Tài liệu Luận văn Tìm hiểu tín dụng trung, dài hạn ở ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Hoá: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN:
Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực
trạng và giải pháp
Lời nói đầu
Sự đổi mới hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời kỳ
đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa mang tính cấp bách đảm bảo
cho nền kinh tế nước ta phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ
“Chính sách tài chính quốc gia hướng vào lĩnh vực tạo vốn, sử dụng vốn có hiệu quả
trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân...” Thực hiện chủ
trương đó và nhằm đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư, năm 1989 Chính phủ đã
có chủ trương về xoá bỏ bao cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, tất cả những dự án sản
xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn trực tiếp đều phải vay vốn tín dụng để đầu tư
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được Nhà nước giao cho thực hiện việc cho ...
86 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 955 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu tín dụng trung, dài hạn ở ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Hoá: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực
trạng và giải pháp
Lời nói đầu
Sự đổi mới hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời kỳ
đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa mang tính cấp bách đảm bảo
cho nền kinh tế nước ta phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ
“Chính sách tài chính quốc gia hướng vào lĩnh vực tạo vốn, sử dụng vốn có hiệu quả
trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân...” Thực hiện chủ
trương đó và nhằm đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư, năm 1989 Chính phủ đã
có chủ trương về xoá bỏ bao cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, tất cả những dự án sản
xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn trực tiếp đều phải vay vốn tín dụng để đầu tư
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được Nhà nước giao cho thực hiện việc cho
vay các công trình xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước (từ năm 1995 đến nay việc
cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước còn có thêm Tổng cục đầu tư và Phát
triển nay là Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Ngân hàng thương mại khác thực hiện).
Thực hiện hoạt động tín dụng đầu tư đối với các dự án là một trong những mục
tiêu quan trọng hàng đầu trong định hướng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng. Trên cơ sở Nghị định
của Chính phủ và thể lệ tín dụng trung và dài hạn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chủ trương cho các doanh nghiệp trong và
ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư các dự án trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, dịch vụ theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, địa
phương trong từng thời kỳ. Từ 1995, ngoài các dự án được giao trong kế hoạch, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển còn chủ động huy động vốn dài hạn và tìm các dự án có hiệu
quả để đầu tư.
Với chức năng nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thanh Hoá đã và đang tích cực, chủ động, linh hoạt sử dụng các nguồn vốn
khác nhau để xem xét cho vay các dự án trung, dài hạn trên nhiều lĩnh vực thuộc các
ngành kinh tế khác nhau trong tỉnh với khối lượng tín dụng hàng nghìn tỷ đồng. Phần lớn
các dự án được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cho vay, sau khi hoàn thành đi vào hoạt
động đã phát huy có hiệu quả, đáp ứng một phần nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế trong sự
nghịêp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần vào việc tăng trưởng của nền
kinh tế, kiềm chế lạm phát và giải quyết việc làm cho người lao động. Song, cũng có
công trình, dự án khi đi vào hoạt động kém hiệu quả, thậm chí không phát huy được hiệu
quả như dự kiến, dẫn tới nợ quá hạn kéo dài ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng và
nền kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến làm chậm sự hoà nhập nền kinh tế của Việt Nam với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Vậy, làm như thế nào để hoạt động của tín dụng trung, dài hạn có hiệu quả góp
phần đáp ứng được nhu cầu đỏi hỏi của nền kinh tế và mang lại thu nhập cho Ngân hàng.
Qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá, với sự hiểu biết của
mình bản luận văn này tôi xin trình bày “Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp” phạm vi đề tài này nghiên cứu
trong thời gian từ năm 1996 đến 2000 và được bố cục theo các nội dung sau :
Chương I: Đầu tư và Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế.
Chương II : Thực trạng tín dụng trung , dài hạn của NHĐầu tư và Phát triển Thanh
Hoá.
Chương III: Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lương tín dụng trung, dài
hạn.
trung, dài hạn của Ngân hàng
đối với nền kinh tế
----------
Theo giác độ kinh tế: Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn và tài nguyên trong
một thời gian tương đối dài nhằm mục đích thu về lợi nhuận và các lợi ích kinh tế xã hội
khác.
Đầu tư có hai dạng: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, ở đây ta nghiên cứu đầu tư
gián tiếp tức là đầu tư bằng phương thức tín dụng. Đầu tư gián tiếp là đầu tư trong đó
người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và phân
phối kết quả đầu tư.
I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư
1- Vai trò của đầu tư :
- Đầu tư cơ bản là nhân tố quan trọng, nó quyết định trình độ phát triển của mỗi nước.
Khi đầu tư đúng hướng, có hiệu quả sẽ làm tăng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân,
tăng trưởng nền kinh tế. Đầu tư có tác dụng cải biến cơ cấu kinh tế, nó tạo ra một cơ cấu
kinh tế hợp lý, khai thác tiềm năng thế mạnh của các thành phần kinh tế và của từng địa
phương, từng vùng. Thông qua việc đầu tư để xây dựng mới rồi mở rộng qui mô sản xuất,
công suất, ứng dụng, công nghệ mới để không ngừng phát triển, nâng cao TSCĐ. Tạo
điều kiện căn bản để có thể tăng được GDP trong thời kỳ sau. Do đó đầu tư ban đầu cho
hiện tại là quyết định cho việc phát triển ở tương lai.
- Đầu tư là công cụ để Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành. Cơ cấu
kinh tế theo ngành là tỷ trọng GDP của mỗi ngành sản xuất xã hội trong tổng số GDP
toàn quốc. Gồm 3 lĩnh vực chính:
+ Ngành công nghiệp
+ Ngành nông nghiệp
+ Ngành dịch vụ
Năng suất lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ thường cao hơn nhiều so
với ngành nông nghiệp. Do đó nếu tỷ trọng của ngành nông nghiệp chiếm đa số, phần lớn
trong nền kinh tế quốc dân thì GDP sẽ tăng chậm, dẫn đến tình trạng lạc hậu so với các
ngành khác. Vì vậy điều chỉnh cơ cấu kinh tế hiện nay là giảm tỷ trọng nông nghiệp trong
GDP nhưng số tuyệt đối vẫn phải tăng lên. Để thực hiện được điều này thì Nhà nước có
thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: Công cụ tài chính, chính sách thuế, chính sách
tiền tệ. Lãi suất và đặc biệt là thông qua cơ cấu đầu tư cho từng ngành.
- Đầu tư cơ bản tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với mỗi quốc
gia, mỗi khu vực trên thế giới có thế mạnh riêng về vốn, về tài nguyên, về lao động, khoa
học kỹ thuật và công nghệ. Sự phân bố này là khồng đều. Để khai thác thế mạnh mỗi bên
thì hiện nay xu hướng trên thế giới các quốc gia liên kết với nhau trong hoạt động đầu tư
quốc tế, tạo nên những dự án khai thác thế mạnh của mỗi bên. Qua đó các nước giàu có
được tài nguyên để sử dụng, có nơi sử dụng vốn đầu tư với khả năng sinh lợi cao hơn. Có
thể bán hay chuyển giao công nghệ kỹ thuật, có thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn.
Đối với những nước nghèo, chậm phát triển thì khai thác được tài nguyên của mình để
phát triển kinh tế tạo ra được nhiều việc làm. học tập được các kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến và kinh nghiệm quản lý theo cơ chế thị trường...
Đối với nước ta là một trong số các nước chậm phát triển trên thế giới, sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất, quản lý còn lạc hậu, cơ
cấu kinh tế chưa hợp lý... để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vai trò của
đầu tư có vị trí rất quan trọng. Nó tạo nên sự phát triển của đất nước, tạo được việc làm
cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân v.v... Qua đầu tư giúp cho các doanh nghiệp
có trách nhiệm hơn trong sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao trình độ quản lý, tiếp
thu công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến và phải tìm mọi biện pháp xây dựng phương
án kinh doanh có hiệu quả. Phải tìm đối tác, khách hàng và có chiến lược phát triển đúng
hướng để giải quyết được 3 vấn đề căn bản của thị trường là: Sản xuất cái gì, số lượng và
chất lượng sản phẩm như thế nào, và bán ở đâu? Nói tóm lại qua đầu tư các doanh nghiệp
phải xác định và thực hiện các biện pháp, phương án kinh doanh có hiệu quả.
2- Đặc trưng của đầu tư:
- Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của mọi hoạt động đầu tư, nhất là đầu tư
trong sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư diễn ra trong thời gian dài, gồm nhiều giai đoạn, nhiều bước. Do vậy nó
làm cho một khối lượng đầu tư bị ứ đọng trong công trình và chưa phát huy được hiệu
quả khi công trình chưa đi vào sử dụng.
- Đầu tư mang tính rủi ro cao.
- Đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn rất lớn, thời gian thực hiện đầu tư lại kéo dài cho
nên tiềm ẩn rất nhiều các rủi ro như:
+ Rủi ro do các yếu tố tự nhiên
+ Rủi ro do các yếu tố về kinh tế thị trường như: Lạm phát, suy thoái kinh tế, sự
cạnh tranh quá mạnh trên thị trường.
+ Rủi ro do thanh toán quốc tế như tỷ giá đồng tiền thay đổi.
Trong bài viết này tôi xin phép đi sâu vào tín dụng đầu tư của Ngân hàng.
II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền kih tế
1- Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu,
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng vay vốn để sản xuất
kinh doanh. Mục đích hoạt động của Ngân hàng thương mại là để thu lợi nhuận.
Từ các hoạt động Ngân hàng truyền thống đến các hoạt động Ngân hàng hiện đại, từ
hoạt động chủ yếu nằm trong bảng tổng kết tài sản nội bảng đến việc mở rộng các hoạt
động ra ngoài bảng tổng kết tài sản... tất cả đều diễn ra trong một môi trường cạnh tranh
ngày càng sâu sắc và khốc liệt, không phải trong phạm vi từng nước, từng khu vực mà
còn trải rộng ra một không gian rộng lớn hơn nhiều. Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ
bơm vốn từ người cho vay sang người đi vay. ở đây Ngân hàng thương mại không chỉ
huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngấn hạn và cho vay ngấn hạn, mà do thị trường
tiền tệ ngày càng phát triển các Ngân hàng thương mại đi vào kinh doanh tổng hợp, đa
năng, làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung, dài hạn và làm tất cả các nghiệp
vụ và dịch vụ ngân hàng. Với sự toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, cùng với quá
trình đổi mới và mở cửa của nền kinh tế nước ta với thế giới bên ngoài đã và đang đặt ra
yêu cầu thích ứng của các Ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động trong điều
kiện hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai, góp phần tích cực vào việc thực
hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên mỗi Ngân hàng đều có
những định hướng chủ yếu trong hoạt động của mình.
2- Tín dụng và các vấn đề có liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại :
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu nó sang
người sử dụng nó, sau một thời gian nhất định được quay về với người sở hữu nó với một
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu (bao gồm cả gốc và lãi)
Trong nền kinh tế thị trường, do yêu cầu của nền kinh tế về việc xây dựng cơ sở
vật chất để phát triển nền kinh tế trong khi đó ngân sách Nhà nước không phải là vô hạn,
muốn đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế phát triển nhanh, nhất
thiết phải có hoạt động tín dụng để nó tập trung vốn tiền tệ nhàn rỗi để trợ giúp cho ngân
sách Nhà nước. Thông qua hoạt động tín dụng góp phần kiểm tra kiểm soát nền kinh tế.
Trong đó thực hiện hình thức tín dụng Ngân hàng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vì hình
thức tín dụng Ngân hàng có mối quan hệ rất rộng rãi ở trong nền kinh tế, chủ thể của nó
là Ngân hàng, khách thể của nó là tất cả các thành phần kinh tế của nền kinh tế. Đồng thời
đối tượng hoạt động của tín dụng Ngân hàng là tiền, vì vậy tín dụng Ngân hàng có ưu
điểm đặc biệt của nó. Hiện nay tín dụng Ngân hàng là hoạt động chủ yếu của các Ngân
hàng thương mại, nó tạo ra thu nhập cho Ngân hàng, cho Nhà nước, cho xã hội.
Nội dung chủ yếu của hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng thương mại bao
gồm:
2.1. Qui mô tín dụng:
Qui mô tín dụng của một Ngân hàng thương mại (khả năng cung cấp tín dụng) thể
hiện qua tỷ trọng tín dụng trong tài sản có của Ngân hàng thương mại đó. Một tỷ trọng tín
dụng cao trong tài sản có của Ngân hàng thương mại sẽ cho phép Ngân hàng thương mại
thu được lợi nhuận cao, vì hiện nay tín dụng vẫn là nghiệp vụ mang lại từ 70-80% thu
nhập cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.2. Giới hạn tín dụng:
Giới hạn tín dụng tức là định ra các mức độ tham gia vốn tín dụng của Ngân hàng
thương mại vào một dự án nào đó, thương vụ nào đó hay vào một hoạt động kinh doanh
nào đó của một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ở trong nền kinh tế. Giới hạn tín dụng
thường lệ thuộc vào các yếu tố sau đây: khối lượng vốn mà Ngân hàng thương mại huy
động được. Sự ổn định hay bất ổn định của nền kinh tế. Uy tín và tình trạng tài chính của
người vay vốn. Nhu cầu vay vốn của người vay. Mức độ hạn chế hoặc khả năng giúp đỡ
của Ngân hàng Trung ương.
2.3. Các loại hình tín dụng:
Một Ngân hàng có thể chọn một hoặc nhiều loại hình tín dụng thích hợp, tuỳ theo
khả năng về nhân lực và tính chất ổn định của nguồn vốn và tình hình của nền kinh tế,
đồng thời Ngân hàng thương mại cũng cần phải nghiên cứu tình hình thực tiễn trên địa
bàn để chọn một loại hình tín dụng làm mũi nhọn tài trợ chủ yếu hoặc thực hiện phân tán
tín dụng trên nhiều loại tín dụng khác nhau. Hiện nay ta thấy có một số loại hình tín dụng
sau: Căn cứ theo thời gian vay vốn là tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Căn
cứ theo phương thức hoàn trả là tín dụng luân chuyển, tín dụng theo món ngoài ra còn căn
cứ mục đích vay như tín dụng chứng từ, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng...
