Tài liệu Luận văn Tìm hiểu tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam: LUẬN VĂN:
Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với việc phát triển
làng nghề tại tỉnh Quảng Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ cho phát triển kinh tế - xã
hội là một trong những giải pháp quan trọng nhất và được quan tâm hàng đầu trong chiến
lược và chính sách kinh tế của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay. Điều này lại càng cóư nghĩa đối với một tỉnh duyên hải miền Trung như Quảng
Nam khi mà thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp hơn so với nhiều tỉnh lân cận,
đời sống của người dân còn rất nhiều khó khăn, mâu thuẫn giữa tích luỹ và tiêu dùng còn
cực kỳ gay gắt.
Hai mươi năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng
trong việc góp phần phát triển thị trường vốn tín dụng (TD) phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ...
98 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1031 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với việc phát triển
làng nghề tại tỉnh Quảng Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ cho phát triển kinh tế - xã
hội là một trong những giải pháp quan trọng nhất và được quan tâm hàng đầu trong chiến
lược và chính sách kinh tế của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay. Điều này lại càng cóư nghĩa đối với một tỉnh duyên hải miền Trung như Quảng
Nam khi mà thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp hơn so với nhiều tỉnh lân cận,
đời sống của người dân còn rất nhiều khó khăn, mâu thuẫn giữa tích luỹ và tiêu dùng còn
cực kỳ gay gắt.
Hai mươi năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng
trong việc góp phần phát triển thị trường vốn tín dụng (TD) phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở địa phương. Bằng các hoạt động TD
thương mại với cơ chế linh hoạt và chính sách ưu tiên phát triển, NHNo&PTNT tỉnh
Quảng Nam đã trở thành trung tâm cung ứng vốn TD chủ yếu cho các cơ sở sản xuất và
dân cư phục vụ cho việc khôi phục và phát triển các làng nghề trên địa bàn. Bộ mặt của
một số làng nghề đã có những chuyển biến đáng phấn khởi. Đã xuất hiện một số mô hình
làng nghề truyền thống và làng nghề mới phát triển năng động trong kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, hoạt động TD của NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam nhằm phục vụ cho
phát triển các làng nghề của tỉnh còn bộc lộ nhiều hạn chế và gặp phải không ít khó khăn,
quy mô nguồn vốn còn nhỏ, chưa thật "bám rễ" sâu vào các đối tượng làng nghề, hiệu
quả TD thấp, hoạt động TD đứng trước nguy cơ có nhiều rủi ro và có thể dẫn đến phát
triển không bền vững trong mạng lưới phục vụ. Hơn nữa trong bối cảnh khoa học và
công nghệ phát triển nhảy vọt hiện nay và xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế
ngày càng sâu rộng, cạnh tranh gay gắt trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của các
làng nghề, đòi hỏi TD của NHNo&PTNT phải có những đổi mới để nâng cao hiệu quả
hoạt động.
Trước vấn đề bức xúc trên, để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
TD, phục vụ tốt nhất chủ trương, nghị quyết của Tỉnh đảng bộ Quảng Nam về đẩy mạnh
phát triển làng nghề, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, tôi chọn đề tài: " Tín dụng
của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại
tỉnh Quảng Nam " để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ kinh tế chuyên ngành kinh tế
chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đề cập đến vấn đề TD
ngân hàng đổi với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, trong
đó đáng chú ý là một số công trình sau đây:
- “Tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam” (1996), Luận án phó tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Đảo, tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn Hà Nội” (1996), Luận án phó tiến sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Việt Trung, tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá,
hiện dại hoá đất nớc” (1997), Tài liệu tổng kết cuộc thi ngân hàng Việt Nam với việc
huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà Nội.
- “Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
(2001), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đỗ Đức Quân, tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- “Đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường nhằm góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta” (2001), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đào
Minh Tú, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
- “Marketting trong ngân hàng” (1996), Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
- “Giải pháp xử lưí nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại
Việt Nam”, (2003), Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- “Lịch sử 15 năm xây dựng và trưởng thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam” (2003), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên địa bàn Nghệ An theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (2003), Luận án tiến sĩ
Kinh tế của tác giả Hà Huy Hùng, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam”
(2003), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Lê Thị Hương, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học khác nghiên cứu về những vấn đề có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động TD hoặc hoạt động kinh doanh nói chung
của NHTM, trong đó có NHNo&PTNT Việt Nam đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển làng nghề.
Nhìn chung, các công trình và bài viết trên đã có những cách tiếp cận khác nhau
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vấn đề TD NHNo&PTNT đối với việc phát triển làng nghề
ở Việt Nam nói chung, một tỉnh nói riêng trong những năm gần đây. Nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu vấn đề TD NHNo&PTNT với việc phát triển làng nghề ở tỉnh
Quảng Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu không
trùng lặp với các công trình và bài viết đã công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư TD của NHNo&PTNT Quảng
Nam trong phát triển làng nghề trên địa bàn, để đề xuất giải pháp nhằm phát huy tốt hơn
vai trò của nó trong phục vụ phát triển làng nghề ở tỉnh Quảng Nam thời gian tới.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động TD của NHNo&PTNT và vai trò của nó
trong phát triển làng nghề.
- khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động TD của NHNo&PTNT
Quảng Nam trong phục vụ quá trình phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động TD của
NHNo&PTNT nhằm đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho quá trình phát triển làng nghề trên
địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam với hai hoạt
động cơ bản là thu hút vốn và cấp TD cho phát triển các làng nghề tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu ở góc độ kinh tế chính trị đối với hoạt động TD của
NHNo&PTNT đối với việc khôi phục và phát triển làng nghề, không đi sâu vào những vấn
đề kỹ thuật nghiệp vụ của hoạt động TDNH và cũng không đi sâu vào nghiên cứu cơ chế
chính sách và phương thức phát triển các làng nghề.
Phạm vi về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2001 đến nay (tháng 6/2006).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối và chính sách đổi mới của Đảng và
Nhà nước về TDNH trong nền kinh tế thị trường, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp hệ thống hoá lý luận - thực tiễn.
Phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh; phân tích, tổng hợp tình hình thực tiễn về
hoạt động TD thương mại phục vụ việc khôi phục và phát triển làng nghề của
NHNo&PTNT Quảng Nam.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động TD thương mại của NHNo&PTNT
Quảng Nam trong việc phục vụ khôi phục và phát triển làng nghề của tỉnh từ năm 2001 đến
nay.
- Đề xuất và kiến nghị phương hwớng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động TD
của NHNo&PTNT Quảng Nam nhằm phục vụ tốt hơn quá trình khôi phục và phát triển
làng nghề trên địa bàn.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn và vai trò của nó
trong phát triển làng nghề
1.1. Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và đặc điểm hoạt
động của nó trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Đã có một thời chưa có TD. Trong các nền kinh tế tổ chức sản xuất theo lối tự cấp
tự túc, không có TD. TD chỉ ra đời và phát triển trong nền kinh tế hàng hoá và khi nền
kinh tế đó đã phát triển đến một trình độ nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, sự ra đời và phát triển của TD không phải là ngẫu nhiên hay do ý muốn chủ quan
của bất kỳ ai, mà nó được quyết định bởi các điều kiện khách quan trong nền kinh tế hàng
hóa. Sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự xuất hiện chế độ tư hữu làm cho
việc sản xuất của người nông dân và thợ thủ công không chỉ nhằm tự thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng của bản thân người sản xuất, mà còn nhằm trao đổi, mua bán, tức là ra đời và
phát triển kinh tế hàng hóa. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa là quá trình phân hóa
xã hội, của cải tập trung vào trong tay người giàu, có quyền thế, trong khi những người
nghèo không đủ thu nhập để đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho đời sống của mình. Mặt khác,
do điều kiện thiên nhiên và điều kiện sản xuất luôn luôn có rủi ro đòi hỏi phải có sự vay
mượn nhau để vượt qua những khó khăn của cuộc sống và phát triển sản xuất. Trong điều
kiện đó, quan hệ TD ra đời.
Lúc đầu quan hệ này còn sơ khai dưới hình thức hiện vật để người giàu cho người
nghèo vay đảm bảo cuộc sống. Theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, nhu cầu đầu tư
tìm kiếm lợi nhuận và nhu cầu tiêu dùng ngày càng gia tăng, quan hệ TD càng được mở
rộng. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn của từng doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế
trong quá trình phát triển làm xuất hiện tình trạng khi thừa, khi thiếu, tạo nên sự không ăn
khớp về mặt thời gian và không gian đầu tư. Có những doanh nghiệp lúc này thừa vốn,
nhưng lúc khác lại thiếu vốn. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì có doanh
nghiệp này tạm thời có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng, trong khi lại có những doanh nghiệp
cần vốn bổ sung nguồn vốn cho dự án đầu tư. Để giải quyết mâu thuẫn này, dòng luân
chuyển vốn từ nơi “thừa” đến nơi “thiếu” xuất hiện. Hình thức TD ra đời làm cầu nối
trung gian giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn. Nói cách khác, TD ra đời là kết quả tất yếu của
quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thị trường và là
hiện tượng có tính quy luật.
Trong kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh đòi hỏi cần phải có
nguồn vốn trong xã hội để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất, tái sản xuất tài sản cố định.
Nguồn cung vốn cho hoạt động TD chủ yếu được huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi
trong xã hội, bao gồm vốn tiết kiệm của cá nhân, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của
các nhà kinh doanh nhưng chưa dùng, ngân sách nhà nước cho các tổ chức TD vay... Điều
này có nghĩa là sự phát triển của TD còn được bắt nguồn từ nhu cầu tiết kiệm và đầu tư.
Thực chất, TD là cầu nối giữa các khoản tiết kiệm và các khoản đầu tư trong nền kinh tế.
TD đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Nhưng ở bất kỳ
phương thức sản xuất nào, nó cũng biểu hiện ra ngoài như là sự vay mượn lẫn nhau tạm
thời một vật hoặc một số tiền nhất định. Hoạt động của TD được diễn ra trên thị trường
vốn. Đây là một bộ phận cấu thành rất quan trọng của hệ thống các loại thị trường trong
nền kinh tế. Nó là kênh dẫn vốn, góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa cung và cầu về
vốn trong nền kinh tế. Có thể khái quát vận động của vốn giữa các chủ thể trong nền kinh
tế thông qua hai phương thức: tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp.
Tài trợ trực tiếp là phương thức chuyển vốn từ người có vốn (cung vốn) sang
người cần vốn bằng cách người cần vốn phát hành các chứng khoán và bán cho người có
vốn thông qua thị trường tài chính. Tuỳ theo từng loại chứng khoán mà người sở hữu
chúng có được mối quan hệ với người phát hành ra chứng khoán đó và gọi tên cho loại
chứng khoán đó. Ví dụ, có loại chứng khoán được gọi là cổ phiếu, nhưng loại khác lại gọi
là tín phiếu, trái phiếu, công trái... Với phương thức này, người có vốn cũng như người
cần vốn hoàn toàn có thể chủ động lựa chọn phương án nào tối ưu cho mình.
Tài trợ gián tiếp là phương thức chuyển vốn từ người có vốn đến người cần vốn
thông qua người thứ ba gọi là tổ chức trung gian tài chính. Tổ chức này có chức năng làm
“cầu nối” dẫn vốn từ người có vốn đến người cần vốn. Phương thức này sẽ khắc phục
đáng kể những hạn chế mà phương thức tài trợ trực tiếp không thể giải quyết được, vì nó
có khả năng tập hợp được vốn từ những người có số vốn nhỏ, tạo điều kiện cho họ có cơ
hội tiếp cận với hoạt động sinh lợi và tạo điều kiện cho những người cần số tiền nhỏ vẫn
có thể vay được vốn. Ngay cả những người có vốn hoặc cần vốn với số lượng lớn cũng
có lợi vì họ sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận với các kênh dẫn vốn. Thêm vào
đó, không phải ai cũng có thể hoặc cũng muốn sử dụng những sản phẩm của thị trường
tài chính, vì nhiều lý do khác nhau mà họ chỉ có thể hoặc chỉ muốn đầu tư số vốn nhàn
rỗi của mình, hoặc là vay mượn vốn thông qua các trung gian tài chính. Nếu không có
các trung gian tài chính, thì thị trường tài chính sẽ không thể mang lại lợi ích trọn vẹn cho
các chủ kinh tế. Các trung gian tài chính còn là cần thiết vì nó có thể có được những chi
phí thong tin và chi phí giao dịch lớn trong quá trình lưu chuyển vốn mà chỉ có nó mới
giải quyết được; vì nó có một đội ngũ chuyên nghiệp đánh giá rủi ro để có những biện
pháp hữu hiệu trong tài trợ vốn. Các trung gian tài chính có thể liên kết với nhau trong
hoạt động tài trợ vốn, tạo điều kiện dễ dàng cho sự vận động của vốn có hiệu quả. Do sự
ra đời và phát triển của các trung gian tài chính làm hình thành các quan hệ TD có tính
chuyên nghiệp.
Trong thực tế, quan hệ TD có thể được diễn ra trực tiếp giữa chủ có vốn với chủ
cần vốn. Nhưng hai chủ này không thể khi nào cũng gặp được nhau để giải quyết nhu cầu
về vốn, xác định số lượng vốn, thời gian cho vay và sử dụng vốn, và nếu có gặp được
nhau thì cũng phải mất nhiều thời gian và chi phí tìm kiếm. Để thoả mãn được nhu cầu
của cả hai bên, cần thiết phải có một bên thứ ba đứng ra làm cầu nối. Công việc của bên
này là tập trung tất cả số vốn của những người tạm thời thừa hoặc cần đầu tư kiếm lãi, rồi
phân phối nó cho các nhu cầu đầu tư dưới hình thức cho vay. Đây chính là các tổ chức
TD có tính chuyên nghiệp.
