Tài liệu Luận văn Tìm hiểu tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt - May Hà Nội: LUẬN VĂN:
Tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền
lương trong Công ty Dệt - may Hà Nội
Lời mở đầu
Trong nền sản xuất xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào, tiền lương luôn là một vấn đề
"thời sự nóng bỏng". Nó hàm chứa trong đó nhiều mối quan hệ giữa sản xuất và phân phối
trao đổi giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa thu nhập và nâng cao mức sống của các thành
phần dân cư.
Năm 1986, khi nước ta tiến hành đổi mới. Nó như một cái mốc đánh dấu sự chuyển
biến của nền kinh tế. Nước ta từ chỗ là nền kinh tế lạc hậu, tập chung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trước tình hình đó các
doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán chi phí mà trong đó chi
phí tiền lương chiếm phần không nhỏ, nó được coi là một mảng rất lớn. Vì vậy mà càng
trở thành vấn đề quan trọng của các doanh nghiệp đó.
Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để tồn tại và phát triển họ
phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả ...
60 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 990 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt - May Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền
lương trong Công ty Dệt - may Hà Nội
Lời mở đầu
Trong nền sản xuất xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào, tiền lương luôn là một vấn đề
"thời sự nóng bỏng". Nó hàm chứa trong đó nhiều mối quan hệ giữa sản xuất và phân phối
trao đổi giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa thu nhập và nâng cao mức sống của các thành
phần dân cư.
Năm 1986, khi nước ta tiến hành đổi mới. Nó như một cái mốc đánh dấu sự chuyển
biến của nền kinh tế. Nước ta từ chỗ là nền kinh tế lạc hậu, tập chung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trước tình hình đó các
doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán chi phí mà trong đó chi
phí tiền lương chiếm phần không nhỏ, nó được coi là một mảng rất lớn. Vì vậy mà càng
trở thành vấn đề quan trọng của các doanh nghiệp đó.
Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để tồn tại và phát triển họ
phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn vậy thì công
tác quản lý lao động và tiền lương phải được chú ý đúng mức. Những việc làm khác sẽ
không phát huy được tác dụng thậm chí không có hiệu quả nếu công tác này không được
quan tâm đúng mức và không thường xuyên được củng cố.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tổ chức quản lý lao động và tiền lương là nội
dung quan trọng trong công tác quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, nó là một trong
những nhân tố quan trọng nhất quyết định số lượng, chất lượng của sản phẩm hàng hoá.
Công việc tổ chức công tác, sử dụng tiền lương giúp cho việc quản lý lao động của doanh
nghiệp đi vào nền nếp thúc đẩy người lao động hăng say sản xuất, chấp hành tốt kỷ luật lao
động nhằm tăng năng xuất và hiệu quả công việc, đồng thời cũng tạo cơ sở tính lương
đúng với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nếu tổ chức tốt công tác lao động - tiền
lương, quản lý tốt quỹ lương và đảm bảo trả lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội theo đúng chế
độ chính sách thì sẽ tạo cơ sở cho việc phân bổ chi phí nhân công và giá thành được chính
xác, đặc biệt đối với doanh nghiệp có quy mô và số lượng cán bộ công nhân viên lớn.
Công ty Dệt - May Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Công nghiệp. Hoạt
động chính của Công ty là sản xuất những mặt hàng phục vụ cho người tiêu dùng trong
nước và nước ngoài. Do đó yêu cầu đặt ra với Công ty là phải có một đội ngũ cán bộ công
nhân viên đông đảo có trình độ chuyên môn cao và năng lực làm việc tốt để đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ngừng trệ nhằm tạo cho Công ty chỗ đứng vững
chắc trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt hiện nay. Chính vì lẽ đó
mà công tác quản lý lao động tiền lương của Công ty rất được coi trọng.
Qua việc nghiên cứu và tham khảo tài liệu về Công ty Dệt - May Hà Nội, bằng
những kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập tại trường, cùng với sự chỉ bảo
của thầy giáoThạch cũng như sự giúp đỡ tận tình của cán bộ thư viện trường ĐHKDTQ đã
tạo điều kiện cho tôi trong việc tham khảo tài liệu, tôi đã chọn vấn đề: "Tổ chức quản lý
sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt - may Hà Nội" để làm đề tài cho bài
thực hành thống kê của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bản thực hành thống kê
được kết cấu làm 3 phần.
Phần I: Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động và tiền lương trong doanh
nghiệp.
Phần II: Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt -
May Hà Nội.
Phần I:
Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động
và tiền lương
I. Quản lý lao động và tiền lương trong doanh nghiệp.
1. Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động.
1.1 Quản lý lao động là gì ?
Quản lý lao động là hoạt động quản lý lao động con người trong một tổ chức nhất
định trong đó chủ thể quản trị tác động lên khách thể bị quản trị nhằm mục đích tạo ra lợi
ích chung của tổ chức. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp được đặt trong sự
cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải thường xuyên tìm
cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong đó các công việc phải quan tâm hàng
đầu là quản trị lao động. Những việc làm khác sẽ trở nên vô nghĩa nếu công tác quản lý lao
động không được chú ý đúng mức không được thường xuyên củng cố. Thậm chí không có
hiệu quả, không thể thực hiện bất kỳ chiến lược nào nếu từng hoạt động không đi đôi với
việc hoàn thiện và cải tiến công tác quản lý lao động. Một doanh nghiệp dù có điều kiện
thuận lợi trong kinh doanh, có đầy đủ điều kiện vật chất kĩ thuật để kinh doanh có lãi, một
đội ngũ công nhân viên đủ mạnh nhưng khoa học quản lý không được áp dụng một cách
có hiệu quả thì doanh nghiệp đó cũng không tồn tại và phát triển được. Ngược lại một
doanh nghiệp đang có nguy cơ sa sút, yếu kém để khôi phục hoạt động của nó, cán bộ lãnh
đạo phải sắp xếp, bố trí lại đội ngũ lao động của doanh nghiệp, sa thải những nhân viên
yếu kém, thay đổi chỗ và tuyển nhân viên mới nhằm đáp ứng tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với khả năng làm việc của từng người.
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã làm cho các mối quan hệ giữa con
người càng trở nên phức tạp. Nhiệm vụ của quản lý lao động là điều hành chính xác trọn
vẹn các mối quan hệ ấy để cho sản xuất được tiến hành nhịp nhàng, liên tục và đem lại
hiệu quả cao. Vì vậy vai trò của quản lý lao động đối với doanh nghiệp là rất quan trọng.
Bởi lẽ quản lý lao động là bộ phận không thể thiếu được của quản trị sản xuất kinh doanh,
nó nhằm củng cố và duy trì đầy đủ số lượng và chất lượng người làm việc cần thiết cho tổ
chức để đạt được mục tiêu đề ra, tìm kiếm và phát triển những hình thức, những phương
pháp tốt nhất để con người có thể đóng nhiều sức lực cho các mục tiêu của tổ chức đồng
thời cũng tạo cơ hội để phát triển không ngừng chính bản thân con người. Sử dụng có hiệu
quả nguồn lực của con người là mục tiêu của quản lý lao động.
1.2 Các quan điểm về quản lý lao động trong doanh nghiệp.
Nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghiã với chính sách “đổi mới” hội nhập với các
nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Yếu tố con người, yếu tố trí tuệ được đề cao hơn
yếu tố vốn và kỹ thuật, trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp.
Do vậy yêu cầu về trình độ và năng lực của con người, của mỗi doanh nghiệp cũng khác
trước tạo nên sự đòi hỏi về hai phía:
Mọi doanh nghiệp ở mức tối thiểu đều yêu cầu đội ngũ công nhân viên của mình
hoàn thành nhiệm vụ, đạt tiêu chuẩn định mức đặt ra, chấp hành những chính sách, những
quy định của công ty.
Tuy nhiên trong thực tế kinh doanh, các doanh nghiệp ngày càng yêu cầu dội ngũ
nguồn nhân lực của mình nhiều hơn mức tối thiểu. Doanh nghiệp không chỉ yêu cầu nhân
viên hoàn thành công việc mà phải biết sáng tạo, cải tiến tìm ra những giải pháp, phương
pháp mới, không chỉ chấp hành quy chế mà còn phải nhiệt huyết, gắn bó với doanh nghiệp,
có trách nhiệm với kết quả chung của doanh nghiệp. Không phải chỉ có những đòi hỏi từ
phía doanh nghiệp đối với người lao động mà ngược lại đội ngũ người lao động cũng có
những đòi hỏi nhất định đối với doanh nghiệp mà họ đang làm việc. ở một mức tối thiểu,
công nhân yêu cầu doanh nghiệp phải trả lương đầy đủ, đúng hạn, hợp lý và các điều kiện
lao động an toàn. Người lao động yêu cầu tham gia vào quá trình xây dựng chiến lược,
chính sách của doanh nghiệp. Người lao động muốn phát triển năng lực cá nhân bằng cách
nâng cao và tiếp thu những kiến thức, những kỹ năng mới. Họ muốn cống hiến, muốn vận
động đi lên trong hệ thống các vị trí, chức vụ công tác của doanh nghiệp, được chủ động
tham gia đóng góp quan trọng vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Với một nền kinh
tế đang trên đà phát triển mạnh tạo nên sự cạnh tranh đầu vào về lao động giữa các doanh
nghiệp ngày càng cao. Người lao động do đó cần phải trang bị cho mình những kiến thức
và rèn luyện kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Ngược lại doanh nghiệp cần phải
có chính sách thích hợp đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của người lao động, tạo nên một
môi trường làm việc có hiệu quả để doanh nghiệp đạt được mục đích lợi nhuận tối đa.
Quản lý lao động là quản lý một nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất của lực lượng
sản xuất đó là nhân tố con người. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, các cơ sở
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được đều rất cần được trang bị máy móc thiết bị
hiện đại, có sự nhảy vọt thay đổi về chất. Tuy nhiên nếu thiếu nhân tố con người, thiếu một
đội ngũ lao động có trình độ, có tổ chức thì cũng không thể phát huy hết được tác dụng của
các nhân tố kia.
Tóm lại, để quản lý lao động tốt thì phải giải quyết những mục tiêu sau:
Thứ nhất là sử dụng lao động một cách hợp lý có kế hoạch phù hợp với điều kiện tố
chức, kỹ thuật, tâm sinh lý người lao động nhằm không ngừng tăng năng suất lao động trên
cơ sở kết hợp chặt chẽ với các yếu tố khác của quá trình sản xuất nhằm khai thác có hiệu
quả nhất mọi nguồn lực của sản xuất kinh doanh.
Thứ hai là bồi dưỡng sức lao động về trình độ văn hoá, chính trị, tư tưởng, chuyên
môn nghiệp vụ và đặc biệt là nâng cao mức sống vật chất, tinh thần nhằm đảm bảo tái sản
xuất sức lao động, phát triển toàn diện con người.
Quản lý lao động nhằm sử dụng và bồi dưỡng lao động là hai mặt khác nhau nhưng
nó lại liên quan mật thiết với nhau. Nếu tách rời hoặc đối lập giữa hai công việc này là sai
lầm nghiêm trọng, không chỉ nói đến sử dụng lao động mà quên bồi dưỡng sức lao động và
ngược lại.
2. Cơ sở lý luận chung về tiền lương.
Tiền lương được hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao
động thanh toán lại tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã tiêu hao
trong quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Như vậy tiền lương được biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động. ở
nước ta hiện nay có sự phân biệt rõ ràng giữa các yếu tố trong tổng thu nhập từ lao động
sản xuất kinh doanh của người lao động: tiền lương (lương cơ bản) phụ cấp, tiền thưởng và
phúc lợi xã hội. Theo quan điểm của Chính phủ trong chính sách tiền lương năm 1993, tiền
lương là giá cả sức lao động, được hình thành thông qua thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị
trường. Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và
được trả theo năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả công việc.
2.1 Bản chất của tiền lương.
Để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh cần phải có các yếu tố cơ bản: lao động,
tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó lao động là yếu tố chính có tính chất
quyết định. Lao động không có giá trị riêng biệt mà lao động là hoạt động tạo ra giá trị.
Cái mà người ta mua bán không phải là lao động mà là sức lao động. Khi sức lao động trở
thành hàng hoá thì giá trị của nó được đo bằng lao động kết tinh trong một sản phẩm.
Người lao động bán sức lao động và nhận được giá trị của sức lao động dưới hình thái tiền
lương.
Theo quan điểm tiền lương là số lượng tièn tệ mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động để hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ quy định thì bản chất
tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh
tế trong đó có quy luật cung cầu. Tiền lương người lao động nhận được phải đảm bảo là
nguồn thu nhập, nguồn sống của bản thân người lao động và gia đình, là điều kiện để
người lao động hoà nhập với xã hội.
