Tài liệu Luận văn Tìm hiểu tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: LUẬN VĂN:
Tăng cường quản lý thu ngân sách
địa phương ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), Luật Ngân sách Nhà
nước Lào ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 14/4/1995 đã quy định thu ngân sách Nhà
nước (NSNN) là một hệ thống thống nhất bao gồm thu ngân sách Trung ương (NSTW) và thu
ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Ngân sách tỉnh là một cấp trong ngân sách các cấp chính quyền địa phương được Nhà
nước phân cấp nguồn thu theo chức năng quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh ở Lào còn nhiều bất cập.
Để thu ngân sách cấp tỉnh trở thành một cấp thu ngân sách theo đúng nghĩa, cần
phải tìm những giải pháp hữu hiệu trong công tác tăng cường quản lý nhằm hoàn thiện việc
thu ngân sách cấp tỉnh, đó là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Vì vậy, tôi đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài: " Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hũa dõn chủ n...
84 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tăng cường quản lý thu ngân sách
địa phương ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), Luật Ngân sách Nhà
nước Lào ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 14/4/1995 đã quy định thu ngân sách Nhà
nước (NSNN) là một hệ thống thống nhất bao gồm thu ngân sách Trung ương (NSTW) và thu
ngân sách các cấp chính quyền địa phương.
Ngân sách tỉnh là một cấp trong ngân sách các cấp chính quyền địa phương được Nhà
nước phân cấp nguồn thu theo chức năng quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh ở Lào còn nhiều bất cập.
Để thu ngân sách cấp tỉnh trở thành một cấp thu ngân sách theo đúng nghĩa, cần
phải tìm những giải pháp hữu hiệu trong công tác tăng cường quản lý nhằm hoàn thiện việc
thu ngân sách cấp tỉnh, đó là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Vì vậy, tôi đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài: " Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hũa dõn chủ nhõn
dõn Lào (Ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn)" cho bản luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu hoạt động của thu ngân sách cấp tỉnh trong mối quan hệ
với hệ thống thu NSNN nhằm tìm ra những giải pháp thích hợp hướng cho ngân sách tỉnh phát
huy được vai trò tích cực của mình, góp phần tăng cường công tác quản lý thu ngân sách ở
Lào ngày một tốt hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chung về quản lý thu ngân sách cấp tỉnh trong toàn quốc và quản lý
thu Ngân sách cấp tỉnh của tỉnh Viêng Chăn trong thời gian 5 năm từ năm 2000 đến kế
hoạch dự đoán năm 2005.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu việc quản lý thu ngân sách cấp tỉnh.
- Nghiên cứu mối quan hệ thu ngân sách cấp tỉnh với thu ngân sách các cấp trong
hệ thống.
- Nghiên cứu quy trình lập, chấp hành và quyết toán trong việc tăng cường quản lý
thu ngân sách cấp tỉnh.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể khái quát trên các khía cạnh:
- Về mặt lý thuyết: Luận văn đã hệ thống hóa và khái quát về mặt lý luận một số
vấn đề cơ bản quản lý thu NSNN.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn đã đưa ra những nhận xét khách quan về thực trạng
quản lý thu NSNN ở CHDCND Lào trong những năm qua.
- Về các đề xuất kiến nghị: Luận văn đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường quản lý thu NSNN ở CHDCND Lào trong những năm tới.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách tài chính công ở
CHDCND Lào hiện nay, những kết quả nghiên cứu trên đây của luận văn là có ý nghĩa
thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Vai trò của thu NSNN và tổ chức hệ thống quản lý thu ngân sách cấp
tỉnh.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước ở cộng hòa dân
chủ nhân dân lào (Ví dụ ở Tỉnh Viêng Chăn).
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý thu ngân sách Nhà nước ở CHDCND
Lào (ví dụ ở tỉnh Viêng Chăn).
Chương 1
Vai trò của thu ngân sách nhà nước và tổ chức
hệ thống quản lý thu ngân sách cấp tỉnh
1.1. Những vấn đề chung về thu ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thu ngân sách nhà nước
Khi Nhà nước ra đời, để đảm bảo sự tồn tại và hoạt động của mình, Nhà nước đã
đặt ra chế độ thuế khóa nhằm huy động sự đóng góp của dân cư để hình thành nên quỹ tiền
tệ tập trung của Nhà nước. Lúc đầu, Nhà nước sử dụng nó để nuôi bộ máy nhà nước; sau
đó phạm vi sử dụng được mở rộng dần theo sự phát triển của các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước. Ngày nay, Nhà nước còn sử dụng NSNN để chi tiêu cho các khoản phúc lợi xã
hội và phát triển kinh tế. Do vậy, hệ thống thu NSNN ngày càng được hoàn thiện.
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà
nước.
Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN là những khoản thu nhập của Nhà nước
được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình
thức giá trị. Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân phối
các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Sự phân phối đó
là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước
cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Về mặt nội
dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh trong
quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình
thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá
trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực trừng trị để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Một đặc điểm nữa của thu NSNN là gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động
của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập… Sự vận động của các phạm trù đó
vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của
các công cụ thu NSNN.
1.1.2 Nội dung thu ngân sách nhà nước và phân loại thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
- Thuế, lệ phí, phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước như:
+ Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế.
+ Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế.
+ Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp.
- Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
- Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn trả lại của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân nước ngoài, từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.
- Thu khác: như thu từ phạt, tịch thu, tịch biên lai tài sản…
Trong hệ thống thu NSNN, thu từ thuế, lệ phí, phí chiếm tỷ trọng chủ yếu. Vì vậy
để tăng thu NSNN cần có biện pháp ngăn ngừa hạn chế thất thu thuế giữ vai trò quan
trọng.
Để quản lý tốt nguồn thu việc phân loại các khoản thu có ý nghĩa quan trọng qua
đó có thể phân tích, đánh giá và quản lý các nguồn thu NSNN. Có hai cách phân loại phổ
biến là:
- Phân loại theo nội dung kinh tế:
Phân loại các khoản thu NSNN theo nội dung kinh tế là cần thiết để thấy rõ sự
phát triển của nền kinh tế, tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo cách phân loại này, có thể
chia các khoản thu NSNN thành hai nhóm:
+ Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc gồm thuế, phí, lệ phí với nhiều
hình thức cụ thể do luật định.
+ Nhóm thu không thường xuyên bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh tế của
Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước và các khoản thu khác đã kể ở trên.
- Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN:
Có thể chia các khoản thu NSNN thành:
+ Thu trong cân đối NSNN: bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu không
thường xuyên.
+ Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi
tiêu và Nhà nước phải đi vay, bao gồm vay trong nước từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức
kinh tế - xã hội, vay từ nước ngoài.
Cách phân loại này cho phép đánh giá sự lành mạnh của NSNN và có ý nghĩa
trong tổ chức điều hành NSNN.
1.1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức động viên và
lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến số thu
NSNN, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Mức động viên
và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của
quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN cần phải kể đến là:
Thu nhập GDP bình quân đầu người.
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia,
phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân
đầu người là nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN. Nếu không tính đến chỉ
tiêu này khi xác định mức động viên của ngân sách sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề
tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các tầng lớp dân cư.
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế:
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh
tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn, nguồn tài chính càng lớn. Đây là nhân tố quyết định đến
việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Dựa vào tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu NSNN sẽ tránh
được việc động viên quá cao vào NSNN gây khó khăn về tài chính cho hoạt động kinh tế.
Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên:
Đối với các nước đang phát triển và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú thì
nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến thu NSNN. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu tỷ
trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu thì tỷ suất thu
NSNN sẽ cao và có khả năng tăng nhanh. ở Việt Nam trong tương lai, việc xuất khẩu dầu
mỏ và khoáng sản chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Đó là nhân tố rất quan
trọng ảnh hưởng to lớn đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước:
Nhân tố này phụ thuộc vào:
+ Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó.
+ Những nhiệm vụ kinh tế – xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ.
+ Chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước.
Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước không có khả năng
tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ dẫn đến tỷ suất thu NSNN tăng lên.
ở hầu hết các nước đang phát triển, Nhà nước đều có tham vọng đẩy nhanh sự tăng
trưởng kinh tế bằng việc đầu tư vào các công trình lớn. Để có nguồn vốn đầu tư phải tăng thu.
Nhưng trong thực tế tăng thu quá mức lại làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại. Để giải quyết
vấn đề nan giải đó, Nhà nước phải có một chương trình phát triển kinh tế, xã hội thận trọng
trên cơ sở khoa học và thực tiễn để đạt hiệu quả cao, từ đó xác lập một chính sách chi có hiệu
quả và tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thu và chi của
NSNN.
Tổ chức bộ máy thu nộp.
Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do trốn,
lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của NSNN.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, để xác định mức thu NSNN đúng đắn cần
phải có sự phân tích, đánh giá cụ thể các nhân tố tác động đến nó trong những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ. Tỷ suất thu NSNN được xem
là hạt nhân cơ bản của chính sách thu nên cần phải được nghiên cứu, xem xét trên
nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội.
1.2 Tổ chức quản lý thu ngân sách cấp tỉnh
Căn cứ chức năng quyền hạn của chính quyền địa phương, Nhà nước phân cấp cho
địa phương được hưởng các nguồn thu tương ứng theo phương pháp phân định như sau:
Quá trình hình thành nguồn thu ngân sách ở Lào bắt đầu và phân cấp quản lý sau
Cách mạng Tháng 8. Lúc đó Lào hầu như chỉ có một cấp ngân sách là NSTW. Do cấp tỉnh
chưa đảm đương được đầy đủ chức năng là một cấp thu ngân sách hoàn chỉnh, nên chủ yếu
thực hiện theo chỉ định từ Trung ương. Đến khi luật Ngân sách ngày 18/7/1944, số
0594/QH Lào và Luật Thuế ra đời mới ổn định nguồn thu và đảm bảo nhiệm vụ chi cho
địa phương, từ đó hình thành nguồn thu của ngân sách địa phương (NSĐP).
1.2.1. Các khoản thu cố định
Đây là các khoản thu phát sinh bao nhiêu thì ngân sách tỉnh được hưởng trọn vẹn bấy
nhiêu (100%). Theo kinh nghiệm Việt Nam trong Luật NSNN hiện hành quy định thì các
khoản thu cố định của ngân sách tỉnh gồm có:
- Tiền cho thuê đất
- Tiền thuê và bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước
- Lệ phí trước bạ
- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức cá nhân cho cấp tỉnh
- Phí, lệ phí và thu khác ngân sách tỉnh
- Các khoản đóng góp vào ngân sách cấp tỉnh
- Thu kết dư ngân sách cấp tỉnh
1.2.2. Các khoản thu phân định giữa các cấp ngân sách
Đối với các khoản thu này, hiện nay trên thế giới phổ biến có 2 mô hình:
Mô hình 1: Các khoản thu được tập trung vào NSNN thông qua Kho bạc Nhà nước
(KBNN), sau đó phân chia cho các cấp theo những tỷ lệ phần trăm nhất định, được gọi là
thu điều tiết. Các nước theo mô hình này là Trung Quốc, Việt Nam…
Luật Ngân sách hiện hành của Việt Nam quy định các khoản thu điều tiết giữa
NSTW và ngân sách cấp tỉnh là:
- Thuế giá trị gia tăng (không kể thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu).
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập doanh nghiệp các đơn vị
hạch toán toàn ngành).
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Tỷ lệ điều tiết ở đây, theo Luật NSNN do Trung ương quy định cụ thể cho từng
tỉnh và được ổn định từ 3 – 5 năm.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh, ngân sách
cấp huyện, ngân sách xã phường, thị trấn:
- Thuế chuyển quyền áp dụng đất.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước của một số mặt hàng phân chia
cho địa phương.
Tỷ lệ điều tiết cho mỗi cấp ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, theo
Luật NSNN hiện hành do tỉnh quy định. Riêng tỷ lệ điều tiết thuế sử dụng đất nông nghiệp
để lại cho xã, phường, thị trấn tối thiểu là 20%.
Mô hình 2: Mỗi khoản thu phát sinh thì NSTW thu một phần và NSĐP thu một
phần. Phổ biến nhất là các khoản thuế giá trị gia tăng (GTGT), Thu nhập doanh nghiệp
(TNDN), thu nhập cá nhân… (Thường luật Thuế do Nhà nước Trung ương ban hành và quy
định biểu thuế cho NSTW, sau đó cho phép các địa phương có biểu thuế riêng tương ứng.
Thông thường Chính phủ Trung ương quy định khung thuế suất với mức thấp nhất và mức
cao nhất). Các địa phương vận dụng trong khung đó. Biểu thuế địa phương này có 2 dạng
phổ biến:
Thứ nhất, là biểu thuế địa phương lũy tiến theo mức cố lũy tiến của biểu thuế
Trung ương.
Thứ hai, là biểu thuế địa phương chỉ áp dụng một mức cố định cho mọi thu nhập
chịu thuế. Trên biên lai thuế có những tiêu thức sau:
Thu nhập chịu thuế: Được xác định theo quy định của Luật Thuế.
Thuế NSTW: x% x Thu nhập chịu thuế.
Thuế NSĐP: y% x Thu nhập chịu thuế.
Tổng số thuế phải nộp: Gồm cả thuế của NSTW và NSĐP.
Ví dụ: ở Nhật Bản, khung thuế suất do Quốc hội quy định từ 12 – 15% thì Hội
đồng nhân dân địa phương có thể quy định cụ thể một mức nào đó trong khung nhưng tối
đa không quá 15%. Căn cứ vào quyết định của Hội đồng nhân dân (HĐND), từng địa
phương tiến hành thu thuế về cho cấp mình.
ở Canađa, thuế GTGT thu cho NSTW là 8%, còn thu cho NSĐP được phép không
quá 7%.
Nhận xét:
Hai mô hình đều có những ưu điểm nhất định. ở mô hình thứ nhất các khoản thu
được tập trung vào ngân sách, sau đó điều tiết cho các cấp sẽ tạo ra biểu thuế thống nhất
trong toàn quốc, từ đó nghĩa vụ nộp thuế cũng thống nhất trong toàn quốc, không phân biệt
giá cả giữa các vùng, miền. Việc điều tiết chỉ là phân chia trong nội bộ ngân sách, vì vậy
Chính phủ Trung ương có thể chủ động quy định tỷ lệ điều tiết khác nhau cho các địa
phương.
ở mô hình thứ hai có ưu điểm là địa phương có thể chủ động quy định một thuế
suất trong khung phù hợp với địa phương mình. Cùng xuất phát từ điều đó làm cho mỗi
địa phương có thể có một tỷ lệ thuế khác nhau, dẫn đến mỗi vùng miền, địa phương có
nghĩa vụ nộp thuế khác nhau và giá cả hàng hóa cũng khác nhau. Đây chính là điểm linh
hoạt trong chính sách thuế, thuế có thể trở thành công cụ điều tiết phân bổ dân cư, kinh tế.
