Tài liệu Luận văn Tìm hiểu tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện NúiTthành, tỉnh Quảng Nam: LUẬN VĂN:
Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông
thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện có 73% dân số và 56% lao động sinh sống
và làm việc ở nông thôn. Do đó, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những nguồn lực
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Do đó, bộ mặt
nông thôn có khởi sắc, kinh tế nông nghiệp, nông thôn được đổi mới, đời sống nông dân
được cải thiện, tình trạng đói nghèo được giảm dần.
Tuy nhiên, mức đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn tuy có tăng nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Núi Thành là một huyện nghèo của tỉnh Quảng Nam, trình độ phát triển còn thấp,
trong khi tiềm năng về đất đai, rừng, biển và lao động dồi dào nhưng chưa được...
80 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1060 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện NúiTthành, tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông
thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện có 73% dân số và 56% lao động sinh sống
và làm việc ở nông thôn. Do đó, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những nguồn lực
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Do đó, bộ mặt
nông thôn có khởi sắc, kinh tế nông nghiệp, nông thôn được đổi mới, đời sống nông dân
được cải thiện, tình trạng đói nghèo được giảm dần.
Tuy nhiên, mức đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn tuy có tăng nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Núi Thành là một huyện nghèo của tỉnh Quảng Nam, trình độ phát triển còn thấp,
trong khi tiềm năng về đất đai, rừng, biển và lao động dồi dào nhưng chưa được khai thác
và sử dụng có hiệu quả.
Để huy động vốn đầu tư thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn cả nước
nói chung, huyện Núi Thành nói riêng, cần có sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó tín
dụng ngân hàng là một nhân tố hết sức quan trọng.
Vì vậy, ngân hàng mà đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
cần phát huy vai trò, chức năng của mình nhằm thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát
triển.
Xuất phát từ những lý do trên mà tác giả chọn đề tài: "Tín dụng của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành,
tỉnh Quảng Nam" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Gần đây có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài về hoạt động tín dụng
ngân hàng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như:
- Hà Huy Hùng (2003), Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Nghệ An, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Hoàng Bá Đồng (2002), Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại
NHNo&PTNTHà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng.
- Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng nông nghiệp nhằm phát triển
nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Mạnh Hùng (2005), Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với nông
nghiệp, nông thôn tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Gia Lai, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học
viện Ngân hàng...
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về tín dụng của NHNo&PTNT với việc phát
triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh
Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hoá và phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn
về tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn, từ đó đề xuất các giải
pháp đổi mới hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp,
nông thôn ở huyện Núi Thành.
Nhiệm vụ: - Phân tích làm rõ tác động của ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân
hàng trong việc thực hiện huy động vốn, đặc biệt huy động từ nguồn nội lực trong dân cư
để phục vụ công cuộc phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Phân tích tình hình tín dụng, thu hồi nợ vay, rủi ro tín dụng trong hoạt động của
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ở huyện Núi Thành trong những năm qua,
tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Từ cơ sở phân tích trên, kiến nghị một số giải pháp nhằm đổi mới hoạt động tín
dụng của NHNo&PTNT ở huyện Núi Thành phục vụ việc phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi
Thành.
Phạm vi nghiên cứu: Về tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông
thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam trong khoảng thời gian từ 2001 - 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu
ứng dụng các phương pháp cơ bản như: phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, phương pháp khái quát hoá, phương pháp so sánh, thống kê... và kết hợp với
việc nghiên cứu lý luận, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước, các quy định, các qui
chế của ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích "Tín dụng của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông thôn"
từ đó nêu những thành tựu đạt được, những bài học thành công và chỉ ra khiếm khuyết,
hạn chế trong hoạt động NHNo&PTNT tại cơ sở, đặc biệt về cho vay phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị đối với ngân hàng cấp trên, chính quyền địa
phương nhằm hoàn thiện về mặt lý luận chung trong tổ chức chỉ đạo và điều hành hoạt
động ngân hàng No&PTNT ở huyện Núi Thành ngày càng tốt hơn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Mối quan hệ của ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn với việc phát triển
nông nghiệp, nông thôn
1.1. Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
1.1.1. Khái niệm, bản chất tín dụng
Tín dụng ngân hàng nói chung, tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn nói riêng cũng mang tính chất chung của quan hệ tín dụng.
Tín dụng ra đời cùng với sự phát triển và trao đổi hàng hoá, tín dụng xuất phát từ
ngôn ngữ Latinh: Creditum là tin tưởng, tín nhiệm. Dần dần thuật ngữ tín dụng được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo tiếng Anh và tiếng Pháp tín dụng là " Credit", khái niệm
của Tooke được Mác thừa nhận:
Tín dụng dưới các hình thức biểu hiện đơn giản nhất của nó là sự tín
nhiệm ít nhiều có căn cứ, đã khiến cho một người này giao cho một người khác
một số tư bản nào đó dưới hình thái tiền hoặc dưới hình thái hàng hóa đánh giá
một số tiền nhất định nào đó, số tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong
một thời hạn nhất định. Khi nào tư bản được cho vay... thì người ta tăng số tiền
phải hoàn trả lại lên, thêm một tỉ lệ phần trăm nhất định, coi là tiền để trả về
quyền sử dụng tư bản [15, tr.613].
Xét trong quan hệ tài chính nhất định, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể, thuật ngữ tín
dụng cũng hàm chứa và phản ánh những nội dung khác nhau:
- Xét trên góc độ chuyển dịch số tiền cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho
vay sang người đi vay.
- Trong mối quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
có hoàn trả giữa hai chủ thể. Chẳng hạn, một công ty thương nghiệp bán hàng trả chậm
cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua
và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn
là hình thức Ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định, người
đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho
khách hàng.
Trong một ngữ cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay.
Ví dụ: Tín dụng ngắn hạn (Short - term credit) đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn (Short -
term loans); tín dụng dài hạn (long - term credit) đồng nghĩa với cho vay dài hạn (Long -
term loans).
Tín dụng xét theo nội dung hoạt động của các tổ chức tín dụng có nghĩa khá rộng.
Đó là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng.
Trong đó, cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả (gồm cả gốc và lãi) bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Quá trình phát triển tín dụng thương nghiệp đã mở rộng và ăn sâu sang lĩnh vực sản
xuất làm xuất hiện hình thức tín dụng ngân hàng, nhờ sự phát triển của hệ thống ngân hàng
tín dụng được đẩy nhanh hơn bao giờ hết.
Tín dụng được xem là một trong những chức năng hoạt động cơ bản của ngân
hàng. Với cách tiếp cận này, tín dụng ngân hàng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân
hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thoả thuận. Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn và lãi cho
bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn
trả và có đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng Ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho
vay (bằng tiền) và cho thuê (động sản và bất động sản). Trước những năm 1960, hoạt động
tín dụng của Ngân hàng hầu như chỉ cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà
nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi như đồng nghĩa với nhau. Ngày nay, dịch
vụ Ngân hàng phát triển, việc cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được ngân hàng
và các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng, đây là một sản phẩm kinh doanh
của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (cho thuê văn phòng làm việc,
phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị.v.v.)
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nên khi người cho vay chuyển giao tài sản cho
người đi vay sử dụng, họ phải có cơ sở để tin rằng người đi vay trả đúng hạn. Đây là yếu tố
hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ
sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính
quan niệm này đã ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên
tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát hay nói cách khác phải
xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy
nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường
hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong
một giai đoạn ngắn.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cung cấp trên cơ sở cam kết hoàn
trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp
đồng tín dụng, khuế ước v..v thực chất là lệnh phiếu (Promissory note), trong đó bên đi
vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Chức năng của tín dụng
Trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng thực hiện hai chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, tín dụng có chức năng tập trung và phân phối lại tiền tệ trên cơ sở có
hoàn trả. Đây là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. ở đây,
sự có mặt của tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn tiền
tệ trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng này, tín dụng tham gia trực tiếp vào việc điều tiết các nguồn
vốn tạm thời thừa đến nơi thiếu. Nói cách khác, ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp
những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, còn ở khâu phân phối, tín dụng là nơi đáp
ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, các cá nhân và cho cả ngân sách.
Thứ hai, kiểm soát các hoạt động kinh tế. Chức năng này được phát huy tác dụng
phụ thuộc vào sự phát triển của chức năng nói trên. Cụ thể là, thông qua quá trình tập trung
và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế về các mặt
như: khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ. Từ đó giúp
chúng ta có cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là
quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.
Ngoài ra, trong hoạt động cho vay của ngân hàng, để góp phần đảm bảo an toàn
vốn, đảm bảo cho khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả, ngân hàng
luôn thực hiện quá trình kiểm tra hoạt động kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là
kiểm tra tình hình tài chính, qua đó sẽ phát hiện kịp thời những hạn chế, yếu kém trong
hoạt động của khách hàng hoặc những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của
nhà nước để cảnh báo, nghiêm cấm hoặc có biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, trên
cơ sở thực hiện nguyên tắc cho vay có hoàn trả, tín dụng ngân hàng còn phản ánh kịp
thời tình hình quản lý và sử dụng vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không.
Như vậy, với chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế, tín dụng sẽ
góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế với những giải pháp
khắc phục kịp thời, từ đó phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều
này cũng có nghĩa là tín dụng cần phải được vận dụng như một đòn bẩy kích thích phát
triển kinh tế.
1.1.3. Các hình thức của tín dụng
Tín dụng biểu hiện dưới các hình thức như: cho vay, chiết khấu thương phiếu và
chứng từ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng
chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, nó thể hiện quan hệ tín dụng
giữa các ngân hàng với các xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân được thực hiện dưới hình
thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cấp tín dụng đối với các đối tượng trên.
- Hình thức cho vay:
Cho vay tiền là một hình thức tín dụng, trong đó người cho vay cam kết giao cho
người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau thời hạn nhất định.
Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị tại khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay, lãi vay tỉ lệ
với số lượng tiền và thời hạn vay. Cho vay dựa trên các nguyên tắc sau:
+ Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi.
+ Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích
+ Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo
Căn cứ vào thời hạn thì có 3 loại cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+ Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng nhằm đáp ứng các
nhu cầu vốn ngắn hạn như: bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp, hộ sản xuất...
+ Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến dưới 60
tháng, loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới thiết bị,
mở rộng và xây dựng các công trình có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, được sử dụng để cấp
vốn cho vay xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ
sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, thời hạn thu hồi vốn dài.
- Hình thức chiết khấu chứng từ có giá:
Chiết khấu chứng từ có giá là một loại hình tín dụng ngắn hạn của NHTM. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng sẽ đứng ra trả tiền trước cho các hối phiếu hoặc chứng từ có giá
khác chưa đến hạn thanh toán theo yêu cầu của người thụ hưởng (người sở hữu chứng từ)
bằng cách khấu trừ ngay một số tiền nhất định gọi là tiền chiết khấu, tính theo giá trị chứng
từ, thời hạn chiết khấu, lãi suất và các tỉ lệ chiết khấu khác, số còn lại thanh toán cho người
thụ hưởng. Người thụ hưởng muốn nhận được số tiền này thì bắt buộc phải làm thủ tục
chuyển nhượng quyền hưởng lợi cho ngân hàng chiết khấu đối với các chứng từ xin chiết
khấu.
Hình thức chiết khấu chứng từ sẽ giúp cho người sở hữu chứng từ có tiền để đáp
ứng các nhu cầu thanh toán, nhất là khôi phục năng lực thanh toán, duy trì được mối quan
hệ tài chính, nhờ đó mà họ tiến hành sản xuất kinh doanh bình thường. Với nghiệp vụ chiết
khấu qua NHTM làm cho các chứng từ có giá chưa đến hạn thanh toán có thể lưu thông từ
tay người này sang tay người khác, biến các công cụ này từ chỗ các giấy nợ thương mại
trở thành các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán.
Đối với các NHTM: Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng có đảm bảo bằng các tài sản
có tính thanh khoản cao, vì vậy vừa tạo ra tài sản có sinh lời cho ngân hàng, vừa tạo ra một
lực lượng dự trữ để sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu thanh toán. Khả năng thanh toán của
ngân hàng luôn được đảm bảo vì vậy các ngân hàng thường có xu hướng mở rộng nghiệp
vụ chiết khấu.
- Hình thức cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê máy móc, thiết bị và động sản theo
yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu tài sản thuê. Bên đi thuê được sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không
được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền
sở hữu mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng
thuê.
Các nguyên tắc cho thuê tài chính:
+ Tài sản cho thuê thuộc sở hữu hợp pháp của công ty cho thuê tài chính, bên thuê
chỉ có quyền sử dụng.
+ Bên thuê phải quản lý tài sản thuê và sử dụng đúng mục đích xin thuê và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng tài sản thuê.
+ Bên thuê phải thanh toán tiền thuê cả gốc và phí đầy đủ, đúng hạn.
+ Tiền mua tài sản thuê được bên cho thuê chuyển trả trực tiếp cho bên cung cấp tài
sản.
Cho thuê tài chính có các hình thức sau: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai
bên, cho thuê có sự tham gia của ba bên, cho thuê hợp tác, bán và tái thuê, cho thuê giáp
lưng, cho thuê trả góp.
- Hình thức bảo lãnh ngân hàng:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh)
với bên có quyền (bên được bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên nhận bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho
tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh ngân hàng thông qua cam kết bù đắp, đền bù những thiệt hại về phương
diện tài chính cho người thụ hưởng, bảo lãnh khi có thiệt hại xảy ra qua đó ngăn ngừa và
hạn chế rủi ro phát sinh trong các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập tương đối so với các hợp đồng kinh tế, hợp
đồng thương mại, tài chính... Ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện cam kết bảo lãnh theo
đúng trách nhiệm của mình đã ghi trong thư bảo lãnh, không kể người được bảo lãnh vi
phạm hợp đồng vì lý do gì.
Bảo lãnh ngân hàng có các loại hình sau đây: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh
toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản
phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng.
1.1.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với
phát triển nông nghiệp, nông thôn
Tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp là đáp ứng các nhu cầu về nguyên, nhiên
vật liệu, chi phí sản xuất cho mùa vụ, trang bị máy móc, nông cụ, cải tiến sản xuất... cho
đầu tư phát triển nông nghiệp.