Cũng như các loại giá cả hàng hoá khác trên thị trường, tiền lương và tiền công của
người lao động ở khu vực sản xuất kinh doanh do thị trường quyết định. Nguồn tiền lương
và thu nhập của người lao động bắt nguồn từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sự quản lý vĩ mô của Nhà nướcvề lĩnh vực này bắt buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo
cho người lao động có mức thu nhập thấp nhất phải bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước
quy định.
Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động là yếu tố mang tính
quyết định. Do đó có thể nói tiền lương là phạm trù của sản xuất, yêu cầu phải tính đúng,
tính đủ trước khi trả hoặc cấp phát cho người lao động.
Cũng chính vì sức lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất cần phải được
bù đắp sau khi đã hao phí, nên tiền lương cũng phải được thông qua quá trình phân phối và
phân phối lại thu nhập quốc dân dựa trên hao phí, hiệu quả lao động. Và ở đây tiền lương
lại thể hiện là một phạm trù phân phối. Sức lao động là hàng hoá cũng như các loại hàng
hoá khác nên tiền lương cũng là phạm trù trao đổi. Nó đòi hỏi phải ngang giá với giá cả
của các tư liệu tiêu dùng, sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động. sức lao động
cần phải được tái sản xuất thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân và do đó tiền lương lại là phạm
trù thuộc lĩnh vực tiêu dùng...
Như vậy tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền lao động, tiền tệ và nền sản
xuất hàng hoá. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động mà
người lao động sử dụng để bù đắp hao phí lao động đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, về hình thức, trong điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ
thì tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo ra. Tuỳ theo
cơ chế quản lý mà tiền lương có thể được xác định là một bộ phận của chi phí sản xuất cấu
thành nên giá thành sản phẩm hay là một bộ phận của thu nhập.
2.2 Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là một nhân tố hết sức quan trọng của quá trình quản lý nói chung và
quản lý lao động tiền lương nói riêng. Có thể kể ra một số chức năng cơ bản của tiền lương
như sau:
- Kích thích lao động (tạo động lực): Chức năng này nhằm duy trì năng lực làm
việc lâu dài có hiệu quả, dựa trên cơ sở tiền lương phải đảm bảo bù đắp sức lao động đã
hao phí để khuyến khích tăng năng suất. Về mặt nguyên tắc, tiền lương phải đảm bảo lợi
ích kinh tế cho người lao động, tạo niềm hứng khởi trong công việc, phát huy tinh thần
sáng tạo tự học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn để từ đó giúp họ làm việc
với hiệu quả cao nhất và mức lương nhận được thoả đáng nhất.
- Giám sát lao động: giúp nhà quản trị tiến hành kiểm tra, theo dõi, giám sát người
lao động làm việc theo kế hoạch của mình nhằm đạt được những mục tiêu mong đợi, đảm
bảo tiền lương chi ra phải đạt hiệu quả cao. Hiệu quả của việc chi trả lương không chỉ tính
theo tháng, quý mà còn được tính theo từng ngày, từng giờ trong toàn doanh nghiệp hoặc ở
các bộ phận khác nhau.
- Điều hoà lao động: đảm bảo vai trò điều phối lao động hợp lý, người lao động sẽ
từ nơi có tiền lương thấp đến nơi có tiền lương cao hơn. Với mức lương thoả đáng, họ sẽ
hoàn thành tốt các công việc được giao.
- Tích luỹ: với mức tiền lương nhận được, người lao động không những duy trì
cuộc sống hàng ngày mà còn để dự phòng cho cuộc sống sau này khi họ đã hết khả năng
lao động hoặc gặp rủi ro bất ngờ.
2.3 Quỹ tiền lương, các hình thức trả lương và các loại tiền thưởng:
2.3.1 Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp xác
định nguồn quỹ lương tương ứng để trả cho người lao động. Nguồn này bao gồm:
- Quỹ tiền lương theo đơn giá tiền lương được giao
- Quỹ tiền lương bổ xung theo chế độ quy định của Nhà nước.
- Quỹ tiền lương từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ khác ngoài đơn giá
tiền lương được giao.
- Quỹ tiền lương dự phòng từ năm trước chuyển sang.
Nguồn quỹ tiền lương nêu trên được gọi là tổng quỹ tiền lương.
Như vậy cán bộ công nhân viên sẽ được nhận tiền lương phụ cấp từ quỹ tiền lương
của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp việc quản lý quỹ lương đòi hỏi phải hết sức chặt
chẽ, hợp lý, hiệu quả và việc cấp phát lương phải đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao
động... nhằm tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Quản lý và kiểm tra việc
thực hiện quỹ lương ở các doanh nghiệp phải do cơ quan chủ quản của doanh nghiệp tiến
hành trên cơ sở đối chiếu, so sánh thường xuyên quỹ lương thực hiện với quỹ lương kế
hoạch của doanh nghiệp trong mối quan hệ với việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Mặt khác thực hiện việc quản lý tiền lương là xác định mối quan
hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động với Nhà nước về phân chia lợi ích sau
một thời kỳ, hay khoảng thời gian sản xuất kinh doanh nhất định cùng với một số chỉ tiêu
tài chính khác. Việc xác định giá trị hao phí sức lao động cho một đơn vị sản phẩm, cho
1000 đ doanh thu hay lợi nhuận là hết sức quan trọng và cần thiết. Đó là chi phí hợp lệ
trong giá thành, là căn cứ để xác định lợi tức chịu thuế , là công cụ để Nhà nước quản lý
tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp. Cụ thể, Nhà nước quyết định đơn giá tiền
lương của các sản phẩm trọng yếu, đặc thù, các sản phẩm còn lại thì doanh nghiệp tự tính
giá tiền lương theo hướng dẫn chung (Thông tư số 13/LĐTBXH-TT ban hành ngày
10/4/1997). Doanh nghiệp sẽ tự quyết định đơn giá tiền lương nhưng phải đăng ký với cơ
quan chủ quản. Việc xác định đơn giá tiền lương có thể dựa trên các chỉ tiêu sau:
- Tổng sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) bằng hiện vật.
- Tổng doanh thu.
- Tổng thu trừ tổng chi.
- Lợi nhuận.
Doanh nghiệp sẽ xác định đơn giá tiền lương tuỳ theo tính chất, đặc điểm hoạt
động sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức và chỉ tiêu kinh tế gắn với việc trả lương có hiệu
quả của doanh nghiệp.
Sử dụng tổng quỹ tiền lương: Để đảm bảo quỹ tiền lương không vượt chi so với quỹ
tiền lương được hưởng, dồn chi quỹ tiền lương vào các tháng cuối năm hoặc để dự phòng
quỹ tiền lương quá lớn cho năm sau, có thể quy định phân chia tổng quỹ tiền lương theo
các quỹ sau:
- Quỹ tiền lương trả trực tiếp cho người lao động theo lương khoán, lương sản
phẩm, lương thời gian: ít nhất bằng 76% tổng quỹ lương.
- Quỹ khen thưởng từ quỹ lương đối với người lao động có năng suất chất lượng
cao, có thành tích tốt trong công tác tối đa không quá 10% tổng quỹ tiền lương.
- Quỹ khuyến khích người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tay
nghề giỏi: tối đa không quá 2% tổng quỹ tiền lương.
- Quỹ dự phòng cho các năm sau: tối đa không quá 12% tổng quỹ lương.
2.3.2 Các hình thức trả lương.
Hiện nay tại các doanh nghiệp người ta thường áp dụng hai hình thức trả lương chủ
yếu sau:
Trả lương theo thời gian.
Hình thức tiền lương theo thời gian là hình thức tiền lương mà số tiền trả cho người
lao động căn cứ vào thời gian làm việc và tiền lương của một đơn vị thời gian ( giờ hoặc
ngày). Như vậy tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào 2 yếu tố:
- Mức tiền lương trong một đợn vị sản phẩm.
- Thời gian đã làm việc.
Tiền lương trả theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với những người làm công tác
quản lý, còn đối với công nhân sản xuất chỉ nên áp dụng ở những bộ phận không thể tiến
hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất hạn chế do việc trả công
theo sản phẩm sẽ không đảm bảo được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết
thực. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý việc tính và trả lương theo thời gian có thể thực
hiện theo hai cách:
a. Trả lương theo thời gian giản đơn: ( giờ, ngày, tháng...)
Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền lương nhận
được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian làm việc
thực tế ít hay nhiều quyết định.
Tiền lương trả cho người lao động được tính theo công thức:
L = LCB x TH
Trong đó: L : Lương nhận được.
LCB : Lương cấp bậc.
TH : Thời gian làm việc thực tế.
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó định mức lao động, khó đánh giá
công việc một cách chính xác. Có 3 loại tiền lương theo thời gian đơn giản:
Lương giờ: tính theo mức lương cấp bậc và số giờ làm việc.
Lương ngày: tính theo mức lương cấp bậc và số ngày làm việc thực tế.
Lương tháng: tính theo mức lương cấp bậc tháng.
Hình thức này có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán. Hơn nữa người công nhân có
thể tự tính được tiền công mà mình được lĩnh. Bên cạnh đó, hình thức trả lương này cũng
có những nhược điểm là nó mang tính chất bình quân nên không khuyến khích việc sử
dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên vật liệu, không tập trung công suất của
máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động.
b.Trả lương theo thời gian có thưởng:
Theo hình thức này thì tiền lương người lao động nhận được gồm tiền lương thời
gian giản đơn và một khoản tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất
lượng đã quy định như: nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư
hoặc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao...
Hình thức này chủ yếu áp dụng đối vói công nhân phụ, làm việc phục vụ như công
nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị... Ngoài ra còn áp dụng cho công nhân chính làm việc ở
những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hoá cao, tự động hoá hoặc những công việc tuyệt
đối phải đảm bảo chất lượng.
Chế độ trả lương này phản ánh trình độ thành tích công tác thông qua các chỉ tiêu
xét thưởng đã đạt được. Do vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến trách
nhiệm và kết quả công tác của mình. Do đó cùng với ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ
thuật chế độ tiền lương này ngày càng được mở rộng hơn.
Trả lương theo sản phẩm.
Do có sự khác nhau về đặc điểm sản xuất kinh doanh nên các doanh nghiệp đã áp
dụng rộng rãi các hình thức tiền lương theo sản phẩm với nhiều chế độ linh hoạt. Đây là
hình thức tiền lương mà số tiền người lao động nhận được căn cứ vào đơn giá tiền lương,
số lượng sản phẩm hoàn thành và được tính theo công thức:
Lsp =
n
i 1
( Qi x ĐGi)
Trong đó: Lsp: lương theo sản phẩm.
Qi: khối lượng sản phẩm i sản xuất ra.
ĐGi: đơn giá tiền lương một sản phẩm loại i.
i: số loại sản phẩm i.
Tiền lương tính theo sản phẩm căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động sản xuất của
mỗi người. Nếu họ làm được nhiều sản phẩm hoặc sản phẩm làm ra có chất lượng cao thì
sẽ được trả lương cao hơn và ngược lại. Chính vì vậy nó có tác dụng khuyến khích người
lao động quan tâm đến kết quả lao động sản xuất của mình, tích cực cố gắng hơn trong quá
trình sản xuất, tận dụng tối đa khả năng làm việc, nâng cao năng suất và chất lượng lao
động. Hơn nữa trả lương theo sản phẩm còn có tác dụng khuyến khích người lao động học
tập nâng cao trình độ văn hoá kỹ thuật, tích cực sáng tạo và áp dụng khoa học kỹ thuật vào
quá trình sản xuất. Điều này tạo điều kiện cho họ tiến hành lao động sản xuất với mức độ
nhanh hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao hơn. Trả lương theo sản phẩm
đòi hỏi phải có sự chuẩn bị nhất định như: định mức lao động, xây dựng đơn giá tiền lương
cho một sản phẩm, thống kê, nghiệm thu sản phẩm... đảm bảo cho quá trình tái sản xuất
được cân đối hợp lý.
Căn cứ vào đơn giá sản phẩm và đối tượng trả công, hình thức trả lương theo sản
phẩm có 5 loại sau:
Loại 1: Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:
Chế độ trả lương này được áp dụng rộng rãi với người trực tiếp sản xuất trong điều
kiện quá trình sản xuất của họ mang tính độc lập tương đối, công việc có định mức thời
gian, có thể thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể và riêng biệt.
Đơn giá tiền lương có tính chất cố định được tính theo công thức:
ĐG = L x Ds
Trong đó: ĐG: đơn giá sản phẩm
L: lương theo cấp bậc công việc hoặc mức lương giờ
Ds: định mức sản lượng
Tiền công của công nhân được tính theo công thức:
Lcn =ĐG x Q
Trong đó: Lcn: tiền lương của công nhân
Q: khối lượng sản phẩm sản xuất được
Ưu điểm nổi bật của chế độ này là mối quan hệ giữa tiền công và kết quả lao động
của họ được thể hiện rõ ràng làm cho quyền lợi và trách nhiệm của người lao động gắn
chặt với nhau do đó kích thích công nhân cố gắng nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao
năng suất lao động. Đồng thời hình thức này cũng dễ hiểu nên công nhân có thể tính được
số tiền nhận được khi hoàn thành nhiệm vụ sản xuất.
