Tài liệu Luận văn Tìm hiểu việc đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào: Luận văn
Đổi mới quản lý nhà nước
đối với hoạt động thương
mại trên địa bàn tỉnh Bó
Kẹo, Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn mười lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Nhân
dân cách mạng (NDCM) Lào khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1986) mở đường cho một thời kỳ
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
của Đảng NDCM Lào đã đề ra chương trình cải cách hành chính và đổi
mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước đối với tất cả các lĩnh
vực, các ngành, trong đó có thương mại nhằm thực hiện mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
(CHDCND) Lào đến năm 2020.
Trọng tâm của chương trình cải cách và đổi mới quản lý nhà nước
về kinh tế là hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức bộ máy
quản lý kinh tế, nâng cao...
94 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu việc đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đổi mới quản lý nhà nước
đối với hoạt động thương
mại trên địa bàn tỉnh Bó
Kẹo, Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn mười lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Nhân
dân cách mạng (NDCM) Lào khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1986) mở đường cho một thời kỳ
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
của Đảng NDCM Lào đã đề ra chương trình cải cách hành chính và đổi
mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước đối với tất cả các lĩnh
vực, các ngành, trong đó có thương mại nhằm thực hiện mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
(CHDCND) Lào đến năm 2020.
Trọng tâm của chương trình cải cách và đổi mới quản lý nhà nước
về kinh tế là hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức bộ máy
quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản lý, đảm
bảo thực hiện những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và Nhà nước đề ra, phù hợp xu thế của thời đại mới. Vì vậy, đòi hỏi
tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung và ngành thương mại nói riêng
phải đổi mới cơ chế, chính sách, các công cụ và phương pháp quản lý vĩ
mô... cho phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo định
hướng XHCN.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, quản
lý nhà nước về kinh tế nói chung và đối với thương mại nói riêng đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế, vừa
chưa định hướng quy hoạch chiến lược phát triển, vừa chưa quản lý kiểm
soát chặt chẽ hoạt động thương mại của các thành phần kinh tế tham gia.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt động thương mại của thành
phần kinh tế nhà nước còn bị động, lúng túng chưa phát huy được vai trò
chủ đạo, hoạt động thương mại của thành phần kinh tế ngoài nhà nước phát
triển nhanh nhưng không đồng đều giữa các vùng, miền, thị trường nông
thôn miền núi hầu như bị "bỏ trống". Chính vì lẽ đó đòi hỏi phải có sự tác
động của quản lý nhà nước nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã
hội và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là địa bàn nông thôn
miền núi.
Bó Kẹo là tỉnh miền núi nhưng có cả đồng bằng và đô thị, hoạt
động thương mại có sự đan xen, hỗ trợ lẫn nhau. Ngoài ra, Bó Kẹo còn có
vị trí địa lý thuận lợi là cầu nối giữa các tỉnh miền núi phía Tây Đông Bắc,
có nhiều tiềm năng để phát triển thương mại. Tuy nhiên, quản lý nhà nước
đối với hoạt động thương mại cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên
cứu và giải quyết trong thực tiễn. Là người trực tiếp tham gia quản lý trong
lĩnh vực này, tôi chọn đề tài: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt
động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào " làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về thương mại trong
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung - quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đã được nhiều nhà
khoa học, nhà kinh tế và nhà quản lý quan tâm.
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu dưới dạng
chuyên đề được đăng trên các báo chí, tạp chí và công trình khoa học đã
công bố như: luận văn thạc sĩ: "Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về
thương mại trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" của Nguyễn Xuân Thiện (2000).
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước "Đổi mới và hoàn thiện quản lý
nhà nước về thương mại trên thị trường nội địa nước ta thời kỳ đến năm
2010" (2003) của Bộ Thương mại.
- Đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý thương mại dịch
vụ, Giáo sư Hoàng Đạt (Bộ Thương mại).
- Thị trường nội địa thống nhất và quản lý nhà nước về thương
nghiệp, Tiến sĩ Hoàng Đức Tảo (Bộ Thương mại).
Một số nghiên cứu sinh Lào tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh cũng đã có các công trình nghiên cứu trên những lĩnh vực khác
nhau như:
- Đề tài về Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào - Những giải pháp cơ bản tạo tiền đề, Luận án tiến sĩ kinh tế
của Khăm Pheng SA SOM PHENG, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
- Đề tài về "Phát triển thị trường nông thôn Cộng hoà dân chủ
Nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ kinh tế của Bun Thi Khưa My Xay, Khoa
học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
1998.
- Đề tài về: "Đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ kinh tế của Chăn Seng Phim Ma
Vông, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2003.
Tuy nhiên, ở một địa phương cụ thể cấp tỉnh có nhiều đặc thù riêng
như tỉnh Bó Kẹo, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có
hệ thống về lĩnh vực này. Để thực hiện đề tài, tôi có kế thừa các ý tưởng lý
luận của các công trình đã công bố của Việt Nam và Lào, đi sâu phân tích
thực trạng và đề xuất giải pháp phù hợp cho hoạt động thương mại của tỉnh
Bó Kẹo trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với
hoạt động về thương mại trong nền kinh tế thị trường, đánh giá thực trạng
và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà
nước về thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích sự cần thiết khách quan phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà
nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo.
- Đánh giá quá trình đổi mới và thực trạng quản lý nhà nước đối với
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo. Từ
đó rút ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về
thương mại ở tỉnh Bó Kẹo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự tác động của quản lý nhà
nước đối với hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về thương
mại đối với tất cả các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại,
trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở Thương mại quản lý.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 1996 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng những quan điểm lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Lào từ
Đại hội IV đến nay. Đồng thời tham khảo, tiếp thu một cách có chọn lọc
các ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thực tiễn qua các bài viết,
các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này.
- Luận văn kết hợp nhiều phương pháp, trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp điều tra
khảo sát, phân tích thống kê, tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, và thực tiễn về quản lý
nhà nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường ở tỉnh
Bó Kẹo, đề xuất giải pháp có tính khả thi nhằm đổi mới quản lý nhà nước
về lĩnh vực này trong giai đoạn tới.
- Luận văn là một công trình nghiên cứu lý luận với tình hình thực
tiễn của tỉnh Bó Kẹo, nên có thể làm tài liệu tham khảo để hoạch định
những chủ trương, chính sách phát triển thương mại ở tỉnh Bó Kẹo trong
những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động thương mại
- Khái niệm:
Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất của xã hội loài
người, là cơ sở của đời sống xa hội, nhưng của cải vật chất sản xuất ra không
đem trao đổi và tiêu dùng thì không phải là hàng hoá.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sản xuất ngày càng mở
rộng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động
xã hội. Lúc đầu là phân công tự nhiên (mang tính tự phát), sau đó là phân
công có ý thức. Chính nhờ sự phân công lao động xã hội đó mà hình thành
các ngành kinh tế độc lập khác nhau. Các Mác đã chỉ ra rằng: "nếu xét riêng
bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội
thành những ngành lớn như: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... là sự
phân công lao động chung, và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành
từng loại và như là sự phân công lao động đặc thù" [24, tr.580].
Quá trình phát triển từ công xã nguyên thuỷ đến chủ nghĩa tư bản đã
hình thành khá rõ 3 cuộc phân công lao động xã hội lớn: mới đầu chăn nuôi
tách ra khỏi trồng trọt, và hình thành một ngành nghề khác trong nông nghiệp,
tiếp đó ngành thủ công tách ra khỏi nghề nông, đã hình thành sự chuyên môn
hoá trong nông nghiệp và bắt đầu nhen nhóm ngành công nghiệp. Hoạt động
trao đổi trở nên phức tạp hơn; bắt đầu xuất hiện tiền tệ làm vật trung gian để
trao đổi, hình thành một nhóm người làm công việc mua đi bán lại, đó là
thương nhân. Lúc này thương mại tách ra khỏi sản xuất và trở thành một
ngành độc lập trong nền kinh tế quốc dân.
Các Mác đã chứng minh rằng, tư bản thương mại đã ra đời trước khi xuất
hiện tư bản công nghiệp, hoạt động của tư bản thương mại trong thời kỳ tiền tư bản
chủ nghĩa là một tiền đề quan trọng cho việc ra đời của tư bản công nghiệp, nhờ vào
việc tích tụ vốn và tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các Mác viết:
Cho nên, chẳng lấy gì làm khó hiểu, tại sao tư bản thương
nhân lại xuất hiện với tư cách là một hình thái lịch sử của tư bản, rất
lâu trước khi tư bản khống chế được nền sản xuất. Bản thân sự tồn
tại và phát triển tới một mức nào đó của tư bản thương nhân là điều
kiện lịch sử của phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa (TBCN). Vì đó là điều kiện tiên quyết của việc tích tụ tài sản
bằng tiền và vì phương thức sản xuất TBCN giả định sản xuất nhằm
mục đích buôn bán... [19, tr.77].
Khi tư bản công nghiệp đã giữ vị trí thống trị trong xã hội thì tư bản
thương mại trở thành kẻ phục vụ cho tư bản công nghiệp và phụ thuộc vào tư
bản công nghiệp. Các Mác đã nhấn mạnh: Ở giai đoạn đầu của xã hội tư bản
thương mại thống trị công nghiệp, trong xã hội hiện đại ngược lại.
Thương mại ra đời đánh dấu một sự phân công lao động trong xã hội,
khi đó chức năng trao đổi hàng hoá đã trở thành công việc chuyên môn của một
bộ phận lao động thoát ly sản xuất và phục vụ sản xuất bằng cách đưa hàng từ
người sản xuất đến người tiêu dùng thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với tiêu dùng, là
hình thức trao đổi hàng hoá thông qua việc mua, bán và các dịch vụ thương mại.
Thương mại là một ngành kinh tế tương đối độc lập trong nền kinh tế
quốc dân, nó không sản xuất ra của cải vật chất nhưng lại phục vụ cho quá
trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế gắn liền với lĩnh vực
lưu thông hàng hoá với sản xuất hàng hoá. Việc hình thành và phát triển
thương mại phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở từng giai đoạn lịch sử quyết định. Trình độ của lực
lượng sản xuất này ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng sâu
sắc thì hoạt động thương mại được mở rộng cả về phạm vi, quy mô, cơ cấu
hàng hoá, dịch vụ cũng đa dạng và phong phú hơn.
- Đặc điểm:
+ Thương mại là một lĩnh vực kinh tế, trong đó các chủ thể kinh tế
thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá bằng các phương thức khác nhau.
Thương mại ra đời cùng với nền kinh tế hàng hoá và ngày càng phát triển.
Cho đến nay, thương mại là một ngành kinh tế phát triển ở trình độ cao với
quy mô rộng lớn trong nền kinh tế quốc dân của các nước, chiếm tỷ trọng
đáng kể trong cấu thành khu vực dịch vụ.
+ Thương mại tuy không phải là một ngành sản xuất vật chất độc lập,
nhưng lại có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với sản xuất, góp phần thúc
đẩy sản xuất và quá trình chuyên môn hoá, giải quyết những vấn đề kinh tế -
xã hội của đất nước.
+ Thương mại trong điều kiện hiện nay chịu ảnh hưởng của xu hướng
toàn cầu hoá kinh tế và phát triển nền kinh tế tri thức. Nó không chỉ đóng vai
trò cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về hàng hoá của toàn xã hội mà còn đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong việc góp phần khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của từng
vùng, từng địa phương, từng quốc gia; phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và
có hiệu quả. Thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì thế, hoạt động thương mại ngày
càng không hạn chế ở việc buôn bán các hàng hoá vật thể truyền thống mà
còn mở rộng sang các lĩnh vực mới như cả thương mại dịch vụ, bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ...Ở nhiều nước phát triển, thương mại
thường được hiểu rộng đến mức nhiều khi rất khó phân biệt ranh giới hoạt
động thương mại với hoạt động khác.
+ Trong thời đại ngày nay, thương mại có tầm quan trọng đặc biệt với
phát triển kinh tế. Do vậy hầu hết các quốc gia và vùng kinh tế trên thế giới
đều rất quan tâm đến phát triển hoạt động thương mại. Trong xu hướng chung
đó Đảng và Chính phủ Lào cũng rất quan tâm đến quản lý Nhà nước đối với
hoạt động thương mại của quốc gia. Chính phủ đã có nhiều chính sách quan
trọng cho sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có sự chú ý đặc biệt
tới sự phát triển của ngành thương mại, là cơ sở quan trọng để thúc đẩy nền
kinh tế của Lào tăng trưởng và phát triển.
Thể hiện ý chí đó, Đại hội lần IV và V của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào đã xác định chủ trương đổi mới trong phát triển kinh tế. Trong đó coi
hoạt động thương mại là cầu nối quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có
nhiệm vụ quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nhằm phá vỡ
kiểu sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp để chuyển sang phát triển kinh tế.
1.1.2. Vai trò của hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, thương mại có vai trò quan trọng trong
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xác định rõ vai trò của thương mại cho phép
tác động đúng hướng và tạo được những điều kiện cho thương mại phát triển.
+ Trước hết thương mại là một bộ phận của quá trình tái sản xuất.
Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất và sản xuất với tiêu dùng.