Đó là các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nông dân và các doanh nghiệp sản
xuất ngành nông nghiệp nhằm chi phí về nguyên, nhiên liệu, giống cây trồng, vật nuôi,
thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu, phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, chi phí
ngày công lao động v.v..
Tín dụng vào nông nghiệp, nông thôn còn bao gồm các khoản vay trung, dài hạn để
cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn nuôi, trồng cây ăn trái lâu năm, cây công
nghiệp dài ngày, xây dựng kho tàng, cơ sở chế biến, các ngành sản xuất công nghiệp và
dịch vụ, mua sắm máy móc, thiết bị... phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy
tín dụng giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ
thể:
- Tín dụng góp phần hình thành thị trường tiền tệ ở nông thôn và giữ vai trò
trung gian thu hút vốn, tài trợ vốn cho sản xuất nông nghiệp:
Vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế là yêu cầu cần thiết, nó đòi hỏi vốn đầu tư làm
động lực, thúc đẩy thị trường vốn ra đời và phát triển. Trong nông nghiệp, khi nghiên cứu địa
tô tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã chỉ rõ vai trò của tư bản (vốn) như sau: "... do những quy luật
tự nhiên chi phối trong nông nghiệp, nên khi việc canh tác đã đạt đến trình độ nhất định và khi
đất đã bị kiệt màu đi một cách tương ứng, thì tư bản... sẽ trở thành một yếu tố quyết định" [15,
tr.333].
Như vậy, theo C.Mác, cùng với đất đai và lao động, vốn trở thành một yếu tố quyết
định đối với mọi nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
ở nước ta nông thôn đang là thị trường rộng lớn, với dân số chiếm khoảng 73%,
gồm hơn 12 triệu hộ nông dân. Trong khi đó, chủ trương của Đảng và Nhà nước là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Từ đó mà nảy sinh nhu cầu vốn để nâng
cao năng lực sản xuất. Nhu cầu đó trở thành cầu nối giữa tiết kiệm - tích luỹ - đầu tư cho
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông dân và các doanh nghiệp do nhu cầu sản
xuất, kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Điều đó đặt ra cho ngân hàng phải thực hiện
đầu tư tài chính thông qua thị trường vốn nhằm huy động các khoản tiền nhàn rỗi để cho
nông dân vay.
Mặt khác, một ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực tín dụng giữ địa vị
trung gian thể hiện qua chức năng thu hút vốn và cho vay. Khi người nông dân thu hoạch
và tiêu thụ được sản phẩm, họ thừa tiền, tạm thời chưa đầu tư vào đâu, ở đây ngân hàng
thương mại, đặc biệt là NHNo&PTNT, với mạng lưới sâu sát của mình, sẵn sàng tiếp nhận
các nguồn vốn nhàn rỗi đó dưới hình thức ký thác (gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, mở tài khoản
tiền gửi...) làm cho người nông dân có khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi được sinh lợi và
được dự trữ an toàn cho việc sử dụng sau này. Điều quan trọng hơn là khi người nông dân
cần vốn để phục vụ cho việc tiến hành sản xuất thì ngân hàng là người bạn đắc lực của họ
trong việc trợ giúp vốn.
- Tín dụng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thúc
đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một nội dung cơ bản của tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Do thiếu vốn, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm: ngành
nghề truyền thống và nông nghiệp, nông thôn kém phát triển, trồng trọt chủ yếu là
trồng lúa chiếm tỷ lệ cao, chăn nuôi, đánh bắt nuôi trồng thủy sản bước đầu phát triển;
dịch vụ nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, tín dụng góp góp
phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên các mặt: Đầu tư cho công nghiệp phục vụ
nông nghiệp, nông thôn; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ giới hoá, điện khí hoá; đầu
tư vào phát triển công nghiệp cung cấp phân bón, xăng dầu, máy móc, nông cụ, điện;
thu hút lao động từ nông nghiệp v.v.. Quá trình đó làm tăng khối liên kết giữa các khâu
trong quá trình sản xuất, đảm bảo hài hoà, cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Tín dụng nông nghiệp còn thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn.
Tín dụng nông nghiệp thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Sản xuất nông
nghiệp chỉ có thể phát triển khi nào nó được chuyển qua sản xuất hàng hoá. Sản phẩm
nông nghiệp sản xuất ra được trao đổi với các ngành sản xuất khác phục vụ cho sản xuất
công nghiệp, tiêu dùng ở các đô thị và xuất khẩu ra nước ngoài.
Mặt khác, tín dụng nông nghiệp góp phần đầu tư và tăng cường vốn để xây dựng
các vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm, chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất với
trình độ công nghệ cao, với khoa học kỹ thuật hiện đại và hiệu quả nhất. Qua đó hình
thành các vùng chuyên canh như: vùng cây lương thực, vùng cây nguyên liệu, vùng trái
cây chất lượng cao, vùng rau an toàn; hình thành các trung tâm đánh bắt và chế biến thủy
sản, các vùng chăn nuôi tập trung... tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá có giá trị.
Ngoài ra đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn như trên nó sẽ làm thay đổi
cơ cấu lao động giữa nông nghiệp và công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, một bộ phận nông
dân từ chỗ không biết hoặc chưa biết sản xuất hàng hoá từng bước thích nghi với cơ chế
thị trường để đạt được việc sử dụng vật tư - lao động - tiền vốn một cách có hiệu quả hơn
nhằm thoát được đói, giảm được nghèo trở nên trung bình, từ trung bình thành giàu có. Từ
đó thể hiện được vị trí tín dụng NHNo&PTNT góp phần vào việc thúc đẩy quá trình tích
tụ, tập trung vốn, tập trung sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
Tín dụng cũng sẽ thúc đẩy sản xuất theo mô hình trang trại - một hình thức tổ chức
kinh doanh phù hợp với kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp. Tín dụng còn theo các
chương trình dự án phát triển cây, con, các vùng chuyên canh, phục hồi các làng nghề
truyền thống từ đó tạo ra lượng hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu đa dạng, có hiệu quả hơn.
- Tín dụng giữ vai trò trung gian điều tiết giữa sản xuất nông nghiệp với các
ngành sản xuất khác.
Tất cả các ngành sản xuất đều được tiến hành theo những cung đoạn nhất định,
những thời gian và chu kỳ cụ thể. Trong chu kỳ sản xuất đó, có lúc nhu cầu vốn tăng lên
rất cao, có lúc lại giảm xuống. Điều này đòi hỏi có một sự điều tiết kịp thời giúp các nhà
sản xuất giải toả phần vốn thừa và cung cấp phần vốn thiếu. Giữa sản xuất nông nghiệp với
các ngành sản xuất khác cũng có nhu cầu điều tiết vốn, chính điều này đã nối kết sản xuất
nông nghiệp với các ngành sản xuất khác một chặt chẽ hơn.
Công nghiệp và dịch vụ là những ngành sản xuất tiêu thụ sản phẩm của nông
nghiệp dưới dạng nguyên liệu sản xuất. Nếu sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn thì sản
xuất công nghiệp và dịch vụ cũng khó khăn theo.
Do tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp, nên tín dụng nông nghiệp cũng có những
đặc điểm riêng. Vào vụ thu hoạch tín dụng nông nghiệp chủ yếu là phục vụ cho thu mua,
tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá do nông nghiệp sản xuất ra. Điều này cho phép sử dụng hình
thức tín dụng gián tiếp. Các tổ chức tín dụng có thể cho vay các tổ chức tiêu thụ, chế biến
hàng hoá như thương nghiệp, công nghiệp để những tổ chức này mở rộng khả năng dự trữ
hàng hoá do ngành nông nghiệp sản xuất ra. Trong điều kiện này, các tổ chức tín dụng
đồng thời là người thu hút vốn từ người nông dân có tiền nhàn rỗi do vừa bán sản phẩm.
Khi vào vụ sản xuất mới, các tổ chức tín dụng là người trực tiếp cấp tín dụng cho người
nông dân cần vốn.
Điều quan trọng là phải có sự kết hợp chặc chẽ giữa các ngành sản xuất để tạo điều
kiện cho nhau cùng phát triển. Sản xuất nông nghiệp giữ vai trò sản xuất cơ bản nên luôn
luôn đòi hỏi ở các ngành sản xuất khác một sự tài trợ nhất định. Trong đó ngân hàng làm
trung gian cho quá trình kết hợp này. Sự đầu tư của các ngành công nghiệp chế biến phải
luôn quan tâm đến đầu tư để sản xuất ra nguyên liệu. Trong đó ngân hàng giữ vị trí trung
gian để đưa hàng hoá từ nông nghiệp vào sản xuất công nghiệp và ngược lại.
- Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, kinh doanh
trong nông nghiệp.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, trong nông nghiệp đã hình thành nhiều hình
thức hợp tác mới giữa nông dân với nông dân, giữa DNNN với nông dân, giữa nông dân
với tổ hợp tác, HTX. Trong các mối quan hệ này tín dụng đóng vai trò tích cực thông qua
việc đầu tư vốn cho các nhà máy để đổi mới và trang bị thêm máy móc, thiết bị, tạo nguồn
nguyên liệu dưới hình thức cho vay ứng trước thu mua, cho vay tiệu thụ sản phẩm sau thu
hoạch, xuất khẩu hoặc theo các dự án phát triển cây, con, các vùng chuyên canh, phục hồi
các làng nghề truyền thống.
Từ cơ sở tác động đó, tín dụng làm cho các thành phần kinh tế từ hộ kinh doanh nhỏ
lẻ đến doanh nghiệp đến hộ sản xuất, từ hình thức sản xuất riêng biệt, đơn lẻ trong nông
nghiệp đến các mô hình trang trại với các loại hình sản xuất tổng hợp v.v... phát triển mạnh
mẽ, dẫn đến tăng khả năng tích luỹ, tập trung hơn cho quá trình tái sản xuất, kinh doanh
trong nông nghiệp.
- Tín dụng góp phần khai thác tiềm năng lao động, đất đai:
Trong những năm qua, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã cho
vay phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như: Khai thác, đánh bắt, chế biến hải sản,
cho vay xây dựng ao hồ và cho vay phục vụ nuôi tôm nước lợ tại địa bàn với hơn ngàn
tàu và cả ngàn ha mặt nước nuôi, cho vay sản xuất đậu, mì, lúa và phát triển gia súc,
gia cầm đối với các hộ sản xuất. Ngoài ra còn cho vay trồng rừng, phát triển mô hình
trang trại, mở rộng qui mô sản xuất theo hướng chuyên canh, cho vay các nhà doanh
nghiệp ở nông thôn, thu hút nhiều lao động nông nghiệp có kỹ năng sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tạo sự chuyển biến trong cơ cấu giữa nông nghiệp với
công nghiệp.
ở những mức độ khách nhau, tín dụng cũng tham gia vào việc huy động vốn, gia
tăng vốn đầu tư cho khoa học để vừa có đủ vốn nhập khẩu, những công nghệ cao từ nước
ngoài khi trong nước chưa nghiên cứu được, vừa có vốn để nghiên cứu, triển khai những
công nghệ mới do các nhà khoa học trong nước tạo ra nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học
công nghệ mới vào sản xuất, đặc biệt về giống cây trồng, vật nuôi, bảo vệ thực vật, bảo
quản và chế biến, góp phần đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Tín dụng góp phần xây dựng sơ cở hạ tầng nông thôn:
Cơ sở hạ tầng ở nông thôn nước ta còn rất hạn chế về điện, đường, trường, trạm
v.v... Những năm gần đây đã được Nhà nước và nhân dân tích cực chú trọng đầu tư nhiều
hơn. Cơ sở hạ tầng là một trong những thành tố quan trọng tác động rất lớn vào quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vì nó làm thay đổi bộ mặt nông
thôn, đưa nhanh các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, tiếp cận với thị trường trong
và ngoài nước, làm giảm sự chênh lệch về phát triển giữa thành thị và nông thôn, gắn
nông thôn với thành thị.
Trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, kế hoạch đầu tư vào cơ sở hạ
tầng ở nông thôn còn ít, thì nguồn vốn đầu tư tín dụng, trên góc độ trực tiếp và gián tiếp đã
tham gia một cách tích cực vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tạo
điều kiện phối kết hợp với vốn tự lực trong dân, với vốn ngân sách theo phương châm nhà
nước và nhân dân cùng làm, đã làm cho hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt
... được xây dựng và phát triển ngày càng tốt hơn.
Tóm lại, có thể khẳng định từ hệ quả vai trò tín dụng NHNo&PTNT nói trên, tín
dụng đã làm cho sản xuất nông nghiệp cũng như bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc.
Nó tác động trực tiếp tới mọi mặt đời sống kinh tế -xã hội trong các vùng nông nghiệp,
nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân.
1.1.5. Yêu cầu đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Xuất phát từ đặc thù của NHNo&PTNT là điạ bàn rộng, từ thành thị đến nông
thôn, ngành nghề đa dạng, khối lượng công việc nhiều, phức tạp, tín dụng chứa đựng rủi ro
cao do nhiều nguyên nhân bất khả kháng như: Thiên tai, dịch bệnh, cán bộ ít, khách hàng
nhỏ lẻ, chi phí cao, lợi nhuận thấp . Điều đó đòi hỏi NHNo&PTNT phải không ngừng tự
đổi mới, đặc biệt là đổi mới hoạt động tín dụng hướng trọng tâm vào việc tạo vốn nhằm
mở rộng đầu tư vốn có hiệu quả cho phát triển nông nghiệp, nông thôn trên các lĩnh vực:
- Đáp ứng yêu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển:
Đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như ở
nước ta cần một khối lượng vốn lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xây dựng công nghiệp
chế biến, khôi phục và chấn hưng các làng nghề truyền thống, phát triển nghành nghề mới
nhằm tận dụng những nguyên, vật liệu có lợi thế từ nông nghiệp trong nước mà các nước
khác không có được.