Tuy nhiên chế độ lương này còn có nhược điểm là người lao động dễ chạy theo số
lượng mà coi nhẹ chất lượng sản phẩm, ít quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc thiết bị
và nguyên vật liệu, ít quan tâm chăm lo đến công việc của tập thể.
Loại 2: Trả lương theo sản phẩm tập thể:
Chế độ trả lương này thường áp dụng đối với những công việc đòi hỏi tập thể công
nhân cùng thực hiện, có định mức thời gian dài, khó xác định kết quả của từng cá nhân. Do
vậy khi thực hiện hình thức lương này thì trước tiên phải xác định đơn giá và tiền lương
mà cả nhóm được lĩnh. Công thức tính đơn giá:
Trong đó: ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm tập thể
n
i 1
L: tổng tiền lương theo cấp bâc công việc của cả tổ
Ds: định mức sản lượng cả tổ
Đt: định mức thời gian
Tiền công của cả tổ, nhóm công nhân tính theo công thức:
LNCN = ĐG x Q
Trong đó: LNCN : tiền lương của nhóm công nhân
ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm
Q: khối lượng sản phẩm sản xuất được
L
Ds
ĐG =
n
L x
Hoặc ĐG =
n
Sau khi xác định được tiền lương cả đơn vị thì tiến hành chia lương cho từng công
nhân. Tuỳ theo tính chất công việc mà doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương
pháp chia lương sau:
a. Chia lương theo giờ – hệ số: Tiến hành qua 3 bước:
- Tính tổng số giờ hệ số của đơn vị – là số giờ qui đổi của các công nhân ở những
bậc thợ khác nhau về giờ của công nhân bậc 1. Tổng số giờ hệ số được tính bằng cách lấy
giờ làm việc của công nhân nhân với hệ số cấp bậc của người đó sau đó tổng hợp cho cả
tổ.
- Tính tiền lương 1 giờ theo hệ số bằng cách lấy tiền lương cả tổ chia cho tổng số
giờ hệ số của cả tổ đã tính đổi.
- Tính tiền lương cho từng công nhân bằng cách lấy tiền lương thực tế của một giờ
nhân với số giờ làm việc.
b. Chia lương theo hệ số điều chỉnh: làm 3 bước:
- Tính tiền lương theo cấp bậc và thời gian làm việc của mỗi công nhân sau đó
tổng hợp cho cả nhóm.
- Xác định hệ số điều chỉnh cho cả tổ bằng cách lấy tổng tiền lương thực lĩnh chia
cho số tiền lương vừa tính trên.
- Tính tiền lương cho từng người căn cứ vào hệ số điều chỉnh và tiền lương đã lĩnh
lần đầu của mỗi người.
Ngoài ra nhiều doanh nghiệp còn áp dụng việc chia lương theo phân loại lao động
ra A, B, C...
Ưu điểm: Hình thức này khuyến khích công nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách
nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả của tổ, đồng thời quan tâm đến nhau hơn để
giúp nhau cùng hoàn thành công việc.
Nhược điểm: Sản lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền công
của họ nên ít kích thích công nhân nâng cao năng suất cá nhân.
Loại 3: Trả lương theo sản phẩm gián tiếp.
Thực chất của hình thức này là dựa vào công nhân chính để tính lương cho công
nhân phụ. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp công việc của công nhân chính và
công nhân phụ gắn liền với nhau nên không trực tiếp tính được lương sản phẩm cho các
cán bộ và công nhân khác.
Căn cứ vào định mức sản lượng và mức độ hoàn thành định mức của công nhân
chính để tính đơn giá sản phẩm gián tiếp và tiền lương sản phẩm gián tiếp của công nhân
phụ. Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp dược tính theo hai bước:
Bước 1: tính đơn giá:
ĐG =
n
i 1 Ds
L
Trong đó: ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp.
L: lương cấp bậc tháng công nhân phụ, phục vụ và quản lý.
Ds: định mức sản lượng của công nhân chính trong tháng.
Bước 2: tính lương sản phẩm gián tiếp:
LGT = ĐG x Q TH
Trong đó: Q TH: sản lượng thực hiện trong tháng.
Ưu điểm cơ bản của hình thức này là làm cho mọi cán bộ công nhân viên đều quan
tâm đến vấn đề nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
Loại 4: Tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến.
Chế độ trả lương này áp dụng ở những khâu trọng yếu của sản xuất hoặc khi sản
xuất đang khẩn trương mà xét thấy việc giải quyết những tồn tại ở khâu này có tác dụng
thúc đẩy sản xuất ở những khâu khác có liên quan, góp phần hoàn thành vượt mức kế
hoạch của doanh nghiệp.
Ưu điểm của hình thức tiền lương này là khuyến khích công nhân tăng nhanh số
lượng sản phẩm, làm cho tốc độ tăng năng suất lao động nên phạm vi áp dụng chỉ đối với
khâu chủ yếu của dây chuyền hoặc vào những thời điểm nhu cầu thị trường về loại sản
phẩm đó rất lớn hoặc vào thời điểm có nguy cơ không hoàn thành hợp đồng kinh tế.
Để hình thức tiền lương này có hiệu quả cần chú ý điều kiện cơ bản là: Mức tăng
đơn giá tiền lương phải nhỏ hơn hoặc bằng mức tiết kiệm chi phí cố định nghĩa là:
Trong đó:Kđ: hệ số tăng đơn giá sản phẩm luỹ tiến.
L: hệ số tiền lương trong giá thành đơn vị sản phẩm.
H: hệ số tăng sản lượng đạt được.
C: hệ số chi phí cố định trong giá thành.
Loại 5: Trả lương khoán.
Hình thức này được áp dụng trong trường hợp không định mức được chi tiết cho
từng công việc hoặc định mức được nhưng không chính xác hoặc những công việc nếu
giao từng chi tiết, từng bộ phận sẽ không có lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng công việc
cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định.
Hình thức này khuyến khích công nhân hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn, đảm
bảo chất lượng công việc thông qua hợp đồng giao khoán. Tuy nhiên với hình thức lương
này thì khi tính toán đơn giá phải hết sức chặt chẽ, tỉ mỉ để xây dựng đơn giá tiền lương
chính xác cho công nhân nhận khoán.
Ngoài những hình thức tiền lương chủ yếu nói trên theo Nghị định 317/ C T – HĐBT
ngày 01/09/1990 các doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức trả lương theo định mức biên
chế (khoán quỹ lương). Doanh nghiệp áp dụng định mức biên chế thì quỹ lương chế độ
bằng tổng lao động định mức lao động hợp lý (sau khi đã sắp xếp lại lao động, kiện toàn tổ
chức bộ máy quản lý xác định rõ chức năng nhiệm vụ và biên chế các phòng ban). Công ty
tính toán và khoán quỹ lương cho từng phòng ban, bộ phận theo nguyên tắc hoàn thành kế
hoạch công tác. Nếu chi phí bộ máy gián tiếp ít thì thu nhập cao, ngược lại không hoàn
thành kế hoạch chi phí nhiều, biên chế lớn thì thu nhập ít.
Chế độ tiền lương khoán khuyến khích công nhân hoàn thành nhiệm vụ trước thời
hạn, đảm bảo chất lượng công việc thông qua hợp đồng giao khoán chặt chẽ. Tuy nhiên
chế độ trả lương này khi tính toán đơn giá phải hết sức chặt chẽ, tỉ mỉ để tránh gây thiệt
thòi cho người nhận khoán cũng như người giao khoán.
C x
L x H
Kđ =
2.3.3 Các loại tiền thưởng.
Tiền thưởng là một biện pháp kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối với việc
thúc đẩy người lao động phấn đấu thực hiện công việc ngày càng tốt hơn. Thưởng có rất
nhiều loại, trong thực tế doanh nghiệp có thể áp dụng một số hay tất cả các loại tiền
thưởng sau:
- Thưởng năng suất, thưởng chất lượng: áp dụng khi người lao động thực hiện tốt hơn
mức độ trung bình về số lượng, chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ.
- Thưởng tiết kiệm: áp dụng khi người lao động sử dụng tiết kiệm các loại vật tư,
nguyên vật liệu... có tác dụng giảm giá thành sản phẩm dịch vụ mà vẫn đảm bảo chất
lượng theo yêu cầu.
- Thưởng sáng kiến: áp dụng khi người lao động có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tìm ra
các phương pháp làm việc mới... có tác dụng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
- Thưởng lợi nhuận: áp dụng khi doanh nghiệp làm ăn có lãi trong trường hợp này
người lao động sẽ được chia một phần tiền dưới dạng tiền thưởng. Hình thức này áp dụng
cho công nhân viên vào cuối quý, sau nửa năm hoặc cuối năm tuỳ theo hình thức tổng kết
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thưởng do hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất: áp dụng khi người lao động
làm việc với số sản phẩm vượt mức quy định của doanh nghiệp.
2.3.4 Các loại phúc lợi.
Các loại phúc lợi mà người lao động được hưởng rất đa dạng và phong phú, nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: quy định của Chính phủ, tập quán trong nhân dân,
mức độ phát triển kinh tế, khả năng tài chính hoặc hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp.
Phúc lợi thể hiện sự quan tâm củadoanh nghiệp gồm có:
- Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế .
- Hưu trí.
- Nghỉ phép, nghỉ lễ.
- Ăn trưa do doanh nghiệp đài thọ.
- Trợ cấp của doanh nghiệp cho cán bộ công nhân viên đông con hoặc có hoàn cảnh
khó khăn.
- Quà tặng của doanh nghiệp cho cán bộ công nhân viên vào các ngày lễ, tết hoặc các
dịp sinh nhật, cưới hỏi...
- Tổ chức thăm quan, du lịch cho cán bộ công nhân viên bằng kinh phí tài trợ của cơ
quan, công đoàn cơ quan.
II. Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong doanh nghiệp.
1. Mối quan hệ giữa lao động và tiền lương.
Trong hoạt động của mình, con người luôn có mục đích cụ thể. Người lao động khi
làm việc họ thường quan tâm đến việc nhận được bao nhiêu tiền công, mức tiền công đó
có thoả mãn với mức hao phí lao động mà mình đã bỏ ra hay không, có đủ bù đắp và tích
luỹ để đảm bảo mức sống cho bản thân và gia đình hay không...Do đó, việc quan tâm tới
lợi ích của người lao động có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà quản lý, đó là yếu tố
đầu tiên và cũng là cuối cùng gắn bó người lao động với doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần
phải đảm bảo thu nhập ổn định cho người công nhân, tiền công trả cho người lao động
phải xứng đáng với khả năng, hiệu suất làm việc của họ. Đối với người lao động nếu họ
làm việc với năng suất cao, chất lượng sản phẩm làm ra tốt thì họ sẽ nhận được mức lương
tương ứng và ngược lại.
- Có thể nói tiền lương là một trong những hình thức kích thích lợi ích vật chất đối
với người lao động. Vì vậy để sử dụng đòn bẩy tiền lương nhằm đảm bảo cho sản xuất
phát triển, duy trì một đội ngũ người lao động có trình độ kỹ thuật cao với ý thức kỷ luật
tốt...thì công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp phải đặc biệt được coi trọng. Tổ
chức phân phối tiền lương trong doanh nghiệp được công bằng và hợp lý sẽ tạo ra tâm lý
thoải mái giữa người lao động, hình thành khối đoàn kết thống nhất, một lòng vì sự nghiệp
phát triển doanh nghiệp và lợi ích của bản thân họ. Chính vì vậy mà người lao động tích
cực làm việc bằng cả lòng nhiệt tình, hăng say và họ có quyền tự hào về mức lương họ đạt
được. Ngược lại khi công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp thiếu tính công bằng
và hợp lý thì không những nó đẻ ra những mâu thuẫn nội bộ thậm chí khá gay gắt giữa
những người lao động với nhau, giữa người lao động với các cấp quản trị, cấp lãnh đạo
doanh nghiệp, mà có lúc còn có thể gây nên sự phá hoại ngầm dẫn đến sự lãng phí to lớn
trong sản xuất. Vậy đối với nhà quản trị, một trong những công việc được quan tâm hàng
đầu là phải theo dõi đầy đủ công tác tổ chức tiền lương, thường xuyên lắng nghe và phát
hiện kịp thời những ý kiến bất đồng hoặc những mâu thuẫn có thể xảy ra trong phân phối
tiền lương và tiền thưởng cho người lao động, để rồi qua đó có sự điều chỉnh thoả đáng và
hợp lý. Người ta đã chứng minh rằng: nếu tiền lương đảm bảo tái sản xuất được sức lao
động theo đúng nghĩa của nó thì năng suất lao động sẽ đạt được tương đối cao và nếu quản
lý lao động tốt thì năng suất sẽ cao hơn nhiều. Ngược lại nếu tiền lương chỉ đảm bảo được
70% nhu cầu tái sản xuất sức lao động thì năng suất lao động sẽ giảm đi 50%.