2.4. Các lĩnh vực tài trợ của tín dụng:
Lĩnh vực tài trợ của tín dụng chính là việc các Ngân hàng chọn lựa và tiến hành
chuyên môn hoá việc tài trợ tín dụng cho một ngành sản xuất hay một lĩnh vực chuyên
môn nào đó hoặc phân tán tín dụng trên nhiều ngành, nhiều đơn vị doanh nghiệp khác
nhau. Tiến hành chuyên môn hoá như vậy sẽ có lợi cho Ngân hàng trong quá trình kinh
doanh vì dễ dàng nắm bắt các nhu cầu về tín dụng của lĩnh vực tài trợ, kiểm soát được rủi
ro và có thể đưa ra được những sản phẩm thích ứng cả về qui mô và chất lượng phục vụ
của Ngân hàng. Trên thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại thường tìm cách đa
dạng hoá các lĩnh vực tài trợ, nhưng cũng lựa chọn một lĩnh vực tài trợ nhất định làm thế
mạnh để cạnh tranh với các Ngân hàng khác, việc tài trợ có thể sử dụng hình thức tài trợ
khép kín cả ngắn, trung và dài hạn.
2.5. Chọn lựa kỳ hạn tín dụng:
Kỳ hạn tín dụng dài hay ngắn nó sẽ ảnh hưởng tới thanh khoản và sự rủi ro của
kinh doanh tín dụng. Kỳ hạn tín dụng càng dài, mức độ rủi ro càng cao và thanh khoản
càng khó khăn. Kỳ hạn tín dụng hoàn toàn phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất, khả năng trả
nợ của người vay, song chính Ngân hàng cũng phải định ra một kỳ hạn thế nào đó vừa
đảm bảo lợi ích của Ngân hàng (ít rủi ro) vừa hấp dẫn người vay. Tính chất của nguồn
vốn huy động được với thời gian dài hay ngắn, lãi suất cao hay thấp cũng quyết định việc
chọn lựa kỳ hạn tín dụng của Ngân hàng thương mại.
2.6. Rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong tín dụng có thể do phía khách hàng đem lại, có thể do chính chủ quan
của Ngân hàng hoặc có thể do thay đổi về chính sách vĩ mô. Một chính sách tín dụng
đúng là một chính sách tín dụng an toàn, ít rủi ro. Sự rủi ro tín dụng có thể dẫn đến tình
trạng như: lạm phát, suy thoái kinh tế... Vì vậy trong hoạt động tín dụng các Ngân hàng
cần phải xây dựng các biện pháp an toàn, phòng ngừa rủi ro và thực hiện tốt qui trình
công nghệ tín dụng.
2.7. Giá cả tín dụng (lãi suất):
Lãi suất là tỷ lệ % theo số tiền vay, mà người vay phải tính ra để trả cho Ngân
hàng cho vay. Lãi suất thường được tính theo tháng hoặc năm. Lãi suất tín dụng chịu ảnh
hưởng của các yếu tố như: lãi phải trả cho người gửi, chi phí quản lý của Ngân hàng, rủi
ro tín dụng, chi phí cơ hội để có thể đầu tư vào các khoản khác, sự cạnh tranh của các
Ngân hàng khác, quan hệ giữa Ngân hàng với người vay. Có các loại lãi suất như lã suất
cố định, lãi suất thay đổi.
Việc áp dụng lãi suất nào do người vay và Ngân hàng thoả thuận theo hướng dẫn
của Ngân hàng Nhà nước và được ký kết trong hợp đồng tín dụng. ở nước ta hiện nay
theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả
thuận nhưng phải phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại
thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với
khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng cộng
với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức tín dụng.
3- Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mạI đối với nền kinh tế:
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời để đổi
mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư và XDCB, từng bước xoá bỏ bao cấp trong đầu
tư, nâng cao hiệu quả đầu tư trong các dự án, công trình và hiệu quả đầu tư của toàn nền
kinh tế quốc dân. Trong những năm vừa qua Chính phủ, ngành Ngân hàng và một số
ngành chức năng khác đã ban hành rất nhiều các loại văn bản có liên quan tới lĩnh vực tín
dụng đầu tư của các Ngân hàng thương mại, đặc biệt là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
đối với nền kinh tế. Cho đến nay Chính phủ và ngành Ngân hàng cũng đã nhiều lần sửa
đổi bổ sung hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế. Những văn bản mới
nhất hiện nay có liên quan đến lĩnh vực này là: NĐ 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của
Chính phủ về Quy chế Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, QĐ13/1999/QĐ-TTg ngày 4/2/1999 về công tác
tín dụng đầu tư năm 1999; NĐ178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về đảm
bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng; TT số 06/2000/TT-NHNN1 ngày4/4/2000 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện NĐ số 178/1999/NĐ-CP; QĐ số
284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Song, nội dung chính và chủ
yếu của các văn bản đó là:
- Bên vay: là pháp nhân và cá nhân hoạt động theo pháp luật Việt Nam bao gồm:
Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, HTX, doanh nghiệp tư nhân,
xí nghiệp liên doanh vốn với nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam,
cá thể và hộ sản xuất.
- Mục đích cho vay: Cho vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư cho các dự án
xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học kĩ thuật
và công nghệ nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng để phát triển kinh tế phù hợp với mục
tiêu chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật Nhà nước và lợi nhuận. Các dự án
được đầu tư phải được xác định có hiệu quả kinh tế, trực tiếp tăng sản lượng hàng hoá,
tăng nộp ngân sách, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động, hoàn
trả vốn vay gốc và lãi cho Ngân hàng đúng thời gian cam kết, phải có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc người bảo lãnh thứ 3 theo qui chế của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
- Cho vay trung, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu
hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay
của tổ chức tín dụng. Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng; Thời hạn cho
vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo
Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm
đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
4- Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng:
Thông qua tín dụng đầu tư của Ngân hàng, trên cơ sở mục tiêu định hướng của
Nhà nước, của địa phương, Ngân hàng xem xét lựa chọn những phương án có hiệu quả để
đầu tư. Đầu tư tín dụng có hiệu quả nó sẽ thúc đẩy mở rộng sản xuất khai thác tiềm năng
thế mạnh của doanh nghiệp, từng vùng kinh tế và của địa phương. Nó sẽ trang bị bổ sung
nhiều thiết bị công nghệ mới hiện đại, kĩ thuật tiên tiến cho các doanh nghiệp nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Nó làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tăng thu ngân sách, tăng
thêm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động, thu hút
tạo công ăn việc làm cải thiện đời sống cho lực lượng lao động trong xã hội.Từ đó thúc
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thông qua việc đầu tư tín dụng nó làm cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng
trong hạch toán kinh tế, làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp. Bởi vì thông qua việc đầu
tư tín dụng Ngân hàng cùng với doanh nghiệp xem xét đánh giá tỷ mỷ từng yếu tố, xác
định tính toán từng yếu tố chi phí để có giá thành hợp lý. Từ đó xác định nguồn trả nợ,
thời gian thu hồi vốn, do vậy thông qua việc đầu tư tín dụng giúp cho các doanh nghiệp
xem xét lại tình hình công nợ, phân tích các khoản phải thu, phải trả và tìm biện pháp giải
quyết. Mặt khác nó còn tác động với địa phương, các ngành qua cơ cấu nguồn vốn tham
gia.
Tín dụng đầu tư góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong XDCB, nó làm cho chủ
các dự án, chủ công trình phải thực hiện và tuân thủ đúng trình tự XDCB, thực hiện đúng
mục đích của tín dụng đầu tư, tránh tình trạng hồ sơ dự án không đầy đủ cũng được vay
vốn, vốn vay sử dụng sai mục đích... đồng thời cũng thông qua đó góp phần nâng cao
trình độ quản lý, trình độ KHKT của cán bộ doanh nghiệp.
Tín dụng trung, dài hạn là nguồn trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thoả
mãn các cơ hội kinh doanh. Nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác
như: trái phiếu, cổ phiếu. Trong điều kiện của nước ta hiện nay cũng như trong thời gian
tới nhu cầu về vốn trung, dài hạn cho đầu tư các công trình SXKD mới, hiện đại hoá các
cơ sở sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất... đang đòi hỏi có một nguồn vốn lớn. Nhưng
cho dù các nguồn vốn cung cấp từ đâu để đáp ứng yêu cầu đó, thì việc cung cấp tín dụng
thông qua hệ thống các Ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển nói riêng dưới hình thức cho vay trung, dài hạn là rất quan trọng. Bởi vì Ngân hàng
thương mại có kinh nghiệm trong công tác quản lý, kinh doanh tiền tệ, thẩm định dự án
các công trình đầu tư, nắm bắt được thị trường... Do vậy các Ngân hàng thương mại tài
trợ vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp vừa đảm bảo được tính hiệu quả cao trong
công tác quản lý vĩ mô về mặt tốc độ, cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo được lợi ích các
doanh nghiệp.
III.Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại
1- Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng
thương mại:
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng thương mại cũng như vai trò của
tín dụng trung, dài hạn đã trình bày ở phần trên có thể tóm tắt là:
Hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền
tệ và hệ thống thanh toán trong nước, đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Hoạt
động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi
các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp và theo hướng
chuyên sâu.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh
tế, Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ,
tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế, vậy muốn có nhiều vốn phải
tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân tức là để
mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh
sự phát triển của các ngành kinh tế cần thiết phải có vốn, ngược lại khi nền kinh tế càng
phát triển sẽ tạo ra nhiều vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thể đáp ứng nhu cầu vốn cho
sản xuất kinh doanh; nhờ có hoạt đông của hệ thống ngân hàng thương mại và đặc biệt là
hoạt động tín dụng trung, dài hạn khách hàng có điều kiện hoạt động mở rộng sản xuất,
cải tiến may móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, khách hàng không những
cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ
hạch toán kế toán... mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công
nghệ, tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp.
Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng
vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, khách hàng có thể tìm đến ngân
hàng để vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Chính vì những lý do trên mà phải
cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn có thể căn cứ vào các chỉ tiêu sau:
2- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Trung, dài hạn của NHTM:
2.1. Xét trên giác độ Ngân hàng:
2.1.1 về số lượng khách hàng:
Sự gia tăng số lượng khách hàng qua các năm cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất
lượng tín dụng trung, dài hạn. Khi số lượng khách hàng ở Ngân hàng tăng lên liên tục và
đồng đều qua các năm là một trong các dấu hiệu cho thấy thể hiện lòng tin của khách
hàng với Ngân hàng vầ chất lượng công tác tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn
nói riêng ở Ngân hàng được đảm bảo.
2.1.2. Doanh số cho vay và mức dư nợ:
Doanh số cho vay và mức dư nợ luôn luôn tăng lên năm sau cao hơn năm trước
cho thấy chất lượng tín dụng tín dụng trung, dài hạn được đảm bảo.
- Tổng dư nợ trung, dài hạn so với nguồn vốn huy động so với nguồn vốn cho vay
trung, dài hạn: Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng của đồng vốn huy động
lớn. Chỉ số này so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với vốn huy động.
- Dư nợ hữu hiệu (có khả năng sinh lời)/ Tổng dư nợ: chỉ số này đánh giá chất lượng tín
dụng. Nếu chỉ số càng cao thì chất lượng càng tốt.
- Tổng dư nợ/ Tài sản có: Chỉ số này phản ánh quy mô tín dụng trong tổng tài sản có.
Chỉ số này càng cao chứng tỏ chất lượng công tác tín dụng càng tốt, quy mô hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng lớn.
2.1.3 Nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Đây là chỉ tiêu quan trọng đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn,
các Ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình.
Thường là chỉ tiêu này được so sánh giữa số dư nợ quá hạn trung, dài hạn trên tổng dư nợ
tín dụng trung, dài của Ngân hàng. Nhìn chung hiện nay chỉ tiêu này của một Ngân hàng
dưới dưới mức 2% là hợp lý.
2.1.4 Chỉ tiêu về vòng quay vốn:
Nếu chất lượng tín dụng tốt tức là khách hàng có khả năng trả nợ đúng hạn hoặc có
thể trước thời hạn, qua đó giúp Ngân hàng có thể tăng số vòng quay vốn, đảm bảo hiệu
quả sử dụng vốn của Ngân hàng.
2.1.5 lợi nhuận:
Khoản lợi nhuận thu về từ nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập của Ngân hàng cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín
dụng trung, dài hạn. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường, các NHTM đều hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận và các khoản lợi nhuận đạt được đều cho thấy trình độ tổ chức, quản lý và
chất lượng hiệu quả của nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn.
Ngoài các chỉ tiêu trên thì việc đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn có
thể sử dụng một số chỉ tiêu định tính như: Sự tôn trọng và chấp hành các quy chế tín dụng
do NHNN và Ngân hàng cấp trên đề ra trong suốt quá trình thực hiện mối quan hệ tín
dụng giữa NHTM với khách hàng của mình.
2.2. Xét trên giác độ nền kinh tế mà cụ thể là từ các khách hàng:
Muốn đánh giá chất lượng của tín dụng trung, dài hạn từ phía người sử dụng vốn,
thì ngoài việc phân tích tình hình tài chính khách hàng trước khi cho vay thì sau khi dự án
đã được đưa vào sản xuất, sử dụng điều trước tiên cần làm là: Thực hiện phân tích tình
hình kinh tế, tài chính của khách hàng. Quá trình phân tích đó ta sẽ có được các chỉ tiêu
về kết quả SXKD của khách hàng như: Sự gia tăng về số lượng sản phẩm sản xuất ra,
mức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, mức lợi nhuận thu được từ sản phẩm đó,
đây là tiền đề là cơ sở cho việc thu hồi vốn đầu tư nói chung và nợ vay trung, dài hạn.