Mục tiêu của NHNo&PTNT và PTNT tỉnh Quảng Nam đề ra tại Chương trình
triển khai đề án cơ cấu lại NHNo&PTNT (giai đoạn 2006 - 2010) là: Tỷ lệ tăng trưởng
nguồn vốn bình quân hằng năm tăng từ 15% đến 20%, tỉ trọng tiền gửi dân cư trên tổng
nguồn vốn huy động chiếm ít nhất 60%, tiền gửi không kỳ hạn từ 30% - 35%, tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng bình quân phải đạt 15%- 17 % / năm, tỉ lệ cho vay trung và dài hạn
chiếm 47% - 50%, tỉ lệ nợ xấu thấp hơn 4%, doanh thu về dịch vụ phấn đấu đạt 10% - 15%
trên tổng thu tài chính.
Như vậy, muốn đáp ứng yêu cầu về vốn cho hoạt động tín dụng, NHNo&PTNT cơ
sở phải tìm ra những giải pháp khả thi để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
nhằm duy trì tiềm lực sẳn có đồng thời tạo ra tiềm lực khả dụng hơn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đời sống đối với nông nghiệp, nông thôn.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động tín dụng:
Từ sau khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 53 ( tháng 3 năm 1998) và
tiếp theo là pháp lệnh ngân hàng, luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng.
NHNo&PTNT và PTNT Việt Nam đã đóng góp đáng kễ vào sự ổn định tiền tệ và phát
triển kinh tế thông qua việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT trong nền kinh tế thị trường
không thoát khỏi những thiếu sót như đầu tư chưa tập trung mạnh vào các ngành kinh
tế trọng điểm; còn chạy theo xu thế số lượng dự án đã hình thành, chưa chủ động tư
vấn cho những dự án mới, tỉ trọng tín dụng trung và dài hạn còn thấp, tỉ lệ nợ quá hạn
thể hiện qua số liệu còn thấp nhưng thực chất nợ xấu, nợ có khả năng đầu tư kém hiệu
quả chưa bộc lộ hết.
Vì vậy muốn nâng cao chất lượng tín dụng chúng ta cần phải:
+ Từng bước nâng cao năng lực, trình độ, kiến thức về quản trị điều hành của cán
bộ trên cơ sở cơ cấu lại bộ máy hoạt động:
Đây là một đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn, mang tính cấp bách đối với
NHNo&PTNT trước nền kinh tế phát triển và hội nhập, nếu muốn tồn tại và phát triển
trong quan hệ cạnh tranh gay gắt với các NHTM khác.
Sự phân bố cán bộ giữa các bộ phận nghiệp vụ, các phòng ban cũng phải cân đối,
nắm bắt và khai thác tối đa về năng lực, sở trường, bố trí lao động hợp lý.
Ngoài ra yêu cầu chung đặt ra đối với NHNo&PTNT và PTNT ở đây là:
* Đối với cán bộ lãnh đạo phải biết đề ra chiến lược phát triển và tổ chức chỉ đạo
hoạt động theo chiến lược, mục tiêu đề ra, hướng phấn đấu là tăng tài sản có và lợi nhuận
cao, phải có biện pháp mở rộng địa bàn hoạt động, đi sâu vào kễ cả các địa bàn xa thị trấn,
thị tứ.
Môi trường kinh doanh ngày càng tự do hoá thì cán bộ lãnh đạo phải luôn đối
phó với các tình hình cạnh tranhvề lãi suất trong huy động, trong cho vay, cạnh tranh cả
về khách hàng và thị phần tín dụng. Phải đổi mới công nghệ thông tin, công nghệ quản
lý,chú trọng đầu tư và thu hút nguồn nhân lực.
* Đối với cán bộ nghiệp vụ phải có đầy đủ kỹ năng về nghiệp vụ và chế độ làm việc
thích hợp nhằm hướng mọi kỹ năng của mình vào hoạt động có hiệu quả trên lĩnh vực tín
dụng, quản lý ngân quỹ, tài chính, tổ chức và quản lý con người, công nghệ, kiểm toán,
tiếp thị, tư vấn, tin học.
+ Gắn tín dụng với công tác huy động vốn, giảm chi phí nhằm nâng cao tỉ suất hiệu
quả sử dụng vốn trong huy động vốn tín dụng.
Nhìn chung, đối với các NHTM Việt Nam vốn điều lệ nhà nước cấp còn thấp so với
các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Vấn đề đặt ra ở đây là việc thiếu vốn cho vay ở khu vực nông thôn cao hơn ở khu
vực thành thị, chi phí huy động vốn ở khu vực nông thôn tăng hơn vì số lượng nhỏ, lẻ, địa
bàn rộng, đi lại khó khăn hơn. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cơ sở phải
đặt quầy, bàn huy động xuống địa phương xã trong những đợt phát động do NHNo&PTNT
tỉnh và trung ương tổ chức để quảng bá và tiếp cận nguồn tiền gửi tận nơi của người dân.
+ Mở rộng thị trường tín dụng, đầu tư đúng hướng, có hiệu quả thúc đẩy sản xuất
kinh doanh:
Yêu cầu này chi phối sự phát triển của NHNo&PTNT đối với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo những bước đi thích hợp để có thể đạt được những hiệu quả kinh tế
cao đảm bảo tự tăng trưởng bền vững; lựa chọn đúng ngành, đúng vùng, đúng đối tượng
cần ưu tiên sẽ cho phép sử dụng các nguồn vốn đầu tư một cách tập trung nhằm khai thác
tiềm năng từng vùng, lĩnh vực chuyên ngành một cách tối ưu theo các tiêu chuẩn: sản
phẩm đang có nhu cầu trên thị trường; thu hút thêm lao động, tạo công ăn việc làm; sản
phẩm và quá trình sản xuất, tiêu thụ có liên quan đến các ngành nghề khác nhau; những
ngành dựa trên cơ sở nguồn vốn tự lực, đòi hỏi ít đầu tư nhưng thu được hiệu quả cao;
phát huy truyền thống, tinh hoa dân tộc. Ngoài ra còn phải tính đến những điều kiện kinh
doanh hiện tại và tiềm năng; vai trò và vị trí của địa phương đối với các vùng, khu vực
khác; trình độ, kinh nghiệm sản xuất của vùng; nhu cầu cấp bách và bước đi của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
+ Thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm hổ trợ cho chính sách tín dụng ở nông
thôn:
Từ khi ra đời và hoạt động NHNo&PTNT đã được Đảng và Nhà nước chiếu cố cả
về vốn điều lệ ( gấp đôi các NHTM khác). Ngân hàng phải thực hiện chính sách cho vay
như: xoá đói, giảm nghèo, làm nhà trên cọc, cho vay khắc phục bão, lụt... Tuy đến nay
ngân hàng chính sách, ngân hàng nhà đã ra đời, gánh vác chức năng xã hội lớn cho Nhà
nước, nhưng trong nội tại của ngành NHNo&PTNT, cũng như dưới góc độ thiên về xã hội, thì
ngân hàng nông nghiệp cũng chứa đựng một chính sách xã hội không thể không có. Đối tượng
cho vay của ngân hàng hầu hết hộ nông dân, với thiên tai, dịch bệnh, những rủi ro khác bất khả
kháng, mà thực tế đã xảy ra như: Cơn bão số 2 năm 1999, bão Chan chu năm 2006, bão số 6 năm
2006, dịch cúm ga cầm v.v.. dẫn đến mất mát con người, tài sản, kéo theo
hàng tỉ đồng vốn tín dụng mà kết quả là NHNo&PTNT phải xử lý rủi ro dưới sự chỉ đạo
của NHNN.
Ngoài ra, NHNo&PTNT còn cho các hộ trên vay vốn để khắc phục, phục hồi tái sản
xuất; giãn nợ, gia hạn nợ, khoanh nợ v.v... để khôi phục lại sản xuất, ổn định cuộc sống
từng hộ nói riêng, từ đó góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Thông qua đó cũng là nhằm hổ
trợ đắc lực cho chính sách xã hội ở nông thôn.
+ Đổi mới công tác đầu tư, chuyển mạnh sang phương thức cho vay theo chương
trình dự án:
Để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, nông nghiệp, nông thôn cần
hướng chủ trương đầu tư vốn tín dụng NHNo&PTNT vào cho vay theo chương trình, dự
án đối với các ngành, nghề chủ chốt như: cho vay tàu công suất lớn phục vụ đánh bắt dài
ngày, xa bờ; cho vay qui hoạch vùng nuôi tôm nước lợ theo hướng công nghiệp; cho vay
mở những trang trại chuyên canh, trang trại sản xuất nông nghiệp, kết hợp chăn nuôi tổng
hợp v.v..
Dùng một tỉ lệ vốn thích đáng để mở rộng đối tượng đầu tư trung và dài hạn nhằm
đầu tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ, phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, nông thôn,
phát triển làng nghề truyền thống, thuỷ lợi nhỏ, kênh mương nội đồng, giao thông nông
thôn...
Tín dụng NHNo&PTNT đầu tư theo chương trình, dự án còn phải đạt được yêu cầu
khép kín qui trình từ sản xuất đến tiêu thụ, xuất khẩu tạo cho đồng vốn nội tệ từ
NHNo&PTNT một khi chuyển hóa thành ngoại tệ phải qui về NHNo&PTNT nhằm quản
lý và thu hồi được nợ một cách có hiệu quả.
+ Bảo tồn vốn, bù đắp chi phí, có lãi, bổ sung vốn tự có:
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, nó quyết định sự tồn tại và phát triển, sự thành,
bại trên thương trường của bất cứ một NHTM nào.
Thực trạng kinh doanh của NHNo&PTNT trong điều kiện hiện nay khi hành lang
pháp lý của nước ta chưa hoàn chỉnh, dư nợ cho vay trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
chiếm tỷ trọng cao. Nợ quá hạn lớn, luôn gặp phải rủi ro do thiên tai, dịch bệnh đòi hỏi yêu
cầu bảo tồn vốn, thu hồi được vốn và lãi để bù đắp đủ chi phí, duy trì bộ máy hoạt động
hiện nay đồng thời có tích luỹ để bổ sung vốn tự có, bù đắp rủi ro đang là một yêu cầu cốt
lõi. Yêu cầu đó đòi hỏi huy động nguồn vốn và xử lý tín dụng với chi phí thấp nhất trên cơ
sở lấy hiệu quả làm thước đo chính, có dự đoán những rủi ro bất trắc có thể xảy ra vì thiên
tai, thời vụ.
+ Đảm bảo lợi ích cho khách hàng, cho ngành và cho Nhà nước:
Để giải quyết mối quan hệ hài hòa này cũng chính là hướng vào mục tiêu phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn. NHNo&PTNT muốn tồn tại phải có khách hàng. Khách
hàng muốn tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh cũng cần đến ngân hàng. Ngân hàng
cùng khách hàng cùng tồn tại và phát triển trên nền tảng dân giàu, nước mạnh; thông qua
các nguồn thu Nhà nước sẽ cung ứng những nhu cầu về phúc lợi xã hội cho nền kinh tế.
Hàng ngàn tỷ đồng hàng năm nộp cho ngân sách nhà nước đã thể hiện được yêu cầu đó
góp phần vào mục tiêu chung về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Và cũng nhờ
đó mà tạo điều kiện cho đời sống cán bộ nhân viên ổn định, khách hàng phát triển, hoạt
động tín dụng mở rộng.
+ Đổi mới quản lý tín dụng.
Địa bàn hoạt động của NHNo&PTNT luôn rộng, khối lượng tín dụng lớn, phân
tán, đa dạng, các khoản cho vay manh mún, chi phí lớn, rủi ro cao, tỉ suất lợi nhuận
thấp vừa phải thực hiện chính sách ưu đãi đối với tín dụng miền núi, hải đảo, các
chương trình cho vay theo chỉ định của Chính phủ. Đội ngũ cán bộ tín dụng đông,
nhưng mức quản lý dư nợ ngày càng tăng (Bình quân tại cơ sở hơn 10tỷ đồng / cán bộ)
điều này đòi hỏi NHNo&PTNT không ngừng đổi mớiquản lý tín dụng theo yêu cầu
phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng, cụ thể qua các công cụ chủ
yếu sau:
* Thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá tín dụng:
Các ngân hàng cơ sở phải xây dựng các phương án, đề án thể hiện được nguồn vốn
tăng trưởng, nhu cầu vốn tín dụng và khả năng thu hồi vốn trên cơ sở mang lại hiệu quả
cho công tác tài chính, đảm bảo hài hoà ba lợi ích giữa cán bộ tín dụng trực tiếp làm công
tác chuyên môn, ngành. Đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước trên cơ sở đảm
bảo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cũng như cho NHN0&PTNT Việt Nam phát triển
ổn định và bền vững theo tiến trình chung của quốc gia trong thời kỳ hội nhập.
* áp dụng linh hoạt lãi suất thực dương:
NHNo&PTNT hiện đang thực hiện 2 loại lãi suất (lãi suất điều hành theo thị trường
trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN và lãi suất làm dịch vụ uỷ thác các chương trình chỉ
định của Chính phủ).
Lãi suất có tác dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong việc huy
động vốn để cho vay nhằm mang lại lợi nhuận tối ưu. Nếu lãi suất không được sử dụng
một cách linh hoạt trên từng địa bàn, từng loại khách hàng (Truyền thống, doanh nghiệp
loại A, khách hàng không quan hệ thường xuyên) đặc biệt trong điều kiện hiện nay thì
NHNo&PTNT lại càng đứng trước những khó khăn và thách thức so với NHTM khác để
có thể hạ lãi suất nhằm kích cầu vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Thực tế thu nhập NHTM bị cắt giảm rỏ rệt nhất là khi áp dụng luật ngân hàng như
trích lập quỹ dự phòng rủi ro, thuế giá trị gia tăng, giảm 30% lãi suất vùng núi cao, hải
đảo, xử lý nợ quá hạn ... đòi hỏi NHNo&PTNT phải uyển chuyển, linh hoạt lãi suất cho
vay theo quan hệ cung - cầu đặc biệt là phải hạ lãi suất đầu vào thông qua tiết kiệm tối đa
các chi phí nhằm tạo được khoản cách chênh lệch giữa đầu vào và đầu ra ngày một hạ để
có thể cạnh tranh và tồn tại trước các NHTM khác như NHCT, NHNT, NHĐTPT đang có
điều kiện thuận lợi hơn về khách hàng và môi trường kinh doanh là một yêu cầu bức xúc
của NHNo&PTNT.