Như vậy để khuyến khích người lao động làm việc thì doanh nghiệp cần phải có
chính sách, chế độ tiền lương xứng đáng, phù hợp. Đó cũng là nghệ thuật quản lý của các
nhà quản trị.
2. Các nguyên tắc quản lý, sử dụng lao động và tiền lương.
2.1 Các nguyên tắc quản lý, sử dụng lao động .
- Phải hình thành cơ cấu lao động tối ưu: Một cơ cấu lao động được coi là tối
ưu khi nó đảm bảo được về số lượng ngành nghề và chất lượng lao động thật phù hợp.
Ngoài ra phải phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận hoặc các
cá nhân với nhau, đồng thời phải tạo được sự đồng bộ, ăn khớp giữa các cá nhân, bộ phận
trong cơ cấu. Làm được như vậy thì năng suất và hiệu quả công việc sẽ đạt được mức cao
nhất.
- Phải đảm bảo cả yếu tố vật chất và tinh thần cho người lao động: Để quản lý tốt
người lao động thì nhà quản lý phải biết kết hợp khéo léo giữa lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần. Thông thường có thể dùng lợi ích vật chất để khuyến khích người lao động
nhưng cũng có trường hợp áp dụng hình thức này không có hiệu quả hoặc chỉ mang tính
chất phụ, nhất thời. Lúc này nhà quản trị phải biết kết hợp với lợi ích tinh thần như bày tỏ
sự quan tâm, thăm hỏi, động viên... để tạo dược ấn tượng trong tâm trí người lao động.
- Phải đảm bảo các yếu tố vật chất phục vụ cho nơi làm việc của người lao động như:
trang bị máy móc thiết bị, dụng cụ, nguyên vật liệu. Những yếu tố này phải đảm bảo cả về
số lượng và chất lượng.
- Phải tăng cường định mức lao động: Định mức lao động là xác định lượng hao phí
lao động tối đa để hoàn thành một đơn vị sản phẩm (hoặc một khối lượng công việc) theo
tiêu chuẩn và chất lượng quy định trong điều kiện tổ chức kỹ thuật, tâm sinh lý, kinh tế xã
hội nhất định, lượng lao động phải được lượng hoá bằng những thông số có độ chính xác
và đảm bảo đô tin cậy. Xác định được định mức lao động sẽ xác định được những trách
nhiệm và kết quả lao động của mỗi người, là cơ sở để xây dựng kế hoạch tiền lương, xây
dựng phương án tối thiểu hoá chi phí.
Ngoài ra phải không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, chính trị tư tưởng, chuyên
môn nghiệp vụ đồng thời tăng cường kỷ luật lao động đảm bảo điều kiện an toàn cho
người lao động.
2.2 Các nguyên tắc của việc quản lý, sử dụng tiền lương.
- Phải xây dựng được một quy chế trả lương đầy đủ, rõ ràng và thống nhất. Để đảm
bảo được tính dân chủ, công khai, bản quy chế trả lương phải được sự tham gia đóng góp
của Ban chấp hành công đoàn và phổ biến công khai đến từng người lao động, đồng thời
phải đăng ký với cơ quan giao đơn giá tiền lương của doanh nghiệp.
- Công tác xây dựng đơn giá tiền lương và xác định quỹ tiền lương phải đảm bảo
chặt chẽ và có độ chính xác cao để không gây thiệt thòi cho gười lao động cũng như người
trả lương. Quỹ tiền lương phải được phân phối trực tiếp cho người lao động trong doanh
nghiệp, không được sử dụng vào mục đích khác.
Việc trả lương phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
- Phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Điều này bắt nguồn từ bản chất tiền
lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu
của người lao động, do đó tiền lương không những phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động
mà còn phải đảm bảo nuôi sống gia đình họ. Không những thế, tiền lương còn phải đủ tích
luỹ, tiền lương ngày mai phải cao hơn hôm nay.
- Tiền lương trả cho người lao động phải dựa trên cơ sở sự thoả thuận giữa người
sử dụng lao động và người lao động thông qua bản hợp đồng lao động. Chí ít thì mức
lương nhận được của người lao động cũng phải bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước quy
định.
- Việc trả lương cho từng bộ phận, cá nhân người lao động theo quy chế chủ yếu
phụ thuộc vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác, giá trị cống hiến của từng bộ phận
cá nhân người lao động, không phân phối bình quân.Đối với người lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao, giỏi, giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thành nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh của đơn vị thì mức tiền lương và thu nhập phải được trả thoả đáng.
Phần 2
Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt – May Hà Nội.
a. Vài nét khái quát về Công ty.
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty Dệt – May Hà Nội ( tiền thân là Nhà máy Sợi Hà Nội – Xí nghiệp liên hợp
Sợi – Dệt kim Hà Nội - Công ty Dệt kim Hà Nội ) có trụ sở đặt tại số 1 Mai Động – quận
Hai Bà Trưng – Hà Nội, có tổng diện tích 24 ha, là một doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Công
nghiệp. Trang thiết bị của Công ty đều là từ Italia, Cộng hoà Liên bang Đức, Bỉ, Hàn
Quốc, Nhật Bản...Công ty chuyên sản xuất kinh doanh xuất khẩu các loại sản phẩm sợi,
dệt kim có chất lượng cao.
Ngày 7/4/1978 Tổng Công ty xuất nhập khẩu thiết bị Việt Nam và hãng
Unionmatex (CHLB Đức) ký hợp đồng xây dựng Nhà máy sợi Hà Nội. Ngày 21/11/1984
chính thức bàn giao công trình cho nhà máy quản lý. Nhà máy vừa hoạt động sản xuất vừa
đầu tư xây dựng thêm dây chuyền sản xuất.
Tháng 6/1990, Bộ Kinh tế đối ngoại cho phép nhà máy kinh doanh xuất nhập khẩu
trực tiếp, tên giao dịch là HANOSIMEX.
Tháng 4/1991 Bộ Công nghiệp quyết định tổ chức hoạt động Nhà máy sợi Hà Nội
thành Xí nghiệp liên hiệp sợi - dệt kim Hà Nội. Trong gần 5 năm, Nhà máy không ngừng
phát triển với quy mô sản xuất ngày càng lớn mạnh. Nhà máy đã sát nhập Nhà máy sợi
Vinh, Nhà máy dệt Hà Đông, Nhà máy thêu Đông Mỹ thành các xí nghiệp thành viên.
Tháng 6/1995, Nhà máy được đổi tên thành Công ty dệt Hà Nội và đến tháng
3/2000, Công ty đổi tên thành Công ty Dệt – May Hà Nội. Trải qua hơn 20 năm xây dựng
và trưởng thành, Công ty đã khẳng định được vị trí của mình trong ngành sản xuất dệt sợi
trong và ngoài nước. Sản phẩm của Công ty đã có mặt trên thị trường nhiều nước như:
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, úc,Thái Lan... Hiện nay, Công ty Dệt May Hà Nội có 9 đơn
vị thành viên:
- Tại quận Hai Bà Trưng Hà Nội gồm:
Nhà máy sợi; Nhà máy May 1, 2; Nhà máy dệt nhuộm; Nhà máy cơ điện; Nhà máy
dệt vải DeNim
Tháng 7 năm 2001 có thêm nhà máy may 3. Ngoài ra còn có một số xí nghiệp sản
xuất ống giấy, bao bì, nhựa đóng gói tự hạch toán kinh doanh
- Tại huyện Thanh Trì, Hà Nội có Nhà máy may Đông Mỹ
- Tại thị xã Hà Đông – Hà Tây có Nhà máy dệt Hà Đông.
- Tại thành phố Vinh – Nghệ An: Nhà máy Sợi Vinh
Ngoài ra còn có nhiều cửa hàng thương mại dịch vụ, cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
Năng lực sản xuất của Công ty.
- Năng lực kéo sợi: Tổng số có 150.000 cọc sợi với sản lượng 10.000 tấn/ năm.
- Năng lực dệt kim:
Sản phẩm vải các loại là 4.000 tấn / năm.
Sản phẩm may là 8 triệu/năm (trong đó 7 triệu là sản phẩm xuất khẩu )
Sản phẩm khăn bông 1.000 tấn /năm
- Tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân là 30 triệu USD/năm.
- Là một doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Công nghiệp, trong cơ chế thị trường để đứng
vững và ngày một phát triển trong nước cũng như trên thị trường quốc tế thì sản phẩm của
Công ty phải ngày càng phong phú về chủng loại và mẫu mã.
Công ty chuyên sản xuất kinh doanh xuất khẩu các loại sản phẩm như:
+ Các loại vải đơn và sợi xe có chất lượng cao như: sợi Cotton, Sợi peco, Sợi Pe với
chỉ số trung bình (NE ) là: 36/I
+ Các loại dệt kim thành phẩm: Rb, Interlob, single, các sản phẩm may mặc lót,
mặc ngoài bằng vải dệt kim.
+ Các loại khăn bông, lều du lịch.
Công ty chuyên nhập các loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất: bông Polyeste,
phụ tùng thiết bị chuyên ngành hoá chất, thuốc nhuộm.
II. Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty.
1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Nhà máy sợi, sợi Vinh: chuyên sản xuất sợi cho dệt vải.
- Nhà máy dệt nhuộm : sản xuất vải dệt kim (gồm vải mộc và vải thành phẩm đã qua
nhuộm).
- Nhà máy dệt Hà Đông sản xuất khăn mặt bông, lều, bạt xuất khẩu, may mũ.
- Các Nhà máy may: may các sản phẩm may, dệt kim, dệt thoi.
- Nhà máy cơ điện: gia công các phụ tùng thiết bị, sửa chữa hỏng hóc cho cả các dây
chuyền sản xuất của Công ty, sản xuất ống giấy túi PE, vành chống bẹp cho sợi, bao bì...
Cung cấp điện, nước, khí nén... cho các đơn vị.
2. Về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm.
Công ty đã chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ sản xuất để
đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường quốc tế và thị trường trong nước cả về chủng loại
chất lượng sản phẩm, hình thức mẫu mã. Hơn 2/3 chủng loại sản phẩm kiểu cũ đã được
chuyển sang loại mới cải tiến như: sợi PeCo, Ne 83/17, sợi Cotton Ne30, Ne 32 Cotton dệt
kim, quần áo, khăn... Các sản phẩm được cải tiến đảm bảo chất lượng về kỹ thuật, tiết
kiệm về vật tư cũng như thời gian.
Ngày nay cùng với sự tăng trưởng và phát triển về kinh tế của đất nước kéo theo sự
tăng trưởng về tiêu dùng, đặc biệt là nhu cầu về may mặc. Do đó tiềm năng phát triển về
ngành dệt may Việt Nam là rất lớn. Đó chính là tiền đề thuận lợi cho việc mở rộng và phát
triển sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, cơ cấu tiêu dùng sản phẩm dệt may lại
có xu hướng thay đổi. Tỉ lệ sản phẩm có chất lượng cao sẽ tăng lên và ngược lại tỉ lệ tiêu
dùng các sản phẩm có chất lượng thấp sẽ giảm xuống. Do vậy đã đặt cho công ty những
thách thức mới đòi hỏi phải có chiến lược kinh doanh đúng đắn để dần chiếm lĩnh thị
trường, cạnh tranh với những sản phẩm dệt may của các công ty khác trong và ngoài nước.
Công ty đã tiến hành sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng, đáp ứng được nhu cầu đa
dạng của thị trường và từ đó tạo thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
của Công ty, đồng thời tránh được rủi ro trong kinh doanh. Song, để có thể mở rộng được
thị phần của mình trong nước cũng như trên thế giới thì đòi hỏi Công ty phải có chính
sách, chiến lược đúng đắn, phù hợp với từng loại sản phẩm trong từng giai đoạn phát triển.
III. Mô hình tổ chức và cơ cấu bộ máy của Công ty.
1. Đặc điểm về bộ máy quản lý.
Công ty thực hiện chế độ quản lý một thủ trưởng trên cơ sở quyền làm chủ của tập
thể lao động. Tổng Giám đốc công ty do Chính phủ bổ nhiệm, là người đại diện pháp nhân
cho Công ty, điều hành mọi hoạt động của Công ty và chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật nhà nước. Giúp việc cho Tổng giám
đốc Công ty có 4 Phó Tổng giám đốc điều hành do Tổng giám đốc chọn và đề nghị Tổng
Công ty dệt may Việt Nam bổ nhiệm. Các bộ phận quản lý cấp giám đốc, phó giám đốc
các Nhà máy thành viên, trưởng phó các phòng ban, trưởng phó các đơn vị trung tâm kiểm
tra chất lượng sản phẩm, y tế, dịch vụ do Tổng giám đốc bổ nhiệm sau khi đã lấy ý kiến
Thường vụ Đảng uỷ, phiếu thăm do tín nhiệm của tập thể cán bộ quản lý.