Sự vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu thương mại để hoạt động tiếp
tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. Ở vị trí cấu thành của quá
trình tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu của quá trình tái
sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu
dùng. Vì vậy thương mại là hợp phần của sản xuất hàng hoá. Sản phẩm hàng
hoá có mục đích từ trước là để thoả mãn nhu cầu của người khác, sản xuất ra
để trao đổi mua bán. Hoạt động thương mại gắn liền với hoạt động sản xuất
hàng hoá. Ở đây có thể phát triển ý kiến của Ăngghen rằng: sản xuất và
thương mại là hai mặt của kinh tế, có thể coi như trục hoành và trục tung của
đồ thị kinh tế.
+ Thương mại làm cho sản xuất hàng hoá phát triển chấn hưng các
quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích
đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản
xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá lớn. Phát
triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ, làm
cho con người năng động, dần thích nghi với cách thức của nền sản xuất hàng
hoá, đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên tự cấp, tự túc
thành sản xuất hàng hoá.
+ Thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lợi
nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách
để cải tiến công tác, áp dụng khoa học công nghệ mới, hạ chi phí để thu
nhiều lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản
xuất phải năng động, phải không ngừng nâng cao tay nghề chuyên môn và
tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực, nâng
cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản
xuất phát triển.
+ Thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới. Người
tiêu dùng bán không xuất phát từ tình cảm mà bằng lý trí, lợi ích của sản
phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái tạo
nhu cầu. Thương mại một mặt làm cho nhu cầu trên thị trường gần với nhu
cầu thực tế, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu.
Thương mại đáp ứng nhu cầu tốt hơn chế độ trao đổi hiện vật. Thương mại
luôn buộc các nhà sản xuất phải đa dạng kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản
phẩm, điều này tác động ngược lại người tiêu dùng làm khơi dậy những nhu
cầu tiềm tàng. Tóm lại thương mại làm tăng nhu cầu và đó là gốc rễ cho sự
phát triển sản xuất kinh doanh. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới, thương mại đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa các nước không ngừng phát triển.
Điều đó giúp cho chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy lợi thế
so sánh, từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập với thị trường thế giới,
đó cũng là con đường để phát triển kinh tế.
+ Thương mại giúp xã hội sử dụng hợp lý và tiết kiệm lao động:
Do có thương mại, các nhà sản xuất có thể tiến hành sản xuất liên tục,
không phải dùng sản xuất để tiêu thụ sản phẩm, nên có thể tăng hiệu suất sử
dụng máy móc, thiết bị tăng năng suất lao động giảm chi phí sản xuất.
Do có thương mại nên chi phí lưu thông, bao gồm chi phí bảo quản,
đóng gói, chuyên chở, v.v... có thể giảm nhiều so với chi phí lưu thông mà các
nhà sản xuất tư làm.
+ Thương mại thúc đẩy và tạo điều kiện phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là một trong nhiều biện pháp tăng năng suất
lao động xã hội. Mà việc không ngừng tăng năng suất lao động quan trọng
như thế nào thì chúng ta đã biết.
Nhờ có thương mại, nhà sản xuất có thể yên tâm sản xuất, nhờ thương
mại nhà sản xuất có thể nắm được cầu một cách rộng khắp, nhanh chóng, từ
đó sớm có sự lựa chọn chuẩn xác phương án cung của mình sao cho tối ưu.
+ Thương mại giúp xã hội mở rộng quan hệ hàng hoá trên phạm vi ngày
càng rộng lớn, nhờ đó mà nâng cao mức sống vật chất, văn hoá của con người:
Nhờ có ngành thương mại, trong đó có ngoại thương, nhân loại toàn
cầu có thể thụ hưởng thành quả lao động của nhau.
Thông qua hàng hoá, con người có thể giao lưu văn hoá, thúc đẩy trí
tuệ phát triển làm cho xã hội sinh động hơn. Chính trên ý nghĩa đó, danh nhân
Việt Nam Lê Quý Đôn đã nói: "phi thương bất hoạt".
1.1.3. Mối quan hệ và tác động của hoạt động thương mại
1.1.3.1. Mối quan hệ của hoạt động thương mại
* Mối quan hệ giữa thương mại với sản xuất và tiêu dùng trong tái sản
xuất xã hội:
- Thương mại giữ vị trí trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng trong quá
trình tái sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, chính thương mại kết
nối và thực hiện sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động
mua bán bằng tiền. Thương mại là điều kiện không thể thiếu của tái sản xuất
xã hội.
- Thương mại một mặt chịu sự tác động quyết định của sản xuất và tiêu
dùng (quy mô, cơ cấu, tốc độ phát triển của thương mại do quy mô, cơ cấu và
sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng quy định). Ngược lại sự phát triển của
thương mại có tác động trở lại làm biến đổi quy mô, cơ cấu và sự phát triển
của cả sản xuất lẫn tiêu dùng.
* Thương mại phản ánh tổng hợp nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể
của nền kinh tế thông qua hoạt động mua bán trên thị trường:
- Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các chủ thể kinh tế
được phản ánh chủ yếu trên thị trường thông qua mua bán gắn liền với hoạt
động thương mại.
- Những mối quan hệ thương mại này có liên quan tới nhiều chủ thể
khác nhau (chính phủ, các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân
người tiêu dùng cũng như có liên quan tới mọi thành phần kinh tế khác nhau
trong nền kinh tế).
- Thương mại chịu ảnh hưởng tác động của các quan hệ quốc tế giữa
các chủ thể kinh tế nói trên. Mặt khác, thương mại cũng tác động trở lại góp
phần xây dựng và củng cố mối quan hệ, xác lập địa vị của họ về kinh tế thông
qua các mối quan hệ mua bán.
* Thương mại là một hệ thống mở với môi trường bên ngoài (kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, luật pháp và môi trường tự nhiên)
- Thương mại là một hệ thống tập hợp các yếu tốt có mối liên hệ qua lại
thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hoá và các dịch vụ bằng tiền với mục
tiêu kinh doanh hoặc phi kinh doanh như chúng ta đã nói ở trên.
- Hệ thống thương mại được hình thành bởi hai hệ thống con, đó là
cung và cầu.
+ Cung được hình thành bởi sản xuất, người bán đại diện cho sức cung
trên thị trường.
+ Cầu được hình thành bởi tiêu dùng dựa trên cơ sở khả năng thanh
toán của xã hội. Người mua đại diện cho sức cầu của thị trường.
- Hai hệ thống con của hoạt động thương mại được liên hệ với nhau bởi
các hoạt động và mối quan hệ qua lại giữa người mua và người bán trên thị
trường như: hoạt động Marketing, hệ thống kênh phân phối của thị trường...
- Thương mại là một hệ thống mở trong sự tương tác qua lại với môi
trường bên ngoài.
- Thương mại chịu ảnh hướng tác động của các yếu tố môi trường kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, pháp luật, tự nhiên. Những yếu tố môi trường
này có thể tác động thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của thương mại.
- Thương mại cũng tác động trở lại đến tất cả các yếu tố môi trường
bên ngoài. Những tác động này khá đa dạng và có liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác nhau của tái sản xuất. Phạm vi tác động của thương mại rất rộng, nó
liên quan đến mọi người, mọi tổ chức, mọi thành viên kinh tế. Những tác
động này không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng ra cả
phương diện chính trị, xã hội, luật pháp, văn hoá và môi trường tự nhiên.
- Những tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng có
thể những tác động tích cực (thúc đẩy hoặc đưa lại những lợi ích), cũng có thể
là các tác động tiêu cực (cản trở hoặc dẫn đến những tổn thất). Kết quả của
những tác động này có thể lượng hoá được (đo lường được) nhưng nhiều
trường hợp chúng rất khó định lượng. Tác động của thương mại có thể là trực
tiếp hoặc gián tiếp, phạm vi ảnh hưởng của chúng rất khác nhau. Có nhiều
hoạt động thương mại mà ảnh hưởng của chúng chỉ trong một phạm vi hẹp và
trong một thời gian ngắn, ngược lại có những tác động mà ảnh hưởng của
chúng rất rộng rãi và lâu dài. Trong một số trường hợp, hậu quả của những tác
động thương mại là có thể sửa chữa được nhưng một số trường hợp hậu quả
lại có thể là vĩnh viễn hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của
và thời gian.
- Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không
chỉ giúp cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh nghiệp
nhằm đạt được những mục tiêu kinh doanh mà còn giúp cho việc quản lý các
hoạt động thương mại ở phạm vi vĩ mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp
phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của thương mại cũng như sự phát triển
kinh tế bền vững.
1.1.3.2. Những tác động của thương mại
* Tác động tích cực của thương mại:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thương mại có những tác động
tích cực sau:
- Về kinh tế:
+ Góp phần tạo ra thu nhập quốc dân là nguồn thu ngoại tệ quan trọng
(ngoài thương), góp phần cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia, ổn định
kinh tế vĩ mô.
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, ổn định và bền vững.
+ Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Thúc đẩy đầu tư hợp tác kinh tế giữa các vùng, các quốc gia và các
khu vực kinh tế thế giới.
+ Thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới.
- Về xã hội (văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật):
+ Góp phần tạo công ăn việc làm, giải quyết những vấn đề dư thừa lao
động và nạn thất nghiệp.
+ Giúp phát triển các vùng lạc hậu, vung sâu, vùng xa.
+ Xoá bỏ sự chênh lệch phát triển giữa các quốc gia, các khu vực kinh
tế trong nền kinh tế thế giới.
+ Củng cố các mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa
thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và công nghiệp.
+ Ổn định và nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
+ Trên cơ sở xây dựng và củng cố các mối quan hệ kinh tế, thương mại
góp phần thúc đẩy sự hợp tác quốc tế, mở rộng giao lưu văn hoá, củng cố hoà
bình, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
+ Thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng chung.
+ Tái đầu tư để bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường đảm bảo sự phát triển bền vững.
* Tác động tiêu cực của thương mại:
Sự phát triển của thương mại một cách tự phát, không có sự quản lý và
định hướng đúng đắn của Nhà nước cũng có thể dẫn tới những tác động tiêu cực.
- Về kinh tế:
+ Sự phát triển thương mại một cách tự phát có thể dẫn đến khủng
hoảng, gây nên sự lãng phí các nguồn lực trên phạm vi toàn xã hội.
+ Chạy theo lợi nhuận và cái lợi ích cục bộ một cách mù quáng đi lên
những hoạt động thương mại bất hợp pháp, cạnh tranh không lành mạnh,
buôn gian bán lận... phá hoại nền kinh tế.
+ Gia tăng cạnh tranh cũng như sự lệ thuộc của nền kinh tế mỗi quốc
gia và bên ngoài...
- Về xã hội:
+ Phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội làm sâu
sắc thêm những mâu thuẫn xã hội.
+ Nguy cơ xâm nhập các lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền du
nhập lối sống và văn hoá ngoại lai xa lạ với lối sống và bản sắc văn hoá dân
tộc.
+ Gia tăng sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển dẫn đến sự bất bình đẳng, làm sâu sắc những mâu thuẫn
giữa các quốc gia.
+ Cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên
nhiều khi đã là nguyên nhân trực tiếp của các xung đột giữa các dân tộc và
giữa các quốc gia.
- Về môi trường tự nhiên:
+ Khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
+ Phá huỷ môi trường tự nhiên và gây ô nhiễm môi trường sống.
Để khai thác những mặt tích cực của thương mại và hạn chế những mặt
tiêu cực của nó, hoạt động thương mại phải vận động theo cơ chế thị trường
và phải chịu sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
1.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại
- Hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại:
Chiến lược phát triển thương mại được xây dựng nhằm đề ra những
mục tiêu phương hướng và hệ thống giải pháp lớn để huy động tối ưu các
nguồn lực cho phát triển thương mại của quốc gia bao gồm: chiến lược
thương mại trong nước và chiến lược thương mại quốc tế trong một thời gain
khá dài (khoảng 10 năm, 20 năm) góp phần thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử. Hệ thống chiến lược
thương mại trong nền kinh tế quốc dân thuộc nội dung quản lý Nhà nước về
thương mại bao gồm: 1. Chiến lược thương mại quốc gia (thường do Bộ
Thương mại xây dựng và được Chính phủ thông qua) thể hiện những quan
điểm chủ đạo chung của Nhà nước đối với thương mại, mục tiêu tổng quát
của ngành thương mại của các giải pháp vĩ mô; 2. Chiến lược thương mại
vùng lãnh thổ là bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế vùng lãnh thổ do
Bộ Thương mại xây dựng; 3. Chiến lược thương mại của tỉnh, thành phố là bộ
phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố.
Quy hoạch phát triển thương mại là một cấp độ thực hiện chiến lược
thương mại nhằm thể hiện rõ ý tưởng của Nhà nước về bố trí lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực thương mại của quốc gia, gồm các nội
dung chủ yếu như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng chung
cho hoạt động thương mại, bố trí nguồn nhân lực và các loại hình chủ thể
tham gia hoạt động thương mại. Hệ thống quy hoạch phát triển thương mại
trong nền kinh tế quốc dân bao gồm: 1. Quy hoạch tổng thể phát triển thương
mại trong nền kinh tế quốc dân; 2. Quy hoạch phát triển thương mại theo
vùng lãnh thổ; 3. Quy hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố; 4.
Quy hoạch phát triển thương mại của các ngành hàng chủ yếu.