Theo nghĩa thông thường, TD là một sự tín nhiệm lẫn nhau. Hay nói cách khác,
đó là lòng tin, là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Dưới
góc độ kinh tế chính trị, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay,
là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật theo những điều kiện
mà hai bên cùng thỏa thuận. Nó được thực hiện thông qua sự vận động của vốn với các
giai đoạn:
- Giai đoạn phân phối vốn TD dưới hình thức cho vay. ở giai đoạn này, vốn tiền
tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được chuyển từ tay người cho vay sang tay người đi vay.
- Giai đoạn sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. ở giai đoạn này, vốn vay
được sử dụng trực tiếp (nếu vay bằng hàng hóa) hoặc được sử dụng để mua hàng hóa
(vay bằng tiền) để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay. Tuy
nhiên, người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, mà chỉ có quyền sử dụng tạm
thời trong một thời gian nhất định.
- Giai đoạn hoàn trả vốn TD. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của
TD. Nghĩa là sau khi hoàn thành một chu kỳ sản xuất T - H - T để trở về với hình thái
tiền tệ thì vốn TD được người vay hoàn trả lại người cho vay. Hoàn trả là một đặc điểm
của TD và là cơ sở để phân biệt nó với các phạm trù kinh tế khác.
Sự hoàn trả của TD là quá trình quay trở về với tư cách là một lượng giá trị được
vận động. Sự hoàn trả luôn luôn phải được đảm bảo giá trị và có phần tăng thêm dưới hình
thức lợi tức. Trong trường hợp có lạm phát, sự hoàn trả về mặt giá trị cũng phải được tôn
trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi suất.
C. Mác cho rằng:
Tiền được bỏ ra với tư cách là tư bản, có đặc tính là quay trở về tay
người đã bỏ tiền ra, về tay người đã chi nó ra với tư cách là tư bản, vì H – T –
H’ là hình thái nội tại của sự vận động tư bản, nên chính vì vậy người sở hữu
tiền mới có thể đem tiền cho vay với tư cách là tư bản, nghĩa là đem tiền cho
vay với tư cách là một vật có đặc tính là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó
mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm lên trong quá
trình vận động [16, tr.534].
Tiền được đem cho vay như vậy, nghĩa là có sự chuyển nhượng tạm thời một
lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về
với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Đó chính là TD.
Thực chất, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay một
khoản tiền thông qua sự vận động của giá trị. Vốn TD được biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ được chuyển từ tay người cho vay sang người đi vay trong một thời gian nhất định rồi
quay về người chủ cho vay với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Hay nói cách khác,
TD là một phạm trù của nền kinh tế thị trường, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ sở hữu
với chủ sử dụng đối với các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên
tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức.
Đến nay, ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, đã có nhiều hình thức TD
khác nhau.
- Nếu căn cứ vào phương thức thực hiện các quan hệ TD theo đối tượng, TD có
các hình thức chủ yếu sau: TD thông qua vốn hàng hoá, TD thông qua vốn tiền tệ và TD
vốn tài sản.
+ TD thông qua vốn hàng hoá (còn gọi là TD thương mại) là hình thức mua bán
chịu hàng hoá đến kỳ hạn mới thanh toán, kèm theo lợi tức. Nó được thực hiện thông qua
các công cụ kỳ phiếu hoặc hối phiếu thương mại. Đây là hình thức khá phổ biến trong
kinh tế thị trường.
+ TD thông qua vốn tiền tệ (gồm TD NH, TD nhà nước và TD tập thể) được thực
hiện thông qua các trung gian tài chính. Ví dụ, TDNH được thực hiện thông qua các NH
bao gồm NHTM, NH thực hiện các chính sách xã hội. NHTM bao gồm NH Công
thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và phát triển, NHNo&PTNT... TD tập thể là hình
thức tự nguyện góp vốn của những thành viên để cho nhau vay, hoặc góp vốn cùng kinh
doanh, được thực hiện thông qua các tổ chức TD hợp tác (NH hợp tác xã, quỹ TD nhân
dân, hợp tác xã TD...).
+ TD thông qua vốn tài sản là TD được tồn tại dưới dạng cho thuê tài sản tài
chính (trung hạn, ngắn hạn). Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua
lại theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Nếu căn cứ vào tính chất pháp lý, thì TD có hai hình thức: TD chính thức và TD
không chính thức.
+ TD chính thức là hình thức TD được pháp luật thừa nhận. Loại TD này được
thực hiện thông qua các tổ chức: NHTM nhà nước, NH nước ngoài, NH liên doanh,
NH cổ phần, hợp tác xã TD và các tổ chức trung gian tài chính khác.
+ TD không chính thức là hình thức TD “ngầm” không được luật pháp thừa nhận.
Hình thức này ra đời và tồn tại gắn liền với lịch sử phát triển của kinh tế hàng hóa thường
diễn ra giữa các cá nhân (người có nhu cầu TD) và các nhân (người cho vay nặng lãi)
hoặc người bán chịu (TD thương mại trong nhân dân). Đến nay ở nước ta, hình thức TD
này vẫn tồn tại tương đối phổ biến ở nông thôn nước ta dưới các dạng cho vay bằng tiền
lãi suất cao (15 - 30%/năm), cho vay bằng vàng, cho vay thóc theo vụ 1 thùng (10kg) =
1,4 thùng/ vụ (ở Bắc Bộ) hoặc 1 công = 2 giạ lúa/vụ (ở Nam Bộ), cho vay bằng phân (1
bao urê cuối vụ trả 10 - 12 giạ lúa), bán lúa non (lãi 30 - 50%), cho vay "nóng" theo ngày
(lãi suất 1%/ngày)...
Trong các nền kinh tế kém phát triển, do sản xuất hàng hóa còn ở giai đoạn
đầu, có nhiều yếu tố sơ khai, nên để duy trì mức sống bình thường tối thiểu cần thiết,
người ta có thể đi vay với bất cứ hình thức nào và với mức lãi suất là bao nhiêu cũng
phải chấp nhận. Hình thức này ngăn cản sự phát triển của sản xuất. ở nước ta, sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn nhiều yếu tố lạc hậu, khi hệ thống TD chính
thức không đáp ứng nổi nhu cầu đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, thì đây là miếng
đất màu mỡ cho kênh TD “ngầm” hoạt động, mặc dù cho vay nặng lãi có những hạn
chế nhưng xét cho cùng nó cũng có những đóng góp tích cực để giải quyết vấn đề vốn
cho hộ sản xuất nông nghiệp và các hộ trong hoạt động kinh tế ở nông thôn.
Trong hai hình thức trên, TD chính thức là nguồn cung ứng vốn lớn nhất và dần
dần chiếm lĩnh thị trường nông thôn mà NHNo&PTNT là nòng cốt. Hình thức này đang
hoạt động mạnh mẽ và thực sự mang lại lợi ích cho các hộ kinh doanh nông nghiệp và
các hộ hoạt động kinh tế khác ở nông thôn.
TD chính thức được phân chia thành 3 loại theo đối tượng thực hiện TD gồm: 1)
TD thông qua vốn tiền tệ (TD NH, TD nhà nước và TD tập thể); 2) TD thông qua vốn
hàng hóa (hay còn gọi là TD thương mại) và 3) TD thông qua vốn tài sản (cho thuê tài
sản tài chính trung hạn và dài hạn).
TDNH là một loại hình TD dụng chính thức. Nó là quan hệ kinh thế dưới hình
thức tiền tệ, hàng hoá và dịch vụ giữa một bên là NH và một bên là các tổ chức kinh tế,
xã hội và dân cư theo nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức. Trong hình
thức này, ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa chủ cho vay và chủ đi vay trên thị tr-
ường nhằm đáp ứng cầu vốn cho các hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội và cá
nhân.
TDNH được thực hiện thông qua trung gian tài chính là các NH. Nó bao gồm
NHTM và NH thực hiện chính sách xã hội. NHTM gồm có NHNo&PTNT, NH Công
thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Ngoại thương... Đây là hình
thức chủ yếu để huy động vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
TD NHNo&PTNT là một hình thức trung gian tài chính thuộc hệ thống ngân
hàng thương mại. Khác với các hình thức trung gian tài chính khác, hoạt động của hình
thức này là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng phục vụ cho hoạt động của kinh tế
nông nghiệp và khu vực nông thôn với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của các tổ chức cá nhân có vốn, sử dụng vốn này để cấp TD cho những tổ chức, cá nhân
cần vốn, và cung ứng các dịch vụ thanh toán nhằm mục đích thu lợi nhuận.
ở nước ta, TD NHNo&PTNT so với các hình thức TDNH, có sự ra đời chậm hơn.
Theo tinh thần Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính
phủ) ngày 26 tháng 3 năm 1988, Vụ Tín dụng Nông nghiệp thuộc NH nhà nước Việt
Nam đã được phân tách để thành lập NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Đây chính là
tiền thân của NHNo&PTNT Việt Nam. Ngay từ khi được thành lập, NH Phát triển Nông
nghiệp đã được xác định là NHTM giữ vai trò chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính
nông thôn với nhiệm vụ tiếp tục đầu tư TD thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Lúc đầu, hoạt động của loại TD này hầu như chỉ đơn nhất là TD theo cơ chế bao
cấp, hoạt động TD phải cho vay theo chỉ định và theo kế hoạch định sẵn nhà nước. Đối
tượng cho vay chỉ bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Cùng với công cuộc đổi mới, tháng 9/1990, Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh:
Pháp lệnh NH nhà nước và Pháp lệnh NHTM, hợp tác xã TD và công ty tài chính, hệ
thống NH nước ta được chia thành hai cấp : NH nhà nước và NHTM. Theo Pháp lệnh
này, NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam chuyển thành NHNo&PTNT Việt Nam. Hoạt
động TD của NHNo&PTNT đến nay đã có nhiều đổi mới và đã có những bước phát triển
quan trọng.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam
NHNo&PTNT Việt Nam là một loại hình tổ chức trung gian tài chính hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của các tổ chức, cá nhân có vốn, sử dụng số vốn này để cấp TD cho các tổ chức, cá nhân
cần vốn và cung ứng các dịch vụ thành toán nhằm thu lợi nhuận. Nó là một doanh nghiệp, có
tổ chức bộ máy độc lập để quản lý và điều hành kinh doanh, có nguồn tài sản riêng, có mua
vào, bán ra, có chi phí, thu nhập và kết quả kinh doanh độc lập; có nghĩa vụ nộp thuế cho
ngân sách Nhà nước, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh. Phạm vi
hoạt động của NH này là ngành kinh doanh nông nghiệp và khu vực nông thôn. Do chức
năng, nhiệm vụ của nó, nên NHNo&PTNT gắn bó hữu cơ với nông nghiệp, nông thôn, hoạt
động có hiệu quả hay kém hiệu quả của NHNo&PTNT có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng
tới ngành và khu vực kinh tế này. Mặc dù không trực tiếp sản xuất ra hàng nông sản hay các
sản phẩm vật chất khác từ nông thôn, nhưng NHNo&PTNT có thể tạo điều kiện thúc đẩy
quá trình sản xuất và tái sản xuất của ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
1.1.2.1. Mục tiêu hoạt động tín dụng
Cũng như các NHTM khác, mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT và lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, mức lợi nhuận cao và thu được lâu bền là cái đích mà các doanh
nghiệp kinh doanh cần và muốn đạt tới. Nguồn thu nhập chủ yếu của NHNo&PTNT là từ
lãi cho vay, đầu tư chứng khoán và các phí dịch vụ; trong khi nguồn chi chủ yếu là trả
tiền lãi cho nguồn vốn huy động và đi vay. Ngày nay, chi phí cho việc trang bị và hiện
đại hoá hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ NH là những khoản chi chiếm tỷ trọng đáng
kể trong danh mục chi phí của NHNo&PTNT.
Mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT là lợi nhuận, không có nghĩa là nó theo
đuổi mục tiêu đó bằng mọi giá, bất chấp việc tuân thủ các nguyên tắc đảm bảo an toàn.
Sở dĩ như vậy là vì, cũng như các doanh nghiệp khác, hoạt động của NHNo&PTNT phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, môi trường tâm
lý xã hội, hoạt động đầu tư của người vay vốn... Sự biến động của các yếu tố này có thể
gay ra những rủi ro trong hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT. Hoạt động của NHTM
nói chung có tác động đến sự phát triển của nền kinh tế, nhưng tình trạng của nền kinh tế
cung tác động đến hoạt động của hệ thống NHTM.
Thực tế thị trường vốn ở các nước trong khu vực vừa qua cho thấy hoạt động của
hệ thống NHTM là rất nhạy cảm. Hướng và cơ cấu đầu tư sai tạo nguy cơ đổ vỡ của hệ
thống NH; ngược lại những rủi ro nảy sinh trong hoạt động của hệ thống NH có tính chất
lan truyền và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thống kinh tế. Nó không chỉ
ảnh hưởng xấu đến một quốc gia, mà có khi còn lan truyền ra các nước trong khu vực.
Những hậu quả trực tiếp và dễ nhận thấy là sự chao đảo, đổ vỡ hệ thống thị trường vốn,
đảo lộn giá trị đồng tiền của quốc gia, từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế và lan từ quốc
gia này sang quốc gia khác.
Do mục đích hoạt động TD của NHNo&PTNT là lợi nhuận, nên nó phải tính toán
chi phí "đầu vào" và thu hồi "đầu ra" theo nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá
doanh thu để tối đa hoá lợi nhuận. Do theo đuổi mục đích đó, việc quản trị của
NHNo&PTNT phải trở thành một hoạt động tất yếu, có ý nghĩa rất quan trọng. Để tồn tại,
phát triển và vì lợi ích chung của cộng đồng, NHNo&PTNT buộc phải tuân thủ một cách
nghiêm ngặt những tỷ lệ an toàn như khả năng tự chủ tài chính, khả năng thanh toán,
thanh khoản, sinh lợi, chất lượng tài sản có... mà những tỷ lệ này đã trở thành tiêu chuẩn
và thông lệ quốc tế. Cũng vì thế, mà trong chính sách kinh tế của bất kỳ quốc gia nào,
chính phủ cũng đều quan tâm và coi trọng các biện pháp bảo đảm cho hoạt động của hệ
thống NHNo&PTNT cũng như các NHTM nói chung phát triển an toàn, hiệu quả và bền
vững.
Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, NHNo&PTNT cũng phải được quyền tự chủ,
phải chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả và phù
hợp với những quy định của pháp luật, không thể chấp nhận bất cứ sự can thiệp trái pháp
luật hoặc can thiệp "phi thị trường" vào hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT. Tuy
nhiên, do tính đa dạng và nhạy cảm của lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH, mà
Nhà nước phải đưa ra những nhuôn khổ pháp lý đồng bộ để quản lý và điều tiết hoạt
động này, bảo đảm cho hệ thống NH phát triển bền vững.
1.1.2.2. Phương thức dẫn vốn tín dụng
Hoạt động của NHNo&PTNT ngày nay đã trở nên rất đa dạng với rất nhiều loại
dịch vụ. Nếu xét ở góc độ thực hiện chức năng dẫn vốn, hoạt động kinh doanh TD của
NHNo&PTNT bao gồm 3 nhóm chính: thu hút vốn, cấp TD và đầu tư chứng khoán.
Một là, thu hút nguồn vốn:
Phương thức này được thực hiện thông qua các biện pháp sau:
- Cung cấp các khoản tiền gửi có thể phát séc.
Đây là những tài khoản ở một NH mà người sở hữu chúng có quyền được phát
séc để rút tiền hoặc thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Tài khoản này còn được
gọi là tài khoản tiền gửi giao dịch hay tiền gửi thanh toán. Việc đưa ra loại tài khoản tiền
gửi này là một trong những bước đi quan trọng nhất của hoạt động NHTM, bởi nó cải
thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở
nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn.
Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể thanh toán theo yêu cầu, tức là người
gửi có thể yêu cầu thanh toán bằng cách viết ra một tờ séc và NH sẽ thực hiện thanh toán
ngay cho người đó. Đây là công cụ mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, đặc biệt là
trong việc bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển tiền mặt, quản lý tài chính doanh nghiệp,
thanh toán hoặc chuyển đổi ra tiền mặt. Tiền gửi có thể phát séc là một nhuồn vốn quan
trọng của NHNo&PTNT, vì nó là nguồn vốn mà NH có phí tổn thấp nhất do những người
sở hữu chúng sẵn sàng bỏ qua một số tiền lãi nhất định để có được một tài sản có "lỏng"
có thể sử dụng bất cứ lúc nào. Nền kinh tế càng phát triển, thì càng có nhiều khách hàng
mở tài khoản séc ở NHTM, NH càng có cơ hội để huy động nguồn vốn này và mở rộng
các hoạt động kinh doanh của mình.
- Cung cấp các tài khoản tiền gửi phi giao dịch.
Tài khoản này có đặc tính chung là được hưởng lãi, rút vốn theo định kỳ và người
sở hữu chúng không được quyền phát séc. Do người sở hữu tài khoản không được quyền
phát séc nên nó được gọi là tài khoản phi giao dịch. Mức lãi suất của loại tiền gửi này
thường cao hơn nhiều so với tài khoản tiền gửi có thể phát séc, vì mục đích chính của
những người sử dụng loại tài khoản này là lợi nhuận. Tiền gửi phi giao dịch thường
chiếm phần lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHNo&PTNT, nó bao gồm hai khoản chính
là tiền gửi tiết kiệm và chứng chỉ tiền gửi.
Tiền gửi tiết kiệm lại bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn. Tài khoản này nhằm mục đích chính là huy động nguồn tiết kiệm của các
chủ thể trong xã hội nên NH phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi có thể phát séc. Về
nguyên tắc, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn không được rút ra khi chưa đến hạn, nhưng do sự
cạnh tranh thu hút tiền gửi, các NHTM thường cho phép người gửi có thể rút tiền trước
thời hạn và khi đó sẽ phải giảm một lượng tiền lãi nhất định.
Chứng chỉ tiền gửi cũng có nhiều loại kỳ hạn, có thể đến hơn 5 năm. Về thực
chất, chứng chỉ tiền gửi được coi như những công cụ vay nợ của các NHTM nói chung
(như kỳ phiếu, trái phiếu...) và là một nguồn vốn quan trọng của NHTM, nó có thể được
phát hành trên thị trường tài chính. Xét ở cùng thời điểm, so với tiền gửi tiết kiệm thì
thông thường chứng chỉ tiền gửi là nguồn vốn có chi phí lớn hơn, nhưng tính ổn định lại
cao hơn. Do đó, chứng chỉ tiền gửi có thể đem bán lại được ở thị trường thứ cấp nên nó
được các công ty tài chính nắm giữ như là những tài sản đầu tư có tính lỏng cao.
- Đi vay vốn.
Ngoài nguồn vốn tự huy động, hoạt động TD của NHNo&PTNT còn có thể thông
qua việc đi vay trên thị trường liên NH, vay các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác hoặc
vay NH trung ương. Vay vốn trên thị trường liên NH chủ yếu được sử dụng để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản, các khoản vay liên NH thường có thời hạn là qua đêm, vài ngày
hoặc có thể dài hơn nhưng là vay ngắn hạn. Ngoài ra, trong thực tế, có những tổ chức tài
chính, chẳng hạn các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm... cũng có những khoản vốn tạm
thời nhàn rỗi chưa có kế hoạch sử dụng, do đó, các NHNo&PTNT có thể đi vay các
nguồn vốn này.
Các NHNo&PTNT còn có thể đi vay tái chiết khấu và đi vay tái cấp vốn tại NH
trung ương. Thời hạn vay vốn cụ thể phụ thuộc vào những yếu tố như điều kiện của NH
đi vay, tình hình kinh tế - xã hội, tình hình thực hiện chính sách tiền tệ, mục đích sử dụng
vốn vay...nhưng thường cũng là ngắn hạn. Ngoài ra, NHNo&PTNT cũng có thể vay NH
trung ương với thời hạn rất ngắn để giải quyết khó khăn tạm thời trong hoạt động thanh
toán, hoặc trong một số trường hợp nó còn có thể vay vốn của NH trung ương để cho vay
một số đối tượng cần thiết theo chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn
theo yêu cầu của Chính phủ.
- Tăng vốn tự có.
Vốn tự có bao gồm vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Vốn điều lệ là
nguồn tiền được đóng góp bởi những chủ NH, còn quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ là
nguồn tiền được hình thành bằng việc trích lập từ lợi nhuận hàng năm. Vốn tự có của
NHNo&PTNT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tuy chỉ chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ
trong tổng nguồn vốn hoạt động, nhưng nó lại thực hiện những chức năng không thể thay
thế được, chẳng hạn như việc cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng NH, giúp
NH chống lại rủi ro, duy trì niềm tin của công chúng và của các cổ đông vào khả năng
phát triển của mình.
Vốn tự có của NHNo&PTNT là một nguồn lực có ý nghĩa sống còn đối với việc
duy trì các hoạt động hàng ngày và bảo đảm cho NH phát triển lâu dài. Quy mô vốn tự có
quyết định quy mô huy động vốn, đi vay, quy mô tài sản có và một số hoạt động khác của
NH. Vì thế mà một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của NHNo&PTNT là việc
thường xuyên phải duy trì được lượng vốn tự có ở mức hợp lý. Về nguyên tắc,
NHNo&PTNT có thể tăng vốn tự có bằng cách tăng thêm vốn góp của các chủ sở hữu,
phát hành cổ phiếu, phát hành giấy nợ thứ cấp có khả năng chuyển đổi và nâng cao năng
lực tự tích luỹ từ lợi nhuận của NH. Mặt khác, chính sự hoạt động có hiệu quả của
NHNo&PTNT cũng góp phần làm tăng thêm vốn, tức là phần giá trị thị trường của các
cổ phiếu vượt quá mệnh giá của nó và đó cũng là cách thức quan trọng làm tăng vốn tự
có thực của NH.
Các hoạt động thu hút vốn nêu trên làm hình thành một vế trong bảng cân đối tài
sản của NHNo&PTNT, đó là tài khoản nợ và vốn.
Hai là, cấp tín dụng:
Đây là chức năng cơ bản nhất của NHNo&PTNT, là các giao dịch về tài sản giữa
các bên cho vay là NH với bên đi vay là các tổ chức kinh tế, xã hội và dân cư trong khu
vực nông thôn. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. NHNo&PTNT chủ yếu cấp TD
cho các tổ chức kinh tế và hộ trong các ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn.
Cấp TD là nguồn sinh lợi lớn nhất của NHNo&PTNT, nhưng cũng là nơi có
nhiều rủi ro nhất. Một NHNo&PTNT gặp khó khăn về tài chính thường phát sinh từ các
khoản cho vay khó đòi, mà nguyên nhân của nó là do quản lý kém, cho vay không tuân
thủ đúng nguyên tắc TD, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài
dự kiến của ngành kinh tế nông nghiệp và các ngành kinh tế khác thuộc khu vực nông
thôn.
Nếu nhìn từ góc độ các hình thái giá trị và các hoạt động nghiệp vụ cụ thể của TD,
Luật các tổ chức TD của Việt Nam (sửa đổi) có giải thích: "Hoạt động đầu tư là việc tổ
chức TD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp TD" và "Cấp TD là việc tổ
chức TD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả bằng
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh NH và các nghiệp vụ khác"
[21, tr.105-106].
- Cho vay bằng tiền
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của hoạt động TD của NHNo&PTNT. Nó bao gồm
nhiều loại, có thể theo các căn cứ:
Một là, căn cứ vào mục đích vay vốn của khách hàng, có 5 nhóm:
Cho vay kinh doanh (còn gọi là cho vay công nghiệp và thương mại) nhằm cung
cấp vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các hộ gia đình ở
nông thôn. Hỗ trợ vốn cho nông dân trang trải các chi phí trong sản xuất nông nghiệp;
Cho vay cá nhân và hộ gia đình nhằm tài trợ tiêu dùng;
Cho vay kinh doanh bất động sản ở nông thôn là loại cho vay liên quan đến việc
mua sắm và xây dựng bất động sản;
Cho vay đối với các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác ở nông thôn;
Cho vay khác.
Phân loại như trên có tác dụng giúp NHNo&PTNT thiết lập danh mục cho vay
hướng về khách hàng (thị trường) cho phù hợp với mục tiêu phục vụ của NH này, giúp
NH có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay bằng cách chuyên môn hoá cung ứng các
sản phẩm cho vay theo mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Ngược lại, khách hàng
cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn TD. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để
đưa ra những giới hạn an toàn trong hoạt động TD và là một phần quan trọng trong việc
xác định chiến lược cho vay có tính cạnh tranh của một NHTM nói chung.
Hai là, căn cứ vào thời hạn cho vay và theo quy định hiện hành của Nhà nước,
hoạt động cho vay có thể chia thành 3 loại: cho vay ngắn hạn (dài nhất là 12 tháng), cho
vay trung hạn (từ 1- 5 năm), và cho vay dài hạn (thời hạn trên 5 năm). Cách phân loại này
có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Dựa vào đó, NH có thể xác định được cơ cấu thời hạn
cho vay, cân đối kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản
có và tài sản nợ của NH, đặc biệt trong việc quản lý khe hở kỳ hạn, khe hở lãi suất và khả
năng thanh khoản để phòng tránh rủi ro.
Ba là, căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản vốn vay, có thể chia làm 2 loại:
cho vay có đảm bảo bằng tài sản (khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo
lãnh của bên thứ ba), và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản (cho vay dựa vào tín
nhiệm của NH đối với khách hàng). Bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng cho vay và hạn chế rủi ro TD cho NH. Về hình thức, cho vay có bảo đảm bằng tài
sản có mức độ rủi ro ít hơn so với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng thực tế
không hoàn toàn như vậy. Điều này thường thấy khi các NH tuyệt đối hoá vai trò của tài
sản bảo đảm, coi nhẹ các điều kiện TD khác. Trong những trường hợp này, NH còn có
thể bị mất đi những khách hàng tốt. Điều này có nghĩa là, cho vay có bảo đảm bằng tài
sản là cần thiết, nhưng không thể coi đó là điều kiện tiên quyết khi cho vay. Xét về hiệu
quả kinh tế, nếu cho vay không có bảo đảm về tài sản được mở rộng, thì đó là tín hiệu tốt
và thể hiện triển vọng của nền kinh tế (tất nhiên là phải có những khách hàng đủ điều
kiện, có uy tín). Hiện nay, trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, tình trạng khách
hàng thiếu tài sản bảo đảm khi vay vốn là phổ biến. Điều này đã làm cho hoạt động TD
của NH gặp nhiều khó khăn. Cần có những giải pháp hợp lý và dài hạn nhằm khắc phục
có hiệu quả tình trạng này.
Bốn là, căn cứ vào cách thức cho vay, có hai loại: cho vay trực tiếp và cho vay
gián tiếp. Cho vay trực tiếp là việc NH cấp vốn trực tiếp cho người đi vay và người đi
vay trực tiếp hoàn trả nợ cho NH. Đây là hình thức cho vay chủ yếu và có tính truyền
thống của NHNo&PTNT. Nó có thể thực hiện bằng nhiều phương thức như cho vay từng
lần, cho vay theo hạn mức TD, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả
góp, cho vay theo hạn mức TD dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ
TD...
Cho vay gián tiếp là việc NH mua lại các chứng từ có giá, khế ước nợ hoặc chứng
từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Đây là hình thức NH tái cấp vốn cho
những người đi vay thông qua chiết khấu thương phiếu, mua các hợp đồng bán trả góp,
mua các khoản nợ của DN.
Cách phân loại này tạo điều kiện cho NH có thể chuyên môn hoá kỹ thuật, nghiệp
vụ và cấp TD, từ đó có thể nâng cao hiệu quả cấp TD bằng sự chuyên sâu và những kỹ
năng đã được chuyên môn hoá.