- Thực hiện tốt biện pháp khoán tín dụng:
Kết quả thực hiện thu nhập trong những năm qua đối với NHNo&PTNT thì nguồn
thu từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng khoảng 90%, NHNo&PTNT Quảng Nam 97%,
NHNo&PTNT Núi Thành 98%. Vì vậy làm tốt công tác tín dụng chính là thực hiện tốt
công tác tài chính, nâng cao thu nhập nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng thì cần
áp dụng biện pháp khoán tín dụng và xem đây là động lực tích cực cho những cá nhân làm
công tác tín dụng, một nghề rủi ro nhất trong hoạt động NHTM kinh doanh theo cơ chế thị
trường. Hiện nay rất ít cán bộ thích làm tín dụng. Khoán tín dụng được thực hiện trên hai
mặt huy động và cho vay với kết quả mang lại là hiệu quả thể hiện ở dư nợ lành mạnh, tỷ
lệ thu nợ đạt cao, tỷ lê quá hạn thấp. Để làm được điều đó thì người làm công tác tín dụng
cũng phải được giao khoán chế độ công tác phí, chi trả tiền lương kinh doanh, khen thưởng
một các đúng mức nhằm đảm bảo quyền lợi giữa cá nhân ngành và nhà nước.
- Thực hiện tốt việc thẩm định, kiểm tra, kiểm soát:
Một dự án, một đối tượng khi xem xét đầu tư cho đến khi thu được nợ là một chuỗi
dài liên tục đòi hỏi việc thẩm định, kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi đầu tư vì
yêu cầu bảo toàn vốn, thực hiện chính sách tài chính ngành, chống những biểu hiện tiêu
cực là vấn đề cần quan tâm đặc biệt nhất là trong kinh doanh theo cơ chế thị trường. Thị
trường của NHNo&PTNT lại đa phần là nông nghiệp, nông thôn vừa chịu tác động của
thiên nhiên, vừa chịu tác động chủ quan nhiều rủi ro về cả hai phía: khách hàng và ngân
hàng, khi mà kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn ở nước ta ngày nay không còn thuần
khiết như trước.
Thực hiện tốt việc thẩm định, kiểm tra, kiểm soát còn phải khắc phục cho được
những tồn tại cũ từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để lại, chống tệ nhũng nhiễu phiền
hà, ngăn chặn những hành vi vụ lợi cá nhân nhằm lành mạnh hoá hệ thống NHNo&PTNT
theo hướng phát triển bền vững.
1.2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện
Núi Thành
Trong lịch sử của mình, tín dụng ngân hàng đã trải qua một quá trình phát triển lâu
dài, từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn. Nhìn chung, tín dụng ngân hàng tồn tại và phát triển
phụ thuộc vào các điều kiện sau:
1) Trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân.
2) Cơ chế quản lý và mô hình quản lý kinh tế.
3) Môi trường pháp lý.
4) Môi trường kinh tế - xã hội.
5) Chính sách và công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
6) Trình độ khoa học và công nghệ.
7) Trình độ đội ngũ viên chức ngân hàng
ở huyện Núi Thành, tác động của tín dụng NHNo&PTNT đối với nông nghiệp,
nông thôn chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu sau:
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Núi Thành
Núi Thành là huyện ven biển nằm về phía nam của tỉnh Quảng Nam. Đựơc thành
lập năm 1983, tách từ huyện lỵ Tam Kỳ thành hai địa giới hành chính huyện. Toạ độ địa lý
150 33 - 150 36 B, 1080 34 - 1080 37 Đ. Diện tích tự nhiên 523,94km2, dân số hiện nay
khoảng 145.000 khẩu, với hơn 33.800 hộ, và gần 70.000 lao động. Địa hình chia làm 3
vùng tương đối rõ rệt.
- Vùng núi có 5 xã: Tam Trà, Tam Thạnh, Tam Sơn, Tam Mỹ Đông, Tam Mỹ Tây.
- Vùng đồng bằng có 6 xã: Tam Nghĩa, Tam Hiệp, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc,
Tam Xuân I, Tam Xuân II.
- Vùng ven biển có 5 xã: Tam Tiến, Tam Hoà, Tam Hải, Tam Giang, Tam Quang.
Và 1 Thị Trấn Núi Thành.
Chiều dài của huyện dọc theo trục giao thông chính của quốc gia (đường sắt và
quốc lộ 1A), có sân bay, bến cảng, ga đường sắt nên điều kiện đi lại và giao lưu tốt với mọi
địa điểm, khu vực trên địa bàn kể cả trong và ngoài huyện. Điều đó càng lợi thế cho việc
hội nhập khu công nghiệp Dung Quất, Khu kinh tế mở Chu Lai mà nổi bật là giao lưu và
trao đổi nhanh chóng, thuận lợi về khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, thông tin
kinh tế và trao đổi, mua bán sản phẩm, hàng hoá v.v...
Huyện Núi Thành có bờ biển dài 37km, với 2 cửa biển là cửa Lỡ và cửa An Hoà.
Đặc biệt cửa An Hoà có độ sâu đảm bảo cho các tàu thuyền đánh cá cỡ lớn ra, vào neo đậu
trú bão thuận lợi.
Ngư trường rộng lớn, nguồn lợi hải sản phong phú đa dạng với nhiều loại hải sản có
giá trị kinh tế cao. Toàn huyện có gần 4.500ha mặt nước, sông, suối, ao hồ, đầm phá...
trong đó các thuỷ vực nước lợ vùng cửa sông rộng trên 3.000ha. Đây là hệ sinh thái đầm
phá đặc biệt, là vùng nuôi trồng thuỷ đặc sản xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao.
Từ những đặc điểm trên, tại địa phương huyện đã hình thành làng cá truyền thống
tự nhiên cũng như kèm theo là các dịch vụ chế biến hải sản, hậu cần nghề cá v.v ..và được
xem là trung tâm nghề cá lớn nhất tỉnh Quảng Nam.
Tổng số tàu thuyền dùng để khai thác đánh bắt trên toàn huỵên khoảng 1.045 chiếc, trong
đó loại tàu có công suất từ 90CV - 335CV có khoảng 80 chiếc.
Sản lượng đánh bắt hàng năm từ 16 - 18 ngàn tấn với giá trị hàng ngàn tỷ đồng.
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản khoảng 1700 ha, chủ yếu là nuôi tôm, cua nước lợ với
sản lượng hằng năm bình quân khoảng 2350 tấn, trong đó sản lượng nuôi tôm nước lợ bình
quân khoảng 1800 tấn/1năm.
Từ tháng 6/2003, sau khi có quyết định thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai của Thủ
tướng Chính phủ đã có 3 nhà máy chế biến thuỷ, hải sản được xây dựng và đi vào sản
xuất.
Với hơn 2.000ha đất bằng và 6.600ha đất đồi nuí chưa được khai thác sử dụng ở
vùng ven biển và trung du tạo nên một tìêm năng phát triển lâm nghiệp phong phú và đa
dạng. Đồng thời, các vùng này còn có nguồn nguyên liệu phi kim loại như: đá, cát thuỷ
tinh với trữ lượng lớn là điều kiện để phát triển công nghiệp và vật liệu xây dựng.
Cùng với lâm nghiệp, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu, thu hút hơn 70% lao
động, đóng góp hơn 60% GDP. Quĩ đất nông nghiệp của huyện khoảng 13.000ha, trong đó
hơn 2/3 là đất sản xuất lúa.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn huyện không phát triển mạnh nhưng khá ổn
định, với tổng đàn gia súc (trong đó chủ yếu là trâu, bò) khoảng 70.000 con, đàn gia cầm
khoảng 350.000 con, kể từ sau bệnh cúm gia cầm, sự phát triển chậm lại, ở mức ổn định là
chính.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn, trước khi có chủ trương
thành lập khu kinh tế mở Chu Lai, gồm chủ yếu: các ngành mây tre, chế biến thuỷ, hải sản
và sản xuất khai thác cát, đá, sỏi giá trị sản xuất khoảng 300 tỷ đồng mỗi năm
Từ khi có quyết định của Thủ tướng về thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai tháng
6/2003 đến nay đã mở ra một số cơ sở như: Nhà máy ô tô Trường Hải, Nhà máy chế biến
thức ăn gia súc, chế biến thuỷ, hải sản, các đơn vị kinh doanh dịch vụ và du lịch v.v.. tác
động vào nhiều mặt đối với sản xuất nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn, tuy vậy việc
phát triển công nghiệp, dịch vụ ở Khu kinh tế mở Chu Lai, với địa bàn trọng tâm là huyện
Núi Thành còn ở mức thấp.
Tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của nông nghiệp, nông thôn Núi
Thành đến hoạt động tín dụng NHNo&PTNT:
Từ những điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội nêu trên, bước đầu thành lập huyện Núi
Thành đã xác định cho mình mô hình kinh tế Nông - Ngư - Lâm, công nghiệp sau đó là
Nông - Ngư - Lâm - công thương nghiệp, thời gian gần đây đặc biệt từ sau năm 2003, ưu
tiên hàng đầu cho cơ cấu công nghiệp - dịch vụ rồi mới đến nông, ngư nghiệp.
Tuy nhiên, liên tục trong các kỳ đại hội, theo nghị quyết của Đại hội Đảng bộ
huyện, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân vẫn xem sản xuất nông, ngư nghiệp trên địa
bàn là cơ sở, đánh giá điều kiện về môi trường sản xuất và khai thác thuỷ, hải sản là kinh
tế mũi nhọn của địa phương.
- Thực tế hàng chục năm qua, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tại huyện Núi
Thành đã chi phối và quyết định đến cơ cấu đầu tư, sách lược và thực trạng đầu tư tín dụng
của các ngân hàng thương mại trên địa bàn.
- Tính đến thời kỳ 6 tháng đầu năm 2006 sản xuất kinh doanh trong ngành nông,
ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ chủ yếu, lao động trong các ngành này chiếm đại bộ phận, sản
phẩm hàng hoá từ các ngành nghề này vẫn là thu nhập, trang trãi đời sống cho hầu hết các
hộ gia đình trên địa bàn.
- Việc kêu gọi đầu tư vào phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp có tích cực từ
phía Nhà nước nhưng do nhiều nguyên nhân, nhất là tính hiệu quả không hấp dẫn nên
việc thu hút đầu tư còn hạn chế, các xí nghiệp nhà máy mở ra chưa nhiều, tình trạng
giải quyết việc làm còn quá ít trong khi ngoài nhu cầu thường xuyên, cộng thêm việc
qui hoạch, giải toả đã phát sinh thêm yêu cầu bức thiết về giải quyết lao động, việc
làm, đời sống cho nhân dân địa phương.
Vì lẽ đó nhìn vào các bảng tổng hợp, tình hình cho vay của NHNo&PTNT, chúng ta
thấy rằng lĩnh vực nông, ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao và xu hướng phát triển ổn
định từ năm 1984 đến nay (cụ thể giai đoạn phân tích từ 2001 - 1005). Với thực tế cơ sở
vật chất đầu tư lớn nhất là tàu, thuyền và hàng ngàn ha nuôi tôm nước lợ.
Qua đó có thể khẳng định thêm một lần nữa điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đã
quyết định một cách tất yếu lên thực trạng đầu tư tín dụng NHNo&PTNT của huyện Núi
Thành.
1.2.2. Các nhân tố về đường lối chủ trương, chính sách tác động đến tín dụng
nông nghiệp
Đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung cũng như của
chính quyền từ tỉnh đến huyện và của ngành ngân hàng nói riêng là những thể chế, qui định,
yêu cầu, cũng như có tính chất chỉ đạo, định hướng về phát triển kinh tế, xã hội... mà từ đó,
tác động mạnh đến hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT với việc đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Cụ thể:
Nghị định 14/CP ngày 02/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ và thông tư số 01/TT-
NH ngày 26/3/1993 của Thống đốc NHNN Việt Nam hướng dẫn thực hiện nghị định về:
Chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp
và kinh tế nông thôn.
Quyết định 67/QĐ - TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho
vay vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn đã làm tiền đề thúc đẩy mở rộng tín dụng vào
lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn về mọi mặt. Từ đó ra đời thông tư liên tịch 2308
giữa hội nông dân và NHNo&PTNT
Việt Nam.
- Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, bộ luật dân sự của nước
cộng hoà XHCN Việt Nam.
- Về NHNo&PTNT có văn bản 499A/TDNT ngày 02/09/1993 của Tổng giám đốc
NHNo&PTNT Việt Nam qui định về các biện pháp nghiệp vụ cho hộ sản xuất vay vốn để
phát triển nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế hộ nông thôn đã tác động mạnh mẽ
đến tín dụng với nông nghiệp, nông thôn trên phạm vi rộng lớn nhất. Đồng thời với các cơ
chế, thể lệ tín dụng khác tạo nên sự đồng bộ, toàn diện... cho qui mô và tốc độ tín dụng
tăng trưởng không ngừng đối với sản xuất và đời sống.
- Tại văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, có báo cáo của BCH trung ương
Đảng khoá IX về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 đã
nêu:
Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và có hiệu quả kinh
tế cao, đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các qui trình
sản xuất đồng bộ tiên tiến, qui hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định, đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực, phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng qui
mô lớn, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản
xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất,
chế biến và bảo quản... Tiếp tục thực hiện có hiệu qủa chương trình bảo vệ và
phát triển rừng... Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá
lớn đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái [6, tr.191-192].
- Quyết định 108/2003 QĐ-TTg ngày 05/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ V/v
thành lập khu Kinh tế mở Chu Lai trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Quyết định số 14/2004
QĐ - UB ngày 09/02/2004 V/v ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của Ban quản lý
Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam và quyết định số 30/2004/ QĐ-UB ngày
19/05/2004 V/v ban hành qui định về một số cơ chế ưu đãi đầu tư vào Khu kinh tế mở Chu
Lai, tỉnh Quảng Nam của UBND tỉnh Quảng Nam cũng làm ảnh hưởng đến tín dụng của
NHNo&PTNT với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Núi Thành.
- Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX nhiệm kỳ 2005 -
2010, trong báo cáo giải trình về một số vấn đề chủ yếu phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2006 - 2010 có nêu:
Về nông, lâm, ngư, nghiệp phải chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hoá,
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Lấy hiệu quả và giá trị làm
mục tiêu để chuyển đổi trong sản xuất nông nghiệp. Chuyển đổi mạnh cơ cấu
trong nội bộ ngành nông - lâm - ngư nghiệp, đẩy mạnh chương trình trồng cỏ
nuôi bò, đưa cơ cấu chăn nuôi từ 28% hiện nay lên 35% trong tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp vào năm 2010 [7, tr.83].
- Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Núi Thành lần thứ XIX (nhiệm kỳ
2005 - 2010) có nêu:
Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp trên cơ sở chuyển đổi cây
trồng, con vật nuôi theo hướng chuyên canh, và phát triển tổng hợp ... phát triển
ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm hàng
hoá gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ của thị trường để nâng cao giá trị
sản phẩm và giữ ổn định về sản xuất.
ổn định lương thực có hạt đạt 29.000tấn/năm
Tích cực chuyển 500ha đất sản xuất lúa không chủ động nguồn nước tưới
sang trồng các loại cây khác phù hợp, có hiệu quả cao.
Phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, trồng các loại cây nguyên liệu,
cây công nghiệp, phát triển mô hình chăn nuôi bò... Đầu tư phát triển ngành
thuỷ sản thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, với sản lượng khai thác,
đánh bắt, nuôi trồng bình quân hằng năm 20.000 tấn, trong đó sản lượng có giá
trị xuất khẩu đạt trên 30%, phát triển các ngành nghề đánh bắt đạt giá trị và hiệu
quả kinh tế cao như: lưới vây ngày, câu cá ngừ đại dương, câu mực... ổn định
sản xuất và đầu tư thâm canh tăng năng suất diện tích nuôi trồng thuỷ sản hiện
có. Khuyến khích và tạo điều kiện để ngư dân đóng mới tàu thuyền và phát triển
hậu cần nghề cá [8, tr.32-33].
Tín dụng của NHNo&PTNT huyện Núi Thành lấy các phương hướng, nhiệm vụ,
mục tiêu... cụ thể trên làm định hướng đầu tư, từ đó xây dựng một kế hoạch cho vay vốn
phát triển kinh tế - xã hội vừa thúc đẩy sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, nông thôn đúng
theo chiến lược trước mắt, cũng như dài hạn của Đảng và Nhà nước các cấp nhằm vừa nâng
cao tính hiệu quả trong công tác tín dụng lẫn hiệu quả đầu tư vốn vào nông nghiệp, nông
thôn mang lại.
1.2.3. Các nhân tố chủ quan của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn huyện Núi Thành
NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Núi Thành tiền thân là Chi nhánh NHNN huyện
Núi Thành được thành lập sau khi tách huyện từ tháng 4/1984 có thể nói ra đời và phát
triển của nó song hành với lịch sử 22 năm của địa phương huyện. Từ việc cho vay vốn
phát triển nông nghiệp, nông thôn tại địa phương NHNo&PTNT huyện Núi Thành đóng
góp to lớn vào thành tích chung của cả huyện với giá trị sản xuất nông nghiệp tăng trưởng
hằng năm bình quân xấp xỉ 9,5%, sản xuất công nghiệp 18,5%, dịch vụ thương mại tăng
15%; tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 14%; trong đó, đáng lưu ý là chỉ tính từ 2001
đến nay tỉ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh, từ 19,84% xuống còn cấp xỉ 7% đến 6 tháng đầu
năm 2006.
Về phần nội tại NHNo&PTNT huyện Núi Thành cũng phát triển không ngừng từ sơ
khai 1984 chỉ vài chục triệu nguồn vốn huy động đến nay đã gần 115 tỷ đồng, dư nợ từ
mức 70 triệu đồng, nay lên đến gần 60 tỷ đồng. Nợ quá hạn ngày càng giảm thấp, chất
lượng đảm bảo theo yêu cầu của ngành và tiêu chuẩn quốc tế. Thu nhập ngày càng cao và
ổn định, đời sống của CBCNV được cải thiện hằng năm theo tiêu chuẩn quốc gia và yêu
cầu của ngành...
Sở dĩ đựơc như vậy là nhờ vào các yếu tố chủ quan như sau:
- Các nhân tố chủ quan của NHNo&PTNT
Ngân hàng No&PTNT huyện Núi Thành có địa điểm tại trung tâm thị Trấn Núi
Thành, cũng là trung tâm huyện lỵ, giao thông thuận lợi, đa chiều cả về hệ thống đường
bộ, đường sắt và hàng không. Tình hình an ninh tốt, an toàn tài sản cơ quan tài sản khách
hàng trong nhiều năm liền đã để lại ấn tượng rất tốt cho nhân dân, cũng như mọi khách
hàng. Đây là điều kiện tốt để thu hút khách hàng đến giao dịch, đồng thời cán bộ nhân viên
ngân hàng cũng có điều kiện thuận lợi tiếp xúc khách hàng để ngày càng mở rộng thị
trường, mở rộng địa bàn hoạt động tín dụng.
- Đội ngũ cán bộ với 70% đảng viên, với xấp xỉ 70% có trình độ đại học, trung cấp
28%đã được tinh lọc qua các đợt giảm biên chế theo chủ trương của ngành đã phần nào
nói lên được đạo đức, phẩm chất và năng lực cán bộ, luôn được bổ túc và đào tạo lại, từ đó
đảm bảo nhân lực đối với xu thế chuyển mạnh sang hoạt động kinh doanh ngân hàng theo
cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Đặc biệt đội ngũ làm công tác tín dụng chiếm xấp
xỉ 43%/ tổng biên chế, đều có tuổi nghề từ 5 năm trở lên, 100% tốt nghiệp và đang học đại
học, có kinh nghiệm giao tiếp, thẩm định, tư vấn, cho vay đối với mọi khách hàng có nhu
cầu, với thái độ phục vụ chí công vô tư làm yên tâm và tạo sự tín nhiệm cao đối với khách
hàng vay.
- Với bề dày thành tích, thời gian hoạt động trên địa bàn, Ngân hàng No&PTNT
huyện Núi Thành có truyền thống và kinh nghiệm am tường về các điều kiện kinh tế - xã
hội tại địa phương; nắm được các mặt mạnh, yếu, các mũi nhọn về kinh tế, các lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cần đầu tư và hạn chế, những lĩnh vực, ngành sản xuất,
kinh doanh có nguy cơ rủi ro, hướng dẫn khách hàng trong việc định hướng đầu tư v.v...
- Trụ sở kiên cố, khang trang, bề thế, sạch đẹp, lại đóng tại trung tâm huyện lỵ tạo
được niềm tin trong nhân dân, là nơi để người dân nói chung, hộ, đơn vị sản xuất, kinh
doanh nói riêng gửi tiền, thanh toán, vay vốn sản xuất, kinh doanh, cũng như thực hiện các
dịch vụ ngân hàng khác.
- Hoạt động tín dụng nói riêng, hoạt động NHNo&PTNT nói chung của
NHNo&PTNT huyện Núi Thành nằm trong guồng máy dưới sự hỗ trợ, chỉ đạo, tác động,
điều phối chung của NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam và Ngân hàng No&PTNT VIệt Nam
là một khối thống nhất càng tạo thêm sự vững chãi, bề thế, uy tín, uy lực của một thương
hiệu NHTM tầm cở tại Việt Nam và khu vực.
1.3. Khuynh hướng vận động và biến đổi
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với
nguyên lý về sự vận động, phát triển. Sự liên hệ, tác động qua lại của các sự vật, hiện
tượng tất yếu dẫn tới sự vận động, biến đổi và phát triển của chúng. Nhiệm vụ quan trọng
nhất của phép biện chứng là nghiên cứu toàn diện, bao quát sự vận động, phát triển khách
quan ấy của các một sự vật, hiện tượng nói chung và của hoạt động kinh tế - xã hội trong
mối liên quan đến tín dụng nói riêng, để tìm ra bản chất và qui luật phổ biến của quá trình
đó mà tác động cho có hiệu quả.
Triết học cũng chỉ ra rằng, khái niệm "Vận động" và khái niệm "Phát triển" không
đồng nhất với nhau. Sư vận động, biến đổi của các sự vật, hiện tượng là vô cùng tận, có nhiều
khuynh hướng và kết quả cụ thể khác nhau tuỳ thuộc vào bản chất, điều kiện tồn tại và sự liên
hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Có sự vận động từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp
đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, đó là sự vận động theo hướng tiến
lên. Lại có sự vận động dẫn tới sự thoái hoá, biến chất, dẫn tới sự tan rả, sự tiêu diệt của các
sự vật, hiện tượng, đó là sự vận động theo xu hướng thụt lùi, đi xuống.
Quá trình của hoạt động tín dụng NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp, nông
thôn cũng vận động và phát triển không nằm ngoài qui luật trên.
Trước hết như đã nêu, tín dụng đầu tư vốn vào phát triển nông nghiệp, nông thôn
làm cho tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội, nói chung bộ mặt nông thông phát triển toàn
diện, cũng như hộ tham gia vào sản xuất, kinh doanh ngày càng nhiều, càng mở rộng về
nhu cầu phát triển... Từ đó, mà yêu cầu ngày càng cao của thị trường, của kinh tế, xã hội,
của các hộ sản xuất, kinh doanh nói chung hộ nông dân nói riêng lại đặt ra nhu cầu vốn tín
dụng với qui mô và số lượng ngày càng lớn hơn, nhiều hơn nhằm không ngừng thoả mãn
yêu cầu mới đặt ra. Như: Đời sống vật chất và tinh thần yêu cầu càng cao hơn, hiện đại
hơn, về điện, đường, trường, trạm, dịch vụ bưu chính viễn thông v.v... của nhân dân.
Bản thân nội tại của tín dụng cũng nằm trong khuynh hướng vận động và biến đổi
mà chúng ta cần phải biết nắm bắt để hiểu được, dự phòng được những khả năng chuyển
hoá có thể xảy ra của vốn nói chung và vốn tín dụng nói riêng mà điều hành có hiệu quả
nhất quá trình vận động vốn.
- Vốn tín dụng ngắn hạn có thể chuyển hoá hành trung dài hạn.
Chẳng hạn với tín dụng cho vay ngắn hạn nhưng trong quá trình vận động có thể do người
sử dụng vốn tác động chuyển hoá vào vốn trung, dài hạn. Ví dụ: Vay mua nguyên liệu,
hàng hoá, chi phí... Nhưng nguồn vay lại sử dụng vào xây dựng chuồng trại, xây ao hồ,
làm vườn cây lâu năm... Hoặc khi bán hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ tiền thu được lẽ ra phải
dùng trả nợ, thanh toán... thì lại dùng mua máy móc thiết bị.
- Vốn tín dụng trung, dài hạn có thể chuyển hoá thành ngắn hạn.
Cũng như nêu trên, ở đây khách hàng vay vốn trung, dài hạn nhưng có thể do yêu cầu phát
sinh khách quan hoặc chủ quan mà sử dụng vào ngắn hạn như mua nguyên liệu, hàng hoá,
chi phí... Ngoài ra, sự vận động vốn thu được từ nguồn khấu hao người ta lại dùng mua
nguyên liệu, vật tư... đưa vào sản xuất mà lẽ ra để trả nợ trung, dài hạn hoặc để mua sắm
máy móc, thiết bị, cải tiến kỹ thuật.
- Khuynh hướng vận động và biến đổi sự vật trong xã hội nói chung và vốn nói
riêng còn ở dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Về mặt vốn qua cơ chế tín dụng,
thanh toán, dịch vụ... ta cần hiểu thêm nhiều biến đổi, chuyển hoá tích cực, còn có những
chuyển hoá tiêu cực như tẩy, rửa tiền, tham ô, móc ngoặc ... qua việc thanh toán, chuyển,
gửi tiền v..v
- Tháng 11 năm 2006 chúng ta gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Đây là một giai đoạn lịch sử vừa mang tính cơ hội vừa là thử thách đối với Đảng và
Nhà nước, cũng như mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dịch
vụ, kể cả đối các hộ sản xuất ở nước ta. Vì vậy tín dụng NHNo&PTNT cần phải lưu tâm
tới khuynh hướng vận động này, có những chủ trương, chính sách, kế hoạch đầu tư cho
phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra.
- Cũng từ thực trạng đó, thị trường không chỉ có một NHNo&PTNT, mà ngày càng
có nhiều NHNTM khác, kể cả trong và ngoài nước phát triển thêm, cụ thể từ tháng 6 năm
2003 sau khi có quyết định thành lập khu kinh tế mở Chu Lai của Thủ tướng Chính phủ tại
địa bàn huyện Núi Thành đã có thêm các chi nhánh NHĐT, NHCT, NHCS, NH Đông á.
Điều đó đặt NHNo&PTNT &PTNT vào yêu cầu phải nâng cao sức cạnh tranh bằng cách
củng cố và tăng cường từ nhân lực, vật lực, tài lực nhằm đảm đương được nhiệm vụ trong
giai đoạn mới, phục vụ càng ngày tốt hơn, chất lượng ngày càng cao hơn mọi yêu cầu về
tín dụng, dịch vụ, cũng như các tiện ích khác cho khách hàng.
Từ những khuynh hướng vận động và biến đổi đó, người quản lý vốn có những đối
sách thích hợp qua việc phân tích sự vận động trên, tìm ra những điều hợp lý và bất hợp lý,
hiệu quả và lãng phí, tích cực và tiêu cực v.v... của các đối tượng sử dụng nhằm giúp vai
trò NHNo&PTNT tác động có hiệu quả hơn đối với sự nghiệp đầu tư phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài ra, khuynh hướng vận động và biến đổi còn đặt ra yêu cầu nhiều mặt của nền
kinh tế, xã hội ngày càng cao, đòi hỏi bản thân ngân hàng thương mại phải vận động, trang
bị mọi mặt nghiệp vụ chuyên môn, nhân lực, tài lực ngày càng phát triển nhằm nắm bắt
thời cơ và vượt qua thách thức trong quá trình đổi mới và phát triển đáp ứng đòi hỏi chất
lượng ngày càng khắt khe của nền kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực trạng hoạt động tín dụng
của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn phục vụ phát triển nông nghiệp,
nông thôn
ở huyện Núi Thành thời gian qua
2.1. Thành tựu về hoạt động Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Núi Thành (2001 - 2005)
2.1.1. Tình hình huy động vốn
Bản thân các Ngân hàng thương mại nước ta đều xuất phát từ NHNN, với thực hiện
chức năng quản lý tập trung trong một thời gian khá dài theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung chỉ đề ra kế hoạch dư nợ, hệ quả để lại khi tách ra hoạt động theo chức năng ngân
hàng thương mại là vốn huy động rất thấp. Chỉ đến khi chuyển hẳn sang kinh doanh, nhất
là thời gian gần đây, việc huy động vốn được NHNo&PTNT Việt Nam xem là một trong
những nghiệp vụ quan trọng, quyết định vào thành quả hoạt động của toàn ngành cũng như
từng mạng lưới cơ sở.
