống. Dựa theo nguyên tắc "Tam quyền phân lập", quyền lực chính trị được thực thi theo nguyên tắc phân quyền và đối trọng qua ba cơ quan độc lập. Hiến pháp Mỹ quy định quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Tòa án tối cao. Mỹ áp dụng chế độ đa đảng, mặc dù là chế độ đa đảng nhưng đảng cầm quyền ở Mỹ là Đảng Dân chủ (biểu tượng là con Lừa) và Đảng Cộng hòa (biểu tượng là con Voi). Vì vậy, đôi khi còn gọi là chế độ song đảng. Sự khác biệt chủ yếu giữa hai đảng này là một đảng nắm chính quyền, còn đảng kia là đảng đối lập. Dù đảng cầm quyền là Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa, mục tiêu của họ đều phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản Mỹ và đều phấn đấu để đưa Mỹ trở thành cường quốc số một trên thế giới về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự. Một đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Mỹ mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải chú ý là hoạt động vận động hành lang (Lobby). ở Mỹ, Lobby được coi là hoạt động hợp pháp và họ có cả một đạo luật về vấn đề này "Lobby Dislosure Act" năm 1995. Lobby là phương tiện dành cho mọi tổ chức chính trị - xã hội để làm rõ quan điểm và quyền lợi chính trị, kinh tế của mình đối với chính quyền và dư luận. Hầu hết các hiệp hội kinh doanh và các công ty lớn của Mỹ đều có đại diện của mình ở Thủ đô Washington DC và ở thủ phủ các bang mà họ có hoạt động kinh doanh để tiến hành các hoạt động hành lang đối với Quốc hội và chính quyền liên bang và bang. Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, các công ty Mỹ đặc biệt quan tâm đến các vòng đàm phán thương mại đa biên và song phương giữa Mỹ và các nước, họ thường xuyên vận động và thậm chí gây sức ép với Quốc hội và chính quyền liên bang để đảm bảo kết quả của các cuộc đàm phán thương mại quốc tế có lợi cho hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ, vụ kiện cá tra, cá basa Việt Nam bán phá giá tại thị trường Mỹ thì CFA (Hiệp hội chủ trại cá nheo Hoa Kỳ) đã sử dụng Lobby để đạt được mục đích của mình. 1.2.1.3. Đặc điểm về pháp luật Hệ thống pháp luật của Mỹ thuộc loại đồ sộ và phức tạp nhất trên thế giới. Ngoài hệ thống luật liên bang, mỗi bang hay khu hành chính đều có hệ thống pháp luật riêng và nhiều khi lại rất khác. Mặc dù là cường quốc số một trên thế giới nhưng Mỹ vẫn sử dụng pháp luật như là một công cụ vũ khí sắc bén để bảo vệ duy trì và củng cố chế độ chính trị cũng như vị thế của Mỹ trên thế giới. Vì vậy, pháp luật thương mại của Mỹ thể hiện rất rõ nét yếu tố chính trị trong nội dung cũng như trong tên gọi của văn bản pháp luật. Luật thương mại của Mỹ rất nhiều và phức tạp. Hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ thể hiện một cách rõ ràng nhất ở chính sách nhập khẩu của Mỹ. Nằm trong tổng thể chính sách đối ngoại của Mỹ, chính sách nhập khẩu của Mỹ hoàn toàn phù hợp với chiến lược khuếch trương tự do hóa kinh tế và phục vụ cho lợi ích của quốc gia. Tuy nhiên, đứng ở góc độ của một nước có quan hệ thương mại với Mỹ thì có thể thấy được tính chất hai mặt của chính sách nhập khẩu. Một mặt nó mang "tính mở" về mặt tiếp cận thị trường do Mỹ muốn ép các nước khác mở thị trường cho hàng hóa Mỹ, mặt khác nó mang "tính đóng" đối với một số nước và một số khu vực do Mỹ lợi dụng triệt để công cụ tiếp cận thị trường nhằm phục vụ các lợi ích phi kinh tế và các lợi ích kinh tế khác của họ. Mọi thay đổi trong chính sách nhập khẩu của Mỹ đều thể hiện tính nhất quán với xu hướng trên. Chính sách nhập khẩu của Mỹ đối với các nước đang phát triển cũng được xây dựng trên nền tảng chung đó và chia làm bốn nhóm nước mà mỗi nhóm có những quy định khác nhau. Nhóm 1: Gồm những nước đã là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nhóm 2: Gồm những nước chưa là thành viên WTO nhưng đã có hiệp định thương mại song biên với Mỹ. Điều lưu ý ở nhóm này là với từng hoàn cảnh, tính vững chắc của quy chế thương mại phụ thuộc nhiều vào biến động quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước (Việt Nam thuộc nhóm này). Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam vẫn nằm chung khuôn khổ chung của sân chơi quốc tế. Theo quy định trong BTA, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế thương mại tối huệ quốc (MFN) mà nay còn gọi là quy chế thương mại bình thường (NTR), tương đương với các nước đã là thành viên WTO về mặt thương mại. Chỉ có điểm khác là chế độ NTR phải xem xét lại hàng năm vào ngày 7-3, theo kết quả xét miễn áp dụng điều khoản Jackson - Vanik. Nhóm 3: Gồm những nước có quyền lợi đối nghịch với Mỹ, bị hạn chế gần như hoàn toàn trong quan hệ thương mại với Mỹ. Nhóm 4: Gồm những nước được hưởng những ưu đãi đặc biệt của Mỹ. Ngoài ra, để phục vụ lợi ích và tiêu dùng của mình, Mỹ thực thi chính sách nhập khẩu khá nghiêm ngặt xét về khía cạnh các tiêu chuẩn kỹ thuật và ATVSTP. Rào cản kinh tế của Mỹ được đánh giá là phức tạp nhất trong các rào cản kinh tế của các nước phát triển. Đối với hàng thủy sản phải chịu sự kiểm tra của Cơ quan Ngư nghiệp quốc gia thuộc Cục quản lý đại dương và môi trường và phải đạt tiêu chuẩn HACCP. Đây là một hệ thống quản lý chất lượng mang tính phòng ngừa (Preventice) nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm (Food quality) thông qua việc phân tích mối nguy hiểm và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. 1.2.1.4. Đặc điểm về văn hóa và con người Là một nước có diện tích đứng thứ ba trên thế giới với khoảng 290 triệu dân có nguồn gốc từ nhiều nơi khác trên thế giới, Mỹ là một xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Mặc dù đại bộ phận người Mỹ được coi là có nguồn gốc từ châu Âu, song những người thiểu số như người gốc Mỹ (người da đỏ), người Mỹ gốc Phi, người Hispanic và người châu á cũng rất đông. Các dân tộc này đều có những bản sắc riêng của họ về ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục. Điều này tạo nên một môi trường văn hóa phong phú và đa dạng. Song nhìn chung văn hóa Mỹ chủ yếu thừa hưởng một số kinh nghiệm và địa danh của người bản xứ Indian, còn phần lớn các mặt như ngôn ngữ, thể chế, văn hóa, kiến trúc, âm nhạc... đều có xuất xứ từ châu Âu nói chung và nước Anh nói riêng [42, tr. 151]. Nét tiêu biểu nhất trong văn hóa Mỹ và lối sống Mỹ là chủ nghĩa thực dụng. Thực dụng trở thành một đặc điểm của dân tộc Mỹ. Các học giả nước ngoài đã nhận xét: cái gắn bó của người Mỹ với nhau là quyền lợi chứ không phải là tư tưởng. Ngoài ra, người Mỹ rất coi trọng tự do cá nhân và tính tự lập. Gia đình, cộng đồng, tôn giáo hay tổ chức là thứ yếu so với các quyền cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân nay cũng dẫn đến một tính cách nổi bật của người Mỹ là cạnh tranh. 1.2.1.5. Đặc điểm về thị trường thủy sản và thị hiếu tiêu dùng thủy sản của Mỹ * Đặc điểm thị trường thủy sản Mỹ Đặc điểm 1: Mỹ là cường quốc thế giới về khai thác, nuôi trồng và chế biến các sản phẩm thủy sản. Xu thế chung của tổng sản lượng thủy sản của Mỹ hiện nay là giảm dần số lượng khai thác và tăng dần sản lượng nuôi trồng nguyên nhân do Mỹ thi hành chính sách bảo vệ nguồn lợi thủy sản lâu dài. Ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản của Mỹ có đặc điểm là mang đậm tính thương mại. Cụ thể: + Khai thác thủy sản: Mỹ là một trong số ít quốc gia có nguồn lợi hải sản giàu có và phong phú vào bậc nhất thế giới gồm cả cá đáy, cá nổi, giáp xác, nhuyễn thể, trong đó có nhiều loại có giá trị thương mại rất cao như tôm he, tôm hùm, cua, cá hồi, cá ngừ... Theo đánh giá của Mỹ, khả năng có thể cho phép khai thác hàng năm 6 - 7 triệu tấn hải sản nhưng để bảo vệ và duy trì lâu dài nguồn lợi này người ta chỉ hạn chế ở mức từ 4,5 - 5 triệu tấn/năm do đó sản lượng khai thác hải sản của Mỹ có xu hướng giảm dần [10, tr. 1]. Vì khai thác hải sản của Mỹ mang tính thương mại rất cao nên cơ cấu sản lượng được phân định rõ ràng và khá đầy đủ cả về khối lượng và giá trị. Đối tượng khai thác chủ yếu có giá trị cao nhất của nghề khai thác thủy sản Mỹ là: tôm he, tôm hùm, cua biển, cá hồi, cá ngừ. Điều cần chú ý ở đây cũng là 5 mặt hàng có nhu cầu cao nhất ở Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ chỉ tập trung vào mua nhiều nhất các sản phẩm từ 5 mặt hàng này. Do cung luôn đi sau cầu nên đây cũng là 5 nhóm sản phẩm chủ yếu mà Mỹ phải nhập khẩu. Do vậy, các nước XKTS muốn thành công ở thị trường Mỹ cần phải nghiên cứu kỹ tình hình sản xuất của họ và nhu cầu thực tế của thị trường để đưa ra các dự báo cho phù hợp. + Nuôi trồng thủy sản: Về sản lượng tuy không thể so sánh được với Trung Quốc, ấn Độ, nhưng Mỹ vẫn đứng trong danh sách các nước hàng đầu thế giới về nuôi trồng thủy sản và hiện dẫn đầu Tây Bán Cầu. Đặc điểm nuôi trồng thủy sản của Mỹ chỉ tập trung vào những loài quý có nhu cầu cao và có lãi. Vì vậy, tuy