Các chỉ tiêu khác có liên quan để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đó là
vốn tự có của khách hàng (như mức độ và tốc độ gia tăng vốn tự có, vòng quay của vốn
tự có), vòng quay vốn tín dụng, hiệu quả sử dụng vốn... cũng như về tình hình và khả
năng thanh toán của khách hàng. Nếu một khách hàng có thu nhập thường xuyên và ổn
định từ dự án đầu tư bằng nguồn vốn vay trung, dài hạn của Ngân hàng chứng tỏ nguồn
vốn tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đã được sử dụng có hiệu quả và khoản tín
dụng đó chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi, tức là chất lượng công tác tín
dụng tín dụng trung, dài của Ngân hàng được đảm bảo.
Ngoài ra xét trên giác độ kinh tế thì chất lượng của công tác tín dụng trung, dài hạn
còn thể hiện sử dụng vốn vay Ngân hàng của khách hàng sử dụng khoản tiền vay có đúng
mục đích và đối tượng như đã đề ra khi xin vay hay không, khoản vay có vượt quá hạn
mức quy định hay không. Mặt khác, chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn được thể hiện
ở việc dự án được đầu tư nó tạo ra một khối lượng công ăn việc làm cho người lao động
trong xã hội, bởi vì việc đầu tư một dự án bằng nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn có hiệu
quả sẽ góp phần mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của khách hàng đó và sẽ thu hút
thêm nhiều lao động từ mọi tầng lớp trong xã hội; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
khai thác tiềm năng thế mạnh từng vùng kinh tế góp phần phân bố lại lực lượng lao động.
Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn không chỉ xem xét đánh giá đơn thuần
mà qua việc đánh giá phải kịp thời, chính xác, phân tích một cách cụ thể là các chứng cứ
quan trọng để trên cơ sở đó Ngân hàng có thể đề ra và thay đổi định hướng, chiến lược
của mình. Nếu công tác tín dụng trung, dài hạn trung, dài hạn đạt chất lượng cao nó sẽ
đem đến những ý nghĩa kinh tế quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng và người được
cấp tín dụng mà nó còn có những tác động to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
3- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn
3.1. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia:
Hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng
đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro ít hay nhiều đều có quan hệ hữu cơ khăng khít tới sự
phát triển kinh tế của một quốc gia.
3.2. Nhân tố luật pháp:
Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt động Ngân
hàng, mà đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Luật pháp nó tạo môi trường hành
lang pháp lý cho mọi hoạt động của Ngân hàng. Nhân tố luật pháp ở đây bao gồm tính
đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật đồng
thời gắn liền với nó là quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí trong xã hội.
3.3. Năng lực chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng:
Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn là:
- Năng lực về vốn, về tài sản của khách hàng có đủ mức vốn tự có của mình để
tham gia vào dự án hay không, tiếp đó là nguồn vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình
SXKD của đơn vị có đủ hay không và nếu có thì ở mức độ nào.
- Chất lượng hoạt động SXKD của khách hàng tốt hay xấu.
- Tương lai phát triển của khách hàng ở mức độ nào; dự án, phương án SXKD của
khách hàng có đủ khả năng để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh quyết liệt của cơ
chế thị trường được hay không.
- Mức độ chuyển biến về nhận thức, quan điểm, tâm lý của lãnh đạo doanh nghiệp
trong điều kiện cơ chế thị trường ở mức độ nào? Họ đã có đầy đủ ý thức vay trả chưa hay
vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp, trông chờ nguồn vốn được cấp, được vay ưu đãi.
- Trình độ quản trị điều hành, uy tín của người đứng đầu của doanh nghiệp ở mức
độ nào, đã đáp ứng được mực độ nào trong nền kinh tế thị trường.
3.4. Nhân tố thuộc chủ quan NHTM:
3.4.1. Chính sách tín dụng;
Chính sách tín dụng của Ngân hàng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nuức đồng thời đảm bảo kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của khách hàng
và của Ngân hàng. Đối với NHTM một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả
năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và
đường lối chính sách của Đảng, đảm bảo công bằng xã hội. Muốn vậy, chính sách tín
dụng phải được xây dựng một cách đúng đắn trên cơ sở các căn cứ khoa học.
3.4.2. Công tác tổ chức quản lý của Ngân hàng:
Tổ chức quản lý của Ngân hàng cần được cụ thể hoá và xắp xếp một cách khoa
học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về
huy động vốn cũng như cho vay và quản lý được cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của Ngân
hàng. Đây chính là những cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt
động tín dụng có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác nên cần có
sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng Ngân hàng,
trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa các Ngân hàng với các cơ quan khác
như: Tài chính, pháp lý... thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận trên sẽ tạo điều kiện cho
việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các
khoản tín dụng khi cần thiết.
3.4.3. Chất lượng cán bộ tín dụng:
Chất lượng cán bộ là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng
nói riêng và đến hoạt động của Ngân hàng nói chung, nghiệp vụ hoạt động Ngân hàng
ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày càng cao để đáp ứng với sự phát triển
nghiệp vụ. Việc tuyển chọn cán bộ tín dụng phải đảm bảo cả về đạo đức và trình độ
chuyên môn và có kinh nghiệm.
3.4.4. Thông tin tín dụng:
Là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng của Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị
trường ai nắm bắt được nhiều thông tin kịp thời, chính xác hơn, người đó xẽ chiến thắng
trong cạnh tranh. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết
định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin
tín dụng càng nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng càng lớn. Đáng chú ý là việc thu thập thông tin,
phân tích các báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế sẽ đầy đủ
và chính xác thì khả năng rủi ro càng giảm.
3.4.5. Kiểm tra kiểm soát nội bộ:
Kiểm tra kiểm soat nội bộ sẽ phát hiện nhanh chóng những thiếu sót trong việc
thực hiện các quy trình tín dụng của cán bộ ngân hàng, qua đó có biện pháp xử lý kịp thời
ngăn chặn những rủi ro xảy ra đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng, nâng cao chất
lượng tín dụng.
Ngoài các nội dung trên thì trong quá trình cho vay bắt đầu từ khi chuẩn bị cho
vay, phát tiền vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay cho đến khi thu hồi được nợ. Quá trình
cho vay, chuẩn bị cho vay rất quan trọng, làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho vốn tín
dụng luân chuyển nhanh, đảm bảo chất lượng tín dụng.
iV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín dụng trung,
dài hạn.
1- Những qui định chung về cho vay trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển:
1.1. Nguyên tắc:
- Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiệ quy định của Chính phủ và của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.
1.2. Điều kiện vay vốn:
Bên vay vốn phải có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả. Hoặc
có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.3. Đối tượng cho vay:
Là các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của dự án đầu tư xây dựng
mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kĩ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ bao
gồm: giá trị vật tư máy móc, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh, chi phí nhân
công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ
luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư, chi phí khác...
Đối tượng Ngân hàng không cho vay là các dự án không đảm bảo thời gian thi
công, không hoàn thành theo đúng kỳ hạn mà không có nguyên nhân đúng đắn. Các dự án
không đảm bảo hiệu quả kinh tế, các dự án có tính chất thử nghiệm, các khối lượng phát
sinh không có trong dự toán.
1.4. Nguồn vốn cho vay:
Các nguồn vốn Ngân hàng sử dụng cho vay trung, dài hạn (cho vay đầu tư các dự
án) bao gồm:
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển sang cho vay các dự án, công trình theo
kế hoạch Nhà nước từ năm 1990, thu nợ từ các dự án đã đầu tư trước đây,
- Vốn tự có và quĩ dự trữ.
- Vốn huy động và đi vay trong nước và ngoài nước từ 1 năm trở lên như trái phiếu
ngân hàng, kỳ phiếu...
- Một phần vốn huy động trong nước có kỳ hạn dưới 1 năm do Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước qui định (Chủ yếu dùng cho vay trung hạn thời gian ngắn).
- Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ của các tổ chức kinh tế tài chính, tín dụng, xã hội
ở trong nước và nước ngoài.
- Nguồn vốn từ các Hiệp định khung tài trợ với ngân hàng nước ngoài do ngân
hàng đầu tư và Phát triển Việt nam ký hàng năm.
1.5. Mức cho vay và thời hạn vay:
Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, quy định của chính
phủ tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về mức cho vay so với giá trị tài sản làm bảo đảm
khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định
mức cho vay. Mức cho vay đối với một dự án đầu tư của bên vay bằng tổng mức vốn đầu
tư của dự án trừ đi vốn tự có tham gia, vốn ngân sách cấp, liên doanh và các nguồn vốn
khác đầu tư cho dự án.
Theo qui định mới nhất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại quyết định số
284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 thì: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với
thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất của
nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng.
- Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng
- Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt
động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và
không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
1.6. Lãi suất cho vay:
- Mức lãi suất cho vay do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định
của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. ở
nước ta hiện nay theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và
khách hàng thoả thuận nhưng phải phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi
suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với
khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng cộng
với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức tín dụng.
- Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi
suất theo qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
- Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất nợ quá
hạn theo mức qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng tín
dụng.
1.7. Giới hạn cho vay:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của Ngân hàng cho vay, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn
uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng
vượt quá 15% vốn tự có hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì
Ngân hàng cho vay hợp vốn theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trong trường hợp đặc biệt, Ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn
cho vay theo qui định trên khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép với từng trường hợp
cụ thể.
2- Qui trình tín dụng đầu tư tại các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển:
Qua 10 năm triển khai thực hiện đầu tư phát triển, trên cơ sở vừa làm vừa đúc rút
kinh nghiệm trong công tác quản lý chỉ đạo, điều hành, thẩm định... Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Trung ương đã có nhiều văn bản hướng dẫn và cho đến nay Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển đang thực hiện qui trình tín dụng đầu tư (qui trình công nghệ) bao gồm các
bước như sau:
* Bước 1: Tiếp cận khách hàng và tiếp nhận hồ sơ, gồm:
- Tiếp cận để lựa chọn khách hàng và dự án
- Tìm hiểu khách hàng
- Hướng dẫn lập hồ sơ
* Bước 2: Ký kết hợp đồng tín dụng. Gồm
- Kiểm tra hồ sơ, thẩm định dự án
- Quyết định cho vay.
- Ký kết hợp đồng tín dụng, khế ước vay vốn
* Bước 3: Giải ngân
- Kiểm tra khối lượng XDCB hoàn thành để chuẩn bị giải ngân
- Phát vốn vay
- Kiểm tra sử dụng vốn vay
* Bước 4: Thu nợ, thu lãi tiền vay. Gồm
- Lập sổ theo dõi
- Gửi phiếu báo doanh nghiệp
- Điều chỉnh kỳ hạn nợ nếu đủ điều kiện
* Bước 5: Kết thúc hợp đồng tín dụng
- Tất toán khế ước
- Thanh lý hợp đồng tín dụng
- Rút kinh nghiệm, đánh giá hiệu quả dự án, doanh nghiệp
- Hoàn chỉnh hồ sơ để lưu trữ.
Theo qui trình trên, cán bộ tín dụng là người trực tiếp cho vay thu nợ, thu lãi, có
quyền hạn và trách nhiệm theo phạm vi trách nhiệm được giao, thường xuyên kiểm tra
việc sử dụng vốn vay và yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng theo hợp đồng tín dụng đã
ký kết. Đối với các đơn vị thành viên phải tuân thủ đúng các qui định của Nhà nước về
quản lý đầu tư XDCB, qui định của Chính phủ, Bộ kế hoạch đầu tư, Ngân hàng Nhà nước
về cơ chế tín dụng đầu tư theo kế hoạch hàng năm; các qui định, qui trình nghiệp vụ của
Ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương liên quan tới hoạt động tín dụng đầu tư.
Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển là nhiệm vụ chung của tất cả
cán bộ các bộ phận trong mối quan hệ chặt chẽ tín dụng - thẩm định - kế toán - phòng
ngừa rủi ro và xuyên xuốt trong quá trình xét duyệt - giải ngân - thu nợ.
Chương II
thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại
ngân hàng đầu tư và phát triển thanh hoá
------------
I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá
Thanh Hoá là một tỉnh lớn diện tích tự nhiên là 11,168 km2 trên 3,6 triệu dân. Có
4 vùng kinh tế rõ rệt: Vùng biển, đồng bằng, trung du, miền núi. Giao thông thuận lợi,
80% là sản xuất nông nghiệp. Một số ngành kinh tế phát triển như mía đường, xi măng,
nuôi trồng đánh bắt, chế biến hải sản, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất
bia, sản xuất giấy các loại, chế biến lâm sản, dịch vụ...
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, hàng
năm kinh tế xã hội của tỉnh luôn luôn phát triển, cơ sở hạ tầng từng bước được nâng cao,
kinh tế tăng trưởng.
1. Những thuận lợi trong thời gian tới :
Qui hoạch tổng thể của tỉnh đến năm 2010 đã được Chính phủ phê duyệt. Xác định
Thanh Hoá có sức thu hút mạnh vốn đầu tư. Các lĩnh vực đầu tư lớn được triển khai như
khu công nghiệp Lễ môn, khu công nghiệp Nghi Sơn, Cảng nước sâu Nghi sơn, Nhà máy
đường Lam Sơn, caỉ tạo nâng cấp Nhà máy xi măng Bỉm sơn, nuôi trồng và đánh bắt chế
biến hải sản. Công nghiệp qui mô vừa và nhỏ cũng được mở rộng sản xuất như sản xuất
giấy, bao bì, thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản. Một số doanh nghiệp địa
phương liên doanh hoặc gia nhập các công ty Trung ương như cán thép, chế biến lâm sản,
hoá chất, thuốc lá... có xu hướng phát triển thu hút được vốn đầu tư, công nghệ mới tiên
tiến mở rộng thị trường và tạo thêm việc làm cho người lao động đường.
- Việc xắp xếp lại doanh nghiệp cổ phần hoá đang được triển khai thực hiện.
- Hạ tầng cơ sở như làm đường, điện, thuỷ lợi, nước sạch, đang được triển khai sôi
động.