Các phòng ban có chức năng, nhiệm vụ cụ thể rõ ràng, do Tổng giám đốc quy định
và có mối quan hệ mật thiết với nhau trong việc lập – thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm của công ty.
Mỗi Nhà máy thuộc Công ty là một đơn vị tổ chức sản xuất. Giám đốc các Nhà máy
thành viên chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc Công ty về toàn bộ hoạt động sản xuất,
theo phân cấp quản lý của Công ty.
Biểu 1. Sơ đồ tổ chức Công ty Dệt May Hà Nội
Ban CBSX
MN may 3
tổng giám đốc
Phó tổng
giám đốc
kiêm đại
Phó tổng
giám đốc
II
Phòng
Ktoán-
Tchính
Phó tổng
giám đốc
III
Phó tổng
giám đốc
IV
Phòng
Kthuật-
Đtư
Nhà máy
sợi
Nhà máy
dệt
DENIM
Các Nhà
máy dệt
sợi khác
Phòng
Ktoán-
Tchính
Phòng Xuất
nhập khẩu
Trung tâm
y tế
Phòng
Đời sống
Phòng
Tchức-
Hchính
Trung tâm
TN_KTCLSP
MN Dệt nhuộm
MN May1
MN may 2
MN may Đông
Mỹ
MN cơ điện
Qua sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty ta thấy đặc trưng quản lý của
Công ty Dệt- May Hà Nội là quản lý trực tuyến chức năng. Cơ cấu này chỉ đạo sản
xuất kinh doanh một cách nhạy bén, kịp thời, đảm bảo phát huy những ưu điểm của
chế độ một thủ trưởngvà thế mạnh của các bộ phận chức năng.
2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước chuyển nền kinh tế từ bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa thì ngoài việc kinh doanh để duy trì hoạt động và tạo thêm công ăn việc làm,
thu nhập cho người lao động Công ty còn mở rộng thị trường với các nước khác. Hầu
hết các thiết bị máy móc trên dây chuyền sản xuất của Công ty được trang bị là nhập
từ Italia, sản xuất vào những năm 1978-1979, chất lượng máy móc thiết bị chỉ đạt ở
mức tương đối.
Do vậy sản phẩm của Công ty mặc dù rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, kích
cỡ với những chỉ số kỹ thuật khác nhau nhưng cũng chưa thực sự đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng. Chính vì vậy mà sản xuất được hàng có chất lượng cao phục
vụ cho xuất khẩu là rất khó khăn. Hiện nay hàng may mặc của Công ty sản xuất để
xuất khẩu sang thị trường Đài Loan, Nhật Bản và một số nước EU, Mỹ => Tỷ lệ xuất
khẩu chiếm trên 80% sản phẩm sản xuất ra. Công ty Dệt -May Hà Nội là một doanh
nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị trường có nhiệm vụ vừa sản xuất vừa tiêu thụ hàng
hoá. Mặt hàng chính của Công ty là sản phẩm sợi và dệt kim, đây là những sản phẩm
mà trên thị trường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh. Sợi là sản phẩm truyền thống và
hiện nay vẫn là sản phẩm chủ lực của công ty. Loại sản phẩm này rất quan trọng vì nó
là nguyên vật liệu đầu vào cho công nghệ dệt vải mà nhu cầu sử dụng vải thường tăng
theo mức tăng trưởng của nền kinh tế nên nó đòi hỏi ngày càng có những sản phẩm
chất lượng cao. Xác định được nhiệm vụ của mình, Công ty đã quán triệt phương
châm sản xuất:
- Chỉ đưa vào chiến lược kế hoạch sản xuất mặt hàng đã được ký hợp
đồng hoặc chắc chắn được tiêu thụ trên thị trường.
- Sản xuất cái thị trường cần chứ không sản xuất cái mình sẵn có. Do đó
sau mỗi kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty thường căn cứ kết quả tiêu thụ
sản phẩm trên thị trường để làm tiền đề cho kỳ sau.
Mỗi sản phẩm có một đặc điểm riêng biệt và chiếm vị trí khác nhau trong quá
trình sản xuất kinh doanh của Công ty cũng như trên thị trường. Do vậy việc hiểu rõ
đặc điểm sản phẩm và vị trí của nó sẽ giúp cho quá trình quản lý và hoạch định chiến
lược kinh doanh hợp lý.
Song song với sự phát triển sản xuất, thiết bị máy móc hiện nay của Công ty
chủ yếu nhập từ Nhật, Đức,ý, Bỉ, nguồn vốn của Công ty cũng không ngừng được
củng cố và gia tăng nhanh chóng. Tổng số vốn đầu tư năm 1996 là 7,8 tỷ đồng và năm
2000 đầu tư xây dựng Nhà máy Dệt vải DENIM, đầu tư năm 2000 là 166 tỷ đồng. Với
nguồn vốn lớn Công ty có điều kiện để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh,
nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh khả năng mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
IV. Kết quả sản xuất kinh doanh những năm gần đây.
Công ty Dệt - May Hà Nội là một doanh nghiệp lớn với nhiều chủng loại, sản
phẩm phong phú, đa dạng. Doanh thu hàng năm của Công ty trên 450 tỷ đồng, đóng
góp không nhỏ vào nguồn ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho hơn 5.000
cán bộ công nhân viên đồng thời cung cấp các sản phẩm may mặc, dệt kim, các sản
phẩm khăn bông, sản phẩm sợi cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sản
phẩm của Công ty hiện nay đã tạo được uy tín đối với khách hàng trong và ngoài
nước.
Sau đây là biểu 2 phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh những năm
gần đây:
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
1998 1999 2000
Giá trị tổng sản lượng.
Tổng doanh thu.
Nộp ngân sách.
Thu nhập bình quân.
Hệ số lương
Năng suất lao động bình
quân
Quỹ lương trích vào giá
thành
Kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu.
Lợi nhuận.
1000 đ
1000 đ
1000 đ
đ/ ng/ th
hệ số
đ /ng
đ
1000
USD
1000
USD
đ
400.246
379.306
8.696
812.000
2.45
71.288.797
47.480.702.9
33
13.479
11.531
1.500.000.00
0
428.000
434.500
5.548
950.325
2,49
78.125.000
49.473.869.8
08
13.667
11.901
2.113.697.72
6
462.00
0
470.00
0
4.500
1.213.155
2,55
103.143.033
56.638.159.8
02
14.900
20.700
2.056.000.00
0
Qua bảng trên ta thấy về mặt quy mô doanh thu của Công ty tăng đều qua các
năm và cả lợi nhuận cũng vậy. Điều này thể hiện chiến lược kinh doanh đúng đắn của
Công ty từng giai đoạn phát triển. Cùng với sự tăng nhanh về doanh thu thì quỹ lương
của Công ty cũng ngày càng lớn mạnh. Nhờ vậy thu nhập của người lao động cũng
ngày được cải thiện đa dạng là yếu tố quan trọng giúp cho Công ty phát triển hơn.
B. Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty.
I. Công tác tổ chức quản lý, sử dụng lao động.
1.Đặc điểm về lao động.
Công ty Dệt - May Hà Nội mới được xây dựng trong điều kiện kinh tế chuyển
sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy công nhân vào Công
ty được tuyển chọn kỹ lưỡng, có trình độ văn hoá, được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn
kỹ càng. Lao động nữ chiếm 70% tổng số, số lao động trực tiếp tham gia vào sản xuất
92% và lao động gián tiếp 8%, bao gồm:
- Quản lý kinh tế.
- Quản lý kỹ thuật.
- Nhân viên hành chính.
- Nhân viên khác phục vụ cho sản xuất.
Với chủ trương nâng cao chất lượng lao động, Công ty đã thực hiện việc sắp
xếp lại bộ máy sản xuất, giảm lao động nên đến năm 2000, Công ty chỉ còn 5008 lao
động với trình độ và tay nghề cao. Độ tuổi trung bình của lao động trong Công ty là 27
tuổi. Đó là một thuận lợi lớn cho công ty trong việc phát huy khả năng của người lao
động.
Biểu 3: Cơ cấu lao động của Công ty.
Năm Quản lý LĐ kỹ thuật LĐ trực tiếp Tổng lao động
ĐH Dưới
ĐH
ĐH Dưới
ĐH
ĐH Dưới
ĐH
Nam Nữ
1998 75 8 215 172 95 4764 1599 3730
1999 79 5 235 118 79 4732 1574 3674
2000 88 50 279 163 83 4345 1455 3553
1.1 Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật.
Đặc điểm chính về lao động của Công ty là nữ chiếm khoảng 70% tổng số lao
động, doanh nghiệp đã được Sở Lao động và Thương binh xã hội xác nhận Công ty
Dệt-May Hà Nội đủ điều kiện là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. Đặc biệt là
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của Công ty đã được đào tạo qua trường lớp về
những ngành nghề khác nhau.
Dưới đây là biểu 4: Báo cáo về đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật.
BIểu 4: Báo cáo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật.
(Đến ngày 31/10/2000)
Nội dung Tổng
số
Trong đó Độ tuổi
Nữ Trên
ĐH
ĐH CĐ TC Dưới
30
31-40 41-50 Trên
50
1.Tổng số CB CNV
2.Cán bộ quản lý:
-T GĐ, PTGĐ, CTCĐ, KTT
-Trưởng, phó phòng, Phó CTCĐ
-GĐ Nhà máy thành viên
-Trưởng ca
-Tổ trưởng kỹ thuật nghiệp vụ
-Tổ trưởng sản xuất, phục vụ sản xuất
3.Cán bộ chuyên môn kỹ thuật
-Kế toán tài chính
-Quản trị kinh doanh
-Ngoại thương
-Luật
-Kỹ thuật cơ khí
4732
288
6
30
9
6
20
199
328
86
54
3
4
13
3110
149
3
19
3
6
9
101
169
52
32
1
2
5
1
1
4
280
87
6
25
8
17
17
193
40
36
3
4
10
22
3
1
2
19
175
47
3
1
6
3
32
112
46
18
3
1879
33
1
1
31
116
43
16
2
1
1783
145
2
7
3
13
110
141
30
27
1
2
5
1022
85
1
14
6
3
3
53
60
11
11
2
4
48
25
3
8
3
3
3
5
11
2
3
-Kỹ thuật lạnh thông gió
-Kỹ thuật điện
-Kỹ thuật điện tử, vi tính
Kỹ thuật công nghệ
- Sợi
- Dệt
- Nhuộm
- May
6
13
8
96
33
21
26
16
2
1
49
16
10
13
10
4
1
3
6
12
4
60
26
16
14
4
1
4
12
1
5
6
20
6
1
7
6
1
3
4
32
4
6
11
11
1
3
1
55
27
13
10
5
3
6
3
6
2
1
3
1
1
3
1
2
1.2 Công nhân kỹ thuật.
Chất lượng của công nhân kỹ thuật là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo chủ trương
chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước, điều này đã buộc các doanh nghiệp phải ra sức cạnh tranh với nhau để có được
chỗ đứng trên thị trường. Công ty Dệt- May Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật
ấy, để hàng hoá của mình được người tiêu dùng chấp nhận thì các vấn đề về giá cả,
chất lượng sản phẩm được Công ty rất coi trọng. Vì thế mà chất lượng công nhân kỹ
thuật phải được quan tâm đúng mức. Có thể nói đây là một trong những yếu tố ảnh
hưởng tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Biểu 5: Báo cáo chất lượng công nhân kỹ thuật. (đến 31/10/2000)
37
Biểu 5: báo cáo chất lượng công nhân kỹ thuật.
(Đến 31/10/2000 )
Nội dung Tổng số Trong đó Độ tuổi
Nữ Bậc 5 Bậc 6 Bậc 7 Dưới 30 31-40 41-50 Trên 50
Công nghệ dệt
Công nghệ sợi
Công nghệ nhuộm
Công nghệ may
Bảo toàn bảo dưỡng sợi
Bảo toàn bảo dưỡng dệt
Bảo toàn bảo dưỡng nhuộm
Bảo toàn bảo dưỡng may
Cơ khí
Điện
151
1213
61
1327
200
63
14
23
51
100
140
1044
1161
35
1
10
24
14
351
1
10
92
10
4
2
18
45
2
56
13
1
24
10
1
4
1
78
270
35
1059
54
1
5
12
13
31
60
507
20
240
110
10
6
9
17
43
13
430
6
28
36
51
3
2
21
26
6
1
38
Lạnh, thông gió, lò hơi.