sản lượng khá cao nhưng lại chỉ tập trung vào một số loài như cá nheo chiếm 50% sản lượng nuôi trồng, cá hồi 12%, tôm nước ngọt 7%… [10, tr. 6]. + Chế biến thủy sản: Mỹ có gần 2.000 công ty kinh doanh và chế biến thủy sản, 1.000 hãng chuyên nhập khẩu và 1.300 nhà máy chế biến thủy sản trang bị hiện đại, đóng góp gần 25 tỷ USD trong tổng thu nhập quốc dân của Mỹ. Công nghiệp chế biến thủy sản khổng lồ của Mỹ được phân bố ở khắp các bang nhưng tập trung nhiều ở các bang bờ Đông và các thành phố lớn ở bờ Tây. Ngoài ra, còn nhiều sản phẩm được chế biến ngay trên biển (ở các tàu lớn kéo cá tuyết, tàu mẹ chế biến cá hồi, cá ngừ, cá trích…). Do người tiêu dùng Mỹ chỉ ưa chuộng những sản phẩm tinh chế dù giá cao đã thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến phát triển mạnh và luôn ở trình độ cao [39, tr. 300]. Đặc điểm 2: Mỹ là thị trường thủy sản lớn nhất hiện nay. Cách đây 5 năm, ngoại thương thủy sản của Mỹ đã vượt con số 10 tỷ USD/ năm. Ngoại thương thủy sản của Mỹ có những đặc điểm chính như sau: - Cả nhập khẩu và XKTS đều đạt giá trị rất cao. - Thâm hụt ngoại thương thủy sản ngày một tăng, cung giảm hơn cầu. + XKTS: Mỹ không chỉ là nước nhập khẩu thủy sản thứ nhì thế giới mà còn là nước XKTS hàng đầu thế giới. Năm 1992 Mỹ là nước XKTS số một thế giới và giá trị kỷ lục 4,5 tỷ USD. Sau khi bị Thái Lan vượt thì xuất khẩu giảm sút và tới 1998 chỉ còn 2,4 tỷ USD, xuống vị trí thứ 5 sau Na Uy, Trung Quốc, Thái Lan. Sang năm 2000 xuất khẩu tăng nhanh và đạt 3 tỷ USD. Tuy nhiên, họ vẫn không cải thiện được vị trí do nhiều nước đã có tiến bộ nhanh về XKTS hơn Mỹ [10, tr. 12]. Các mặt hàng XKTS chính của Mỹ là cá hồi (Salmon), cua (Crap), trứng cá (Caviarroe), surimi; bốn loại này chiếm 60% về giá trị và 50% về khối lượng hải sản xuất khẩu của Mỹ [39, tr. 300]. Thị trường XKTS chủ yếu của Mỹ là châu á chiếm 53% tổng giá trị xuất khẩu, Bắc Mỹ chiếm 26%, châu Âu chiếm 16%. + Nhập khẩu thủy sản: Hiện nay, Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới và chiếm 16,5% tổng giá trị nhập khẩu thủy sản thế giới. Mỹ nhập hơn 100 mặt hàng thủy sản các loại từ cao cấp nhất đến thấp cấp nhất, với đủ mọi loại giá cả khác nhau. Các mặt hàng nhập khẩu có giá trị cao nhất là: Tôm đông, tôm hùm, cua, cá ngừ, cá nước ngọt. Thị trường nhập khẩu thủy sản của Mỹ hiện nay chủ yếu từ các nước Đông Nam á, Đông á, Canađa và một số quốc gia Mỹ latinh (Mêhicô, Chi Lê, Ecuađo). Trong đó, Canada và Thái Lan chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là Trung Quốc và Mêhicô. Tương lai Mỹ là thị trường thủy sản lớn nhất hiện nay với tổng giá trị ngoại thương năm 2000 lên đến 13 tỷ USD (gần dẫn kịp Nhật Bản) [10, tr. 11]. Qua phân tích tình hình xuất nhập khẩu thủy sản của Mỹ, chúng ta thấy XKTS của Mỹ có xu hướng giảm dần về giá trị trong khi đó nhập khẩu thủy sản của Mỹ có xu hướng tăng về giá trị làm cho thâm hụt về thương mại thủy sản của Mỹ càng lớn từ 2,7 tỷ USD năm 1991 lên đến 10,07 tỷ USD năm 2000 tức là tăng lên 3,7 lần (xem phụ lục 3). Đặc điểm 3: Hệ thống phân phối hàng thủy sản trên thị trường Mỹ. ở Mỹ, hàng thủy sản được phân phối qua hai kênh chủ yếu, đó là kênh bán lẻ và kênh bán sỉ thủy sản. + Kênh bán lẻ TSXK: Chiếm đến trên 50% giá trị tiêu thụ tại Mỹ với các hình thức sau: - Bán hàng qua hệ thống siêu thị: Qua hệ thống siêu thị, thủy sản được tiêu thụ tới 40% giá trị bán lẻ của thủy sản. - Bán cho các nhà hàng, nhà ăn công cộng và phục vụ ăn nhanh: Doanh số bán thủy sản cho hệ thống này chiếm đến 60% trị giá bán lẻ và có xu hướng ngày một tăng, vì người Mỹ có thói quen ăn nhanh để tiết kiệm thời gian tại các nơi công cộng như nhà hàng, căng tin, trường học, nơi làm việc. + Kênh bán sỉ thủy sản ở Mỹ: Đây là các công ty kinh doanh thủy sản hàng đầu của nước Mỹ. Với hệ thống bán sỉ hàng thủy sản được cung cấp cho trên 1.000 xí nghiệp chế biến thủy sản của nước Mỹ và hệ thống siêu thị. Đặc điểm cung cấp hàng thủy sản qua các kênh bán sỉ của Mỹ là: - Khả năng cung cấp hàng thủy sản phải lớn và ổn định. - Mặt hàng thủy sản phải đa dạng để cung cấp cho các đối tượng thuộc vùng, khu vực khác của nước Mỹ. - Nhà cung cấp phải tin cậy và trung thành [39, tr. 401-402]. Đặc điểm 4: Thị trường thủy sản Mỹ là thị trường "mở", Có hơn 130 quốc gia có quan hệ buôn bán thủy sản với Mỹ. Sự cạnh tranh ở thị trường này rất khốc liệt. Chỉ những ai nắm bắt được đầy đủ, kịp thời và chính xác các thông tin cần thiết về thị trường này, những ai có sản phẩm có sức cạnh tranh cao (là các sản phẩm phù hợp thị hiếu, có chất lượng cao, bao gói phù hợp, giá cả phù hợp) và tiếp thị giỏi mới có cơ may chiếm lĩnh được thị trường rất rộng lớn và phong phú này. Đặc điểm 5: Thị trường thủy sản Mỹ có một đặc điểm khác với thị trường thủy sản của các nước khác mà các nước XKTS cần chú ý, đó là Mỹ thường gắn ngoại thương thủy sản với các vấn đề khác ngoài kinh tế. Trước đây, trong thời kỳ "chiến tranh lạnh" Mỹ thường gắn ngoại thương thủy sản với vấn đề chính trị và sử dụng "bao vây kinh tế" hay "cấm vận". Sau khi "chiến tranh lạnh" chấm dứt, Mỹ gắn ngoại thương thủy sản với "bảo vệ môi trường" và "bảo vệ thiên nhiên hoang dã" để đưa ra cac lệnh cấm vận đối với một số hàng thủy sản nhập khẩu. Đặc biệt trong những năm gần đây với những bước tiến nhảy vọt trong việc XKTS của các nước đang phát triển vào thị trường Mỹ, Mỹ thường dùng một luật phổ biến nhất mang tính chế tài để bảo hộ ngành thủy sản Mỹ, khi phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu cùng loại là Luật chống bán phá giá. Tuy nhiên, xét về mặt chính sách, hai luật trên thể hiện một khía cạnh bảo hộ mới, nhằm lấy lại thế cân bằng so với lợi thế tự nhiên của các nước xuất khẩu vào thị trường Mỹ [10, tr. 15]. * Nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng thủy sản của thị trường Mỹ Trong những năm gần đây, nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Mỹ tăng trưởng nhanh. Một trong những nguyên nhân chính là người Mỹ hướng vào tiêu dùng hàng thủy sản ngày càng cao, đặc biệt là sau khi xảy ra dịch bệnh bò điên ở Canađa và Mỹ làm cho cung không đáp ứng kịp cầu. Vì vậy, thủy sản trở thành lĩnh vực phát triển nhanh nhất trên thị trường của Mỹ. Với dân số đông, lại có mức sống cao, nước Mỹ hàng năm tiêu thụ hàng triệu tấn thủy sản các loại. Người Mỹ rất ưa chuộng thủy sản vì các yếu tố dinh dưỡng của nó (giàu chất khoáng và vitamin, các acid amin thiết yếu, dầu, ít cholesterol và dễ tiêu hóa). Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Thủy sản quốc gia Mỹ (NFI), mức tiêu thụ thủy sản thực phẩm bình quân của người Mỹ hiện nay đứng thứ ba thế giới sau Trung Quốc và Nhật Bản, năm 2000 đã đạt 6,8kg [10, tr. 14]. Nhìn chung, tiêu thụ thủy sản của người Mỹ không có sự biến động nhiều về khối lượng, nhưng có thay đổi về chất lượng và nghiêng về các sản phẩm "hải sản" cao cấp rất đắt tiền như tôm he, tôm hùm, cá ngừ, cá hồi, cua biển, cá chình, cá basa... Mặt khác, người tiêu dùng Mỹ rất ưa chuộng các sản phẩm tinh chế: tôm nõn, phi lê, hộp cá, thịt cua, các sản phẩm ăn liền. Tuy Mỹ nhập khẩu đủ các mặt hàng từ thấp đến cao, từ đắt đến rẻ nhưng giá trị nhập khẩu tập trung chủ yếu vào các mặt hàng "hải vị" nêu ở trên (số liệu cụ thể về 10 mặt hàng thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất tại Mỹ trong năm 2001 và 2002 được trình bày trong phụ lục 4). 1.2.2. Những nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ Việc đánh giá những nhân tố thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động XKTS Việt Nam vào thị trường Mỹ là cơ sở giúp Việt Nam có một chiến lược và cơ hội xúc tiến XKTS dài hạn chuyên nghiệp với những bước đi cụ thể, phù hợp ở tầm quốc gia cũng như tầm doanh nghiệp. 1.2.2.1. Những nhân tố tác động thuận lợi Thứ nhất, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn chiếm lĩnh thị trường thế giới và nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam nói chung và hàng thủy sản nói riêng thì cần phải có một môi trường kinh doanh thông thoáng do Nhà nước tạo ra bằng các chính sách về đầu tư, thuế, tỷ giá, lãi suất… Trong những năm qua, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của cả nước phát triển, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều thay đổi tích cực, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo cơ hội thuận lợi nhất cho mỗi doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Ngành thủy sản đang được Nhà nước chú trọng đầu tư phát triển lấy xuất khẩu làm trọng tâm phát triển của ngành. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa VII) khẳng định thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn và là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã tạo cơ sở cho việc thực hiện một loạt các chính sách hỗ trợ kinh tế thủy sản phát triển. Chủ trương phát triển kinh tế thủy sản của Chính phủ được cụ thể hóa qua ba chương trình lớn, đó là: Về phát triển nuôi trồng thủy sản (Quyết định 224/1999/QĐ-TTg); về chương trình khai thác xa bờ (Thông báo số 17/TB ngày 27/2/1997 của Văn phòng Chính phủ); về chương trình phát triển XKTS (Quyết định 251/1998/QĐ-TTg). Ngoài ra, chương trình quản lý chất lượng sản phẩm (HACCP, ISO) qua quyết định Quyết định 732/1998/QĐ-BTS và QĐ 664/1999/QĐ-BTS. Việc nâng cấp Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản thành Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản đã góp phần quan trọng gia tăng liên tục KNXK. Đặc biệt, sự ra đời của Hiệp hội chế biến và XKTS Việt Nam (VASEP) vào năm 1998 là yếu tố quan trọng góp phần đẩy mạnh XKTS Việt Nam. Trong suốt 7 năm qua, VASEP đã phát huy được vai trò của một hiệp hội trong việc thay mặt cho các doanh nghiệp và người sản xuất đề xuất những kiến nghị nhằm thúc đẩy sản xuất và XKTS phát triển, bước đầu thực hiện vai trò tập hợp các doanh nghiệp hành động theo một chiến lược và kế hoạch phát triển chung, giảm bớt các yếu tố tự phát. Ngoài ra, hiệp hội hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ trong các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, tham gia các hội chợ quốc tế lớn về thủy sản, tổ chức hội chợ quốc tế thủy sản VIETFISH trong nước hàng năm để tạo điều kiện các doanh nghiệp quảng bá, mở rộng quan hệ hợp tác, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam. Từ 68 hội viên khi thành lập, đến nay VASEP đã có 185 hội viên với KNXK chiếm khoảng 85 - 87% tổng kim ngạch XKTS toàn ngành. Rõ ràng là chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển của ngành thủy sản, tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp XKTS Việt Nam phát triển một cách bền vững và hiệu quả trên cơ sở hành lang pháp lý vững chắc. Thứ hai, lợi thế của Việt Nam trong XKTS. Lợi thế về điều kiện tự nhiên: Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản tạo nguồn nguyên liệu phong phú cho việc đa dạng hóa các mặt hàng XKTS vào thị trường Mỹ. Trong nội địa, với trên 50 sông lớn nhỏ tạo nên tiềm năng lớn về mặt nước nuôi trồng với khoảng 1,7 triệu ha. Điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo ra sự đa dạng phong phú về chủng loại thủy sản. Ngoài ra, Việt Nam có một số vùng sinh thái đất thấp, có thể tiến hành các hoạt động nuôi trồng thủy sản vừa có chất lượng cao vừa có giá thành hạ mà hệ thống canh tác khác không thể có được. Lợi thế này đặc biệt phát huy thế mạnh trong cạnh tranh với hệ thống nuôi trồng công nghiệp [38, tr. 4]. Nguồn lợi thủy sản của Việt Nam khá phong phú về chủng loại với trên 130 loài có giá trị kinh tế cao và có trữ lượng hải sản tương đối lớn: - Hệ cá biển có khoảng 2.000 loài với trữ lượng là 418.000 tấn. - Giáp xác biển có 1.647 loài trong đó tôm có hơn 70 loài. - Nhuyễn thể có 2.523 loài. - Nguồn lợi thủy sản nước ngọt và lợ: cả nước có 415.000 ha nước lợ và 1,04 triệu ha nước ngọt có thể nuôi thủy sản, 189 loài cá nước lợ, 544 loài thủy sản nước ngọt, 90 loài rong tảo, nhiều loại nhuyễn thể là những nguyên liệu tốt cho chế biến xuất khẩu [8, tr. 12]. Lợi thế về nguồn nhân lực: Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, lao động Việt Nam cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, có khả năng tiếp thu nhanh các bí quyết kỹ thuật và còn có lợi thế là chi phí nhân công rẻ hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Ví dụ: Giá công nhân lao động Việt Nam chỉ bằng 1/3 Thái Lan, bằng 1/30 Đài Loan và 1/26 của Singapore. Nguồn lực này sẽ thích hợp cho những lợi thế khởi điểm mang tính tĩnh khi được sử dụng trong lĩnh vực phát triển nuôi trồng và chế biến thủy sản [23, tr. 13]. Những lợi thế này tạo nên khả năng cạnh tranh của những mặt hàng XKTS Việt Nam vào thị trường Mỹ. Thứ ba, sự phát triển của ngành chế biến thủy sản ý thức được việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường là điều kiện tiên quyết để phát triển, Bộ Thủy sản đã cùng với các doanh nghiệp chế biến XKTS tổ chức nhiều cuộc tập huấn, đào tạo được tổ chức cho các cán bộ quản lý nhà nước và các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, các doanh nghiệp về những quyết định mới của các nước nhập khẩu, xúc tiến xây dựng các tiêu chuẩn và quyết định bắt buộc áp dụng về an toàn vệ sinh tương đương với quyết định của Mỹ và EU. Đầu tư trang thiết bị cho các doanh nghiệp thiếu vốn, thiếu phương tiện kỹ thuật và đào tạo kỹ năng cho các nhân viên kỹ thuật tại các cơ quan quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh của Bộ. Do đó, chỉ sau một thời gian ngắn ngành chế biến thủy sản đã phát triển mạnh mẽ cả về công suất lẫn công nghệ chế biến. Năm 2004 cả nước có 405 doanh nghiệp chế biến thủy sản, tăng 13% so với cùng kỳ; trong đó có khoảng 60% cơ sở chế biến đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng và an toàn thực phẩm. Điều này tác động tích cực tới việc thâm nhập vào thị trường Mỹ và mở rộng quy mô xuất khẩu. Hiện nay Việt Nam đã có 175 doanh nghiệp đã nhận được chứng chỉ HACCP để xuất khẩu vào Mỹ; một số doanh nghiệp được Cục Quản lý dược phẩm và thực phẩm (FDA) của Mỹ cấp chứng chỉ HACCP, tạo điều kiện trực tiếp xuất hàng vào hệ thống các siêu thị, nhà hàng của các tập đoàn lớn của Mỹ như COTSCO, SYSCO. Đây là cơ hội vàng cho các nhà XKTS trong việc thâm nhập thị trường Mỹ là thị trường có tiềm năng rất lớn [12, tr. 5]. Thứ tư, Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ có hiệu lực, tạo ra cơ hội lớn cho hàng hóa XKTS Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ được Quốc hội của hai nước phê chuẩn và có hiệu lực 10/12/2001, đã tạo ra một bước đột phá lớn cho việc xuất khẩu hàng hóa Việt Nam nói chung và thủy sản nói riêng vào Mỹ. Vì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng quy chế MFN khi đưa vào thị trường Mỹ, tính cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam sẽ được gia tăng đáng kể vì thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân từ 40 - 70% xuống còn 3 - 7% [39, tr. 102]. Các doanh nghiệp XKTS Việt Nam có thể đa dạng hóa các mặt hàng, đồng thời thay đổi cơ cấu mặt hàng TSXK theo hướng tăng tỷ lệ hàng chế biến cao cấp có giá trị cao, chỉ có như vậy Việt Nam mới tăng nhanh được KNXK và giành được quyền chủ động trong kinh doanh và khẳng định được vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quan trọng này. Mặt khác, chúng ta biết rằng, Mỹ là một cường quốc kinh tế hùng mạnh, từng là thành viên sáng lập Tổ chức GATT (1947), sau này là WTO, mọi luật lệ chi phối hoạt động kinh tế thương mại của Mỹ đều phản ánh thực chất của luật thương mại quốc tế. Do đó, việc thực hiện hiệp định thương mại sẽ giúp Việt Nam dần tiếp cận "luật chơi" của thương mại quốc tế và sẽ tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp XKTS nói riêng vị thế bình đẳng, thuận lợi hơn trong quan hệ kinh doanh với các đối tác. BTA là một "bước đệm" tạo thuận lợi cho quá trình nước ta đàm phán để gia nhập WTO, tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở đường cho các doanh nghiệp XKTS Việt Nam tham gia thị trường toàn cầu. Hợp tác và cạnh tranh trên thị trường thế giới sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp XKTS Việt Nam vươn lên mạnh mẽ để phát triển. Thứ năm, tiềm năng của Việt kiều - là cầu nối cho các doanh nghiệp XKTS Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ Cộng đồng Việt kiều hình thành một thị trường quan trọng trong việc tiêu thụ và tiếp thị các sản phẩm TSXK của Việt Nam. Hiện có hơn 2 triệu Việt kiều đang làm ăn, sinh sống tại Mỹ. Mặc dù đã định cư tại Mỹ khoảng 20 - 30 năm, song phần lớn các gia đình Việt kiều vẫn giữ thói quen tiêu dùng các sản phẩm thủy sản Việt Nam. Do đó, lực lượng Việt kiều tạo ra một thị trường đáng kể cho các sản phẩm thủy sản truyền thống của Việt Nam, chẳng hạn các mặt hàng vốn được người Việt Nam ưa dùng như nước mắm, cá khô, tôm, cua... Ngoài nhu cầu trực tiếp về thủy sản của người Việt, thông qua sự tiêu dùng của Việt kiều, các mặt hàng TSXK của Việt Nam cũng được mở rộng để tiếp cận đến người dân Mỹ. Đó cũng là một cách để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp thị hàng hóa XKTS của mình. 1.2.2.2. Những nhân tố tác động không thuận lợi Một là, năng lực XKTS của Việt Nam còn yếu. Ngoài những yếu kém chung về truyền thống như chủng loại hàng hóa TSXK nghèo nàn, chất lượng và mẫu mã chưa phù hợp, giá cả không cạnh tranh, năng lực tiếp thị xuất khẩu yếu thì điểm nổi bật của các doanh nghiệp XKTS Việt Nam tại thị trường Mỹ là quy mô sản xuất nhỏ và khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp trong sản xuất và XKTS yếu nên gặp khó khăn trong việc đáp ứng các đơn đặt hàng lớn hay các yêu cầu thời gian giao hàng