Kế hoạch phát triển thương mại mang tính định hướng trong nền kinh
tế quốc dân là việc Nhà nước xác định phương hướng, mục tiêu, cơ cấu phát
triển thương mại và thị trường trong từng giai đoạn (thường là 5 năm gọi là
kế hoạch dài hạn, 2 - 3 năm gọi là kế hoạch trung hạn, 1 năm gọi là kế
hoạch ngắn hạn), cũng như xác định cá biện pháp để đạt mục tiêu đó, đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế trong từng thời đoạn cụ thể. Kế hoạch hoá
thương mại vừa là phương pháp vừa là công cụ quan trọng để Nhà nước
thực hiện vai trò hướng dẫn, định hướng phát triển thương mại và thị
trường trong nước và quốc tế. Mục tiêu của kế hoạch hoá định hướng phát
triển thương mại là nhằm giữ một sự cân đối lớn của thị trường và thương
mại, ổn định thị trường, phát triển lưu thông hàng hoá, phát triển xuất nhập
khẩu (XNK) và lợi nhuận. Đối tượng của kế hoạch phát triển thương mại
bao quát toàn bộ các quá trình kinh tế trong ngành thương mại, cá hoạt
động thương mại trong nước và với nước ngoài, trọng tâm là các quan hệ
tổng cung - tổng cầu, quan hệ tiền hàng, quan hệ cung -cầu từng mặt hàng
thiết yếu, các cơ cấu thương mại chủ yếu.
Kế hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân gồm kế
hoạch phát triển thương mại quốc gia, kế hoạch phát triển thương mại của
vùng lãnh thổ, kế hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố.
Chính sách thương mại thuộc hệ thống chính sách kinh tế của Nhà
nước, là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp,
mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại trong nước và
hoạt động thương mại quốc tế trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các
mục tiêu xác định trong chiến lược phát triển thương mại quốc gia nói riêng,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung trong thời kỳ lịch
sử. Chính sách thương mại được phân thành nhiều chính sách bộ phận, gồm:
chính sách lưu thông hàng hoá, chính sách ngoại thương, chính sách thương
nhân, chính sách phát triển thị trường, chính sách thương mại đối với các
vùng đặc thù (miền núi, vùng sâu, vùng xa...), chính sách thuế quan, chính
sách bảo vệ người tiêu dùng, chính sách hội nhập khu vực và thế giới... Trong
mỗi chính sách, bộ phận nói trên lại được phân nhỏ thành các chính sách
riêng biệt khác nhau. Ví dụ chính sách ngoại thương được phân thành 3 chính
sách bộ phận: chính sách phát triển quan hệ thương mại giữa quốc gia với các
nước, các đối tác thương mại chủ yếu; chính sách xuất khẩu, chính sách nhập
khẩu. Trong chính sách xuất khẩu lại được phân nhánh thành các chính sách
bộ phận như: chính sách thị trường xuất khẩu, chính sách mặt hàng xuất khẩu,
chính sách thương nhân tham gia hoạt động xuất khẩu (quyền kinh doanh xuất
khẩu), chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
- Ban hành các quy định pháp luật và văn bản pháp quy về thương mại:
Nhà nước phải xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp đồng bộ, tạo
môi trường và hành lang pháp lý cho hoạt động thương mại theo yêu cầu của
cơ chế thị trường. Hệ thống luật pháp này bao gồm luật và các văn bản dưới
luật của Chính phủ, Bộ Thương mại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
khác. Bảo đảm tính hệ thống, nhất quán và tương đối ổn định của pháp luật là
khâu trọng yếu đầu tiên của quản lý Nhà nước.
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy định do Nhà nước ban hành tạo
thành một hệ thống thống nhất, bao gồm những văn bản luật và những văn
bản quản lý Nhà nước (dưới luật). Các văn bản luật, pháp quy đều chứa đựng
các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung với toàn xã hội hoặc một
nhóm xã hội và được thực hiện lâu dài.
Hệ thống các văn bản pháp luật của một đất nước, thông thường bao
gồm: hiến pháp, cá đạo luật, bộ luật, nghị quyết của Quốc hội (hoặc nghị viện),
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của
Chủ tịch nước (hoặc tổng thống); nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết
định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ; quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp.
Các văn bản pháp luật về thương mại gồm: 1. Luật thương mại; 2.
Các luật về tổ chức doanh nghiệp (như luật doanh nghiệp, luật phá sản
doanh nghiệp...) các nghị định và quyết định của Chính phủ về tổ chức
doanh nghiệp, các thông tư, công văn, chỉ thị, quyết định của Bộ Thương
mại (hoặc cơ quan tương tự) và các Bộ ngành hữu quan liên quan đến tổ
chức doanh nghiệp; 3. Các văn bản hiện hành về quản lý kinh doanh trong
nước; 4. Các văn bản về xuất nhập khẩu, các văn bản về quản lý thị trường;
5. Các văn bản về đầu tư liên quan đến thương mại; 6. Các văn bản về tiêu
chuẩn chất lượng về quản lý đo lường chất lượng hàng hoá; 7. Các văn bản
về thuế trong nước và về thuế quan; 8. Các văn bản về văn phòng đại diện
thương mại; 9. Các văn bản về hải quan; 10. Các văn bản về hợp đồng kinh
tế và trọng tài thương mại.
- Tổ chức hệ thống quản lý hoạt động thương mại các cấp:
Tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở mỗi
nước có những đặc thù riêng theo quy định của Hiến pháp và luật pháp của
từng nước, đồng thời, tuỳ thuộc vào thiết chế và thể chế chính trị và hành
chính của Chính phủ từng quốc gia. Tuy nhiên điểm chung giữa các nước là
đều có Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng (hoặc Tổng thống ở một số nước).
Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất nắm quyền hành pháp.
Chính phủ ở hầu hết các nước đều có chức năng cơ bản là thống nhất việc quản
lý thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của Nhà nước; lập quy để thực hiện các luật do quyền lập
pháp định ra; quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước; quản lý bộ máy hành
chính Nhà nước và quản lý nhân sự của bộ máy đó; tham gia quá trình lập
pháp.
Cơ cấu tổng thể Nhà nước ở các nước đều do Hiến pháp các nước đó
quy định và chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng thuộc cơ cấu tổ chức và
cơ chế phân bổ quyền lực do hiến pháp quy định. Ở các nước theo chế độ tư
bản chủ nghĩa đều theo nguyên tắc tam quyền phân lập: quyền lập hiến - lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này phân lập theo chức
năng của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước. Do đó việc xác
định chủ thể quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng
không quá phức tạp - đó là Chính phủ. Cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt
động thương mại là cơ cấu của Chính phủ, người đứng đầu cơ quan, Bộ
trưởng là thành viên trong Chính phủ.
Ở một số nước còn phân định cụ thể hơn nữa về chủ thể quản lý vĩ mô
nền kinh tế, ví dụ: Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động
thương mại trong phạm vi cả nước (Hoa Kỳ, Thái Lan, Việt Nam, Trung
Quốc...). Nhưng cũng có một số nước, chức năng quản lý Nhà nước về
thương mại lại được giao cho các Bộ như: Bộ Kinh tế (Pháp), Bộ Công
thương (Nhật Bản và Philippin), Bộ Ngoại giao và Thương mại (Austraylia)...
Vấn đề phân cấp theo ngành, theo lãnh thổ và vùng là vấn đề phức tạp
và luôn luôn là vấn đề thời sự của các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi.
Cơ quan nào của Nhà nước có vai trò trọng tâm của quản lý Nhà nước về kinh
tế ở các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là
vấn đề phức tạp, xong có ý nghĩa quan trọng. Vì đây không phải là vấn đề đơn
lẻ mà nó là kết quả của chuyển đổi đồng bộ các chức năng quản lý Nhà nước
về kinh tế.
Bộ Thương mại có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý Nhà
nước về thương mại hàng hoá và dịch vụ thương mại. Các Bộ, cơ quan ngang
Bộ các cơ quan thuộc Chính phủ khác cũng có nhiệm vụ, quyền hạn quản lý
Nhà nước về thương mại đối với một số lĩnh vực được phân công phụ trách
và có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại để thực hiện việc quản lý Nhà
nước về thương mại theo quy định của Chính phủ. Để giúp cho công tác
nghiên cứu, trường đại học trung tâm đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ thương
mại; các cơ quan tham tấn kinh tế thương mại, đại diện thương mại ở nước
ngoài làm nhiệm vụ môi giới, xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường.
Đối với bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại ở các địa phương
(tỉnh, thành phố, vùng lãnh thổ) ở mỗi nước có những đặc thù riêng, chính
quyền các cấp quản lý thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp
của Chính phủ. Sở Thương mại là cơ quan tham mưu, trực tiếp giúp chính
quyền tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về thương mại ở
địa phương. Đơn vị cuối cùng trong hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về
thương mại.
Ở cấp cơ sở là phòng Thương mại quận, huyện và tổ quản lý thị trường
cấp xã, phường làm nhiệm vụ thi hành luật pháp và các chỉ thị, quy định của
Nhà nước về hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn được giao.
- Kiểm tra, kiểm soát hoạt động thương mại:
Bao gồm những nội dung cụ thể như thanh tra, kiểm tra sự phù hợp của
chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường với: tiêu chuẩn Lào bắt buộc áp
dụng, đăng ký chất lượng hàng hoá, các quy định về an toàn vệ sinh môi
trường. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện những quy định về ghi nhãn sản
phẩm của hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thanh tra, kiểm tra tính hợp
pháp của các dụng cụ đo lường có liên quan đến việc kinh doanh hàng hoá
trên thị trường và hàng hoá gói sẵn trên định lượng. Thanh tra, kiểm tra các
vụ việc về sản xuất hoặc buôn bán hàng giả, buôn lậu, buôn bán không có hoá
đơn trên thị trường. Thanh tra, kiểm soát phòng và chống gian lận thương mại
trên phạm vi cả nước, phạm vi từng địa bàn lãnh thổ,...
1.2.2. Yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương
mại ở Lào
Trong những năm qua CHDCND Lào đã giữ vững và thực hiện đường
lối đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của Lào
- Một là: phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế vào hoạt động
thương mại, trong đó thương mại Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực hiện
chính sách tự do hoá thương mại, khuyến khích mọi thành viên kinh tế tham
gia, khai thác vốn liếng, tái sản xuất, kinh nghiệm nhằm phát triển thương
mại, làm cho thị trường sôi động, hàng hoá đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu
cầu phụ vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ cho
doanh nghiệp thương mại Nhà nước có đủ tiềm lực kinh tế thực hiện vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước nói
chung và thương mại nói riêng là "làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và
giải quyết vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần khác
cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều
tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tàng cho sản xuất xã hội mới" [26, tr. 93].
- Hai là: xác định đúng chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động
thương mại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) là vấn đề rất mới mẻ Lào chưa trải qua, chưa có kinh nghiệm... mặt
khác hoạt động thương mại với tư cách là đối tượng quản lý lại đang quá trình
đổi mới hình thành, phát triển và hoàn thiện. Trong thời gian qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà kinh tế và quản lý đã và
đang góp phần xác định một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học về chức năng
và nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại, trong bước
chuyển sang cơ chế thị trường. Điều rất quan trọng là trong thời gian gần đây,
Bộ Thương mại đã và đang tổ chức việc nghiên cứu kinh tế thương mại, các
công trình nghiên cứu để hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước về thương
mại ở Trung ương đến địa phương. Nhờ đó việc xác định đúng đắn và hoàn
thiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại, sẽ có cơ sở khoa
học và thực tiễn hơn. Mặt khác luật thương mại đã được Quốc hội khoá V kỳ
họp thứ 8 đã thẩm tra ngày 7/10/2005 nhưng chưa thông qua.
- Mở rộng thị trường ngoài nước gắn với việc phát triển ổn định thị
trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh
doanh thương mại trong hiệu quả kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế.
Chủ trương đưa nền kinh tế của Lào vào hội nhập với thị trường thế
giới và khu vực, chuyển hoạt động kinh tế đối ngoại hướng mạnh vào xuất
khẩu dựa trên sự khai thác các lợi thế so sánh là để phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân,
quốc phòng và đời sống nhân dân. Vì vậy trong khi hết sức coi trọng mở rộng
thị trường ngoài nước, hoạt động thương mại phải lấy thị trường trong nước
làm cơ sở, gắn ngoại thương với nội thương, đặt các hoạt động thương mại và
xuất nhập khẩu trong yêu cầu tạo tiền đề và cơ sở vật chất để thúc đẩy sản
xuất, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định nâng cao đời sống,
bảo đảm hiệu quả và tăng trưởng lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
- Việc quản lý Nhà nước phải thể hiện trong toàn bộ sự vận động lưu
thông hàng hoá. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải chủ động tác động đến
mọi hoạt động của các doanh nghiệp. Nguyên tắc chung để chỉ đạo là khuyến
khích, phát huy mạnh mẽ các mặt tích cực, đồng thời có biện pháp hạn chế
các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với
tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển.