2. Khó khăn:
- Tỷ lệ sản xuất nông nghiệp cao lại thường xuyên bị thiên tai. Điểm xuất phát đi
lên thấp, năm 2000 mức tăng trưởng bình quân lại thấp xa hơn so với mức bình quân cả
nước. do vậy nền kinh tế chưa có tích luỹ nhiều, thu ngân sách khó khăn.
- Các doanh nghiệp địa phương làm ăn chưa có hiệu quả, một số doanh nghiệp
quốc doanh còn thua lỗ, chưa có phương án hữu hiệu đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ.
- Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp thực hiện còn chậm.
- Các dự án đầu tư liên doanh liên kết thu hút đầu tư chưa được chuẩn bị sẵn sàng.
- Các chủ trương định hướng được thống nhất cao, nhưng việc tổ chức triển khai
còn nhiều vướng mắc. Chưa có cơ chế chính sách để gọi vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, khu công nghiệp tập trung. Các chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xây dựng vùng chuyên canh hiệu qủa
chưa cao.
Các doanh nghiệp vốn tự có rất ít, chưa chủ động xây dựng những dự án đầu tư
lớn. Điều này hạn chế rất nhiều đến % vốn tự có tham gia vào dự án.
II/ về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh
Hoá.
1- Mô hình tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá :
Hơn 40 năm hoạt động và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói
chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng, liên tục có sự thay đổi, bổ
sung về chức năng nhiệm vụ... Song, hiện nay về bản chất vẫn là một Ngân hàng thương
mại quốc doanh, với vai trò duy nhất hiện nay là Ngân hàng chủ đạo phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng, đầu tư phát triển.
Quá trình hoạt động và trưởng thành của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh
Hoá gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương qua
các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng. Đặc biệt là từ ngày 01/01/1995 theo quyết định
293/QĐ-NHNN ngày18/11/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển được phép thực hiện các hoạt động của Ngân hàng thương mại.
Trong những năm qua, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao và tình hình đặc điểm
địa bàn hoạt động, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã tiến hành sắp xếp ổn
định lại mô hình tổ chức, thường xuyên thực hiện tốt công tác quản lý, qui hoạch, đào tạo
cán bộ trong chi nhánh để đáp ứng với yêu cầu hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Hiện
nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá có 5 phòng, 1 tổ Kiểm soát, 1 tổ Thẩm
định Kinh tế - Kỹ thuật và 1 chi nhánh trực thuộc (hiện đang chuẩn bị thành lập thêm 1
chi nhánh mới trong thời gian tới); có 105 cán bộ công nhân viên, trong đó số cán bộ có
trình độ đại học, cao đẳng chiếm 70%; Công tác quản trị điều hành được chi nhánh hết
sức quan tâm, tạo được sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ. Nhằm phát huy được sức mạnh
tổng hợp trong chỉ đạo điều hành, chi nhánh đã qui định rõ chức năng nhiệm vụ của từng
bộ phận và đến từng loại cán bộ...
Có thể nói mô hình tổ chức hiện nay ở Chi nhánh Ngân hàng ĐTvà PT Thanh hoá
là phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ; công tác tổ chức, xây dựng nguồn lực và quản trị điều
hành là đúng đắn, hiện đã và đang phát huy được sức mạnh trong hoạt động kinh doanh,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của một Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường và
trong giai đoạn đất nước đang thực hiện sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá.
2- Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển qua các
năm:
Trong 5 năm qua, thực hiện hoạt động như một Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã nhanh chóng đổi mới hoạt động Ngân hàng, bám sát
mục tiêu, định hướng chiến lược kinh doanh của toàn ngành, cụ thể hoá trong điều kiện
thực tế trên địa bàn. Tranh thủ những thuận lợi vượt lên những khó khăn để phấn đấu đạt
được các chỉ tiêu kế hoạch với mức tăng trưởng vững chắc cả về số lượng và chất lượng.
Hiện nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá là một trong những Ngân hàng
thương mại hoạt động có hiệu quả, an toàn, tăng trưởng và giữ được vị thế, nâng cao
được uy tín nhất trên địa bàn. Hàng năm được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
xếp loại khá giỏi.
Tình hình hoạt động kinh doanh 5 năm (từ 1996-2000) cụ thể như sau:
* Về khách hàng:
Với chính sách khách hàng đúng đắn, phù hợp với cơ chế thị trường, thực hiện
mục tiêu “Bắt đầu từ nhu cầu của khách hàng chứ không phải từ sản phẩm Ngân hàng",
“Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển”, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã không ngừng nâng cao chất
lượng phục vụ, tranh thủ được khách hàng truyền thống, mở rộng thị trường trong tất cả
các thành phần kinh tế. Do vậy khách hàng có quan hệ tiền gửi và khách hàng có quan hệ
tiền vay (kể cả bão lãnh) qua các năm đều tăng về số lượng và đảm bảo chất lượng.
+Khách hàng có quan hệ tiền gửi: Năm 1996, mới chỉ có 3699 khách hàng chủ
yếu là các tổ chức kinh tế; Năm 1997 số lượng khách hàng là 4962; năm 1998 số lượng
khách hàng là 7544 tăng 52% so năm 1997. Năm 1999 số khách hàng là 11.930, so năm
1998 tăng 58%; đến 31/12/2000 có số lượng khách hàng là 13.720, so với năm 1999
tăng15%. Trong đó khách hàng là tổ choc kinh tế – xã hội tăng 29%.
+ Khách hàng có quan hệ tiền vay và bảo lãnh:
Từ 224 khách hàng năm 1996 chủ yếu là khách hàng tiền vay. Năm 1997 có 788
khách hàng, so với 1996 tăng 3,5 lẩn. Năm 1998 là 595 khách và Năm 1999 là: 649 khách
hàng Tăng 9% so 1998; năm 2000 là 714 khách hàng, so với năm 1999 tăng 10%.
* Về nguồn vốn:
Từ năm 1996, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá bắt đầu mở rộng huy
động vốn, thành lập các bàn tiết kiệm, mở ra nhiều hình thức huy động với lãi suất linh
hoạt, cộng với thái độ phục vụ của cán bộ trực tiếp làm công tác này, chi nhánh đã từng
bước tăng số dư huy động tiền gửi các loại, đồng thời tranh thủ được các nguồn đi vay
khác. Trong 5 năm qua về cơ bản Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã có
nguồn vốn tương đối dồi dào, đa dạng. Nguồn vốn tự huy động đảm bảo được nguồn vốn
cho tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dành một phần cho dài hạn, cụ thể như sau:
- Năm 1996: Tổng nguồn 145.928 triệu đồng; trong đó nguồn tự huy động là
60.135 triệu đồng, nguồn đi vay là 85.793 triệu đồng.
- Năm 1997: Tổng nguồn 251.661 triệu đồng; trong đó nguồn tự huy động
159.187, nguồn đi vay 92.474.
- Năm 1998: Tổng nguồn 256.463 triệu đồng; trong đó tự nguồn huy động 172.928
nguồn đi vay 80.049, còn lại là nguồn khác.
- Năm 1999: Tổng nguồn 406.131 triệu đồng; trong đó nguồn tự huy động 310.347
triệu đồng. Đặc biệt trong năm 1999 thực hiện chủ chương phát hành trái phiếu tạo nguồn
vốn cho đầu tư xây dựng của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chỉ trong vòng 20
ngày ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá đã bán được 19.254 triệu đồng trái phiếu
thời hạn 1 năm chiếm trên 40%, thời hạn từ 2- 5 năm chiếm 60%.
- Năm 2000: Tổng nguồn vốn 630.631 triệu. Trong đó nguồn tự huy động 412.433
triệu đồng (trong dân cư 310.095 triệu, từ tổ chức kinh tế 102.338 triệu); Nguồn đi vay
218.198 triệu đồng. Chi nhánh đã huy động được 30 tỷ đồng có thời hạn 1->5 năm bằng
hình thức bán trái phiếu.
Như vậy, qua 5 năm nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá
luôn tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, đáng chú ý là nguồn vốn tự huy động đều
tăng trưởng nhanh và ổn định không chỉ huy động ngắn hạn mà đơn vị đã thực hiện cả
huy động vốn có thời hạn trên một năm, số lượng huy động được đáp ứng yêu cầu sử
dụng.
* Về sử dụng vốn:
Với phương châm và mục tiêu là lấy “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là
mục tiêu hoạt động của ngân hàng Đầu tư và Phát triển" và với nguyên tắc "Hoạt động
theo luật pháp và những nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh" đồng thời được thể hiện
chi tiết qua phương châm và khẩu hiệu hành động của từng thời kỳ. năm 1997 kinh doanh
của ngân hàng Đầu tư và Phát triển được cụ thể hoá qua khẩu hiệu " An toàn trong tăng
trưởng "thì năm 1998 là "Vững chắc trong tăng trưởng, hiệu quả, an toàn". Khẩu hiệu
này luôn luôn đã thấm nhuần trong từng cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thanh Hoá. Kết quả sử dụng vốn qua các năm được thể hiện như sau: (Biểu
01)
Các chỉ tiêu về sử dung vốn trong tài sản có từ 1996 - 2000
Đơn vị tính: triệu đồng (Biểu 01)
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng tài sản có 158.921 252.363 254.314 322.113 640.652
Cho vay ngắn hạn 76.142 127.148 153.958 175.318 197.925
Cho vay trung hạn 52.399 66.217 47.915 85.984 42.675
Cho vay dài hạn 7.129 11.143 23.923 43.049 256.306
% Nợ quá hạn/ tổng dư
nợ
2,0 % 1,56 % 1,03% 0,5% 0,3%
* Giá trị bảo lãnh:
Bảo lãnh là nghiệp vụ mới, trong 5 năm qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh Hoá đã và đang mở rộng các hoạt động bảo lãnh như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh
thực hiện các hợp đồng kinh tế, bảo lãnh thanh toán nhập khẩu thiết bị cho các dự án,
nhập khẩu vật tư cho sản xuất, đặc biệt là chi nhánh đã được Ngân hàng trung ương uỷ
nhiệm ký hợp đồng bảo lãnh L/C, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trên
địa bàn và tăng thêm thu nhập cho Ngân hàng. Số liệu cụ thể qua 5 năm như sau:
Năm 1996 tổng giá trị bảo lãnh 1.153 triệu đồng. Năm 1997: 30.450 triệu đồng;
năm 1998: 4.828 triệu đồng; năm 1999 tổng giá trị là 18.327 triệu đồng, tăng gấp 3,8 lần
so năm 1998; năm 2000 tổng giá trị bảo lãnh là: 36.522 triệu đồng, tăng 2 lần so với năm
1999.
* Về hoạt động kế toán, kho quỹ:
Công tác kế toán - kho quĩ được duy trì có truyền thống, chất lượng ngày càng
nâng cao, tổ chức hạch toán đầy đủ kịp thời ít xảy ra sai sót. Nghiệp vụ thanh toán điện tử
luôn đảm bảo chính xác, thuận tiện, an toàn cho khách hàng và Ngân hàng. Trong công
tác kho quĩ mặc dù trong những năm qua khối lượng thu, chi tiền mặt và các giấy tờ có
giá rất lớn nhưng luôn đảm bảo an toàn và chấp hành tốt các nội qui qui định trong quá
trình hoạt động.
Ngoài ra trong 5 năm qua chi nhánh đã thực hiện các dịch vụ khác như chuyển
tiền, v.v... đã góp phần mang lại lợi nhuận đáng kể hàng năm.
* Kết quả kinh doanh:
Cùng với việc mở rộng và nâng cao chất lượng mọi mặt hoạt động, công tác quản
trị điều hành của đơn vị có nhiều đổi mới, lấy kế hoạch kinh doanh làm công cụ điều
hành, công tác kiểm tra kiểm soát làm công cụ quản lý thông qua những giải pháp cụ thể,
đặc biệt là công tác tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng trong kinh doanh. Qua 5
năm hoạt động kinh doanh, về cơ bản Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã đảm
bảo được mức doanh thu và lợi nhuận của Ngân hàng trung ương giao; thu nhập đời sống
của cán bộ công nhân viên trong chi nhánh ngày được nâng cao và giữ được mức ổn định.
Kết quả kinh doanh 5 năm (1996- 2000)
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng chi phí 17.640 17.044 23.998 27.533 46.685
Lợi nhuận trước
thuế
1.454 7.006 4.342 4.064 5.364
III/ Thực trạng công tác tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh Hoá:
Xuất phát từ mục đích ý nghĩa và tầm quan trọng của tín dụng đầu tư trung, dài
hạn, những năm qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thanh Hoá đã nhận thức đầy đủ và tổ
chức thực hiện một cách nghiêm túc, đúng chế độ thể lệ qui định. Hoạt động tín dụng
trung, dài hạn có hiệu quả. Những kết quả đó thể hiện qua các nội dung sau đây:
1- Thực hiện qui trình thẩm định:
1.1. Khái quát về tình hình thực hiện quy trình tín dụng trong cho vay trung, dài
hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá thời gian qua:
Công tác thẩm định là khâu quan trọng nhất trong các giai đoạn đầu tư, nó có ý
nghĩa rất lớn đối với phát triển kinh tế xã hội, nó không những mang lại hiệu quả kinh tế
cho xã hội khi dự án đầu tư có hiệu quả mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển. Bởi vì thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng chính là việc Ngân hàng
tiến hành thẩm định luận chứng kinh tế kĩ thuật của dự án mang tính chất chi tiết nhằm
kết luận là dự án có được thực hiện hay không. Nếu kết luận của thẩm định dự án khả thi
là tốt thì dự án sẽ được đưa vào kế hoạch tài trợ vốn trung, dài hạn của Ngân hàng. Việc
thẩm định dự án của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là nhằm xác định khả năng trả nợ
đích thực của dự án, để Ngân hàng chủ động lựa chọn đầu tư vào những dự án có hiệu
quả dưới các hình thức: cho vay, bảo lãnh, đầu tư trực tiếp, mua cổ phần...