Cụ thể là để giảm bớt thuế thu nhập cá nhân, người dân có thể chuyển đến sinh sống ở địa
phương có biểu thuế địa phương thấp. Tương tự như vậy, các cá nhân và tổ chức muốn
giảm thuế thu nhập, thuế GTGT để nhằm mục đích tăng lợi nhuận có thể tổ chức kinh
doanh hoặc di chuyển địa điểm kinh doanh và vốn tới địa phương có biểu thuế địa phương
thấp…
Các mô hình thuế nêu trên có thể được lựa chọn áp dụng ở các quốc gia khác nhau
phụ thuộc vào phân cấp kinh tế xã hội và hành chính của từng quốc gia, các yếu tố chính
trị và đặc điểm của hệ thống thuế.
Với mô hình thứ nhất thì đòi hỏi sự chia xẻ trách nhiệm của cả các cấp chính quyền
từ Trung ương đến địa phương. Bởi vì nguồn thu được điều tiết cho các cấp, nên việc tổ
chức bộ máy thu thống nhất do Trung ương quản lý để phối hợp với chính quyền địa phương
trong công tác thu sẽ phát huy được hiệu quả.
Với mô hình thứ hai cho phép địa phương tự quyết định mức trong khung thuế địa
phương, tạo động lực cho địa phương tự tìm kiếm nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi tăng
thêm ở địa phương thích hợp với cách tổ chức bộ máy thu riêng cho từng cấp.
1.2.3. Các khoản thu bổ sung từ ngân sách Trung ương
Ngoài các khoản thu cố định và điều tiết, một khoản thu rất quan trọng đối với
ngân sách tỉnh là thu bổ sung từ ngân sách cấp trên. Đây là một biện pháp điều hòa ngân
sách nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, đồng đều của tất cả các vùng, miền.
Căn nguyên thứ nhất của biện pháp này xuất phát từ sự tách rời giữa nơi sáng tạo
GDP và nơi thực hiện GDP. Chúng ta đều biết rằng nguồn thu từ thuế do GDP tạo ra ở một
địa phương nào đó, nhưng bằng biện pháp bổ sung NSĐP có thể thụ hưởng từ một địa
phương khác. Ví dụ: Một doanh nghiệp thu mua hàng nông sản xuất khẩu đăng ký hoạt
động ở địa phương A. Khi thu mua hàng thì doanh nghiệp phải nộp thuế GTGT với thuế
suất 2% mặc dù nơi sản xuất ra hàng nông sản đó có thể là ở một địa phương B.
Như vậy, điều bất hợp lý có thể xảy ra, đó là nơi sáng tạo ra nhiều GDP lại có thể
có nguồn thu nhỏ, trong khi nơi không tạo ra nhiều GDP nhưng vẫn có nguồn thu lớn.
Ví dụ: Theo thống kê chưa chính thức, năm 2001, Thành phố Hồ Chí Minh chỉ tạo ra
khoảng 9% GDP của cả nước nhưng đã có số thu ngân sách trên địa bàn chiếm gần 40% tổng
thu NSNN trong nước. Nguyên nhân chính là GDP được tạo ra từ đồng bằng sông Cửu Long,
Tây Nguyên… nhưng phần lớn đổ
dồn về thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. ở Hà Nội tình hình cũng tương tự như vậy.
Thứ hai là xuất phát từ vị trí địa lý kinh tế xã hội không đồng đều giữa các địa
phương: Các vùng núi cao, Biên giới, Hải đảo, kinh tế không phát triển nhưng lại có vị trí
đặc biệt quan trọng, đó là vùng phên dậu của đất nước, nếu không được bảo vệ chắc chắn
sẽ ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định của cả Quốc gia. Vì vậy, mặc dù có thể không sáng
tạo và thực hiện nhiều GDP nhưng phải điều hòa nguồn lực tài chính đến những vùng như
vậy.
Thứ ba là trong cơ chế chính sách của Trung ương về phân định nguồn thu và
nhiệm vụ chi của NSTW có phần muốn tạo ra sự mất cân đối của NSĐP (thu không đủ chi)
nhằm kiểm soát và chi phối các hoạt động của địa phương. Điều đó giải thích tại sao ngay
cả các địa phương có thể tự cân đối được thu chi cũng được phân cấp sao cho Trung ương
vẫn phải bổ sung một số chương trình mục tiêu. Ví dụ: ở Trung Quốc, số bổ sung từ
NSTW cho địa phương thường chiếm 20% tổng số thu; ở Nhật Bản, việc trợ cấp từ Trung
ương cho các tỉnh cũng nhằm hỗ trợ các dự án cụ thể…
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngân sách cấp tỉnh với các cấp ngân sách khác
Trước hết, cần phải khẳng định ngân sách tỉnh là một cấp ngân sách trong hệ
thống NSNN thống nhất, nên nó có mối quan hệ hữu cơ với các cấp ngân sách khác.
1.2.4.1. Mối quan hệ giữa ngân sách tỉnh với ngân sách trung ương
Chế độ thu ngân sách được quy định thống nhất trong toàn quốc, mọi nguồn thu
đều được tập trung vào NSNN sau đó điều tiết theo tỷ lệ quy định cho từng tỉnh.
Sau khi dự toán thu ngân sách tỉnh được xây dựng và giao chính thức, Trung ương
sẽ căn cứ vào đó để xác định số bổ sung ngân sách tỉnh hàng năm và từng quý chuyển đến
cho NSĐP.
Ngoài những nội dung trên, Trung ương còn cấp cho địa phương kinh phí để thực
hiện các chương trình mục tiêu. Phần này nằm ngoài cân đối NSĐP và tùy thuộc vào nội
dung chương trình mục tiêu ở từng năm.
Như vậy có thể nói NSĐP phụ thuộc chặt chẽ vào Trung ương từ khâu hoạch định
chính sách, chế độ thu chi, đến khâu xây dựng dự toán và cuối cùng nhưng cũng trực tiếp
nhất là thông qua số hỗ trợ bổ sung.
1.2.4.2. Mối quan hệ giữa ngân sách tỉnh với ngân sách huyện
Tương tự như vậy, ngân sách tỉnh quan hệ với ngân sách huyện cũng như quan hệ
giữa Trung ương với tỉnh. Tỉnh giao dự toán thu ngân sách huyện trên cơ sở chính sách
chế độ chi tiêu của Trung ương có tính đến đặc thù của từng huyện và xác định số bổ sung
cho huyện, thông qua đó nắm được tình hình thực hiện nhiệm vụ thu Trung ương của từng
huyện.
Tóm lại, mối quan hệ giữa thu ngân sách tỉnh với thu các cấp ngân sách khác là
quan hệ giữa các cấp ngân sách, thông qua trực tiếp nhất là số bổ sung để điều hòa thu
ngân sách, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền và tăng cường quản lý của
cấp trên đối với cấp dưới.
1.3. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế
Thuế là một hình thức huy động nguồn tài chính cho Nhà nước đã có từ lâu đời.
Khi Nhà nước ra đời, thuế trở thành công cụ để Nhà nước có được nguồn thu nhằm trang
trải các chi tiêu của Nhà nước. Trải qua quá trình phát triển lâu dài và cho đến nay, các
Nhà nước đều sử dụng thuế để phân phối các khoản thu nhập và huy động nguồn thu cho
Nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân cư
và các tổ chức kinh tế đóng góp cho Nhà nước. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
khẳng định, một trong những quyền lực công của Nhà nước là thu thuế.
Từ sự phân tích khái quát đó có thể cho thấy, thuế là hình thức đóng góp nghĩa vụ
theo luật định của các pháp nhân và thể nhân cho Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước.
Như vậy việc nộp thuế vào NSNN là nghĩa vụ, là sự đóng góp bắt buộc của các
chủ thể (các doanh nghiệp và dân cư cho Nhà nước). Nguồn của thuế là một phần thu
nhập do lao động, do kinh doanh, do đầu tư tài chính, do chuyển dịch tài sản… mang lại.
Thuế mang sẵn trong nó các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thuế là hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc luật định. Đóng
thuế là nghĩa vụ bắt buộc không được từ chối. Phân phối các khoản thu nhập qua thuế gắn
với quyền lực, sức mạnh của Nhà nước. Nhà nước dựa vào quyền lực to lớn của mình để ấn
định các thứ thuế, bắt buộc người nộp thuế phải thực hiện để Nhà nước có nguồn thu ổn
định, thường xuyên, đảm bảo trang trải các nhu cầu trên của Nhà nước.
1.3.2. Hệ thống thuế ở Việt Nam và phân loại thuế
Hệ thống thuế bao gồm nhiều sắc thuế mà Nhà nước sử dụng, nó tạo lập nguồn thu
cho NSNN và thực hiện những mục tiêu nhất định trong quản lý kinh tế – xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ kinh tế hoạch hóa tập trung sang kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XNCH, hệ thống thuế ở Việt
Nam đã được cải cách căn bản bằng việc ban hành luật, pháp lệnh thuế áp dụng chung cho
mọi thành viên trong cả nước.
Đến nay hệ thống thuế hiện hành ở Việt Nam bao gồm:
- Thuế giá trị gia tăng
- Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thuế nhà đất
- Thuế tài nguyên
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
- Thuế môn bài.
Ngoài ra còn có một số loại thu khác có tính chất thuế như lệ phí trước bạ, lệ phí
chứng thư, lệ phí hải quan, phí giao thông, cầu phí cầu phà, phí đường, phí bay qua bầu
trời…
Bất cứ hệ thống thuế của quốc gia nào cũng đều được phân loại để quản lý. Có
nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng thông thường có các cách phân loại phổ biến sau:
- Phân loại theo tính chất chuyển giao của thuế:
Chuyển giao thuế là việc xác định ai là người nộp thuế, ai là người thực sự phải
gánh chịu thuế. Theo tiêu thức này thuế được chia thành hai loại là thuế trực thu và thuế
gián thu.
+ Thuế trực thu: là các thứ thuế trực tiếp huy động một phần thu nhập của người làm
nghĩa vụ. Đặc điểm cơ bản của thuế trực thu là người nộp thuế và người chịu thuế là một. Nó
đánh trực tiếp vào người nộp thuế, tức là người có thu nhập chịu thuế làm giảm phần thu nhập
của họ. ở đây không có hiện tượng chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác chịu. ở nước
ta, đó là các thứ thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng
đất nông nghiệp.
+ Thuế gián thu: là các thứ thuế mà người nộp thuế gián tiếp nộp thuế cho người
tiêu dùng, họ không phải là người chịu thuế. Đặc điểm cơ bản của thuế gián thu là được
cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ để bán ra. ở đây có sự chuyển giao gánh nặng
thuế từ người nộp thuế theo lượng định sang người tiêu dùng qua cơ chế giá cả. ở nước ta,
đó là các thứ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…
Thuế trực thu có thể trực tiếp điều tiết bớt thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân
nên người ta thường sử dụng thuế suất lũy tiến để điều tiết những thu nhập cao. Thuế gián thu
lại có tầm quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu hàng hóa, mở rộng hoặc thu hẹp sự lưu
thông hàng hóa nên người ta thường sử dụng thuế suất tỷ lệ cao thấp khác nhau nhằm khuyến
khích hay hạn chế chúng.
- Phân loại theo đối tượng đánh thuế.
Dựa vào đối tượng đánh thuế, nghĩa là thuế đánh trên cái gì, thuế được chia thành:
+ Thuế thu nhập như thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp…
+ Thuế tài sản như thuế sử dụng tài sản Nhà nước (thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thuế tài nguyên…), thuế chuyển nhượng tài sản (thuế chuyển giao quyền sử dụng đất, thuế
mua, bán các tài sản như nhà, xe cộ…).
+ Thuế tiêu dùng đánh vào hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị trường trong nước
và xuất nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu…
Cách phân loại này giúp cho việc tìm các giải pháp để quản lý, khai thác, bồi
dưỡng từng nguồn thuế, đồng thời còn giúp cho việc xem xét thuế với việc đảm bảo quản
lý được các hoạt động khác nhau, các nguồn thu nhập khác nhau để có thể mở rộng và phát
triển hệ thống thuế.
1.3.3 Tổ chức bộ máy thu thuế
Tổ chức bộ máy thu thuế. là một trong những nội dung công tác quản lý thu
NSNN có vị trí cực kỳ quan trọng, là điều kiện tiên quyết để đưa các luật thu thuế. vào đời
sống kinh tế xã hội một cách có hiệu quả.
Việc tổ chức bộ máy thu thuế. sao cho gọn nhẹ lại đạt hiệu suất công tác cao trong
bối cảnh phải triển khai một hệ thống thu thuế. đa dạng liên quan đến nhiều đối tượng
trong xã hội là cả một vấn đề hàm chứa nhiều nội dung phức tạp. Nội dung tổ chức bộ máy
thu thuế bao gồm:
* Lựa chọn mô hình bộ máy
Trên phương diện lý thuyết mô hình bộ máy thu thuế phải đạt được hai tiêu chuẩn
quan trọng.
- Gọn nhẹ, tiết kiệm.
- Có khả năng thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các luật về thu thuế.
Trong việc lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy thu thuế. Cần phải xem xét mô hình
đó trong mối quan hệ với các cơ quan chức năng khác trong bộ máy công quyền.
Về vấn đề này, trên thế giới thường có hai mô hình:
- Mô hình thu thuế trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài chính bao
gồm quản lý cả thu và chi.
Mô hình này có ưu điểm là với chức năng quản lý và chịu trách nhiệm toàn bộ các
vấn đề tài chính Nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ tạo điều kiện cho việc điều hành
các vấn đề TCNN của Bộ trưởng thuận lợi. Công tác chỉ đạo thu thuế của Bộ trưởng sẽ sâu
sát hơn. Tuy nhiên, dù sao đi nữa đứng về mặt tâm lý người ta vẫn thấy vai trò quản lý thu
thuế còn có mặt hạn chế.
- Mô hình ngành thuế đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ thu. ở đây không có khái niệm
Bộ Tài chính, mà nhiệm vụ thu chi của NSNN được đặt dưới sự chỉ đạo của hai bộ: Bộ thu
và Bộ chi.
Ưu điểm của mô hình này là sự chỉ đạo về công tác thuế sẽ sâu sát hơn, song việc
quản lý thực thu – chi NSNN trong thực tiễn thiếu sự gắn kết, làm cho sự điều hành TCNN
sẽ gặp khó khăn.