Nhân tố quyết định nhất bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường là vai trò quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng, trong đó kế hoạch và thị trường kết hợp chặt chẽ với nhau
trong một thể thống nhất, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau. Sự vận động của kinh tế thị
trường trong mấy năm qua đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc rằng thông qua
thị trường và hoạt động thương mại sẽ diễn ra quá trình phân phối và phân
phối lại thu nhập quốc dân, vì vậy sự công bằng xã hội trong nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không chỉ được thực hiện
thông qua phân phối trực tiếp kết quả sản xuất, mà còn được thực hiện ở khâu
phân phối lưu thông qua thị trường, giá cả bằng pháp luật, các định chế, ác
chính sách; bằng các định hướng trong quy hoạch và kế hoạch phát triển và
bằng kiểm kê, kiểm soát Nhà nước tổ chức về thiết lập trật tự thị trường, thúc
đẩy hình thành vận động lưu thông hàng hoá giữa các vùng các miền; khuyến
khích và phát huy các mặt tích cực của cơ chế thị trường đồng thời có biện
pháp ngăn ngừa xu hướng tự phát, nạn đầu cơ buôn lậu và hành vi kinh doanh
trái phép; hạn chế sự phân hoá giàu nghèo quá mức, bảo đảm tăng trưởng
kinh tế kết hợp với tiến bộ và công bằng xã hội.
1.3. TÌM HIỂU KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC VẬN DỤNG Ở LÀO
1.3.1. Kinh nghiệm đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động
thương mại của Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Đại hội lần thứ VI
của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra quan điểm, đường lối đổi mới kinh tế - xã
hội sâu sắc và toàn diện. Đây là một thực sự cách mạng đổi mới triệt để được
tiến hành đồng thời trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn
chiến lược phát triển hợp lý. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực, căn cứ vào
điều kiện cụ thể của đất nước, Việt Nam lựa chọn thương mại như sau:
Thứ nhất, Việt Nam đã lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá hướng về
xuất khẩu, đồng thời thực hiện hợp lý chính sách thay thế hàng nhập khẩu có
hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, Việt Nam thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển có trọng
điểm, tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm có điều kiện thuận lợi,
có thế mạnh, tiến tới phát triển các vùng trong cả nước. Nhưng trong giai
đoạn đầu giành ưu tiên cho ngành và vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu
tư cao và thu hồi vốn nhanh. Qua đó tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn và đáp
ứng nhu cầu thị trường trong nước.
Thứ ba, Việt Nam tập trung đầu tư vốn và công nghệ xây dựng các
doanh nghiệp Nhà nước với quy mô lớn đủ khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, đồng thời phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc
mọi thành phần kinh tế trong và ngoài Nhà nước.
Thứ tư, Việt Nam thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển công nghệ tiên
tiến và công nghệ cao, xử lý thoả đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò
của thông tin trong quản lý và chất xám trong nền kinh tế tri thức.
Thứ năm, Việt Nam thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế quốc dân ngay từ rất sớm. Phát triển các ngành công nghiệp phục
vụ công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn đầu của quá trình
công nghiệp hoá đất nước. Vì Việt Nam đã có bài học kinh nghiệm của các
nước về tầm quan trọng của nông nghiệp trong việc ổn định nền kinh tế và đời
sống nhân dân.
Thứ sáu, đi đôi với việc xác định lâu dài, Nhà nước và Chính phủ Việt
Nam đã xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động cho từng thời kỳ. Đề
ra chỉ tiêu kế hoạch và phương thức thực hiện kế hoạch của Chính phủ và Bộ
ngành, địa phương theo mô hình kinh tế mới được tổ chức theo quan điểm kế
hoạch hoá mang tính định hướng, kế hoạch không phải chỉ giao chỉ tiêu để
thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án.
Những đổi mới quan trọng của Việt Nam về quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực kinh tế và thương mại thời kỳ mở cửa và hội nhập có thể khái quát như
sau:
+ Về đổi mới cơ chế quản lý: Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế -
chính trị của mình tiếp tục quá trình tự do hoá thương mại, thực hiện xoá bỏ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (hay còn gọi là cơ chế xin
cho) chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Giảm
dần độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước và xây dựng các đạo luật theo tinh
thần đảm bảo bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế, chống
cửa quyền, độc quyền tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh
nghiệp, tạo lập môi trường pháp lý (hay còn gọi là sân chơi) chung, giảm
phân biệt đối xử. Nhà nước tạo điều kiện, tiền đề cho sự ra đời hoạt động của
các thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị
trường lao động, thị trường khoa học công nghệ...
+ Về xây dựng chính sách thương mại: Nhà nước đóng vai trò tạo lập
môi trường và chính sách quản lý phù hợp với quy luật kinh tế thị trường,
hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh
doanh theo luật pháp và có hiệu quả. Nhà nước ban hành các chính sách kinh
tế, thương mại và đầu tư thông thoáng hấp dẫn để khuyến khích các doanh
nghiệp trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất hàng hoá phục vụ nhu
cầu trong nước và tăng kim ngạch xuất khẩu, đổi mới đồng bộ các chính sách
thương mại và các chính sách kinh tế liên quan đến thương mại, gồm:
Đổi mới chính sách xuất nhập khẩu đối với thương nhân: Nghị định
64/HĐBT (1989) là bước đột phá đầu tiên về quyền kinh doanh, đã xoá bỏ
độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đối với hoạt động ngoại
thương mở rộng quyền cho các doanh nghiệp tư nhân được tham gia XNK.
Ngày 10/5/1997, Luật thương mại Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và
tiếp sau đó Chính phủ cũng đã ra Nghị định số 57/1998/NĐ-CP xoá bỏ chế độ
cấp phép kinh doanh XNK, nhưng vẫn có giới hạn trong phạm vi ngành nghề
nhất định. Khi Luật doanh nghiệp ra đời đã mở rộng quyền tự do kinh doanh
XNK cho mọi đối tượng tham gia sản xuất kinh doanh. Ngày 29/4/1999 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/1999/CP-TTg quy định "đẩy
mạnh xuất khẩu là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành và mọi tổ chức". Nghị
định 44/CP (2001) về chính sách thương nhân, mở rộng quyền kinh doanh
thương mại cho mọi thương nhân đều được trực tiếp XNK tất cả các loại hàng
hoá. Đây là một bước phát triển mới của tự do hoá thương mại trong nước.
Đổi mới chính sách thương mại thu hút, khuyến khích đầu tư sản xuất
kinh doanh XNK:
Ngày 8/7/1999 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ra Nghị định số
51/1999/NĐ-CP quy định chính sách ưu đãi với các dự án sản xuất hàng hoá
xuất khẩu.
Ngày 3/2/2000 Chính phủ Việt Nam đã có Nghị định số 03/2000/NĐ-
CP xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thay vào đó là thủ tục đăng ký
kinh doanh.
Cho đến ngày 31/7/2000 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam lại ra chính
sách ưu đãi mới, đó là Nghị định số 24/2000/CĐ-CP quy định chính sách ưu
đãi với các dự án sản xuất hàng hoá xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu.
+ Về cơ chế điều hành XNK, Chính phủ Việt Nam đã cải tiến mạnh mẽ
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK trong thời kỳ mới, phù hợp
với xu thế hội nhập thương mại khu vực và quốc tế.
Đổi mới cơ chế điều hành XNK theo hướng từ quy định từng năm sang
quy định cho một thời gian dài là 5 năm để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
chủ động hoạch định chiến lược và phương án kinh doanh dài hạn. Tại Quyết
định số 46/QĐ-TTg ngày 4/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã xoá
bỏ hầu hết các hạn chế định lượng về hàng hoá XNK, nhập khẩu 2001 - 2005.
Những mặt hàng này sẽ cón duy trì sự quản lý của Bộ Thương mại và hàng hoá
thuộc diện quản lý của 07 chuyên ngành do Bộ chủ quản quản lý. Cho đến nay
về hàng xuất khẩu chỉ còn 2 mặt hàng phải cấp giấy phép xuất khẩu, về hàng
nhập khẩu chỉ còn 8 mặt hàng còn phải cấp giấy phép nhập khẩu.
Nhằm tạo lập môi trường thuận lợi và giảm phiền hà cho nhân dân và
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và XNK, trong năm 2000 Chính phủ Việt
Nam đã xoá bỏ 165 loại giấy phép kinh doanh trong cả nước, đến năm 2003
Chính phủ Việt Nam đã xoá bỏ thêm 246 giấy phép con nữa, trong đó có giấy
phép về quản lý thương mại, tạo ra một bước đột phá kỷ lục chưa từng có
trong lịch sử cải cách quản lý Nhà nước về kinh tế ở Việt Nam.
Trong tiến trình hội nhập và thực hiện chính sách tự do hoá thương
mại, tại cuộc toạ đàm ngày 13/8/2003 Chính phủ Việt Nam đã sáng suốt kết
hợp vận dụng hệ thống các cơ quan hoạt động ngoại giao đồng thời làm
nhiệm vụ kinh tế đối ngoại, các nhà ngoại giao đồng thời cũng là nhà kinh tế,
thương mại, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và xúc tiến thương mại, tìm
kiếm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các chính sách hỗ trợ
đầu tư. Nhà nước đầu tư, cung cấp hàng hoá công cộng, tạo môi trường đầu tư
hấp dẫn, ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh thương mại;
Nhà nước Trung ương cho phép các tỉnh sử dụng toàn bộ (100%) nguồn thu
qua các cửa khẩu để đầu tư phát triển hạ tầng và khu kinh tế cửa khẩu biên
giới; tỉnh, thành phố được quyền ban hành chính sách ưu đãi riêng của tỉnh
nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, nổi bật nhất là những
chính sách sau đây:
- Chính sách thưởng xuất khẩu, hoàn thuế xuất khẩu 5% - 10% doanh số.
- Chính sách tái đầu tư cho doanh nghiệp, Nhà nước cho phép các địa
phương trích 5% - 18% tổng số thuế doanh nghiệp đã nộp vào ngân sách của
tỉnh tái đầu tư lại cho doanh nghiệp.
- Chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư. Hay chính sách xây dựng cánh đồng
50 triệu đồng bằng cách kết hợp 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và
nhà doanh nghiệp, chủ yếu và quan trọng nhất là nhà thương mại, vì vấn đề
quyết định của quá trình sản xuất hàng hoá là vấn đề thị trường đầu ra.
+ Về đổi mới chính sách phát triển thương mại đối với miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng hải đảo và chính sách trợ giá các hàng hoá đối với khu vực
miền núi, vùng đồng bào dân tộc tại Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết
định 72/HĐBT, Chỉ thị 525/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ Việt
Nam đã ra Văn bản số 1960/KTTH (1994) về một số chính sách đối với việc
đưa hàng lên miền núi phục vụ đồng bào miền núi - dân tộc. Quy định chế độ
trợ cấp không thu tiền 4 mặt hàng chính sách và bổ sung thêm 2 mặt trợ giá,
trợ cước là giống cây tròng và than. Nghị định số 22/CP (1998) của Chính
phủ về phát triển thương mại miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc, trong
đó đã quy định bổ sung về chính sách trợ giá, trợ cước để bán hàng chính sách
xã hội, mua sản phẩm sản xuất ở miền núi, hải đảo và vùng đồng bào các dân
tộc.
Cho đến nay cuộc cải cách cơ chế và chính sách kinh tế của Việt Nam
vẫn tiếp tục không ngừng để tạo lập môi trường kinh doanh thương mại cho
mọi thành phần kinh tế để theo tiến kịp các nước tiên tiến thế giới. Đặc biệt là
trong kỳ họp thứ III (tháng 5 -6/2003) Quốc hội khoá XI của Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam lại một lần nữa tiến hành cuộc cải cách sửa đổi luật kinh tế
nói chung và luật doanh nghiệp nói riêng (trong đó vấn đề cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước; tính độc lập của doanh nghiệp và trách nhiệm, quyền hạn
của giám đốc; bỏ chế độ "Bộ chủ quản đối với doanh nghiệp"... được làm rõ),
để phù hợp tình hình kinh tế - xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường trong nước
và trên thị trường khu vực và quốc tế.
Nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng, đổi mới cơ chế, chính sách quản
lý của Nhà nước về kinh tế nói chung, cải tiến phương thức sản xuất Nhà
nước về thương mại nói riêng phù hợp điều kiện thực tiễn của đất nước và xu
thế tự do hoá thương mại, hiện nay Việt Nam đã đạt được thành quả cao trong
sự nghiệp phát triển kinh tế, làm cho GDP không ngừng tăng lên nhanh, xuất
khẩu tăng mạnh mẽ, dự trữ ngoại tệ vững chắc, đời sống nhân dân không
ngừng được nâng cao. Đặc biệt là Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ hai và xuất khẩu cà phê đứng thứ ba của thế giới. Uy tín hàng hoá
của Việt Nam ngày càng cao trên thị trường quốc tế. Xây dựng được đội ngũ
doanh nghiệp khá vững mạnh, trở thành lực lượng sản xuất mới tiên phong
tham gia hội nhập thương mại quốc tế.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm có thể vận dụng ở Lào nói chung và tỉnh
Bó Kẹo nói riêng
Qua thực tiễn đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại ở Việt Nam đã
trình bày ở trên ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm để vận dụng ở Lào nói
chung và tỉnh Bó Kẹo nói riêng như sau:
Một là, chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường không được xem nhẹ mà phải đề cao vai trò của Nhà nước. Cái
mới thành công về đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại trong những thập
kỷ trước đều có sự kết hợp hợp lý giữa điều tiết của Nhà nước và điều tiết của
thị trường. Nước này đều nhận thức đúng đắn vai trò của Nhà nước trong
quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hai là, đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại luôn được coi là trọng
tâm của đổi mới. Việt Nam đã sử dụng thương mại như là khâu đột phá cho
toàn bộ quá trình đổi mới kinh tế. Phải kiên trì đường lối đối ngoại rộng mở,
phát triển nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc
tế, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, xoá bỏ độc quyền ngoại thương, tự
do hoá thương mại, tự do hoá lưu thông hàng hoá trên thị trường trong nước.