Vận chuyển, phục vụ khác
108
805
13
514
41
149
18
79
7
23
149
46
429
37
224
2
3
4116 2942 737 203 13 1730 1497 877 12
2. Tổ chức và quản lý sử dụng lao động trong Công ty.
2.1. Tuyển chọn lao động.
Trong cơ chế mới này, Công ty đã xác định: “ Để tồn tại và phát triển không
những phải có chiến lược sản xuất kinh doanh mà cần phải có chiến lược về lao động.”
(Tức là phải xây dựng và phát triển một đội ngũ lao động phù hợp với các yêu cầu của
sản xuất kinh doanh cả về số lượng và chất lượng, một đội ngũ lao động có đủ phẩm
chất và kỹ năng cần thiết đáp ứng các mục tiêu sản xuất kinh doanh trước mắt cũng
như về lâu dài ). Chính vì vậy mà Công ty rất coi trọng chính sách tuyển chọn lao
động.
- Trước khi tuyển chọn lao động, Công ty tiến hành thu hút tìm kiếm (tuyển
mộ) các ứng cử viên cho Công ty thông qua quảng cáo và qua các tổ chức giáo dục.
- Thông qua quảng cáo là biện pháp đơn giản nhất, Công ty thông báo trên các
tờ báo Lao động, báo Nhân dân hay trên các dịch vụ truyền tin. Trong thông báo Công
ty thường xuyên nêu những nhiệm vụ chung của công việc và những yếu tố cần thiết
như: bằng cấp, tư chất của những người có nhu cầu được làm việc trong Công ty.
- Thông qua tổ chức giáo dục là biện pháp tuyển chọn mà Công ty hay sử dụng
nhất. Ngoài việc cử người đến các trường Đại học để tuyển những sinh viên vừa tốt
nghiệp, Công ty còn đồng ý cho những sinh viên các trường đến thực tập. Trong quá
trình thực tập, Giám đốc cùng những người trực tiếp hướng dẫn thấy sinh viên nào có
khả năng phù hợp với công việc thì Công ty sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để sau khi
ra trường, sinh viên có thể về Công ty làm việc.
- Sau khi tuyển chọn xong, Công ty sẽ tiến hành tuyển chọn lao động thích ứng
với từng nhiệm vụ, từng công việc. Quá trình tuyển chọn được Công ty tiến hành một
cách đơn giản nhưng mang lại hiệu quả cao.
- Công ty yêu cầu những người đến xin việc nộp hồ sơ bao gồm: sơ yếu lý lịch
gồm những thông tin: tuổi, giới tính, học vấn, những chứng chỉ về trình độ chuyên
môn của người đến xin việc, và khám sức khoẻ qua hội đồng sức khoẻ của trung tâm y
tế Công ty.
- Bước tiếp theo là phỏng vấn những người đã vượt qua thử thách ban đầu bằng
cách cho các ứng cử viên trả lời những bài kiểm tra, những câu hỏi trắc nghiệm về kỹ
năng, về sự thông minh của chính bản thân họ. Đồng thời cũng để đánh giá xem thái
độ của họ đối với công việc ra sao.
- Công ty thực hiện bước này nhằm mục đích tạo cho người đại diện Công ty và
nhân viên tương lai gặp gỡ, tìm hiểu về nhau nhiều hơn, qua đó Công ty sẽ quyết định
xem ứng cử viên nào thích hợp với chức vụ, công việc còn trống của Công ty.
- Thử việc ( từ 1-6 tháng)
- Ký hợp đồng chính thức với người lao động sau thời gian thử việc.
2.2 Thời gian làm việc và chế độ nghỉ ngơi.
Những người làm việc ở các phòng nghiệp vụ tại văn phòng của Công ty thì
làm việc theo giờ hành chính, những người lao động làm việc trực tiếp khác: bảo vệ,
lái xe, tạp vụ... làm việc theo ca, tuỳ theo yêu cầu công việc cụ thể. Đối với lao động
nữ, nếu có thai từ 7 tháng hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi thì sẽ không phải
làm việc ban đêm. Người lao động được nghỉ làm việc hưởng nguyên lương theo chế
độ Nhà nước quy định, theo lương cấp bậc.
Giờ làm việc của cán bộ công nhân viên áp dụng như sau:
- Đối với khối làm việc theo giờ hành chính sáng từ 7h30 đến 12 h chiều từ 13 h
đến 16h30
- Khối theo ca: (công nhân sản xuất sợi, dệt, nhuộm, bảo vệ, nhà ăn)
+ Ca sáng: từ 6 h đến 14 h nghỉ giữa giờ 30phút
+ Ca chiều : từ 14 h đến 22 h, nghỉ giữa giờ 30 phút.
+ Ca đêm : từ 22 h đến 6 h sáng hôm sau, nghỉ giữa giờ 45 phút.
Một năm được nghỉ 8 ngày vào những ngày lễ, tết, quốc khánh theo quy định
của Nhà nước.
Số ngày làm việc theo chế độ được xác định theo công thức:
NCCĐ = NL (L + T + NC)
Trong đó:
NCCĐ : ngày làm việc theo chế độ quy định.
NL: số ngày theo lịch trong một năm ( 365 ngày).
L : số ngày nghỉ lễ trong một năm ( 5ngày)
T: số ngày nghỉ tết trong một năm ( 3 ngày)
NC: số ngày nghỉ chủ nhật trong năm ( 53 ngày )
Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch sử dụng thời gian lao động giao cho các đơn
vị. Sau 6 tháng, Công ty tổ chức phân tích tình hình sử dụng thời gian lao động của
nhà máy thành viên.
Tính toán thời gian làm việc sẽ cho biết những thông tin về quỹ thời gian làm
việc có thể và tối đa của doanh nghiệp cũng như của bản thân từng cán bộ công nhân
viên trong năm, quý, tháng, tuần, thậm chí là trong ngày. Từ đó có thể so sánh để biết
được mức độ sử dụng thời gian thực tế và những nguyên nhân không sử dụng hết thời
gian có thể, tối đa. Thời gian làm việc có ảnh hưởng đến năng suất lao động, giá thành
sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Tình hình quản lý và bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong
Công ty.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay đang đòi hỏi nguồn
nhân lực có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và
công nhân lành nghề là tài sản quý giá của doanh nghiệp, là nguồn lực rất quan trọng,
có tính chất quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Công ty Dệt- May Hà Nội có
trên 600 cán bộ công nhân viên kỹ thuật có trình độ từ trung cấp trở lên. trong những
năm qua, số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật bị giảm nhiều, một phần do việc sáp nhập
các đơn vị mới vào Công ty, nhiều cán bộ nghiệp vụ và kỹ thuật không yên tâm công
tác đã xin chuyển công tác đi cơ quan khác. Một số cán bộ kỹ thuật của Công ty xin
thôi việc, chuyển công tác sang những nơi có thu nhập cao hơn, phần lớn là sang liên
doanh. Hiện tượng “chảy máu chất xám” ngày càng nhiều do cơ chế thị trường.
Mặc dù biến động như vậy nhưng cho đến nay Công ty vẫn có một đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật đông đảo với đủ các ngành nghề, nhiều kinh nghiệm đã và đang
phát huy vai trò hết sức to lớn và toàn diện trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và quản lí
Công ty. Công ty có chính sách duy trì đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật do chế độ
chính sách về tiền lương mà Nhà nước ban hành còn nhiều bất hợp lý, đặc biệt là
lương cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ nghiệp vụ còn quá thấp so với
lương công nhân trực tiếp sản xuất, thêm vào đó mức thu nhập bình quân của Công ty
chưa cao so với các đơn vị khác trong khu vực nhất là sau khi sáp nhập thêm Nhà máy
sợi Vinh và Nhà máy dệt Hà Đông. Do vậy, để xây dựng một chế độ lương và thu
nhập của cán bộ khoa học kỹ thuật nói riêng và toàn Công ty nói chung, Công ty có
chính sách tăng lương hợp lí để có thể duy trì và thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật gắn
bó với Công ty
Công ty đã bố trí sử dụng cán bộ khoa học kỹ thuật đúng ngành nghề tạo điều
kiện để cán bộ phát huy kiến thức chuyên môn đã được đào tạo và năng lực sở trường
của từng người. Đồng thời thường xuyên mở lớp gửi đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn, kỹ thuật cho cán bộ khoa học kỹ thuật của Công ty. Qua đó phát hiện bồi dưỡng
đào tạo bổ nhiệm đề bạt nhiều cán bộ vào vị trí lãnh đạo chủ chốt của Công ty.
Về chế độ lương và thu nhập, Công ty đã trả lương cho cán bộ khoa học kỹ
thuật theo mức lương cấp bậc công việc cho từng chức danh. Xây dựng quy chế trả
phụ cấp lương cho lao động giỏi, thêm mức thu nhập hàng tháng. Đây chỉ là giải pháp
để động viên cán bộ công nhân viên. Nếu mức thu nhập chung toàn Công ty không
nâng lên được thì thu nhập của cán bộ khoa học kỹ thuật cũng chưa thể tương xứng và
càng không thể theo kịp thu nhập ở các văn phòng đại diện, các công ty nước ngoài.
Hiện nay, cùng với khó khăn về sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt- May Hà
Nội còn đứng trước tình trạng thiếu cán bộ đầu đàn vừa có tiềm năng trí tuệ vừa có
kinh nghiệm đièu hành quản lý sản xuất có khả năng tiếp nhận công nghệ mới, giỏi
ngoại ngữ. Giải quyết nhu cầu cán bộ khoa học kỹ thuật cho Công ty trong thời gian
sắp tới là một trong nhữngvấn đề lớn và bức thiết, cần có chủ trương và biện pháp tổng
hợp.
II. Công tác tổ chức quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty.
1.Công tác quản lý tiền lương.
Công ty đã tiến hành khảo sát lại năng lực sản xuất, tổ chức lại lao động, rà soát
lại định mức để giao quỹ lương cho các Nhà máy thành viên quản lý. Công ty cũng có
những thay đổi lớn nhằm hoàn thiện và nâng cao vai trò của công tác trả lương, trả
thưởng, các điều kiện, căn cứ trả lương được xây dựng lại đã tạo được niềm tin cho
cán bộ công nhân viên đối với Công ty.
Công ty thực hiện chế độ khoán quỹ tiền lương cho từng đơn vị trong Công ty
với những hình thức khác nhau nhằm phù hợp với điều kiện sản xuất của mỗi đơn vị.
1.1 Đối với các Nhà máy may, Nhà máy sợi, Nhà máy dệt nhuộm, Nhà máy dệt
Hà Đông (bộ phận sản xuất khăn): thực hiện hình thức khoán quỹ tiền lương và thu
nhập trong doanh thu theo chi phí sản xuất.
1.2 Đối với Nhà máy cơ điện và khối phòng ban Công ty: thực hiện hình thức
khoán quỹ tiền lương và thu nhập theo tỉ lệ % tiền lương trên doanh thu tạm tính theo
sản phẩm nhập kho Công ty.
1.3 Đối với các đơn vị thuộc khối phòng ban Công ty: thực hiện khoán quỹ tiền
lương theo lao động định biên.
1.4 Đối với tổ bốc xếp sợi, tổ bao gói, phòng sản xuất kinh doanh thực hiện
khoán quỹ tiền lương theo sản phẩm cuối cùng.
2 Xác định quỹ tiền lương của đơn vị theo mức lương cấp bậc công việc bình
quân và lao động định biên.
2.1. Phương pháp xây dựng quỹ xây dựng lương khoán
2.1.1 Chỉ tiêu về lao động :
- Căn cứ vào hao phí lao động tổng hợp, định mức lao động cá biệt của các nhà
máy để tính lao động KH của đơn vị. Lao động định biên của khối phòng ban và tình
hình sử dụng lao động thực tế của các đơn vị để xác định tổng quỹ thu nhập
LĐ đb = L yc + Lpv + L quản lý
Trong đó:
LĐ đb: Lao động định biên
Lyc: Lao động trực tiếp SXKD tính theo từng chức danh nghề theo định mức
lao động từng công đoạn sản xuất
Lpv: Lao động phục vụ tính theo định mức lao động, định biên.
Lql: Lao động quản lý tính theo định biên lao động
2.1.2 Chỉ tiêu thu nhập lương
a. Xác định hệ số lương cấp bậc công việc bình quân:
Căn cứ vào kế hoạch lao động hàng năm, mức lương cán bộ công nhân và hế số
phân phối thu nhập đã xác định cho từng chức danh nghề, xác định mức lương cấp bậc
công việc bình quân (hệ số lương cấp bậc công việc bình quân) và hệ số phân phối thu
nhập bình quân của đơn vị
b. Xác định mức lương tối thiểu của đơn vị (T min)
- Theo quy định tại NĐ 06/CP ngày 21/1/1997, mức lương tối thiểu chung là
180.000 đồng/tháng. Khi Chính phủ quy định lại mức lương tối thiểu thì tiền lương
của cán bộ công nhân được điều chỉnh theo.