Có thể diễn tả một cách ngắn gọn hai mô hình trên bằng hai sơ đồ 1.1 và sơ đồ 1.2:
Sơ đồ 1.1: Mô hình ngành thuế trực thuộc Bộ Tài chính
Chính phủ
Bộ Tài chính
Tổng cục thuế
Tổng cục Hải
quan
Thủ tướng
Bộ Trưởng
thu
Hội đồng
Bộ trưởng Bộ trưởng
chi
Sơ đồ 1.2: Mô hình ngành thuế trực thuộc Bộ Thu
Từ thực tế trên đây cho thấy rằng ngành thuế không nên là tổ chức độc lập với Bộ
Tài chính. Chính sách tài khóa là một công cụ quan trọng trong điều hành vĩ mô nền kinh
tế, hơn thế nữa chính sách tài khóa lại vô cùng nhạy cảm do vậy Bộ Tài chính phải là cơ
quan điều hành toàn bộ các nguồn thu tài chính trong đó có thuế. Do đó mô hình 1 là phù
hợp với nền kinh tế của Lào hiện nay.
Tuy nhiên, mặc dù ngành thuế trực thuộc Bộ Tài chính song các nước nói chung
và Lào nói riêng ngành thuế vẫn có tính độc lập tương đối. Nó thể hiện ở chỗ về vấn đề tổ
chức ngành thuế hiện hành hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương trực tiếp
tiến hành mọi công việc liên quan trong lĩnh vực thuế. Tổng cục trưởng Tổng cục thuế
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính về cơ chế hành thu, tổ chức về
số thu và các vấn đề khác có liên quan. Về vấn đề ngân sách ngành thuế được phép xây
dựng quỹ ngân sách ngành riêng theo quy định. Quỹ này được hình thành từ nguồn chi
thường xuyên do NSNN cấp cùng với nguồn trích thưởng trên tổng số thu, tổng số truy thu
hay các nguồn hỗ trợ từ các địa phương. Các nguồn khác đó là nguồn để đầu tư trang bị,
hiện đại hóa ngành thuế.
Ngoài ra trong việc lựa chọn mô hình tổ chức ngành thuế cũng cần xem xét đến
mối quan hệ khác như: Mối quan hệ giữa ngành thuế với Hải quan, quan hệ chỉ đạo ngay
trong ngành thuế.
Về mối quan hệ ngành thuế và chính quyền địa phương.
Trước thời kỳ cải cách, hầu hết tại các nước, cơ quan thuế là một bộ phận trong bộ
máy chính quyền các cấp, chịu sự quản lý và điều hành chung của chính quyền địa
phương. Theo mô hình này ngành thuế sẽ được sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền các
cấp, việc triển khai thực hiện chính sách thuế và thực hiện tính nghiêm minh của luật được
tiến hành thuận lợi hơn. Tuy nhiên do trực thuộc chính quyền địa phương nên viện triển
khai thực hiện đồng bộ chính sách thuế trên toàn quốc sẽ gặp khó khăn hơn, thiếu sự chỉ
đạo thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Việc chỉ đạo thu của địa phương nhiều khi mang
tính cục bộ địa phương, mang nặng tính địa phương chủ nghĩa do vậy nó sẽ thiếu tính
thống nhất linh hoạt khi cần thiết nhằm điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống
chính sách thuế. Chính vì vậy khi tiến hành cải cách đối với đa số quốc gia, việc đầu tiên là
tổ chức thống nhất ngành thuế thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương nhằm tập
trung nguồn thu vào NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình thống nhất tổ chức theo ngành dọc
từ Trung ương đến cơ sở, do tính chất phức tạp của công tác hành thu và thực chi luật thuế
cần thiết có sự phối hợp của chính quyền địa phương, do đó chính quyền địa phương vẫn
có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả công tác thuế và tổ chức chỉ đạo cơ quan
thuế địa phương.
Việc tập trung tổ chức từ Trung ương đến cơ sở theo ngành dọc độc lập với chính
quyền địa phương là cần thiết nhằm tập trung quyền lực điều tiết kinh tế vĩ mô vào trong tay
chính quyền Trung ương. Tuy nhiên, mức độ độc lập đến đâu còn tùy thuộc vào mô hình tổ
chức bộ máy nhà nước của mỗi quốc gia.
Ví dụ:
- Đối với các nước có mô hình tổ chức Nhà nước liên bang (Đức, Thụy Sĩ…) thì
chính quyền địa phương như các bang cũng có quyền lực rất lớn về tài chính. Chính do sự
phân quyền độc lập tương đối như vậy nên giữa các bang cũng có các tổ chức thuế tương đối
độc lập với nhau trên cơ sở một pháp luật Thuế chung cho quốc gia. Căn cứ vào Luật Ngân
sách cơ quan thuế các bang có thể tổ chức quản lý thu thuế riêng của bang như thuế đất, thuế
tài sản…
- Đối với các nước có mô hình tổ chức Nhà nước Trung ương tập quyền (như Lào…)
thì hầu hết quyền lực về thuế tập trung vào trong tay chính quyền Trung ương đặc biệt là
quyền tài phán và kiểm soát hành thu thuế. Cơ quan thuế Trung ương phải kiểm soát được
toàn bộ cơ cấu tổ chức, quy trình quản lý thuế trên toàn quốc, việc bổ nhiệm cán bộ thuế
địa phương, tổ chức thuế địa phương kể cả toàn bộ ngân sách chi cho bộ máy thuế ở từng
địa phương.
Về mối quan hệ giữa ngành thuế và Hải quan đối với các nước có mô hình nền
kinh tế kế hoạch tập trung, ngành thuế và Hải quan luôn là hai tổ chức riêng biệt độc lập.
Mô hình này xuất phát từ cơ chế quản lý của các nước này. Do nền kinh tế vận hành theo
kế hoạch đã định, do đó Hải quan chủ yếu đảm nhiệm vai trò kiểm soát hoạt động ngoại
thương (xuất nhập khẩu) hơn thế nữa quan hệ ngoại thương lại chủ yếu tập trung vào một
số nước nhất định (chỉ định sẵn) có quan hệ ngoại giao. Do vậy, hoạt động ngoại thương
mang tính chất hạn hẹp, đơn thuần. Hoạt động kiểm soát, quản lý ngoại thương của Hải
quan chủ yếu thông qua các chính sách ngoại thương phi thuế quan như hạn ngạch trao đổi
hàng hóa và các quy định phi thuế quan khác.
Trong thời kỳ nền kinh tế phát triển, các nước đang chuyển dần từ cơ chế quản lý
chỉ huy, mệnh lệnh, kế hoạch cứng nhắc sang một nền kinh tế được điều tiết bằng các
chính sách kinh tế vĩ mô. Từ chỗ quan hệ hạn hẹp với một số nước chỉ định trong khối
sang thực hiện đa phương hóa quan hệ ngoại thương theo nguyên tắc hoạt động của cơ chế
thị trường. Chính vì vậy, các chính sách quản lý ngoại thương thông qua hạn ngạch phi
thuế quan được chuyển sang quản lý xuất nhập khẩu thông qua chính sách điều tiết bằng
thuế quan (thuế xuất nhập khẩu).
Với chức năng quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu ngành Hải quan lúc này đảm
nhận thêm chức năng thu thuế xuất nhập khẩu, số thu về thuế xuất nhập khẩu của các nước
này thường chiếm khoảng 25 – 30% tổng số thu ngân sách quốc gia. Ngoài chức năng trên
Hải quan còn với tư cách là hàng rào biên giới về kinh tế, nó còn nhiều chức năng khác
như chống buôn lậu, bảo vệ hàng hóa trong nước, bảo vệ và quản lý tài sản quý hiếm của
quốc gia… Lúc này Hải quan trở thành một ngành quan trọng, có quyền lực rất lớn.
Trong thời đại ngày nay, trong xu hướng tự do hóa thương mại thế giới, mở cửa
quan hệ với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Các nước dần dần buộc phải cắt
giảm hàng rào thuế quan. Thu về thuế XNK do ngành Hải quan đảm nhiệm ngày càng suy
giảm và mất dần vai trò trong cơ cấu thu ngân sách. Tuy nhiên, do chức năng cụ thể của
hai ngành có khác nhau, quy trình quản lý Hải quan và quy trình quản lý thuế cũng có sự
khác nhau, do vậy việc thống nhất giữa hai ngành là một tất yếu khách quan.
Về quan hệ trong nội bộ ngành thuế.
Trong quá trình thống nhất tổ chức ngành thuế, vai trò quyền lực và vấn đề tổ chức
cơ quan Thuế Trung ương là một vấn đề vô cùng quan trọng. Mục đích tối ưu là nhằm tập
trung quyền lực thống nhất trong công tác quản lý thuế theo pháp luật. Trên thế giới hiện
nay có hai mô hình tổ chức ở hai mức độ khác nhau sau:
Hình thức thứ nhất là, hình thức tổ chức cơ quan thuế Trung ương theo nguyên tắc
tập thể lãnh đạo. ở hình thức này, cơ quan thuế Trung ương hình thành nên một hội đồng
các Tổng cục trưởng, trong đó có một Chủ tịch hội đồng và nhiều thành viên trong Hội
đồng phụ trách các khu vực, địa phương khác nhau. Hội đồng hoạt động theo nguyên tắc
đa số phiếu thuận, nó hình thành phù hợp với cơ chế Nhà nước Liên bang, nơi chính quyền
các bang, các địa phương có quyền lực lớn. Tuy nhiên, đây cũng có thể là một mô hình
trung gian trước khi đạt được một sự thống nhất quyền lực tập trung đối với các nước đang
chuyển đổi.
Hình thức thứ hai, được đa số các nước có mô hình quản lý Nhà nước Trung ương
tập quyền áp dụng, đó là mô hình tổ chức cơ quan thuế Trung ương theo nguyên tắc cá
nhân lãnh đạo. Trong mô hình này cơ quan thuế có một định thế Tổng cục trưởng chịu
trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính và Chính phủ về công tác quản lý và tổ chức
hành thu.
Trên cơ sở nhìn nhận các mối quan hệ trong mô hình lựa chọn, từ đó các nước xây
dựng mô hình tổ chức cụ thể ngành thuế theo những cách thức khác nhau phù hợp với đặc
điểm từng quốc gia.
Tổ chức bộ máy ngành thuế là nội dung quan trọng trong quá trình cải cách hành
chính thuế, qua việc xây dựng bộ máy ngành thuế phù hợp đảm bảo việc tổ chức quản lý
thuế một cách chặt chẽ, có hiệu quả nhất, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị
trường, hòa nhập với tiến trình hiện đại hóa toàn xã hội. Mô hình tổ chức bộ máy phù hợp
sẽ cho phép áp dụng một cách tốt nhất các trang thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại hóa
ngành thuế.
Một số nước đang phát triển như các nước: Đông Âu, Việt Nam, Lào ngành thuế
có một số đặc điểm nổi bật về vấn đề tổ chức như sau:
Thứ nhất: Ngành thuế thường được tổ chức theo loại hình đối tượng nộp thuế hay
theo sắc thuế.
Thứ hai: Ngành thuế thường tổ chức gắn với các cấp chính quyền hành chính địa
phương theo địa giới hành chính theo 3 cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố, quận, huyện.
Thứ ba: Ngành thuế ngoài chức năng quản lý thuế còn phải giữ các chức năng phụ
khác như: quản lý chặt chẽ hệ thống đối tượng nộp thuế, kiểm soát hoạt động nền kinh tế
quốc dân theo các chính sách vĩ mô, việc quản lý theo đối tượng nộp thuế mà trực tiếp là
cán bộ thuế chuyên quản đơn vị chịu trách nhiệm từ việc kê khai, nộp thuế, thanh quyết
toán tiền thuế đã tạo điều kiện cho cán bộ thuế tiếp xúc quá sâu với đơn vị, có quá nhiều
quyền tự quyết, tùy tiện trong việc tính thuế, thu thuế và xử lý các vấn đề liên quan đến
lĩnh vực thuế. Chính việc tổ chức theo mô hình như vậy là cơ sở để phát sinh những tiêu
cực trong lĩnh vực thuế, thiếu sự chỉ đạo thống nhất theo nguyên tắc nhất định, thiếu sự
giám sát, kiểm tra kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận trong cơ quan thuế. Hơn nữa việc
tổ chức theo địa bàn hành chính dẫn đến sự can thiệp trực tiếp của chính quyền địa phương
vào công việc chuyên môn của ngành thuế theo lợi ích của cục bộ các địa phương.
Theo xu hướng cải cách hiện đại ngành thuế, quy trình quản lý thuế phải thay đổi
cho phù hợp với điều kiện kinh tế hiện đại, phù hợp với việc hiện đại hóa tối ưu ngành
thuế đòi hỏi ngành thuế phải xây dựng một mô hình mới hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Trên
thực tế hiện nay các nước tiên tiến đang áp dụng mô hình tổ chức ngành thuế, theo mô
hình chức năng…
- Mô hình quản lý theo chức năng cho phép chuyên môn hóa sâu cán bộ thuế, tăng
cường hiệu suất quản lý, cho phép cán bộ phát triển theo chuyên môn của người đó thực
hiện.
- Mô hình quản lý theo chức năng hình thành nên một hệ thống kiểm tra chéo
trong nội bộ ngành thuế.
- Mô hình mới đảm bảo cho việc thực hiện quản lý thuế hữu hiệu hơn tạo điều kiện
cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, ứng dụng máy tính vào việc quản lý thuế.
Sơ đồ 1.3: Mô hình quản lý theo đối tượng nộp thuế
Ghi chú:
+ Theo mô hình này, cơ quan thuế hình thành các phòng quản lý theo đối tượng.
+ Cán bộ chuyên quản lý trong các phòng thực hiện tất cả các chức năng quản lý
tự kê khai, tính thuế, đốc thu và kiểm tra.
áp dụng đối với một số quốc gia đang trong quá trình quá độ của cải cách (mô hình
vừa theo đối tượng, vừa theo chức năng).
Cơ quan thuế
Đối tượng nộp thuế
là các pháp nhân
Đối tượng nộp thuế
là các cá nhân
Cơ quan thuế
Các bộ phận khác
theo chức năng
Các phòng trực
tiếp quản lý
thu
Thanh tra
kiểm tra
Sơ đồ 1.4: Mô hình quản lý trung gian
Ghi chú:
+ Mô hình hỗn hợp vừa quản lý theo chức năng, vừa quản lý theo đối tượng.
+ Mô hình này chỉ áp dụng với các nước trong thời kỳ quá độ của cải cách
Sơ đồ 1.5: Mô hình quản lý hiện đại, phù hợp việc tin học hóa
+ Theo mô hình này mỗi bộ phận chỉ chịu trách nhiệm một công đoạn trong quá
trình quản lý.
+ Đối tượng nộp thuế chủ động tự kê khai, tự tính thuế và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về số liệu kê khai.