Ba là, cần phải có lộ trình cho quá trình đổi mới quản lý. Việt Nam đã
xây dựng và thực thi chiến lược thương mại từ thay thế nhập khẩu đến đầu tư
hướng vào sản xuất. Sự bảo hộ quá mức và tràn lan hàng hoá trong nước được
giảm dần. Chính sách bảo hộ có nguyên tắc và có điều kiện được áp dụng và
xoá bỏ dần các hàng rào phi thuế quan. Chế độ nhiều tỷ giá và tỷ giá cứng
được loại bỏ và thay vào đó là tỷ giá được hình thành theo quan hệ thị trường.
Bốn là, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và
chính sách thương mại cho phù hợp với sự phát triển trong nước và bối cảnh
quốc tế. Nhà nước phải tạo dựng được môi trường và hành lang pháp lý thuận
lợi cho các nhà kinh doanh. Bảo đảm sự công khai, minh bạch trong chính
sách. Đồng thời đổi mới toàn diện, đồng bộ nội dung quản lý Nhà nước về
thương mại, đổi mới sử dụng các phương pháp và các công cụ, biện pháp
quản lý và điều tiết hoạt động thương mại, đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế
hoạt động và cán bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại.
Năm là, giảm sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào thị trường và
thương mại. Củng cố và tăng cường thương mại Nhà nước như công cụ để
điều tiết thị trường. Nhà nước quản lý và điều tiết kinh tế nói chung, thương
mại nói riêng chủ yếu bằng các công cụ, chính sách vĩ mô. Phân định rõ chức
năng quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng theo
hướng tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh
doanh của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại
chuyển hẳn sang hoạch định luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển thương mại.
Sáu là, bài học của Việt Nam kiên định đường lối kinh tế độc lập tự
chủ, chủ động hội nhập thương mại thế giới và khu vực đồng thời giữ vững
ổn định chính trị và kinh tế trong nước, bình ổn thị trường nội địa; nhất quán
coi xuất khẩu là hướng ưu tiên trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại,
trên cơ sở đó xác lập chính sách ưu đãi thích hợp, phát triển thương mại
đường biên, phát triển các khu công nghiệp, khu thương mại tự do... là rất bổ
ích đối với Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nói chung và Bó Kẹo nói riêng.
Bảy là, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998 là một bài
học của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nói chung, Bó Kẹo nói riêng cần
phải rút kinh nghiệm và sớm điều chỉnh cơ chế chính sách và cơ cấu kinh tế,
chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư trong nước nói chung, Bó Kẹo nói
riêng và thu hút đầu tư nước ngoài và Lào nói chung, Bó Kẹo nói riêng sẽ hợp
lý hơn, phát huy nội lực, tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế nhằm
phát triển thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu bảo đảm quyền tự do kinh doanh
của các doanh nghiệp, mở rộng quyền kinh doanh XNK trực tiếp cho tất cả
các doanh nghiệp, các thương nhân chưa phải là doanh nghiệp, không hạn chế
về ngành nghề, mặt hàng đăng ký kinh doanh, nếu có thị trường và mặt hàng
xuất khẩu thì đều được trực tiếp XNK theo pháp luật, phát huy lợi thế so sánh
của Lào là yếu tố nhất định.
Tám là, Nhà nước đặc biệt quan tâm, hỗ trợ phát triển thương mại ở
vùng núi, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa còn khó khăn về
kinh tế Nhà nước có chính sách đưa hàng lên vùng núi cao và hỗ trợ tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá của vùng sâu, vùng xa.
Chín là, Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng kế cấu
hạ tầng cho phát triển thương mại, hỗ trợ tài chính cho phát triển thương mại
nông thôn, miền núi, cho đẩy mạnh xuất khẩu... cần được thực hiện một cách
có hiệu quả, thiết thực, tránh phân tán, chồng chéo. Đặc biệt là việc quản lý,
sử dụng các loại quỹ hỗ trợ cùng một lớp đối tượng cần được tập trung vào
một đổi mới để thống nhất quản lý để đạt hiệu quả cao.
Những kinh nghiệm thành công của Việt Nam nói trên đều là bài học
kinh nghiệm vô giá, là cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu và hoạch
định chính sách, cơ chế quản lý thương mại. Vì đó là bài học kinh nghiệm
thiết thực những nước bạn gần gũi với Lào, có nhiều điểm tương đồng có thể
học tập và vận dụng được.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÓ KẸO CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÓ
KẸO
2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hoá tác động
đến hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo
- Vị trí địa lý và địa hình:
Ngày 15 tháng 6 năm 1983, tỉnh Bó Kẹo được tái lập sau hơn 20 năm,
tách ra khỏi tỉnh Luông Nam Thà. Bó Kẹo là tỉnh miền núi, chiếm 70% nằm ở
phía Tây Bắc của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, có diện tích 6.169 km2
(61.690.000 ha), có đường biên giới với các nước láng giềng: Phía tây giáp
tỉnh Chiêng Rai Vương quốc Thái Lan, dài 145 km, với đường bộ đất liền dài
48 km, đường sông Mê Kông dài 97 km. Phía đông bắc giáp Mianma. Đường
sông Mê Kông dài 98 km, phía đông giáp tỉnh Luông Nam Thà dài 100 km và
tỉnh Ou Dom Xay dài 97 km và phía nam giáp tỉnh Sayabauly dài 35 km.
Địa hình Bó Kẹo bị chia cắt khá phức tạp do núi chiếm phần lớn, có
sông ngòi đan xen chạy qua như Nam Thà, Nam Nhủ, Nam Ngào, Nam Nhôn,
Nam Kâng, Nam Tin, Nam Khả, Nam Hạt, Nam Chòng và Nam Can. Có
nhiều khúc tạo hành thác, ghềnh thuận lợi xây dựng thuỷ điện và thuỷ lợi
phục vụ cho việc tưới tiêu và sử dụng nhân sinh hàng ngày. Quan trọng nhất
có 8 vùng đồng bằng như: vùng đồng bằng Thông Phảo Hạo diện tích 11,600
ha, vùng đồng bằng Thông Ngua Đeng diện tích 14,600 ha, vùng đồng bằng
Phu U Đôm diện tích 8.400 ha, vùng đồng bằng Chiêng Tòng diện tích 800
ha... rất phù hợp với phục vụ cho sản xuất hàng hoá. Ngoài ra còn có nhiều
địa hình bằng phẳng dọc các ven sông có tổng diện tích 12.200 ha phù hợp
với
việc sản xuất, diện tích rừng chiếm 57,7% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh,
còn vùng cao và miền núi phù hợp với trồng cây công nghiệp như: trồng cây
tếch, cây hương trầm, gia nhân... và chăn nuôi như nuôi bò, nuôi trâu...
Ngoài ra, còn có các khoáng sản, đá quý các loại như: Mỏ ngọc quý,
vàng, sắt, tôn, đất keo, măng ka nét... Trong tỉnh còn có nhiều khu du lịch: du
lịch lịch sử và du lịch văn hoá.
- Dân cư và nguồn lực:
Tỉnh Bó Kẹo có dân số 145.919 người, nam 72.313 người, nữ 73.606
người, mật độ bình quân là 24 người/km2, có 5 huyện, 154 bản và 25.632 hộ
gia đình. Trên địa bàn tỉnh có 3 dân tộc lớn: Lào Lùm, Lào Thâng và Lào
Xung có 15 bộ tộc nhỏ, trong đó dân số chiếm nhiều nhất là bộ tộc Lào Lùm
65%. Các dân tộc đó có phong tục tập quán, tiếng nói và trình độ văn hoá
khác nhau, phần lớn là theo đạo phật, các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động thương mại. Theo thống kê của Sở Kế hoạch và đầu tư cho biết
năm 2005 có hai huyện, 111 bản và 5.147 hộ gia đình còn nghèo.
Bó Kẹo có bờ sông Mê Kông khá dài giáp với Thái Lan và Myanmar.
Với điều kiện thuận lợi đó giúp cho tỉnh có khả năng trao đổi với Thái Lan và
Myanmar rất thuận lợi, tạo điều kiện cho hàng hoá của tỉnh có thể xuất khẩu
sang Thái Lan và Myanmar. Và mua hàng hoá của Thái Lan và Myanmar với
giá rẻ. Ngoài ra, Bó Kẹo có cửa khẩu chính thức quốc tế và cửa khẩu cấp địa
phương với Thái Lan và Myanmar, qua đoạn sông Mê Kông và tuyến đường
quốc lộ A3, con đường này nối từ Thái Lan đi Trung Quốc, Myanmar và Việt
Nam, đường sông Mê Kông chạy thuyền đi lại với nhau cả 5 nước thành viên
sông Mê Kông. Đường thuỷ và đường bộ có vai trò rất quan trọng đối với vận
tải đường thuỷ, đường bộ và du lịch để mở rộng quan hệ với các nước trong
khu vực. Bó Kẹo đều có điều kiện thuận dịch vụ hàng qua cảnh và xuất nhập
cảnh khách du lịch đi nước thứ ba.
- Đặc điểm kinh tế - xã hội văn hoá.
Mật độ dân số phân bố không đều, riêng dân số đô thị tập trung gần
40% ở Huổi Sai. Dân cư và các cơ sở sản xuất chỉ tập trung ở một số vùng có
mạng lưới giao thông thuận tiện và có sự trao đổi hàng hoá, chủ yếu là sản
phẩm tự nhiên, vì sự trao đổi còn hạn chế trong khu vực chưa phát triển rộng
rãi trên quy mô quốc gia và quốc tế, nên chưa kích thích sản xuất phát triển.
Dân số phần lớn sống ở vùng nông thôn trong đó 1/3 sống ở vùng cao và
miền núi quy tụ thành những bản nhỏ vài chục hộ cách xa nhau. Sự phân bố
dân số giữa đồng bằng và miền núi, giữa thị xã và nông thôn không đồng đều
dẫn đến tình trạng thiếu, thừa đất giả tạo. Chẳng hạn, chỉ tính hai huyện cần
bờ sông Mê Kông như huyện Huổi Sai và huyện Tộn Phầng cũng đã chiếm
tới 50% tổng số dân cả tỉnh, về mật độ dân số càng có sự chênh lệch lớn:
huyện Huổi Xai 23 người/km2, huyện Tộn Phẩng 19 người/km2, còn ba huyện
trung bình mỗi huyện 16 người/km2; tính chất không đồng đều của sự phân bố
dân số cũng có ảnh hưởng nhất định đến sản xuất nông nghiệp.
Trong điều kiện đất rộng người thừa, tài nguyên thiên nhiên phong phú,
người dân tốn ít thời gian và công sức tạo ra tư liệu sinh hoạt cần thiết cho đời
sống. Các dân tộc thiểu số ở tỉnh có những nét riêng: một nóc nhà là một gia
đình được coi là một đơn vị sản xuất hoàn chỉnh riêng rẽ, một cặp vợ chồng
hoặc một gia đình với công cụ lao động thô sơ có thể làm ra một khối lượng
sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tối thiểu cho một cuộc sống hết sức đơn
giản và nghèo nàn lạc hậu, ngoài ra còn dành một ít để chi phí, nghi lễ đạo
phật. Do đó tâm lý tự thoả mãn ý thức dành dụm tiết kiệm sản phẩm chưa ăn
sâu và tiềm thức của họ, tính ỷ lại vào sự ưu đãi của thiên còn tồn tại dai dẳng
đến ngày nay.
CHDCND Lào nói chung ở Bó Kẹo nói riêng vừa mới thoát thai từ chế
độ phong kiến, phân quyền, chưa qua giai đoạn phát triển TBCN tiến lên xây
dựng đất nước định hướng XHCN trên nền móng kinh tế tự nhiên. Nền kinh
tế nói chung nông nghiệp nói riêng đang trong tình trạng lạc hậu và thấp kém,
mất cân đối nghiêm trọng. Cả tỉnh có 45 nghìn lao động, trong đó có 75% là
lao động - nông nghiệp. Bình quân mỗi gia đình nông dân chỉ sử dụng 35%
quỹ thời gian lao động trong năm, hầu hết dân cư đều tập trung ở nông thôn,
chăn nuôi kiểu thả rông. Nghề thủ công chưa tách hẳn ra khỏi nông nghiệp.
Trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh rất thấp kém, phân công
lao động - xã hội chưa phát triển, công cụ lao động thô sơ, trình độ khoa học -
kỹ thuật và chuyên môn của người lao động còn thấp, đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật và công nhân ngành nghề quá ít, năng suất lao động thấp, chất
lượng sản phẩm kém, nhập khẩu - nhiều hơn xuất khẩu, công nghiệp hầu như
chưa có gì.
Lương thực, tính theo bình quân đầu người đạt 391kg thóc/năm. Có thể
nói, sản xuất lương thực trong tỉnh thừa ăn, tiêu thụ nội địa, xuất khẩu cho
Thái Lan và Trung Quốc, sản phẩm ngô xuất khẩu 30.000 tấn/năm. Về thu
nhập quốc dân bình quân đầu người trong tỉnh chỉ đạt 365 USD/người/năm
(còn thấp so với một số tỉnh trong nước và tiêu chuẩn quốc tế).