Tại văn bản số 1925/ NHNo&PTNT - KTTH ngày 07/ 06/2006 về việc giải pháp
trọng tâm những tháng cuối năm 2006 tổng giám đốc có nêu: Về nguồn vốn thực hiện chủ
động đa dạng hoá các hình thức huy động vốn hướng tới khách hàng là dân cư. Đẩy mạnh
công tác thanh toán điện tử, thanh toán song biên, nối mạng thanh toán với các đơn vị lớn
để thu hút vốn, chuyển mạnh thu hút nguồn vốn ngoại tệ... Các chi nhánh cần quan tâm
đến việc tạo nguồn vốn ổn định tại các địa phương: Tăng nguồn vốn dân cư và giảm dần
nguồn vốn nhận của Tổ chức tín dụng khác, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch về
nguồn vốn đã được giao.
Thông báo chỉ tiêu kế hoạch nguồn vốn hằng năm. Ngân hàng No&PTNT tỉnh
Quảng Nam cũng yêu cầu: Mức tăng trưởng nguồn vốn được giao là mức tối thiểu.
NHNo&PTNT tỉnh khuyến khích các chi nhánh vượt chỉ tiêu kế hoạch về nguồn vốn, cần
tập trung đa dạng các hình thức huy động vốn nhất là vốn huy động từ dân cư.
Lĩnh hội được yêu cầu cũng như xu thế vận động, phát triển trên, NHNo&PTNT chi
nhánh huyện Núi Thành cũng đã đề ra kế hoạch để từng bước đưa nguồn vốn huy động
tăng lên ngày càng cao. Nguồn vốn huy động từ 1984 chỉ 27triệu, đến 1996 vẫn ở mức
hơn 9 tỷ đồng thì đến 2000 là 33, 8 tỷ, trong tình hình chung tại địa phương nguồn tiền
nhàn rỗi thấp. Tuy vậy, tiềm năng huy động nguồn vốn trong dân cư vẫn chhưa được khai
thác, do đó từ năm 2001 NHNo&PTNT huyện Núi Thành đặt ra những yêu cầu đột phá.
Chúng ta cùng xem tình hình huy động vốn (2001 - 2005) qua bảng 2.1:
Bảng 2.1: Bảng nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT chi nhánh
huyện Núi Thành ( 2001 - 2005)
TT Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
1 Tổng nguồn vốn huy động
- % tăng, giảm (+, -) so với
năm trước
44.980
+ 32,96
47.537
+ 05,6
55.084
+ 15,87
58.147
+ 5,56
93.671
+ 61,09
2 Cơ cấu nguồn vốn huy động
- Nguồn vốn huy động từ
dân cư.
- Từ tổ chức kinh tế khác
- Tỷ trọng nguồn vốn huy
động từ dân cư /Tổng nguồn
44.980
20.214
24.766
44,93%
47.537
21.603
25.934
45,44%
55.084
25.684
29.400
46,62%
58.147
35.636
22.511
61,28%
93.671
68.254
25.417
72,86%
3 Phân theo kỳ hạn
- Không kỳ hạn
- Có kỳ hạn
44.980
25.782
19.198
47.537
26.534
21.003
55.084
30.720
25.084
58.147
23.025
35.122
93.617
32.733
60.938
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác các năm từ 2001 - 2005 của chi nhánh
NHNo&PTNT huyện Núi Thành.
Tại địa bàn huyện Núi Thành việc huy động vốn từ năm 2001 đến nay có thể phân
tích thành 3 giai đoạn.
- Giai đoạn từ năm 2001 - 2002:
Qua biểu thống kê ta thấy, tổng nguồn vốn huy động năm 2001 tăng 32,96% so
với năm 2000, tỉ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư chiếm 44,93% trong tổng số. Có thể
nói năm 2001 là mốc đánh dấu khởi đầu kế hoạch 5 năm (2001 - 2005) của NHNo&PTNT
tỉnh Quảng Nam và của ngành đặt ra có mức độ tăng trưởng khá cao, có bước đột phá so
với cả năm 2000 và những năm về trước.
Năm 2002 tỉ lệ tăng trưởng ở mức thấp chỉ +5,6%, tuy vậy nguồn vốn huy động
từ dân cư chiếm tỷ trọng lên 45,44%, tăng tuyệt đối gần 1,2 tỉ so với 2001. Sở dĩ tốc độ
huy động vốn giai đoạn này thấp là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Hoạt động trong khai thác hải sản mất mùa, đặc biệt dịch tôm xảy ra mạnh từ
cuối năm 2001 đến 2002 ảnh hưởng đến nguồn tiền gửi từ nguồn dân cư này. Vì vậy huy
động vốn ở bộ phận dân cư nông nghiệp, kinh doanh và dịch vụ tăng nhưng bộ phận dân
cư trong lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản giảm.
- Giai đoạn này chủ yếu huy động bằng hình thức quảng cáo, vận động lãi suất,
hình thức gửi tiền... qua đài phát thanh địa phương, chưa đa dạng cách tiếp cận thị trường,
nên hiệu quả còn thấp.
- Giai đoạn 2003 - 2004: Đặc điểm của giai đoạn này là sau khi có quyết định thành
lập khu kinh tế mở Chu Lai tháng 6/2003 của Thủ tướng Chính phủ, bước đầu một bộ phận
dân cư và một vài địa phương xã có phát sinh quy hoạch đền bù, giải toả nên lượng tiền
nhàn rỗi có tăng lên.
Lúc này, để tăng cường huy động vốn, biện pháp tổ chức huy động vốn của
NHNo&PTNT huyện Núi Thành cũng triển khai đa dạng hoá: Ngoài hình thức tuyên
truyền, quảng bá trên đài phát thanh, Ngân hàng cơ sở còn thành lập tổ huy động vốn đi
xuống cơ sở tổ chức và vận động, giới thiệu các hình thức gửi tiền, với các loại lãi suất
hấp dẫn để thu hút khách hàng có khuyến khích trích tiền thưởng cho tổ huy động vốn, cá
nhân CBCNV khi tổ chức huy động được số dư trong dân cư tăng lên.
Nhờ vậy số dư tiền gửi vốn huy động năm 2003 tăng trưởng nhanh so với năm
2001, 2002 tăng từ + 15,87% đến + 22,46%. Năm 2004 số dư cũng tăng hơn 3 tỷ đồng so
với năm 2003, đưa số dư so với các năm trước đó tăng hàng chục tỷ đồng. Đặc biệt số huy
động từ nguồn vốn dân cư từ tỉ trọng 46,62% trong tổng số vốn vào năm 2003, đến năm
2004 lên đến 61,28%. Năm 2004 cũng là năm đầu tiên so với từ hàng chục năm trong quá
trình huy động vốn của mình, NHNo&PTNT huyện Núi Thành có số dư vốn huy động có
kỳ hạn vượt hàng chục tỷ so với huy động vốn không kỳ hạn. Từ thực tế trên
NHNo&PTNT chi nhánh mở ra thời kỳ ổn định hơn về số dư nguồn vốn huy động trong
quá trình hoạt động của mình.
- Giai đoạn 2005 đến nay:
Số dư tăng trưởng với tốc độ khá cao, tổng nguồn vốn huy động tăng hơn gấp 2
lần so với năm 2001, tăng +61,09% so với năm 2004. Với tỷ trọng nguồn vốn huy động
trong dân cư lên mức chưa từng có so với hàng chục năm hoạt động trước đây chiếm
72,86% trong tổng số nguồn vốn huy động, trong đó nguồn vốn huy động có kỳ hạn 60
tỷ 938 triệu tăng hơn 28 tỷ so với tiền gửi không kỳ hạn. Đặc biệt năm này nguồn vốn
huy động không kỳ hạn cũng ở mức cao nhất trong thống kê 5 năm (2001 - 2005) đạt
mức 32 tỷ 733.
Sở dĩ có bước tăng trưởng đột phá trên là do:
- Tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn ổn định thu nhập của người dân trong
nông, ngư nghiệp có tăng lên khá.
- Nguồn tiền nhàn rỗi phát sinh mạnh nhất là từ đền bù, giải phóng mặt bằng... do
người dân chưa phải làm nhà ngay hoặc mức tiền nhận từ đền bù sau khi làm nhà vào khu
tái định cư còn dôi ra. Từ đó đem gửi vào ngân hàng vừa tiết kiệm, để dành an toàn, vừa
hưởng lãi.
- Ngân hàng NHNo&PTNT, ngoài những biện pháp tổ chức huy động vốn đã nêu
trên, còn có các hình thức tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bằng vàng 4 số 9 theo yêu cầu cuả
ngành. Ngoài ra cơ sở còn tổ chức quảng cáo, khuyến mãi tặng quà lưu niệm, thưởng bằng
tiền, bằng hiện vật v.v... tuỳ theo số tiền gửi, thời hạn gửi. Trong đó đặc biệt khuyến khích
khách hàng có số dư tiền gửi cao, thời hạn kéo dài trên 12 tháng.
Tính đến 30/6/2006 số lượng khách hàng gửi tiền tại chi nhánh là 2.886 người,
tổng số vốn huy động đã lên đến 106,4 tỷ đồng, bình quân số vốn huy động / biên chế là
7,6 tỷ đồng.
Mặt khác, huy động vốn ngoại tệ cũng được đưa vào thực hiện từ năm 2005
vừa theo yêu cầu của tình hình thực tế vừa theo sự đa dạng hoá các hình thức dịch vụ
ngân hàng theo yêu cầu của ngành. Tuy tại địa bàn huyện từ trước đến nay thuần
nông, chưa có điều kiện thị trường để triển khai hoạt động huy động và cho vay
ngoại tệ, nhưng bước đầu cũng đạt kết quả đáng khuyến khích với số dư vốn huy động
ngoại tệ khách hàng gửi vào đến cuối năm 2005 là 44.000 USD, đến 6 tháng đầu năm
2006 là 83.000 USD với doanh số hoạt động lên đến hàng trăm ngàn USD/năm. Bước
đầu làm tăng thu nhập cho NHNo&PTNT cơ sở bằng dịch vụ
ngoại tệ.
Điều đáng nói là từ khi nguồn vốn huy động tăng trưởng mạnh và ổn định vào các
năm 2004 đến nay kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Núi Thành hằng năm đạt
khá và ổn định, hoàn thành tốt chỉ tiêu khoán tài chính của NHNo&PTNT cấp trên giao.
CBCNV có thu nhập đảm bảo nên yên tâm và phấn khởi trên các mặt công tác, mặc dù
đơn giá tiền lương ngân hàng cấp trên giao thấp hơn mức chung, có điều hoà cho những
nơi kém thuận lợi hơn và các chi nhánh NHNo&PTNT miền núi.
Từ năm 2005 chủ trương kinh doanh nguồn vốn trong toàn hệ thống của
NHNo&PTNT Việt Nam cũng đã được đặt ra, thay đổi nếp nghĩ đơn thuần chỉ thiên về tư
tưởng kinh doanh tín dụng như từ trước đến nay.
Bảng 2.2: Tỷ lệ nguồn vốn huy động so với tổng dư nợ của chi nhánh NHN0&PTNT
huyện Núi Thành
ĐV: Triệu đồng
T
T
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
1 Tổng dư nợ 45.545 48.350 56.630 57.225 65.760
2 Nguồn vốn huy động 44.980 47.537 55.084 58.147 93.671
3 Tỉ lệ nguồn vốn huy
động so với dư nợ
98,75% 98,31% 99% 101,6% 142,44%
Nguồn: báo cáo tổng kết các năm 2001 - 2005 của chi nhánh NHNo&PTNT huyện
Núi Thành.
Huy động vốn tại Ngân hàng cơ sở tăng từng bước ổn định kể từ 2001 - 2005, mức
tăng tuyệt đối so sánh giữa 2 năm này là + 48 tỷ 691 triệu, với tỷ lệ tăng 208,25%.
Nguồn vốn tự lực để cho vay, do đó đã dần dần bù đắp và thay thế cho mức thiếu hụt
mà ngân hàng cơ sở phải vay và trả lãi cho NHNo&PTNT Việt Nam.
Năm 2001, tỉ lệ nguồn vốn huy động so với dư nợ là 98,75%, năm 2003 là 99%,
năm 2004 vượt lên 101,6%; và năm 2005, huy động lên trên mức cho vay 42,44% (bảng
2.2). Vốn huy động vượt mức vốn cho vay tại đơn vị gần 38 tỷ đồng. Kể từ đó đến nay
NHNo&PTNT huyện Núi Thành đã không những tư huy động vốn để trang trải cho vay
mà còn chuyển sang kinh doanh nguồn vốn, với thực tế hàng tháng nhận lãi từ nguồn huy
động hộ NHNo&PTNT Việt Nam hàng trăm triệu đồng.
Đó cũng là biểu hiện tích cực, nhanh nhạy trong việc thực hiện chiến lược kinh
doanh nguồn vốn được chỉ đạo từ NHNo&PTNT Việt Nam và Chi nhánh tỉnh Quảng
Nam.
Để có được kết quả huy động nguồn vốn tích cực qua các năm như trên,
NHNo&PTNT cơ sở một mặt quảng bá hình ảnh, thông tin lên các phương tiện thông tin
đại chúng về nhiều hình thức huy động như: Hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi kỳ
phiếu... dưới nhiều loại thời hạn: có kỳ hạn, không kỳ hạn, kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng, 12 tháng đến trên 12 tháng v.v... đồng thời, NHNo&PTNT huyện còn thực hiện tốt
các đợt giao chỉ tiêu huy động kỳ phiếu có thưởng bằng tiền, vàng của ngành.