Rút kinh nghiệm qua những năm trước, từ năm 1996 trở lại đây Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thanh Hoá đã quan tâm chú trọng đúng mức về công tác thẩm định dự án,
phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, thường xuyên cải tiến phương pháp làm
việc. Hiện nay việc thẩm định dự án Giám đốc giao cho Tổ thẩm định KT-KT và Phòng
Tín dụng trực tiếp sẽ cho vay dự án, tuy được giao như vậy nhưng mỗi bộ phận có những
nội dung chủ yếu trong việc thẩm định. Sau khi tiến hành thẩm định xong, 2 bộ phận này
thống nhất lập tờ trình và bảo vệ trước Hội đồng tín dụng. Sau khi Hội đồng thống nhất
mới lập tờ trình và bảo vệ với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương.
Hiện nay, tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá trong cả nước nội dung
cần phân tích, đánh giá trong thẩm định một dự án đầu tư đang thực hiện bao gồm các
bước và nội dung sau:
a. Phân tích thị trường:
Khi phân tích thị trường cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá luôn
trú trọng các vấn đề sau :
- Đánh giá nhu cầu hiện tại, dự báo nhu cầu tương lai về số lượng, chất lượng, giá
cả... trong trường hợp dự kiến xuất khẩu sản phẩm phải đánh giá và dự báo được nhu cầu
của thị trường nước ngoài.
- Đánh giá khả năng đáp ứng hiện có trên địa bàn, dự kiến tiêu thụ sản phẩm của
dự án. Phân tích thị trường trước mắt, thị trường tiềm năng và thị trường mục tiêu.
- Dự báo mức độ gia tăng cung cấp trong tương lai của sản phẩm, dẫn tới sự thiếu
hụt hay dư thừa so với nhu cầu thị trường.
- Nếu mục tiêu đầu tư là xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu, phải phân tích
đánh giá được tình hình xuất hoặc nhập khẩu sản xuất trong thời gian qua và dự kiến khả
năng trong tương lai cả về số lượng, chất lượng và giá cả.
- Dự báo về số lượng, giá cả sản phẩm bán ra, khả năng cạnh tranh với các nhà sản
xuất trong nước và ngoài nước, khả năng thâm nhập thị trường, hướng lựa chọn thị
trường.
- Phân tích giá thành, giá bán của sản phẩm, so sánh các loạI giá cả này của sản
phẩm cùng laọi trên thị trường.
- Phân tích các lợi thế trong cạnh tranh của sản phẩm cùng loại trên thị trường.
b. Kiểm tra các điều kiện thực thi của dự án:
+ Vốn đầu tư:
- Phân tích, đánh giá mức độ chính xác trong tính toán nhu cầu về vốn đầu tư, dự
tính các yếu tố tác động có thể làm thay đổi tổng mức vốn đầu tư (nếu có).
- Việc kiểm tra, xác định mức vốn đầu tư của dự án là rất cần thiết. Phải lưu ý phát
hiện và hạn chế ngăn ngừa cả hai khuynh hướng của người lập dự án và chủ đầu tư:
Một là: Tính toán vốn đầu tư thật cao để tranh thủ vốn, gây nên tình trạng lãng phí,
ứ đọng vốn và làm giảm hiệu quả đầu tư của dự.
Hai là: Tính toán đầu tư vốn thật thấp để tăng hiệu quả đầu tư một cách giả tạo,
dẫn đến quyết định đầu tư sai lệch và gây khó khăn trong quá trình triển khai đầu tư vì
thiếu vốn...
- Tổng vốn đầu tư cần thiết cho dự án bao gồm: vốn cố định và vốn lưu động. Vì
vậy, việc kiểm tra phân tích nhu cầu về vốn đầu tư không chỉ đối với vốn cố định mà còn
xem xét, dự tính nhu cầu vốn lưu động ban đầu (đối với dự án xây dựng mới) hoặc nhu
cầu vốn lưu động bổ sung (đối với dự án đầu tư mở rộng hay đầu tư chiều sâu) để sau khi
hoàn thành đầu tư, dự án có thể đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Trong trường hợp công trình đã có tổng dự toán được lập và phê duyệt đúng qui
định của Nhà nước về quản lý giá XDCB thì số liệu về mức vốn đầu tư đưa vào tính toán
hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư của dự án chính là tổng dự toán được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
+ Nguồn vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn:
Chủ đầu tư có thể sử dụng nhiều nguồn vốn để đầu tư dự án. Nguồn vốn đầu tư
bao gồm: Vốn tự có, vốn góp, vốn ngân sách, vốn vay... Để đảm bảo dự án có đủ nguồn
vốn đầu tư, cần kiểm tra xác định các nội dung sau:
- Các căn cứ và biện pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư dự án.
- Xác định mức vốn cần cho vay trên cơ sở các số liệu về tổng vốn đầu tư dự án và
các nguồn vốn khác đảm bảo chắc chắn sẽ tham gia đầu tư dự án.
- Hình thức vốn đầu tư: Bằng tiền VNĐ, ngoại tệ. Bằng hiện vật như tài sản cũ,
thiết bị vay trả chậm, nguyên liệu, các dạng khác.
- Xác định tiến độ thực hiện chi phí vốn (lịch bỏ vốn).
+ Phân tích, đánh giá khả năng đầu vào của dự án:
- Xác định, kiểm tra trên cơ sở định mức kinh tế kĩ thuật, các nhu cầu và yếu tố
đầu vào cho từng loại sản phẩm. Tính toán nhu cầu cần thiết cho sản xuất kinh doanh
hàng năm.
- Khả năng cung cấp nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở phân tích nội dung trên, nêu những thuận lợi và những bất lợi, kiến
nghị biện pháp khắc phục (nếu có).
+ Xem xét đánh giá về năng lực của các đơn vị cung cấp máy móc thiết bị cho dự
án.
+ Khả năng quản lý, kinh doanh của chủ đầu tư trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
loại sản phẩm của dự án.
c. Phân tích tài chính và xác định khả năng trả nợ của dự án:
+ Căn cứ vào công suất thiết kế của công trình, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự
án và giá bán sản phẩm, có thể xác định được doanh thu của dự án trong các năm doanh
nghiệp còn phải trả nợ vốn vay đầu tư xây dựng công trình.
+ Kiểm tra các chỉ tiêu đưa vào tính toán chi phí sản xuất của dự án để đánh giá
mức độ chuẩn xác của phương án tính toán trong nghiên cứu khả thi (dự án). Điều chỉnh,
bổ sung những khoản chi phí chưa tính đến hoặc còn thiếu.
+ Căn cứ vào phương án nguồn vốn, tiến độ rút vốn và lịch trả nợ đối với các
nguồn vay đầu tư dự án để xác định lãi vay vốn đưa vào chi phí sản xuất.
+ Phân tích rủi ro của dự án:
Nhằm giảm bớt nguy cơ lựa chọn đầu tư vào những dự án mới, đồng thời không
bỏ qua những dự án tốt, trong thẩm định dự án cần đặc biệt quan tâm tới việc phân tích
rủi ro. Phân tích rủi ro giúp xác định được mức độ chắc chắn của các yếu tố xác định và
kết quả hoạt động của dự án, nhờ vậy sẽ có khả năng loại trừ những dự án có mức độ rủi
ro cao hoặc có cơ sở cho việc quản lý rủi ro bằng cách phân tán chia sẻ rủi ro của dự án
thông qua các điều kiện hợp đồng trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành dự án.
Các yếu tố có thể gây nên rủi ro trong quá trình đầu tư và vận hành dự án:
- Thời gian thực hiện dự án kéo dài
- Vốn đầu tư tăng do dự trù thiếu hoặc do trượt giá.
- Biến động của tỷ giá hối đoái
- Thay đổi phương án nguồn vốn đầu tư dự án
- Chi phí sản xuất tăng
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án
- Khả năng phát huy công suất thiết kế của dự án.
- Sự thay đổi các chính sách vĩ mô của Nhà nước.
Đối với các dự án đầu tư có vay vốn nước ngoài cần lưu ý tới một điều bất lợi đối
với khả năng đảm bảo trả nợ của chủ đầu tư cho vốn vay trong nước, đó là: Trong mọi
hoàn cảnh, chủ đầu tư phải đảm bảo trả nợ nước ngoài đúng cam kết. Vì vậy, nếu dự án
gặp rủi ro thì Ngân hàng cho vay trong nước sẽ là người gánh chịu hậu quả trước
d. Phân tích độ nhạy của dự án:
Phân tích độ nhạy của dự án là một công cụ thường được áp dụng trong phân tích
rủi ro, phân tích độ nhạy cho phép xác định mức độ quan trọng của các yếu tố (nguồn rủi
ro) và chiều hướng tác động của các yếu tố đó tới kết quả dự án.. Phân tích độ nhạy được
thực hiện bằng cách tính toán các chỉ tiêu đánh giá kết quả tài chính của dự án (NPN - giá
trị hiện tại ròng, R - tỷ số lợi ích/chi phí, IRR - tỷ suất sinh lợi nội bộ...) theo biến thiên
của yếu tố ảnh hưởng. Tính toán điểm hoà vốn và sản lượng hoà vốn của dự án.
- Một cách khác là nhìn vào phần trăm thay đổi trong NPV, R, IRR tương ứng với
% thay đổi trong giá trị của yếu tố ảnh hưởng. Cách này cũng giống như phương pháp hệ
số co giãn, nó cho ta một giá trị phản ánh mức độ nhạy cảm của một chỉ số về giá trị đầu
tư với giá trị giả định của biến số đang xem xét.
e. Quản lý rủi ro:
Có thể vận dụng các chiến lược quản lý rủi ro sau:
- Tối thiểu hoá rủi ro: Tránh những rủi ro vượt quá một ngưỡng nhất định - chỉ
chấp nhận những rủi ro dự án không vượt quá giá trị của ngưỡng đó. Có 3 tiêu chuẩn
ngưỡng cơ bản: Mức tổn thất tối đa, xác suất lớn nhất làm xảy ra tổn thất, giá trị tổn thất
kỳ vọng tối đa.
- Giảm thiểu tác động của rủi ro: Giảm nhẹ tác động của tổn thất bằng các chia nhỏ
rủi ro (lập quĩ dự phòng), mua bảo hiểm, sửa đổi dự án, đồng tài trợ...
+ Xác định nguồn trả nợ:
- Nguồn từ dự án: từ khấu hao cơ bản hình thành từ đầu tư dự án, một phần từ lợi
nhuận để lại của dự án.
- Nguồn do doanh nghiệp huy động từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác
ngoài dự án, khấu hao từ tài sản cũ của doanh nghiệp chú ý kiểm tra tính khả thi của các
nguồn huy động này.
+ Xác định lịch trả nợ và mức trả nợ vay:
- Xác định cụ thể cho từng loại vốn vay.
- Cân đối nguồn trả nợ theo tỷ lệ tham gia của từng loại vốn vay trong tổng nguồn
vốn chủ đầu tư đã vay để đầu tư dự án.
- Trong thời gian ân hạn của vốn vay nước ngoài, tranh thủ thu nợ trong nước, ưu
tiên thu nợ vay bằng ngoại tệ và nợ trung hạn trong nước.
+ Các điều kiện đảm bảo an toàn vốn vay:
Tuỳ theo từng trường hợp có thể yêu cầu các điều kiện đảm bảo sau:
- Doanh nghiệp chỉ rõ nguồn trả nợ có thể huy động được từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài dự án đầu tư để đảm bảo trả nợ Ngân hàng đúng thời
hạn và mức trả đã cam kết đồng thời yêu cầu doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển để tập hợp dần nguồn trả nợ Ngân hàng, đảm bảo số dư
tối thiểu trên tài khoản bằng một kỳ trả nợ trước mỗi kỳ hạn trả nợ.
- Yêu cầu bên thứ 3 ký với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hợp đồng bảo lãnh trả
nợ thay cho doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ Ngân hàng
đúng cam kết. Trong trường hợp này phải kiểm tra kỹ năng lực tài chính của người bảo
lãnh, đảm bảo tính khả thi.
- Yêu cầu doanh nghiệp cam kết chuyển toàn bộ tiền thu từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của dự án vào tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển khi dự
án bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Lập quĩ dự phòng rủi ro.
- Doanh nghiệp cam đoan phần tài sản cố định đầu tư bằng vốn vay Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển sẽ là tài sản đảm bảo vốn vay của Ngân hàng.
- Thế chấp tài sản thuộc nguồn vốn sở hữu của doanh nghiệp.
- Phân tích đánh giá trình độ năng lực, kinh nghiệm của chủ đầu tư, đặc biệt là của
đội ngũ lãnh đạo và tay nghề của công nhân.
1.2. Đánh giá thẩm định của dự án cụ thể:
Trong những năm gần đây, có thể nói chi nhánh Thanh Hoá đã có nhiều cố gắng
trong công tác thẩm định, trong quá trình thẩm định đã bám sát được mục tiêu, phương
hướng của Nhà nước, của địa phương và hướng dẫn của ngành, có quan điểm đúng đắn
trong việc lựa chọn các dự án có hiệu quả, kiên quyết loại bỏ những dự án không đảm bảo
hiệu quả, đồng thời cũng tích cực chủ động tìm kiếm các dự án mới để tham mưu cho
UBND tỉnh có chủ trương để đầu tư, Ngân hàng có kế hoạch tài trợ. Trong 5 năm gần đây
(1996-2000) số dự án trình Ngân hàng trung ương của chi nhánh đều được xét duyệt
100%. Thực hiện nghiêm túc, đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc nâng cao chất lượng
công tác thẩm định các dự án, hiện nay ở Chi nhánh Thanh Hoá đã và đang được lãnh
đạo, cán bộ trực tiếp làm công tác này đặc biệt quan tâm chú ý.