Kđc: Hệ số điều chỉnh tăng thêm của Doanh nghiệp
Căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch thu nhập trong năm của
các đơn vị đã thông qua Đại hội CVVC, Công ty sẽ cân đối hệ số điều chỉnh Kđc cho
các đơn vị theo từng khu vực sản xuất để đảm bảo sản xuất phải có lợi nhuận.
* Hệ số cấp bậc công việc:
- Căn cứ vào kế hoạch lao động hàng năm, mức lương cấp bậc công việc đã
được xác định cho từng chức danh nghề, xác định mức lương và hệ số cấp bậc công
việc bình quân của đơn vị
- Công thức
Hcb =
n
i
LDdbiHcbi
1
*
n
i
LDdbi
1
Trong đó:
Hcbi : Hệ số CBCV của chức danh i
LĐ đbi : Lao động định biên có chức danh i
Hcb : Hệ số CBCV b/q của đơn vị
* Mức lương CBCV (CVbq) : CVbq = Tmin * Hcb
* Hệ số phân phối thu nhập bình quân (HTN): HTN = Hi * LĐđb
Trong đó:
Hi: Hệ số phân phối thu nhập của chức danh i
* Quỹ tiền lương theo lương CBCV và hệ số phân phối thu nhập:
QTL = CVbq * LĐ đb * HTN * K đ/c
2.2 Xác định đơn giá tiền lương
Đơn giá tiền lương được xác định trên cơ sở cấp bậc công việc, định mức lao
động, định mức phụ cấp. Mỗi mặt hàng chỉ được tính một đơn giá nhất định. Mặt hàng
khác nhau thì đơn giá cũng khác nhau. sản phẩm có chất lượng khác nhau có các tính
cách tính khác nhau. Mặt khác, đơn giá tiền lương có tính chất tương đối khi mức tiền
lương thay đổi thì cũng phải tính lại đơn giá tiền lương.
a. Xác định tỉ lệ % thu nhập lương trên doanh thu: (Cơ điện, phòng ban)
Tỉ lệ thu nhập lương trên doanh
thu tạm tính theo SPSX kỳ KH
=
VKH
* 100%
Doanh thu
Trong đó: VKH : Tổng quỹ lương kỳ kế hoạch (Khoản e mục 2)
Doanh thu: Tổng doanh thu KH theo KHSX trong kỳ (theo các sản phẩm sợi Hà
Nội_May Hà Nội- Dệt nhuộm)
Quỹ thu nhập thực hiện tháng:
Quỹ thu nhập
lương thực
hiện hàng
tháng
=
Tỷ lệ % thu
nhập lương trên
doanh thu
*
Doanh thu thực hiện theo
kết quả sản xuất (sản
phẩm đã nhập kho Công
ty)
+
Quỹ Thu
nhập bổ
sung (nếu
có)
b. Xác định kế hoạch thu nhập khoán một công (áp dụng cho các đơn vị thực hiện
khoán chi phí sản xuất )
Công thức
Thu nhập một công
khoán kế hoạch
=
VKH
Tổng số công theo hao phí lao động và
kế hoạch sản xuất
Đơn giá của một đơn vị sản phẩm = Thu nhập một công khoán kế hoạch * hao
phí lao động tổng hợp của một đơn vị sản phẩm
b1. Quỹ thu nhập thực hiện theo chi phí sản xuất (Các nhà máy Sợi, May, Dệt
nhuộm, Dệt Hà Đông)
Quỹ thu nhập
lương tháng
=
n
i 1
(
Đơn giá của một
đơn vị sản phẩm i
*
Số lượng
sản phẩm i
*
Chất
lượng sản
phẩm i
)
Khuyến
khích xuất
khẩu
số tiền
thưởng (phạt)
chi phí khoán
Số tiền giảm quỹ
thu nhập do không
hoàn thành kế
hoạch
+ Quỹ thu
nhập bổ
sung (nếu
có)
B2. Quỹ thu nhập thực hiện tháng đối với đơn vị hưởng theo tỷ lệ thu nhập /
doanh thu gắn với chi phí sản xuất (Bộ phận ống giấy nhựa – nhà máy cơ điện)
Tỉ lệ % thu nhập trên
=
VTNKH
*
100%
doanh thu (TKH) TKH
Trong đó: TKH: tổng doanh thu theo kế hoạch sản xuất trong kỳ.
3. Phương pháp trả lương của Công ty
3.1 Nguyên tắc trả lương:
Mức lương để tính thu nhập cho người lao động: Căn cứ vào mức lương cấp
bậc công việc đã được xác định cho các chức danh ngành nghề, Công ty thực hiện trả
thu nhập lương tháng cho người lao động (gồm cả khối hưởng lương thời gian và khối
hưởng lương sản phẩm)
- Hế số phân phối thu nhập hàng tháng cho từng chức danh được xác định trên
cơ sở thu nhập lương tháng, chế độ lương chức danh, phụ cấp lương tháng cho từng
đối tượng được hưởng cùng với hệ thống bảng hệ số phân phối thu nhập.
- Lương hàng tháng của người lao động được phân phối một lần trong tháng,
được tính trên cơ sở mức lương cấp bậc công việc hệ số phân phối thu nhập, mức
lương hàng tháng và thành tích đóng góp của mỗi cá nhân.
- Mức chi lương hàng tháng: căn cứ vào kết quả sản xuất và thực hiện chi phí
khoán của đơn vị.
- Đối với công nhân hưởng lương theo đơn giá sản phẩm: căn cứ vào kết quả
sản xuất kinh doanh nguồn lương của đơn vị, đơn giá trả lương cho công nhân được
điều chỉnh hàng tháng theo mức chi lương của đơn vị.
+ Công nhân Dệt - Nhuộm - May: đơn vị tính toán đơn giá tiền lương với đơn
giá gốclà hệ số 1,0 căn cứ định mức phẩm cấp.
+ Công nhân công nghệ sợi: căn cứ vào việc đánh giá điểm thao tác để xác định
chất lượng thao tác tính đơn giá loại 1,2 với đơn giá gốc là hệ số 1,0
- Mức thu nhập lương tháng trong trường hợp cá nhân được phân hạng thành
tích.
+ Loại A1 được hưởng 100% thu nhập lương ( có hệ số phân phối thu nhập
chức danh đảm nhận)
+ Loại A2 được hưởng 90% thu nhập lương ( có hệ số phân phối thu nhập chức
danh đảm nhận)
+ Loại B được hưởng 85% thu nhập lương ( có hệ số phân phối thu nhập là 1,0)
+ Không phân loại được hưởng 70 % thu nhập lương ( hệ số phân phối thu nhập
là 1,0)
3.2 Phương pháp trả lương
Công ty thực hiện phân phối thu nhập hàng tháng trên cơ sở kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh, đơn giá sản phẩm, chất lượng sản phẩm (đối với công nhân
hưởng lương sản phẩm) và đơn giá tiền lương kết hợp với phân hạng thành tích trong
tháng.
3.2.1 Phương pháp bình điểm và phân hạng thành tích trong tháng.
a) Các chỉ tiêu phân loại thành tích trong tháng.
- Loại A1:Tổng số điểm là 20 điểm.
- Loại A2: Tổng số điểm là 18-19 điểm (mỗi chỉ tiêu phải đạt tối thiểu 9 điểm)
- Loại B: Tổng số điểm đạt từ 17-18điểm.
- Không phân loại: Tổng số điểm <17điểm.
b) Hệ số phân loại thành tích.
- Loại A1: Hệ số là 1.0.
- Loại A2: Hệ số là 0.9.
- Loại B: Hệ số là 0.85.
- Không phân loại: hệ số là 0.7.
c) Đối tượng xét phân hạng thành tích:
* Đối với công nhân trực tiếp sản xuất có 4 chỉ tiêu:
+ Chỉ tiêu sản lượng
- Loại A1: Đạt 100% kế hoạch sản lượng được 5 điểm.
- Loại A2: Đạt 98-100% kế hoạch sản lượng được 4 điểm.
- Loại B: Đạt 95-98% kế hoạch sản lượng được 3 điểm.
+ Chỉ tiêu sản lượng và phân loại thao tác.
Căn cứ theo tỷ lệ định mức phân cấp của từng ngành sản xuất và phân loại thao
tác.
- LoạiA:Đạt 95-100% sản phẩm loại 1-được 5 điểm.
- Loại B: Đạt 80-95% sản phẩm loại 1-được 4điểm.
+ Chỉ tiêu an toàn tiết kiệm.
- Loại A: Đạt100% chỉ tiêu-được5 điểm.
- Loại B: Có vi phạm nhỏ nhưng chưa đến mức kỷ luật -được 4 điểm.
+ Chỉ tiêu ngày giờ - công.
- Loại A:được 5 điểm.
- Loại B: được 4 điểm.
* Đối với cán bộ công nhân viên quản lý : có hai chỉ tiêu.
+ Chỉ tiêu chất lượng công tác:
- Loại A1: nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao được 5 điểm
- Loại A2: nếu hoàn thành nhiệm vụ được giao nhưng không thật xuất sắc-được
4 điểm .
- Loại B: nếu hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ thấp hoặc có một số vi phạm
nghiêm trọng về nội quy lao động hoặc một số sai xót nhỏ về chuyên môn nghiệp vụ –
kỹ thuật -được 8 điểm.
+ Chỉ tiêu ngày giờ- công.
- Loại A1:được 10 điểm.
- Loại A2:được 9 điểm (chỉ thiếu một công so với qui định)
- Loại B: được 8 điểm.
3.2.2 Phương pháp trả lương
Hiện nay Công ty Dệt May Hà Nội đang sử dụng chế độ tiền lương theo thời
gian và theo sản phẩm.
Chế độ trả lương theo thời gian áp dụng cho bộ phận gián tiếp gồm các đơn vị
thuộc khối phòng ban, tổ chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật của các Nhà máy, các tổ bảo
toàn, bảo dưỡng, điện cơ khí, điện lực và phục vụ sản xuất không hưởng lương sản
phẩm.
Chế độ trả lương theo sản phẩm áp dụng cho bộ phận sản xuất trực tiếp.
a) Đối với công nhân hưởng lương sản phẩm.
Công thức xác định thu nhập trong tháng.
TNTi = (
n
i 1
( SLTi x ĐGCL ) + LTG ) x HS x H
Trong đó:
TNTi: Thu nhập lương tháng.
SLTI: Số lượng sản phẩm sản xuất trong tháng.
ĐGLC: Đơn giá trả lương theo chất lượng sản phẩm (với mức chi lương tháng)
LTG: Lương thời gian (nếu có)
HS: Hệ số phân phối thu nhập (nếu có)
H : Hạng thành tích trong tháng.
Biểu 6: hệ số thu nhập – khối Nhà máy sợi 1.
Chức năng
Cấp bậc công việc Hệ số thu
nhập thực
hiện từ
1/2/2000
Hiện hưởng
Thực hiện
từ
1/2/2000
Giám đốc
Phó giám đốc
Trưởng ca
Tổ trưởng tổ kỹ thuật
Kỹ thuật thiết bị công nghệ
Kỹ thuật điện.
KT kiêm tổ trưởng thao tác
KT kiêm tổ trưởng TN
Kh điều độ sản xuất
KT định mức
LĐ, hồ sơ, chế độ
KH lương – thi đua
Thống kê tổng hợp
Hạch toán
4,86
4,38
3,54
3,1
2,98
2,98
2,98
2,98
2,98
2,86
2,86
2,86
2,74
2,74
4,86
4,38
3,54
3,26
2,98
2,98
2,98
2,98
2,98
2,86
2,86
2,86
2,74
2,74
2,1
2,0
1,8
1,8
1,8
1,8
1,8
1,8
1,7
1,6
1,4
1,4
1,2
1,2
b) Đối với cán bộ công nhân viên hưởng lương theo thời gian.
Xác định nguồn thu nhập tháng của tổ, phòng.
Nguồn
QTNL
Của đơn
vị, tổ
phòng
=
Lương cấp
bậc công
việc của
đơn vị
x
Ngày
công
chế độ
trong
tháng
x
Hệ số
điều
chỉnh
x
Hệ số phân
phối thu
nhập bình
quân của
đơn vị
x
Hạng
thành
tích của
đợn vị
26
Mức chi
lương
tháng của
đơn vị
=
Nguồn thu nhập lương của
đơn vị
- Phần chi lương kiêm
nghiệm (nếu có)
Lao
động
thực tế
x
Cấp bậc
công việc
x
Hệ số thu
nhập bình
quân thực tế
x
Ngày công bình
quân (thực
tế/26)
Xác định thu nhập của người lao động.
Công thức thu nhập của cá nhân trong đơn vị.