NHNo&PTNT cơ sở còn khuyến khích bằng các tặng phẩm như: áo, mũ, đồ mưa, giấy vở
học sinh có in lô gô của ngành nhằm thu hút kháchh hàng trong quá trình huy động nguồn
vốn thường xuyên của cơ sở mình.
Mặt khác, nghiệp vụ thu chi chính xác, kịp thời trong quan hệ giao dịch với
khách hàng của đội ngũ cán bộ làm công tác ngân quỹ, kế toán và thái độ phục vụ hoà
nhã, tận tình, chu đáo đã được thiết lập, giữ gìn ổn định trong thời gian dài cũng tác
động to lớn đến thành quả huy động vốn nói trên.
Tóm lại, qua lịch sử hình thành và phát triển của NHNo&PTNT huyện Núi Thành
từ năm 1984 đến nay, tăng trưởng nguồn vốn đã trải qua một thời gian khá dài. Nhưng cột
mốc tạo nên sự khác biệt có thể từ ba giai đoạn đã phân tích kể trên: Giai đoạn 2001 - 2002
; giai đoạn 2003 - 2004 và giai đoạn 2005 đến nay. Đặc biệt từ cuối năm 2005 đến những
tháng đầu năm 2006, tổng nguồn vốn đã có bước đột phá, tạo nên một bước ngoặc kinh
doanh tốt nhất đối với ngân hàng cơ sở.
2.1.2. Tình hình cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn
Từ khi ra đời đến nay NHNo&PTNT huyện Núi Thành luôn luôn xác định gắn việc
cho vay với mục tiêu phát triển kinh tế mũi nhọn của địa phương. Trong đó, đánh bắt hải
sản, nuôi tôm nước lợ được chú trọng. Cơ cấu kinh tế huyện được định hình và đưa vào kế
hoạch thời gian đầu là nông - lâm - ngư - công nghiệp. Đến năm 2003 khi có quyết định
thành lập khu kinh tế mở Chu Lai của Thủ tướng Chính phủ, cơ cấu kinh tế được xác định
chuyển mạnh sang bước phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên tổng kết đánh giá
của huyện nhà hằng năm bao giờ cũng xem trong cơ cấu nông nghiệp thì đánh bắt và nuôi
trồng thuỷ sản vẫn là mũi nhọn đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn của
huyện. Vì vậy, việc cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn được chú
trọng.
Việc cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn của NHNo&PTNT qua hơn 22
năm đã phản ánh được sự tích cực, ổn định về công tác tín dụng đối với các hộ sản xuất
nông, ngư nghiệp. Mức tăng trưởng qua các năm không nhiều nhưng phản ánh chất lượng,
hiệu quả ở cả hai phía: đơn vị cho vay và người vay vốn. Đóng góp của công tác tín dụng
NHNo&PTNT đã giải quyết được những nhu cầu về vốn cho mọi đối tượng, từ cá nhân, hộ
sản xuất đến các đơn vị sản xuất, kinh doanh; đã thúc đẩy các ngành nghề chẳng những ổn
định mà còn phát triển khá đa dạng, phong phú. Tăng trưởng tín dụng gắn liền với tăng
trưởng kinh tế tại địa phương. Hầu như các mảng tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ...
từ mức độ duy trì ổn định, đến phát triển mở rộng đều có dấu ấn tham gia đầu tư vốn của
NHNo&PTNT và PTNT cơ sở.
Bảng 2.3: Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng qua các năm
ĐV tính: triệu đồng
TT Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
1 Tổng doanh số cho vay
Trong đó. Ngành nông nghiệp
38.120
32.010
39.320
33.450
40.870
34.771
42.960
35.887
45.997
36.663
2 Số khách hàng vay (hộ)
Trong đó: khách hàng nông
nghiệp, nông thôn
2.015
1.903
2.108
1.927
2.297
1.963
2.309
2.085
2.542
2.167
3 Tổng dư nợ: Trong đó
- Nợ trung, dài hạn
45.545
10.985
48.350
11.367
55.630
12.010
57.225
12.650
65.760
15.378
- Nông nghiệp, nông thôn 34.312 36.010 38.116 42.055 45.633
4 Tốc độ tăng trưởng dư nợ
Trong đó. Tăng trưởng dư nợ,
nông nghiệp, nông thôn
5,64%
3,43%
6,15%
4,94%
15,05
%
5,84%
10,33
%
5,08
14,91
%
8,5%
Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm từ 2001 - 2005 của chi nhánh NHNo&PTNT chi
nhánh huyện Núi Thành.
Nhìn vào bảng 2.3 ta thấy rằng, doanh số cho vay tăng đều đặn qua từng năm,
chứng tỏ được khả năng nắm bắt, theo dõi và đáp ứng nhu cầu về vốn của thị trường.
Từ năm 2001 - 2005 tỉ lệ tăng của doanh số cho vay là 20,66% với mức tăng + 7 tỷ
877 triệu đồng. Đặc biệt doanh số cho vay ngành nông nghiệp vẫn giữ vị trí hàng đầu và
chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng doanh số, với mức tăng + 4 tỷ 653 triệu, chiếm hơn 59%
tổng mức tăng và tỉ lệ tăng là + 14,53% kể từ năm 2001 - 2005.
Số hộ vay vốn đến cuối năm 2005 là 2.542 hộ, tăng + 527 hộ so với năm 2001,
trong đó hộ vay thuộc nông nghiệp, nông thôn chiếm 85,24%.
Con số khách hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhiều năm qua nhìn
chung ổn định, không như những hộ kinh doanh thuộc các lĩnh vực khác. Nhu cầu vốn
cũng không có những phát sinh đột phá, mà mang tính ổn định, phản ảnh trung thực về qui
mô và tốc độ phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Qua đó khách hàng nông nghiệp,
nông thôn đóng góp vào sự tăng trưởng về tài chính, cũng như tác động tích cực vào việc
làm giảm tỉ lệ nợ quá hạn, hiện ở mức thấp theo chỉ tiêu phấn đấu của ngành (dưới 3%) và
chuẩn mực quốc tế (dưới 5%) trên tổng dư nợ.
Tổng dư nợ vay từ 45 tỷ 545 triệu năm 2001 lên 65 tỷ 760 ở năm 2005, tốc độ tăng
trưởng + 44,38%. Trong đó dư nợ đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn cuối năm 2005 là 45
tỷ 633triệu đồng, tăng + 8,5% với mức tăng + 11tỷ 321 triệu so với 2004. Đối tượng tín
dụng đầu tư nhiều nhất là đóng mới tàu thuyền đánh bắt cá ở Tam Giang, Tam Quang,
Tam Hoà, Tam Hải và cho vay chuyển đổi cây trồng, vật nuôi v.v...ở các xã trọng điểm
như Tam Xuân, Tam Hiệp, Tam Nghĩa, Tam Thạnh, Tam Trà, Tam Sơn; cho vay phát
triển chăn nuôi trâu, bò đàn, kinh tế vườn đồi, kinh tế trang trại ở các xã miền núi. Nhiều
cá nhân, hộ sản xuất đầu tư vào lâm nghiệp, trồng rừng có kết quả khả quan.
Nợ trung và dài hạn năm 2001 là 10 tỷ 985 triệu, đến cuối năm 2005 là 15 tỷ 378
triệu, chiếm 23,38% trong tổng số. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn không cao là do từ năm
2000 về trước NHNo&PTNT đã đầu tư nhiều vào việc mua sắm tàu thuyền, lưới cụ và xây
dựng ao, hồ nuôi tôm nước lợ nhiều, nên từ năm 2001 trở lại đây chủ yếu cho vay ngắn
hạn bổ sung để sửa chữa, mua sắm vật dụng nhỏ nên phát sinh nhu cầu vốn trung và dài
hạn ít hơn.
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ phân theo ngành kinh tế
ĐV: Triệu đồng
Chỉ têu
2001 2002 2003 2004 2005
Dư nợ
Tỷ
trọng
%
Dư nợ
Tỷ
trọng
%
Dư nợ
Tỷ
trọng
%
Dư nợ
Tỷ
trọng
%
Dư nợ
Tỷ
trọng
%
-Nông
nghiệp
Trong
đó:
+Đánh
bắt
thuỷ
sản
+Nuôi
thuỷ
sản
+Chăn
nuôi
gia súc,
gia cầm
+Sản
xuất
lương
thực,
thực
phẩm
34.312
18.060
8.540
3.212
4.500
75,33
52,63
24,88
9,36
13,11
36.010
18.560
8.780
3.140
5.260
74,47
51,54
24,38
9,47
14,6
38,116
19.215
9.230
3.680
5.991
68,51
50,41
24,21
9,65
15,71
42.055
21.150
10.060
4.850
5.995
73,49
50,29
23,92
11,53
14,53
45.633
22,430
10.870
5.215
7.118
69,39
49,15
23,82
11,42
15,59
- Sản
xuất
công
nghiệp
và xây
dựng
7.250 15,91 7.690 15,9 9.954 17,89 7.980 13,87 8.377 12,73
-
Thương
mại và
dịch vụ
3.983 8,74 4.650 9,61 7.560 13,58 7.230 12,63 11.750 17,86
Tổng
cộng
45.545 100 48.350 100 55.630 100 57.225 100 65.760 100
Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm từ 2001 - 2005 của NHo&PTNT huyện Núi
Thành.
Bảng 2.4 phân dư nợ làm 3 ngành kinh tế cơ bản gồm: Nông nghiệp, sản xuất
công nghiệp và xây dựng, thương mại và các dịch vụ khác. Trong đó ngành nông
nghiệp được đi vào chi tiết của các nghề chính như: đánh bắt hải sản, nuôi trồng thuỷ
sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm, sản xuất lương thực, thực phẩm. Qua đó phản ánh
được cơ cấu nội tại về cho vay vốn của NHNo&PTNT với phát triển nông nghiệp,
nông thôn trên địa bàn. Từ đó thấy được qui mô, tỷ trọng và suất đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn qua các năm.
Cụ thể qua bảng phân tích trên ta thấy rằng: tỷ trọng vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn qua các năm đều chiếm từ 69,39% đến 75,33% trong tổng số, vốn cho vay với mức dư
nợ 45 tỷ 633 triệu đồng đến cuối năm 2005. Trong đó:
Dư nợ tín dụng đối với nghề khai thác hải sản, chủ yếu là do cho vay đầu tư vào
mua sắm máy móc, tàu thuyền, ngư lưới cụ phục vụ đánh bắt hải sản xa bờ, trọng tâm là
các nghề: Câu mực khơi, lưới vây, giã, mành v.v... Tại NHNo&PTNT huyện Núi Thành
doanh số cho vay đóng mới tàu thuyền hằng năm hàng chục tỷ đồng. Dư nợ vốn vay này
năm 2001 là 18 tỷ 060 trệu đồng, với tỷ trọng chiếm 52,63% trong tổng dư nợ ngành nông
nghiệp. Đến năm 2005 mức dư nợ tăng lên 22 tỷ 430 triệu chiếm tỷ trọng 49,15% trong
tổng số. Đây cũng là lĩnh vực nghề nghiệp trong ngành nông nghiệp có mức dư nợ và tỷ
trọng hằng năm cao nhất trong tổng dư nợ vay nói chung và dư nợ tín dụng cho ngành
nông nghiệp nói riêng. Cũng theo bảng thống kê trên ta thấy tỉ trọng qua các năm về dư
nợ nghề đánh bắt hải sản đều ở mức từ 49,15% đến 52,63%.
- Về lĩnh vực nuôi thuỷ sản, mà chủ yếu là nuôi tôm nước lợ cũng được tín dụng
NHNo&PTNT chú trọng đáng kể, với việc cho vay mỗi năm hằng trăm hộ đầu tư vào ngàn
ha mặt nước thả nuôi.
- Dư nợ nghề nuôi thuỷ, hải sản năm 2001 là 8 tỷ 540 triệu, chiếm tỷ trọng 24,88%
đến cuối năm 2005 tăng lên 10 tỷ 870 triệu chiếm 23,82%.
Nhu cầu tín dụng về nuôi thuỷ sản rất cao, nhưng việc nuôi tôm nước lợ từ năm
2001 đến năm 2003 do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do dịch bệnh xảy ra ở địa phương
trên diện rộng và chậm khắc phục được nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc tích cực đầu
tư của NHNo&PTNT vào nghề này. Từ đó vốn đầu tư có chững lại. Ngân hàng chỉ tập
trung xem xét cho vay những hộ có kinh nghiệm, khắc phục được dịch bệnh, nuôi có hiệu
quả qua từng vụ. Tuy nhiên những hộ chậm khắc phục, gặp khó khăn khách quan vẫn được
NHNo&PTNT có chính sách gia hạn, ân hạn, thậm chí có trường hợp đặc biệt phải khoanh
nợ đưa vào rủi ro. Trước tình hình trên thực tế công tác thu nợ đối với các hộ nuôi tôm tại
địa bàn đã có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của NHNo&PTNT huyện Núi Thành.
- Về chăn nuôi gia súc, gia cầm: Tín dụng chủ yếu đầu tư vào chăn nuôi trâu, bò,
dê, heo cho các hộ nông nghiệp có điều kiện lập chuồng trại tại gia đình hoặc trang trại ở
các xã: Tam Nghĩa, Tam Mỹ, Tam Thạnh, Tam Sơn.
Riêng về gia cầm, từ khi xuất hiện và báo động toàn quốc về dịch cúm, đàn gà, vịt
thực tế giảm đáng kể. Năm 2005 trở lại đây dịch bệnh có giảm nhưng vẫn còn được
khuyến cáo về nguy cơ dịch quay trở lại, NHNo&PTNT cũng không chú trọng đầu tư vào
lĩnh vực này.
Mức dư nợ vay chăn nuôi gia súc gia cầm ở năm 2001 là 3 tỷ 212 triệu đến năm
2005 là 5 tỷ 215 triệu đồng. Tỉ trọng tín dụng ngành nghề này cũng ở mức thấp nhất so với
các ngành nghề khác trong cho vay nông nghiệp, nó chỉ chiếm hơn 11,42%.
- Về sản xuất lương thực, thực phẩm: ngoài cho vay theo thực tế bình thường tại địa
phương vào sản xuất lúa, mì, đậu v.v... Từ khi các doanh nghiệp, nhà máy đầu tư vào khu
kinh tế mở Chu Lai và khu công nghiệp Dung Quất, các hộ đã chuyển dịch cây trồng trong
nông nghiệp để phục vụ nhu cầu thị trường như: cây ăn trái, rau màu, hoa tươi ... Vì vậy
NHNo&PTNT đã chú trọng cho vay chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp với
mức tăng cao nhất từ 4 tỷ 500 triệu vào năm 2001 lên 7 tỷ 118 triệu năm 2005, với tỷ lệ +
58,17%. Giá trị sản phẩm hàng hoá trong nông nghiệp nhờ vậy cũng tăng lên đáng kể, góp
phần thực hiện mục tiêu "Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp trên cơ sở chuyển đổi
cây trồng, con vật nuôi theo hướng chuyên canh, thâm canh và phát triển tổng hợp, tăng
giá trị trên một đơn vị diện tích, phấn đấu đạt từ 30 - 50 triệu đồng/ha". Theo nghị quyết
đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Núi Thành lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2005 - 2010 đề ra.
Dư nợ tín dụng ngành công nghiệp và xây dựng cũng ở mức ổn định. Đầu tư mới
phát sinh chủ yếu là nhằm vào phát triển vào tiểu thủ công nghiệp chế biến nhỏ phục vụ tại
địa phương và mua sắm phương tiện vận tải phục vụ cho các công trình xây dựng cơ sở hạ
tầng, xây dựng cơ bản của các đơn vị trong khu kinh tế, khu công nghiệp.
Ngành thương mại và các dịch vụ khác trong điều kiện khu công nghiệp, khu kinh
tế tập trung làm cho lượng khách vãng lai, công nhân các công ty, xí nghiệp tăng lên tại
địa phương, đã đặt ra yêu cầu về nhiều mặt. Do đó, thúc đẩy kinh doanh thương nghiệp
và dịch vụ có chiều hướng phát triển.
Từ năm 2003, các hộ kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ có nhu cầu vốn tăng
đáng kể. Dư nợ tín dụng của ngành này cuối năm 2005 là 11 tỷ 750 triệu tăng gấp 2,95 lần
so dư nợ năm 2001. Dư nợ tín dụng chủ yếu tăng ở các ngành cung ứng hàng hoá và dịch
vụ nhà nghỉ, du lịch.
Tóm lại, tình hình cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được
NHNo&PTNT chú trọng ngay từ đầu, với phương châm của ngành từ thời khai trương.
NHNo&PTNT xác định: Nông dân là người bạn đồng hành, thị trường nông nghiệp, nông
thôn là thị trường truyền thống. Hàng chục năm qua tín dụng NHNo&PTNT đã cho thấy
thực hiện cho vay từng bước tăng trưởng ổn định, giữ vững về qui mô, tỉ trọng đầu tư và
chú trọng những ngành nghề được xác định là mũi nhọn tại địa phương, kết hợp với thực
trạng phát triển của kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế và chủ trương công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước.
2.1.3 . Tình hình thu nợ và thực trạng rủi ro tín dụng
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp hoạt động cho vay, tình hình nợ quá hạn
và kết quả thu nhập
Đơn vị: triệu đồng
T
T
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
1 Tổng doanh số cho vay 38.120 39.320 40.870 42.960 45.997
2 Tổng doanh số thu nợ 35.624 36.515 33.590 41.365 35.462
3 Tổng dư nợ. Trong đó:
- Nợ quá hạn
45.545
51
48.350
64
55.630
219
57.225
205
67.760
105
4 Tỉ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư
nợ
0,11% 0,13% 0,39% 0,36% 0,15%
5 Nợ khoanh 630 965 187 / /
6 Nợ xử lý rủi ro / / 86 149 1.340
7 Quỹ thu nhập(doanh thu -
chi phí)
314 525 799 1.215 2.687
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh từ năm 2001 - 2005 của
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Núi Thành.
Căn cứ bảng 2.5 ta thấy tình hình cho vay và thu nợ được phản ánh khá ổn định.
Ngoài việc dư nợ tăng lên qua các năm do những nguyên nhân phát triển kinh tế - xã hội
tại địa phương đã được phân tích trong các phần trước, việc thu nợ qua các năm bình quân
36 tỷ 511 triệu đồng với doanh số thu mỗi năm không quá chênh lệch, phần nào nói lên
được chất lượng từ việc cho vay.
Để thấy rõ hơn hiệu quả việc đầu tư cho vay, chất lượng của tín dụng
NHNo&PTNT chúng ta xem xét biến động nợ quá hạn qua bảng 2.5. Trong thời kỳ từ
2001 - 2005, mức dư nợ quá hạn chỉ tăng từ 51 triệu đồng năm 2001 lên 105 triệu, mức
tăng +54 triệu. Trong khi doanh số cho vay tăng từ 38 tỷ 120 triệu lên 45tỷ 997 triệu, đồng
thời dư nợ tăng từ 45 tỷ 545 triệu năm 2001 lên 67 tỷ 760 triệu, năm 2005, với mức tăng
+ 22tỷ 215 triệu.
Tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tăng từ 0,11% năm 2001 lên 0,15% năm 2005,
thấp xa so với chuẩn mực quốc tế qui định tối đa 5% và tỉ lệ yêu cầu của ngành cho phép
qua các năm là 3%.
Mặt khác, cho vay vào nông nghiệp, nông thôn là một ngành chịu ảnh hưởng khắc
nghiệt từ dịch bệnh, thiên tai v.v... Nên rủi ro là điều có khả năng thường xuyên và khó
tránh khỏi. Nhưng qua bảng 2.5 ta thấy rằng nợ khoanh qua các năm cũng đạt ở mức
thấp, năm 2001 chỉ có 630 triệu, năm 2002 là 965 triệu, năm 2003 là 187 triệu và không
phát sinh trong các năm 2004, 2005.
Mặc dù bão lụt từ các năm trước để lại hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt lũ lụt của các
năm 1998, 1999, trong đó nghiêm trọng nhất là bão số 2 năm 1999 mà cả nước phải quan
tâm, thì mức xử lý rủi ro từ cho vay lũ lụt cũng chỉ là 1 tỷ 008 triệu trong tổng số 1 tỷ 340
triệu cho phép xử lý vào cuối năm 2005. Cũng qua bảng 2.5 ta thấy rằng ngoài việc xử lý
rủi ro do tình hình bất khả kháng trên, số còn lại do các nguyên nhân khác không đáng kể.
Sở dĩ có được thành quả khả quan trên là do công tác điều tra, thẩm định, tổ chức
bám sát địa bàn để nghiên cứu cho vay của NHNo&PTNT đã thực hiện tốt, kể cả theo dõi
dự báo, dự phòng về dịch bệnh, thời tiết cũng được ngân hàng cơ sở quan tâm.
Cũng nhờ thu nợ tín dụng tốt và ít rủi ro mà tình hình tài chính, phản ánh thu nhập
qua các năm của NHNo&PTNT cơ sở ổn định, đạt mức tăng trưởng ngày càng cao, đáp
ứng quỹ lương ngày càng tăng cho CBCNV theo qui định của ngành. Từ đó, tạo tâm lý
phấn khởi, tin tưởng và tích tực trong toàn thể CBCNV đối với mọi hoạt động nghiệp vụ
được phân công, dẫn đến tác dụng tích cực làm cho tổ chức hoạt động nhiều mặt của
NHNo&PTNT ngày càng phát triển.
2.2. Những kết quả và hạn chế trong hoạt động tín dụng phát triển nông
nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành
2.2.1. Kết quả
Xét về lợi ích NHNo&PTNT:
- Trước hết quy mô tín dụng không ngừng tăng trưởng, qua 5 năm dư nợ bình quân
tăng + 5 tỷ 553/năm, với mức tăng giữa 2 thời kỳ từ 2001 - 2005 là + 22tỷ 215.
Tăng trưởng gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng đã tạo tiền đề vững
chắc cho kinh doanh phát triển, đảm bảo tình hình tài chính và tăng thu nhập cho người
lao động.
- Qua tổ chức tốt hoạt động, NHNo&PTNT ngày càng nâng cao trình độ của đội
ngũ viên chức, về thao tác nghiệp vụ, ứng xử và tác phong giao dịch.
- Cũng trên cơ sở đó, qua hơn 22 năm hoạt động NHNo&PTNT huyện Núi Thành
đã từng bước xây dựng trụ sở, mạng lưới bề thế, khang trang hơn. Trang bị về công nghệ,
thiết bị ngày càng hiện đại, đầy đủ hơn. Một mặt phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu giao
dịch của khách hàng, mặt khác nâng cao vị thế của NHNo&PTNT trên thị trường quốc nội
và quốc tế.
- Cơ cấu tín dụng trong xu thế phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn trong suốt
thời kỳ qua đã nói lên cho vay nông nghiệp, nông thôn so với hộ sản xuất, kinh doanh nói
chung đã chứng tỏ được thị trường nông nghiệp, nông thôn rất ổn định, hộ nông dân đúng
là người bạn đồng hành như NHNo&PTNT Việt Nam đã xác định từ lúc khai trương hoạt
động.
Xét về lợi ích kinh tế - xã hội tại địa phương, có những kết quả sau:
- Vốn tín dụng NHNo&PTNT đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tích cực, phù hợp với xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát
triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp. Đặc biệt vốn tín dụng tác động có hiệu quả để
cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát huy vai trò khai thác hàng hoá, sản phẩm, lao
động tại chỗ một cách tối đa nhằm phục vụ chủ trương của Đảng và Nhà nước về thành lập
khu kinh tế mở Chu Lai và khu kinh tế Dung Quất. Như: Chuyển dịch 250 ha mặt nước
mặn ở Vũng Lắm, Tam Anh Bắc sang nuôi tôm nước lợ. Chuyển 120 ha, từ làm ruộng khô
ở Tam Giang sang trồng đậu, mè. Chuyển 95 ha trồng lúa, màu ở Tam Xuân, sang trồng
hoa, cây cảnh.
- Quá trình đầu tư vốn vào khai thác hải sản đã góp phần nâng số lượng tàu trước
đây từ vài trăm chiếc chủ yếu nhỏ, với công suất máy từ 60CV trở xuống, đến năm 2005
đã lên hơn 1.045 chiếc, với loại tàu có công suất từ 60CV trở lên hàng trăm chiếc. Đặc biệt
tàu lớn từ 90CV đến 335 CV đã có khoảng 80 chiếc. Trên cơ sở đó góp phần đưa sản
lượng đánh bắt thuỷ sản năm 2001 là 15.500 tấn đến 2005 đạt 18.850 tấn. Giá trị mang lại
tăng lên hàng trăm tỷ đồng. Ngành khai thác hải sản là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện
nhà phát triển mạnh mẽ.
- Đồng thời tín dụng nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã khai thác tiềm
năng nuôi tôm từ chỗ sơ khai, tự phát đến nay đã lên hơn 1.700 ha. Diện tích nuôi tôm năm
2005 tăng hơn 2001 là 432 ha. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm 7,55%, với sản
lượng tôm nuôi hàng ngàn tấn mỗi năm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.
- Thông qua quá trình đầu tư tín dụng chẳng những góp phần khai thác tiềm lực
kinh tế qua sản xuất khai thác, nuôi trồng trong nông, ngư nghiệp tại địa phương đã góp
phần giải quyết cho hàng ngàn lao động có công ăn việc làm.
- Đầu tư tín dụng NHNo&PTNT cũng góp phần đáng kể vào phát triển sản xuất
kinh doanh, đầu tư đa dạng hoá các nghành nghề, góp phần đưa nhân dân huyện nhà vươn
lên làm giàu, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống.
- Tín dụng góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi tại địa phương, nhất là các địa
bàn xa trung tâm huyện, các địa phương xã có tỷ lệ hộ đói nghèo còn nhiều, giao thông
còn khó khăn, kinh tế hàng hoá kém phát triển như: Tam Sơn, Tam Trà, Tam Thạnh, Tam
Mỹ... Vốn NHNo&PTNT không chỉ trực tiếp đến với từng hộ mà còn thông qua các tổ vay
vốn thuộc: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên... Có thể nói, từ đó đã đẩy lùi
hàng tỷ đồng trước đây nông dân phải vay lãi cao, giúp họ giảm chi phí, tăng cường hiệu
quả và tích luỹ ngày càng tốt hơn.
- Đầu tư tín dụng tác động làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Tại Núi
Thành 100% xã có điện, giao thông phát triển mở rộng, đặc biệt là giao thông nông thôn.
Trường học, trạm y tế, bưu điện văn hoá xã và các điểm sinh hoạt công cộng được mở đều
khắp ở các xã, từ vùng biển, trung du đến miền núi. Nhờ kết cấu hạ tầng phát triển mà giao
lưu kinh tế, chính trị, văn hoá giữa vùng biển, vùng đồng bằng và vùng núi cao thông
thoáng, ngày càng mở rộng.
- Hệ quả của hoạt động NHNo&PTNT tác động tích cực đến người dân không chỉ
qua vay vốn phát triển kinh tế, phục vụ tiêu dùng mà còn giúp họ có cơ hội tiếp cận với
các dịch vụ ngân hàng khác như: Thanh toán, chuyển tiền, gửi tiết kiệm, kỳ phiếu v.v...
Quá trình đó làm cho họ sử dụng tốt hơn, hiệu quả hơn tài sản của mình. Chẳng hạn số tiền
tạm thời nhàn rỗi qua mùa vụ gửi vào NHNo&PTNT vừa sinh lời, vừa an toàn, qua đó còn
giúp họ thay đổi tâm lý giữ tiền trong hòm, két tại gia theo tư duy cổ điển, truyền thống
trong nông nghiệp, nông thôn trước đây.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt được kết quả khá tốt, tuy nhiên, trong những năm qua hoạt động tín
dụng của NHNo&PTNT phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn huyện Núi Thành còn
nhiều hạn chế:
- Dư nợ trung, dài hạn ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam 2.pdf