nhanh của khách hàng Mỹ. Hai là, một số bất lợi khi thâm nhập thị trường Mỹ. Tuy BTA đã và đang phát huy hiệu quả, song Việt Nam vẫn đang đứng trước một số bất lợi về thâm nhập thị trường này. Đến nay, mặc dù hàng TSXK Việt Nam đã được hưởng mức thuế MFN song chưa phải là điểm quyết định, tăng khả năng cạnh tranh của hàng TSXK Việt Nam, vì: - Việt Nam vẫn chưa được hưởng mức thuế ưu đãi phổ cập (GSP) của Mỹ dành cho các nước đang phát triển. Hiện nay ở Mỹ có khoảng 3.500 loại sản phẩm từ trên 140 nước và vùng lãnh thổ được hưởng GSP, tức là nhập khẩu vào Mỹ được miễn thuế. Đa số là các mặt hàng: thủy sản, thực phẩm, đồ uống, cao su và các sản phẩm từ cao su, đồ gỗ ... Phần lớn những nước này có cơ cấu mặt hàng TSXK tương tự như Việt Nam, trong đó có nhiều nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Malaixia, Philippin, Inđônêxia... - Hiện nay, trong khu vực lòng chảo Caribê có 24 nước được hưởng ưu đãi thương mại đơn phương của Mỹ theo luật sáng kiến khu vực lòng chảo Caribê (CBI), gần 40 nước châu Phi được hưởng ưu đãi thương mại đơn phương của Mỹ theo luật cơ hội cho phát triển châu Phi; 4 nước thuộc khu vực Adean được hưởng ưu đãi thương mại đơn phương của Mỹ theo Luật ưu đãi thương mại Adean (ATPA). Đa số các mặt hàng nhập khẩu từ những nước này vào Mỹ được miễn thuế hay được hưởng mức thuế thấp hơn mức thuế MFN rất nhiều. - Mỹ đã ký Hiệp định thương mại tự do khu vực NAFTA (Mỹ, Canada, Mêhicô) và Hiệp định thương mại tự do song phương với các nước: Chi Lê, Singapore, Australia… Ngoài ra, Mỹ đang đàm phán nhiều Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương khác, trong đó có Hiệp định thương mại tự do toàn châu Mỹ và một số nước có cơ cấu mặt hàng TSXK tương tự như Việt Nam. Ba là, hàng TSXK Việt Nam hiện đang vấp phải những rào cản tranh chấp thương mại gay gắt trên thị trường Mỹ và những thách thức mới về tiêu chuẩn kỹ thuật, ATVSTP - Thị trường Mỹ là thị trường thủy sản "khó tính". Do lo ngại về nguy cơ sử dụng vũ khí sinh học vào mục tiêu khủng bố, FDA đã chủ trương kiểm tra gắt gao đối với các sản phẩm thực phẩm. Theo tiêu chuẩn HACCP, các doanh nghiệp XKTS Việt Nam bắt buộc phải thực hiện VSATTP theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một yêu cầu rất nghiêm ngặt về các chỉ tiêu an toàn (như kim loại nặng, dư lượng thuốc kháng sinh, dư lượng thuốc trừ sâu, độc tố sinh học...) và các chỉ tiêu vi sinh (trong tổng số gam xuống còn 105, thậm chí là 104, vi sinh vật gây bệnh từ E. Coli cho phép 200/g, Staphilococcus 300/g đến không được phép có)... Trước năm 2002, dư lượng thuốc kháng sinh tối đa được phép là 5 ppb. Tháng 6 năm 2002 Mỹ đã hạ giới hạn bị loại từ 5 ppb xuống còn 1 ppb và sau đó giảm tiếp xuống còn 0,3 ppb trong năm 2003. Đây là một vấn đề thách thức lớn đối với XKTS của Việt Nam khi sự đổi mới công nghệ chế biến và phương thức quản lý thủy sản còn chưa tốt. - Những quy định của Mỹ về dán nhãn sản phẩm TSXK cũng đem lại nhiều phiền phức cho các doanh nghiệp XKTS của Việt Nam. Hiện nay phía Mỹ không chấp nhận một số tên gọi như Vina fish, basa fish, Mê kông basa … cho cá tra, cá basa của Việt Nam và đưa ra nhiều dự luật nhằm cản trở việc xuất khẩu cá tra, cá basa như: Dự luật H.R. 2964 (5/10/2001) chỉ cho phép sử dụng tên cá "Catfish" cho riêng các loài cá nheo của Mỹ; Dự luật H.R. 2330 (25/10/2001) trong đó có điều luật số SA 2000, quy định không cho phép nhập khẩu các loại cá da trơn mang tên "Catfish". - Mới đây, Hải quan Mỹ đưa ra quy định mới về đóng tiền đặt cọc đối với hàng nhập khẩu bị đánh thuế chống bán phá giá gọi là thuế suất tạm tính. Trước đây, sau khi có kết quả của vụ kiện, hầu hết các nhà nhập khẩu Mỹ tiếp tục kinh doanh với khoản đặt cọc là 50.000 USD và họ sẽ thanh toán khoản thuế còn nợ theo từng Container hàng. Nhưng theo quy định mới của Hải quan Mỹ khoản tiền đặt cọc sẽ tương đương với giá trị thuế chống bán phá giá tính trên tổng lượng hàng mà một công ty nhập khẩu từ nước bị áp thuế trong vòng 12 tháng. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp Mỹ muốn nhập khẩu tôm từ các nước chịu thuế "chống bán phá giá" phải đóng trước một khoản tiền ký quỹ rất lớn, bằng giá trị nhập khẩu trong vòng một năm nhân với mức thuế phải đóng. Như vậy, nếu muốn nhập khẩu vào Mỹ sản lượng tôm Việt Nam bằng giá trị năm 2004 (gần 400 triệu USD) thì mức thuế trung bình khoảng 5%. Các doanh nghiệp Mỹ nhập hàng của chúng ta cần đặt cọc 20 triệu USD cho Hải quan Mỹ. Theo ông Trương Đình Hòe (Phó Hiệp hội chế biến và XKTS Việt Nam) cho biết: "Quy định mới này gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ" [53]. Có thể nói, với quy định mới này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Chỉ có doanh nghiệp có tiềm lực mạnh mới chịu đựng được. Đây thực sự là một thách thức mới cho hàng XKTS Việt Nam vào thị trường Mỹ. Bốn là, Việt Nam chưa được Mỹ coi là nước có nền kinh tế thị trường, do vậy phải chịu nhiều bất lợi trong các vụ tranh chấp thương mại tại thị trường này. Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO cho nên các tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và Mỹ đều phải giải quyết theo cơ chế song phương và bị áp đặt điều tra so sánh thông qua nước thứ ba. Hơn nữa chế độ MFN mà Mỹ dành cho Việt Nam chưa phải là chế độ vĩnh viễn. Tất cả những điều này đã đặt hàng TSXK Việt Nam vào thế bất lợi hơn nhiều so với các nước khác. Năm là, hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ rất phức tạp và chồng chéo. Khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói chung và doanh nghiệp XKTS nói riêng vào thị trường Mỹ không phải do hệ thống của pháp luật Mỹ còn có những thiếu sót, thiếu đồng bộ mà do hệ thống đó quá phức tạp. Có người cho rằng, xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ phải xuyên qua một "rừng" luật lệ. Những doanh nghiệp nào nắm bắt và hiểu rõ được những luật lệ kinh doanh và tập quán tiêu thụ ở Mỹ mới có thể có khả năng gặt hái ít nhiều kết quả ở thị trường Mỹ. Tuy nhiên các doanh nghiệp khó mà nắm bắt hết hệ thống luật lệ liên bang và các bang ở Mỹ. Vì chúng ta biết rằng, bên cạnh hệ thống pháp luật liên bang, các bang của Mỹ đều có hệ thống luật riêng. Trong đó có khá nhiều điều khoản điều chỉnh một vấn đề lại khá khác biệt nhau. Hơn nữa, các Thống đốc bang ở Mỹ đều có thẩm quyền rất lớn trong điều chỉnh các hoạt động kinh tế thương mại. Trong khi đó sự hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về pháp luật Mỹ liên quan đến thương mại nói chung và nhập khẩu vào Mỹ nói riêng còn rất hạn chế. Sáu là, những khó khăn do hoàn cảnh địa lý và cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Những khó khăn do khoảng cách địa lý quá xa giữa Việt Nam và Mỹ. Việt Nam và Mỹ cách nhau quá xa nên thời gian vận tải hàng TSXK thường kéo dài, chi phí vận tải cao so với từ các nước khác đến Mỹ (kể cả từ các nước xung quanh Việt Nam) làm ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp XKTS Việt Nam. Ví dụ, hiện nay cước phí vận tải biển từ Việt Nam sang Mỹ cao hơn từ Trung Quốc sang Mỹ khoảng 15 - 20%. Thời gian vận tải từ Việt Nam sang bờ Tây nước Mỹ trung bình khoảng 30 - 45 ngày so với Trung Quốc khoảng 12 - 18 ngày. Cước phí cao và thời gian vận tải dài là bất lợi rất khó khắc phục đối với hàng thủy sản tươi sống làm giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng [7, tr. 154]. Nhiều đối thủ lớn có sức cạnh tranh và kinh nghiệm thương trường dày dạn hơn chúng ta. Hiện tại có khoảng 130 quốc gia có quan hệ buôn bán thủy sản với Mỹ. Mỗi nước đều tìm cách để phát huy thế mạnh của mình và tìm cách chiếm lĩnh thị trường. Có nước tận dụng ưu thế về địa lý như Canada, Mêhicô. Có nước tận dụng ưu thế của kiều dân tại Mỹ để tạo kênh khảo sát thị trường và thiết lập kênh phân phối như Trung Quốc… những nước khác thì tận dụng sự ưu đãi về thuế quan như Thái Lan, Chi Lê.... Vì vậy, muốn được thị trường Mỹ chấp nhận thì hàng TSXK phải có tính cạnh tranh cao về chất lượng, giá cả, chủng loại, mẫu mã và các tiêu chuẩn về an toàn, môi trường lao động… 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ Việc nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm phát triển XKTS của các nước có ý nghĩa thiết thực giúp Việt Nam có thể hội nhập nhanh hơn, với phương thức phù hợp hơn với thực tiễn và điều kiện phát triển của Việt Nam. 1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trong 10 năm liên tục trở lại đây, Trung Quốc đã duy trì được vị trí là nước có ngành thủy sản lớn nhất trên thế giới cả về khối lượng và giá trị. Lượng TSXK của Trung Quốc sang Mỹ vẫn tăng đều qua các năm từ 82,161 tấn, giá trị 304 triệu USD (năm 1993) lên 258,768, giá trị 889 triệu USD (năm 2002); tăng 215% về khối lượng và 192% về giá trị. Là nước đứng thứ 3 sau Thái Lan và