Năm là, căn cứ vào quy mô các khách hàng đi vay, có thể phân chia thành ba
loại: cho vay khách hàng là doanh nghiệp lớn, cho vay khách hàng là doanh nghiệp
nhỏ, và cho vay khách hàng là hộ gia đình và cá nhân ở nông thôn. Việc phân loại này
thường dựa vào quy mô vốn và tài sản của chủ đi vay. Nó giúp cho NHNo&PTNT có
chính sách và cơ chế TD phù hợp và là cơ sở để đưa ra những cải cách trong quản lý
TD theo quan điểm hướng về khách hàng.
Ngoài những cách phân loại cho vay trên, còn có những cách phân loại khác như
theo mục đích và yêu cầu của quản lý TD. Ví dụ, phân loại cho vay theo cơ cấu kinh tế,
có cho vay ngành kinh tế, vùng kinh tế hoặc cho vay theo tính chất sở hữu của khách
hàng.
Việc phân loại cho vay nói trên có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, nó là căn cứ để
NHNo&PTNT xây dựng chính sách hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, đồng
thời đó là cơ sở để hình thành chiến lược kinh doanh có tính cạnh tranh và mang đặc
trưng riêng của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Cho vay bằng hàng hoá:
Đây là hình thức giao dịch TD được thực hiện bằng hàng hoá cụ thể. Hàng hoá
của loại TD này thường là cho thuê tài chính. Theo cách này, NH cấp TD trực tiếp bằng
hàng hoá cho người đi vay (gọi là người đi thuê), người vay phải hoàn trả nợ cho NH bao
gồm cả gốc và lãi. Theo quy định của Luật tổ chức TD, thì "cho thuê tài chính" là hoạt
động TD trung hạn và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là
tổ chức TD với khách hàng thuê" [21, tr.106].
Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ vốn quan trọng cho các tổ chức kinh
tế không chỉ ở các nước phát triển mà ngày nay đã được triển khai rộng rãi ở các nước
đang phát triển. Nó mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung, nông nghiệp và
nông thôn nói riêng. Nó tạo điều kiện cho người đi thuê có được cơ sở vật chất kỹ thuật
cần thiết ngay trong điều kiện nguồn vốn của họ còn ít không thể đáp ứng trong việc mua
được những tài sản này; đồng thời đây cũng là cách phân tán rủi ro - một cơ chế đặc thù
của kinh doanh hiện đại. Nó cũng tạo cơ hội cho bên cho thuê trong việc quản lý và kiểm
soát tài sản nhằm mục đích an toàn TD, tránh được tình trạng sử dụng vốn không đúng
mục đích, hạn chế rủi ro. Hình thức này thường được thực hiện thông qua các công ty
cho thuê tài chính. Tuy nhiên, NHNo&PTNT có thể hình thành những bộ phận loại này
để phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp và khu vực nông thôn theo hướng đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay ở nước ta.
- Bảo lãnh NH:
Đây là một nghiệp vụ TD mà NHNo&PTNT cấp cho khách hàng trên cơ sở uy tín
của mình. Với nghiệp vụ này, NH không phải cung cấp tiền hay hàng, nhưng khi người
được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay
thế dể thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy, bảo lãnh của NH còn được gọi là TD chữ
ký. Hình thức TD này đã được ghi trong Luật các tổ chức TD của nước ta.
Hình thức này được sử dụng khá phổ biến trong các giao dịch thương mại. Nó có
hai chức năng chủ yếu: 1) là công cụ bảo đảm đối với người hưởng thụ bằng việc cam kết
thực hiện nghĩa vụ đối với người hưởng thụ khi xảy ra sự vi phạm hợp đồng của người
được bảo lãnh, nó giúp cho các giao dịch về hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi.
2) là công cụ tài rợ về tài chính cho người được bảo lãnh. Thông qua hình thức này mà
người được bảo lãnh không phải xuất quỹ mà được vay nợ, trả chậm tiền hàng hoá, dịch
vụ, chậm nộp thuế... nghĩa là mặc dù không trực tiếp cấp vốn, nhưng bảo lãnh NH đã
giúp cho khách hàng được hưởng những lợi ích tài chính như khi được NH cho vay. Đây
là một trong những hoạt động cho vay có nhiều tác dụng, bởi nó đáp ứng những nhu cầu
đa dạng của các hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân và người lao động ở
khu vực nông thôn và tạo thuận lợi cho các chủ thể trong các giao dịch kinh tế.
Năm là, đầu tư chứng khoán
Đây là hoạt động kinh doanh quan trọng của NHNo&PTNT. Trong hoạt động
này, NH cung ứng vốn cho các chủ kinh tế (tài trợ vốn) thông qua hoạt động mua chứng
khoán. Nó có thể đầu tư chứng khoán bằng cách mua các loại trái phiếu chính phủ, công
trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc, trái phiếu doanh nghiệp hay các loại chứng
khoán khác.
Mục đích của dầu tư chứng khoán là để sinh lợi, tăng vường khả năng thanh
khoản, hỗ trợ cho các hoạt động TD và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh để phân tán rủi
ro. Các chứng khoán đều mang lại thu nhập cho người sở hữu chúng. Nhờ hoạt động này,
NHNo&PTNT có thể chủ động dùng nguồn vốn của mình để lựa chọn mua loại nào cho
thích hợp và có hiệu quả. Trong các danh mục đầu tư chứng khoán, thì tín phiếu kho bạc
và trái phiếu chính phủ là những chứng khoán được các NHTM nói chung ưa chuộng
nhất, bởi tính an toàn cao và nó là loại "lỏng" nhất, có thể được mua bán hoặc chuyển đổi
thành tiền một cách dễ dàng với chi phí giao dịch thấp.
Đầu tư chứng khoán là một hướng quan trọng trong đa dạng danh mục tài sản có
sinh lợi của một NHTM, tạo điều kiện phân tán rủi ro, không bị phụ thuộc quá lớn vào
hoạt động TD. Tuy khả năng linh hoạt trong điều chỉnh danh mục đầu tư chứng khoán là
tốt hơn so với danh mục TD, nhưng nếu tuyệt đối hoá vai trò của khoản đầu tư này thì
NHNo&PTNT không còn đúng nghĩa với tên gọi của nó.
1.2. làng nghề ở quảng nam và Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đối với sự phát triển làng nghề
1.2.1. Làng nghề và nhu cầu về vốn cho phát triển các làng nghề ở Quảng
Nam
1.2.1.1. Làng nghề và đặc điểm của làng nghề
- Làng nghề:
Làng là một phạm trù dùng để chỉ một khối dân cư ở nông thôn làm thành một
đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến
[29, tr.522]. Làng ở Việt Nam đã xuất hiện từ thời Hùng Vương. Nó được hình thành trên
cơ sở những công xã nông thôn, trong đó mỗi công xã gồm một số gia đình, có một tinh
thần cộng đồng, cộng cảm, sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Sự tập
trung đó là do nghề trồng lúa nước (đã có ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN) phải
thường xuyên chống thiên tai mà công việc này một gia đình không thể đảm đương được,
cần có sự liên kết của cộng đồng, gắn bó với nhau và cùng chung sống chết.
Lúc đầu, nguồn sống cơ bản của người dân trong các làng là sản phẩm nông
nghiệp. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất làm cho sản xuất nông nghiệp có của
dư thừa, làm ra đời kinh tế hàng hoá. Dần dần trong làng có những người làm nghề buôn
bán, rồi có những người chế tác công cụ lao động, sản xuất đồ mộc, đan lát đồ dùng, nuôi
tằm, kéo tơ, dệt vải...tức là chuyển sang sản xuất thủ công. Trong thời kỳ đầu, sản xuất công
nghiệp chỉ ở quy mô gia đình và bị phụ thuộc kinh tế tự nhiên giống như cách mô tả của V.I.
Lênin: "ở đây, nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là một mà thôi" [15, tr.411-412]. Theo đà
phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và kinh tế hàng hoá, những
người sản làm nghề thủ công vốn coi công việc của mình là một nghề phụ trong nghề
nông chuyển sang thành một nghề độc lập. Tuy họ đã rời bỏ sản xuất nông nghiệp, nhưng
vẫn gắn chặt với làng quê, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sống bằng nghề thủ công
nghiệp. Bên cạnh những người này, trong làng vẫn có những người làm nông nghiệp
kiêm thợ thủ công. Trong quá trình phát triển, số người trong làng chuyển hẳn sang sản
xuất các mặt hàng thủ công dần tăng lên, có đội ngũ thợ, có quy trình công nghệ, quy mô
sản xuất hàng thủ công tăng lên đến một mức độ nhất định làm cho làng làng thuần nông
chuyển biến thành các làng nghề.
Làng nghề là một khái niệm chứa đựng hai bộ phận cấu thành là "làng" và
"nghề". Đến nay, ở nước ta có một số quan niệm khác nhau về làng nghề. Chẳng hạn,
theo giáo sư Trần Quốc Vượng, "làng nghề là làng tuy vẫn trồng trọt theo lối tiểu nông và
chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một số nghề cổ truyền
tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp. có
phường, có ông trùm, có phó cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy
trình công nghệ nhất định "sinh ư nghệ, tử ư nghệ", "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", sống
chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công" [30, tr.27].
Đây là quan niệm tuy đúng với làng nghề truyền thống, nhưng lại không thích
hợp với các làng nghề nói chung và càng không phải là làng nghệ mới được đi vào hoạt
động. Nếu cho rằng phát triển làng nghề phải có nghề cổ truyền nổi trội, tinh xảo với một
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp thì ngày nay rất khó có được một loại làng nghề như
vậy.
Một quan niệm khác cho rằng, "làng nghề là những làng đã có từ 50 hộ hoặc từ
1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong
tổng thu nhập của họ trong năm" [8, tr.15]. Còn trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ
về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, thì "làng nghề là thôn, ấp, bản có
trên 35% số hộ hoặc lao động tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ
ngành nghề nông thôn chiểm trên 50% tổng thu nhập của làng".
Các định nghĩa trên đã khắc phục được nhước điểm của quan niệm thứ nhất, quan
tâm dến phải có tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ ngành nghề, nhưng lại cố định tiêu chí
xác định làng nghề và việc cố định những tiêu chí trong khái niệm sẽ làm cho các nhà
hoạch định chính sách khó xử lý khi chế độ ưu đãi đối với làng nghề đã thay đổi thì phải
chăng khái niệm cũng thay đổi.
Quan niệm thứ tư của TS Dương Bá Phượng, "làng nghề là làng ở nông thôn có
một (hay một số) nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập" [20, tr.13-
14]. Quan niệm này đã nêu được hai yếu tố cơ bản cấu thành của làng nghề là làng và
nghề, nêu được vấn đề nghề trong làng tách ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập,
nên phù hợp với điều kiện mới hơn, tránh được hạn chế của quan niệm thứ hai, nhưng
vẫn mắc phải hạn chế của quan niệm thứ nhất.
Theo tác giả, có thể hiểu đơn giản làng nghề là làng có hoạt động thủ công
nghiệp. Song, không phải bất cứ quy mô nào của nghề cũng đều được gọi làng đó là làng
nghề. Làng được gọi là làng nghề khi các hoạt động thủ công nghiệp đủ lớn ở mức độ
nào đó mang tính ổn định. Quan niệm làng nghề phải được xác định cả về mặt chất và
mặt lượng. Mặt chất, làng nghề phải là làng có sự khác biệt so với các làng thuần nông
hoặc với phố nghề ở thành thị. Mặt lượng, làng nghề phải được thể hiện ở một quy mô
nhất định và có tính ổn định tương đối cao. Vì có điểm xuất phát là làng gắn với nông
nghiệp, nên khi quy mô thủ công nghiệp của làng phát triển đến mức độ nào đó mới được
gọi là làng nghề. Việc xác định quy mô nghề, phải vừa xem xét bản thân hoạt động thủ
công nghiệp, vừa phải đặt nó trong quy mô làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt
động kinh tế của nghề.
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh quy mô các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có
hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị sản xuất và lao động làm nghề thủ công nghiệp. Song, do
nghề gắn với làng vốn có điểm xuất phát là nông nghiệp, nên phải so sánh tỷ lệ lao động
(hay hộ) và thu nhập của thủ công nghiệp với tổng số lao động và tổng thu nhập của làng.
Nghĩa là, tỷ lệ lao động làng nghề và tỷ lệ thu nhập do nghề mang lại so với lao động và
thu nhập của làng là tiêu thức xác định làng đó có phải là làng nghề hay không.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các điểm hợp lý của các qun niệm nêu trên và nghiên
cứu của bản thân, có thể hiểu làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ
công hầu như được tách hẳn ra khỏi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỷ lệ
nhất định về lao động và thu nhập của làng. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi
của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, ươm tơ, dệt vải, dệt tơ lụa...Trước
đây, làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển mạnh
của ngành kinh tế dịch vụ, nên ở các tỉnh còn có các nghề buôn bán dịch vụ trong nông
thôn cũng được gọi là làng nghề. Trong một làng nghề có thể chỉ có một nghề, nhưng
cũng có thể có nhiều nghề. Điều này là tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công nghiệp và
dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế có trong làng.
- Đặc điểm của làng nghề:
Khác với làng thuần nông và phố nghề, làng nghề được ra đời và phát triển ở
nông thôn, có mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp, lao động mang tính chất thủ công
và chủ yếu là lao động tại chỗ; vốn ít, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu và mang tính chất
thủ công; hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu, đa số sản phẩm được sản
xuất có tính chất đơn chiếc và nhiều sản phẩm mang bản sắc văn hoá của vùng, của dân
tộc.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường, CNH và HĐH nông nghiệp, nông thôn làm
cho các quan hệ kinh tế ở làng xã thay đổi, các làng nghề cũng biến đổi theo. Dưới đây là
những đặc điểm chủ yếu của làng nghề.