Cơ quan thuế
Bộ phận
tiếp nhận
và xử lý
tờ khai
công văn
Bộ phận
tính thuế
và thông
báo thuế
Đôn đốc
thu nộp
và quản
lý hướng
dẫn
Cưỡng
chế thanh
tra kiểm
tra
Dịch vụ
tư vấn
đối tượng
nộp thuế
Cơ sở
dữ liệu
phục vụ
thông tin
Cơ quan thuế
Chương 2
thực trạng công tác quản lý thu ngân sách
địa phương ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào
(Ví dụ ở Tỉnh Viêng Chăn)
2.1. Những đặc điểm cơ bản về tình hình kinh tế – xã hội chi phối công tác
quản lý thu ngân sách nhà nước của Lào trong thời gian qua
2.1.1. Đặc điểm chung
Lào là một nước tương đối rộng, nằm sâu trong bán đảo Đông Dương, ở một vị trí
địa lý không thuận lợi cho giao lưu quốc tế, có lịch sử giành độc lập lâu dài. Diện tích tự
nhiên của Lào 236.800km2, có chung biên giới với 05 quốc gia có chế độ chính trị khác
nhau, phía Bắc có biên giới với nước CHND Trung Hoa dài 505km, phía Nam có biên giới
chung dài 435km với vương quốc Cămpuchia, phía tây bắc có biên giới chung dài 236km
với Miên Ma, phía Tây có biên giới dài 1.835km với vương quốc Thái Lan, phía Đông giáp
biên giới với CHXHCN Việt Nam dọc theo dãy núi Trường Sơn dài khoảng 2.069km đây
là nước mà CHDCND Lào có mối quan hệ đặc biệt, hữu nghị toàn diện.
Lào là một đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên, rừng núi trùng điệp, có 03
đồng bằng lớn nằm ở các vùng khác nhau của đất nước và không có đường ra biển là một
khó khăn lớn, đặt Lào vào một vị trí bất lợi về mặt giao lưu quốc tế. Nhân dân Lào hiện
nay khoảng 70 – 80% dân số sống bằng nghề nông. Theo thống kê mới nhất dân số cả
nước Lào hiện nay khoảng 5,2 triệu người. Lào hiện nay có khoảng 68 dân tộc, mỗi dân
tộc có phong tục tập quán khác nhau và sống ở các vùng lãnh thổ khác nhau. Lào có 17
tỉnh và một đặc khu, có mật độ dân số 20 người/km2. Tiếng Lào là ngôn ngữ phổ thông và
cũng là ngôn ngữ chính thức của CHDCND Lào.
Sau khi đất nước hòa bình, độc lập Đảng NDCM Lào đã bắt tay ngay vào việc xây
dựng bảo vệ đất nước và phát triển kinh tế.
Đảng đã đề ra kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế lần thứ nhất (1976 - 1981). Đây là
giai đoạn đầu trong phát triển kinh tế và được coi là giai đoạn khó khăn nhất, chính quyền
cách mạng còn non trẻ, vừa được thành lập, nền kinh tế mà chế độ thống trị đế quốc để lại
hết sức yếu ớt. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta lúc này là "phát triển kinh tế đi đôi
với bảo vệ đất nước, phát triển kinh tế lấy nông nghiệp làm gốc và theo sự chỉ đạo của
Nhà nước".
Trong những năm thực hiện đường lối này, nền kinh tế của Lào phát triển rất chậm.
GDP hầu như không có sự tăng trưởng. Lấy mô hình kinh tế Liên Xô áp đặt vào nền kinh tế
trong nước, cho nên nhiều mặt trong chính sách trở thành thừa và không phù hợp. Sau khi
thực hiện xong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, những kết quả thu được về kinh tế cũng không
có gì đáng kể.
Sau đó, Đảng NDCM Lào lại đề ra kế hoạch 5 năm tiếp theo (1981 - 1986) về phát
triển kinh tế – xã hội. Trong kế hoạch 5 này, Đảng đã xây dựng nền kinh tế tập trung kiểu
hợp tác xã, mọi thành phần kinh tế nằm trong tay Nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh
lỗ lãi đều được ngân sách trợ cấp hàng năm.
Sau một thời gian thực hiện đường lối phát triển kinh tế này, Đảng ta đã nhận ra
một số sai lầm trong quản lý kinh tế vì nóng vội quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế
Lào lúc này đang đứng trước vực thẳm của cuộc khủng hoảng. Trước tình hình đó Đảng đã
bắt đầu xem xét, nghiên cứu và nghĩ đến việc điều chỉnh mô hình kinh tế.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV ngày 13/11/1986 của Đảng NDCM Lào
đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ một nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây được coi là một sự chuyển biến quan trọng đầu tiên sau khi đất nước được
giải phóng, được ghi nhận như một mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển đổi kinh tế có một ý
nghĩa quyết định đối với sự hình thành mô hình kinh tế mới, kinh tế nhiều thành phần phù
hợp với thực tiễn của Lào.
Đường lối kinh tế mới này lại tiếp tục được khẳng định và hoàn thiện thêm tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ V năm 1991, đại hội lần thứ VI năm 1996 và lần thứ VII
năm 2001.
Cho đến nay, đường lối đổi mới kinh tế đã được triển khai được hơn 10 năm. Những
thành tựu kinh tế đạt được trong hơn 10 năm đổi mới cũng đạt được kết quả đáng kể. Chẳng hạn
trong những năm đầu đổi mới (1987 - 1990) GDP hàng năm tăng trung bình 4,5%, trong những
năm (1991 - 1995) đã tăng lên 6,4% và trong những năm (1996 - 2000) GDP hàng năm trung
bình là 6,2%. trong những năm (2000 - 2005) GDP hàng năm tăng trung bình là 6,2%. Thu nhập
bình quân đầu người năm 1985 là 114 USD, năm 1990 là 211 USD, năm 1995 tăng tới 380
USD, năm 2000 chỉ đạt 350 USD và năm 2005 chỉ đạt 380 USD.
Đặc điểm kinh tế: Lào là một nước phát triển nông nghiệp, nông nghiệp là ngành
kinh tế chủ đạo, thu hút 80% lực lượng lao động, nền sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn
chủ yếu canh tác và tổng sản lượng thu hoạch, hàng năm ngành này đóng góp khoảng
52,50% của GDP.
- Hiện nay, Lào có thể coi là nước không có ngành công nghiệp nặng mà chủ yếu
là phát triển công nghiệp chế biến, hàng năm ngành này đóng góp khoảng 22,10% của
GDP.
- Dịch vụ cũng là một lĩnh vực kinh tế quan trọng của Lào. Trong thời kỳ đổi mới,
lĩnh vực dịch vụ của Lào cũng có bước phát triển trong những hoạt động như: Giao thông
vận tải, kho chứa hàng, sở hữu nhà ở, quản lý công cộng và xã hội… trong những năm gần
đây kinh tế dịch vụ cũng có nhiều phát triển, hàng năm ngành này đóng góp 25,40% của
GDP.
- Lào rất có lợi thế về phát triển thủy điện vì điều kiện địa lý rất phù hợp, Chính
phủ rất chú trọng phát triển lợi thế này. Một phần điện của Lào được sản xuất ra bán sang
Thái Lan, hàng năm ngành công nghiệp điện này đem lại khoản thu nhập khá lớn cho
NSNN.
- Lào là một đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên như: thiếc, kẽm, thạch cao,
rừng… Nhưng hiện nay nguồn tài nguyên chưa được đầu tư khai thác mà chỉ có nguồn tài
nguyên rừng được chú trọng khai thác và đóng góp lợi ích không nhỏ vào sự phát triển của
nền kinh tế đất nước.
- Nền kinh tế cũng như các ngành sản xuất của Lào hiện nay có sự phát triển
không đồng đều, rải rác, chủ yếu chỉ phát triển tập trung ở 3 thành phố lớn: Viêng Chăn,
Sa Văn Na Khết, Chăm Pa Sắc, đây được coi là 3 vùng kinh tế trọng điểm của Lào.
- Trong những năm gần đây, nền kinh tế Lào bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính – tiền tệ Đông Nam á, tình hình kinh tế của Lào lúc này gặp nhiều khó khăn, tiền
Kip mất giá nghiêm trọng, so với đồng đô la Mỹ. Thời điểm tháng 07/1997, khi đồng Bạt
Thái Lan bị mất giá, đồng kíp Lào cũng trượt giá từ 960 kíp/1 USD xuống 1.350 kíp/1
USD. Đến tháng 8/1999, giá trị đồng Kip vẫn tiếp tục giảm với tỷ giá 9.740 kíp/1 USD
[10]. Đây có thể coi là sự mất giá chưa từng có của đồng kíp Lào. Có thể nói rằng sự mất
giá này một mặt là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đông Nam á,
một mặt là do chính sách kinh tế – tài chính không chuyển hướng kịp thời với sự diễn biến
của nền kinh tế khu vực và sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó là tình
trạng nhập siêu, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt gần 50% so với kim ngạch nhập khẩu.
Đứng trước tình hình đó Đảng và Nhà nước Lào đã tìm nhiều biện pháp, đưa ra
một số đường lối, chính sách để khắc phục và đối phó với tình hình thực tiễn của từng thời
kỳ. Những nét phác thảo bức tranh về đặc điểm tự nhiên và hiện trạng nền kinh tế Lào cho
thấy việc hoạch định hệ thống thu thuế nói chung và công tác hành chính thuế nói riêng
cũng đang gặp nhiều khó khăn và đang ở trong giai đoạn đầu chịu nhiều yếu tố chi phối.
2.1.2. Tình hình kinh tế Lào
Từ sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm 1986 của Đảng NDCM Lào, đã
từng bước đoạn tuyệt nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự thay đổi về mô hình quản lý kinh tế có tác động sâu sắc
đến toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước.
Từ đó đến nay nền kinh tế của Lào là một nền kinh tế nhiều thành phần không còn
là nền kinh tế thuần chất chỉ có hai thành phần kinh tế – xã hội chủ nghĩa như trong thời kỳ
bao cấp nữa. Số lượng chủ thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường
ngày càng gia tăng. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động theo
các quy luật của kinh tế thị trường, tự do kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật được
phép. Các loại thị trường đã từng bước được hình thành và ngày càng phát triển đa dạng,
phong phú, tạo cho hoạt động kinh tế trở nên sôi động.
Kim gạch xuất khẩu 5 năm 2001 - 2005 đạt khoảng 1,79 tỷ USD. Tốc độ tăng xuất
khẩu bình quân 5 năm đạt gần 5,5% năm, cao hơn kế hoạch 5 năm 1996 –2 000 (1,6%).
Chủ yếu là mặt hàng: điện, cà phê, chế biến lâm sản, may mặc, khoáng sản khai thác...
Kim gạch nhập khẩu 5 năm đạt 2,77 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 2% năm, cao
hơn kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 (1,4%). Chủ yếu là mặt hàng: máy móc thiết bị và các
hàng hóa tiêu dùng...
Thực hiện ODA trong 5 năm đạt khoảng 815 triệu USD, bình quân 163 triệu
USD/năm. việc thực hiện các dự án ODA đã góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế – xã
hội và làm thay đổi bộ mặt đất nước Lào.
Tóm lại, xét về khía cạnh kinh tế có ba yếu tố đáng quan tâm chi phối đến công tác
hành chính thuế đó là:
- Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo.
- Kinh tế nhiều thành phần được khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước.
- Khu vực dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế của
Lào.
Tất cả những thay đổi đó về mặt kinh tế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác
hành chính thuế từ việc hoạch định chính sách thuế, xây dựng quy trình hành thu cho đến
việc tổ chức bộ máy.
2.1.3. Tình hình xã hội
Như chúng ta đã biết với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các
vấn đề về xã hội diễn ra theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực đan xen nhau.
Chiều hướng tích cực là sự bình đẳng và dân chủ trong xã hội được phát huy.
Chiều hướng tiêu cực là xã hội bị phân cực giàu nghèo ngày càng rõ rệt. Mặt khác
do hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh, nhiều vấn đề xã hội đang được đặt ra để cần phải
giải quyết.
Mặt khác, Lào là một đất nước có nhiều bộ tộc sinh sống, trình độ, ngôn ngữ
phong tục tập quán cũng có sự khác nhau.
Những yếu tố xã hội đó tất yếu cần được cân nhắc trong hoạch định chính sách
thuế, tổ chức bộ máy cũng như công tác hành thu.
2.2. Tổng quan về thực trạng quản lý thu ngân sách nhà nước Lào và thu ngân
sách địa phương (Ví dụ ở Tỉnh Viêng Chăn)
2.2.1. Tình hình thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2001 - 2005
- Nguồn thu chủ yếu của NSNN là thuế, nhưng nguồn thu đó còn thất thoát khá
nghiêm trọng, cộng với hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh kém hiệu quả do khả
năng quản lý sản xuất – kinh doanh yếu kém.
Bảng 2.1: Thu ngân sách nhà nước Lào giai đoạn 2001 – 2005
Chỉ tiêu Đơn vị
2000 -
01
2001 -
02
2002 -
03
2003 -
04
2004 –
05
1. GDP Kíp 15,170.0 17,718.0 19,798.0 24,600.0 28,000.0
Tốc độ tăng % 16.8 11.7 24.3 13.8 15.5
2. Tổng thu
NSNN
(Gồm Viện trợ)
Kíp 2,167.5 2,472.9
2,713.0
2,506.0
2,959.0
2,920.0
3,203.0
3,600.0
3,994.0
Tốc độ tăng
Tỷ trọng/GDP
%
%/GDP
14.1
14.3
1.3
14.0
16.5
12.7
23.3
11.9
28.7
12.9
Nguồn: Bộ Tài chính Lào
Về phân cấp thu ngân sách, cả theo chiều dọc và theo chiều ngang, chưa thực hiện
được nguyên tắc vừa tập trung thống nhất nguồn thu vào trong tay NSTW và phát huy tính
năng động sáng tạo của địa phương. Đồng thời trong giai đoạn này, với chế độ phân cấp
mà NSTW chỉ giao nhiệm vụ thu nhưng không giao nhiệm vụ chi cho các địa phương, đã
không điều động được số bội thu tại một số địa phương để điều hòa cho các địa phương
thiếu. Dĩ nhiên, sẽ dẫn đến tình trạng nghịch lý là: mặc dù ngân sách của một số địa
phương có bội thu, nhưng NSTW vẫn phải phát hành tiền để trợ cấp cho các địa phương
thiếu. Từ đó, làm tăng nguy cơ lạm phát trong nền kinh tế và tình trạng bất công bằng giữa
các địa phương là điều khó tránh khỏi.
Nhận xét:
- Tỷ trọng thu NSNN còn thấp và có xu hướng giảm.