Sau đây là một dự án cụ thể đã được chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh Hoá tiến hành đánh giá thẩm định vào đầu năm 1998. Đã được Ngân hàng trung
ương đồng ý chấp nhận, uỷ quyền để chi nhánh ký kết hợp đồng tín dụng đầu tư theo kế
hoạch Nhà nước. Chỉ đến 9/1998 chi nhánh Thanh Hoá dã ký xong hợp đồng tín dụng và
đã giải ngân với tổng số vốn 30 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch vốn năm, cụ thể:
Dự án: Đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến đường công suất 4000 tấn
mía/ngày.
Chủ đầu tư: Công ty đường Lam Sơn thuộc Bộ Nông nghiệp &PTNT
Sau khi chi nhánh tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của công ty đường Lam Sơn, chi
nhánh đã tiến hành kiểm tra hồ sơ, trong đó đi sâu kiểm tra các nội dung:
- Tình hình vốn và tài sản
- Tình hình thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách
- Tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm
- Tình hình về quan hệ tín dụng và thanh toán
- Các khoản phải thu, phải trả năm 1997(Số liệu 3 năm 1995, 1996, 1997)
Sau đó chi nhánh tiến hành thẩm định dự án một cách chi tiết. Song về mặt tổng
quát nội dung thẩm định bao gồm:
A. Tình hình chung:
1. Mục tiêu đầu tư: Đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến đường công suất 4.000 tấn mía
ngày.
2. Tổng mức vốn đầu tư:
Bảng số liệu dự kiến các nguồn vốn trong tổng mức vốn đầu tư
ĐVT: Triệu đồng biểu số 02
Vốn vay
ST Danh mục Tổng số Vốn tự có Vay Vay Ngân Vốn khác
T NHĐT hàng khác
Tổng A+B 451.098 40.000 30.000 348.038 33.060
A Vốn cố định 395.673 40.000 30.000 292.613 33.060
1 Xây lắp 45.953 33.900 12.053
2 Thiết bị 343.620 30.000 280.460 33.060
3 KTCB khác 6.100 6.100
B Vốn lưu động 55.425 55.425
B. Thẩm tra dự án:
1. Sự cần thiết phải đầu tư:
Việc đầu tư mở rộng Nhà máy đường Lam Sơn từ 2.000 tấn mía/ngày lên 6.000
tấn mía/ngày nhằm cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng đường ngày càng tăng trong nước
cũng như xuất khẩu là hoàn toàn phù hợp chủ trương chiến lược phát triển ngành mía
đường của Chính phủ, của Bộ, của Tỉnh trong việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thêm
ngân sách Nhà nước nâng cao thu nhập cho người lao động, hạn chế đường nhập ngoại do
đó tiết kiệm được ngoại tệ đem lại lợi ích kinh tế xã hội cho vùng kinh tế phía Tây nói
riêng và Tỉnh Thanh Hoá nói chung.
2. Các vấn đề về kỹ thuật gắn với kinh tế đầu tư:
a. Địa điểm xây dựng: Phân xưởng mới 4.000 tấn mía/ngày được xây dựng trên khu đất
nằm ngay cạnh hàng rào phía Tây Nam phân xưởng hiện tại, rất thuận lợi cho việc tận
dụng cơ sở vật chất sẵn có và điều hành sản xuất.
b. Hình thức đầu tư: Đầu tư xây dựng mới, với thiết bị và công nghệ tiên tiến
c. Công suất thiết kế: Công suất thiết kế là: 4.000 tấn mía/ngày (tương đương sản xuất
70.000 tấn đường - vụ) phù hợp với vùng nguyên liệu ngày càng tăng cho ra sản phẩm
đường thô và đường tinh luyện.
d. Công nghệ thiết bị và đơn vị cung cấp thiết bị:
+ Giới thiệu về đơn vị cung cấp thiết bị: Sau khi mở thầu và được Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận theo công văn số 847 ngày 24/2/1997 chọn
TUSHUKISHIMAKIKAL Co Ltd (TSK - Nhật Bản) là đơn vị trúng thầu cung cấp thiết
bị cho nhà máy.
+ Hãng này đã có hàng trăm năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chế tạo thiết bị sản
xuất đường, đặc biệt là thiết bị tinh luyện đường, các thiết bị máy móc cơ khí động lực,
điện tử và tự động hoá sản xuất (qua khảo sát tình hình thực tế cho thấy một trong những
nhà máy được hãng cung cấp thiết bị là: Nhà máy đường Biên Hoà từ năm 1960 đến nay
vẫn hoạt động tốt, sản phẩm đạt chất lượng cao nhất nước ta hiện nay).
+ Hãng TSK còn chịu trách nhiệm toàn bộ từ khâu thiết kế kỹ thuật và công nghệ
cho toàn bộ dây chuyền, kể cả phần thiết bị (chiếm hơn 30%) được chế tạo tại Việt Nam
bảo đảm chất lượng đồng bộ cho cả dây chuyền sản xuất.
- Công nghệ thiết bị:
+ Thiết bị do hãng cung cấp được chế tạo tại Nhật Bản có chất lượng đặc biệt cao
hoạt động ổn định, dễ vận hành bảo trì, đã được nhiệt đới hoá tốt phù hợp với điều kiện
khí hậu Việt Nam, không tác động có hại đến điều kiện làm việc của công nhân.
+ Suất đầu tư tính riêng phần thiết bị của dự án là 8.731USD/tấn thấp hơn so với
suất đầu tư của Nhà máy đường liên doanh Việt Nam - Đài Loan, BOURBON - Tây
Ninh, TATE&LYLE - Nghệ An.
e. Nguồn cung cấp nguyên liệu:
Nguồn cung cấp nguyên liệu từ 9 huyện và 4 Nông trường theo bảng diện tích đất
trồng mía và kết quả sản xuất vụ 1996-1997 và 1997-1998 dưới đây:
Biểu số 03
Diện
tích
Diện
tích
Diện tích vụ 97-98
T
T
Đơn vị trồng mía đất qui
hoạch
mía vụ
96-97
Lưu gốc
(ha)
Trồng
mới (ha)
Tổng số
(ha)
SL dự kiến
(tấn)
Tổng số 16.706 6.400 3.877 3.555 7.432 425.000
1 Nông trường Sao Vàng 800 716 447 213 660 37.000
2 Nông trường Lam Sơn 400 260 210 120 330 18.000
3 Nông trường Sông Âm 350 335 220 150 370 22.000
4 Nông trường Thống
Nhất
450 345 248 218 446 28.000
5 Huyện Thọ Xuân 4.468 2.257 1.153 1.028 2.181 119.000
6 Huyện Ngọc Lặc 4.536 1.335 846 1.096 1.943 116.000
7 Huyện Thường Xuân 1.437 641 438 315 753 45.000
8 Huyện Triệu Sơn 1.373 334 212 139 351 19.000
9 Huyện Thiệu Yên 400 1.667 97 131 228 14.000
10 Huyện Cẩm Thuỷ 695 10 6 98 104 7.000
11 Huyện Như Thanh 350 24 24 lấy giống
12 Huyện Như Xuân 1.200 22 22 lấy giống
13 Huyện Lang Chánh 247
* Số liệu trên cho thấy, chỉ tính riêng vụ 1997-1998 với diện tích: 7.432ha sẽ có
sản lượng mía cung cấp là: 425.000 tấn mà với năng lực thiết bị chỉ đạt 2.100 tấn
mía/ngày thì phải ép trong 202 ngày (425.000/2.100) trong khi định mức cho phép vụ mía
chỉ ép tối đa 180 ngày/năm. Như vậy nguồn cung cấp ngày càng tăng vượt xa năng lực
thiết bị hiện có, với tốc độ phát triển vùng nguyên liệu cả về diện tích và năng suất như
trên để đảm bảo ép hết nguyên liệu mía buộc Công ty phải ép kéo dài thời gian ra tận
tháng 5 và tháng 6, từ đó làm cho trữ lượng đường trong mía về cuối vụ giảm, do vậy
không những làm cho năng suất chất lượng đường của Công ty giảm mà còn ảnh hưởng
đến thu nhập của người trồng mía, vì vậy để việc sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả
cao thì cần phải đầu tư thêm một phân xưởng đường nữa là tất yếu và hợp lý với vùng
nguyên liệu ngày càng tăng.
f. Thị trường tiêu thụ:
Việc bán hàng của dự án có điều kiện thuận lợi đó là sản phẩm của công ty đã
được tiêu thụ rộng khắp trên thị trường qua hệ thống các bạn hàng lớn, tin cậy và các đại
lý bán buôn, bán lẻ ở khắp miền Bắc và miền Trung. Sản phẩm sản xuất hàng năm rất lớn
nằm ổn định vào khoảng 100.000 tấn (trong đó phần tăng thêm là 70.000 tấn). Để tiêu thụ
tốt công ty tiếp tục duy trì và mở rộng thị trường. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu thị
trường, kế hoạch bán hàng tại các thị trường như bảng dưới đây: (Biểu số 04)
Biểu số 04: Thị trường tiêu thụ (phần tăng thêm)
T
T
Thị trường Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001
Ghi chú
SL (tấn)phân theo
miền
47.000 55.000 70.000
1 Miền Bắc 39.000 45.000 56.000 Thị trường truyền thống
- Đường vàng tinh
khiết
19.000
20.000
22.500
22.500
28.000
28.000
- Đường tinh luyện
2 Miền Trung 9.000 10.000 14.000 P/ triển thị trường mới
- Đường vàng tinh
khiết
- Đường tinh luyện
4.500
4.500
5.000
5.000
7.000
7.000
Hiện tại Công ty phân phối sản phẩm thông qua một hệ thống đại lý rộng khắp các
tỉnh từ Quảng Bình trở ra gồm 220 đại lý bán buôn, bán lẻ được tổ chức thành hệ thống
hoạt động có hiệu quả. Trong tương lai khi dự án đi vào hoạt động, sản lượng đường hàng
năm công ty đạt khoảng 100.000 tấn. Để tổ chức tiêu thụ tốt công ty sẽ tăng cường khâu
tiếp thị quảng cáo giới thiệu sản phẩm, mặt khác tiếp tục củng cố mở rộng hệ thống các
đại lý bán buôn ở khắp các tỉnh miền Bắc, miền Trung. Tổ chức phương tiện vận chuyển
đưa sản phẩm tới tận nơi tiêu dùng.
3. Các vấn đề về tài chính gắn với hiệu quả kinh tế đầu tư.
a. Về tài chính của dự án:
Biểu số 05: Hiệu quả kinh tế
Các chỉ tiêu ĐVT Trước Tăng thêm sau đầu tư
đầu tư Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6
Công suất
2.000
TMN
70%
CS
2.800
TMN
80%
CS
3.200
TMN
100%
CS
4.000
TMN
100%
CS
4.000
TMN
100%
CS
4.000
TMN
100%
CS
4.000
TMN
1. Sản lượng đường
(Trước ĐT qui toàn bộ
SP
ra đường)
2. Tổng giá thành
(phụlục)
3. Tổng doanh thu
4. Lợi nhuận trước thuế
5. Các khoản nộp ngân
sách
+ Thuế doanh thu
+ Thuế lợi tức
+ Thuế vốn
6. Lợi nhuận sau thuế
tấn
Trđ
"
"
"
"
"
"
"
47.365
24989
3
28418
8
17.244
25.208
17.051
6.035
2.122
9.087
47.000
25031
1
28200
0
14.769
24.009
16.920
5.169
1.920
7.680
55.000
27782
8
33000
0
32.372
33.050
19.800
11.330
1.920
19.122
70.000
33216
7
42000
0
62.633
49.041
25.200
21.921
1.920
38.791
70.000
32565
7
42000
0
69.143
51.320
25.200
24.200
1.920
43.023
70.000
31907
7
42000
0
75.723
53.623
25.200
26.503
1.920
47.300
70.000
312422
420000
82.373
55.950
25.200
28.830
1.920
51.622
- Nguồn trả nợ Ngân hàng bao gồm:
+ Từ khấu hao cơ bản tài sản vay: 30.000 tr.đ x 14,3% = 4.285tr.đ (đây là mức
trích khấu hao cơ bản tài sản vay theo QĐ1062 của Bộ Tài chính).
+ Từ 4,5% lợi nhuận sau thuế của dự án (do việc Ngân hàng Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thanh Hoá chỉ tham gia cho vay một phần tiền thiết bị).
b. Về hiệu quả của đầu tư:
Biểu số 06: Xác định nguồn trả nợ 30.000 tr.đ theo bảng sau:
Nguồn trả nợ Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6
- Từ KHCB của tài sản vay
(theo QĐ1062)
2.857 4.285 4.285 4.285 4.285 2.989
- Từ lợi nhuận của dự án
(4,5% lợi nhuận thuế)
345 860 1.745 1.936 2.128
Tổng cộng : 3.202 5.145 6.030 6.221 6.413 2.989
Như vậy do công suất thiết bị và lợi nhuận của dự án thay đổi qua các năm nên
tổng số trả nợ trong 1 năm là thay đổi vì vậy mức trả nợ được tính như sau:
Biểu số 07:
Chỉ tiêu Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm 2004
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
355
355
356
356
356
428
428
428
429
429
429
429
429
502
502
502
502
502
502
503
503
518
518
518
518
518
518
518
519
534
534
534
534
534
534
534
535
534
534
534
534
534
319
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12
356
356
356
356
429
429
429
429
503
503
503
503
519
519
519
519
535
535
535
535
Tổng : 3.202 5.145 6.030 6.221 6.413 2.989
- Thời gian bắt đầu cho vay tháng 5/1998
- Thời gian vay là 74 tháng
Trong đó: + Thời gian ân hạn 11 tháng
+ Thời gian trả nợ là 63 tháng
c. Tính toán một số chỉ tiêu tài chính khác:
- Điểm hoà vốn lý thuyết = Định phí/doanh thu - biến phí
- Điểm hoà vốn tiền tệ = Định phí - KHCB/Doanh thu - biến phí.