Một là, làng nghề có quan hệ gắn bó với nông nghiệp, nhưng ít phụ thuộc vào
nông nghiệp. ở nước ta trước đây cũng như hiện nay, hầu hết các nghề đều lấy làng làm
địa điểm hoạt động. Do thủ công nghiệp hình thành trong các làng, nên giữa nghề nông
và nghề thủ công nghiệp có mối quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Sự phát triển của thủ
công nghiệp trong làng phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp. Bên cạnh các hộ chuyên làm
thủ công nghiệp, đa số các hộ trong làng làm nông nghiệp kiêm thủ công nghiệp. Sự phát
triển của nông nghiệp tạo điều kiện để các hộ chuyển sang làm nghề thủ công nghiệp.
Nông nghiệp được coi như "bàn đạp" để phát triển thủ công nghiệp trong làng. Hầu hết
nguyên liệu của thủ công nghiệp trong làng do nông nghiệp tao ra (như chế biến nông sản,
dệt vải, dệt chiếu...), một phần lớn nguồn vốn để hình thành làng nghề ban đầu có nguồn
gốc từ tích luỹ nông nghiệp, sản phẩm làm ra trước hết là phục vụ nông nghiệp và cư dân
nông thôn.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, xã hội, khi trình độ kinh tế phát triển cao
hơn, hoạt động của làng nghề càng có xu hướng độc lập hơn đối với nông nghiệp.
Nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề được đa dạng hoá trong đó có cả sản phẩm của
các ngành công nghiệp ở thành thị. Hơn nữa, khi nước ta đã là thành viên chính thức của
WTO, nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề còn bị cạnh tranh quyết liệt từ các bạn
hàng nước ngoài. Do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lợi thế nguyên liệu
có nguồn gốc trực tiếp từ tự nhiên giảm xuống, làm cho sự tồn tại và phát triển của làng
nghề gắn liền với nguyên liệu tại chỗ từ nông nghiệp có xu hướng giảm xuống. Làng
nghề ngày càng có tính độc lập hơn đối với nông nghiệp.
Hai là, lao động trong làng nghề là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật cao với tay
nghề khéo léo của thợ thủ công, giữa lao động tại chỗ với lao động từ nơi khác đến.
Trong các làng nghề hiện nay, trừ một số khâu công việc hoặc những công việc mang
tính bí quyết nghề nghiệp, còn lại là lao động phổ thông, trình độ thấp, hầu hết là lao
động tại địa phương. Ngày nay, do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, xu
hướng tự do hoá thương mại, nên việc sản xuất của làng nghề phải dựa vào những
phương tiện, công cụ lao động mới. Nó đòi hỏi lao động trong làng nghề cũng phải được
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật thì sản phẩm làm ra mới đủ sức cạnh tranh. Cũng
do những tác động này, cơ cấu lao động trong làng nghề cung phải thay đổi theo hướng
ngày càng hiện đại.
Ba là, khả năng tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn. Hiện nay, vốn để các cơ sở sản
xuất kinh doanh trong làng nghề chủ yếu là tự có và đi vay trong làng, nhất là của những
người họ hàng. Trong những năm gần đây, lượng vốn mà các làng nghề vay của các tổ
chức TD tuy đã tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời, do tác động
của công cuộc đổi mới và do đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mức sống
của người dân tăng lên, lượng tiết kiệm trong dân cư tăng lên và các dịch vụ nhất là dịch
vụ TD nông thôn được mở rộng sẽ là điều kiện để các chủ kinh tế trong làng nghề tiếp
cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn xã hội.
Bốn là, có sự kết hợp công nghệ sản xuất hiện đại với kinh nghiện, kỹ thuật thủ
công theo hướng tiểu thủ công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo. Một số nghề
được cơ giới hoá ở một vài công đoạn trong sản xuất (ví dụ xay bột để làm bánh tráng
gạo bằng máy thay cho kỹ thuật thủ công trước đây, cưa gỗ và bào trơn bằng máy trong
nghề mộc...). Dưới tác động của việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
trình độ cơ giới hoá của các làng nghề ngày càng tăng lên và theo hướng ngày càng hiện
đại. Lượng vốn đầu tư cho một chỗ làm việc trong làng nghề theo đó cũng ngày càng
tăng lên.
Năm là, có sự chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên kết giữa các hình thức sản xuất
kinh doanh trong làng nghề và giữa các làng nghề với công nghiệp lớn. Do tác động của
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các hình thức sản xuất kinh doanh trong làng nghề
cũng được cơ cấu lại theo hướng giảm số hộ cá thể, tăng số cơ sở như tổ hợp tác, hợp tác
xã, công ty. Có sự liên kết giữa làng nghề với các tổ chức kinh doanh khác như liên kết
dịch vụ đầu vào, đầu ra, liên kết giữa các công đoạn sản xuất do phát triển chuyên môn
hoá. Các hiệp hội ngành nghề giúp nhau cũng phát triển...Kết cấu hạ tầng cho làng nghề
phát triển mạnh mẽ.
Sáu là, sản phẩm được sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng loạt với sản
xuất đơn chiếc mang bản sắc văn hoá dân tộc. Tuy sản xuất trong làng nghề vẫn là sản
xuất quy mô nhỏ, nhưng do áp dụng máy móc, nên để tránh lãng phí trong việc sử dụng
máy móc thiết bị công nghệ thì việc sản xuất phải có khối lượng đủ lớn mới giảm được
chi phí sản xuất, mới có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Đồng thời, do tác động của
cạnh tranh, viêc sản xuất sản phẩm có tính đến những nét đặc trưng gắn với các giá trị
văn hoá truyền thống của địa phương thông qua công nghệ thủ công, sản xuất đơn chiếc ở
một số công đoạn là cần thiết để phát triển làng nghề hiện đại.
Những đặc điểm nêu trên của làng nghề được xem xét gắn với những biến đổi của
nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay ở cả
nước nói chung và mỗi tỉnh, thành nói riêng.
1.2.1.2. Các làng nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay
Quảng Nam là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống hình thành từ lâu đời. Đó là
các làng nghề như nghề mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, nghề đúc đồng ở Phước Kiều đã
có từ thế kỷ XV gắn với đô thị cổ Hội An và dinh trấn Quảng Nam tại Thanh Chiêm.
Theo thời gian, về sau hình thành thêm những làng nghề mới ở khu vực ven sông Thu
Bồn, sông Vu Gia như nghề ươm tơ, dệt lụa, dệt chiếu... Các làng nghề này đã trở thành
quen thuộc và đống vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm tiêu dùng trên địa bàn,
trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Những sản phẩm của các làng nghề mang bản sắc
văn hoá của địa phương Quảng Nam.
Trước năm 1975, các làng nghề sản xuất phân tán, phát triển chậm, hầu như
lao động ở các làng nghề đã di chuyển đi làm ăn nơi khác hoặc đến các vùng ven đô
thị để duy trì sản xuất, vì vậy quy mô sản xuất và số lượng sản phẩm của làng nghề
không lớn, hoạt động sản xuất hầu như cầm chừng. Sau ngày giải phóng, Đảng và
Nhà nước ta có những chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong đó tập trung
khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống,
nên nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp ở các địa phương được khôi phục và phát
triển. Sản phẩm của một số làng nghề được Nhà nước bao cấp cả về cung ứng
nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm. Các làng nghề được phát triển mạnh nhất là các
sản xuất thủ công, mỹ nghệ, vì đây là những sản phẩm được các nước Đông Âu ưa
chuộng, có khả năng xuất khẩu sang các thị trường này để thu ngoại tệ.
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, các cơ sở sản xuất trong
làng nghề chưa thích nghi với cơ chế mới nên đã gặp nhiều khó khăn, có lúc tưởng như
bế tắc. Sở dĩ như vậy bởi vì, một mặt do thị trường tiêu thụ truyền thống của sản phẩm
thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may bị thu hẹp; mặ khác, các cơ sở chưa kịp thích nghi với
cơ chế thị trường, thiếu tính năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặc dù vậy,
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn có một số làng nghề do biết khắc phục khó khăn, nhạy
bén, năng động trong môi trường mới, nên đã duy trì được sản xuất, tìm được thị trường,
bán được hàng và dần dần tăng quy mô.
Những năm gần đây, nhờ có một số ưu đãi của Nhà nước về cơ chế chính sách,
các làng nghề có điều kiện phục hồi và phát triển. Trong tỉnh, đã xuất hiện một số làng
nghề mới. Một số làng nghề đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng qui
mô sản xuất, quan tâm đến chất lượng và mẫu mã sản phẩm như làng nghề làm hàng thủ
công mỹ nghệ, làng nghề dệt vải, dệt chiếu, đúc đồng, gốm sứ vv... Đến nay, toàn tỉnh đã
có 61 làng nghề hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh bao gồm cả sản xuất và dịch
vụ được phân bổ trên khắp các huyện, thị (phụ lục 1).
1.2.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đối với sự phát triển làng nghề
Vốn là điều kiện không thể thiếu được cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
làng nghề. Vốn bao gồm cả vốn bằng tiền và các tài sản khác phục vụ cho sản xuất, tác
động đến làng nghề trên nhiều khía cạnh:
- Vốn đầu tư và máy móc, thiết bị, khoa học và công nghệ có quan hệ thuận chiều
với nhau. Làng nghề nào đầu tư nhiều thì khả năng cơ giới hoá càng cao và điều này sẽ
nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Nói cách khác, vốn là cơ sở để có được công nghệ tiên tiến.
- Có vốn, các làng nghề sẽ có điều kiện chủ động trong hoạt động đầu tư, chủ
động điều chỉnh mặt hàng và cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm để đáp ứng tốt hơn nhu
cầu thị trường.
- Có nguồn lực vốn, các làng nghề có điều kiện chủ động du nhập sản phẩm mới
hay ngành nghề mới, để đáp ứng với sự những biến đổi nhanh nhạy của thị trường.
- Chủ động đầu tư kết cấu hạ tầng cho làng nghề.
- Là cơ sở để tạo ra việc làm ở làng nghề.
- Là cơ sở để phát huy các nguồn lực khác, vv..
Trước đây, vốn của các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề thường là vốn tự
có hoặc huy động của anh em, họ hàng. Lượng vốn mà các chủ sản xuất có được thường
nhỏ bé, khó đáp ứng được yêu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vốn đầu
tư sản xuất kinh doanh thấp, nên người sản xuất không thuê được người thiết kế mẫu mã,
không mua trữ được nguyên vật liệu khi rẻ (nhất là nguyên liệu là những nông sản có tính
thời vụ), không đầu tư mua máy móc thiết bị để cơ gới hoá, HĐH sản xuất. Điều đó làm
cho khả năng cạnh tranh sản phẩm của làng nghề thấp, hàng hoá khó bán được, thậm chí
các hộ bị mất khả năng thu hồi vốn. Các cơ sở làng nghề, do vậy, bị rơi vào "cái vòng
luẩn quẩn": vốn ít → thiết bị thủ công → sản phẩm làm ra với năng suất thấp → giảm
khả năng cạnh tranh của sản phẩm → không mở rộng được thị trường → thu hồi vốn khó
→ vốn ít.
Bên cạnh nguồn vốn, sự phát triển của làng nghề tất yếu còn phụ thuộc vào các
điều kiện khác, như kết cấu hạ tầng, trình độ kỹ thuật và công nghệ, sự dồi dào hay khan
hiếm về nguyên vật liệu, truyền thống làng nghề, sự phát triển của ngành nông nghiệp, sự
biến động của nhu cầu thị trường, cơ chế chính sách của Nhà nước...Mặc dù vốn không
phải là điều kiện duy nhất quyết định sự phát triển của làng nghề, song nó có vai trò rất
quan trọng bởi tác động của nó khá bao trùm trong việc thúc đẩy làng nghề phát triển. Để
các làng nghề thật sự thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, cần phải tìm ra nguồn vốn cho cho
nó phát triển.
Trong các nguồn vốn trên thị trường hiện nay, vốn TD của NHNo&PTNT là một
bộ phận có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của làng nghề. Nó thể hiện:
Thứ nhất, vốn TD của NHNo&PTNT là một kênh quan trọng cho việc mở rộng
đầu tư và tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề.
Nhu cầu vốn cho phát triển các làng nghề đáp ứng CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở nước ta là rất lớn, nhưng như đã phân tích, các chủ thể hầu như khó và không thể
tự mình có đủ nguồn vốn để hoạt động. Ngoài các nguồn vốn tự có, các chủ thể phải mở
rộng nguồn vốn thông qua các kênh dẫn vốn của thị trường. NHNo&PTNT do nhiệm vụ
của nó là phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nó còn là một tổ
chức trung gian tài chính lớn nhất ở khu vực nông thôn, hoạt động đa dạng nhất với chức
năng cơ bản là đi vay để cho vay, nên có nhiều điều kiện hơn trong việc đáp ứng nhu cầu
của các làng nghề. Tính kinh tế do có lợi thế về quy mô và khả năng đa dạng trong hoạt
động của NHNo&PTNT sẽ tiết kiện được các chi phí giao dịch, hạn chế được rủi ro trong
kinh doanh và do sự chuyên nghiệp nên nó trở thành người trung gian về thông tin, giúp
lựa chọn việc sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong làng nghề.
Vai trò của TD NHNo&PTNT đối với làng nghề còn được thể hiện trên các khía
cạnh: nó có thể tập trung được các nguồn vốn nhàn rỗi còn nằm rải rác trong xã hội nói
chung và các làng xã nói riêng vào NH, đưa chúng vào hoạt động đáp ứng kịp thời nhu
cầu đầu tư của làng nghề, trong khi phần đông các cá nhân đều là những người có khoản
tiết kiệm nhỏ và không tập trung không thể đáp ứng được. Do quy mô hoạt động trên
toàn quốc với hàng chục nghìn cơ sở, nên NHNo&PTNT có khả năng linh hoạt cao trong
việc huy động và cho vay, qua đó cho phép hoạt động TD điều chuyển nguồn vốn giữa
các địa bàn một cách hiệu quả mà không bị phụ thuộc vào giới hạn địa lý. Nguồn vốn có
thể được NH huy động từ nơi này, nhưng cho vay ở nơi khác nếu có hiệu quả đầu tư tốt
hơn. Hoạt động TD của NH tạo ra động lực mạnh mẽ kích thích mọi chủ thể tiết kiệm,
thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung những nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán để tạo ra
nguồn vốn lớn sẵn sàng cung ứng cho hoạt động đầu tư của các chủ thể khác, làm cho
nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả hơn, tăng trưởng kinh tế của các làng nghề nhanh
hơn.