Thứ nhất, về mối quan hệ thu ngân sách và GDP. Chúng ta biết rằng, ở mỗi quốc
gia, mỗi tỉnh. Thu NSNN bao giờ cũng chịu sức ép từ hai phía: một là nhu cầu chi tiêu để
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước (tỉnh) và hai là khả năng của nền kinh
tế cho phép Nhà nước (tỉnh) huy động đến mức độ nào. ở tỉnh Viêng Chăn, sức ép trên hết
sức gay gắt và căng thẳng liên tục từ năm 1981 đến nay. Thu ngân sách tỉnh, suy cho cùng,
là phải giải quyết và lượng hóa được quan hệ này bằng tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách
tỉnh, tỷ lệ động viên đó chúng ta gọi là tỷ suất thu Ngân sách cấp tỉnh. GDP và thu ngân
sách cấp tỉnh, chúng quan hệ với nhau như "mẫu" với "tử" cả nghĩa đen và nghĩa bóng
"Mẫu" là GDP, "Tử" là thu ngân sách. GDP là nguồn thu ngân sách. GDP có tăng thì mới
có nguồn để tăng thu ngân sách. Tăng thu ngân sách có tác động trở lại để tăng nguồn của
nó là GDP.
- Tốc độ tăng thu chưa đi đôi với sự tăng trưởng kinh tế.
2.2.2. Thực trạng thu ngân sách ở tỉnh Viêng Chăn
Tỉnh Viêng Chăn đã được tách ra từ thủ đô Viêng Chăn theo nghị quyết đại hội
Trung ương Đảng, ngày 20/08/1981. giai đoạn 1975 - 1981 còn gọi là "Tỉnh và Thủ Đô
Viêng Chăn". Đến đầu năm 1983 đã được chuyển cơ quan sang Tỉnh Viêng Chăn. Tỉnh
Viêng Chăn có diện tích 18.526 km2, vùng miền núi 2/3, vùng đồng bằng 1/3 gồm 12
huyện. Tổng thu ngân sách tỉnh năm 2000 là 35,41 tỷ kíp và GDP làm được 460,78 tỷ;
năm 2001 là 38,24 tỷ kíp và GDP làm được 732,43 tỷ, tăng 58,95 %; năm 2002 là 38,84 tỷ
kíp và GDP làm được 800,47 tỷ, tăng 8,5 %; năm 2003 là 45,29 tỷ kíp và GDP làm được
1.045,76 tỷ, tăng 23,45 %; năm 2004 là 58,20 tỷ kíp và GDP làm được 1.156,57 tỷ, tăng
9,58 %. Trong đó thuế là chiếm tỷ lệ khoảng 85%, hải quân hơn 10% còn lại là nguồn thu
từ phí và lệ phí...
2.2.2.1. Hệ thống chính sách thuế
Trước năm 1995 ở CHDCND Lào thực hiện thu thuế theo thông tư, theo văn bản
dưới luật. Vì thế khi thực hiện nó đã gây nhiều bàn cãi trong quần chúng và giới buôn bán,
nảy sinh ra nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội. Do đó, ngày 14/4/1995 Quốc hội nước
CHDCND Lào đã chính thức thông qua và ban hành luật thuế. Kết quả là hệ thống thuế
thống nhất bao gồm 8 luật Thuế đã được áp dụng cho các thành phần kinh tế như sau:
- Luật thuế doanh thu
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
- Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
- Luật thuế lợi tức
- Luật thuế thu nhập tối thiểu.
- Luật thuế thu nhập
- Luật thuế đất đai
- Pháp lệnh thuế tài nguyên.
Ngoài ra còn áp dụng một số loại phí và lệ phí như: lệ phí giao thông, lệ phí chứng
thư và các lệ phí khác...
Qua 10 năm thực hiện hệ thống chính sách thuế mới này, thu NSĐP ở Tỉnh Viêng
Chăn đã đạt được những kết quả tương đối khả quan và thể hiện như sau:
Qua những năm thực hiện hệ thống thuế mới này đã góp phần quan trọng thúc đẩy đầu
tư sản xuất phát triển mạnh, đặc biệt là đầu tư nước ngoài chẳng hạn số vốn đầu tư nước ngoài ở
tỉnh Viêng Chăn trong năm 1995 là 4,38 tỷ kíp; đến năm 2000 xuống tới 1,40 tỷ kíp và trong
năm 2004 đã tăng tới 11,80 tỷ kíp. Mặt khác, qua thi hành hệ thống thuế mới này đã tạo ra sức
ép buộc các cơ sở sản xuất kinh doanh tăng cường công tác hạch toán kinh doanh, hạch toán kế
toán một cách triệt để hơn. Đây cũng là một yếu tố quan trọng nhằm lập lại trật tự kỷ cương
trong quản lý kinh tế – tài chính theo pháp luật.
Thuế trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách cấp tỉnh: tỷ trọng thuế trong tổng
thu ngân sách tăng từ 64,2% của năm 1995 lên 80% của năm 2000 và tăng lên 85% của
năm 2004. Điều đó khẳng định rằng thuế đang trở thành nguồn thu chủ yếu và ngày càng
quan trọng của ngân sách cấp tỉnh góp phần tích cực trong việc đảm bảo cân đối thu chi
ngân sách.
Bên cạnh những mặt tích cực về mặt quản lý xã hội thì hệ thống thuế đã đảm bảo
sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tạo ra một "sân chơi chung". Hệ thống chính
sách thuế ở Lào cũng bộc lộ nhiều hạn chế tác dụng của từng loại thuế nói riêng và cả hệ
thống thuế nói chung, nó thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Đặt quá nhiều mục tiêu kinh tế – xã hội vào hệ thống chính sách thuế do vậy mà
cơ cấu thuế quá phức tạp, trùng lặp, khung thuế suất quá rộng, trong khi danh mục các đối
tượng chịu thuế không được quy định rõ ràng, đầy đủ, gây trở ngại cho người thu và nộp
thuế. Hơn thế nữa việc áp dụng nhiều chế độ ưu tiên, miễn giảm thuế nhiều dẫn đến việc
thu hẹp diện chịu thuế gây bất bình đẳng trong các đối tượng chịu thuế.
- Sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường ngày càng đa dạng, phong phú,
do vậy chính sách thuế hiện hành chưa bao quát hết nguồn thu phát sinh trong hoạt động kinh tế
dẫn đến gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
- Các chính sách thuế cụ thể trong hệ thống thuế hiện hành còn tách rời nhau, chưa
gắn bó hỗ trợ nhau để cùng phát huy tác dụng, chưa có những nghiên cứu xây dựng cơ cấu
hệ thống thuế hợp lý thích ứng với sự biến đổi của tình hình sản xuất kinh doanh.
- Trong nội dung chính sách thuế còn chưa thực sự đảm bảo sự công bằng giữa các
thành phần kinh tế - xã hội.
Mặt khác, trong xu hướng hội nhập Lào đã và đang phấn đấu trở thành thành viên
của các khối kinh tế. Việc gia nhập các khối kinh tế, đòi hỏi phải tuân thủ theo những quy
định chung của khối trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, lĩnh vực thuế khóa. Hệ thống thuế của
Lào hiện hành, hầu như mới chỉ quan tâm nhiều vào vấn đề kinh tế – xã hội của nội địa,
chưa gắn chặt với sự biến đổi của thế giới. Vì vậy hệ thống thuế ta phần nào chưa phù hợp
với các thông lệ quốc tế, thông lệ khu vực. Điều đó phần nào hạn chế việc thu hút vốn đầu
tư và hoạt động ngoại thương.
Những tồn tại của việc thực hiện hệ thống chính sách thuế của chúng ta là do các
nguyên nhân sau đây:
Hệ thống thuế cũ được ban hành khi mà Lào chưa trở thành thành viên chính thức
của khu vực ASEAN. Do đó chính sách chủ động thuế lúc đó chủ yếu chỉ nhằm vào mục
đích tăng nguồn thu cho ngân sách và bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Vì vậy sắc thuế phải thực hiện cùng một lúc nhiều chức năng như: Phải đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, phải thúc đẩy phát triển kinh tế, phải khuyến khích
sản xuất phát triển, phải bảo vệ sản xuất trong nước, phải thu hút được vốn đầu tư, phải
phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực ASEAN.
Điều đó làm cho việc xây dựng các tiêu chuẩn cho từng sắc thuế chưa rõ ràng,
khoa học và đầy đủ nên trong việc xây dựng căn cứ tính thuế, biểu thuế, phương pháp thu
nộp chưa thật phù hợp.
Do công tác tổ chức quản lý thuế còn nhiều bất cập, cơ quan thuế chưa quan tâm
đúng mức đến việc hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện chế độ sổ sách kế toán, chứng
từ hóa đơn, công tác tuyên truyền, giải thích chính sách chế độ còn hạn chế
Do việc bổ sung, điều chỉnh luật thuế còn rất chậm chưa bắt kịp với biến đổi tình
hình kinh tế trong nước và khu vực. Từ đó làm cho luật thuế trở thành lạc hậu, không phù
hợp với thực tiễn trên 20% cán bộ thu thuế là chưa được đào tạo chuyên môn.
Do việc quy định về miễn giảm thuế còn thiếu, chưa phân tích một cách toàn diện,
việc quy định thuế suất đối với một số mặt hàng còn chung chung, thiếu sự rõ ràng, cụ thể.
2.2.2.2 Quy trình quản lý thu thuế
Theo quy định tại các văn bản hướng dẫn hiện hành với mô hình tổ chức bộ máy,
quá trình quản lý thu thuế được mô tả như sau:
Sơ đồ 2.1: Quy trình quản lý thu thuế
Ghi chú:
Trực tiếp
Gián tiếp
- Cơ quan thuế là cấp quản lý thu thuế theo một địa bàn.
- Phòng trực tiếp quản lý thu được tổ chức theo đối tượng nộp thuế.
Các chức năng: Phòng kế hoạch, ấn chỉ, máy tính.
Theo mô hình tổ chức như trên, mọi vấn đề liên quan đến đối tượng nộp thuế chủ
yếu thông qua phòng nghiệp vụ trực tiếp quản lý thu. Trong mỗi phòng nghiệp vụ, mỗi cán
bộ thuế trực tiếp chuyên quản một số đối tượng thuế nhất định. Việc phân chia đối tượng
Cơ quan thuế
Các phòng
chức năng
Phòng
trực tiếp
quản lý
Phòng thanh
tra và xử lý
tố tụng về
Đăn
g
ký
thu
Kê
kha
i
thu
Thông
báo
thuế
Thu
thuế
và
quyết
Miễn
giảm và
xử lý
các vấn
Thanh
tra
kiểm
tra
Đối tượng nộp
thuế
nộp thuế cho từng cán bộ chuyên quản có thể căn cứ vào địa bàn hoặc theo từng ngành
nghề kinh doanh tùy theo từng địa phương.
Trong cơ quan thuế, phòng quản lý đối tượng nộp thuế mà trực tiếp là cán bộ
chuyên quản đảm nhiệm toàn bộ quá trình thu thuế từ khâu kê khai, đăng ký thuế, tính thuế
và ra thông báo thuế, trực tiếp quản lý thu thuế quyết toán với từng đối tượng nộp thuế.
Các phòng chức năng như phòng kế hoạch, kế toán, phòng ấn chỉ thuế… có nhiệm
vụ giúp lãnh đạo trong việc quản lý thuế trên địa bàn như: xây dựng kế hoạch, báo cáo số
thu, tổng hợp số liệu hay cung cấp toàn bộ sổ sách hóa đơn và toàn bộ ẩn chỉ thuế.
Phòng thanh tra và số lượng tố tụng về thuế trực tiếp kiểm tra đối tượng nộp thuế khi
có đơn thư khiếu tố, khiếu nại, hoặc kiểm tra theo một chương trình đã định sẵn. Thông
thường, việc kiểm tra thuế được tiến hành sau khi các bộ phận trực tiếp quản lý đối tượng
nộp thuế đã thanh quyết toán trong kỳ.
Việc quản lý thuế theo mô hình như trên có một số ưu điểm sau:
- Gắn chặt trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc quản lý đối tượng nộp thuế,
nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức trong công việc của cán bộ thuế.
- Đảm bảo cho cán bộ thuế đi sâu, đi sát, nắm chắc tình hình đối tượng nộp thuế,
đảm bảo cơ sở cho việc quản lý đối tượng nộp thuế.
- Đảm bảo thông tin giữa cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế được thực hiện
nhanh nhất. Xử lý kịp thời các vấn đề vướng mắc về thuế, tạo điều kiện đối tượng nộp thuế
thực hiện tốt yêu cầu của luật.
Quá trình quản lý thuế như trên phù hợp với nền kinh tế ở trình độ nhất định, nhận
thức của đối tượng nộp thuế còn hạn chế, số lượng đối tượng nộp thuế còn ít.
Tuy nhiên, toàn bộ quá trình quản lý thu thuế được thực hiện bởi một phòng (bộ
phận) hay trực tiếp một cán bộ chuyên quản của mỗi đối tượng nộp thuế như vậy rất dễ
dẫn đến một số nhược điểm như:
+ Do thiếu sự kiểm tra giám sát chéo thường xuyên lẫn nhau nên dễ xảy ra một số
hiện tượng như thiếu khách quan, trung thực trong việc xử lý các vấn đề về thuế hoặc một
số sai phạm trong lĩnh vực thuế.
+ Do trao quá nhiều quyền vào trong tay một số các cán bộ chuyên quản hoặc một
phòng quản lý thu thuế, rất dễ xảy ra tình trạng quan liêu cửa quyền trong quản lý thuế và
là cơ sở phát sinh hiện tượng tích cực về thuế.
+ Việc quản lý đối tượng theo dạng cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế
dẫn đến trách nhiệm pháp lý của cơ quan thuế, cán bộ thuế quá cao, không khuyến khích
được đối tượng nộp thuế, nâng cao được ý thức trách nhiệm pháp lý của mình trong việc
thực hiện luật thuế.
+ Việc quản lý như trên chỉ phù hợp khi số lượng nộp thuế còn ở mức hạn chế, với
sự gia tăng về số lượng nhanh chóng như hiện nay một cán bộ thuế không thể đảm nhiệm
được một khối lượng đối tượng nộp thuế với khối lượng công việc như trên.
Quy trình quản lý thuế cụ thể ở CHDCND Lào trong thời gian qua được thực hiện
qua các bước cụ thể sau:
* Quản lý đối tượng nộp thuế
Xuất phát từ những đặc điểm tổ chức bộ máy ngành thuế của Lào đó là:
- Tổ chức bộ máy theo loại hình đối tượng nộp thuế hay sắc thuế.
Cơ quan thuế địa phương thường gắn với chính quyền hành chính địa phương theo
địa bàn hành chính theo 03 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện.
- Ngoài chức năng tổ chức quản lý thu, cơ quan thuế còn đảm nhiệm một số chức
năng khác như phân bổ nguồn thu, kiểm tra giám sát hoạt động của hệ thống các doanh
nghiệp quốc doanh.