Canada XKTS sang Mỹ [33, tr. 46]. Kinh nghiệm nổi bật trong XKTS của Trung Quốc vào thị trường Mỹ là: * Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm TSXK theo hướng có hiệu quả, phù hợp thị trường người tiêu dùng. Các doanh nghiệp Trung Quốc luôn đi đầu trong việc áp dụng các chính sách, biện pháp chuyển đổi cơ cấu sản phẩm TSXK. Phương hướng điều chỉnh cơ cấu sản phẩm TSXK là: Từng bước nâng cao tỷ lệ sản phẩm chế biến tinh và cao cấp, phát triển các sản phẩm đặc sản và các sản phẩm thủy sản tươi sống. * Tăng cường năng lực quản lý chất lượng sản phẩm thủy sản. Nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản trên cơ sở áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ chất lượng, và an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP là một vấn đề được Trung Quốc chú trọng. Các doanh nghiệp Trung Quốc đều ý thức rằng "lấy chất lượng để tồn tại, để phát triển và bằng chất lượng để giành thắng lợi". Chính vì vậy, Cục nghề cá Trung Quốc đã thiết lập ủy ban quản lý chứng nhận sản phẩm thủy sản Trung Quốc và Cục giám định kỹ thuật quốc gia. Thành lập Trung tâm chứng nhận sản phẩm thủy sản Trung Quốc để quản lý chất lượng thủy sản và cấp chứng chỉ cho các sản phẩm TSXK. Đến nay Trung Quốc đã có 120 nhà máy chế biến được nhận giấy phép xuất khẩu sang EU và gần 300 nhà máy nhận chứng chỉ HACCP của FDA [33, tr. 7]. Xây dựng một hệ thống pháp lý cơ bản cho việc kiểm tra giám định chất lượng sản phẩm xuất khẩu và ban hành nhiều luật: Luật chất lượng, Luật tiêu chuẩn, Luật vệ sinh... đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các xí nghiệp chế biến đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP. * Một trong những kinh nghiệm thành công của Trung Quốc trong việc XKTS vào thị trường Mỹ là Trung Quốc đã biết tận dụng lực lượng Hoa kiều ở Mỹ để quảng bá thương hiệu và tiêu thụ hàng TSXK của Trung Quốc tại thị trường Mỹ. Trong những năm qua, Trung Quốc đã có những chính sách thích hợp để phát huy lợi thế này, thu hút nguồn nhân lực này ở Mỹ để đem lại lợi ích cho đất nước. Các công ty XKTS của Trung Quốc đã tận dụng tốt những mối quan hệ với Hoa kiều để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản. * Đảm bảo yếu tố bền vững trong nuôi trồng và khai thác. Trung Quốc đã ban hành "chính sách mới về khai thác biển nhằm bảo vệ nguồn lợi hải sản và môi trường sinh thái" hay cấm khai thác ở các ngư trường trọng điểm vào những khoảng thời gian nhất định, cấm mọi hoạt động khai thác hải sản tại khu vực vùng biển phía Đông từ 120 vĩ tuyến Bắc từ 1/6 đến 1/8 hàng năm để bảo vệ nguồn lợi hải sản trong vùng biển của mình. Bên cạnh đó, Trung Quốc chủ trương mở rộng địa bàn ra nước ngoài trên cơ sở ký kết hiệp định nghề cá với các nước trong khu vực như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia... Để khắc phục tình trạng sản xuất thiếu quy hoạch, tự phát, ngành thủy sản Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp khắc phục như xây dựng lại quy hoạch ngành với quy hoạch vùng và lãnh thổ nhằm phát triển thủy sản theo hướng ổn định và bền vững. Nhờ đó mà sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản của Trung Quốc ngày càng phát triển. 1.3.2. Kinh nghiệm của Thái Lan Từ năm 1997 đến nay Thái Lan luôn là nước đứng vị trí thứ hai cung cấp thủy sản cho thị trường Mỹ. Riêng mặt hàng tôm Thái Lan trở thành nước hàng đầu cung cấp cho Mỹ. Xuất khẩu của Thái Lan đã có chỗ đứng vững vàng trên thị trường Mỹ từ 25 năm qua. Có được những thành tựu như vậy, trước hết, ngành công nghiệp chế biến thủy sản Thái Lan đã làm cuộc cách mạng thật sự trong thập niên vừa qua nhờ huy động nguồn vốn lớn để đầu tư, nâng cấp các nhà máy với công nghệ tiên tiến. Chẳng hạn, để có hệ thống nhà máy đông lạnh họ đã đầu tư 100 triệu USD. Hơn nữa, các doanh nghiệp chế biến luôn "đón đầu" những công nghệ hiện đại và yêu cầu mới về hệ thống quản lý chất lượng để tích cực nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và phát triển nhằm nâng cao chất lượng, giảm giá thành, đa dạng hóa sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh. Đặc biệt phần lớn thủy sản khai thác và nuôi trồng đều được đưa vào các xí nghiệp chế biến hiện đại ở gần các bến cá và trại nuôi nên các sản phẩm TSXK đều có hương vị, chất lượng, hàm lượng dinh dưỡng cao [20, tr. 17]. Thái Lan là một số ít các nước trên thế giới bắt buộc áp dụng HACCP trong các cơ sở chế biến TSXK. Đây là điều kiện để nhà máy được Cục nghề cá chấp nhận nằm trong danh sách phê duyệt của Cục. Nhiều nhà máy chế biến hàng đầu của Thái Lan không chỉ tuân thủ hệ thống HACCP mà còn phấn đấu đạt chứng nhận chất lượng ISO 9000. Chính vì vậy mà sản phẩm thủy sản của Thái Lan có giá trị rất cao vào thị trường Mỹ. Có thể nói, công nghiệp chế biến TSXK Thái Lan là một mô hình phát triển đáng để nhiều nước học tập. Kinh nghiệm quý báu trong XKTS của Thái Lan trên thị trường Mỹ là xây dựng cơ cấu sản phẩm TSXK phù hợp, trong đó Thái Lan chọn ra hai mặt hàng chủ lực của mình trên thị trường Mỹ là tôm đông lạnh và cá hộp. Nhiều mặt hàng kế cận khác như: cá, mực, bạch tuộc đông lạnh, surimi và các sản phẩm gốc surimi. Ngoài ra Thái Lan rất nổi tiếng về phát triển các hàng tôm: PTO, PD chín, PTO và PD xẻ bướm bao bột, PTO Nobashi. Đi đôi với phát triển công nghệ chế biến và đa dạng hóa các mặt hàng TSXK Thái Lan rất chú trọng đến vấn đề môi trường và bảo vệ nguồn lợi sinh vật để tránh hàng rào thương mại và thuế quan. Chính phủ Thái Lan tham gia trực tiếp đàm phán để tháo gỡ những vướng mắc. Đồng thời, các doanh nghiệp XKTS và Chính phủ Thái Lan có sự hợp tác chặt chẽ khi gặp những vấn đề tranh chấp thương mại trên thị trường Mỹ. Thái Lan cũng đã có nhiều biện pháp thiết thực để ủng hộ các cố gắng của Chính phủ trong các cuộc đấu tranh để tăng sức cạnh tranh của hàng thủy sản Thái Lan, nhất là vấn đề tài chính trong những vận động "hành lang" tại Mỹ nhằm có được những ưu đãi trong chính sách nhập khẩu của nước này. 1.3.3. Kinh nghiệm của ấn Độ Là quốc gia có bờ biển 8.000 km và 2 triệu km2 vùng đặc quyền kinh tế mang lại cho ấn Độ nguồn thủy sản dồi dào với nhiều loại khác nhau. ấn Độ là nước khai thác thủy sản lớn nhất trong các nước đang phát triển và đứng thứ 7 trong các nước XKTS trên thế giới. Khả năng khai thác hàng năm 3,9 triệu tấn hải sản. Để đẩy mạnh XKTS ấn Độ đã xây dựng một cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế thủy sản có hiệu quả theo hướng ưu tiên cho thương mại thủy sản đó là cơ quan quản lý phát triển XKTS (MPEDA) có chức năng xây dựng các tiêu chuẩn nuôi trồng và XKTS, đào tạo nguồn nhân lực thủy sản, thành lập các văn phòng xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Nhằm để giữ vững thị trường xuất khẩu và bảo vệ uy tín cho doanh nghiệp XKTS ấn Độ trước những mối lo ngại của các nước nhập khẩu về VSATTP và dư lượng kháng sinh, cơ quan kiểm soát xuất khẩu ấn Độ (EIA) đã áp dụng những biện pháp rất kiên quyết. Qua kinh nghiệm XKTS của một số nước như Trung Quốc, Thái Lan, ấn Độ, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho việc đẩy mạnh XKTS Việt Nam vào thị trường Mỹ như sau: Thứ nhất, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong XKTS của quốc gia theo hướng xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế thủy sản có hiệu quả. Thứ hai, đặt mục tiêu bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản lên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế thủy sản trên cơ sở phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản tự nhiên, kết hợp giữa khai thác có hiệu quả và nuôi trồng thủy sản đúng hướng. Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả công nghiệp chế biến theo tiêu chuẩn HACCP. Chuyển dịch cơ cấu hàng TSXK theo hướng đa dạng hóa sản phẩm phù hợp thị hiếu người tiêu dùng Mỹ, chuyển từ chế biến sản phẩm sơ chế sang tinh chế, sản phẩm giá trị tăng cao. Thứ tư, tận dụng lợi thế lực lượng kiều bào ở thị trường Mỹ để một mặt vừa quảng bá thương hiệu sản phẩm TSXK của quốc gia, mặt khác vừa là nguồn tiêu thụ những sản phẩm TSXK. Thứ năm, các doanh nghiệp XKTS và Chính phủ cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để đối phó với những rào cản thương mại đồng thời tranh thủ được những ưu đãi trong chính sách nhập khẩu của Mỹ. Kết luận chương 1 Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn được phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng thị trường Mỹ thực sự là một thị trường thủy sản đầy tiềm năng và triển vọng của các doanh nghiệp XKTS Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ chúng ta phải cần đi sâu vào phân tích hoạt động XKTS Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua để từ đó có những đánh giá, tổng kết về những mặt đạt được và những mặt còn hạn chế. Đi tìm nguyên nhân của những hạn chế đó, rút ra những bài học bổ ích cho các doanh nghiệp XKTS. Chỉ có như vậy Việt Nam mới có thể đứng vững trên thị trường đầy khốc liệt này. Chương 2 Thực Trạng Xuất Khẩu Hàng THủY Sản Việt Nam Vào Thị Trường Mỹ Từ NĂM 1994 Đến NAY 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ thời gian qua 2.1.1. Tổng quan về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Mỹ 2.1.1.1. Trước khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ có hiệu lực Sau hơn một năm kể từ khi Mỹ bãi bỏ cấm vận, ngày 11/7/1995 Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ thương mại, ngoại giao với Việt Nam. Sự kiện này đã ghi nhận những nỗ lực không ngừng của cả hai bên trong tiến trình cải thiện quan hệ phức tạp do lịch sử để lại. Từ đó đến nay quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước có bước tiến quan trọng. Mặc dù quan hệ ngoại giao đã được bình thường hóa nhưng tiến trình quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn còn gặp những trở ngại lớn do Mỹ vẫn chưa dành quy chế MFN cho Việt Nam, do đó hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ phải chịu mức thuế cao hơn rất nhiều so với các nước được hưởng quy chế MFN. Tuy còn bất lợi như vậy nhưng KNXK của Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng nhanh qua các năm. Năm 1994, Việt Nam đã xuất sang Mỹ lượng hàng trị giá 50,45 triệu USD. Trong đó hàng nông nghiệp 38,3 triệu USD (chiếm 76% giá trị xuất khẩu sang Mỹ) và hàng phi nông nghiệp 12,12 triệu USD (chiếm 24%). Năm 1995: 200 triệu USD (gấp 4 lần so với năm 1994), lọt vào vị trí thứ 10 trong số 10 nước nhập khẩu hàng hóa lớn nhất từ Việt Nam. Năm 1996:319 triệu USD. Năm 1997: 388 triệu USD. Năm 1998: 553,4 triệu USD, vươn lên vị trí thứ 7 trong 10 nước nhập hàng Việt Nam nhiều nhất. Năm 1999: 608,9 triệu USD. Năm 2000: 821,4 triệu USD. Năm 2001, Việt Nam đã tăng lên 5 bậc từ vị trí 70 (năm 2000) lên đến thứ 66 (năm 2001), KNXK đạt hơn 1 tỷ USD tăng 28,1% so với năm 2000 [6, tr. 4]. Như vậy, có thể nói, sau khi Mỹ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ không ngừng phát triển rất nhanh về mặt khối lượng và giá trị xuất khẩu. Đây là một tín hiệu tốt thể hiện những phản ứng tích cực từ phía các doanh nghiệp đối với diễn biến trong quan hệ thương mại giữa hai nước. 2.1.1.2. Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ có hiệu lực Vào tháng 12/2001, BTA chính thức có hiệu lực, đánh dấu điểm mốc quan trọng trong quá trình phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Việc Mỹ áp dụng mức thuế MFN đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam đã tạo cơ hội lớn cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị trường này. Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ Đơn vị: Triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 KNXK của Việt Nam sang Mỹ 821,4 1.052,6 2.394,7 4.472,0 5.161,5 Tốc độ tăng (%) 28,1 127,5 86,7 15,4 Nguồn: Thương vụ Việt Nam - Mỹ. Số liệu bảng 2.1 cho thấy, một năm sau khi thực hiện BTA, KNXK của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 2,4 tỷ USD, tăng hơn 127% so với năm 2001. Đây là mức tăng trưởng cao nhất kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. Nhờ mức tăng trưởng cao đó cho nên tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ trong tổng xuất khẩu của Việt Nam đã gấp đôi, từ khoảng 7% vào năm 2001 lên 14,4% vào năm 2002. Năm 2003, mặc dù vấp phải vụ kiện cá tra, cá basa và hạn ngạch dệt may nhưng kim ngạch Việt Nam xuất sang Mỹ đạt xấp xỉ 4,5 tỷ USD. Tổng kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ trong năm 2003 đạt gần 6 tỷ USD - đây là một con số ít người dám nghĩ tới trước khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ có hiệu lực hai năm về trước. Cũng trong năm này, Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2004 đạt hơn 5 tỷ USD và 2 tháng đầu năm 2005 đạt 998,9 triệu USD tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính riêng về xuất khẩu hàng hóa, hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ 35 vào thị trường Mỹ [42, tr. 37]. Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ còn được thể hiện ở chỗ, tỷ trọng KNXK của Việt Nam ngày càng tăng lên. Mức này ngày càng lớn hơn nhiều khi chúng ta so sánh với tỷ trọng của các thị trường: úc, Trung Quốc, Nhật Bản, EU … trong tổng KNXK của Việt Nam. Bảng 2.2: Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1995 - 2003 Đơn vị: % Năm Tên nước 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 ASEAN 18,3 22,8 19,5 24,3 27,0 18,7 16,98 15,52 15,8 EU 13,2 12,4 17,5 22,7 22,5 20,0 19,98 18,83 19,1 Nhật 26,8 21,3 17,6 15,8 16,0 18,8 16,7 14,59 14,0 Trung Quốc 6,6 4,7 5,7 5,1 7,7 11,0 9,4 8,9 7,3 úc 1,0 0,9 2,0 5,0 7,3 9,1 6,9 7,9 6,6 Mỹ 3,1 2,8 3,0 5,0 4,5 5,3 7,1 14,4 20,2 Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam Bảng 2.2 cho thấy, xu thế nổi bật là tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong tổng KNXK của Việt Nam ngày càng tăng, đặc biệt năm 2003 Mỹ đã vượt qua EU đứng vị trí số một trong tổng KNXK của Việt Nam. Đây là bước đánh dấu sự thay đổi về chế độ thương mại của Mỹ dành cho Việt Nam. Mặc dù giá trị xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng lên nhanh chóng nhưng tốc độ tăng không ổn định, thậm chí lên xuống thất thường. Nguyên nhân của tình trạng này là do các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vấp phải cơ chế quản lý nhập khẩu khắt khe của thị trường Mỹ và các đối thủ cạnh tranh gay gắt. Mặt khác, nhu cầu nhập khẩu hàng năm của Mỹ đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta là rất lớn và KNXK của Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nó trong tổng KNXK của Mỹ không đáng kể bởi vì chỉ bằng 0,4% năm 2004 [62]. Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, cho đến nay xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu là các sản phẩm thô, chưa qua chế biến bao gồm các mặt hàng xuất khẩu chính: dệt may, thủy sản, giày dép, nông sản… Đó là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng. Mặt hàng có KNXK lớn nhất là hàng dệt may: Trước khi BTA có hiệu lực thì hàng dệt may của Việt Nam xuất sang Mỹ chịu thuế suất rất cao, từ 40 - 90%, nên hạn chế rất lớn việc xuất khẩu; khi BTA có hiệu lực, với mức thuế thấp thì xuất khẩu Việt Nam đã có chuyển biến lớn. Năm 2002: 957 triệu USD; năm 2003: 1,7 tỷ USD. Theo thống kê của Hải quan Mỹ, trong 11 tháng đầu năm 2004, Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ 2,5 tỷ USD hàng dệt may, tăng khoảng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu thứ 5 vào Mỹ về quần áo, chiếm khoảng 4,5% tổng giá trị nhập khẩu nhóm hàng này của Mỹ trong 11 tháng 2004 [41, tr. 2]. Mặt hàng có KNXK lớn thứ hai là hàng thủy sản: Hàng thủy sản của Việt Nam xuất sang Mỹ chủ yếu là tôm cua đông lạnh, động vật thân mềm và cá tươi sống… đây là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh do có vùng chủ quyền khai thác rộng lớn. Mặt hàng có KNXK lớn thứ ba là giày dép: Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu giày dép và phụ kiện giày dép lớn thứ ba trong số các nước xuất khẩu sử dụng nguyên liệu của Mỹ sang thị trường này đứng sau Trung Quốc và Indonesia. Năm 2002: 224,8 triệu USD, năm 2003: 324,8 triệu USD, năm 2004: 473,4 triệu USD. Tuy mức tăng này không phải thấp, nhưng so với tăng xuất khẩu của hàng dệt may thì con số này còn rất khiêm tốn [41, tr. 10]. Mặt hàng nông sản có KNXK lớn thứ tư: Hàng nông sản xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu cà phê, hạt điều, cao su, chè, mật ong, rau quả. Tương tự như nhóm hàng thủy sản, nhóm hàng này không có sự chênh lệch nhiều giữa thuế MFN và thuế Non - MFN, đều bằng 0% hoặc không đáng kể. Ngay sau khi lệnh cấm vận được gỡ bỏ, nhóm hàng cà phê, chè đã xâm nhập thị trường Mỹ và đạt đỉnh cao vào năm 1998. Tổng KNXK nông sản Việt Nam sang Mỹ năm 2003: 236,2 triệu USD, năm 2004 đạt 359,5 triệu USD. Tuy nhiên, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay có tới 90% các mặt hàng nông sản phải thông qua trung gian để bán với những thương hiệu nước ngoài, chỉ có khoảng 10% mang thương hiệu Việt [41, tr. 18]. Một nét mới trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã bắt đầu tăng nhanh. Năm 2003 đạt 104,0 triệu USD, năm 2004: 160,8 triệu USD. Một số sản phẩm chế tạo như máy in phun thiết bị âm thanh, phương tiện vận tải, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như đồ chơi, đồ dùng nhà bếp, mây tre "Made in Vietnam" đã xuất hiện trong các siêu thị Mỹ. 2.1.2. Thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 2.1.2.1. Về kim ngạch xuất khẩu Ngành thủy sản Việt Nam đã nhận thức việc mở rộng thị trường xuất khẩu là rất quan trọng trong việc gia tăng KNXK cũng như hình thành thế chủ động và cân đối thị