Trình độ văn hoá - xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng và
mức sống của xã hội không chỉ ảnh hưởng gián tiếp mà còn ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình hình thành và phát triển các hình thức kinh tế gia đình nông
dân. Chẳng những thế, đôi khi các nhân tố xã hội lạc hậu lại khó vượt lên vào
trình độ xã hội văn minh. Nhưng mà trình độ văn hoá của nhân dân thấp kém,
phong tục mê tín dị đoan nặng nề, thì thường vật chất chưa thể thắng thế ngay
tức khắc các phong tục lạc hậu, mà phải có thời gian để họ tự nhận thức. Từ
đó nói rằng những nhân tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạt động
thương mại ở trong tỉnh.
Tuy điểm xuất phát về kinh tế - văn hoá - xã hội thấp nhưng quá trình
thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ, xã hội Lào đã có sự đổi mới từ một chế
độ thuộc địa phong kiến chuyển sang chế độ dân chủ nhân dân. Chính quyền
đã thuộc về tay nhân dân, nhà nước là người đại diện cho nhân dân quản lý tất
cả tài nguyên thiên nhiên và nắm lấy những cơ sở kinh tế quan trọng với kinh
nghiệm của các nước đi trước, nhất định Đảng NDCM Lào sẽ đề ra được
những chính sách thích hợp nhằm đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt
động thương mại cả nước nói chung và Bó Kẹo nói riêng.
- Đặc điểm sản xuất nông nghiệp:
Sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bó Kẹo chủ yếu là của hộ gia đình nông
dân, Nhà nước khuyến khích nông dân tiến hành sản xuất trồng trọt và chăn
nuôi, chuyển từ lực lượng sản xuất truyền thống thô sơ, phụ thuộc vào tự
nhiên sang lực lượng sản xuất, ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới, chuyển sản
xuất mang tính tự cung tự cấp sang sản xuất mang tính xã hội, nghĩa là nông
dân vừa sản xuất cho mình; vừa sản xuất hàng hoá để bán. Trong những năm
đổi mới, ở tỉnh Bó Kẹo, Đảng bộ và chính quyền cấp tỉnh đã quan tâm khuyến
khích tạo điều kiện cho nông dân sản xuất hàng hoá nông nghiệp bằng cách
xây dựng hệ thống thuỷ lợi, xây dựng giao thông vận tải, xây dựng chợ mua
bán sản phẩm nông nghiệp, xây dựng ngân hàng khuyến nông để cho nông
dân vay vốn bằng hiện vật và tiền tệ trong thời gian ngắn hạn và dài hạn với
tỷ lệ lãi thấp. Mặt khác, Nhà nước đã đưa cán bộ chuyên môn nông - lâm
nghiệp tổ chức tuyên truyền giới thiệu và giúp đỡ nông dân vận dụng lực
lượng sản xuất và khoa học kỹ thuật mới vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm qua, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh đã phát triển nhanh
chóng, nhất là lĩnh vực trồng trọt.
Trong 5 năm (2000 - 2005) phong trào sản xuất nông nghiệp của nông
dân đã sôi nổi, phong trào ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới đã phát triển
rộng rãi, sản phẩm nông nghiệp đã tăng lên chiếm 55,33% của GDP, cuộc
sống của nhân dân được cải thiện tốt hơn.
Diện tích ruộng tăng 13.098 ha năm 2005 so với năm 2000, tăng 27%
trong đó diện tích lúa mùa 12.498 ha năm 2005 so với năm 2000 tăng 2.309
ha bằng 23%, diện tích lúa chiêm tăng 600 ha năm 2005 so với năm 2000 tăng
gấp 11 lần. Tổng sản lượng tăng 56.719 tấn năm 2005, so với năm 2000
(49.385) tăng 7.334 tấn bằng 15 %, bình quân đầu người 391 kg/người.
Thúc đẩy nông dân trồng trọt và chăn nuôi, diện tích sản xuất hàng hoá
8.085 ha, năm 2005 so với năm 2000 tăng gấp 8 lần, sản lượng bằng 30.000
năm 2005, so với năm 2000 tăng 83%. Chăn nuôi của nông dân hiện tại có số
con trâu 20.812 con năm 2005, giảm 25% so với năm 2000, bò 24.123 con;
năm 2005 so với năm 2000 tăng 48%, gia cầm, thuỷ cầm 369.489 con năm
2005, so với năm2000 giảm 32%.
Mạng lưới thuỷ lợi vừa và nhỏ thô sơ tổng số 1.352 chi nhánh, có thể
phục vụ cho diện tích tưới tiêu được 10.475 ha mùa mưa trong đó thuỷ lợi
kiên cố 48 chi nhánh tưới tiêu được 7.497 ha [37, tr.8].
- Đặc điểm sản xuất công nghiệp và dịch vụ:
Sản xuất công nghiệp có sự tăng trưởng khá, nhịp độ tăng trưởng bình
quân hàng năm khoảng 10,18%. Một số sản phẩm tăng trên địa bàn có tốc độ
tăng nhanh, nhà máy, xí nghiệp tổng số 76 xưởng, trong đó quy mô xưởng,
quy mô vừa 13 xưởng; quy mô nhỏ 63 xưởng. Nhà máy lắp ráp xe máy 1
xưởng có tổng giá trị đầu tư là 1.620 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 16.917 tỷ
kíp, tổng giá trị lưu thông 18.870 tỷ kíp. Có xí nghiệp lắp đặt bật lửa ga 1
xưởng, tổng giá trị đầu tư 5.405 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 1.701 tỷ kíp,
tổng giá trị lưu thông 2.530 tỷ kíp. Các xí nghiệp chế biến 70 xưởng, tổng
giá trị đầu tư 28.759 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 1.588 tỷ kíp, tổng giá trị lưu
thông 2.603 tỷ kíp [37, tr.11].
Về mạng lưới điện hiện nay hai huyện được tiêu dùng điện 96 bản
chiếm 27% trong tổng số 135 bản của tỉnh.
Về mạng lưới giao thông: trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước
đã có chính sách tập trung vốn và huy động vốn trong dân để xây dựng những
tuyến đường liên huyện, liên bản và liên tỉnh. Hiện nay cả tỉnh có tất cả 35
cây cầu (trong đó có 10 cầu bê tông, 5 cầu sắt, 50 cầu gỗ) với chiều dài 203
km, tổng số xây dựng 92,48 tỷ kíp, trong đó vốn của nước ngoài 59,68 tỷ kíp.
Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh Bó Kẹo tạo điều kiện thuận lợi trong
việc đi lại, vận chuyển hàng hoá trong cả hai mùa.
Mạng lưới thông tin liên lạc của tỉnh Bó Kẹo đến nay nhìn chung vẫn
còn nhiều yếu kém. Mạng lưới này tuy đã đảm bảo thông suốt thông tin liên
lạc cho việc lưu thông hàng hoá, đáp ứng được nhu cầu của an ninh quốc
phòng, nhưng vẫn còn rất lạc hậu. Đến năm 2005 số điện thoại trên toàn tỉnh
mới được khoảng 3% dân số kể cả điện thoại của cơ quan nhà nước. Toàn tỉnh
hiện nay có 5 bưu cục, do vậy có rất nhiều làng chưa có điện thoại. Do vậy có
thể nói hệ thống thông tin liên lạc cần được mở rộng nhằm phục vụ ngày càng
tốt hơn nữa cho sản xuất và lưu thông hàng hoá, cũng như yêu cầu của an
ninh quốc phòng.
- Đặc điểm thị trường:
Thị trường Bó Kẹo đa dạng và phong phú, nhất là trên địa bàn tỉnh có
nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp tiểu thủ của địa
phương, cả trong nước và nước ngoài nên dịch vụ thương mại phục vụ sản
xuất cung ứng vật tư, nguyên nhiên vật liệu có thị trường, có thị trường vừa
và nhỏ.Hoạt động thương mại trên địa bàn hiện nay mới chỉ đáp ứng được 30-
35% nhu cầu đó. Bó Kẹo có biên giới giáp Thái Lan, Myanma và gần Trung
Quốc, là thị trường tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài, phần lớn là hàng hoá
nhập khẩu do sản xuất trong nước chưa phát triển nói chung Bó Kẹo nói
riêng. Cho nên thị trường trên địa bàn tỉnh, thị trường nông thôn và thị trường
vùng sâu, vùng xa đều là thị trường tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài chiếm
trên 90%. Sản phẩm nông nghiệp - công nghiệp sản xuất phục vụ trong tỉnh
đáp ứng được chỉ có gạo, nước uống, gạch, thịt trâu, thịt bò và thịt lợn, sản
xuất một số lương thực thực phẩm theo mùa như các loại rau. Thị trường vốn
ở Bó Kẹo cũng có bước phát triển. Trên địa bàn tỉnh có hệ thống ngân hàng
chuyên doanh như: Chi nhánh ngân hàng phát triển, chi nhánh ngân hàng
khuyến nông và dịch vụ. Năm 2003 - 2004 tổng vốn huy động tại chỗ đạt
41,39 tỷ kíp, tổng vốn cho vay các thành phần kinh tế đạt 1,7 tỷ kíp. Nhìn
chung hoạt động thị trường vốn đảm bảo chính sách của nhà nước, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống nhân dân.
2.1.2. Thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thương mại
2.1.2.1. Thuận lợi
Một là, Bó Kẹo nằm trên trục quốc lộ A3, trục giao thông đường bộ
huyết mạch nối cửa khẩu với các tỉnh miền Bắc của Vương quốc Thái Lan và
Myanmar và trở thành trung tâm xuất - nhập khẩu hàng hoá của các tỉnh Bắc
trong nước. Bó Kẹo có vùng đồng bằng và núi cao có điều kiện phát triển
nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi. Với đặc điểm của mọi tiểu vùng khí
hậu ôn đới, là địa hình lý tưởng cho quy hoạch một khu du lịch rộng lớn với
hang động, sông suối dạng "sơn thủy hữu tình".
Hai là, Bó Kẹo có điều kiện để vận chuyển hàng hoá không chỉ phục
vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của tỉnh mà còn có điều kiện mở rộng
lưu thông hàng hoá với Luông Pha Bang, tỉnh Luông Nam Tha, tỉnh U Đôm
Xay và công hoa nhân Trung Quốc. Khi quy mô của lưu thông hàng hoá lớn
lên và tốc độ lưu thông hàng hoá phải nhanh thì Bó Kẹo ngoài hệ thống
đường bộ còn có tiềm năng để vận chuyển hàng hoá theo đường Thủy và
đường hàng không. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền
kinh tế thế giới, Lào đã gia nhập ASEAN; tham gia APEC, AFTA và chuẩn bị
gia nhập WTO thì vấn đề mở cửa kinh tế và phát triển kinh tế cửa khẩu có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng. Bó Kẹo có cửa khẩu kinh tế quốc tế Huổi Xài và
Bản Mòm để phát triển kinh tế đối ngoại không chỉ với tỉnh Chiêng Rai của
Vương quốc Thái Lan và tỉnh Chiêng Tung - Myanma mà có điều kiện trở
thành trung tâm giao lưu hàng hoá giữa một số tỉnh phía Bắc của ta.
Ba là, Bó Kẹo có hai vùng trung tâm kinh tế đó là huyện Huổi Xai tỉnh
lỵ của tỉnh Bó Kẹo và huyện Tổn Phầng, hai huyện này dọc sông Mê Kông và
vùng biên giới có thể tạo thế tương hỗ cho nhau trong quá trình phát triển
thương mại và mở rộng thị trường. Vùng quốc lộ A3 có điều kiện phát triển
mạng lưới cửa hàng đại lý cung ứng và tiêu thụ đến tạn bản, trung tâm cụm
bản để vừa kích thích sản xuất, vừa ổn định thị trường giá cả bảo đảm cụm
bản để vừa kích thích sản xuất, vừa ổn định thị trường giá cả bảo đảm thuận
lợi cho nhu cầu mua bán hàng hoá. Đồng thời sự phát triển mạnh mẽ ở vùng
này sẽ tạo ra sức hút cũng như một số tiền đề cho phép phát triển thương mại
ở vùng sông Mê Kông và vùng biên giới Thái Lan và Myanma.
2.1.2.2. Khó khăn để phát triển thương mại
Một là, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động thương
mại thiếu, chất lượng thấp là hạn chế lớn nhất đến việc phát triển thương mại
Bó Kẹo. Hệ thống giao thông của Bó Kẹo ngoại quốc lộ A3 rất khó khăn. Còn
nhiều cụm bản chỉ có đường mòn đi trên sườn núi đi lại khó khăn. Đó là trở
ngại lớn trong việc vận chuyển hàng hoá cung ứng cho nhu cầu sản xuất, tiêu
dùng và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá của nhân dân, các vùng, trong tỉnh,
đặc biệt là đối với dân cư các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Hệ thống điện,
lưới điện, hệ thống cung cấp nước sạch còn hạn chế, một số dịch vụ, tư vấn
quảng cáo... còn kém phát triển cũng là trở ngại lớn trong việc khai thác lợi
thế phát triển thương mại.
Hai là, thương mại muốn phát triển được còn phụ thuộc vào sức mua
của dân cư. Với mức thu nhập còn hạn chế (mức thu nhập bình quân đầu
người của Bó Kẹo chỉ 365 USD/người/năm) cho thấy, đời sống của một bộ
phận khá lớn dân cư còn ở mức nghèo và rất nghèo, đặc biệt là dân cư ở các
vùng sâu, vùng xa. Mức thu nhập thấp, trình độ dân trí thấp là những cản trở
lớn, hạn chế sự phát triển của thị trường và thương mại Bó Kẹo hiện nay.