Kết quả tính toán các điểm hoà vốn thể hiện trong bảng dưới đây:
Biểu số 08
Chỉ tiêu ĐVT Kết quả
- Định phí
- Biến phí
- Doanh thu
- KHCB
Sản lượng sản phẩm SX
1. Điểm hoà vốn lý thuyết
tr.đ
"
"
"
"
"
86.311
164.000
282.000
48.645
47.000
0,7314
- Sản lượng điểm hoà vốn
- Doanh thu điểm hoà vốn
2 Điểm hoà vốn tiền tệ
"
"
"
0,7314 x 47.000 = 34.376
206.256
0,3192
- Sản lượng ở điểm hoà vốn
- Doanh thu điểm hoà vốn
"
"
0,3192 x 47.000 = 15.002
90.015
Kết luận
Công ty đường Lam Sơn là doanh nghiệp lớp có tình hình tài chính lành mạnh, có
quan hệ tín dụng sòng phẳng với Ngân hàng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đang có xu
hướng phát triển tốt, có vùng nguyên liệu mía tăng trưởng liên tục, năng suất và sản
lượng mía ngày càng cao, để đáp ứng được vùng nguyên liệu đã được qui hoạch trên
16.000 ha đến năm 2000. Công ty phải đầu tư thêm phân xưởng II Công suất 4000 Tấn
mía/năm (SL 70.000 tấn đường vụ) là tất yếu.
Dự án được thực hiện sẽ mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội góp phần đáp ứng nhu
cầu bức xúc trong việc cung cấp đường tiêu thụ trong nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh Thanh Hoá, đồng thời phù hợp với chiến lược phát triển ngành mía đến
năm 2000 và 2005 của Bộ và Nhà nước.
Một số nhận xét chung về công tác thẩm định dự án
1- Mặt được :
- Trong thời gian qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã quan tâm
đúng mức về công tác thẩm định dự án đầu tư bằng vốn tín dụng trung dài hạn, phân công
và giao trách nhiệm cho từng bộ phận, từng cán bộ thực hiện từng vấn đề trong quá trình
thẩm định.
- Thực hiện thẩm định đảm bảo đúng qui trình hướng dẫn của Trung ương và qui
định theo đIều lệ quản lý XDCB của Chính phủ.
- Trong quá trình thẩm định đã đi sâu nghiên cứu kỹ và nắm bắt tình hình hoạt
động cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp có dự án xin đầu tư, xác định mức
vốn cần thiết đầu tư xem xét kỹ tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 cho dự án và
mức ngân hàng tham gia. Trong công tác thẩm định đã chú trọng tính toán hiệu quả cả hai
mặt là lợi nhuận và hiệu quả xã hội của dự án, xác định nguồn trả nợ và kỳ hạn trả nợ.
Đáng chú ý là trong công tác thẩm định, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh
Hoá đã chú ý tìm hiểu, nắm bắt thông tin và nghiên cứu công nghệ thiết bị và thị trường
cung cấp thiết bị, qua đó để đánh giá chất lượng sản phẩm. Mặt khác đã nghiên cứu và
phân tích kỹ thị trường cung cấp nguyên vật liệu (đầu vào) và thị trường tiêu thụ sản
phẩm.
2- Chưa được :
Tuy nhiên chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong công tác thẩm định dự án, song vẫn
còn những mặt tồn tại, hạn chế là:
- Việc thu thập thông tin nhiều chiều, nắm bắt tình hình có liên quan đến dự án còn
hạn chế.
- Việc thẩm định dự án chưa tính hết các yếu tố vè lạm phát.
- Trình độ cán bộ thẩm định dự án còn hạn chế về chuyên môn đối với công nghệ
thiét bị các dự án xin đầu tư nên có ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổng hợp phân tích
đánh giá dự án ở nhiều mặt, nhiều khĩa cạnh và góc độ khác nhau chưa sâu.
- Phương pháp thẩm định chưa thực sự khoa học nên cũng có ảnh hưởng đến việc
đánh giá nhận xét dự án ở nhiều mặt khác nhau, chậm có kết quả thẩm định.
2- Tình hình hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với các dự án tại Ngân hàng ĐT
và PT Thanh Hoá
Do đặc thù của hoạt động tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản ở Ngân hàng ĐT-PT
Việt nam nói chung cũng như ngân hàng ĐT-PT Thanh hoá nói riêng chia làm 2 giai
đoạn: Giai doạn đầu là thực hiện có tính chất thử nghiệm việc xoá bỏ bao cấp trong
XDCB, chỉ cho vay các dự án được ghi trong kế hoạch đầu tư XDCB hàng năm của Nhà
nước. Giai đoạn sau các dự án được ghi trong kế hoạch đầu tư XDCB hàng năm của Nhà
nước mang tính chất định hướng, ngoài ra ngân hàng còn tự huy động nguồn vốn, tự tìm
dự án có hiệu quả để cho vay. Cụ thể:
2.1. Giai đoạn 1990-1994:
Trong giai đoạn này thực hiện chủ chương cho vay các công trình xây dựng cơ bản
trong kế hoạch Nhà nước theo quyết định 01 của Chính phủ, thông tư liên bộ 15/LB-
UBKH-TC-NHNN ngày 5 tháng 01 năm 1990, chỉ thị 1300 HĐBT ngày 02 tháng 5 năm
1990, thông tư liên bộ 01 và thể lệ tín dụng dài hạn của thống đốc Ngân hàng Nhà nước,
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã tập trung sức lực thẩm định, xét duyệt
trình ngân hàng trung ương chấp nhận cho vay 51 dự án của 42 doanh nghiệp Nhà nước
với tổng số vốn cấp 65.007 triệu đồng/65.507 triệu đồng kế hoạch (Vì có 1dự án 500 triệu
đồng đã ký hợp đồng tín dụng nhưng chủ đầu tư lại không vay nữa, số còn do ngân hàng
thu hồi lại vì các đơn vị sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc ngân hàng cắt giảm qua khâu
thanh toán). Nếu phân theo thành phần kinh tế, trong tổng số vốn cho vay ngành Công
nghiệp chiếm 36%, ngành Nông nghiệp chiếm 27%, Xây dựng 23%, giao thông 6%, y tế
5%, các ngành khác 3%. Cùng với việc cho vay trung, dài hạn bằng VND ngân hàng còn
cho vay các dự án được: 605.144 USD để nhập máy móc thiết bị cho sản xuất Công
nghiệp chiếm 92,5%, còn lại là khối xây lắp. Đến nay các dự án hoạt động tốt, trả nợ ngân
hàng đảm bảo. Đồng thời qua quá trình thẩm định cho vay ngân hàng ĐT-PT Thanh hoá
đã kiên quyết loại trừ một số dự án không đủ điều kiện vay với số vốn ghi trong kế hoạch
định hướng trên 6 tỷ đồng. Cùng với việc cho vay công tác thu nợ luôn được quan tâm
đúng mức, trong 5 năm thu nợ 24.602 triệu đồng vượt so cam kết đã ký giữa ngân hàng
và đơn vị 105,3%.
- Xét về mặt hiện vật: công tác tín dụng đầu tư XDCB thời kỳ này đã tạo ra một
khối lượng lớn sản phẩm chủ yếu từ nguyên liệu địa phương, điển hình là tạo vùng
chuyên canh mía đường thuộc 4 huyện giải quyết đủ nguyên liệu cho Nhà máy đường
Lam sơn nâng công suất nhà máy từ 15.000 tấn lên 21.000 tấn/năm, đồng thời nâng cao
chất lượng từ đường vàng thành đường trắng. Đưa công suất Nhà máy bia từ 3.600 lít lên
10 triệu lít năm, nâng cao công suất, chất lượng các nhà máy giấy...
- Xét về mặt giá trị: vốn tín dụng đầu tư XDCB đã làm tăng doanh thu của các
doanh nghiệp bình quân trên 300 tỷ đồng/năm, tăng lợi nhuận trên 7 tỷ, nộp ngân sách
trên 6 tỷ đồng.
- Về mặt xã hội: Đã giải quyết việc làm cho 2.890 lao động, chưa kể số lao động
trong vùng nguyên liệu mía, giấy.
Như vậy, từ năm 1990- 1994 ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá đã bám sát
định hướng kế hoạch của Nhà nước, thực hiện cho vay các công trình trọng điểm, dự án
mũi nhọn của tỉnh như dự án chè đen xuất khẩu, xí nghiệp ươm tơ xuất khẩu, dây chuyền
khai thác đá nhập của ITALIA... Qua quá trình cho vay, thu nợ ngân hàng đã giám sát
chặt chẽ việc sử dụng vốn của doanh nghiệp kịp thời thu hồi vốn vay sử dụng sai mục
đích như dây chuyền khai thác đá của Công ty đá hoa 150 triệu đồng và 10.000 USD,
công ty may 49 triệu đồng. Từ đó góp phần lập lại trật tự, kỷ cương trong XDCB...
Tuy nhiên bên cạnh những mặt đựơc thì công tác tín dụng trung, dài hạn thời kỳ
này còn bộc lộ một số tồn tại như:
Vẫn còn tư tưởng phục vụ như thời bao cấp, nghĩa là không kiên quyết loại trừ một
số dự án trọng điểm, mũi nhọn của tỉnh ra khỏi kế hoạch cho vay tuy khi thẩm định đã
thấy dự án không thực sự có hiệu quả kinh tế. Thực tế đã chứng minh những do dự của
ngân hàng là đúng. Đến 31 tháng 12 năm 1994 một số dự án không có khả năng trả nợ
theo như cam kết với tổng số vốn: 1.741 triệu đồng chiếm 3,57% so tổng số vốn đã cho
vay. Đó là
+ Dự án chè đen xuất khẩu của Công ty chè cà phê: 586 triệu đồng. Tuy ngân hàng
chỉ cho vay phần vỏ bao che nhưng do thiết bị nhập của Nga là thiết bị cũ, không đồng bộ
nên khi đầu tư xong Nhà máy hoạt động kém, mặt khác lại mất thị trường đông âu nên
không có khả năng trả nợ.
+ Xí nghiệp ươm tơ xuất khẩu của Công ty dâu tằm tơ: 160 triệu đồng do mua thiết
bị lạc hậu, nên tơ xản suất ra không đủ phẩm cấp xuất khẩu, đến nay công ty đã giải thể.
+ Dây chuyền sản xuất đá nhập từ ITALIA của Công ty đá hoa xuất khẩu: 756
triệu đồng do nhập thiết bị đồng bộ nhưng không phù hợp vói khai thác núi đá ở thanh
hoá nên không lắp đặt được.
+ Xí nghiệp đá Vĩnh minh: 239 triệu đồng do sản xuất không hiệu quả.
2. Giai đoạn 1995-2000:
Thực hiện các quyết định 2919/TTg ngày 29/5/1995 và QĐ959-KTTK ngày
3/3/1997 của Thủ tướng Chính phủ, đã xác định rõ nhiệm vụ của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển trong lĩnh vực tín dụng đầu tư phát triển. Chi nhánh Thanh Hoá đã bám sát mục
tiêu, kế hoạch định hướng của trung ương và địa phương để chủ động tham gia cùng các
ngành, các chủ đầu tư lựa chọn các dự án thực sự có hiệu quả về mặt kinh tế xã hội. Đặc
biệt là tập trung xem xét khả năng thu hồi vốn và trả nợ Ngân hàng. Khối lượng tín dụng
cấp qua các năm đều tăng, nhất là tín dụng đầu tư cho các nghành Công nghiệp, xây
dựng. Đến 31/12/2000 tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đã đạt 298.981 triệu đồng và
chiếm 60% tổng dư nợ cho vay của ngân hàng... Tình hình hoạt động tín dụng đầu tư tại
Chi nhánh Thanh Hoá qua các năm như sau: (Biểu 09)
biẻu 9
Biểu 10: Phân tích nợ quá hạn tín dụngTrung, Dài hạn (1997-2000)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 1997 1998 1999 2000
I/ TD trung hạn
-Dư nợ quá hạn đầu năm 120 20 20 20
-Phát sinh nợ quá hạn trong năm 100 0 0 0
-Thu nợ quá hạn trong năm 200 0 0 0
- Dư nợ quá hạn đến 31/12 20 20 20 100
Trong đó:+Nợ quá hạn thông thừơng 0 0 0 0
+Nợ quá hạn khó đòi 0 0 0 0
+Nợ quá hạn không đòi được 20 20 20 20
I/ TD Dài hạn
-Dư nợ quá hạn đầu năm 960 2.005 1.837 857
-Phát sinh nợ quá hạn trong năm 1.217 93 304 0
-Thu nợ quá hạn trong năm 172 261 1.580 857
- Dư nợ quá hạn đến 31/12 2.005 1.837 561 857
Trong đó:+Nợ quá hạn thông thường 266 98 0 0
+Nợ quá hạn khó đòi 1.379 0 0 0
+Nợ quá hạn không đòi được 0 1.739 561 561
Qua bảng tổng hợp trên ta thấy doanh số cho vay và thu nợ của loại tín dụng này
đều tăng. Trong 5 năm ngân hàng đã cho vay được 103 dự án, gồm 41 dự án dài hạn theo
kế hoạch Nhà nước với tổng số vốn 345.514 tỷ đồng, 62 dự án trung hạn với tổng số vốn
80.220 tỷ đồng và 2,654,955 USD. Cùng với việc cho vay ngân hàng đã đôn đốc khách
hàng trả nợ kịp thời, doanh số thu nợ của hầu hết các dự án đều vượt so cam kết ghi trong
hợp đồng tín dụng, nhất là các dự án trung hạn. Đồng thời trình lên các cấp có thẩm
quyền xử lý được 1.580 triệu đồng dư nợ quá hạn từ giai đoạn trước (xóa 586 triệu,
khoanh 994 triệu) Đến 31/12/1999 dư nợ quá hạn chỉ còn 857 triệu đồng, 0,34 % so tổng
dư nợ TD trung, dài hạn (Trong đó có 304 triệu của 1 dự án mới phát sinh cho vay trong
năm 1995). Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Về tín dụng trung hạn
- Năm 1996: Tín dụng VND: Cho vay các dự án đã ký hợp đồng tín dụng với tổng
số vốn 836 triệu chủ yếu là dự án của các doanh nghiệp xây lắp để mua sắm thiết bị thi
công. Doanh số thu nợ 1.185 triệu (kể cả thu nợ các dự án đầu tư từ các năm trước).