Thu
nhập
lương
tháng
của đơn
vị
=
Mức lương
cấp bậc
công việc
từng chức
danh
x
Ngày
công
(thực
tế
/26)
x
Mức chi
thu nhập
lương
tháng
x
Hệ số
phân phối
thu nhập
x
Phân hạng
thành tích
cá nhân
đơn vị
(néu có)
Biểu 7 bảng lương chức vụ quản lý doanh nghiệp.
Chức năng Hệ số cấp bậc công việc Hệ số thu nhập
Hiện hưởng Thực hiện từ 1/2/2000
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc, kế toán
trưởng
7,06
6,34
7,06
6,34
2,5
2,2
4.Những chi phí tính theo lương cán bộ công nhân viên.
Theo chế độ hiện hành, hàng tháng các doanh nghiệp phải tiến hành tính, trích
lập thêm các quỹ khác ngoài quỹ tiền lương. Đó là quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn.
4.1 Quỹ bảo hiểm xã hội.
- Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do việc trích lập và tính vào chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp các khoản chi phí bảo hiểm xã hội theo quy định
của Nhà nước. Hàng tháng doanh nghiệp tiến hành tính, trích lập quỹ bảo hiểm xã hội
theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương thực tế phải trả cho cán bộ công nhân viên
trong tháng và phân bổ cho các đối tượng có liên quan đến việc sử dụng lao động.
- Quỹ bảo hiểm xã hội được thiết lập nhằm tạo ra nguồn vốn tài trợ cho công
nhân viên trong trường hợp ốm4 đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức, nghỉ hưu...
- Công ty Dệt- May Hà Nội cũng hình thành quỹ bảo hiểm xã hội bằng cách trích
theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương cấp bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp của
công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng. Tỉ lệ trích bảo hiểm xã hội là 20% trong
đó 15% là do Công ty trực tiếp trích nộp ( tính vào chi phí sản xuất kinh doanh), 5%
còn lại là do công nhân viên chức trong Công ty đóng và thường được trừ vào lương
tháng.
4.2 Quỹ bảo hiểm y tế .
Quỹ bảo hiểm y tế theo quy định của chế độ tài chính hiện nay cũng được hình
thành từ 2 nguồn: một phần do doanh nghiệp đóng trích vào chi phí sản xuất kinh
doanh hàng tháng theo tỉ lệ quy định tính trên tổng số tiền lương thực tế phải trả, một
phần do người lao động gánh chịu và được trừ vào lương.
Tỉ lệ trích bảo hiểm y tế của Công ty hiện nay là 3% trong đó 2% được tính vào
chi phí sản xuất kinh doanh 1% trừ vào lương cấp bậc, chức vụ của công nhân viên .
Qũy Bảo hiểm y tế được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám chữa
bệnh, viện phí, thuốc thang cho người lao động trong trường hợp ốm đau, thai sản...
các khoản đóng Bảo hiểm y tế được nộp cho cơ quan chuyên trách thường dưới hình
thức mua Bảo hiểm y tế .
4.3 Quỹ kinh phí công đoàn.
Quỹ kinh phí công đoàn cũng được hình thành do việc trích lập và tính vào chi
phí kinh doanh của Công ty hàng tháng theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương thực
tế phải trả công nhân viên. Số kinh phí công đoàn mà Công ty trích cũng được phân
cấp quản lý và chỉ tiêu theo tỉ lệ quy định: một phần nộp lên cơ quan quản lý cấp trên,
một phần để lại Công ty để chi tiêu cho hoạt động công đoàn. Tỉ lệ trích kinh phí công
đoàn hiện nay là 2%.
III. Những đánh giá chung về tình hình lao động và mức thu nhập của công nhân
viên tại Công ty.
1.Tình hình lao động.
Lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Quản
lý lao động là quản lý một nhân tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất, đó là nhân tố
con người. Sử dụng tốt nguồn lao động biểu hiện ở các mặt biết sử dụng tốt số lượng
lao động,thời gian lao động, tận dụng hết khả năng lao động sáng tạo của người công
nhân nhằm tăng khối lượng chất lượng sản phẩm, mặt khác còn để giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm và tạo ra lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
Trong bất kỳ một doanh nghiệp nào, cụ thể là Công ty Dệt- May Hà Nội không
phải nguồn nhân lực lúc nào cũng cố định mà nó có thể biến đổi qua các năm. Cụ thể
như sau:
Biểu8: Tình hình tăng giảm lao động.
Đơn vị : người.
Nội dung 1998 1999 2000
Đầu kỳ báo cáo
- Lao động tăng trong kỳ
- Lao động giảm trong kỳ
Cuối kỳ báo cáo
Lao động thực hiện bình quân
Trong đó: Công nhân sản xuất
Cán bộ quản lý
5442
285
491
5236
5329
5326
381
359
5258
5248
4789
459
5248
181
573
4866
4922
Qua số liệu biểu trên ta thấymức biến động nguồn lao động của Công ty năm
2000 so với năm 1999 là tương đối lớn ( năm 2000 giảm 392 người so với năm 1999).
Điều này bắt nguồn từ nhiệm vụ và tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Nguồn
lao động trong kỳ báo cáo giảm so với năm trước chứng tỏ Công ty đã biết cách quản
lý và sử dụng lao động một cách hợp lý làm cho chất lượng sản phẩm tăng lên để Công
ty được đứng vững trên thị trường và đạt được hiệu quả cao trong quá trình sản xuất
kinh doanh.
2.Mức thu nhập của công nhân viên.
Trong cơ chế cũ, tiền lương trả cho người lao động chủ yếu là theo chế độ
lương thời gian. Khi chuyển sang nền cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải hạch
toán độc lập do đó việc áp dụng những hình thức trả lương nào là do doanh nghiệp tự
quyết định dựa vào đặc điểm, nhiệm vụ và tìnhg hình sản xuất kinh doanh của mình.
Đối với Công ty Dệt -May Hà Nội việc trả lương cho người lao động như thế
nào cho công bằng , cho đúng với năng lực từng người, cho đúng với nguyên tắc phân
phối theo lao động luôn là mối quan tâm hàng đầu của Công ty. Cho nên khi Công ty
áp dụng những hình thức trả lương khác nhau cho người lao động theo đúng với tinh
thần đó thì thu nhập của công nhân viên trong Công ty phần nào được cải thiện rõ rệt,
đồng thời cũng tạo thêm lòng hăng say nhiệt tình, thái độ trách nhiệm của người lao
động trong sản xuất từ đó dẫn tới tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của Công ty ngày càng cao. Điều này có thể thấy rõ qua biểu sau:
Biểu 9: Tình hình sản xuất kinh doanh và thu nhập của người lao động.
Đơn vị: 1.000 đ
STT Chỉ tiêu 1998 1999 2000
I
1
2
3
4
5
6
II
Tình hình sản xuất kinh doanh
Giá trị tổng sản lượng
Doanh thu
Nộp ngân sách
Đầu tư
Tổng quỹ thu nhập
Quỹ lương trích vào giá thành
Thu nhập bình quân
400.246
379.306
8.696
18.068
48.098.436
47.480.702
812
428.000
434.500
5.548
38.648
49.289.940
49.473.869
950
462.000
470.000
4.500
166.705
57.378.675
56.638.159
1.213
Mức thu nhập của người lao động trong Công ty có xu hướng ngày càng tăng và
tăng với mức tương đối cao.Năm 2000 thu nhập bình quân của người lao động tăng so
với năm 1998 và năm 1999. Điều này là do số lao động của Công ty giảm đi (giảm 392
người). Đó chính là biểu hiện của tính hiệu quả trong công tác quản lý doanh nghiệp,
quản lý sản xuất kinh doanh nói chung và quản lý lao động tiền lương nói riêng.
3. Công tác tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền lương đối với kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh .
Đầu những năm 90, quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước ra đời
cùng với đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã là một thách thức lớn đối với
các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại đi lên.Trong điều kiện như vậy mà Công ty vẫn
duy trì hoạt động của mình một cách vững chắc đồng thời thu nhập và mức sống của
người lao động càng tăng thêm đó chính biểu hiện tính hiệu quả trong công tác quản lý
doanh nghiệp.
Thực tế trong Công ty Dệt- May Hà Nội chính vì có sự quản lý tốt về lao động
và tiền lương đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Cụ
thể là hình thức trả lương hiện tại áp dụng ở Công ty đã gắn với kết quả sản xuất kinh
doanh của Công ty thông qua chỉ tiêu doanh thu thực hiện . Hình thức trả lương cho
người lao động đã có tác dụng khuyến khích người lao động đi làm đầy đủ ngày
côngchế độ trong tháng, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn để nâng cao
lương, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật.
Chính vì có tinh thần và ý thức cao như vậy, cộng với sự không ngừng đổi mới,
đầu tư chiều sâu, nâng cấp thiết bị, đổi mới công nghệ đã giúp cho cả một tập thể
người trong Công ty gắn bó với công việc mình làm hơn, đẩy nhanh năng suất lao
động làm cho việc hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển
tiến tới hội nhập AFTA( vào năm 2006).
Kết luận.
Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của mọi quốc gia đặc biệt là trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Việt Nam, tiền lương – lao động luôn tồn tại
song song và có mối quan hệ tương hỗ, qua lại lao động sẽ quyết định tiền lương, còn
mức lương sẽ tác động đến mức sống của người lao động.
Nhận thức rõ được điều này. Công ty Dệt May Hà Nội đã sử dụng tiền lương
như là một đòn bẩy, một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý và khuyến khích nâng cao
chất lượng sản phẩm, năng suất lao động của cán bộ công nhân viên. Để từ đó giúp
Công ty tăng nhanh hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng thời thu nhập của người lao
động cũng tăng thêm
Tài liệu tham khảo
1. Kinh tế chính trị Mác – Lê Nin. (NXB giáo dục 1996)
2. Tiểu luận tiền lương và lao động.
3. Các văn bản quy định chế độ tiền lương mới.
4. Nội quy phân phối tiền lương và thu nhập (Số 119/DHN TCHC – Ban hành
1/3/2000 của Công ty Dệt- May Hà Nội )
5. Các báo cáo cuối năm của Công ty Dệt- May Hà Nội
- Báo cáo thực hiện lao động tiền lương (1998, 1999, 2000 )
- Báo cáo môt số chỉ tiêu tổng hợp về sản xuất kinh doanh
- Báo cáo kết quả kiểm tra tình hình thực hiện chỉ tiêu lao động tiền lương
- Báo cáo việc thực hiện chế độ chính sách về lao động việc làm
- Báo cáo tăng giảm lao động ( 1998, 1999, 2000 )
6. Một số tài liệu của Công ty Dệt- May Hà Nội có liên quan đến lao động và
tiền lương trong những năm qua.
Mục lục
Lời mở đầu ................................................................................................................. 1
Phần I: Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động và tiền lương. ............................. 4
I. Quản lý lao động và tiền lương trong doanh nghiệp. ............................................ 4
1. Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động. ........................................................ 4
2. Cơ sở lý luận chung về tiền lương. ................................................................. 6
II. Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong doanh nghiệp. .............. 20
1. Mối quan hệ giữa lao động và tiền lương. ...................................................... 20
2. Các nguyên tắc quản lý, sử dụng lao động và tiền lương. ............................... 21
Phần 2: Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt - May
Hà Nội....................................................................................................................... 24
A. Vài nét khái quát về Công ty. ............................................................................. 24
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. ................................................. 24
II. Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty. ................................................... 26
1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. .................................................. 26
2. Về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm. ............................................................. 26
III. Mô hình tổ chức và cơ cấu bộ máy của Công ty. .............................................. 27
1. Đặc điểm về bộ máy quản lý. ......................................................................... 27
2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh. ...................................................... 29
IV. Kết quả sản xuất kinh doanh những năm gần đây. ........................................... 30
B. Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty. ....................... 31
I. Công tác tổ chức quản lý, sử dụng lao động. ...................................................... 31
1. Đặc điểm về lao động. ................................................................................... 31
2. Tổ chức và quản lý sử dụng lao động trong Công ty. ..................................... 39
3. Tình hình quản lý và bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong
Công ty.............................................................................................................. 41
II. Công tác tổ chức quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty. 43
1. Công tác quản lý tiền lương. .......................................................................... 43
2. Xác định quỹ tiền lương của đơn vị theo mức lương cấp bậc công việc bình
quân và lao động định biên. ............................................................................... 43
3. Phương pháp trả lương của Công ty ............................................................... 47
4. Những chi phí tính theo lương cán bộ công nhân viên. .................................. 53
III. Những đánh giá chung về tình hình lao động và mức thu nhập của công nhân
viên tại Công ty...................................................................................................... 54
1. Tình hình lao động......................................................................................... 54
2. Mức thu nhập của công nhân viên. ................................................................ 55
3. Công tác tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền lương đối với kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh . ................................................................................ 56
Kết luận. ................................................................................................................... 57
Tài liệu tham khảo. .................................................................................................. 58
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt - may Hà Nội.pdf