Thứ hai, TD của NHNo&PTNT là kênh phân bổ vốn có hiệu quả cho hoạt động
đầu tư của các chủ thể trong làng nghề.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá và chịu sự
chi phối của các quy luật thị trường. Hoạt động TD của NHNo&PTNT không chỉ với tính
cách là trung gian trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa nơi có vốn mà còn có vai trò rất
quan trọng trong việc lựa chọn, sàng lọc để phân bổ nguồn vốn dựa trên nguyên tắc kinh
doanh thương mại và các quy luật của thị trường. Do tính chuyên nghiệp và kinh doanh
có tổ chức vì mục tiêu lợi nhuận, NH có thể tìm được những nơi đầu tư an toàn, hiệu quả
và giảm thiểu được rủi ro, tổn thất.
Hoạt động TD của NHNo&PTNT được thực hiện trên nguyên tắc, điều kiện và
quy trình TD hết sức chặt chẽ. Mỗi hình thức cấp TD đều có những nguyên tắc cụ thể,
trong đó khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải trả cả gốc và lãi đầy
đủ, đúng hạn, phải thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính
phủ và của NH. Nếu khách hàng không thực hiện theo quy định hoặc vi phạm nguyên
tắc vay vốn thì sẽ bị phạt về kinh tế, hoặc có thể bị khởi kiện trước pháp luật. Khi cấp
TD, NH tiến hành thẩm định khách hàng và các điều kiện TD. NH chỉ cấp TD cho
những khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn hợp pháp, có khả năng tài chính, có năng
lực thực sự trong tổ chức sản xuất kinh doanh, có dự án vay vốn khả thi và có khả
năng trả nợ và phải cam kết chấp hành nghiêm túc các quy định của NH khi được cấp
TD... Với cơ chế hoạt động như vậy, NH buộc khách hàng được cấp TD phải thực sự
năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, phải tìm kiếm cơ hội đầu tư sinh lời, sử
dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả. Ngược lại, thông qua giao dịch TD, để thuyết phục
được NH cho vay, người vay vốn phải nâng cao chất lượng phương án, dự án vay vốn,
khuyến khích những ý tưởng kinh doanh mới với các biện pháp khả thi. Đây là một điều
kiện quan trọng cho hoạt động của làng nghề phát triển ổn định, năng động, hạn chế rủi
ro.
Thứ ba, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và mặt hàng, thúc đẩy
công nghiệp hoá, hiện đại hoá làng nghề
Vì mục đích sinh lợi, hoạt động TD của NHNo&PTNT có xu hướng coi trọng đầu
tư vào các ngành có lợi thế và khả năng sinh lợi cao, đồng thời hạn chế hoặc không đầu
tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp, khó có điều kiện phát triển. Do hoạt đông
theo hướng đó, nên NH làm cho việc di chuyển vốn diễn ra phù hợp với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phát huy thế mạnh của những làng nghề, tiết kiệm nguồn
lực xã hội đi đôi với việc thực hiện chính sách phát triển có trọng tâm, trọng điểm, từ đó
thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề theo hướng gắn phát triển với thị trường và hiện
đại.
Vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và mặt hàng trong làng nghề của
NHNo&PTNT còn được thể hiện ở chính sách lãi suất TD mà NH đưa ra. Sự kết hợp
giữa lãi suất và TD góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làng
nghề theo hướng hiện đại. Lãi suất TD là công cụ quan trọng trong tay Nhà nước nhằm
điều tiết hoạt động kinh tế của nền kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng. Thông qua
sử dụng công cụ này, Nhà nước có thể hướng NH ưu tiên đầu tư vốn vào các ngành, làng
nghề theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội đã lựa chọn.
Thứ tư, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn và tạo tiền cho hoạt động
của các làng nghề.
Cơ chế thị trường là phải chấp nhận cạnh tranh, vì vậy đòi hỏi trình độ sản xuất
kinh doanh của các chủ thể kinh tế cũng ngày càng được nâng cao. TD của
NHNo&PTNT không chỉ dừng lại ở việc tài trợ vốn TD cho các hoạt động kinh tế, mà
còn thông qua tài trợ vốn, nó còn có vai trò đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, làm cho
hàng hoá được lưu thông nhanh hơn, các giao dịch kinh tế trở nên sôi động hơn.
TD còn có vai trò làm giảm chi phí lưu thông trong nền kinh tế. Vai trò này thể
hiện ở chỗ, nhờ hoạt động của TD mà việc lưu thông hàng hoá có thể được thanh toán
không nhất thiết phải có tiền mặt. Điều này làm giảm số lượng tiền mặt cần thiết trong
nền kinh tế, giảm công vận chuyển, bảo quản và đảm bảo an toàn tiền mặt, tức là giảm
các chi phí lưu thông, đồng thời tạo sự thông thoáng cho việc lưu thông hàng hoá, làm
tăng tốc độ vận động của vốn trong nền kinh tế.
Ngoài ra, TDNH còn góp phần giúp cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất trong làng
nghề áp dụng các quy trình, kỹ thuật mới, để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Việc cho
vay phải bảo đảm thu hồi cả vốn và lãi đầy đủ, đúng hạn buộc các doanh nghiệp phải tính
toán lựa chọn phương án kinh doanh khả thi, phù hợp thị trường; buộc họ phải coi trọng
hạch toán kinh tế, bố trí vốn một cách hợp lý từ khâu dự trữ nguyên liệu sản xuất đến
việc tiêu thụ sản phẩm. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả hiệu quả
sử dụng vốn vay với mục đích thu lợi lớn nhất.
Thứ năm, thúc đẩy sự phát triển của phương thức tài trợ trực tiếp.
Để nâng cao trách nhiệm đối với nguồn vốn vay và hạn chế rủi ro có thể xảy ra,
người nay vốn phải có một lượng vốn tự có nhất định, cho dù họ có thể bảo đảm cho
khoản vay bằng các biện pháp thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh bằng tài sản chăng nữa. NH
không thể tài trợ toàn bộ hay một tỷ lệ quá lớn nhu cầu vốn của khách hàng. Hay nói cách
khác, khách hàng không thể vay vốn NH trong khi họ có quá ít vốn tự có, lại không thể
chấp nhận được nếu khi họ chẳng có trong tay một đồng vốn tự có nào.
Vì sự an toàn và hiệu quả kinh doanh cũng như sức ép và đòi hỏi của hoạt động
TD, buộc các chủ vay vốn phải tìm cách nâng cao năng lực tự tài trợ. Nguồn vốn tự tài
trợ của chủ vay vốn có thể được hình thành từ vốn đóng góp của các thành viên hoặc cổ
đông và bằng sự tích luỹ từ lợi nhuận, trong đó chiếm tỷ trọng lớn là từ phần vốn góp.
Khi huy động được lượng vốn lớn trực tiếp từ các thành viên, chủ kinh tế không những
tăng thêm năng lực tự chủ về tài chính của mình, mà còn tăng thêm sức mạnh trong việc
quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh. Bằng cách này, NH tạo điều kiện cho các cơ
sở kinh tế trong làng nghề chủ động về vốn đầu tư mở rộng sản xuất và tìm kiếm thị tr-
ường tiêu thụ sản phẩm.
Thứ sáu, góp phần mở rộng và phát triển quan hệ giao lưu kinh tế giữa các làng
nghề và với nước ngoài
Hoạt động TD của NHNo&PTNT còn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhất là trong ngoại thương. Trong hoạt động xuất khẩu
hàng hoá của các làng nghề, các doanh nghiệp được NH cho vay vốn để sản xuất, chế
biến, thu mua, chuyên chở hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài. Còn trong hoạt động nhập
khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng được NH cho vay vốn để thực hiện phương án,
dự án của mình. NHNo&PTNT không chỉ tài trợ bằng cách cho vay vốn theo phương
thức thuần tuýư, mà còn tài trợ bằng những nghiệp vụ TD khác đã và đang được sử dụng
phổ biến trong thương mại quốc tế, như chiết khấu thương mại, nghiệp vụ thư TD, bảo
lãnh NH... Bằng sự đa dạng hình thức tài trợ, hoạt động TD đã thể hiện được vai trò của
mình trong thúc đẩy phát triển sản phẩm của làng nghề ra nước ngoài và nhập khẩu các
yếu tố sản xuất cần thiết cho phát triển làng nghề.
Ngoài ra, TD của NHNo&PTNT còn là cầu nối dẫn vốn quan trọng giữa trong
nước và ngoài nước. Với vai trò này, NH có thể thu hút vốn nước ngoài qua các thị
trường tài chính hoặc đứng ra vay vốn nước ngoài rồi cho các làng nghề ở trong nước vay
lại.
Tóm lại, TD là một quan hệ của kinh tế thị trường được ra đời và tồn tại khách
quan. TD của NHNo&PTNT là một hình thức TD chính thức hoạt động phục vụ cho phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Một trong những nội dung hoạt động chủ yếu của
nó là phục vụ cho sự phát triển có hiệu quả của các làng nghề. Trong hoạt động này, TD
của NHNo&PTNT có vai trò quan trọng trong việc dẫn vốn mở rộng đầu tư và tiêu thụ
sản phẩm cho các làng nghề, tạo điều kiện phân bổ nguồn vốn của các chủ đầu tư trong
các làng nghề có hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và mặt hàng theo
hướng CNH, HĐH, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn và tạo tiền đề cho hoạt
động của các làng nghề, thúc đẩy các phương thức tài trợ trực tiếp...Với vai trò trên, việc
tăng cường hoạt động TD của NH này là cần thiết trong quá trình phát triển làng nghề ở
nước ta nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Chương 2
Thực trạng hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Quảng Nam trong phát triển
làng nghề trên địa bàn từ năm 2001 đến nay
2.1. khả năng phát triển làng nghề ở tỉnh quảng nam và nhu cầu về vốn cho
sự phát triển của nó
2.1.1. Khả năng phát triển các làng nghề của tỉnh Quảng Nam
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Quảng Nam có ảnh
hưởng trực tiếp đến phát triển các làng nghề
- Đặc điểm tự nhiên:
Quảng Nam là một tỉnh duyên hải nằm ở khu vực miền Trung, cách Thủ đô Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh một giờ bay, giáp với Lào và đông bắc Thái Lan bằng
một hệ thống đường bộ thuận lợi, gần đường hàng hải quốc tế. Trung tâm tỉnh lỵ đặt tại
thị xã Tam Kỳ nằm trong tuyến đưòng bay A1, có hệ thống đường sắt và đường bộ xuyên
quốc gia. Diện tích tự nhiên: 10.408,78 km2, trong đó vùng đồng bằng ven biển chiếm
25% diện tích; có 17 huyện, thị xã (trong đó có 8 huyện miền núi: Đông Giang, Tây
Giang, Nam Giang, Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn, Hiệp Đức và Tiên Phước),
chiếm khoảng 3,1% diện tích tự nhiên cả nước. Dân số: 1,454 triệu người; mật độ dân số
trung bình 141 người/km2; 83,6% là dân số sống trong khu vực nông thôn trong đó có 54%
trong độ tuổi lao động (chiếm khoảng 1,8% dân số cả nước), là nguồn nhân lực dồi dào và ổn
định cho sự phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa hè nóng ẩm, mưa
nhiều và chịu ảnh hưởng gió Lào nắng khô. Mùa đông khô và ít mưa. Nhiệt độ không khí
trung bình cả năm là 25,90C, thấp nhất vào tháng 12 (21,20C), cao nhất vào tháng sáu
(30,50C). Số giờ nắng trong năm 2005 là 1.966 giờ, trong đó tháng có số giờ năng ít nhất
là tháng 12 (12 giờ) và nhiều nhất vào tháng năm (246 giờ). Mưa nhiều vào tháng 7 đến
tháng 12, tháng 2 thì trời hanh khô.
Với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong khu vực trung Trung bộ, trên hai trục giao
thông lớn là đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ 1A và đường xuyên Việt, là cửa ngõ ra vào
Nam - Bắc, có cảng biển Kỳ Hà, sân bay Chu Lai rất thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế
trong nước và với nước ngoài.
Quảng Nam có chiều dài bờ biển trên 125 km, rất thuận lợi cho việc khai thác,
đánh bắt, nuôi trồng, chế biến các loại thuỷ sản và phát triển giao thông vận tải trên biển.
Tài nguyên của Quảng Nam chủ yếu là đất nông nghiệp và lâm nghiệp. Tài
nguyên rừng phần lớn là diện tích rừng trồng, còn lại là rừng tự nhiên.
- Đặc điểm dân số và lao động:
Dân số tỉnh Quảng Nam đến 31/12/2005 là 1.472.310 người, trong đó nữ 759.496
người (chiếm 51,58%), nam 712.814 người (chiếm 49,42%). Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số
năm 2005 là 1,18%. Mật độ dân số 141 người/ km2. Số người tuổi từ 15 trở lên là 97.571
người, bằng 66,2% dân số trong tỉnh. Có 1.213.000 người sống ở nông thôn, chiếm
82,4% dân số toàn tỉnh. Số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 78.368 người,
chiếm khoảng 10% lực lượng lao động trong tỉnh, trong đó có 44,9% là công nhân kỹ
thuật (tốt nghiệp các trường dạy nghề), 31,3% trung học chuyên nghiệp, 14,7% cao đẳng
(trên 10.000 người là giáo viên, số có trình độ cao đẳng kỹ thuật chưa tới 100 người), và
12,5% tốt nghiệp đại học.