trường, tránh không lệ thuộc vào thị trường truyền thống Nhật Bản. Do đó ngành thủy sản đã chủ động chủ trương mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị trường thủy sản khác như EU, Trung Quốc… và đặc biệt là thị trường Mỹ. Ngay khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam vào năm 1994, lô hàng thủy sản đầu tiên của Việt Nam đã nhập cảng Florida của Mỹ, mở đầu cho quan hệ thương mại thủy sản chính thức giữa hai nước. Đặc biệt, sau BTA, cơ hội cho ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ càng được mở rộng. Hàng trăm doanh nghiệp Mỹ đã tìm đến với hàng TSXK của Việt Nam và có những dự án đầu tư lớn trong lĩnh vực thủy sản tại Việt Nam. Đồng thời với việc ký kết các Hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước, Chính phủ Việt Nam cũng đã chủ động tiến hành rất nhiều hoạt động thúc đẩy XKTS phát triển như các cuộc tiếp xúc và làm việc giữa Bộ Thủy sản Việt Nam với Cục nghề cá biển Mỹ (NMFS), FDA, Hiệp hội thủy sản Mỹ (NFI)… Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đã chủ động mời đoàn doanh nghiệp và các nhà khoa học và quản lý Mỹ sang thăm, khảo sát tình hình nuôi và chế biến cá tra và basa ở An Giang và Cần Thơ; tổ chức các cuộc hội thảo về thị trường thủy sản Mỹ, các cuộc hội thảo về môi trường đầu tư tại Việt Nam và đầu tư trong lĩnh vực thủy sản, các cuộc triển lãm thủy sản trên thị trường Mỹ, áp dụng các chương trình quản lý chất lượng mà FDA và Chính phủ Mỹ đặt ra. Các doanh nghiệp XKTS Việt Nam thâm nhập vào thị trường này rất mạnh năm 1997 có 54 doanh nghiệp XKTS Việt Nam sang Mỹ, 1998 là 55 doanh nghiệp, năm 1999 có 94 doanh nghiệp, năm 2000 có trên 120 doanh nghiệp và năm 2001 có 173 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này đều được áp dụng hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn HACCP do FDA đặt ra và đủ tiêu chuẩn xuất hàng vào Mỹ. Các doanh nghiệp hiện đang dẫn đầu về doanh nghiệp XKTS vào Mỹ có thể kể đến Seaprodex, Kim Anh Co. Ltd, Minh Phú Co. Ltd, Cafatex… Vì vậy, kim ngạch XKTS của Việt Nam sang Mỹ tăng nhanh qua các năm. Bảng 2.3: Tình hình XKTS Việt Nam vào thị trường Mỹ Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 KNXK (Triệu USD) 5,78 19,94 33,98 39,83 90,20 129,5 0 298,2 2 489,0 3 655,6 5 782,2 3 592,8 2 Tốc độ tăng (%) 237,2 74,3 17,2 101,3 61,5 130,2 63,9 34,1 19,3  24,2 Nguồn: Hiệp hội chế biến và XKTS Việt Nam. Số liệu của bảng 2.3 cho thấy từ 1994 - 2001 giá trị XKTS Việt Nam vẫn tăng đều đặn và tăng đột biến vào những năm 1995, năm 2000 và 2001. Năm 2000 - năm bắt đầu của những chuyển biến to lớn trong XKTS, với sự tăng trưởng mạnh mẽ của kim ngạch XKTS trên thị trường Mỹ. Mỹ từ vị trí thứ ba trở thành thị trường tiêu thụ thủy sản lớn thứ hai của Việt Nam sau Nhật Bản. Với KNXK đạt gần 300 triệu USD gấp 7,6 lần so với 1997. Đặc biệt năm 2001 mặc dù nền kinh tế Mỹ có nhiều khó khăn nhất là sau sự kiện ngày 11/9 song kim ngạch XKTS của Việt Nam sang Mỹ vẫn có sự tăng trưởng với khối lượng 71 nghìn tấn sản phẩm đạt doanh số 489 triệu USD tăng 63,9% so với năm 2000, và tại thời điểm này Mỹ chính thức vượt Nhật Bản trở thành thị trường XKTS lớn nhất của Việt Nam. Bảng 2.4: Cơ cấu thị trường XKTS của Việt Nam Đơn vị tính % Năm Nước và khu vực 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Mỹ 11,6 13,8 20,9 28,92 32,0 35,3 24,6 Nhật Bản 42,3 40,7 32,8 26,14 27,0 26,3 31,4 EU 12,4 9,6 6,9 6,7 4,2 5,7 10,1 Trung Quốc và Hông Kông 10,56 12,5 20,4 18,44 15,0 6,7 5,4 Các thị trường khác 23,14 23,4 19,0 20,8 20,8 26,0 28,5 Nguồn: Vụ kế hoạch và thống kê - Bộ thương mại và Bộ Thủy sản. Tỷ trọng giá trị XKTS vào Mỹ tăng nhanh so với các thị trường khác. Nếu như năm 1998 XKTS sang thị trường Mỹ đạt con số 11,6% trong tổng giá trị hàng thủy sản của Việt Nam thì năm 1999 con số này là 13,8%, năm 2000 chiếm 20,9% và năm 2001 chiếm 28,92%. Trong khi đó các thị trường truyền thống của XKTS Việt Nam là Hồng Kông, Singapo, Nhật Bản, Pháp… đã mất dần về mặt tỷ trọng (xem bảng 2.4). Điều này cho thấy thị trường Mỹ ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong XKTS của Việt Nam. KNXK hàng thủy sản của Việt Nam sang Mỹ vẫn tiếp tục tăng năm 2002 đạt 655,65 triệu USD tăng 34,1% so với năm 2001. Bước sang năm 2003 mặc dù bị CFA kiện bán phá giá mặt hàng cá tra, cá basa nhưng KNXK vẫn đạt 782,23 triệu USD tăng 19,3% so với cùng kỳ năm 2002, đây là năm đỉnh cao về mặt số lượng và giá trị XKTS ở Mỹ của Việt Nam. Năm 2004 do ảnh hưởng vụ kiện của SSA, sản lượng và doanh thu XKTS Việt Nam vào Mỹ giảm đáng kể chỉ còn 592,82 triệu USD giảm 24,2% so với năm 2003. Theo tin VASEP, 6 tháng đầu năm 2005 XKTS giảm 36% khối lượng cũng như giá trị so với cùng kỳ năm trước [56]. Điều này chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến XKTS Việt Nam năm 2005 cả về khối lượng và giá trị. Như vậy, cơ cấu thị trường XKTS của Việt Nam đã có sự thay đổi cơ bản về vị trí của các thị trường chính. Mỹ từ vị trí đứng đầu giai đoạn 2001 - 2003, sang năm 2004 đã xuống vị trí thứ hai sau Nhật Bản. Có thể nói, sự sụt giảm về kim ngạch XKTS của Việt Nam trên thị trường Mỹ là lý do chủ yếu khiến cho hai năm liên tiếp kim ngạch XKTS của cả nước không đạt được mục tiêu đề ra ban đầu (mức kim ngạch chỉ đạt 2,397 tỷ USD trong khi đó kế hoạch là 2,6 tỷ USD). Theo Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Thị Hồng Minh trong cuộc trao đổi với Báo Tuổi trẻ: Sự sụt giảm này có nhiều lý do mà chủ yếu do tác động của vụ kiện tôm và sự sụt giảm đáng kể về khối lượng, giá trị xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ. Dưới tác động của vụ kiện trên và vụ kiện cá tra, cá basa trước đó, đạt được mức kim ngạch 2,4 tỷ USD theo kế hoạch điều chỉnh là cố gắng rất lớn của doanh nghiệp [44, tr. 11]. 2.1.2.3. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Bảng 2.5: Cơ cấu mặt hàng TSXK sang thị trường Mỹ (2001 - 2004) Đơn vị: Khối lượng(KL): tấn, kim ngạch (KN): triệu USD Mặt hàng 2001 2002 2003 2004 KL KN KL KN KL KN KL KN Tôm 29.315 339,01 6 45.081 467,33 52.439 513,27 36.687 392,48 Cá 25.353 98,191 38.943 144,97 55.390 209,62 42.619 141,42 Hàng khô 130 0,690 79 0,30 140 0,41 775 2,95 Mực + Bạch tuộc 13.403 3,335 1.396 3,34 1.691 3,84 1,553 3,90 Hải sản khác 2.730 47,80 12.396 39,71 13.812 55,09 8.134 52,07 Tổng cộng 70.931 489,035 98.665 655,65 123.472 782,23 89.768 592,82 Nguồn: Hiệp hội chế biến và XKTS. Qua bảng 2.5, chúng ta thấy cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ chủ yếu là mặt hàng tôm và cá. Theo thống kê của Mỹ, trong các mặt hàng tôm và cá thì tôm đông lạnh chiếm tỷ lệ cao nhất, kế đến là mặt hàng cá tra và cá basa, đứng thứ ba là cá ngừ và thứ tư là các sản phẩm khác. Mặt hàng tôm: Tôm là mặt hàng chủ lực của Việt Nam vào thị trường Mỹ, chiếm gần 70% trong tổng KNXK hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Những năm gần đây, tôm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là tôm sú đông lạnh, với hai dạng chế biến chính là bóc vỏ, để đuôi và nguyên vỏ, bỏ đầu. Ngoài ra, các sản phẩm khác như tôm thịt, chín, tôm bao bột, tôm đóng hộp cũng phát triển. Năm 1997: 32 triệu USD, năm 1998: 68 triệu USD, năm 1999: 95 triệu USD, năm 2000: 224 triệu USD. Năm 2001: 339 triệu USD. Năm 2002: 467 triệu USD tăng 38% so với năm 2001. Đỉnh cao là năm 2003, đạt 513 triệu USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ 2002 - đây là năm có giá trị xuất khẩu tăng cao nhất trong giai đoạn 1997 - 2003. Tuy nhiên, sang năm 2004 do tình trạng bất ổn các nhà nhập khẩu Mỹ chờ phán quyết cuối cùng về mức thuế do Bộ Thương mại Mỹ (DOC) áp đặt đối với tôm Việt Nam nên mặt hàng tôm giảm khá mạnh cả về khối lượng (- 30%) và giá trị (- 23,5%) so với cùng kỳ năm 2003. Đầu tháng 3/2005, Cục Hải quan Mỹ đưa ra quy định mới về đóng Bond (bảo lãnh thanh toán) thì hoạt động xuất khẩu mặt hàng tôm vào thị trường này gần như án binh bất động. Nhiều doanh nghiệp XKTS trước đây có KNXK tôm vào Mỹ lên đến vài chục triệu USD thì giờ đây không đưa được lô hàng nào vào thị trường này. Ông Đỗ Ngọc Quý - Giám đốc công ty Kim Anh cho biết: Mọi năm Công ty Kim Anh đưa khoảng 30% sản lượng tôm xuất khẩu vào thị trường Mỹ nhưng năm nay nhiều khả năng sẽ không xuất được hay xuất với số lượng rất nhỏ do đó chúng ta dự kiến sẽ giảm bớt thu mua, giảm sản xuất và ngưng một số dây chuyền nếu tình hình xuất khẩu tôm vào thị trường Mỹ không có chuyển biến tích cực hơn. Đầu ra của tôm xuất khẩu Việt Nam lại gặp khó khăn khi cánh cửa vào Mỹ cửa mặt hàng này dần dần khép lại - Người nuôi khốn đốn, nhà xuất khẩu lao đao [61]. Mặt hàng cá: Đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ hai của Việt Nam và có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thị trường Mỹ. Trong số các loại cá xuất