Ngoài ra, sự phân bố dân cư không tập trung, ở những các vùng các dân
tộc thiểu số sống quá thưa thớt trên các vùng núi cao cũng là trở ngại cho sự
phát triển thương mại và thị trường Bó Kẹo.
Ba là, trong điều kiện đẩy mạnh mở cửa và hội nhập kinh tế với khu
vực và thế giới nhưng một số chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà
nước còn thiếu, chưa đồng bộ, chậm được cụ thể hoá hoặc còn thiếu điều kiện
khả thi để phát triển thương mại, miền núi nói chung và Bó Kẹo nói riêng.
Trình độ và năng lực quản lý của cán bộ nói chung còn chưa đáp ứng kịp
cũng là những trở ngại lớn cho sự phát triển thương mại Bó Kẹo.
2.1.3. Tình hình hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo
- Tình hình hoạt động thương mại trước năm 1996:
Tình hình hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo có những
điểm chung với hoạt động thương mại toàn quốc gắn với từng giai đoạn
chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong những năm đổi mới
thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và
chính sách tự do hoá thương mại theo tinh thần Đại hội lần thứ IV và V của
Đảng nhân dân cách mạng Lào đã xác định đổi mới trong phát triển kinh tế,
trong đó coi hoạt động thương mại là cầu nối quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, có nhiệm vụ quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển,
nhằm phá vỡ kiểu sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp để sang phát triển kinh tế
hàng hoá, nhằm mục tiêu phát triển sản xuất và đời sống ngày càng nâng cao.
Tỉnh Bó Kẹo với điều kiện thuận lợi cơ bản là có biên giới giáp Thái
Lan và Myanmar. So với các tỉnh khác, phát huy lợi thế của tỉnh nên trong
thời gian qua, tỉnh đã đạt được những kết quả đáng mừng trong hoạt động
thương mại. Đến nay tỉnh đã có nhiều biện pháp để thực hiện nhất quán chính
sách tự do hoá thương mại theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước, kiên
quyết xoá bỏ mọi ranh giới chia cắt thị trường giữa các vùng trong tỉnh và
giữa các tỉnh khu vực với bên ngoài... đây là một chính sách tốt để tạo điều
kiện cho thương mại phát triển. Đồng thời từ chỗ hoạt động thương mại thuộc
khu vực của nhà nước, đến nay với chính sách phát triển nhiều thành phần kinh
tế đã thu hút được một lực lượng lớn khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động
thương mại dịch vụ.
Nhìn chung khi chuyển sang kinh tế thị trường hoạt động thương mại
với nhiều chủ thể, hình thức sở hữu tham gia, giai đoạn từ trước năm 1996 các
doanh nghiệp thương nghiệp và thương nhân mua bán bị chao đảo, lâm vào
tình trạng bế tắc, mất vai trò chủ đạo thị trường "các công ty thương nghiệp
của nhà nước và tư nhân còn bỏ trống một số lĩnh vực và địa bàn trọng yếu.
Dần dần doanh nghiệp thương mại thay đổi phương thức kinh doanh, từng
bước thích ứng với cơ chế mới vươn lên nắm khâu bán buôn, chi phối bán lẻ,
doanh nghiệp thương mại được chấn chỉnh, tổ chức đổi mới sắp xếp theo
hướng gọn nhẹ, các công ty bước đầu đã chặn được thua lỗ kéo dài. Tình hình
hoạt động thương mại trong giai đoạn năm 1990-1995 chẳng hạn tình hình
luân chuyển hàng hoá năm 1990 - 1995:
- Năm 1990-1991 thực hiện được 27.295 triệu kíp, so với kế hoạch năm
tăng 10% bằng 47.340 triệu kíp.
- Năm 1991-1992 đạt được 354.253 triệu kíp, so với năm 1990 - 1991
tăng 19,73% bằng 58.376 triệu kíp.
- Năm 1992-1993 đạt được 460.529 triệu kíp so với năm 1991 - 1992
tăng 30% bằng 106.276 triệu kíp.
- Năm 1993-1994 đạt được 619.412 triệu kíp so với năm 1992-1993
tăng 34,5% bằng 158.882 triệu kíp.
- Năm 1994 - 1995 đạt được 813.721 triệu kíp so với năm 1993-1994
tăng 32,8% bằng 201.308 triệu kíp [38, tr.2].
- Tình hình phát triển hoạt động thương mại 1996 - 2005:
Qua hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới Đảng và Nhà nước
khởi xướng và lãnh đạo, sau nhiều lần củng cố, sắp xếp, triển khai quy hoạch
phát triển mạng lưới thương mại, từ năm 1996 đến nay hoạt động thương mại
đã hình thành rõ nét từng thị trường, từng loại doanh nghiệp và hình thức sở
hữu của mọi thành viên kinh tế tham gia trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo.
Nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần các tổ chức thương
mại và các cơ quan chức năng đã chú ý cải cách quản lý các đơn vị kinh
doanh đảm bảo kinh doanh đạt hiệu quả. Cụ thể là:
+ Đã có kế hoạch thúc đẩy các công ty xuất nhập khẩu tìm mặt hàng xuất
khẩu có hiệu quả, đồng thời quản lý nghiêm ngặt hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Có sự quản lý tương đối hiệu quả về giá cả các loại hàng hoá, đặc
biệt là đối với các loại hàng hoá chiến lược, tránh tình trạng giá cả leo thang
trong những ngày hội, ngày lễ.
+ Đã có quan hệ với các ngành có liên quan để thúc đẩy sản xuất hàng
hoá phát triển, thực hiện chính sách bảo hộ với một số loại hàng hoá để phát
triển những loại hàng hoá này trong giai đoạn đầu.
+ Quản lý theo dõi chặt chẽ việc thu mua lương thực - thực phẩm của
công ty cũng như các hộ kinh doanh lương thực trong tỉnh về giá cả và số
lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, an ninh quốc phòng và thực hiện
giá đúng theo hướng dẫn của Bộ Thương mại trong từng giai đoạn.
+ Tổ chức cho các đơn vị kinh doanh các hộ kinh doanh năm và hiểu
biết các nghị quyết, pháp luật, luật lệ trên cơ sở đó họ thực hiện kinh doanh
theo đúng luật pháp. Vì vậy các nhà kinh doanh và nhân dân đã chấp nhận,
hiểu và làm đúng những chủ trương, chính sách, luật pháp của nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào.
Như vậy hoạt động thương mại ở Lào thời gian qua ngày càng phát
triển. Về số lượng hàng hoá được luân chuyển trong tỉnh và hàng hoá trong
tỉnh đi các tỉnh khác cùng với hoạt động xuất nhập khẩu liên tục gia tăng kể từ
khi có đường lối đổi mới của Đảng vào năm 1986 thì có thể nói giai đoạn
1990-1996 mức độ luân chuyển lại giảm so với những năm 1986-1990.
Nhưng kể từ năm 1996 đến nay tốc độ luân chuyển hàng hoá liên tục gia tăng,
đặc biệt là các năm 2000 đến 2005 tốc độ tăng trưởng như sau:
* Tình hình luân chuyển hàng hoá của tỉnh:
- Năm 2000 - 2001 thực hiện được 54.835.755 triệu kíp, so với kế
hoạch năm tăng 18,48% bằng 46.280.325 triệu kíp.
- Năm 2001 - 2002 thực hiện được 55.932.470 triệu kíp, so với năm
2000-2001 tăng 2% bằng 1.096.715 triệu kíp.
- Năm 2002 - 2003 đạt được 57.268.830 triệu kíp, so với năm 2002-
2003 tăng 2,39% bằng 1.336.786 triệu kíp.
- Năm 2003-2004 đạt được 65.468.399 triệu kíp, so với năm 2002-2003
tăng 14,31% tăng 9.368.528 triệu kíp.
- Năm 2004 - 2005 đạt được 72.061.066 triệu kíp, so với năm 2003-
2004 tăng 10,07% bằng 7.256.549 triệu kíp [55, tr.3-4].
* Tình hình xuất khẩu:
- Năm 2000 - 2001 đạt được 1.338.386 USD, so với kế hoạch năm
(1.822.087 USD), giảm 26,54% bằng (-483.581,88 USD).
- Năm 2001 - 2002 đạt được 2.055.670 USD, so với 2000-2001
(1.338.386 USD) tăng 53,59% bằng (717.284 USD).
- Năm 2002 - 2003 đạt được 2.151.562 USD so với năm 2001-2002
(2.055.670 USD) tăng 4,66% bằng (95.794,22 USD).
- Năm 2003-2004 đạt được 2.999.922,89 USD so với năm 2002-2003
(2.151.562 USD) tăng 39,43% bằng (848.360,89 USD).
- Năm 2004-2005 đạt được 3.299.915,17 USD so với năm 2003-2004
(2.999.922,89 USD) tăng 10% bằng (299.992,28 USD) [55, tr.4-5].
* Hàng hoá nhập khẩu:
- Năm 2000 - 2001 đạt được 1.763.580 USD.
- Năm 2001 - 2002 đạt được 1.365.580 USD.
- Năm 2002 - 2003 đạt được 1.996.977 USD.
- Năm 2003 - 2004 đạt được 2.100.000 USD.
- Năm 2004 - 2005 đạt được 2.247.000 USD [55, tr.5].
Tổng giá trị nhập khẩu trình bày ở trên là hàng hoá Sở thương mại cấp
giấy phép công ty nhập khẩu chủ yếu là những mặt hàng cần thiết như: xe ô
tô, xe máy các loại, vật liệu xây dựng cơ sở hạ tầng, công cụ điện lực, máy
móc nông nghiệp.
Ngoài ra trên thị trường còn nhiều mặt hàng nhập lậu tỉnh không thể
nắm vững số liệu cụ thể được.
* Dịch vụ hàng quá cảnh
Do địa lý, địa hình và đặc điểm của tỉnh có điều kiện thuận lợi, vì vậy việc
dịch vụ hàng hoá quá cảnh từ Thái Lan đi Trung Quốc ngược lại Trung Quốc đi
Thái Lan phải qua tỉnh Bó Kẹo tổng giá trị hàng hoá quá cảnh năm 2000-2004 đạt
12.564.388 USD, bình quân mỗi năm khoảng 3.141,097 USD [55, tr.5].
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI Ở TỈNH BÓ KẸO
2.2.1. Quá trình đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động
thương mại ở Lào nói chung và tỉnh Bó Kẹo nói riêng
Thực hiện chức năng của hệ thống quản lý nhà nước đối với hoạt động
thương mại đã phải thay đổi một cách căn bản. Từ chỗ đóng vai trò "ông chủ"
phân phối hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ đã chuyển sang quản lý theo công cụ
mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường tự do, mở cửa. Các cơ quan thương
mại được sắp xếp lại, các bộ phận kế hoạch, giá cả, lao động và tiền lương
được tinh giảm tối đa. Bộ máy quản lý bằng các công cụ hướng dẫn vĩ mô
được tăng cường.
Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại từ Trung ương đến địa
phương đã qua các thời kỳ cải cách và sắp xếp lại như sau:
- Cơ quan quản lý cấp Trung ương: Bộ Thương mại Lào được thành
lập, là cơ quan quản lý nhà nước, nằm trong cơ cấu thành viên của Chính phủ
Lào từ năm 1982, được tách ra từ Bộ Công thương nghiệp trước đó. Từ đó
cho đến nay Nhà nước, Chính phủ Lào đã không ngừng cải cách bộ máy quản
lý nhà nước về thương mại (5 lần) để phù hợp với nhiệm vụ chính trị và yêu
cầu nội dung đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại qua các
thời kỳ, cụ thể là:
+ Năm 1986 sát nhập chức năng và nhiệm vụ về kinh tế đối ngoại và
đầu tư nước ngoài vào Bộ Thương mại, đổi thành Bộ Thương mại và kinh tế
đối ngoại.
+ Năm 1991 lại tách bộ phận kinh tế đối ngoại ra và sát nhập ngành du
lịch vào thương mại, đổi tên thành Bộ Thương mại và du lịch.
+ Năm 1996 tách Tổng cục du lịch về trực thuộc Chính phủ, chỉ còn bộ
Thương mại.
+ Đến năm 1999 lại sát nhập Tổng cục du lịch vào Bộ Thương mại
thành Bộ Thương mại và dịch vụ.
+ Từ năm 1999 đến nay, lại tách Tổng cục du lịch trực văn phòng Thủ
tướng Chính phủ, thành lập Bộ Thương mại, để làm nhiệm vụ quản lý nhà
nước về thương mại toàn quốc và quản lý hoạt động thương mại với các nước
trong khu vực và thế giới.
Theo từng bước như trên, Sở Thương mại tỉnh Bó Kẹo được thành lập
từ năm 1987 và được thay đổi tên theo Bộ Thương mại cấp Trung ương...