Quảng Nam có 513 trường phổ thông với 337.544 học sinh, chiếm 23% dân số và
89% người trong độ tuổi đi học; có một số trường cao đẳng kỹ thuật với 12.664 học sinh
đội ngũ cán bộ được đánh giá là có trình độ chuyên môn cao, là nơi đào tạo nguồn nhân
lực chủ yếu có kỹ thuật và trình độ tay nghề vững vàng đủ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
của tỉnh nhà.
Về lao động và việc làm, toàn tỉnh có 815.700 người trong độ tuổi lao động
(chiếm 56,3% dân số), trong đó lao động nữ có 414.000 người (chiếm 50,8% lực
lượng lao động). Lực lượng lao động trẻ từ 15 - 35 tuổi chiếm 48% lực lượng lao
động, thể hiện nguồn lực lao động rất dồi dào. Vấn đề giải quyết việc làm đã thực sự
trở thành nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành. Trong 5 năm qua, lao động được
giải quyết việc làm khoảng 140.000 lao động. Các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh thu hút nhiều lao động nhất với khoảng 85% lực lượng lao động, chiếm khoảng
80% việc làm mới của toàn nền kinh tế. Năm 2005, có 500 lượt lao động đi xuất khẩu,
tăng hơn 5 lần so với năm 2001 [35, tr.16]. Số lao động trong các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh năm 2004 là 39.939 người, bằng 4,9% lực lượng lao động trong tỉnh.
Sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất , ngành nghề trong nội bộ ngành nông nghiệp đã
tạo thêm việc làm, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của lao động nông nghiệp từ
71,82% năm 2000 lên 80% năm 2005 [35, tr.17].
- Đặc điểm kinh tế và xã hội [35]:
Về kinh tế, Quảng Nam là một tỉnh nông nghiệp. Qua 9 năm tái lập (từ tháng
01/1997), tỉnh Quảng Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể:
Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2005 là 4.764,5 tỷ đồng, mức tăng trưởng kinh
tế trung bình trong 10 năm qua khoảng 10%/ năm. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
giai đoạn 2000 - 2005 đạt 10,4%. Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối ổn định và tăng
cao hơn mức tăng bình quân cả nước. GDP bình quân đầu người là 380 USD, bằng
67,9% mức bình quân chung của cả nước.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, phù hợp với xu thế chung của cả
nước. Ngành nông, lâm, thuỷ hải sản chiếm 41,53% năm 1997, năm 2005 còn 31%. Ngành
công nghiệp và xây dựng từ 25,3% năm 1997 tăng lên 34% vào năm 2005. Ngành du lịch
dịch vụ từ 33,1% năm 1997 lên 35% năm 2005.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng với tốc độ cao, đạt bình quân hàng năm
gần 25,5%. Trong đó khu vực quốc doanh tăng 31,21%, khu vực ngoài quốc doanh tăng
23,21%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,48%. Tính theo giá trị sản xuất, quy
mô sản xuất công nghiệp năm 2005 gấp 3,1 lần năm 1997. Tính đến năm 2006, toàn tỉnh
có 5 khu và 18 cụm công nghiệp với những chính sách ưu đãi hấp dẫn đang thu hút mạnh
các nhà đầu tư. Khu kinh tế mở Chu Lai bước đầu đã có 44 dự án đi vào hoạt động với
tổng số vốn đầu tư lên đến 195 triệu USD và nhiều dự án đăng ký; khu công nghiệp Điện
Nam - Điện Ngọc đã có 27 dự án đi vào hoạt động trong tổng số 53 dự án được cấp phép.
Toàn tỉnh có gần 12.000 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động
ở các huyện, thị xã, giải quyết việc làm cho hơn 62.000 lao động.
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tập trung nâng cấp và đầu tư xây dựng
mới, tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Lĩnh vực dịch vụ tăng trưởng khá bình quân trên 13,7%/năm, trong đó năm
2005 tăng 17%. Du lịch tiếp tục phát triển mạnh đạt mức trên 20%/năm với sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế, từng bước khẳng định vị thế mũi nhọn và khai thác
các tiềm năng, thế mạnh của địa phương về du lịch văn hoá, lịch sử và sinh thái.
Lượng khách du lịch tăng bình quân trên 22%/năm. Tốc độ tăng doanh thu du lịch
bình quân hàng năm (2001-2005) khoảng 25%. Thu nhập xã hội từ du lịch ước đạt
700 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần năm 2001.
Địa bàn nông thôn cũng đã bắt đầu có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp với
ngành nghề đa dạng. Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn
năm 2004 là 634; số hợp tác xã năm 2005 là 121 (trong đó có 120 hợp tác xã nông
nghiệp) và 916 trang trại.
Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 25%/năm. Trong đó, xuất khẩu thuỷ sản
tăng bình quân 42,6%/năm, chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Quan hệ
thương mại được mở rộng đến 30 nước và vùng lãnh thổ. Hàng xuất khẩu đã vào
được các thị trường lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia và các
nước EU... Thương mại nội địa phát triển nhanh, tổng mức bán lẻ trong 5 năm qua
tăng bình quân trên 20%/năm.
Về xã hội, Quảng Nam có hai di tích được xếp hạng là Di sản văn hoá thế giới (đô
thị cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn), có các danh lam thắng cảnh như cù lao Chàm, Biển
Rạng... là một trong những thế mạnh có thể khai thác cho phát triển ngành du lịch, đặc
biệt du lịch làng nghề và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các sản phẩm phục vụ
khách du lịch từ các làng nghề nhất là các nghề truyền thống của địa phương.
Quảng Nam có nhiều ngành nghề truyền thống nổi tiếng từ lâu đời như dâu tằm
tơ, dệt vải, dệt chiếu, nghề đúc đồng, nghề mộc... sản phẩm đã được người tiêu dùng
trong và ngoài nước biết đến, không chỉ tạo ra nguồn thu nhập đáng kể mà còn giải quyết
được rất nhiều lao động tại chỗ.
2.1.1.2. Tổng quan sự phát triển các làng nghề ở tỉnh Quảng Nam
Năm 2003, UBND tỉnh Quảng Nam có Quyết định 78/QĐ-UB về tổ chức và
hoạt động khuyến công. Sau khi chương trình khuyến công được triển khai, một số
huyện, thị xã đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện đề án phát triển công nghiệp. Ch-
ương trình phổ biến tuyên truyền, các chính sách, cơ chế về khuyến khích phát triển
công nghiệp như Quyết định 94/QĐ-UB ngày 27/12/2004 về cơ chế ưu đãi khuyến
khích đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Nam của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 61 làng nghề mới và làng nghề truyền thống, tổng
vốn đầu tư 204,1 tỷ đồng (phụ lục 1). Đã có 19 làng nghề xây dựng dự án khôi phục, phát
triển bằng cơ chế khuyến công và đã được công nhận danh hiệu làng nghề (bảng 2.1).
Bảng 2.1: Danh mục làng nghề đã được tỉnh công nhận
(tính đến tháng 6/ 2006)
STT Tên làng nghề Địa điểm
1 Làng nghề đan lát Tam Vinh Xã Tam Vinh
2 Làng nghề bún Phương Hoà Phường Tân Thạnh
3 Làng nghề dệt chiếu cói Thạch Tân Xã Tam Thăng
4 Làng nghề mộc Kim Bồng Thôn 2, xã Cẩm Kim
5 Làng nghề dệt vải Phú Bông - Thi Lai Phú Bông, Duy Trinh
6 Làng nghề dệt vải, tơ lụa Mã Châu Châu Hiệp, Nam Phước
7 Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch Đông Bình, Duy Vinh
8 Làng nghề dệt chiếu An Phước Mỹ Phước, Duy Phước
9 Làng nghề chế biến hải sản Trung Phường, Duy Hải
10 Làng nghề hương Quán Hương Khối 4, TT. Hà Lam
11 Làng nghề nước mắm Tam Tiến Thôn 1, Tam Tiến
12 Làng nghề mây, tre, trúc Núi Thành Khối 7, Núi Thành
13 Làng nghề xơ dừa Tam Hải Thôn 4, Tam Hải
14 Làng nghề nước mắm Hà Quảng Thôn 3, 4. Điện Dương
15 Làng nghề bánh tráng Phú Triêm Triêm Đông, Điện Dương
16 Làng nghề mây tre An Thanh An Thanh, Điện Thắng
17 Làng nghề dệt Nông Sơn Nông Sơn, Điện Phước
18 Làng nghề đúc đồng Phước Kiều Thanh Chiêm, Điện Phương
19 Làng nghề chiếu chẽ Triêm Tây Triêm Tây, Điện Dương
Nguồn: Sở Công nghiệp tỉnh Quảng Nam.
Cơ cấu làng nghề được phân bố trên nhiều huyện trong tỉnh. Trong đó ,
huyện Đại Lộc có sự phát triển nhất, số vốn thu hút vào làng nghề là 51 192 triệu đồng,
với 6.794 lao động; huyện Tây Giang phát triển chậm hơn, với số vốn 137 triệu đồng, thu
hút 340 lao động (bảng 2.2).
Bảng 2.2: Vốn và lao động trong các làng nghề chia theo huyện, thị xã
(có đến 6/2006)
Địa bàn
Vốn đầu tư
(triệu đồng)
Trong đó
Lao động
(người)
Từ các tổ
chức
Vốn tự có
Tổng số 204 101 57 054 47 584 24 520
- Thị xã. Tam Kỳ 25 000 8 420 4 743 4 280
- Thị xã Hội An 31 063 15 252 3 641 1 620
- Huyên Điện Bàn 16 194 4 637 5 169 1 115
- Huyên Duy Xuyên 27 669 8 847 3 990 6 615
- Huyên Đại Lộc 51 192 11 182 12 511 6 794
- Huyên Quế Sơn 32 418 3 569 13 658 2 030
- Huyên Thăng Bình 2 000 500 200 336
- Huyên Núi Thành 18 428 4 647 3 665 1 390
- Huyên Tây Giang 137 - 7 340
Nguồn: Sở Công nghiệp tỉnh Quảng Nam.
Tiêu chuẩn xác định là một làng nghề theo Quyết định phê duyệt của tỉnh là: sản
xuất các mặt hàng đúng nhu cầu, có số hộ đạt 30% trở lên so với tổng số hộ của làng, thu
nhập chiếm trên 35% tổng thu nhập của làng. Sự phát triển làng nghề ở Quảng Nam góp
phần giải quyết một lực lượng lao động với gần 25.000 người và đã đạt được tổng doanh
thu mỗi năm của các làng nghề gần 200 tỷ đồng vào năm 2005.
- Về khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống:
Làng nghề truyền thống bao gồm những nghề phi nông nghiệp có từ trước thời
thuộc Pháp còn tồn tại đến ngày nay. Đây là những làng có những nghề được truyền từ
đời này sang đời khác với kỹ thuật sản xuất tinh xảo. Sản phẩm của nghề truyền thống có
nhiều điểm hơn hẳn sản phẩm cùng loại được sản xuất ra ở những nơi không có truyền
thống lâu dài.
Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống không chỉ mang ý nghĩa kinh tế
xã hội mà còn thể hiện nền văn hóa, văn minh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Sự phát
triển làng nghề trong quá trình CNH, HĐH nông thôn là xu thế tất yếu khách quan, có vai
trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động và cải thiện bộ mặt của nông thôn.
Trong thời gian qua, việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở Quảng
Nam đã được sự hỗ trợ tích cực của các ngành, các cấp chính quyền địa phương và các
đoàn thể. Đã tổ chức được các hoạt động như đào tạo nghề, truyền nghề, bồi dưỡng nâng
cao năng lực quản trị doanh nghiệp, xúc tiến thương mại...cho các làng nghề. Đặc biệt,
nguồn vốn TD NH cũng góp phần thực hiện chương trình mục tiêu có liên quan đến các
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nên đã có những tác động tích cực đến sự phát triển
làng nghề truyền thống.
Trong năm 2005, ngân sách tỉnh đầu tư thêm 3 tỷ đồng theo chương trình mục
tiêu cho 3 làng nghề truyền thống gắn với du lịch, gồm làng nghề mộc Kim Bồng, làng
nghề ươm tơ dệt lụa Mã Châu, làng nghề đúc đồng Phước Kiều. Đến nay, một số công
trình đã hoàn thành như: nhà trưng bày sản phẩm mộc Kim Bồng, hệ thống đường nội bộ
trung tâm làng mộc Kim Bồng, nhà trưng bày sản phẩm đúc đồng Phước Kiều, đường nội
bộ trung tâm làng nghề đan lát Tam Vinh. Ngoài ra 3 dự án làng nghề truyền thống: đan
lát Tam Vinh, Phú Ninh, dệt chiếu cói Bàn Thạch, Duy Xuyên, dệt vải Nông Sơn, Điện
Bàn đã hỗ trợ đầu tư từ dự án đa mục tiêu ổn định dân cư và xây dựng vùng kinh tế mới
tỉnh Quảng Nam do quỹ OPEC tài trợ với tổng vốn đầu tư là 1.178.400 USD, hiện đang
tổ chức triển khai từng hạng mục đầu tư của dự án.
Bộ công nghiệp đã có quyết định phân bổ 120 triệu đồng từ nguồn vốn khuyến
công Quốc gia hỗ trợ đào tạo nghề gồm 1 lớp mộc chạm trổ, 1 lớp mộc mỹ nghệ, 2 lớp
mây tre đan tại Hội An, Núi Thành, Điện Bàn. Bên cạnh đó, với 1,5 tỷ đồng từ nguồn vốn
sự nghiệp khuyến công của tỉnh, các địa phương, trung tâm khuyến công và tư vấn công
nghiệp Quảng Nam tập trung vào các chương trình khôi phục và phát triển làng nghề nh:
tổ chức các lớp đào tạo nghề dệt, may, ươm tơ, đan mây tre, mộc, thêu... tổ chức cho các
làng nghề đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm tại các tỉnh bạn, đăng ký nhãn hiệu tập thể
cho các sản phẩm làng nghề, hỗ trợ linh phí các sản phẩm làng nghề tham gia “Hội chợ
triển lãm thành tựu kinh tế xã hội” tại thị xã Tam Kỳ; hướng dẫn và hỗ trợ địa phương
xây dựng các dự án phát triển làng nghề...