Do vậy mỗi đối tượng nộp thuế đều do một bộ phận hay một cá nhân chuyên trách
và hoàn toàn chịu trách nhiệm từ việc kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế của cơ sở.
Kê khai đăng ký thuế là khâu đầu tiên trong công tác quản lý thu thuế, tạo điều
kiện cho cơ quan thuế nắm được cơ bản các thông tin về các cơ sở kinh doanh trên địa bàn
để có căn cứ lập sổ danh bạ thuế, kiểm tra quản lý thu thuế theo đúng luật định.
Việc kê khai đăng ký thuế được tiến hành ở địa bàn và hồ sơ được lưu trữ lại tại cơ
quan thuế nơi trực tiếp quản lý đối tượng.
Để đảm bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên lãnh thổ và phù hợp với
yêu cầu quản lý hiện tại thì UBND các cấp là cơ quan cấp giấy phép đăng ký kinh doanh.
UBND các cấp thường giao cho cơ quan chuyên môn (thường là cơ quan tài chính, quản lý
thị trường hay sở kế hoạch đầu tư) xem xét hồ sơ và trình ủy ban xét duyệt ra quyết định.
Hàng tháng cơ quan thuế phải lấy danh sách các cơ sở kinh doanh hoặc đối chiếu
với cơ quan ra quyết định cấp đăng ký kinh doanh hay quyết định thành lập để xác định
những đối tượng nộp thuế mới chưa đăng ký nộp thuế, những cơ sở giải thể, tạm dừng
hoặc thu hồi giấy phép đầu tư để trên cơ sở có thể quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế.
Trong thời gian qua, việc quản lý đối tượng nộp thuế theo cơ chế như trên đã cho
chúng ta những thành công nhất định, số cơ sở kinh doanh tăng lên nhanh chóng, việc
quản lý đối tượng cũng được cơ quan thuế địa phương tăng cường chặt chẽ và hiệu quả.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế hiện nay với sự gia tăng quá nhanh của các thành phần
kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là số hộ cá thể trong đó chỉ có một số hộ có
đăng ký kinh doanh. Chính vì vậy theo phương pháp cơ quan thuế kê khai quản lý đối
tượng như trên làm quá tải khối lượng công việc của cơ quan thuế. Con số thất thu về đối
tượng nộp thuế ngày một tăng lên. Quá trình lập sổ bộ phận quản lý theo đối tượng thông
qua sổ sách giấy tờ và việc lưu trữ hồ sơ dễ bị thất thoát, rất khó tra cứu. Việc kê khai cấp
sổ đăng ký thuế như trên mang tính chất manh mún theo từng địa phương, không có sự
đồng bộ trên toàn quốc vậy sẽ rất khó kiểm tra, kiểm soát, quản lý trên phạm vi rộng. Việc
đăng ký quản lý đối tượng nộp thuế được thực hiện một cách thủ công hoàn toàn dễ dẫn
đến sự sai sót hoặc dễ phát sinh tích cực trong công tác quản lý.
Việc cơ quan thuế không trực tiếp xem xét cấp đăng ký kinh doanh gây một số
khó khăn nhất định trong công tác quản lý đối tượng nộp thuế. Do không đối chiếu thường
xuyên giữa cơ quan cấp đăng ký kinh doanh với cơ quan thuế gây tình trạng thất thu lớn về
số hộ kinh doanh và đối tượng nộp thuế đồng thời gây khó khăn trong việc quản lý thuế.
* Việc kê khai thuế và nộp thuế
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện lập và nộp tờ kê khai thuế theo từng sắc thuế với cơ
quan thuế địa phương nơi mà cơ sở trực tiếp sản xuất kinh doanh.
Cơ quan thuế có trách nhiệm kiểm tra tính thuế và ra thông báo thuế số thuế phải
nộp (các sắc thuế) của kỳ trước theo luật.
Trong trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh không gửi tờ kê khai thuế hoặc kê
khai không đúng, không đầy đủ theo đúng quyết định, cơ quan thuế có quyền ấn định số
thuế phải nộp của cơ sở kinh doanh theo luật định.
Cơ chế quản lý tu nộp như trên được gọi là phương pháp cơ quan thuế tính thuế.
Phương pháp này trong chừng mực nào đó phù hợp với một số nước có mô hình chủ yếu là
thành phần kinh tế quốc doanh đã được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Theo cơ chế này
trước khi ra thông báo, cơ quan thuế phải kiểm tra tờ khai, tính thuế và xác nhận vào tờ
khai thuế, đồng thời ra thông báo gửi đối tượng nộp thuế. Trong thông báo thuế phải ghi rõ
số thuế phải nộp, nơi nộp thuế và thời hạn nộp thuế.
Hàng tháng căn cứ vào số thuế phải nộp và ngày ấn định mà ghi trên thông báo
thuế, cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện việc nộp tiền thuế vào KBNN hoặc trực tiếp cho
cơ quan thuế sau đó cơ quan thuế có trách nhiệm nộp vào KBNN.
Theo phương pháp cơ quan thuế tính thuế này cơ quan thuế phải chịu trách nhiệm
về việc kiểm tra tính toán của mình, do vậy trách nhiệm pháp lý đối với mỗi cán bộ chuyên
quản là rất lớn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay. Số lượng đối tượng nộp
thuế tăng lên nhanh chóng. Như vậy cơ quan thuế phải kiểm tra xử lý nhiều đối tượng nộp
thuế trong một thời gian ngắn, do đó trách nhiệm pháp lý không được đảm bảo, độ chính
xác không cao, không kịp thời theo yêu cầu quản lý.
Việc nộp thuế ở tỉnh Viêng Chăn trong thời gian qua được thực hiện dưới nhiều
hình thức: Nộp thẳng cho cơ quan thuế, nộp qua tài khoản ngân hàng hoặc nộp thẳng vào
kho bạc Nhà nước tỉnh. Tuy nhiên nộp theo hình thức nào thì cuối cùng số tiền thuế đó vẫn
phải vào đến KBNN. Nhưng vấn đề khó khăn là chứng từ nộp thuế được luân chuyển như
thế nào và làm sao để quản lý việc nộp thuế một cách chặt chẽ nhất, tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho đối tượng nộp thuế.
Kho
bạc
Nhà
nước
Cơ
quan
thuế
Nộp
thuế
Nộp tờ khai định kỳ
Tính thuế
và ra thông báo
Đối
tượ
ng
nộp
thuế
(5) (2)
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ nộp thuế trực tiếp cho cơ quan thuế
1. Đối tượng nộp thuế nộp tờ khai hay phiếu điều tra, cơ quan thuế lập sổ bộ thuế.
2. Căn cứ vào tờ khai, sổ bộ cơ quan thuế ra thông báo thuế.
3. Đối tượng nộp thuế nộp trực tiếp tiền thuế cho cơ quan thuế.
4. Cơ quan thuế xuất trả biên lai, chứng từ thu.
5. Cơ quan thuế tổng hợp số tiền, định kỳ nộp kho bạc.
6. Kho bạc xuất trả chứng từ thu làm căn cứ báo cáo và thanh quyết toán biên lai.
Cơ quan thuế phải xuất biên lai do Bộ Tài chính phát hành cho người nộp thuế để
chứng minh số thuế đã nộp. Sau đó trách nhiệm nộp thuế vào kho bạc còn lại do cơ quan
thuế đảm nhiệm.
Phương pháp thu trực tiếp thường được áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế là các
hộ kinh doanh nhỏ không có tài khoản ngân hàng hay ở cách xa kho bạc Nhà nước hoặc
thường được áp dụng đối với các đối tượng không tự giác đến nộp, nộp thuế mà phải do cán
bộ thuế trực tiếp thu. Phương pháp thu này có thể thuận tiện cho người nộp thuế. Tuy nhiên do
trực tiếp tiếp xúc với tiền nên dễ nảy sinh tiêu cực trong lĩnh vực thuế như: Xâm tiêu tiền thuế,
thu thuế không có chứng từ, biên lai hay thông đồng với đối tượng nộp thuế để tham ô tiền
thuế.
Nộp trực tiếp cho Kho bạc Nhà nước
Chứng
từ thu
Nộp thuế
Trả biên lai chứng
từ
(4)
(3)
(6)
Kho
bạc
Nhà
nước
Đối
tượn
g
nộp
thuế
Cơ
quan
thuế
Tờ khai phiếu
điều tra
Thông báo
Báo cáo
Nộp thuế
Chứng từ
thuế (4)
(3)
(1)
(2)
(5)
Đối chiếu số thu
Sơ đồ 2.3: Quy trình nộp thuế trực tiếp cho Kho bạc Nhà nước
Đây là phương pháp nộp đang khuyến khích đối với một số đối tượng kinh doanh
nhỏ, không có tài khoản ở ngân hàng, nộp theo phương pháp này có khắc phục được các
nhược điểm của phương pháp nộp trên tránh được một số hiện tượng tiêu cực. Tuy nhiên,
để thực hiện phương pháp này có sự chuẩn bị của cả hệ thống Kho bạc vì đối tượng nộp
thuế quá nhiều và ngày nộp thuế thường dồn vào cuối tháng, do vậy việc nộp thuế thường
gây mất nhiều thời gian cho đối tượng nộp thuế, phiền phức cho cơ sở. Do vậy phương
pháp này trong thời gian qua không được ủng hộ của đối tượng nộp thuế.
áp dụng kinh nghiệm một số nước, đặc biệt là kinh nghiệm của Việt Nam, trong
những năm gần đây, ngành thuế của Lào đã cho thí điểm đối tượng nộp thuế trực tiếp nộp
qua ngân hàng được thể hiện bằng mô hình như sau:
Sơ đồ 2.4: Quy trình nộp thuế qua ngân hàng
1. Đối tượng nộp thuế nộp tờ kê khai, phiếu điều tra danh số.
2. Cơ quan thuế ra thông báo thuế.
3. Đối tượng nộp thuế cắt tiền trả ngân hàng (séc, ủy nhiệm chi, điện chuyển tiền).
Kiểm tra đối triếu
Đối tượng
nộp thuế
Cơ quan
thuế
Tờ khai, bảng kê
Thông báo
(1
Séc UNC
ĐCT
Giấy
báo nợ
Ngân hàng uỷ
quyền
C.từ giấy
báo có
Đối
chiếu
Kho bạc Nhà
nước
Giấy báo có
Chuyển tiền
(5
(6
(7 (8
(8
(3
(4
4. Ngân hàng thông báo số tiền đã chuyển đi (Giấy báo nợ).
5. Tiền đang thực hiện chuyển về Kho bạc (thông qua hệ thống ngân hàng).
6. Kho bạc nhận tiền (thông báo cho ngân hàng).
7. Gửi chứng từ cho cơ quan thuế (cùng cấp).
8. Nghiệp vụ đối chiếu định kỳ.
Đây là phương pháp nộp tiên tiến, nhanh gọn, đảm bảo tính chính xác, tránh được
một số hiện tượng tiêu cực. Tuy nhiên, nộp thuế theo phương pháp này chỉ áp dụng với các
cơ sở có tài khoản mở tại ngân hàng. Căn cứ vào thông báo thuế, đối tượng nộp thuế có thể
chuyển tiền vào KBNN bằng giấy nộp tiền, bằng chuyển khoản, ủy nhiệm chi hay chuyển
tiền theo mục lục ngân sách đã quy định. Sau khi nhận được tiền KBNN chuyển trả cho cơ
quan thuế cùng cấp một chứng từ xác nhận số thuế vào ngân sách. Tuy nhiên, theo phương
pháp này hiện nay đối tượng nộp thuế sau khi chuyển tiền không có chứng từ chứng minh
số tiền đã nộp vào ngân sách mà muốn có phải sao in từ cơ quan thuế nơi trực tiếp quản lý.
Tuy vậy, phương pháp này vẫn là phương pháp nộp tiên tiến nhất và trong tương lai ngành
thuế nên hướng dẫn cho các đối tượng nộp thuế nộp theo phương pháp này.
* Công tác thanh tra kiểm tra thuế
Thanh tra thuế là một mặt của hoạt động kiểm tra nói chung. Tuy nhiên, thanh tra
thuế là hoạt động giám sát kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ
quan thuế, là loại kiểm tra ở giai đoạn sau khi các hoạt động có liên quan đến thuế đã phát
sinh, nhằm tìm ra bản chất của vấn đề và truy cứu trách nhiệm nếu thấy cần thiết. Kết quả của
thanh tra là một trong nước cơ sở pháp lý có hiệu lực trong hoạt động xét xử của tòa án đối với
các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy thanh tra, thực chất là hoạt động đánh giá có tính chất
công quyền, là hoạt động của cơ quan giám sát thực hiện pháp luật.
Trong nghĩa vụ thi hành luật thuế của các đối tượng có sự khác nhau. Thanh tra
thuế có nhiệm vụ thanh tra cả đối tượng thi hành luật thuế trực tiếp và cả đối tượng được
Nhà nước giao quyền thu thuế.
Nội dung của thanh tra thuế đối với các tổ chức cá nhân thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký kê khai nộp thuế.
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về sổ sách chứng từ hóa đơn kế toán
của các đơn vị, cá nhân làm nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước.
- Thanh tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế theo luật định.
Đối với đối tượng được giao nhiệm vụ thu thuế và quản lý thuế, thanh tra thuế tập
trung vào một số nhiệm vụ sau:
- Thanh tra việc thực hiện và hướng dẫn đối tượng nộp thuế trong việc áp dụng
luật thuế và thực hiện các quy định của Nhà nước.
- Thanh tra việc sử dụng các quỹ, tài sản trong nội bộ ngành thuế.
- Thanh tra trực tiếp giải quyết các đơn thư khiếu tố của công dân.
Trong thời gian qua, thanh tra thuế đã góp phần quan trọng nâng cao kết quả quản lý
thu thuế, khai thác nguồn thu, chống thất thu, thất thoát ngân sách Nhà nước. Điều quan
trọng nhất là thông qua hoạt động thanh tra kiểm tra luật thuế và các văn bản dưới luật được
thực hiện nghiêm chỉnh hơn, nâng cao tính nghiêm minh của luật. Đảm bảo công bằng, hợp
lý trong nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế đồng thời làm trong sạch hóa đội ngũ cán
bộ thuế.
Tuy nhiên, trong thời gian qua thanh tra thuế ở nước ta chưa được quan tâm đúng
mức cả về con người, cơ sở vật chất và đặc biệt là quy chế hoạt động.