Trong năm không phát sinh nợ quá hạn. Số dư nợ quá hạn là từ các năm trước chuyển
sang (Gạch bỉm sơn 100 triệu và XN nuôi tôm xuất khẩu 20 triệu).
Tín dụng USD: Xét duyệt cho vay 4 dự án với tổng số vốn: 1,811,893 USD, trong
đó có dự án của Bưu điện tỉnh, thuốc lá, bia chủ yếu là nhập thiết bị từ nước ngoài, doanh
số cho vay lớn nhưng dư nợ cuối năm chỉ 403,536 USD là do trong năm các dự án trả nợ
tốt, không có nợ quá hạn.
- Năm 1997: Tín dụng VND: Trong năm đã trình duyệt và cho vay 10 dự án (trong
đó có 2 dự án của công ty TNHH khối xây lắp) tổng số vốn 7.595 triệu đồng. Lớn nhất là
dự án lắp đặt thiết bị truyền dẫn vi ba số của Bưu điện Tỉnh với số vốn 1.732 triệu đồng,
còn lại là các dự án của doanh nghiệp xây lắp, công nghiệp chế biến.
Tín dụng USD: Tranh thủ nguồn vốn từ ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam
chi nhánh đã cho vay 2 dự án để nhập khẩu máy móc thiết bị thi công với số vốn 606,112
USD. Do có đồng vốn của ngân hàng mà Công ty xây dựng công trình giao thông 838 đã
trúng thầu thi công ở nước bạn Lào đem lại giá trị sản lượng sau đầu tư trên 6 triệu USD,
giải quyết việc làm cho hàng trăm công nhân ngành xây dựng.
- Năm 1998: Đặc thù giai đoạn này một số các doanh nghiệp bị đổ vỡ trong kinh
doanh, thất thoát vốn lớn có liên quan đến ngân hàng. Hiện tượng co cụm trong tín dụng
xảy ra khá phổ biến ở hầu hết các ngân hàng. Trước tình hình đó với mục tiêu "An toàn
trong tăng trưởng". Chi nhánh vẫn tích cực tìm kiếm các dự án có hiệu quả để cho vay và
khối lượng tín dụng trong năm 1998 này tăng lên đáng kể.
Tín dụng VND: Chi nhánh đã tiến hành thẩm định, xét duyệt và ký hợp đồng tín
dụng cho 13 dự án với tổng số vốn 16.806 triệu đồng. Lớn nhất vẫn là dự án của Bưu điện
tỉnh để nâng cấp mạng cáp nội hạt 7.438 triệu đồng. Cuối năm dư nợ tăng gấp 3 lần so
cuối 1997, Tỷ lệ nợ quá hạn là 0,1%, không có nợ quá hạn mới phát sinh.
Tín dụng USD: Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt nam chi nhánh cho vay 1 dự án nhập thiết bị từ nước ngoài. Công tác thu nợ vẫn đảm
bảo tốt.
- Năm 1999: Trong năm chi nhánh đã lựa chọn, xét duyệt, ký hợp đồng tín dụng
và giải ngân 17 lượt dự án của các doanh nghiệp với tổng mức vốn 18.520 triệu đồng để
bổ sung thiết bị, phương tiện sản xuất nhằm tăng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu, mở
rộng quy mô sản xuất. Đồng thời hỗ trợ cho ngân sách Tỉnh vay 11.480 triệu đồng/
20.000 triệu đồng kế hoạch để xây dựng cơ sở hạ tầng. Cùng với cho vay đã tập trung thu
nợ VNĐ 8.861 triệu đồng vượt 3,6% so kế hoạch và 192.000 USD. Trong năm không
phát sinh nợ quá hạn.
- Năm 2000: Chi nhánh đã xét duyệt, ký hợp đồng tín dụng và giải ngân cho 18 dự
án của các doanh nghiệp như Bưu điện, Bia... với tổng mức vốn là: 28.983. Cùng với cho
vay, đã tập trung thu nợ VND 28.687 triệu đồng vượt 4,04% kế hoạch và 193.462 USD.
Tuy nhiên cuối năm 2000 còn phát sinh nợ quá hạn thông thường 80 triệu do công ty đại
lý vận tải biển chưa trả được. (đến 30/6/2000 đơn vị này đã trả xong khoản nợ quá hạn
này)
Thứ hai: Về tín dụng dài hạn
- Năm 1996: Với 15 dự án theo kế hoạch Nhà nước ban đầu qua thẩm định ngân
hàng đã loại ra 5 dự án và thay bằng 5 dự án khác, có 2 dự án do thông báo kế hoạch
chậm nên không kịp làm hồ sơ. Kết quả năm 1996 có 13 dự án ký hợp đồng tín dụng với
tổng số vốn là :26.103 triệu đồng (trong đó kinh tế trung ương có 2 dự án tổng số vốn đầu
tư là 8.000 triệu đồng, kinh tế địa phương 11 dự án với số vốn đầu tư là 18.102 triệu
đồng). Khối lượng tín dụng cấp ra trong năm: 26.664 triệu đồng, dư nợ cuối năm là
47.270 triệu đồng. Nợ quá hạn chiếm 2% chủ yếu là dư từ năm 1995 chuyển sang. Cùng
với tín dụng bằng đồng việt nam Chi nhánh tập trung thu nợ các dự án ngoại tệ đã đầu tư
từ các năm trước được 138,813 USD. Dư nợ cuối năm 466,330 USD, không có nợ quá
hạn.
- Năm 1997: Số dự án nhận được là 6, thẩm định trình duyệt và ký hợp đồng tín
dụng 6 dự án với tổng số vốn là 29.429 triệu đồng (trong đó kinh tế trung ương 2 dự án
với số vốn là 4.979 triệu đồng). Khối lượng tín dụng cấp ra trong năm: 30.048 triệu đồng,
thu nợ 14.736 triệu đồng và 140,374 USD Dư nợ cuối năm 62.582 triệu đồng và 185,385
USD, trong đó nợ quá hạn VND chiếm tỷ trọng 3,2%…
- Năm 1998: Chi nhánh Thanh Hoá được thông báo theo định hướng kế hoạch là
12 tỷ đồng (trong đó kinh tế trung ương là 1 tỷ, kinh tế địa phương là 11 tỷ đồng). Trong
năm đã ký hợp đồng phát vốn vay được 1 dự án thuộc kinh tế trung ương với số vốn là 1
tỷ đồng, đồng thời tích cực xem xét, phân loại, thẩm định đề nghị UBND tỉnh và Ngân
hàng trung ương loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả. Đến cuối năm chi nhánh đã
trình duyệt, ký hợp đồng tín dụng 3 dự án với tổng số vốn 11 tỷ đồng. Do ký hợp đồng
vào cuối năm nên trong năm chỉ giải ngân được 3.070 triệu đồng. Doanh số thu nợ 20.019
triệu đồng và 140,571 USD. Dư nợ cuối năm 45.635 triệu đồng. Nợ quá hạn chiếm tỷ
trọng 3,9%.
- Năm 1999: Ngay sau khi nhận được kế hoạch đầu tư xây dựng trong kế hoạch
Nhà nước của 6 dự án với tổng số vốn 89.300 triệu đồng , ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh hoá đã nhanh chóng thẩm định và được ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung
ương chấp nhận duyệt cho vay cả 6 dự án. Doanh số cho vay trong năm 57.803 triệu
đồng, trong năm đã tập trung thu nợ theo hợp đồng cam kết và khả năng trả nợ thực tế
của các dự án vưọt 12,25% so kế hoạch trung ương giao. Dư nợ đến 31/12/1999 là:
83.899 triệu đồng và 150,000 USD. Nợ qúa hạn chỉ còn 561 triệu đồng (trong đó: Đá
Vĩnh minh 239 triệu, Công ty lâm sản xuất khẩu 304 triệu), chiếm 0,66%, giảm so năm
1998: 3,24% (Thực chất nợ quá hạn giảm do cuối năm đã có thông báo xử lý nợ quá hạn
theo thông tư liên bộ 03 xoá 586 triệu đồng cho Công ty chè- cà phê, khoanh nợ cho
Công ty đá hoa 784 triệu đồng và Công ty tơ tằm 160 triệu đồng. Các đơn vị này đều đã
giải thể hoặc kinh doanh thua lỗ kéo dài.)
- Năm 2000: Nhận được thông báo kế hoạch đầu tư xây dựng trong kế hoạch Nhà
nước của 14 dự án với tổng số vốn 233,500 triệu đồng, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh Hoá đã khẩn trương thẩm định và được ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương
duyệt cho vay 13 Dự án. Doanh số cho vay trong năm 186.810 triệu đồng; Thu nợ theo
hợp đồng cam kết vầ khả năng trả nợ thực tế của các dự án là 16.282 triêu đồng, vượt
1,76% so với kế hoạch. Dư nợ đến 31/12/2000 là 256.306 triệu. Nợ quá hạn chỉ còn 857
triệu chiếm 0,33% trong tổng dư nợ dài hạn.
Điều đáng chú ý là trong năm 2000 có 3 dự án lớn là: xây dựng nhà máy sản xuất
gạch celamic, Giày da xuất khẩu, Trồng cà phê chi nhánh đã làm tốt công tác thẩm định
xác định 3 dự án này hiệu quả thấp, thị trường tiêu thụ sản phẩm không tin cậy, chi nhánh
kiên quyết không cho vay. Mặt khác, đã chủ động tiếp cận khách hàng tìm dự án khả thi
để cho vay với mục tiêu là mở rộng tín dụng trung, dài hạn thương mại.
IV/ Những kết quả và tồn tại rút ra từ hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá
1- Những kết quả đạt được:
Có thể nói công tác tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh Hoá đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, đánh giá một cách tổng quát là đó
là: không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc xem xét thẩm định dự án, tính
toán hiệu quả một cách kỹ lưỡng, chấp hành đầy đủ các thủ tục, qui chế xét duyệt cho
vay. Hàng năm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã bám sát các mục tiêu kế
hoạch định hướng của tỉnh và của ngành chủ động tham gia vào việc lựa chọn dự án có
hiệu quả, có tính khả thi. Chủ động tiếp cận dự án tìm hiểu hoạt động của khách hàng, đi
sâu phân tích kỹ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách
hàng, hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Mặt khác đi sâu phân tích kỹ các điều kiện
đảm bảo vốn vay như tài sản thế chấp, tài sản cầm cố, bảo lãnh với quan điểm cùng doanh
nghiệp tháo gỡ khó khăn, ổn định sản xuất, mở rộng thị trường và tạo việc làm cho người
lao động. Góp phần vào việc làm lành mạnh tài chính khách hàng vay vốn, và phát triển
kinh tế tại địa phương; Trình độ CB của chi nhánh ngày càng nâng lên rõ rệt.
Đặc biệt là từ đầu năm 1999 dừng quyết định số 13 của chính phủ - chủ trương của
Chính phủ là Tín dụng trung, dài hạn theo kế hoạch Nhà nước chuyển sang Quỹ hỗ trợ
Đầu tư Quốc gia trực tiếp cho vay. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã đổi mới
cách nghĩ cách làm, chủ động tiếp cận khách hàng ngay từ khi có chủ trươg đầu tư, tham
gia tư vấn cho khách hàng trong việc lập dự án... tìm cơ hội tham gia đầu tư bằng tín dụng
trung, dài hạn thương mại. Đã chú ý mở rộng cho vay bằng hình thức tín dụng này đối với
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như: các doanh nghiệp cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, kinh tế trang trại.v.v… Những đánh giá cụ thể là:
- Đa số các dự án được đầu tư hàng năm theo đúng định hướng của Chính phủ,
Nghị quyết của Tỉnh đảng bộ đề ra và chiến lược phát triển kinh tế của địa phương.
- Những dự án đầu tư, những phương án sản xuất kinh doanh xin vay vốn đều là
những phương án có hiệu quả kinh tế - xã hội. Đây cũng là một yếu tố được chi nhánh
quan tâm hàng đầu. Hầu như gần 100% các dự án được đầu tư trong giai đoạn 1996-2000
sau khi đưa vào sử dụng đều có hiệu quả kinh tế rõ rệt, nó đã tạo ra một khối lượng lớn
sản phẩm hàng hoá cho địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh từng vùng, góp phần
tăng trưởng kinh tế cho tỉnh, tạo nên các vùng kinh tế mới, thay đổi cơ cấu cây trồng,
nâng cao chất lượng sản phẩm các ngành. Nâng công suất nhà máy đường Lam sơn lên
6.000 tấn mía/ngày tương đương 100.000 tấn đường/ năm, lao động nông nghiệp có việc
làm và nâng cao thu nhập. Đặc biệt là thông qua vốn đầu tư của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển (cùng với tổ chức tín dụng khác và vốn tự có) đã góp phàan chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phân bố lại lực lượng dân cư; giải quyết tốt quan hệ công nghiệp - nông nghiệp
làm cho cả vùng mía thuộc nhiều huyện phía tây, tây nam và phía bắc của Thanh Hoá từ
chỗ đất xấu, dân nghèo trở thành vùng kinh tế phát triển và nâng cao đời sống nhân dân.
- Thông qua tín dụng đầu tư đối với các dự án, Ngân hàng tác động đến hạch toán
kinh tế, làm lành mạnh tình hình tài chính và đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm
túc thể lệ tín dụng trung, dài hạn. Bởi vì Ngân hàng chỉ xem xét đầu tư cho các dự án tính
toán được hiệu quả kinh tế trực tiếp có khả năng trả nợ được chắc chắn. Vì vậy, để được
đầu tư vốn, doanh nghiệp phải bảo vệ được dự án đầu tư với Ngân hàng, qua đó Ngân
hàng cùng với doanh nghiệp xem xét lại một cách tỷ mỷ, sự cần thiết phải đầu tư, qui mô
đầu tư, nguồn vốn tham gia đầu tư... Xác định tính toán kỹ các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp.pdf