Nghị định của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân
Lào số 78/TTg, ngày 14/6/2002, quyết định thành lập lại Bộ Thương mại, quy
định tổ chức bộ máy, rõ vai trò, chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của Bộ
Thương mại về quản lý nhà nước đối với ngành thương mại. Sau đó, Bộ
Thương mại được giao nhiệm vụ và quyền hạn cho cơ quan quản lý nhà nước
về thương mại cấp tỉnh, thành phố và Sở Thương mại. Đối với bộ máy quản
lý nhà nước về thương mại ở các địa phương (tỉnh, thành phố) ở CHDCND
Lào, chính quyền các cấp quản lý thương mại trong phạm vi địa phương theo
sự phân cấp của Chính phủ; Sở Thương mại là cơ quan tham mưu, trực tiếp
giúp chính quyền tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
thương mại ở địa phương. Chức năng của Sở Thương mại ở các tỉnh, thành
phố là cơ quan quản lý thương mại ở cấp địa phương, trực thuộc ngành dọc;
làm nhiệm vụ tổ chức thực hiện cụ thể chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà
nước về thương mại trên phạm vi địa bàn địa phương mình. Cho nên, cơ cấu
tổ chức và bộ máy của Sở thường thay đổi mỗi khi có sự thay đổi của cơ quan
quản lý cấp trên - Bộ Thương mại. Bộ máy quản lý thương mại cấp địa
phương (tỉnh, thành phố) trong thời gian qua rất gọn nhẹ, làm nhiệm vụ quản
lý do Bộ Thương mại giao cho theo cơ chế quản lý kinh tế nhà nước từng thời
kỳ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở cũng thay đổi theo sự phân công,
phân cấp quản lý theo hướng tăng cường và mở rộng chức năng nhiệm vụ và
quyền hạn cấp tỉnh, thành phố.
Hiện nay ở Lào, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại
bao gồm một số cơ quan sau:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại.
2. Bộ thương mại là cơ quan của Chính phủ thực hiện việc thống nhất
quản lý nhà nước về thương mại.
3. Các Bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với
Bộ Thương mại quản lý nhà nước về thương mại.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về thương
mại trên địa bàn lãnh thổ theo phân cấp của Chính phủ.
Trong hoạt động thương mại rất đa dạng và phức tạp, việc nghiên cứu
để đảm bảo quản lý tốt hoạt động này gồm rất nhiều nội dung sau:
1. Ban hành các văn bản pháp luật về thương mại, xây dựng chính sách,
chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại.
2. Tổ chức đăng ký kinh doanh thương mại.
3. Tổ chức, thu thập cung cấp thông tin, dự báo và định hướng về thị
trường trong và ngoài nước.
4. Hướng dẫn tiêu dùng hợp lý tiết kiệm.
5. Điều tiết lưu thông hàng hoá theo định hướng phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước và theo quy định của pháp luật.
6. Tổ chức các hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại.
7. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học về thương mại.
8. Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động thương mại.
9. Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại.
10. Đại diện và quản lý hoạt động thương mại của Lào ở nước ngoài.
11. Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, quy
hoạch, kế hoạch phát triển và việc chấp hành pháp luật về thương mại, xử lý
vi phạm pháp luật về thương mại, tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu,
buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng nhái, đầu cơ lũng loạn thị trường kinh
doanh trái phép, và các hành vi khác vi phạm về Luật thương mại.
Như vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại được tập
trung thống nhất vào Bộ Thương mại. Bộ Thương mại là cơ quan của Chính
phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động thương mại
(bao gồm: xuất nhập khẩu, kinh doanh vật tư, hàng tiêu dùng dịch vụ thương
mại) thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước, kể cả hoạt động thương mại
của tổ chức và cá nhân người nước ngoài được hoạt động tại Lào. Bộ Thương
mại có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
1. Xây dựng trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền
các cơ chế và quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu.
2. Quản lý hạn ngạch nhập khẩu, cấp hoặc thu hồi giấy phép - kinh
doanh xuất nhập khẩu đối với các tổ chức kinh doanh theo sự phân cấp của
Chính phủ.
3. Cấp giấy phép xuất khẩu cho các tổ chức liên doanh với nước ngoài
theo luật đầu tư.
4. Quản lý các hoạt động tư vấn, môi giới, hội chợ và các hoạt động
quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và xúc tiến thương mại ở trong và ngoài nước.
5. Phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xét duyệt các chương
trình dự án đầu tư gián tiếp về thương mại.
6. Xét cho phép các tổ chức kinh tế nước ngoài lập văn phòng đại diện
hoặc thành lập công ty chi nhánh tại Lào.
7. Quản lý chỉ đạo nghiệp vụ đối với các cơ quan đại diện kinh tế
thương mại của Lào đặt ở nước ngoài.
8. Soạn thảo trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
của Bộ các quy chế quản lý các hoạt động thương mại trong nước, xây dựng kế
hoạch và có chính sách phát triển kinh tế thương mại đối với miền núi vùng cao.
9. Tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động thương mại.
10. Tổ chức tiếp nhận, xử lý, cung cấp các loại thông tin kinh tế,
thương mại trong nước và thế giới phục vụ cho sự chỉ đạo của Chính phủ và
các tổ chức kinh tế.
11. Quản lý nhà nước về công tác đo lường chất lượng hàng hoá trong
hoạt động thương mại thuộc lĩnh vực Bộ Thương mại phụ trách trên thị
trường cả nước.
12. Hướng dẫn và chỉ đạo cơ quan quản lý nhà nước về thương mại ở
địa phương về nghiệp vụ chuyên môn.
Để giúp việc cho Bộ trưởng quản lý có các bộ phận chức năng giúp Bộ
trưởng trong việc quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp và các doanh
nghiệp nhà nước trực thuộc bộ.
Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước là:
1. Vụ xuất nhập khẩu.
2. Vụ Kế hoạch thống kê.
3. Vụ Quản lý thị trường.
4. Vụ Tài chính.
5. Vụ Tổ chức cán bộ.
6. Vụ Than thanh tra bộ.
7. Văn phòng bộ.
8. Vụ Pháp chế.
9. Các cơ quan đại diện kinh tế - thương mại của Lào tại nước ngoài.
Bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động thương mại ở Lào có thể khái
quát bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Bộ máy quản lý nhà nước về thương mại ở CHDCND Lào
2.2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại
trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo
+ Về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương
mại. Căn cứ chủ trương chính sách của Đảng và mục tiêu kế hoạch định
hướng của nhà nước, xây dựng chiến lược phát triển ngành thương mại.
Hoạch định các chương trình mục tiêu phát triển ngành thương mại trong
các giai đoạn 2005-2010 và đến năm 2020 bao gồm: chiến lược phát triển
trong tỉnh, chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và hợp tác quốc tế, chiến lược
thương mại biên giới, chiến lược dịch vụ tại nhập tái xuất, chiến lược phát
triển khu thương mại tự do.
Chính phủ Lào
Các cơ quan
ngang bộ Cấp tỉnh Bộ Thương mại
Các tổ chức của
các cơ quan
ngang bộ
Sở Thương mại
tỉnh
Bò Kẹo
Sở Thương mại tỉnh Bó Kẹo là cơ quan tham mưu, giúp việc của tỉnh
về quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại; thực hiện nghị quyết Đại
hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Bó Kẹo lần III (1999 - 2000). Sở Thương mại đã
được triển khai chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh. Trong bối cảnh tỉnh
đang tiếp tục đổi mới, thực hiện cơ cấu kinh tế phát triển nông nghiệp gắn liền
với công nghiệp chế biến và dịch vụ, chuyển nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự
cấp sang kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích các thành phần kinh tế tự
do hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước cấp tỉnh. Trong thời gian thực hiện có
nhiều việc quan trọng bức bách cần làm trước để khắc phục hậu quả do lịch
sử để lại. Các cơ sở kinh tế mới thành lập, vốn thiếu, trang thiết bị lạc hậu.
Nền kinh tế có tăng trưởng nhưng có nhiều yếu tố chưa vững chắc. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm và nhiều mặt chưa cân đối
giữa các ngành, các vùng.
Trình độ sản xuất lạc hậu, nền kinh tế hàng hoá chậm phát triển, công
nghiệp chế biến hầu như chưa có, chủ yếu sản phẩm xuất khẩu ở dạng thô, hệ
thống giao thông yếu kém. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, đó là những trở ngại lớn cho quá trình phát triển đối ngoại
của tỉnh.
Đồng thời đã chỉ ra phương hướng, mục tiêu về sản xuất mặt hàng xuất
khẩu, đó là phát triển kinh tế phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội là chính. Trong
giai đoạn hiện nay hàng hoá từ nông, lâm ngư nghiệp vẫn là mặt hàng xuất
khẩu chủ lực, tập trung vào phát triển diện tích trồng ngô, cây ăn quả, đậu và
bảo vệ rừng để thu hoạch theo mùa thành những vùng tập trung để có điều
kiện nâng cao chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu của hàng xuất khẩu.
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bó Kẹo đã quy định những vùng sản xuất
dựa vào điều kiện địa lý. Cả tỉnh đã chia 3 vùng như vùng đồng bằng là trồng
lúa, vùng cao nguyên trồng cây công nghiệp và vùng núi là lâm nghiệp và
chăn nuôi, tỉnh Bó Kẹo đã tiến hành hai phong trào:
+ Phong trào chuyển nền kinh tế tự nhiên, nửa tự nhiên sang kinh tế sản
xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường.
+ Phong trào động viên nhân dân sử dụng các thành phần kinh tế để
phát triển mọi tiềm năng nhằm phát triển kinh tế hàng hoá và mở rộng thị
trường, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, nhất là các nước láng giềng.
Trong giai đoạn này, Đảng bộ đã củng cố hệ thống quản lý của nhà
nước các cấp và đã sử dụng các công cụ quản lý của nhà nước đối với nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là quản lý bằng Hiến pháp, pháp luật,
chính sách kế hoạch và những quy định của nhà nước cấp tỉnh. Nhà nước vừa
đóng vai trò mở đường cho các thành phần kinh tế phát triển theo cơ chế thị
trường vừa có quyền tổ chức quản lý vĩ mô các thành phần kinh tế, tạo ra môi
trường bình đẳng hoạt động đúng định hướng XHCN, đúng Hiến pháp, pháp
luật và những thể chế của nhà nước dân chủ nhân dân Lào.
Trong giai đoạn năm 1996 đến nay là giai đoạn mà tỉnh Bó Kẹo đã triển
khai nội dung của Nghị quyết Đại hội lần thứ VI (18-3-1996), lần thứ VII (2-
3-2001) của Đảng NDCM Lào, nội dung phát triển kinh tế - xã hội lần thứ IV
- V của Chính phủ và thực hiện nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ II (23-3-
1999) của Đảng bộ tỉnh Bó kẹo nói chung và thực hiện 8 chương trình ưu tiên
của Chính phủ và 10 chương trình ưu tiên của tỉnh nói riêng, nhằm phát triển
nền kinh tế - xã hội của đất nước và của tỉnh ngày càng mạnh mẽ. Những nội
dung ưu tiên của Chính phủ:
+ Chương trình sản xuất lương thực - thực phẩm.
+ Chương trình sản xuất hàng hoá.
+ Chương trình chấm dứt phá huỷ cây rừng làm nương và định canh,
định cư.
+ Chương trình phát triển nông thôn toàn diện.
+ Chương trình chấn hưng con người.
+ Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Chương trình dịch vụ.
+ Chương trình hợp tác và quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Còn 10 chương trình ưu tiên của tỉnh, tức là đã cụ thể hoá thực hiện tốt
cả 8 chương trình ưu tiên của Chính phủ, tỉnh chỉ phát thêm 2 chương trình:
chương trình an ninh trật tự xã hội và chương trình động viên vốn.
Để đẩy mạnh triển khai những nội dung trên, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân các bộ tộc ở tỉnh Bó Kẹo đã tập trung đại đoàn kết một lòng tiếp tục
đổi mới, thực hiện cơ cấu kinh tế phát triển nông - lâm nghiệp gắn liền với
công nghiệp và dịch vụ, chuyển nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp sang kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, khuyến khích các thành phần kinh tế tự do hoạt
động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng
và quản lý của Nhà nước cấp tỉnh.
Các thành phần kinh tế tự do hoạt động sản xuất kinh doanh dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý nhà nước, có ý nghĩa là tất cả các thành phần
kinh tế hoạt động phát triển theo chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và
tuân theo pháp luật, những chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước.
Trong thực tiễn ở tỉnh Bó Kẹo, Đảng bộ đã đề ra những đường lối đổi
mới phát triển kinh tế - xã hội theo con đường định hướng XHCN. Chính
quyền đã triển khai thực hiện những đường lối đổi mới của Đảng bộ tỉnh
bằng kế hoạch phát triển và quản lý kinh tế - xã hội trong thời gian dài hạn
và ngắn hạn.
Trong những năm qua, chính quyền (Nhà nước) các cấp ở tỉnh đã phát
huy lợi thế so sánh của Bó Kẹo, phát triển mạnh thương mại và dịch vụ nâng
cao dần tỷ trọng giá trị thương mại dịch vụ trong cơ cấu GDP của tỉnh. Phấn
đấu đưa thương mại dịch vụ vươn lên trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trên
cơ sở chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh đến năm 2010 Sở Thương mại Bó
Kẹo chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức nghiên cứu và bảo vệ
thành công dự án quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo
đến 2010, trong đó dự báo khả năng tăng trưởng của GDP trên địa bàn tỉnh
bình quân là 9,5% năm, khả năng tăng trưởng mức bán lẻ hàng hoá xã hội trên
đị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.pdf