Với cơ chế cơ quan thuế tính thuế, do tổ chức bộ máy ngành thuế theo sắc thuế và
đối tượng nộp thuế, do vậy chức năng thanh tra kiểm tra và xử lý tố tụng về thuế được thực
hiện do một bộ phận thanh tra trong bộ máy ngành thuế đảm nhiệm. Do cơ chế quản lý
thuế như vậy nên việc phân định chức năng trong quy trình quản lý thuế không rõ ràng, tất
cả các bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế đều có quyền kiểm tra đối tượng nộp thuế, do vậy
công việc hết sức chồng chéo, thanh tra thường tiến hành việc kiểm tra đối tượng nộp thuế
sau khi bộ phận chuyên quản đã trực tiếp thanh quyết toán tiền thuế do vậy việc xử lý các
vi phạm về thuế chưa được thực hiện triệt để, công việc thanh tra hàng ngày chủ yếu là xử
lý các trường hợp có tố tụng về thuế.
* Cưỡng chế thuế và xử lý tố tụng thuế
Trong thời gian qua, trong các chế tài cụ thể của luật thuế đều quy định quyền thi
hành pháp luật và cưỡng chế thi hành pháp luật. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thuế là hành vi do tổ chức, cá nhân vi phạm những quy định của luật thuế, pháp lệnh
thuế và các văn bản dưới luật.
Các trường hợp vi phạm cụ thể xử lý theo luật thường được quy định trong phần
"xử lý vi phạm" trong các thông tư hướng dẫn. Các trường hợp buộc phải xử lý theo luật
định, thường là do vi phạm lặp đi lặp lại nhiều lần vi phạm có chú ý hay cố tình, những vi
phạm mang tính chất nghiêm trọng tùy theo từng trường hợp cụ thể được quy định trong
luật thuế mà xử lý theo các mức độ từ nhắc nhở, cảnh cáo, phạt hành chính, ấn định số
thuế, truy thu thuế hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc xử lý các vi phạm và cưỡng chế thuế nhằm mục đích ngăn chặn kịp thời hành
vi không chấp hành luật, tuy nhiên trong thời gian qua, việc xử lý các trường hợp vi phạm
chưa thật nghiêm minh, quyền hành của cơ quan thuế trong việc xử lý và cưỡng chế chưa
cao chính vì vậy hoạt động này chưa thực sự phát huy tác dụng.
Cùng với việc xử lý và cưỡng chế các vi phạm về thuế, việc khiếu nại và xử lý tố
tụng về thuế cũng bị hạn chế. Theo quy định của luật, đối tượng nộp thuế khi không chấp
nhận số thuế được tính hay các quyết định của cơ quan thuế thì có thể không chấp nhận số
thuế được tính hay các quyết định của cơ quan thuế thì có thể khiếu nại lên ba cấp.
- Cấp cơ quan thuế địa phương trực tiếp quản lý.
- Cấp cơ quan thuế cấp tỉnh.
- Cấp cơ quan thuế Trung ương.
Và thông thường người ra quyết định cuối cùng là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tất cả
các cấp đều do hệ thống hành pháp trực tiếp xử lý trong khi đó ngành thuế là người tham
mưu các văn bản về thuế, ngành thuế là người thực hiện luật và các pháp lệnh về thuế
đồng thời khi có sự tranh chấp giữa người nộp thuế và cơ quan thuế thì vẫn là ngành thuế
đứng ra xử lý. Việc quy định như trên làm cho đối tượng nộp thuế có cách nhìn không
khách quan trong việc thực thi luật và xử lý vi phạm, thiếu sự bình đẳng.
Trong tương lai việc cải cách hành chính thuế không chỉ dừng lại ở khâu hành
pháp mà còn phải mở rộng sang khâu tư pháp, việc phân sử các vấn đề về thuế có thể được
tiến hành ở hai cấp, cấp hành chính và cấp tòa án độc lập, chỉ khi đó đối tượng nộp thuế
mới thực sự nhìn nhận sự công bằng và độ tín nhiệm trong công tác quản lý hành chính
thuế.
2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy ngành thuế trong thời gian qua
2.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế Trung ương
Sau khi đất nước đã giải phóng và thành lập nước CHDCND Lào, ngành thuế và
ngành Hải quan đã nằm trong một vụ và được gọi là vụ Hải quan – Thuế. Dù là nằm trong
cùng một vụ nhưng chức năng và nhiệm vụ của mỗi ngành vẫn là khác nhau. Ngành thuế
đảm nhiệm việc quản lý thu thuế trong nội địa, còn ngành Hải quan đảm nhiệm việc quản
lý về ngoại thương. Đến ngày 13/8/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã thống nhất xây dựng lại
vụ Hải quan – Thuế, từ đó vụ Thuế và vụ Hải quan đã trở thành hai vụ độc lập.
Vụ thuế là một bộ máy trong hệ thống thu của NSNN và trực thuộc Bộ Tài chính,
có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Làm tham mưu cho Bộ Tài chính trong việc nghiên cứu, soạn thảo các văn bản
về thuế để Bộ Tài chính, trình Chính phủ và Quốc hội, tổ chức phổ biến các luật thuế đã
được ban hành ra phạm vi toàn quốc.
- Chỉ đạo hệ thống thuế Nhà nước quản lý công tác thu thuế và thu khác, thống
nhất trong cả nước theo các văn bản quy định và kiểm tra giám sát việc chấp hành các luật
Thuế.
Việc thành lập hệ thống thuế trong thời gian qua là theo ngành dọc tập trung
nguồn lực Trung ương đến cơ sở nhằm đạt mục tiêu tối ưu và tập trung nguồn lực vào
trong tay cơ quan thuế Trung ương để tăng cường khả năng chỉ đạo thống nhất công tác
quản lý theo pháp luật. Bộ Tài chính hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hoạt
động của bộ máy theo ngành dọc này.
Tổ chức cơ quan thuế Trung ương được tiến hành theo nguyên tắc cá nhân lãnh
đạo. Cơ quan thuế Trung ương có một định chế vụ trưởng. Do Bộ trưởng Bộ Tài chính đề
nghị Chính phủ bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính và Chính phủ
về công tác quản lý thuế.
Những năm qua ở CHDCND Lào mô hình tổ chức bộ máy ngành thuế được tổ
chức theo loại hình đối tượng nộp thuế và theo sắc thuế. Tại cơ quan thuế Trung ương Vụ
trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính và Nhà nước về toàn bộ hoạt động của ngành,
giúp việc cho Vụ trưởng có hai Phó vụ trưởng phụ trách các mảng khác nhau trong công
việc.
Để giúp cho Vụ trưởng, Vụ thuế còn có 5 phòng ban trực thuộc bao gồm: phòng
ấn chỉ, chính sách và tuyên truyền; phòng kế toán, thống kê, kế hoạch và tổng hợp; phòng
kiểm toán và thanh tra thuế; phòng tổ chức và hành chính; phòng quản lý thu thuế.
Vụ thuế là một tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Bộ Tài
chính và Chính phủ về việc triển khai thực hiện hệ thống chính sách thuế, tổ chức việc thu
ngân sách do vậy, mối quan hệ giữa Bộ Tài chính và Vụ Thuế là mối quan hệ chỉ đạo. Bộ
Tài chính tham gia điều hành cả tổ chức bộ máy và các hoạt động của vụ thuế trong đó đặc
biệt là hệ thống chính sách thuế và quy trình quản lý thu thuế. Việc cơ cấu tổ chức như trên
nhằm đảm bảo tính thống nhất cao giữa chính sách thuế và hệ thống chính sách tài khóa
nói chung giúp Bộ Tài chính điều hành một cách đồng bộ thống nhất hệ thống chính sách
tài khóa, thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Đứng trên phương diện về tổ chức, nhiều chuyên gia cho rằng trong bối cảnh hiện
nay việc đặt Vụ thuế dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Tài chính là thích hợp và đây cũng
là mô hình tổ chức mà nhiều nước được áp dụng.
Tuy nhiên, vấn đề này quan trọng là tạo ra một cơ chế lãnh đạo sao cho đảm bảo
nguyên tắc vừa tập trung cao vừa phát huy đầy đủ dân chủ trong chỉ đạo.
Trong việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, Vụ Thuế có mối quan hệ đặc biệt với các
địa phương trong công tác thuế, đảm bảo sự song trùng lãnh đạo của ngành thuế và UBND
các cấp trong công tác thuế, cụ thể là:
Về mặt tổ chức: Trước khi ra quyết định để bầu lãnh đạo cơ quan thuế địa phương,
Vụ thuế phải trao đổi thống nhất và được sự nhất trí bằng văn bản của chính quyền địa
phương.
Về mặt hoạt động nghiệp vụ: Cơ quan thuế phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính
quyền địa phương trong việc tổ chức thu thuế, giúp địa phương trong việc hoạch định ngân
sách hàng năm, đề xuất các biện pháp quản lý thu thuế trên địa bàn, tranh thủ sự ủng hộ
của chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan trong việc chống thất thu thuế.
Trong thời gian qua, quan hệ giữa ngành thuế và chính quyền địa phương được
củng cố và phát triển, ngành thuế đã tranh thủ triệt để sự ủng hộ của các cấp chính quyền
địa phương, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Tuy nhiên ở một số địa phương
sự can thiệp quá sâu của chính quyền địa phương vào công tác thuế đặc biệt là việc miễn
giảm, để lại tiền thuế không đúng thẩm quyền; việc quy định hoặc điều tiết tiền thuế không
đúng quy định đã làm ảnh hưởng không ít đến việc thực hiện luật thuế.
Ngoài ra, mối quan hệ trong nội bộ ngành thuế là các mối quan hệ mang tính chất
chỉ đạo nghiệp vụ hay hành chính đơn thuần. Đối với cơ quan thuế cấp trên trong thời gian
qua tuy đã bám sát cơ sở để chỉ đạo song trong chỉ đạo chưa có chương trình kế hoạch cụ
thể trên tất cả các mặt hoạt động hướng dẫn giải đáp chính sách nghiệp vụ quản lý chưa
kịp thời để đảm bảo việc thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế, đồng thời chưa tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý những vi phạm thiếu sót, khen thưởng kỷ luật nghiêm
minh với các trường hợp vi phạm.
Ngoài ra trong mối quan hệ phối hợp trên khía cạnh quản lý thu thuế xuất nhập khẩu,
Vụ thuế cũng có mối quan hệ khăng khít với Vụ hải quan. Mặc dù là một tổ chức độc lập với cơ
quan thuế, song Vụ Hải quan lại đảm nhiệm một phần quan trọng trong việc thu thuế xuất nhập
khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong công việc này
cũng gây khó khăn không ít cho việc điều hành chính sách thu thuế đồng thời gây khó khăn cho
cả đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Ngoài các mối quan hệ trên, cơ quan thuế cần phải có mối quan hệ mật thiết với
các cơ quan khác như: Công an, kiểm soát, thanh tra, tài chính, quản lý thị trường. Để phối
hợp trong công tác thu thuế và cưỡng chế thuế; phối hợp mật thiết với các cơ quan tuyên
truyền, báo chí, các tổ chức quần chúng để làm tốt công tác tuyên truyền vận động các đối
tượng nộp thuế chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước.
Cơ cấu tổ chức cơ quan thuế Trung ương mặc dù đã hình thành và đã thu được
những thành tựu đáng kể, tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các tổ chức, các
thành phần kinh tế đã bung ra khá mạnh mẽ đòi hỏi thuế phải có một cơ chế quản lý mới,
cơ chế tự kê khai, tự tính thuế và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực
hiện pháp luật của mình. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào công tác quản lý
thuế, quy trình quản lý mới với việc sử dụng máy vi tính đòi hỏi cơ cấu tổ chức ngành thuế
và đặc biệt là cơ quan thuế Trung ương phải có cải cách sao cho phù hợp với những yêu
cầu mới, những nhiệm vụ mới.
2.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan thuế ở tỉnh Viêng Chăn
ở tỉnh Phòng thuế là cơ quan chuyên môn trực thuộc Vụ Thuế đặt tại các tỉnh
thành phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo song trùng với Vụ Thuế và Sở Tài chính cùng cấp để
tổ chức công tác thu thuế và thu khác trên địa bàn.
Mô hình chung của cơ cấu tổ chức bộ máy các phòng thuế ở các tỉnh thành phố
bao gồm:
- Tổ kế toán, thống kê, kế hoạch và tổng hợp.
- Tổ thanh tra và xử lý tố tụng về thuế.
- Tổ quản lý thu thuế.
- Tổ tổ chức cán bộ và hành chính.
Theo mô hình trên, các bộ phận nghiệp vụ bố trí chủ yếu theo đối tượng nộp thuế.
Cán bộ chuyên quản trực tiếp quản lý, theo dõi một số đối tượng nộp thuế và chịu trách
nhiệm pháp lý về việc chấp hành chính sách thuế của đối tượng nộp thuế do vậy mô hình
này đã bộc lộ rất nhiều hạn chế (đã trình bày rõ trong phần quy trình quản lý thu thuế).
Cũng như mô hình ở Trung ương, phòng thuế là một tổ chức trực thuộc vụ thuế
đồng thời cũng trực thuộc sở tài chính cùng cấp. Vậy phòng thuế các tỉnh thành phố chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của vụ thuế đồng thời chịu sự chỉ đạo song trùng của Sở tài chính cùng
cấp.
Mối quan hệ giữa phòng thuế với Sở Tài chính, KBNN là mối quan hệ tác động lẫn
nhau, hỗ trợ tạo điều kiện cho nhau hoàn thành nhiệm vụ do Bộ Tài chính, UBND địa phương
giao cho. Việc ngành thuế có hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình hay không một phần phụ
thuộc vào việc hỗ trợ đắc lực của Kho bạc cùng cấp. Thực tế trong thời gian qua, công cuộc cải
cách hành chính thuế trong đó đặc biệt là vấn đề nộp thuế qua Kho bạc là một hướng đi đúng.
Tuy vậy, mặc dù hệ thống KBNN đã được cải tiến nhiều nhưng chưa thực sự chuẩn bị đầy đủ
cho công việc này, chính vì vậy đối tượng nộp thuế gặp nhiều khó khăn trong việc mang tiền
trực tiếp đến Kho bạc để nộp thuế.
Trong chương trình cải cách thuế hiện nay, hệ thống thuế đã thay đổi, cơ chế quản
lý thuế thay đổi và quy trình nghiệp vụ thu thuế cũng thay đổi. Do vậy mô hình quản lý
theo dõi đối tượng nộp thuế qua sắc thuế không còn phù hợp nữa, việc áp dụng hệ thống
máy vi tính vào quy trình quản lý thuế đòi hỏi việc bố trí cơ cấu bộ máy thuế ở cơ sở cũng
thay đổi sao cho phù hợp đáp ứng yêu cầu quản lý mới.
2.3.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế địa phương cấp huyện
Cấp huyện gọi là tổ thuế, là một cơ quan chuyên môn đặt tại các huyện, trực thuộc
phòng Thuế các tỉnh đồng thời trực thuộc phòng Tài chính cấp huyện cùng cấp, có chức năng
trực tiếp tổ chức công tác thu thuế và thu khác trên đảm bảo theo đúng luật pháp và sự hướng
dẫn của cơ quan thuế cấp trên.
Mô hình chung của tổ chức bộ máy cơ quan thuế cấp huyện bao gồm:
- Bộ phận văn phòng: Bộ phận này có nhiệm vụ hướng dẫn, tuyên truyền luật và
các văn bản về thuế cho các tầng lớp nhân dân và các đơn vị kinh doanh mà nằm trên địa
bàn; xây dựng kế hoạch thu thuế trên địa bàn; quản lý và sử dụng quỹ ngân sách theo quy
định của cấp trên.
- Bộ phận quản lý thu thuế: Bộ phận này có nhiệm vụ tổ chức cho các đơn vị kinh
doanh trên địa bàn đăng ký thuế đầy đủ; tổ chức tính toán mức thuế phải nộp cho từng đối
tượng nộp thuế, lập và phát hành thông báo thuế làm các nhiệm vụ kế toán thống kê về thuế,
lập các báo cáo về tình hình thu thuế của cơ quan.
- Bộ phận kiểm tra thuế: Bộ phận này thực hiện nghiệp vụ kiểm tra xử lý đối với
các đối tượng nộp thuế, cán bộ thuế trong tổ theo chương trình kế hoạch kiểm tra đã định
sẵn hoặc theo đơn thư tố giác…
Về tổ chức bộ máy cơ quan thuế cấp huyện đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
trong việc quản lý thuế trên địa bàn nhưng trong thời gian qua còn một số tồn tại chủ yếu
sau đây:
+ Việc tổ chức tư vấn thuế nhiều nơi hoạt động còn mang tính hình thức, số lượng
cán bộ thuế còn ít chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.
+ Trình độ năng lực của cán bộ thuế chưa đáp ứng yêu cầu phần lớn cán bộ chưa
được qua lớp đào tạo về chuyên môn. Tình hình tiêu cực ở một số cán bộ thuế vẫn còn.
Sơ đồ 2.5: Tổ chức hệ thống thu thuế Nhà nước
Quan hệ trực tiếp; Quan hệ gián tiếp
2.4. Những vấn đề đang đặt ra trong công tác quản lý thu ngân sách nhà nước
Bộ Tài chính
Các vụ Vụ thuế Các phòng
nghiệp vụ
Các phòng
nghiệp vụ thuế
Các phòng
chức năng
Sở tài chính Phòng
kho bạc NN
Phòng thuế
(Tỉnh, Thành phố)
Các tổ
chức năng
Phòng tài chính
Các bộ phận
chức năng
Tổ thuế (Huyện)
Các tổ
nghiệp vụ thuế
Tổ kho bạc
Các bộ phận
nghiệp vụ thuế
Công tác quản lý, điều hành và thực hiện NSĐP cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế,
thể hiện tập trung ở một số điểm sau:
Về phân cấp ngân sách, Luật thu NSNN của CHDCND Lào quy định: "Tất cả
các nguồn thu của Nhà nước phải được thể hiện trong một kế hoạch thu NSNN thống
nhất… Nếu trong trường hợp cần thiết phải phân cấp quản lý thu NSNN – tức là giao
thu cho địa phương hay một cơ quan nào đó phụ trách – thì Chính phủ sẽ đề nghị Quốc
hội xem xét" [Điều 3 và Điều 11]. Cơ chế đó đã đáp ứng yêu cầu tập trung thống nhất
toàn bộ NSNN vào trong tay Nhà nước, có tính đến phân cấp ngân sách cho địa
phương, nhưng do thiếu những quy định cụ thể nên chưa phát huy được tính tích cực
sáng tạo của các địa phương trong việc quản lý và thực hiện thu NSĐP; Ví dụ: Hầu như
mọi khoản chi tiêu ngân sách của các huyện đều do Sở Tài chính tỉnh chịu trách nhiệm
điều hành một cách chặt chẽ trong khi kế hoạch thu ngân sách lại giao khoán cho ngân
sách huyện tận thu mọi giá bất chấp khả năng và điều kiện nguồn thu thực tế của từng
huyện. Từ đó một mặt làm cho các khoản chi tiêu thường xuyên của ngân sách huyện
gặp khó khăn, lãng phí và bị ách tắc; mặt khác phát sinh nợ nần triền miên, thu ngân
sách huyện không thực hiện được kế hoạch,… Thực tế đó, đòi hỏi Chính phủ Lào cần
phải khẩn trương sửa đổi cơ chế phân cấp quản lý NSNN để tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy kinh tế Nhà nước phát triển phải hợp lý theo từng vùng và từng địa phương.
Về bộ máy quản lý NSĐP và cán bộ. Nói chung bộ máy quản lý NSĐP ở tỉnh
Viêng Chăn cho đến bây giờ vẫn còn cồng kềnh, kém hiệu lực, đẻ ra tệ "ăn bám" và nạn
tham nhũng khá nặng nề và phổ biến. Còn cán bộ thì tình trạng "thừa thiếu" vẫn phổ biến,
hơn nữa cán bộ yếu kém về khả năng quản lý vừa chưa theo kịp yêu cầu mới, nó được thể
hiện trên các mặt:
- Cán bộ quản lý tài chính, thu NSĐP thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, thiếu
kiến thức kinh tế hiện đại, quản lý tài chính còn thiếu năng lực tổ chức và hoạt động thực
tiễn, bỡ ngỡ, lúng túng trước các đối thủ cạnh tranh,
- Cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý thu NSĐP thiếu đồng bộ, đông nhưng không
mạnh, thiếu chuyên gia, thiếu một đội ngũ nhân viên có tay nghề và nghiệp vụ cao, hệ
thống tổ chức dịch vụ và tư vấn quản lý còn non yếu.
- Phong cách làm việc quan liêu, giấy tờ, nặng về mệnh lệnh – hành chính cửa
quyền.
- Tổ chức cán bộ và quản lý, thu NSĐP còn tùy tiện, thiếu ổn định theo các chức
nghiệp, thiếu nề nếp và quy tắc hành chính chặt chẽ, không hướng tới năng suất, chất
lượng và hiệu quả. Đồng thời, thiếu các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ quản lý,
nhất là hệ thống bảo đảm thông tin.
Những mặt yếu kém trên của đội ngũ cán bộ quản lý thu NSĐP do nhiều nguyên
nhân, từ trình độ yếu kém của nền kinh tế, chính sách và cơ chế quản lý tài chính từ công
tác cán bộ cũng như do chính những con người trong đội ngũ cán bộ quản lý; vừa là
nguyên nhân vừa là kết quả của thực trạng quản lý thu NSĐP ở tỉnh Viêng Chăn hiện nay
và việc khắc phục sự yếu kém là một quá trình không đơn giản.
Tóm lại, ngoài nguyên nhân chung là do trình độ yếu kém của nền kinh tế xã hội,
những nguyên nhân chủ yếu làm cho quản lý thu NSĐP ở tỉnh Viêng Chăn có nhiều tồn tại
trên đây là do:
- Tỉnh Viêng Chăn chưa phổ quát tiền tệ hóa trong nền kinh tế, nhiều làng bản xa
xôi vẫn còn trao đổi vật.
- Khi chuyển sang cơ chế mới còn nhiều chính sách thiếu nhất quán, chưa đồng bộ,
phong cách quản lý chưa thoát khỏi cơ chế cũ. Một số quan điểm đổi mới quản lý thu NSĐP
trong việc huy động và sử dụng nguồn tu ngân sách phù hợp với đặc điểm đặc thù kinh tế – xã
hội Lào chưa sát thực và rõ ràng.
- Việc phối hợp chính sách tài chính (chính sách ngân sách) với chính sách tiền tệ
có lúc chưa tốt.
- Việc phối hợp giữa đề ra một chính sách, phương pháp quản lý thu NSĐP phù
hợp với tổ chức, sắp xếp bộ máy và cán bộ thực hiện chính sách thiếu đồng bộ. Bộ máy
hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả, biên chế vừa thừa vừa thiếu, cán bộ kém chất
lượng….
Chính sách thuế còn mang tính giải quyết tình huống, chủ yếu là tập trung nguồn
thu vào NSNN, mà chưa thực sự là công cụ thúc đẩy sản xuất – kinh doanh và đầu tư phát
triển.
Qua phân tích nội dung hệ thống thuế và công tác quản lý thu ở tỉnh Viêng Chăn.
Cho phép rút ra kết luận:
+ Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách tỉnh Viêng Chăn và có xu hướng ngày
càng tăng về tỷ trọng, đến nay thuế chiếm khoảng 80 % của ngân sách tỉnh.
+ Hệ thống thuế được hình thành đã lâu, bên cạnh những mặt tịch cực đạt được
cũng bộc lộ những hạn chế tồn tại ở thời điểm hiện ngay như: tỷ lệ huy động về thuế có xu
hướng giảm dần vai trò tắc động của thuế đối với sản xuất kinh doanh còn hạn chế, các
chính sách thuế còn nhiều điểm chưa phù hợp thông lệ quốc tế.
+ Tổ chức công tác thu nộp thuế còn bất cập, chủ yếu do sử dụng phương pháp
khép kín do cơ quân thuế ấn định thuế, công tác thanh tra, kiểm tra chưa hiệu quả, gây thất
thoát nguồn thuế.
Chương 3
giải pháp tăng cường quản lý thu
ngân sách nhà nước ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(ví dụ ở tỉnh viêng chăn)
3.1. Mục đích nhiệm vụ của công cuộc cải cách tăng cường quản lý thu thuế giai
đoạn hiện nay
3.1.1 Những đòi hỏi khách quan tiếp tục công cuộc cải cách tăng cường quản
lý thu thuế trong giai đoạn hiện nay của Lào
Trong những năm qua cùng với công cuộc cải cách quản lý thu NSNN nói chung,
công cuộc quản lý thu thuế ở Lào đã có những tiến bộ đáng kể trên phương diện hoạch
định chính sách, tổ chức bộ máy, đào tạo đội ngũ cán bộ cũng như việc xác lập quy trình
thu thuế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được công tác quản lý thu thuế cũng còn
nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện trong bối cảnh mới. Có thể xem xét
bối cảnh mới của đất nước trên những khía cạnh sau đây:
- Về mặt kinh tế: Trong khi mà đất nước đã bước vào thời kỳ mới, thời kỳ công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Một trong những yếu tố quan trọng quyết định thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước là vấn đề vốn, vốn
cho Nhà nước và vốn cho các doanh nghiệp. Thuế được coi là một trong những công cụ
tác động đến việc xử lý vấn đề vốn giữa hai khu vực Nhà nước và doanh nghiệp. Để thuế
có tác dụng xử lý đúng đắn mối quan hệ này không thể không đề cập đến vấn đề tăng
cường quản lý thu thuế. Mặt khác để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước chủ trương đẩy mạnh và phát triển kinh tế đối ngoại nhằm thu hút vốn,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, việc đánh
thuế của Nhà nước rất có nhạy cảm đối với chương trình kinh tế đối ngoại. Một nền hành
chính tồi, không đáp ứng với hàng mới sẽ là một rào cản cho việc thu hút đầu tư nước
ngoài mở rộng thị trường hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Về mặt xã hội: Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước trong thời chiến cũng như
trong thời hòa bình, Đảng nhân dân cách mạng Lào luôn đặt yếu tố lấy "Dân làm gốc".
Trong mọi chủ trương đường lối chính sách của mình.
Thuế là một lĩnh vực rất nhạy cảm với vấn đề dân chủ nhân dân. Khi trình độ dân
trí cao, dân chủ được mở rộng thì quyền lực đánh thuế của Nhà nước không thể thực thi
một cách tùy tiện chủ quan. Do đó việc nghiên cứu hoàn thiện công tác tăng cường quản lý
thu thuế ở Lào đòi hỏi phải đặt trong xu hướng đó.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay phải xét trên phương diện kinh tế cũng như xã
hội với các chủ trương chính sách của Đảng đang có những nét biến đổi sâu sắc. Chính
những biến đổi đó đòi hỏi công tác quản lý thu thuế cần phải được tiếp tục hoàn thiện
nhằm làm cho công tác thu thuế thích ứng với tình hình mới và có tác động tích cực đối
với các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước.
3.1.2. Những mục tiêu định hướng trong công cuộc cải cách tăng cường quản
lý thu thuế
Trong nghị quyết Đại hội VI của Đảng NDCM Lào đã khẳng định "Cải cách thu
thuế là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện trong những năm trước mắt". Việc tăng
cường quản lý thu thuế phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt cải
cách thể chế quản lý thu thuế, bộ máy quản lý phải hợp lý đúng đắn và nâng cao đội ngũ
cán bộ và công chức quản lý thu thuế, trong đó:
Cải cách chính sách thuế đảm bảo phù hợp với yêu cầu khuyến khích phát triển
kinh doanh đồng thời đảm bảo nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi cho phát triển kinh tế xã
hội.
- Về mặt cải cách thể chế quản lý: Thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục hành
chính, kể cả về thể chế và tổ chức thực hiện, loại bỏ những khâu bất hợp lý phiền hà, ngăn
chặn tuyệt đối tệ cửa quyền, tham nhũng và hối lộ cũng như những hành vi vi phạm pháp
luật khác.
- Về tổ chức bộ máy: Chấn chỉnh lại cơ cấu tổ chức, bộ máy, quy chế hoạt động
đảm bảo bộ máy tinh gọn, có hiệu quả với chi phí quản lý hợp lý nhất, đảm bảo sự điều
hành tập trung thống nhất trong suốt từ Trung ương đến cơ sở.
- Về đội ngũ cán bộ công chức quản lý: Xây dựng và ban hành các văn bản pháp
quy về chế độ công vụ, công chức, quy chế đào tạo, tuyển dụng, biên chế. Xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức vừa có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng nghề nghiệp, tinh thần
trách nhiệm cao, tư cách đạo đức tốt.
Tóm lại, xuất phát từ đặc điểm kinh tế Lào, từ chủ trương tăng cường quản lý của
Đảng và Nhà nước Lào, từ thực tế thi hành công tác quản lý thu thuế trong những năm vừa
qua, chúng tôi cho rằng công tác quản lý thu thuế ở Lào trong giai đoạn tới cần đạt được
các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Công tác tăng cường quản lý thuế phải làm cho hệ thống chính sách thuế từng
bước đạt yêu cầu của một hệ thống hiện đại, song phù hợp với điều kiện thực tế của Lào.
- Tăng cường quản lý thu NSNN xét ở khía cạnh quản lý thu thuế phải đạt được
yêu cầu giảm được chi phí hành thu, tạo điều kiện thuận lợi, đúng đắn và hợp lý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tăng cường quản lý thu ngân sách địa phương ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.pdf