Ngoài ra, Sở công nghiệp đang triển khai thực hiện đề tài “hỗ trợ kỹ thuật cho
một số làng nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, qua đó hỗ trợ kỹ thuật cho nghề dệt thổ
cẩm truyền thống tại xã Tam Vinh huyện Nam Giang; hỗ trợ cải thiện quy trình sản xuất
sản phẩm hương, làng nghề hương Quán Hương (Thăng Bình), phát triển hàng thủ
công mỹ nghệ mây tre tại thị trấn Khâm Đức (Phước Sơn).
Ba dự án làng nghề được chọn thí điểm để xây dựng mô hình phát triển làng nghề
gắn với du lịch (mộc Kim Bồng, dệt lụa Mã Châu và đúc đồng Phước Kiều). Với lợi thế
Quảng Nam có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, đặc biệt là hai di sản văn hoá
thế giới, ngành du lịch có điều kiện phát triển. Nó sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho việc bảo tồn
và phát triển các làng nghề, tạo thu nhập thông qua việc sản xuất và bán hàng lưu niệm
truyền thống...
Dưới đây là một số làng nghề truyền thống nổi tiếng trên địa bàn:
Làng mộc Kim Bồng là làng nghề truyền thống phát triển mạnh trong thời kỳ nhà
Nguyễn, được hình thành từ thế kỷ XV với sản phẩm mộc có những nét chạm trổ tinh
xảo, độc đáo, các loại thuyền gỗ vận chuyển,... Trải qua những bước thăng trầm, có khi t-
ưởng như làng mộc sẽ không còn nữa bởi thị trường tiêu thụ khó khăn, nhưng nhờ có sự
quan tâm của Nhà nước cùng với lòng quyết tâm giữ nghề của nhân dân, làng nghề mộc
Kim Bồng vẫn được tồn tại và phát triển. Đến nay, sản phẩm của mộc Kim Bồng rất đa
dạng, mẫu mã phong phú được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Hàng năm,
đã có một số cơ sở hàng có đơn đặt hàng và đã xuất khẩu hơn 50 lô hàng sang các nước,
thu lợi nhuận trên hàng chục triệu đồng. Các cơ sở sản xuất mộc trên địa bàn thị xã đã
thành lập “Hiệp hội mộc truyền thống Kim Bồng”, làm thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá và quyền sở hữu công nghiệp đối với sản phẩm mộc Kim Bồng.
Mặt hàng chủ lực hiện nay của làng vẫn là hàng mộc điêu khắc, khảm trai gia
dụng, hàng trang trí nội thất, hàng mỹ nghệ lưu niệm,... Các sản phẩm mộc Kim Bồng
đang được đa dạng hoá theo nhu cầu thị trường.
Làng nghề đúc đồng Phước Kiều là làng thủ công được hình thành từ lâu đời,
vào khoảng năm 1602 tại Thanh Chiêm (thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, Điện Bàn).
Hiện nay, trong làng có 39 hộ làm nghề đúc đồng và một hợp tác xã có khoảng 145 lao
động chuyên làm nghề này. Cả làng có khoảng 46 lao động có tay nghề cao và đã tôn
vinh hai nghệ nhân. Phần lớn các cơ sở sản xuất đều có qui mô nhỏ, sản xuất phân tán ở
từng hộ gia đình, thiết bị công nghệ đã cũ kỹ, khuôn mẫu tự tạo, phương pháp sản xuất
thủ công truyền thống. Hàng năm, làng nghề sản xuất khoảng 60 tấn sản phẩm gồm thanh
la, chiêng, các pho tượng, tiểu đại hồng chung và các sản phẩm nhôm đồng khác chủ yếu
phục vụ dân dụng. Sản phẩm tại đây có những ưu điểm nổi trội hơn so với các nơi khác
như cồng chiêng có tiếng âm tốt... Hiện nay, nếu chúng ta đi trên quốc lộ 1A ngang qua
khu vực này sẽ thấy sản phẩm của làng được bày bán rất nhiều và đa dạng, trong đó có cả
hàng lưu niệm phục vụ du khách.
Làng nghề hương ở thôn Quán Hương thuộc huyện Thăng Bình đã được hình
thành vào cuối thế kỷ XIX. Sản phẩm hương của làng có nét độc đáo như thanh hương rất
thanh và nhỏ, được nhiều người biết đến. Đã có thời kỳ, sản phẩm hương ở đây tưởng
như không cạnh tranh nổi với hương Sài Gòn, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, một số gia
đình gần như bỏ nghề. Do có cơ chế chính sách khuyến khích khôi phục làng nghề, sự hỗ
trợ vốn TD NH, một số thợ nghề đã tìm hiểu, học hỏi để thay đổi cách thức sản xuất,
công nghệ làm hương, thay vì mua lá về xay lấy bột, họ mua trực tiếp bột và chu hương
từ các tỉnh miền Tây, sử dụng công nghệ nhúng hương để sản xuất hương cao cấp. Từ đó
sản phẩm làm ra rất đẹp và đều, giá thành rẻ.
Sau 4 năm cải cách, sản phẩm hương Quán Hương đã lấy lại vị thế của mình, thị
trường tiêu thụ mở rộng. Các hộ trước đây bỏ nghề nay đã nhập cuộc rất khí thế, mạnh
dạn vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất, đặt thương hiệu cho sản phẩm. Bên cạnh đó, Uỷ
ban nhân dân huyện đã lập Dự án phát triển làng nghề truyền thống này với vốn đầu tư
gần 16,5 tỷ đồng. Như vậy, cơ hội phát triển làng nghề hương Quán Hương đang mở
rộng trong tương lai.
Làng nghề ươm tơ, dệt lụa. Trong các làng nghề truyền thống đang được vực
dậy, có chiều hướng phát triển mạnh, phải kể đến nghề ươm tơ, dệt lụa ở Mã Châu, Phú
Bông - Thi Lai, Cù Bàn của huyện Duy Xuyên; Giao Thủy, Hoà Mỹ ở Đại Lộc;... Do đặc
điểm khí hậu và đất đai thích hợp cho cây dâu và con tằm phát triển nên nghề này có điều
kiện phát triển mạnh. Nghề này cũng đã một thời điêu đứng, nhưng những năm gần đây
đã có chiều hướng phát triển tốt, hàng lụa tơ tằm ở đây không chỉ được ưa chuộng trong
nước mà còn xuất sang các nước châu Âu. Tại Pháp, ý, Mỹ và một số nước khác, người
ta đã thấy có các cửa hàng tơ lụa của các làng này.
Hiện nay, toàn tỉnh đã có 8 làng nghề ươm tơ, dệt lụa đang hoạt động với hơn
1000 hộ sản xuất, sử dụng khoảng 3000 lao động. Ngoài các hộ sản xuất còn có các xí
nghiệp sản xuất tập trung như xí nghiệp ươm tơ Giao Thủy, xí nghiệp ươm tơ Điện
Quang, các hợp tác xã ươm dệt ở Duy Xuyên. Cùng với việc sản phẩm được ưa chuộng
nhiều đã tạo điều kiện cho nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển. Mỗi năm, các làng nghề đã
sản xuất trên 24 triệu mét vải, trong đó có hàng lụa cao cấp, tạo nguồn thu nhập cao và ổn
định, giải quyết việc làm cho phần lớn lao động của địa phương. Nét mới là mỗi làng
nghề có một hợp tác xã vừa sản xuất tập trung, vừa làm chỗ dựa hỗ trợ như cung ứng
nguyên vật liệu, hướng dẫn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, tạo điều kiện cho các hộ sản
xuất phát triển.
Làng nghề dệt chiếu. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 làng nghề dệt chiếu gồm
làng nghề dệt chiếu Cẩm Kim (Hội An), Bàn Thạch (Duy Xuyên), Triêm Tây (Điện Bàn)
và Thạch Tân (Tam Kỳ). Hiện các làng này có khoảng 1500 khung dệt, sản lượng sản
xuất hàng năm 515.000 chiếc. Số cơ sở dệt chiếu khoảng 910 hộ với 1900 lao động. Nghề
dệt chiếu có công nghệ thô sơ, đầu tư vốn ít và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, lao
động nông nhàn. Hiện nay, nhu cầu về mặt hàng này rất lớn nhưng đòi hỏi chất lượng
phải cao, mẫu mã phong phú...
- Về phát triển các làng nghề mới:
Thời gian qua, bên cạnh việc khôi phục, khuyến khích phát triển các làng nghề
truyền thống, Quảng Nam còn chú trọng đến phát triển các ngành nghề mới. Đối với một
số vùng thuần nông thì bước đầu làm cho các làng có nghề, tiến tới thành làng nghề. Hoạt
động của làng nghề đã thu hút nhiều loại hình tham gia, trong đó ngoài các hộ gia đình,
trong làng còn có các doanh nghiệp hoạt động.
Chẳng hạn, đã xuất hiện nghề mới đan giỏ mây xuất khẩu ở thôn Liễu Trì xã Bình
Nguyên, huyện Thăng Bình trong những năm gần đây. Tuy là nghề mới, nhưng nhờ
người dân chịu khó học hỏi, mạnh dạn đầu tư và có thị trường, nên nghề này đã thu hút
nhiều lao động. Hiện nay, có 3 tổ hợp đan mây xuất khẩu và 1 tổ hợp đan lưới nuôi ngọc
trai với hàng trăm lao động. Trong tương lai, sản xuất của làng này không dừng lại ở mặt
hàng giỏ mây mà còn phát triển ra nhiều mặt hàng khác nữa.
Hợp tác xã dệt may Duy Trinh (xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) cũng là làng
nghề mới được thành lập theo mô hình gắn kết sản xuất kinh doanh của hợp tác xã với
việc phát triển làng nghề, vừa mang tính tập thể nhưng không tách rời tính tự chủ sản
xuất của kinh tế hộ. Nhà nước đã và đang khuyến khích, tạo điều kiện cho hộ xã viên đầu
tư thiết bị nhà xưởng để sản xuất tại nhà; còn hợp tác xã thì định hướng sản xuất, cung
cấp các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, vật tư kỹ thuật và bao tiêu toàn bộ sản phẩm.
Các hộ xã viên tự bỏ vốn đầu tư sắm mới máy dệt tại gia đình, vừa giải quyết việc làm
vừa tăng thêm nguồn thu nhập cho mình. Cùng với ngành dệt, làng nghề này còn mở
rộng thêm ngành may mặc.
Điện Bàn là một huyện nằm ở một vùng động lực phía bắc của tỉnh Quảng Nam,
do có nhiều điều kiện phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, nên đã tập trung phát
triển làng nghề với nhiều loại hình. Hiện nay, các cấp chính quyền huyện đã có định hư-
ớng tập trung đầu tư chiều sâu để phát triển 15 làng nghề hiện có và đăng ký phát triển
thêm 8 làng nghề mới. Sức bật mới trong phát triển công nghiệp ở Điện bàn là nghề dệt
vải. ở các xã đã có cơ chế, chính sách phát triển nghề dệt.
Cùng với sự cất cánh của khu kinh tế mở Chu Lai, việc khôi phục và phát triển
làng nghề ở Núi Thành có nhiều cơ hội phục hồi và phát triển. Đây là địa phương cũng đã
từng nổi tiếng với các làng nghề như chế biến nước mắm Tam Quang, nghề rèn, chẻ đá
Tam Anh, nghề xe dệt sợi dừa Tam Hải, đan mây tre lá thị trấn Núi Thành... Bên cạnh
các điều kiện thuận lợi về chính sách, ưu đãi vay vốn giải quyết việc làm, huyện đã có ch-
ương trình lập dự án vay vốn để phát triển làng nghề mới.
2.1.2. Nhu cầu về vốn cho phát triển các làng nghề ở tỉnh Quảng Nam
Để đạt được mục tiêu phát triển làng nghề theo định hướng, cần tiến hành đầu tư
vốn cho phát triển sản xuất bao gồm các hạng mục: xây dựng, mua sắm thiết bị, đầu tư cơ
sở hạ tầng làng nghề (đường giao thông, hệ thống điện, nước, xử lý môi trường và đào
tạo lao động (đào tạo nghề cho công nhân, công nhân kỹ thuật cao tại các làng nghề để
tăng năng suất sản phẩm), tìm kiếm và mở rộng thị trường. Theo dự báo nhu cầu về vốn
cho phát triển làng nghề của Sở Công nghiệp Quảng Nam, trong thời gian từ 2006 - 2010,
toàn tỉnh cần có 193.385,25 triệu đồng tiền vốn đầu tư. Trong đó, ngân sách hỗ trợ
62.069,72 triệu đồng, vốn vay 83.751,4 triệu đồng, vốn tự có và huy động từ các
nguồn vốn hợp pháp khác 47.564,13 triệu đồng. Nếu tính cụ thể nhu cầu vốn của các cơ
sở làng nghề thì làng cần ít nhất cũng trên 5 tỷ đồng, và làng nhiều nhất là gần 80 tỷ đồng
(bảng 2.3).
Bảng 2.3: Nhu cầu vốn đầu tư cho các làng nghề
Đơn vị: đồng
Làng nghề Vốn đầu tư
- Làng trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa 79.837.400.000
- Làng nghề dệt vải 16.158.400.000
- Làng gốm mỹ nghệ 15.434.100.000
- Làng đúc nhôm, đồng 5.474.000.000
- Làng mộc Kim Bồn 9.129.000.000
- Làng nghề đan lát mây tre đan 11.385.700.000
- Làng nghề chế biến nông thuỷ sản 15.553.000.000
- Làng nghề đóng, sửa tàu thuyền 10.308.000.000
- Làng nghề dệt chiếu 10.805.650.000
- Các làng nghề khác 19.300.000.000
Nguồn: Sở Công nghiệp Quảng Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam.pdf