khẩu của Việt Nam hiện nay sang Mỹ nổi lên hai loại cá có số lượng và giá trị xuất khẩu khá cao trong những năm qua là cá tra, cá basa phi lê đông lạnh và các loại cá ngừ tươi như cá ngừ đại dương và cá ngừ vây vàng. Tuy mặt hàng cá chỉ chiếm khoảng 34% so với mặt hàng tôm nhưng hiện nay Việt Nam đang đứng đầu trong số các nước xuất khẩu cá sang Mỹ và cạnh tranh gay gắt với các nhà cung cấp cá nheo của Mỹ. Năm 2000: 59 triệu USD, năm 2001: 98 triệu USD, năm 2002: 144 triệu USD, năm 2003: 209 triệu USD tăng 44,6%, tổng sản lượng nhập vào hơn hẳn cả mặt hàng tôm. Năm 2004 chỉ còn 141 triệu USD giảm 32,5% so với năm 2003 nhưng 2 tháng đầu năm 2005 dấu hiệu lại phục hồi, các nhà nhập khẩu Mỹ đã bắt đầu đặt hàng trở lại cụ thể đạt 23,2 triệu USD tăng 39,9% so với cùng kỳ năm 2004. Mặt hàng mực và bạch tuộc: Trong cơ cấu mặt hàng TSXK của Việt Nam vào Mỹ, mực và bạch tuộc còn chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn cả về khối lượng và giá trị nhưng ổn định hơn so với các mặt hàng khác bao gồm mực nang và bạch tuộc đông lạnh, mực ống đông lạnh. Năm 2000: 2 triệu USD; năm 2001: 3,33 triệu USD; năm 2002: 3,34 triệu USD; năm 2003: 3,84 triệu USD; năm 2004: 3,90 triệu USD chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nhập khẩu của Mỹ và cũng thấp hơn nhiều so với các nước xuất khẩu hàng đầu nhóm hàng này vào Mỹ. Mặt hàng cua, ghẹ: KNXK của mặt hàng cua, ghẹ Việt Nam sang thị trường Mỹ liên tục tăng từ 1 triệu USD (năm 1998) lên đến 17 triệu USD (2002) chiếm từ 0,8% lên 1,7% trong tổng nhập khẩu của Mỹ. Trong đó mặt hàng cua biển đạt mức tăng trưởng cao nhất bao gồm cua sống, cua đông lạnh, cua luộc, thịt cua đông lạnh. Cũng giống như nhóm mặt hàng mực và bạch tuộc, nhóm hàng cua và ghẹ hiện nay chưa được chú trọng xuất khẩu sang Mỹ. Chủ yếu ở dưới dạng tươi sống hay chế biến sơ như cắt hay bóc vỏ đông lạnh. Ngoài các mặt hàng trên, nhóm thủy sản khác như đồ hộp, sản phẩm khô, hun khói, ướp muối… có xu hướng tiêu dùng ngày càng tăng do tính tiện dụng, tiết kiệm thời gian chuẩn bị bữa ăn. Nhìn chung, cơ cấu mặt hàng TSXK của Việt Nam ngày càng đa dạng và phong phú, sản phẩm có giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng ngày càng cao. 2.1.2.4. Về phương thức xuất khẩu Đối với các doanh nghiệp XKTS của Việt Nam, một mặt do đặc trưng riêng trong hệ thống phân phối tại thị trường Mỹ (được trình bày tại mục 1.2.1.5), mặt khác do quá trình nghiên cứu marketing chỉ dừng lại việc nghiên cứu các nhà nhập khẩu, các đại lý nhập khẩu, chưa nghiên cứu đến người tiêu dùng cuối cùng. Cho nên phương thức xuất khẩu của các doanh nghiệp XKTS Việt Nam hầu như qua khâu trung gian lựa chọn kênh nhiều cấp, không sử dụng kênh không cấp chủ yếu ký kết hợp đồng bán hàng cho các nhà nhập khẩu Mỹ theo giá FOB, để từ đây TSXK mới được cung cấp cho các nhà chế biến và hệ thống kinh doanh bán lẻ của Mỹ. Hiện nay các doanh nghiệp XKTS sử dụng cấu trúc kênh phân phối như sau: Với kênh phân phối thủy sản qua khâu trung gian như vậy có ưu điểm là phù hợp với hoàn cảnh các doanh nghiệp XKTS Việt Nam hiện nay vì: - Chi phí lưu thông thấp, thuận lợi cho các doanh nghiệp XKTS Việt Nam có quy mô hoạt động nhỏ và năng lực tiếp cận thị trường còn hạn chế khi các doanh nghiệp XKTS Việt Nam chưa đủ sức để xây dựng mạng lưới phân phối riêng. - Việc sử dụng các khâu trung gian là những nhà phân phối nổi tiếng, có uy tín trên thị trường Mỹ là một bước đi đầu tiên cần thiết đối với các doanh nghiệp khi XKTS vào Mỹ, sẽ cho phép doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận thị trường, giảm thiểu rủi ro tạo chỗ đứng ban đầu cho sản phẩm thủy sản trên thị trường. - Tận dụng được hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhân lực sẵn có ở Mỹ, tránh được khoản đầu tư ban đầu trong lúc doanh nghiệp XKTS còn khó khăn về tài chính. 2.1.2.5. Về năng lực cạnh tranh Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường Mỹ như may mặc, thủy sản, dầu thô, nông sản… thì nhóm hàng thủy sản chiếm giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Lượng TSXK sang Mỹ tăng lên hàng năm và đem về cho đất nước hàng triệu USD, điều đó đã phần nào phản ánh được sức cạnh tranh của TSXK Việt Nam trên thị trường này. Để thấy được một cách tổng quát năng lực cạnh tranh của hàng TSXK Việt Nam chúng ta cần đi sâu nghiên cứu cả về chất lượng, giá cả và khả năng chiếm lĩnh thị trường Mỹ so với các đối thủ khác. * Về chất lượng TSXK Doanh nghiệp XKTS Việt Nam Nhà nhập khẩu thủy sản Mỹ Nhà bán buôn Nhà chế biến Siêu thị Nhà bán lẻ khác Người tiêu dùng Theo đánh giá của các nhà nhập khẩu Mỹ do mặt hàng tôm và cá ở Việt Nam chủ yếu nuôi theo phương thức quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị ngọt của tôm và cá tự nhiên ngon hơn tôm cá nuôi công nghiệp của Thái Lan và Indonesia nên thường bán được giá cao hơn. Ví dụ, năm 2000 mặc dù mới chỉ xuất trên 15.000 tấn tôm nhưng giá trị rất cao 224 triệu USD. Trong khi đó ấn Độ xuất đến 26.000 tấn mà chỉ thu được 223 triệu USD. Tính ra 1 kg tôm của Việt Nam bán được 14,935 USD, còn của Mêhicô là 13,961 USD, của Thái Lan là 11,895 USD và của ấn Độ là 8,076 USD. Cá tra và cá basa của Việt Nam trong những năm qua được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận một cách rộng rãi do hương vị thơm ngon tự nhiên. Ngoài mùi thơm tự nhiên mà người tiêu dùng đã từng thích, một công trình nghiên cứu y học vừa mới công bố cho biết trong mỡ cá basa có chất DHA, một chất có tác dụng trị bệnh xơ cứng động mạch, nghĩa là cá basa Việt Nam vừa ngon lại vừa có tác dụng trị bệnh. Một chuyên gia nước ngoài nhận xét về khả năng cạnh tranh của mặt hàng cá tra, cá basa đó là: Việt Nam hoàn toàn có thể lập lại những thành công đối với cá tra, cá basa như các nước Na Uy, Chi Lê đã làm với cá hồi. Trong bài phân tích của mình về cách nuôi cá nheo của Mỹ và Việt Nam, GS.TS Võ Tòng Xuân kết luận: "Chính phủ Mỹ do bảo vệ quyền lợi của vài trăm công ty nuôi cá nheo Mỹ mà hy sinh quyền lợi của hàng trăm triệu dân Mỹ, làm họ mất dịp ăn cá basa thơm ngon, bổ dưỡng giàu Omega 3 và rẻ tiền" [57]. Khi phi lê cá basa của Việt Nam được nhập vào thị trường Mỹ, các bà nội trợ Mỹ và các nhà hàng ăn Mỹ lại chuộng cá basa Việt Nam hơn cá nheo của Mỹ. Vì cá nheo Mỹ chỉ nuôi trong ao hồ tù đọng và có nhiều thanh tảo trong ao làm cho thịt cá có mùi khó chịu. Để diệt bớt thanh tảo, phần đông các nhà nuôi cá nheo phải áp dụng những thuốc diệt cỏ nhất là thuốc diuron - đây là một loại hóa chất độc hại cho cá nheo. Chính vì vậy, người nuôi Mỹ ngại tính an toàn thực phẩm của cá Mỹ. Trong khi đó cá basa của ta nuôi trong lồng bè đặt theo dòng sông Cửu Long chảy mạnh suốt cả ngày đêm, không dùng hóa chất. Đây là lý do chính khiến cho Mỹ hạn chế nhập khẩu cá basa của Việt Nam. Nếu cho cá basa Việt Nam vào Mỹ tự do, công nghiệp nuôi cá nheo của Mỹ sẽ "đóng cửa" vì không cạnh tranh được. Đối với mặt hàng tôm: Có nhiều nước tham gia xuất khẩu nên thị trường diễn biến phức tạp hơn cá tra, cá basa. Tuy nhiên, Việt Nam có lợi thế là nước đi sau, môi trường tự nhiên còn tương đối sạch. Trong khi nhiều nước chọn tôm thẻ chân trắng (Panaeus Vanamei) là mặt hàng xuất khẩu chính thì mặt hàng chính của ta là tôm sú (Paneus Monodon). ở các nước Thái Lan, Trung Quốc do nuôi tôm công nghiệp là chủ yếu nên tôm có kích cỡ nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Còn ở Việt Nam tôm sú có kích cỡ lớn phù hợp nhu cầu của thị trường do chúng ta sử dụng phương thức nuôi tôm chủ yếu là bán thâm canh và quảng canh cải tiến. Đối với các nhà nhập khẩu Mỹ, tôm của Việt Nam được đánh giá cao do có kích cỡ lớn và được tin tưởng do đảm bảo ATVSTP. Những yếu tố này đã giúp cho hàng thủy sản của Việt Nam có được năng lực cạnh tranh đáng kể so với tôm của Thái Lan. Nắm được ưu thế này, các doanh nghiệp Việt Nam đã tập trung xuất khẩu tới Mỹ tôm có kích cỡ lớn, đồng thời tăng cường khâu chế biến để nâng cao năng lực cạnh tranh về chất lượng sản phẩm tôm xuất khẩu Việt Nam. * Về giá TSXK Theo đánh giá của UNIDO: "Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên mức lương thấp và nguồn tài nguyên thiên nhiên". Đúng như vậy, hàng TSXK của Việt Nam vào Mỹ hoàn toàn có lợi thế cạnh tranh về giá so với các đối thủ khác. Bởi một lý do đơn giản, giá thành sản xuất đa số các mặt hàng TSXK của ta thấp hơn các sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Trung Quốc... nhờ vào những điều kiện tự nhiên và lao động, với lợi thế trong XKTS, nên giá cả sản phẩm TSXK của Việt Nam sang Mỹ rất thấp, đặc biệt là mặt hàng cá tra, cá basa. Đây là mặt hàng xuất khẩu độc quyền của Việt Nam trên thị trường Mỹ về giá cả và chất lượng sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ- Thực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan