Tài liệu Luận văn Tìm hiểu thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay: LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp phát
triển Doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ
trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh
tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi căn bản, sự
tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Kinh tế quốc
doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời thừa nhận sự
tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nhận thức về
vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng được đổi mới.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta
luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn đề lý luận kinh tế
trung tâm của các đảng cộng sản....
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1023 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp phát
triển Doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ
trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh
tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi căn bản, sự
tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Kinh tế quốc
doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời thừa nhận sự
tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nhận thức về
vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng được đổi mới.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta
luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn đề lý luận kinh tế
trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn lãnh đạo đất nước xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay
lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả về nhận thức lý luận và thực tiễn.
ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định trong
cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước thì
khu vực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí đặc biệt. Nhưng thực
trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay thì chưa thể hiện
được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế, một số ngành, một số lĩnh vực
của doanh nghiệp nhà nước không năng động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có
nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ
chức và vận hành doanh nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp
nhà nước có thể thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân
thì vấn đề tất yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp
lý. Em chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam hiện
nay" để viết bài đề án Kinh tế chính trị.
CHƯƠNG I Một số vấn đề lý luận chung về
doanh nghiệp nhà nước
I / Tính tất yếu khách quan
1. Định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước ( DNNN )
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1995 thì DNNN là tổ chức kinh tế
do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc
công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN
có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý. DNNN là bộ
phận chủ yếu của khu vực kinh tế nhà nước – một lực lượng vật chất cơ bản, đảm
bảo cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước
2. Các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước
- Xét theo lĩnh vực hoạt động: Hoạt động trực tiếp trong sản xuất kinh doanh
hàng hoá dịch vụ và hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã
hội
- Xét về hình thức tổ chức: Khu vực KTNN bao gồm nhiều bộ phận hoạt động
trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi bộ phận có
chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của
khu vực KTNN ở một mức độ nhất định. Cụ thể như sau:
Ngân sách nhà nước:Thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm vụ
điều chỉnh quản lý, kiểm soạt các hoạt động của khu vực KTNN và các thành
phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Có tác dụng điều chỉnh,
quản lý, kiểm soát các hoạt động knh doanh tiền tệ, đặc biệt là xây dựng và tổ
chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế xã hội
Kho bạc nhà nước: Với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
đồng thời kiểm soát quá trình thu chi ngân sách
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực KTNN, nhằm bảo đảm
cho khu vực này hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực lượng vật
chất để nhà nước điều tiết, quản lý bình ổn giá thị trường, đảm bảo ổn định kinh tế
xã hội
Các tổ chức sự nghiệp có thu: Hoạt động gần giống như DNNN trong cung ứng
một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành chính công
Hệ thống DNNN: Đây là bộ phận chủ yếu then chốt của khu vực KTNN. Để
được gọi là một DNNN thì cần phải có ba điều kiện
Thứ nhất: nhà nước là cổ đông chính, có thể nhà nước sở hữu 100% vốn, sở
hữu cổ phần chi phối ( trên 51 % ) hoặc sở hữu cổ phần đặc biệt ( cổ phần quy
định quyền quản lý của nhà nước )
Thứ hai: doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để bán
Thứ ba: Có hoạch toán lỗi lãi
Nếu thiếu điều kiện một thì đó là doanh nghiệp tư nhân và thiếu điều kiện hai và
ba thì đó không phải là doanh nghiệp mà là cơ quan nhà nước
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN
3.1 Sự cần thiết của DNNN
Nhìn lại quá trình lịch sử, chúng ta đi lên từ cơ sở vật chất, kỹ thuật rất
nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế mất cân đối trầm trọng, lực lượng thù địch bao vây
cấm vận kinh tế triệt để. Trong hoàn cảnh đó chúng ta đã xây dựng một nền kinh
tế độc lập, tự chủ bằng biện pháp huy động nguồn lực lớn của đất nước và viện trợ
quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân dưới hình
thức DNNN làm nòng cốt, cùng với khu vực kinh tế hợp tác xã làm nền tảng đáp
ứng những nhu cầu của xã hội. Thực tiễn đã chứng minh trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước nếu không phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã để
xây dựng hậu phương vững mạnh, giải quyết hậu cần tại chỗ thì không thể huy
động tổng lực của dân tộc, chi viện cho tiền tuyến để tiến tới thắng lợi hoàn toàn.
Sau khi thống nhất đất nước nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi lệnh bao vây
cấm vận kinh tế của đế quốc Mỹ, sự duy trì quá lâu của cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp trong điều xây dựng hoà bình và sau đó là sự tan rã của hệ thống XHCN.
Đại hội VI đã đề ra chủ trương đổi mới và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay
kiên trì với chủ trương này nền kinh tế của nước ta đã phát triển khá cao trong
nhiều năm và thoát khỏi khủng hoảng đảm bảo được những cân đối lớn, từng bước
cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị xã hội tạo thế và lực mới
để tiếp tục đưa sự nghiệp mới đi lên
Nếu nhìn hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đóng góp của DNNN hiện
nay rõ ràng là DNNN đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước
ta, thể hiện trên những nét chủ yếu sau:
- DNNN đang nắm giữ một số ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, nắm
toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có tính huyết mạch, hầu hết các
doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp trong các ngành xây dựng ( về giao thông,
thuỷ lợi, công nghiệp và dân dụng ), cơ khí chế tạo máy, luyện kim, xi măng, điện
tử, hoá chất, điện dầu khí, thông tin liên lạc, vận tải đường sắt, đường biển, đường
không, ô tô ... , sản xuất hàng công nghệ tiêu dùng, chế biến nông thuỷ, hải sản,
nắm giữ một tỉ lệ quan trọng trong những ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại
nhập khẩu chiếm thị phần áp đảo trong huy đọng vốn và cho vay
Phần của DNNN trong GDP chiếm tỷ trọng năm 1992 là 40.12%, năm 1996 là
39.9%, năm 1998 là 41.2%, năm 1999 là 40.2%, năm 2000 là 39.5%. Cụthể trọng
phần DNNN trong một số ngành như: 80% công nghệ khai thác, trên 60% công
nghệ chế biến, trên 90%công nghệ điện – gas– dầu khí – cung cấp nước, trên 82%
vận chuyển hàng hoá, 50% vận hành khách, chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong sản
xuất phân bón hoá học 99.8%, thuốc trừ sâu 93.6%, axít sunfuric và xút 100%, lốp
ô tô 100%, lốp xe đạp 80%, pin 100%, chế tạo động cơ điezel loại nhỏ 100%, 85%
năng lực kéo sợi, 50% năng lực dệt thoi, 30% năng lực dệt kim và khoảng dưới
50% năng lực may mặc, giầy dép, chiếm tỷ trọng 70% bán buôn, 20% bán lẻ. Hệ
thống các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm tỷ phần áp đảo trong huy động
vốn chiếm 80% thị phần và cho vay 74% thị phần đối với nền kinh tế Các DNNN
đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết quan hệ cung cầu, ổn định giá cả, chống
lạm pháp, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường
DNNN chiếm một phần rất quan trọng trong xuất nhập khẩu, trong đó DNNN
giữ tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế xuất khẩu, riêng công nghiệp năm 1999 đã
xuất khẩu được 6.17 tỷ USD ( chủ yếu do các DNNN ), chiếm 54% tổng kim
ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế, tổng công ty lương thực miền nam xuất
khẩu gạo chiếm 60-70% so với cả nước.
Đóng góp nguồn thu nhập lớn và ổn định cho ngân sách nhà nước năm 1999
thuế thu từ DNNN ( thuế VAT , thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền sử dụng vốn )
chiếm 39.25%, riêng 17 TCT năm 1999 nộp ngân sách nhà nước 23478 tỷ đồng,
tăng 20.7% so với năm 1998. Năm 2000 DNNN chiếm 39.2% tổng thu ngân sách
cả nước
Trong khi nhà nước không đủ vốn ngân sách, cấp vốn lưu động cho kinh
doanh của DNNN theo quy định thì nhiều doanh nghiệp đã tiết kiệm, hình thành
vốn tự bổ xung, năng động tìm vốn bên ngoài bao gồm vốn vay của tổ chức tín
dụng và vay của công nhân viên trong doanh nghiệp. Vốn tự tích luỹ, tự bổ xung
chiếm 27.8% tổng vốn nhà nước của DNNN đến cuối năm 2000, vốn tự bổ xung
của 17 TCT là 18038 tỷ đồng, chiếm 2205% tổng số vốn nhà nước của TCT 91
Trong lúc các thành phần kinh tế khác chưa vươn lên được thì DNNN là đối tác
chính trong liên doanh, liên kết với bên ngoài, đồng thời DNNN cũng thực hiện hạ
tầng kỹ thuật cần thiết để thu hút các doanh nghiệp có vốn trong nước và ngoaì
nước đầu tư
DNNN đã tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, là một trong nhân tố có tầm quan
trọng quyết định đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, hàng hoá, chuyển
từ thiếu sang đáp ứng được nhu cầu cơ bản nông sản, thực phẩm chất lượng ngày
một cao của nhân dân và có phần xuất khẩu, chủ yếu thông qua việc xây dựng các
công trình thuỷ lợi cung cấp điện, xây dựng các đường giao thông huyết mạch,
cung cấp giống cây trồng, con, chuyển giao kỹ thuật và bước đầu phát triển công
nghệ chế biến. Một số nông, lâm trường đã phát huy được vai trò trung tâm kinh
tế, văn hoá, chuyển giao công nghệ trên địa bàn.
Điển hình như trường Sông Hậu trả lương cho 130 giáo viên và xây dựng cơ sở
trường lớp cho 3000 học sinh từ mẫu giáo đến trung học, công ty chè Mộc Châu
hàng năm đầu tư 100 triệu để sửa chữa và xây mới trường học, nhà trẻ, mẫu giáo,
cải tạo 705 km đường giao thông liên bản, tổng công ty cà phê từ năm 1996 đén
nay dã đàu tư hàng 100 tỷ để xây dựng 100 km đường giao thông ( có 25 km
đường nhựa ), 150 km đường điện trung hạ thế, 50000 m2 trường học, 20000 m2
nhà trẻ mẫu giáo, làm mới và nâng cấp 58 hồ, đập
Hỗ trợ cho sự phát triển các vùng miền núi và các vùng xa, vùng sâu. ở đó hiệu
quả đầu tư kinh doanh thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, có nhiều rủi ro kinh doanh
nhưng lại là vùng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của quốc gia và thực hiện
các chính sách dân tộc của đảng
Khu vực DNNN nhiều năm qua cũng là nơi tập trung và đào luyện một bộ phận
quan trọng trong đội ngũ giai cấp công nhân và cung cấp nhiều cán bộ lãnh đạo ưu
tú, trung kiên cho đảng nhà nước và quân đội
DNNN cũng thức sự đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương: uống nước nhớ
nguồn, xoá đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả cảu những vùng bị thiên tai, cứu
trợ xã hội, tham gia các hoạt động nhân đạo từ thiện, nhường cơm xẻ áo
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN
Tại hội nghị thứ ba ban chấp hành trung ương đảng khoá IX đồng chí bí thư
Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu bế nạc hội nghị, trong đó đồng chí tổng bí thư
đã nêu lên tâm quan trọng của DNNN và sự đổi mới DNNN trong tình hình nước
ta hiện nay.
Tại hội nghị trung ưong đã dành phàn lớn thời gian để thảo luận và thông qua
nghị quyết: “ Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của
DNNN”. Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế của đảng. Tổng
kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
trong thời mới. Đại hội lần thứ IX của đảng đã khẳng định “ kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng
và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ
vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu
gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Hội nghị trung ương lần này bàn và ra nghị quyết để thực hiện nghị quyết đại hội
đảng, bảo đảm DNNN có vị trí then chốt góp phần chủ yếu để KTNN làm tốt vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng
cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đề án và tờ trình của Bộ chính
trị, trung ương đã tập trung thảo luận về đánh giá hoạt động của DNNN trong
những năm đổi mới, xác định quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Bộ chính trị đã trình bầy
ý kiến tiếp thu những vấn đề mà đại đa số các đại biểu đã nêu. Trong quá trình đổi
mới đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần để góp phần phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh cong nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất
quán, lâu dài trong cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để thực hiện có hiệu quả chính
sách đó trung ương có trách nhiệm xây dựng phương hướng, nội dung, giải pháp
cụ thể của từng thành phần kinh tế theo tinh thần nghị quyết của đại hội đảng.
Trung ương bàn việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN là để góp phần bảo đảm cho KTNN giữ vững vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân, một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần, chứ không hề coi nhẹ việc phát triển các thành phần kinh tế
khác. Chúng ta đã có nhiều chủ trương tạo thuận lợi cho các loại hình doanh
nghiệp ra đời và phát triển trong khuôn khổ luật pháp giúp các doanh nghiệp có
thêm điều kiện tiếp cận thị trường trong nước và thế giới chuẩn bị cho việc thực
hiện các cam kết trong quá trình chủ động hội nhập có hiệu quả kinh tế quốc tế.
Sắp tới chúng ta sẽ tiếp tục xây dựng các chính sách nhằm phát huy sức mạnh của
các thành phần kt theo đường lối của đảng
Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là việc mà ban
chấp hành trung ương nhiều khoá đã quan tâm, được tiến hành ngay từ thời kỳ đổi
mới và nhất là trong 10 năm qua. Đánh giá những việc làm được cũng như chưa
làm được còn có những ý kiến khác nhau nhưng chủ yếu là khác nhau về múc độ
vì trong thực tế còn có những yếu tố chưa được xem xét đầy đủ, tuy nhiên khi
đánh giá cần dựa trên quan điểm lịch sử, xét tới bối cảnh thế giới, trong nước hơn
10 năm qua và hiệu quả kinh tế chính trị, xã hội, để nhìn nhận đúng mức vai trò và
sự đóng góp của DNNN trong thời kỳ đổi mới. Trong thời gian qua chúng ta đã
hoàn thành khung pháp lý tương đối cơ bản để chuyển DNNN sang kinh doanh
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xác lập dần quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh xoá dần bao cấp, bảo đảm các chính
sách xã hội trong quá trình sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN. Nhiều DNNN đã đứng vững trước những thử thách to lớn, từng bước
được sắp xếp, đổi mới, phát triển ngày càng thích ứng hơn trong quá trình chuyển
sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, số doanh nghiệp làm ăn có
lãi, có tích luỹ tăng lên, nhìn chung đã có những chuyển biến tích cực cả về vai trò
cơ cấu năng lực và hiệu quả. Đồng thời trung ương cũng đã chỉ ra những mặt tồn
tại như môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, các yếu tố cuỉa thị trường hình thành
chưa đồng bộ, cơ chế quản lý vĩ mô còn những điểm chưa phù hợp, DNNN chưa
thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ, thực hiện hoạch toán kinh doanh, chưa
sử lý tốt mối quan hệ về lợi ích của doanh nghiệp, chưa tạo được động lực mạnh
mẽ và xác định động lực rõ ràng để DNNN hoạt động năng động, có hiệu quả
ngày càng cao, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có
và sự đàu tư của nhà nước, cồn nhiều DNNN thua lỗ, công nợ nặng nề, phần lớn
công nghệ lạc hậu, lao động dôi dư còn nhiều, vai trò lãnh đạo của đảng chưa
ngang tầm và còn yếu kém, sự yếu kém của không ít DNNN do nhiều nguyên
nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhận rõ những yếu kém là để
quyết tâm sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Chúng ta không thể
chấp nhận quan điểm coi trọng DNNN thì “tất yếu dẫn tới kém hiệu quả” như một
số ý kiến nêu lên ở nơi này nơi khác. Những ý kiến như thế xuất phát từ định kiến,
thiếu khách quan sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của DNNN, không quan tâm tiếp tục
sắp xếp đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả của DNNN
Như đã trình bày ở trên việc tiếp tục, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả
DNNN là vấn đề kinh tế nhưng có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nghị quyết có nhiều
nội dung đề cập các vấn đề sắp xếp, hoàn thiện hơn nữa tổ chức và quản lý, xác
định những việc cần phải làm để tạo động lực mới cho DNNN, đẩy mạnh thực
hiện cổ phần hoá, coi đây là một khâu quan trọng để tiếp tục đổi mới và nâng cao
hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN. Mỗi nội dung đều cụ thể hoá các mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ đã ghi trong nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của đảng; nhưng vì là vấn đề lớn về chính trị cho nên nghị quyết đã nêu
những quan điểm chỉ đạo. Các quan điểm chỉ đạo đó phải được quán triệt trong
việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Trung ương khẳng định
tư tưởng của nghị quyết đại hội IX, xác định vai trò chủ đạo của KTNN, xác định
DNNN là lực lượng nòng cốt của KTNN, giữ vị trí thên chốt trong nền kinh tế, là
công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. KTNN, DNNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát triển và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Vì vậy
DNNN phải không ngừng được sắp xếp, đổimới, phát triển, có trình độ công nghệ
và quản lý tiên tiến, không ngừng nâng cao hiệu quả. Trên cơ sở các quan điểm đó
mà thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu DNNN, chuyển các DNNN sang thực sự kinh
doanh theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế
khác
Đã là doanh nghiệp phải tính đến hiệu quả kinh doanh. Việc sắp xếp, đổi mới,
phát triển các DNNN đều hướng tới nâng cao hiệu quả, vì có hiệu quả mới có thể
nêu gương, hướng dẫn và góp phần tăng tiềm lực KTNN để giữ vững vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, và một nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa phải được xem xét đến hiệu quả kinh tế xã hội tổng thể hướng tới mục tiêu
của CNXH
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là vấn đề rất hệ trọng
trong đường lối phát triển kinh tế, đồng thời rất nhạy cảm về chính trị, liên quan
tới sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quá trình nhà nước thực
hiện có nhiều vấn đề mới đặt ra. Do đó vừa phải tiến hành đồng bộ, khẩn trương
nhưng vẫn phải vững chắc, có chương trình, kế hoạch cụ thể, có trọng tâm, trọng
điểm, bước đi phù hợp, vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, boả đảm ổn định và
phát triển. Việc gì đã rõ, đã có nghị quyết thì phải triển khai thực hiện kiên quyết
khẩn trương. Vấn đề gì chưa đủ rõ thì phải tiếp tục nghiên cứu; tổ chức làm thí
điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để có bước đi thích hợp, vừa tích cực vừa
vững chắc, phù hợp với luật pháp. Đó là tinh thân của các giải pháp trong nghị
quyết. Vì là việc rất hệ trọng cho nên các cấp uỷ đảng phải tăng cường kiểm tra
việc tổ chức thực hiện, kịp thời phát huy ưư điểm, uốn nắn các lệnh lạc. Cùng với
các quá trình trên phải nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm xây dựng mô hình tổ
chức đảng, tổ chức công đoàn và các đoàn thể chính trị trong các loại hình DNNN.
Đặc coi trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp giỏi, có phẩm chất và năng lực, nghiệp vụ vững vàng; đội ngũ cán bộ kỹ
thuật, công nhân có tay nghề cao; chú trong chăm sóc đời sống công nhân và phát
huy quyền làm chủ của công nhân trong các doanh nghiệp. Trong quá trình sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp, các cấp uỷ đảng phải hết sức quan tâm giải quyết tốt
các vấn đề xã hội đặt ra, không để khó khăn cho người lao động và doanh nghiệp
Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu ký tưỏng của đảng ta. Mục tiêu đó
không chỉ thể hiện trong phương hướng cơ bản mà còn thể hiện trong những chủ
trương, việc làm cụ thể. Đại hội IX của đảng đã thông qua kế hoạch 5 năm, chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 10 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và
trong 20 năm về cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN trong những năm đầu của thế
kỷ XXI đã được đại hội xác định. Ban chấp hành trung ương được đại hội tín
nhiệm bầu ra, có trách nhiệm tổ chức thực hiện tốt nhất nghị quyết đại hội; trên cơ
sở thống nhất nhận thức để đi đến hành động thống nhất, lời nói đi đôi với việc
làm, kết hợp thực hiện những nhiệm vụ cơ bản lâu dài với những việc cụ thể, trước
mắt giành thắng lợi cho từng năm theo mục tiêu, nhiệm vụ đại hội đề ra. Từ nay
đến cuối năm phải tập trung hết sức thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế – xã hội năm
2001, năm mở đầu thực hiện nghị quyết đại hội đảng, vì bên cạnh những thuận lợi
đang có không ít khó khăn và nhiều vấn đề mới phải giải quyết, đồng thời cần theo
dõi chặt chẽ, quan tâm việc phòng chống thiên tai. Triển khai ngay việc thực hiện
chỉ thị của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây, chỉnh đốn đảng
gắn liền với cải cách hành chính nhà nước, triển khai và thực hiện đồng bộ các giải
pháp chống tham nhũng đang nổi lên với tinh thân thẳng thắn, công minh, để
người có khuyết điểm phải được phê bình, chịu kỷ luật, người có tội phải bị sử tội,
bất kể họ là ai; giải quyết những bức xúc về các tệ nạn xã hội, các sản phẩm văn
hoá đồi truỵ đang lan tràn ngoài xã hội ... Đó là những việc trước mắt cần thực
hiện tốt, kinh tế – xã hội tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, nạn
tham nhũng và các tệ nạn xã hội được đẩy lùi một bước ... sẽ tạo đà phấn khởi
trong xã hội, thể hiện trách nhiệm của ban chấp hành trung ương đối với toàn đảng
và toàn xã hội .
II. Vai trò then chốt của DNNN
Lực lượng DNNN hàng năm đóng góp khoảng 40% trong cơ cấu GDP của
nước ta, chiếm giữ khoảng 70% vốn và tài sản cố định của nền kinh tế. DNNN
đang là lực lượng chủ yếu trong sản xuất công nghiệp, trong hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tín dụng. Nhìn chung lực
lượng DNNN đang là lực lượng then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của
đất nước, cá biệt có một số ngành có vị trí độc quyền kinh doanh. Từ năm 1995
hàng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế trong nước, nếu tính cả
các khoản thu thuế và phí được thu thôngqua DNNN thì đóng góp khỏng 60% các
nguồn thu thuế và phí được thu thông qua DNNN. DNNN đang sử dụng khoảng
15% lực lượng lao động trong các ngành phi nông nghiệp. Mức tăng trưởng hàng
năm của DNNN xấp xỉ mức tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng xấp xỉ ngoài
quốc doanh trong nước. Tóm lại: nếu chỉ xét về quy mô, tài sản sự đóng góp vào
GDP và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, nguồn thu ngân sách nhà nước
thì DNNN vẫn có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế nước ta.
CHƯƠNG II
Thực trạng DNNN ở nước ta hiện nay
I / Quá trình đổi mới DNNN
ở nước ta, quá trình đổi mới DNNN gắn liền với đổi mới kinh tế nói chung và
đổi mới DNNN luôn là khâu trung tâm của đổi mới kinh tế. Đổi mới DNNN bao
gồm hai mặt: mặt thứ nhất chủ gồm đổi mới cơ chế quản lý đối với DNNN ( quan
hệ quản lý nhà nước – doanh nghiệp, mức độ, hình thức phân quyền, giao quyền tự
chủ cho doanh nghiệp trên các mặt như kế hoạch, tài chính, thị trường, đầu tư, sử
dụng lao động ...). Mặt thứ hai liên quan đến sắp xếp tổ chức lại các DNNN ( sáp
nhập, chia, tách, cổ phần hoá, đa dạng hóa sở hữu, thành lập tổng công ty ... ).
Trong các đợt, giai đoạn, thời kỳ khác nhau của quá trình đổi mới, do các yếu tố
khách quan và chủ quan quy định, việc đổi mới DNNN được tiến hành đồng thời
kết hợp hai mặt nêu trên hoặc chỉ thiên về một mặt nào đó .
Từ năm 1979, DNNN ở Việt nam mới thực sự được coi như một đối tượng đổi
mới. Những bước tổ chức sắo xếp, phát triển DNNN trước năm 1979 về cơ bản chỉ
là những biện pháp có tính chất hành chính trong bố trí, sắp xếp, phân bổ các
DNNN giữa các bộ, các địa phương và các liên hiệp xí nghiệp, do đó chúng chỉ
được coi là những biện pháp cải tiến quản lý trong mô hình kế hoạch hoá tập trung
mang tính chất bao cấp, thu đủ, chi đủ, phù hợp với cơ chế quản lý và mô hình
kinh tế cũ. Do vậy quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta có thể chia thành ba giai
đoạn
1. Giai đoạn 1980 – 1986
Giai đoạn đổi mới này gắn liền với đổi mới quan điểm của đảng và nhà
nước về quản lý kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Cơ chế quản lý cũ đã tỏ ra
kìm hãm sức sản xuất, triệt tiêu động cơ phát triển, hậu quả là nền kinh tế trì trệ,
tụt dốc, khủng hoảng, đời sống nhân dân xa sút. Các DNNN ngày càng xa sút.
Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ sáu khoá IV tháng 9 – 1979 đã ra nghị
quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách đánh giá tình hình thực tiễn và những
yêu cầu bức thiết của xã hội, trong đó nhấn mạnh phải “ cải tiến chính sách phân
phối, lưu thông ( giá, lương, tài chính, ngân hàng ). Tiếp đó Chính phủ đã ban
hành các quyết định có liên quan để điều hành nền kinh tế nói chung và các
DNNN nói riêng như quyết định số 25/CP tháng 1-1981 về kế hoạch ba phần,
quyết định số 26 /CP tháng 2-1981 về phân phối lưu thông ... Nghị quyết trung
ương 6 khoá IV và quyết định 25/CP là bước tiến đầu tiên trong việc cơ chế quản
lý các DNNN từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sau đó là
các quyết định quan trọng như quyết định số 146/HĐBT tháng 2-1982; nghị quyết
306 ( dự thảo ) của Bộ Chính trị và quyết định 16/HĐBT tháng 6-1986 đều đưa ra
những quan điểm và biện pháp đổi mới quản lý DNNN trong điều kiện cải tiến ,
cơ chế quản lý nói chung.
Các biện pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập trung vào tháo gỡ những
vướng mắc, rào cản vô lý của cơ chế cũ, do đó có tác dụng như cởi trói, giải
phóng năng lực sản xuất của các DNNN và cùng với các biện pháp khoán trong
nông nghiệp, cải cách phân phối lưu thông đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất nói
chung, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tụt dốc. Đối với các DNNN, việc
cho phép các đơn vị tự chủ bố trí các nguồn lực sản xuất theo kế hoạch ba phần
đã có ý nghĩa rất quan trọng trong phát huy sáng tạo của cơ sở, từng bước đưa
các yếu tố thị trường vào cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp
giai đoạn này vẫn mang tính nửa vời, chắp vá ( biểu hiện ở kế hoạch ba phần, cơ
chế song trùng ) dẫn đến hệ quả khó hạch toán, khó kiểm soát, khó đánh giá, lợi
dụng sự rối rắm của cơ chế quản lý để trục lợi, trong khi năng lực sản xuất và sức
sáng tạo vẫn chưa thực sự được giải phóng.
2. Giai đoạn 1986 – 1990
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng năm 986 đánh dấu bước
ngoặt cơ bản trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung ởt nước ta, trong đó có đổi
mới DNNN. Đại hội chỉ rõ: “ phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị
kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản
xuất, tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả. Trên cơ sở đó, ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của
công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho nhà nước”. Đại hội VI
vẫn tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của DNNN nhưng đã đưa ra quan điểm coi
chủ đạo không có nghĩa là phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi địa
phương mà thể hiện ở “ năng suất, chất lượng, hiệu quả”
Sau đại hội đảng lần thứ VI, đổi mới DNNN thực sự trở thành nội dung trung
tâm của tiến trình đổi mới toàn bộ hệ thống kinh tế theo hướng nhất quán chuyển
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất xã
hội. Tháng 11 – 1987 Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ ) ban hành quyết
định 217/HĐBT đánh dấu bước đổi mới cơ bản DNNN theo hướng áp dụng cơ chế
mới. Tiếp theo là các nghị định 50/HĐBT(3-1988) bổ sung quyết định 217, nghị
định 27/HĐBT ( 3-1989 ) ban hành điều lệ xí nghiệp quốc doanh ( DNNN ) ... đã
thúc đẩy tiếp quá trình đổi mới DNNN.
Giai đoạn này đối với DNNN lầ giai đoạn bước ngoặt đưa các DNNN chuyển
hẳn sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường hay gọi là quá trình
thương mại hoá có tác dụng bắt buộc các doanh nghiệp phải định hướng vào thị
trường, đồng thời tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong các quyết định kinh
doanh. Về mặt quan hệ với nhà nước, trong giai đoạn này hệ thống quan hệ kế
hoạch dần dần chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế hoạch gián tiếp, do đó các
DNNN từ chỗ phải hoạt động theo kế hoạch với 9 chỉ tiêu pháp lệnh dần dần bãi
bỏ chỉ còn 1 chỉ tiêu nộp ngân sách, xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nước, bãi bỏ
chế độ 2 giá, hạch toán kinh doanh theo giá thị trường. Về quản lý, quyết định
217/HĐBT trao quyền tự chủ rất rộng rãi cho doanh nghiệp mà hầu như không có
biện pháp kiểm soát tương ứng. Các doanh nghiệp lại trao quyền tự chủ cho các bộ
phận, chi nhánh của mình trong tìm kiếm, ký hợp đồng và tổ chức sản xuất kinh
doanh với các khách hàng dẫn đến tình trạng “trăm hoa đua nở” rất sôi động
nhưng cũng rất phức tạp, khó quản lý về mặt nhà nước .
Điều đáng chú ý trong giai đoạn này là thực hiện chủ trương phân cấp, nhà
nước, trung ương giao quyền cho chính quyền các địa phương ra quyết định thành
lập các DNNN. Vì vậy chỉ trong vòng 4 năm số lượng DNNN tăng lên gần gấp 2
lần, đưa số DNNN của Việt nam lên 12084, trong đó đến 60% là các doanh nghiệp
do địa phương quản lý. Rất nhiều DNNN do chính quyền địa phương quyết định
thành lập hầu như không được cấp vốn, chủ yếu hoạt bằng vốn vay ngân hàng.
Nhìn chung, các DNNN giai đoạn này đã từng bước đổi mới. Một bộ phận
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngược lại một bộ phận khác không thích
nghi được với thị trường, thua lỗ triền miên, trở thành gánh nặng cho ngân sách
nhà nước. Về tổng thể khu vực DNNN vẫn được giữ vai trò chủ đạo của mình,
chiếm trên dưới 35% GDP và 60% nộp ngân sách nhà nước .
3. Giai đoạn 1990 đến nay
Tiếp tục đường lối đổi mới kinh tế, đại hội toàn quốc lần thứ VII năm 1991
đã chủ trương: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh,
bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và
ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng
củng cố và phát triển những cơ sở trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và
có ý nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc
giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên. sắp xếp lại các
liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong
cơ chế thị trường” và “khu vực quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công
nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ
mô của nhà nước.
Đại hội VIII của đảng năm 1996 tiếp tục khẳng định: “ tiếp tục đổi mới và phát
triển có hiệu quả KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ
các thành phần khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”.
Thực hiện đường lối đổi mới của đảng, Chính phủ đã ra hàng loạt quyết định
về đổi mới DNNN và trên thực tế đã tổ chức thực hiện hàng loạt biện pháp rất
mạnh trên cả hai mảng: sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý DNNN. Đó
là quyết định 315/HĐBT(9-1990), nghị định 388/HĐBT (11-1991), các quyết định
90 và 91/TTg (3-1994), luật doanh nghiệp nhà nước (4-1995), chỉ thị 500/TTg (8-
1995), nghị định 28/CP (5-1996), nghị định 56/CP ( 10-1996), nghị định 59/CP (
10-1996), nghị định 50/CP (8-1996), chỉ thị 20/TTg (4-1998) và nghị định 44/CP
(6-1998); đồng thời từng bước làm rõ thêm quan hệ quản lý giữa nhà nước và
doanh nghiệp.
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN
Theo quyết định 315/HĐBT các doanh nghiệp phải rà soát lại chức năng hoạt
động kinh doanh, rà soát lại các yếu tố sản xuất kinh doanh như: thị trường, công
nghệ, vốn, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy và cán bộ, soát xét lại tình hình tài
chính doanh nghiệp, chấp hành kỷ luật tài chính, kế toán, thống kê. Những xí
nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm, không thực hiện được nhiệm vụ kinh
doanh, liên tiếp bị lỗ trong thời gian dài, không có khả năng thanh toán và không
thể khắc phục bằng các biện pháp như chuyển hướng sản xuất, thay đổi mặt hàng,
đầu tư trang bị lại, cũng như các biện pháp về chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất
kinh doanh với sự hỗ trợ của cấp trên ... có thể bị tuyên bố giải thể.
Theo nghị định 388/HĐBT, các DNNN phải được thành lập lại, đăng ký lại để
loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Như vậy, nghị định 388 như
một giải pháp hợp pháp hoá, chính thức hoá để công nhận các DNNN tồn tại được
trong cơ chế thị trường; đồng thời loại bỏ những doanh nghiệp đã bị thị trường
loại bỏ trên thực tế nhưng vẫn tồn tại trên danh nghĩa. Các ngành, các địa phương
đã khẩn trương triển khai và coi đây là một công tác quan trọng nhằm thúc đẩy tổ
chức và sắp xếp lại một bước để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Điểm
mới trong chủ trương này là lần đầu quy định các điều kiện tối thiểu về vốn pháp
định, ngành nghề kinh doanh, luận chứng về thị trường tiêu thụ sản phẩm trong
việc thành lập DNNN. Thực hiện nghị định 388/HĐBT các bộ, địa phương và
từng doanh nghiệp tiến hành rà soát lại tổ chức của từng đơn vị để tổ chức theo
đúng chức năng, nhiệm vụ được quy định vừa đảm bảo quyền tự chư sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp vừa đảm bảo sự kiểm tra giám sát của nhà nước
Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành tháng 4-1995 và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã tạo ra cơ sở pháp lý tổng quát trong quan hệ giữa
DNNN và nhà nước.
Về các nội dung cụ thể của cơ chế, đáng chú ý là hai mảng: tài chính và lao
động. Nghị định 59/CP ( 1996), sau đó là nghị định 27/CP (1999) bổ sung, sửa đổi
nghị định 59 nhằm xác lập cơ chế tài chính đối với DNNN. Theo các nghị định
này, một loạt biện pháp được áp dụng: chuyển chế độ cấp vốn sang chế độ giao
nhận vốn, chuyển từ định mức vốn sang chế độ xác định vốn điều lệ cho doanh
nghiệp, tăng quyền tự chủ tài chính đồng thời gắn với trách nhiệm bảo toàn vốn,
áp dụng một loạt hình thức tài chính mới như bán trái phiếu, lập các quỹ dự trữ tài
chính, quỹ dự phòng mất việc làm ... Về cơ chế sử dụng lao động, theo tinh thần
bộ luật lao động (12-1994) đã có một loạt quyết định cho phép DNNN tăng quyền
tự chủ trong sử dụng lao động và trả lương: chuyển chế độ biên chế sang hợp
đồng, áp dụng cơ chế quản lý theo lương tối thiểu, cơ chế tuyển dụng, thôi việc
thoả ước tập thể ...
3.2 Sắp xếp lại DNNN
Trong giai đoạn 1991-1993 theo quyết định 315/HĐBT tháng 9 năm 1990 về
giải thể và tổ chức lại những DNNN yếu kém, nghị định 388/HĐBT tháng 11 năm
1991 về nguyên tắc và điều kiện là thành lập lại DNNN, quyết định số 202/CP
ngày 8 tháng 6 năm 1992 thí điểm cổ phần hoá một số DNNN.
Trong giai đoạn 1994-1997, theo quyết định số 90/TTg và 91/TTg và chỉ thị
500/TTg về sắp xếp các DNNN giải thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty
trước đây, hình thành những tổng công ty có quy mô lớn( tổng công ty 91) va quy
mô vừa(tổng công ty 90), nghị định 28/CP( 5-1996) về chuyển đổi một số DNNN
thành công ty cổ phần.
Từ giữ những năm 1998 đến nay, theo chỉ thị 20/CT-TTg ( 4-1998), chỉ thị
15/CT-TTg ( 5-1999) và nghị định 44/CP về cổ phần hoá kết hợp phương án tổng
thể sắp xếp DNNN. Có ba nội dung cơ bản về sắp xếp tổ chức lại DNNN được
nhấn mạnh là: sắp xếp DNNN theo phương án tổng thể từng vùng, ngành,tổ chức
lại tổng công ty theo hướng thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế : cổ phần hoá
DNNN. Nghị định số 103/1999/NĐ-CP về giao , bán, khoán, cho thuê DNNN có
vốn dưới 1tỷ đồng kinh doanh thua lỗ kéo dài thuộc ngành nhà nước không cần
nắm giữ cổ phần đã được ban hành ngày 10-9-1999 để có cơ sắp xếp các DNNN
nhỏ, yếu kém.
Giữa năm 2000 theo số liệu của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương, đã
giảm được trên một nửa số đầu mối DNNN, tổng số từ trên 12000 doanh nghiệp
giảm xuống còn 5280 doanh nghiệp, trong đó có 732 doanh nghiệp công ích và
4548 doanh nghiệp kinh doanh. Như vậy số DNNN đã giảm trên một nửa, trong
đó 48% là sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn hơn, hiệu quả hơn, 52% giải thể.
Mặc dù vậy tỷ trọng DNNN trong tổng sản phẩm quốc nội vẫn tăng từ 36.5% năm
1991 lên 40.7% năm 1998, và tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước , lợi nhuận trên vốn
nhà nước đều tăng lên đáng kể.
Như vậy khu vực DNNN nói chung sau khi xác lập cơ chế quản lý mới và tổ
chức sắp xếp lại vẫn phát triển khá. Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm của kinh tế quốc doanh là 11.7%, gần gấp rưỡi tốc độ tăng
trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gấp đôi kinh tế ngoài quốc doanh
Việc sắp xếp các DNNN đã góp phần thay đổi một bước cơ cấu vốn và lao động
của doanh nghiệp, có tác động nhất định đến quá trình tích luỹ và tập trung. Và
bằng những chính sách hỗ trợ phù hợp chúng ta đã giải quyết được cơ bản vấn đề
trợ cấp và bảo đảm chính sách cho 600000 công nhân giảm biên chế trong hai đợt
sắp xếp; đồng thời lại tuyển dụng mới một số lượng gần tương đương.
Để đẩy mạnh sắp xếp lại DNNN, theo tinh thần nghị quyết hội nghị ban chấp
hành trung ương lần thứ tư khoá VIII, thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị số
20/1998/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 1998 thì vấn đề trọng tâm là tổ chức phân
loại DNNN dựa trên sự nắm vững và phân tích tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp trong ba năm gần đây nhất để tổ chức lại sản xuất kinh doanh cho phù hợp
với từng loại, DNNN được phân thành ba nhóm: nhóm một gồm những doanh
nghiệp quan trọng, cần duy trì hoạt động theo luật DNNN để phát huy vai trò nòng
cốt và dẫn dắt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những doanh nghiệp
thuộc loại này duy trì 100% vốn nhà nước. Nhóm hai gồm những doanh nghiệp
cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu, là những doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn
nhà nước. Nhóm ba gồm những doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài cần được sử lý
thích hợp
Theo các chủ trương, quyết định, hướng dẫn của nhà nước phương hướng xử lý
các doanh nghiệp sau khi phân loại quy mô lớn và trunh bình như sau:
- Đối vớidoanh nghiệp hoạt động công ích: những doanh nghiệp nào có đủ điều
kiện hạch toántheo quy mô doanh nghiệp thì tiếp tục duy trì 100% sở hữu nhà
nước và thực hiện các cính sách hỗ trợ đối với những nhiệm vụ mà nhà nước giao.
Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn vốn và được quyền huy động thêm các
nguồn vốn khác theo quy định của nhà nước, được trích lập 3 quỹ trên cơ sở hoàn
thành định mức chi phí do nhà nước quy định và thực hiện cơ chế quản lý như
doanh nghiệp. Còn những DNNN công ích quá nhỏ có thể thực hiện phương thức
giao khoán cho tập thể lao động hoặc cho các thành phần kinh tế khác đấu thầu
quản lý thực hiện hợp đồng của nhà nước.
- Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: trừ lĩnh vực nhà nước độc quyền
kinh doanh cần giữ sở hữu nhà nước, còn lại các doanh nghiệp có quy mô vừa và
lớn đang hoạt động có hiệu quả sẽ mạnh dạn cổ phần hoá và cho phép doanh
nghiệp tự quyết định cơ cấu sở hữu trong quá trình cổ phần hoá, không cần duy trì
tỷ lệ cổ phần khống chế của nhà nước hoặc duy trì một phần giai đoạn đầu rồi có
thể bán tiếp trong quá trình hoạt động sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
- Những DNNN không thuộc diện độc quyền nhà nước, đang bị thua lỗ và những
DNNN quá nhỏ không thể cổ phần hoá được thì áp dụng phương thức giao, bán,
khoán, cho thuê, đấu thầu doanh nghiệp theo những điều kiện quy định của nhà
nước. Đối với những DNNN đang lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn 2-3 năm liên tục, sau khi đã áp dụng các biện pháp khắc phục vẫn không
có chuyển biến tích cực thì kiên quyết cho giai thể hoặc phá sản.
Thực hiện củ trương sắp xếp trên, đến giữa năm 2000, các bộ, địa phương và
tổng công ty đã có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN. Theo tổng hợp sơ bộ của ban
đổi mới doanh nghiệp, phương án đề ra của các bộ, địa phương như sau:
- Số doanh nghiệp cần duy trì 100% vốn nhà nước chiếm 49.68% tổng số
doanh nghiệp
- Số doanh nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu chiếm 42.10% tổng số doanh
nghiệp
- Số doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, liên tục từ hai năm trở lên chiếm8.22%
tổng số doanh nghiệp
Tuy nhiên trên thực tế việc sắp xếp lại DNNN gặp rất ngiều khó khăn và
không thực hiện đúng như đề án của chính các bộ, địa phương và tổng công ty lập
nên. Cho đến cuối năm 2000 mới chỉ sắp xếp được trên 500 doanh nghiệp, chủ
yếu là cổ phần hoá, đạt chưa tới 50% kế hoạch, còn các hình thức sắp xếp khác
như giao, bán, khoán, đấu thầu, giải thể, phá sản hầu như chưa được thực hiện.
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua
1. Những thành tựu chủ yếu
Về tổng thể, mặc dù số lượng DNNN giảm đáng kể, số lượng công nhân
điều chỉnh mạnh khoảng 600000 người ra khỏi DNNN, đồng thời cũng bổ xung
một lực lượng mới. Quá trình đổi mới vừa thay đổi cơ chế quản lý, vừa tổ chức
sắp xếp lại nhiều đợt trong điều kiện chuyển đổi kinh tế, nhưng khu vực DNNN
vẫn có tốc độ tăng trưởng cao và giữ vị trí đáng kể trong đóng góp ngân sách và
xuất khẩu. Thành tựu tăng trưởng của khu vực DNNN càng có ý nghĩa khi đặt
trong tổng thể tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế thời kỳ 10 năm qua ở
mức khá cao ( GDP năm 2000 đã gấp 2 lần GDP năm 1990). Như vậy tăng trưởng
của khu vực DNNN cao hơn khu vực dân doanh , cao hơn tốc độ chung của nền
kinh tế quốc dân
Đã thay đổi cơ bản cơ chế tài chính đối với DNNN có tác dụng xoá bỏ bao
cấp cho khu vực này từ ngân sách nhà nước. Tính chung cho cả yhời kỳ 1988-
1998 tỷ lệ tài trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước dưới tất cả các hình thức: đầu tư,
cấp vốn lưu động, bù lỗ, bù giá đã giảm từ mức 8.5% GDP xuống còn 0.5%GDP.
như vậy về cơ bản các DNNN đã được “ thương mại hoá” - một quá trình không
dễ thực hiện ở các nước chuyển đổi. Do vậy chi ngân sách nhà nước có điều kiện
tập tring cho các mục tiêu khác trong khi vẫn duy trì được hiệu quả, vai trò của các
DNNN như những tổ chức kinh tế hoạch toán độc lập
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN về tổng thể đã được nâng lên so
với trước xét trên át cả các mặt. Các chỉ số về hiệu suất vốn , lãi tuyệt đối, số nộp
ngân sách, tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước trên vốn mặc dù thấp hơn nhiều so với
các khu vực khác nhưng so với thời kỳ trước đổi mới đã có sự cải thiện đáng kể
Về mặt quản lý bước đầu đã phân định chức năng quản lý nhà nước của các
cơ quan nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của các DNNN. Cụ thể là
làm rõ các quan hệ: ai là chủ sở hữu vốn; mức độ tự chủ của doanh nghiệp đến
đâu, quan hệ với cơ quan chủ quản. Nhờ xác định rõ quyền tự chủ của DNNN nên
trong việc thực hiện chủ trưởng liên doanh, liên kết với nước ngoài qua hoạt động
đầu tư quốc tế, các DNNN ( chiếm 96% số dự án ) đã chủ động, tích cực và thực
hiện khá thành công, góp phần thu hút, đẩy mạnh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
nam hơn 10 năm qua.
Trong đổi mới tổ chức quản lý, mô hình tổng công ty ( chủ yếu là các tổng
công ty 91 ) đã bước đầu phát huy tác dụng là những DNNN nòng cốt của kinh tế
nhà nước ( hiện nay 17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90, cộng chung là 93
tổng công ty với 1534 doanh nghiệp thành viên nắm giữ 66% vốn, 55% lao động,
trên 90% kim ngạch xuất khẩu, 80% nộp ngân sách của khu vực DNNN; các tổng
công ty sản xuất 94% sản lượng điện, 97% than, 64% thép, 59% xi măng, 50%
giấy …) Mặc dù còn nhiều vấn đề trong tổ chức mô hình tổng công ty như đã xác
lập được trên thực tế nhiều tổng công ty mạnh, có khả năng thực hiện các dự án
đầu tư lớn, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài
Trong thực hiện đa dạng hoá sở hưũ: cổ phần hoá, tư nhân hoá, giao khoán,
giải thể, phá sản; mặc dù tiến hành chậm nhưng sau 6 năm thí điểm , tìm tòi, tranh
luận đến năm 1998-1999 chúng ta đã tươnh đối thống nhất về quan điểm và triển
khai mạnh các giải pháp chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là cổ phần hoá đều chứng tỏ
tính hiệu quả của giải pháp. Rõ ràng kết quả cổ phần hoá và đa dạng hoá hình thức
sở hữu thời kỳ vừa qua vừa có tác dụng, ý nghĩa khẳng định hướng tổ chức sắp
xếp lại DNNN, vừa có tác dụng tập dượt mô hình và cách làm để tiến hành ở quy
mô rộng hơn đối với các doanh nghiệp khó khăn hơn ở giai đoạn sau năm 2000
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay
2.1 Về hiệu quả kinh doanh
Mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phiá nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp
tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ được tính hiệu
quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của đảng
và nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do nhà nước dành cho
Một DNNN kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do bộ tài
chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải
trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình
quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến
hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi, nộp đủ tiền sử dụng vốn và lập
đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư
phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu năm 1997 của bộ tài chính,
trong tổng số 5429 DNNN thì số kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40.44%. Số
liệu này thống nhất với số liệu của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương tháng 2-
2000: số doanh nghiệp có lãi thực sự chiếm 40%, số doanh nghiệp bị thua lỗ
chiếm 20% ( nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ còn lớn hơn ), số doanh nghiệp còn lại nằm trong tình trạng không ổn định,
khi lỗ, khi lãi và lãi cũng không lớn. Về tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN:
sau một thời gian dài đạt liên tục tăng 13%/năm, đến năm 1998 và đầu năm 1999
tốc độ tăng còn 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm; năm 1995, một đồng vốn tạo ra
được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận; đến năm 1998 các con số tương
ứng chỉ còn 2.9 và 0.14; năm1998 trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ làm
ra được 0.024 đồng lợi nhuận; số doanh nghiệp bị lỗ trong ngành thương mại, dịch
vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41%. Công nợ trong DNNN hiện quá lớn: nợ phải
thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả bằng 124% vốn nhà nước trong doanh
nghiệp, trong đó tỷ lệ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷlệ lớn. Số này đặc biệt nhiều
trong các DNNN do địa phương quản lý. Do tình hình tài chính như vậy, nhà
nướcvẫn phải thường xuyên dành tiền hỗ trợ cho DNNN: trong 3 năm 1997-1999
ngân sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng trong
đó có 6482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp. Ngoài ra nhà nước còn miễn
giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ đồng , giãn nợ
540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Nhưng đáng chú ý là việc
hỗ trợ này không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách nhà nước ít
hơn phần nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tình trạng không hiệu quả của
DNNN trong điều kiện nước ta hiện nay có nguy cơ đe doạ tính an toàn của toàn
bộ hệ thống tài chính bởi vì các DNNN là các khách hàng vay chủ yếu của 4 ngân
hàng thương mại quốc doanh ( chiếm 57-60% vay vốn nội tệ, trên 90% vay ngoại
tệ tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh )
2.2 Về khả năng cạnh tranh
Các DNNN rất yếu kém về khả năng cạnh tranh. Có nhiều ngành, sản phẩm của
DNNN đang được bảo hộ tuyệt đối hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (
qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế …) nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ
khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận
chứng để nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm
và thị phần. Theo một số số liệu nghiêm cứu gần đây của bộ kế hoạch và đầu tư,
năm 2000 cho thấy các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng,
kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ …đều được bảo hộ bằng cả công
cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá cả thị trường Việt nam cao hơn giá
quốc tế 10-50% tuỳ mặt hàng. Khả năngcạnh tranh kém của các DNNN thể hiện
ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của
cáccó xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực
dân doanh … Khả năng cạnh tranh kém của các DNNN trong điều kiện Việt nam
đang và sẽ thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình
đất nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các DNNN
2.3 Về cơ cấu DNNN
Khu vực DNNN có cơ cấu còn bất hợp lý. Cơ cấu ngành, vùng, quy mô còn bất
hợp lý đều chưa được chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại. Trước hết tỷ trọng
DNNN ( xét về số lượng ở khu nông nghiệp ( 25%) và thương mại, dịch vụ (40%)
là quá lớn trong khi một cơ cấu hợp lý đòi hỏi DNNN, đặc biệt là công nghiệp chế
biến, chế tạo. Cơ cấu cấp quản lý cũng bất hợp lý ở chỗ tỷ trọng doanh nghiệp
thuộc địa phương quản lý qua cao ( trên 60% về số lượng ). Về quy mô, tính đến
1-9-1999 số doanh nghiệp có quy mô dưới 5 tỷ đồng chiếm 65%, trong đó gần 3/4
là doanh nghiệp địa phương, còn có đến 1314 doanh nghiệp (23%) có vốn dưới 1
tỷ đồng. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 21%. Với cơ cấu bất
hợp lý nêu trên DNNN khó có thể thực hiện đầy đủ các chức năng và kỳ vọng về
vai trò mà đảng và nhà nước mong đợi.
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN
3.1 Đầu tư sai
Trong xây dựng mới và cải tạo các DNNN không tính đến sự biến động của
thị trường. Đầu tư sai bắt nguồn từ những quyết định từ thời bao cấp, ví dụ công ty
gang thép Thái Nguyên, công ty dâu tơ tăm, một số mỏ và nhà máy hoá chất …
Tuy nhiên sau nhiều năm đổi mới theo cơ chế thị trường việc đầu tư sai vẫn tiếp
diễn. Sự quản lý của nhà nước không đủ hiệu lực để ngăn chặn tình trạng đầu tư
không tính đến thị trường, không cân đối với nguyên liệu, cũng không tính đến giá
thành. Có những ngành hoặc địa phương vẫn muốn tranh thủ càng nhiều vốn nhà
nước càng tốt để xây dựng cho được những doanh nghiệp không thật cần thiết của
ngành mình, địa phương mình, có khi vì mục đích ngoài kinh tế. Tình trạng đầu tư
sai, không tính đến thị trường một phần bắt nguồn từ công tác quy hoạch. Trong
khá nhiều trường hợp, quy hoạch thường xuất phát từ ý muốn chủ quan, nói là tập
trung mũi nhọn, nhưng rồi ngành nào cũng đầu tư, địa phương nào cũng muốn tự
túc, tự cấp, có đủ “ cơ cấu kinh tế ” theo hướng “công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”,
bỏ qua những nguyên tắc cơ bản của công tác này. Chủ trương đầu tư đã sai ngay
từ đầu, công việc xây dựng lại giao cho một ban quản lý dự án kém năng lực và
không có trách nhiệm , gây ra chất lượng xây dựng thấp, vốn đầu tư thất thoát
không nhỏ. Tất cả dồn giá thành công trình làm cho không có giám đốc nào có thể
tài giỏi đến mức khắc phục được hậu quả kém hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến
Doanh nghiệp do nhà nước quyết định thành lập, nhưng không cấp đủ vốn cho
sản xuất kinh doanh buộc phải đi vay với lãi suất ngân hàng. Nhìn chung vốn nhà
nước thường chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp,
trong đó tại tổng công ty 91 là 75%, tại các doanh nghiệp do bộ, ngành quản lý là
45% và do các địa phương quản lý là 50%. Xét về số tuyệt đối năm 1998 vốn Nhà
nước bình quân của một tổng công ty 91 là 3661 tỷ đồng ( tương đương 240 triệu
USD ), nhưng lại có đến 14/17 tổng công ty 91 có vốn dưới mức bình quân đó.
Vốn của tổng công ty 90 còn thấp hơn nhiều: bình quân một tổng công ty 90 chỉ
có 280 tỷ đồng, trong đó 80% số tổng công ty 90 có mức vốn thấp hơn mức bình
quân, 35% số tổng công ty 90 có vốn Nhà nước dưới 100 tỷ đồng. Khả năng trích
lợi nhuận để lập quỹ phát triển sản xuất rất thấp; số vốn lưu động hiện có cũng chỉ
huy động cho kinh doanh được khoảng 50%, số còn lại nằm ở vật tư mất mát, kém
phẩm chất, công nợ không thu hồi được… 70-90% vốn lưu động của DNNN phải
đi vay ngân hàng.
3.3 Trình độ kỹ thuật , công nghệ lạc hậu
Phần lớn các DNNN được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nguồn khác
nhau, có những thiết bị lạc hậu, già cỗi, sản xuất từ những năm 50,60. Theo điều
tra của viện bảo hộ lao động giữa năm 1999 thì trên 70% đã hết khấu hao, gần
50% đã được tân trang; theo báo cáo của bộ khoa học, công nghệ và môi trường
thì công nghệ của ta lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm; mức độ hao mòn hữu
hình từ 30-50%, thậm chí 38% trong số này ở dạng thanh lý.
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn
Theo báo cáo của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương tháng 2-2000 đưa ra con
số là 4% tổng số lao động dư thừa. Có một số địa phương, ngành số lao động dôi
dư khá lớn như: Hải Dương 33%, Nam Định 27%, Nghệ An 16%, Hải Phòng
15%, Thanh Hoá 10%, tổng công ty thép 12%, bộ thuỷ sản 14% lao động dôi dư
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính
Có thể coi đây là trở ngại rất quan trọng khiến doanh nghiệp không thể tự chủ
kinh doanh. Đại diện chủ sở hữu của tài sản nhà nước tại doanh nghiệp là ai cho
đến nay vẫn không rõ, gây ra nhiều lúng túng, khó khăn trong việc sử dụng tài sản
đó. Cơ quan chức năng quản lý tài sản của DNNN về cơ bản vẫn đang thực hiện
quyền quản lý theo kiểu cũ. Cơ chế tài chính và hạch toán của DNNN bị những
ràng buộc vô lý trói chặt từ nhiều năm mà vẫn không được sửa đổi. Nhiều doanh
nghiệp cho rằng từ nghị định 59/CP đến nghị định 27/1999 về quản lý tài chính
DNNN, sự đổi mới khôg nhiều, vẫn những ràng buộc về các khoản chi phí, những
bất hợp lý đã rõ như khoản thu về sử dụng vốn trong đó kể cả những tài sản do
doanh nghiệp tự đầu tư từ nguồn tích luỹ hoặc vay ngân hàng để xây dựng, nay
đều bị coi là tài sản của nhà nước và buộc doanh nghiệp chịu thuế vốn. Doanh
nghiệp muốn khấu hao nhanh cũng không được, phải theo khung thời gian khấu
hao
3.6 Không được chủ động về nhân sự và tiền lương
Cho đến nay DNNN vẫn không chủ động trong việc sắp xếp lại số lao động,
giảm bớt người không phù hợp, tuyển người mới, vì nhà nước chưa có đủ các
chính sách phù hợp để giải quyết công ăm việc làm và đời sống của số lao động dư
thừa. Chế độ tiền lương, các thang lương, bậc lương trong DNNN còn nhiều bất
hợp lý giữa khu vực kinh doanh với khu vực hành chính sự nghiệp, giữa doanh
nghiệp các ngành nghề khác nhau và ngay trong nội bọ doanh nghiệp.
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp
Mặc dù đã có chủ trương xoá bỏ chủ quan nhưng hiện đang có quả nhiều cấp,
nhiều ngành trực tiếp can thiệp công việc kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp.
Tình trạng phân cáp trên dưới, ngang dọc chưa rõ ràng đã gây ra tình trạng doanh
nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cngf ra sức “ tăng cường quản lý”, công tác
thanh tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiềm hà cho DNNN hoạt động, Đặc biệt là cơ
chế “bộ chủ quản”, cấp chủ quản” đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
Việc phân chia “ quốc doanh trung ương”, “quốc doanh địa phương” đã tạo ra
nhiều bất hợp lý, phân biệt đối sử, ảnh hưởng đến kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp.
Mấy năm gần đây, nhiều DNNN đã được sắp xếp lại trong cơ cấu tổng công ty
90, 9. Thế nhưng có những tổng công ty được tổ chức theo lối hành chính, bằng
số cộng đơn thuần không dựa trên tính tất yếu về kinh tế, đã không mang lại kết
quả mong muốn; không những thế một số tổng công ty trở thành vật cản đối với
công ty thành viên trong kinh doanh.
3.8 Môi trương kinh doanh chưa hoàn chỉnh
Môi trường kinh doanh ở nước ta đang còn nhiều bất cập. Điểm hình là hệ thống
tài chính, ngân hàng, giá cả chưa thật sự được xây dựng theo kinh tế thị trường.
Vẫn còn những tình trạng buộc ngân hàng cho vay theo lệnh, ngân hàng thụ động
không chịu trách nhiệm về hiệu quả vốn cho vay và thu hồi nợ; khi gặp nợ khó đòi
thì buộc ngân hàng phải khoanh nợ, giãn nợ hoặc cho vay mới để trả nợ cũ. Cũng
chưa có hệ thống văn bản pháp quy để khuyến khích cạnh tranh hợp pháp và kiểm
soát độc quyền. Các thị trường yếu tố sản xuất chưa hoàn chỉnh. Đó là không kể
những thủ tục hành chính, cơ chế xin- cho và những hành vi nhũng nhiễu của
không ít công chức đang gây khó khăn cho doanh nghiệp. DNNN còn phải tham
gia các nhiệm vụ xã hội mà đáng lẽ không thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp,
phải đóng góp nhiều khoản cho phường, xã, cho các tổ chức, đoàn thể đia phươn,
tuy mang danh nghĩa tự nguyện nhưng thức chất là áp đặt nhiều khi quá sức chịu
đựng của doanh nghiệp.
CHƯƠNG III: Phương hướng và các giải pháp đổi mới DNNN trong thời
gian tới
I/ phương hướng đổi mới các DNNN trong thời gian qua
KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa , ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN phải
không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết
vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện
vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong
hội nhập kinh tế quốc tế
Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập ytung vào những
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với
các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất
cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN phải có quy
mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận cần có quy mô nhỏ để kinh doanh
những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cầ thiết, có điều kiện đối với những ngành,
lĩnh vực, sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần
thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xoá
bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những
ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên phát triển.
Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là nhiệm
vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lượ, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp.
mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì phait khẩn trương, kiên
quyết triển khai thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa
làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích
hợp tích cực nhưng vững chắc.
Tăng cường sự lãnh đạo của đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai trò
của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp.
II / Giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển DNNN
1.Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động
công ích
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Nhà nước giữ 100% vốn đối với cơ chế thị trường doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phóng xạ,
hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, sản
xuất thuốc lá điếu.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với DNNN hoạt động
kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực:bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu,
sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng ... Những doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở mìn
núi, vùng sâu, vùng xa.
Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ
đông là các DNNN. Từ đó Chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể
các DNNN hiện có để triển khai thực hiệnvà từng thời kỳ xem xét đièu chỉnh định
hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội
Việt thành lập mới DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới
hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền, hoặc các thành
phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong
các lĩnh vực:in bạc và chứng chỉ có giá; điều hành bay;bảo đảm hàng hải; kiểm
soát và phân phối tần số vô tuyến điện; sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị
chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng
kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của chính phủ.
Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp
công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật phương tiện giao
thông cơ giới lớn; xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị, phim thời sự và tài
liệu; quản lý, bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia, sân bay; quản lý thuỷ nông đầu
nguồn; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn; thoát nước ở đô thị lớn; ánh sáng đường
phố; quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, bến xe, đường thuỷ quan trọng; sản xuất
sane phẩm và cung ứng dịch vụ khác theo quy định của Chính phủ.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, Chính phủ căn cứ vào
định hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai
thực hiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu
trên sẽ được sắp xếp lại. Việc thành lập mới DNNN hoạt động công ích phải được
xem xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu các điều kiện cần thiết . khuyến
khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản
phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần và pháp luật không cấm.
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị
trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điêù lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối
với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản
phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành
phần kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn
khổ pháp luật chung. Đối với DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có
quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng
cạnh tranh bình đẳng.Và đổi mới chế độ kế toán , kiểm toán, chế độ báo cáo, thông
tin, thực hiện công khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp
- - Về vốn:Doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường
để phát triển kinh doanh ; được chủ động sử lý các tài sản dư thừa, vật tư, hàng
hoá ứ đọng. Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ
từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. nhà nước có chính sách đối với
những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn
khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính taì sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài
hoà các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩmh vực cụ thể,
khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển .
- Về đầu tư: Tăng thêm quyền và trách nhiệm của DNNN trong quyết định
đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt.
- Về đổi mới, hiện đaị hoá công nghệ: Doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu
đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực
cho doanh nghiệp: chi phí này được hạch toán vào giá thành phẩm. nhà nước có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
- Về lao động, tiền lương: Doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao độngvà
chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao đddoanh nghiệp mình tuyển
dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp; được tự chủ
trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trêmn cơ sở năng suất lao động và hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: Doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí
cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan nhà nước và tổ chức có
thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. nhà nước
có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của
cán bộ quản lý doanh nghiệp.
- Về thanh tra, kiểm tra: Hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán, kết
quả kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ
quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với
doanh nghiệp và thông báo cho doanh nghiệp.
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu
thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các
sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần
kinh tế. nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho DNNN hoạt động công ích. Thực hiện cơ
chế quản lý lao động, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản
phẩm, dịch vụ mà nhà nước giao hoặc đặt hàng. doanh nghiệp công ích cũng phải
thực hiện hạch toán.
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được
Bổ sung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu lại
DNNN. doanh nghiệp phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lao
động cần thiết. Lao đông dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện đào tạo lại hoặc
nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc
thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ luật lao động.
Xử lý nợ không thanh toán được: Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt
điểm các khoản nợ không có khả năng thanh toáncủa doanh nghiệp đối với ngân
sách nhà nước và ngân hàng, đồng thời có giải phảp để ngăn ngừa sự tái phát.
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước;
hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh
3.1 Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động vốn từ
nhiều nguồn, trong đó vốn nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành,
có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản xuất, tài
chính, thị trường...; có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, năng suất lao động
cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế .
Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có nhằm tập trung hơn
nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế;
làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ
mô; cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu,
đóng góp lớn cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
3.2 Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà
nước ,có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó
có ngành kinh doanh chính chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong
nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước,
có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ
giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh.
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN
Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm: tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài
sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh
doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho
DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng
cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của
nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá DNNN không được biến
thành tư nhân hoá DNNN.
Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi
cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Có quy định để
người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi, bổ
sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó
người lao động với doanh nghiệp; dành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài
doanh nghiệp.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị
trường; nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thí
điểm đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung gian.
nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với DNNN đã chuyển sang
công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá
theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp khi cổ phần hoá có khó khăn.
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể,
phá sản DNNN
Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước
không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức:
giao, bán, khoán kinh doanh , cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao, bán được
chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sáp nhập, giải thể, phá sản
những DNNN hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình
thức nói trên.
Sửa đổi, bổ sung luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định
thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản. Đẩy mạnh tuyên
truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn xã hội đối với
chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể,
phá sản DNNN .
kết luận
Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướn, chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội trong thời kỳ mới, đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “ kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo; KTTN cùng với kinh tế tập
thểngày càng trở thành nền tảng vững chắc”, “KTNN phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh
tế – xã hội và chấp hành pháp luật”. Hội nghị trung ương lần này bàn và ra nghị
quyết để thực hiện nghị quyết đại hội đảng, bảo đảm DNNN có vị trí then chốt góp
phần chủ yếu để KTNN làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Qua ba chương vừa nêu trên, chúng ta có thể khẳng định được rằng: Vai trò
của DNNN là then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. DNNN vừa hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển vừa góp phần
giữ vững ổn định chính trị – xã hội. DNNN là cánh cửa mở ra cho chúng ta nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, mở ra một triển vọng xã hội xã hội chủ nghĩa
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó tiếp tục quá
trình đổi mới DNNN ở nước ta là một tất yếu khách quan trong thời kỳ hiện nay.
tài liệu tham khảo
1- Văn kiện đại hội đảng lần thứ VII, VIII, IX
2- Đảng cộng sản : “Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 khoá
IX về đổi mới và phát triển DNNN”
3- Nông Đức Mạnh : “ việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải hướng tới hiệu quả
cao để KTNN giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế nhiều thành phần”- Tạp chí
cộng sản số 13 tháng 9/2001
4- PGS.TS. Ngô Quang Minh : “KTNN và quá trình đổi mới DNNN”-NXB
chính trị quốc gia năm 2001
5- Kinh tế và dự báo số 6/2003
Mục lục
lời nói đầu.........................................................................................1
chương i / một số vấn đề lý luận chung về dnnn...2
I/ Tính tất yếu khách quan.........................................................................2
1. Định nghĩa về DNNN...........................................................................2
2. Các bộ phận cấu thành của KTNN......................................................2
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN ....................................3
3.1 Sự cần thiết của DNNN ............................................................................3
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN ...................................................................5
II/ Vai trò then chốt của DNNN .....................................................................11
Chương II/ Thực trạng DNNN ở nước ta hiện nay......................................12
I/ Quá trình đổi mới DNNN ..........................................................................12
1. Giai đoạn 1980-1986 ...................................................................................12
2. Giai đoạn 1986-1990 ...................................................................................13
3. Giai đoạn 1990 đến nay ..............................................................................15
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN ................................................................15
3.2 Sắp xếp lại DNNN ....................................................................................17
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua .............20
1. Những thành tựu chủ yếu ............................................................................20
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay .......................................21
2.1 Về hiệu quả kinh doanh ............................................................................21
2.2 Về khả năng cạnh tranh .............................................................................22
2.3 Về cơ cấu DNNN .....................................................................................23
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN ...........................23
3.1 Đầu tư sai ..................................................................................................23
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến ....................................................................24
3.3 Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu .........................................................25
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn ...............................................................25
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính ..........................................25
3.6 Không được tự chủ về nhân sự và tiền lương .............................................25
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp ...............................................................26
3.8 Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh ..................................................26
Chương III phương hướng và các giải pháp đổi mới DNNN trong thời gian
tới ...................................................................................................................27
I/ Phương hướng đổi mới các DNNN trong thời gian qua ...............................27
II/ Giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển DNNN .........................................28
1. Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động
công ích .........................................................................................................28
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ............................................28
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích..................................................28
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách ...........................................................29
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ............................................29
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích .................................................30
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được ..........................31
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty nhà nước; hình thành một
số tập đoàn kinh tế mạnh ................................................................................31
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN ...................................................................32
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản
DNNN ...........................................................................................................32
kết luận ..........................................................................................................33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.pdf