Tài liệu Luận văn Tìm hiểu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương: Luận văn
Tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) tới
phát triển kinh tế - xó hội ở
tỉnh Bình Dương
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào
việc phát triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân
sách, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn
vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam, hội nhập với
nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao mức sống cho người lao động,...
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, báo chí và một số phương tiện thông
tin đại chúng ở nước ta đã nêu nhiều mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Một số ý kiến cho rằng: nguồn vốn FDI trong những năm qua đã
tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng, k...
107 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1148 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) tới
phát triển kinh tế - xó hội ở
tỉnh Bình Dương
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào
việc phát triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân
sách, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn
vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam, hội nhập với
nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao mức sống cho người lao động,...
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, báo chí và một số phương tiện thông
tin đại chúng ở nước ta đã nêu nhiều mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Một số ý kiến cho rằng: nguồn vốn FDI trong những năm qua đã
tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng, khách sạn, du lịch và những ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động, chưa có tỷ lệ thích đáng cho các ngành
công nghệ cao và nông nghiệp. FDI đưa vào Việt Nam nhiều máy móc, thiết
bị lạc hậu đã qua sử dụng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xảy
ra một số tranh chấp lao động mà biểu hiện là tình trạng ngược đãi công nhân,
vi phạm nhân phẩm người lao động, cường độ làm việc quá căng thẳng... đã
dẫn đến các cuộc đình công, bãi công. Cán bộ Việt Nam trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn ở vị trí thứ yếu. Một số doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng...
Không thể phủ nhận thành tựu đã đạt của đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam trong những năm qua, song nó đã tạo ra một số vấn đề không
lành mạnh và cần khắc phục. Nhận thức đúng mức về những vấn đề nảy sinh để
có phương hướng chỉ đạo tiếp là cực kỳ quan trọng nếu chúng ta muốn Việt
Nam trở thành nơi thu hút ngày càng nhiều hơn vốn FDI.
Trong tình hình đó, Bình Dương là một trong số tỉnh thành thu hút vốn
đầu tư FDI nhiều nhất cả nước cũng không tránh khỏi những tác động tích cực
và hạn chế của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để có căn cứ xây
dựng và điều chỉnh chính sách thì việc nghiên cứu, đánh giá được những tác
động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong giai
đoạn vừa qua là một việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy, vấn đề: " Tác động
của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh
Bỡnh Dương " được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn nhằm đóng góp
một phần nhỏ trong việc xây dựng quê hương Bình Dương trong thế kỷ 21.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề FDI, trên từng khía cạnh khác nhau đã có nhiều tác giả và các
công trình nghiên cứu. Ở Việt Nam, đã có:
Luận án tiến sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh
tế ở Việt Nam" của Mai Văn Lộc (1994).
Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế ở
Đồng Nai - phương hướng và giải pháp" của Đỗ Thị Ngân Giang (2000).
Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: Thực trạng
và giải pháp", của Nguyễn Thanh Tịnh (2003).
Luận văn cử nhân chính trị: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp" của Trương Đăng Hùng
(2004).
Đề tài cấp bộ, cấp cơ sở: "Những giải pháp kinh tế chính trị nhằm thu
hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", Chủ
nhiệm đề tài PTS. Nguyễn Khắc Thân, cơ quan chủ trì: Khoa Kinh tế chính trị
(5/1994 - 5/1995).
Báo cáo nghiên cứu của Dự án: "Nâng cao năng lực nghiên cứu chính
sách để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ
2001-2010" của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) với
tiêu đề: "Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam".
Các công trình khoa học nghiên cứu về FDI ở trên đã nghiên cứu các
vấn đề: thu hút và sử dụng hiệu quả FDI ở Việt Nam và các địa phương,
nhưng chưa có luận văn, luận án thạc sĩ nào nghiên cứu đến tác động của FDI
đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trên góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
* Mục tiêu luận văn:
Nghiên cứu tác động FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình
Dương và trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp để phát huy tác
động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Bình Dương trong quá trình hội nhập kinh tế.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của FDI đối với
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Bình Dương nói
riêng.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương chỉ ra những tác động tích cực cần
phát huy và tác động không lành mạnh của FDI cần khắc phục và nên tránh.
Nguyên nhân của những tác động đó.
- Trình bày các phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực
và hạn chế những ảnh hưởng không lành mạnh của FDI đến phát triển kinh tế
- xã hội ở tỉnh Bình Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm nhiều phương diện, luận văn này
không nghiên cứu FDI nói chung với tất cả các mặt của nó mà chỉ tập trung
nghiên cứu vấn đề tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình
Dương vì đó là yếu tố quyết định đến việc xây dựng, điều chỉnh chính sách
thu hút FDI và tối đa hoá lợi ích mà FDI mang lại trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kế thừa kết
quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài.
- Sử dụng phương pháp biện chứng mác xít, kết hợp với các phương
pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở những luận cứ khoa học được xác lập, đi sâu phân tích, đánh
giá thực trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình
Dương, từ đó làm nổi rõ sự cần thiết phải phát triển mạnh mẽ những tác động
tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội và phòng tránh những tác động tiêu
cực. Sao cho nền kinh tế của Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung
tăng trưởng nhanh và bền vững.
Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những phương hướng, giải
pháp cơ bản phát triển những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế
- xã hội ở tỉnh Bình Dương.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
tham mưu của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bình Dương và các cơ quan hữu trách,
dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường học, cơ sở đào tạo có liên quan
đến FDI trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ VAI TRÒ CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. FDI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm FDI và phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI (Foreign Direct Invertment) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ
đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc
dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn
đầu tư. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp là: các chủ đầu tư nước ngoài
phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tuỳ thuộc theo quy định chung
của Luật đầu tư từng nước. Ví dụ, Luật đầu tư của Việt Nam quy định "số vốn
đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự
án", hay Luật đầu tư của nước Nam Tư trước đây quy định "phần của bên đối tác
nước ngoài không dưới 5% tổng số vốn đầu tư" [51, tr.32-33]. Trong khi đó ở
Hàn Quốc luật quy định tối đa bên phía nước ngoài góp 40% vốn pháp định.
Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn
pháp định. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định
sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được
thực hiện dưới hình thức: đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp mới, mua lại toàn
bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động, mua cổ phần để thôn tính hoặc sáp
nhập.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện từ thời tiền tư bản. Các công ty
của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong
lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu Á để khai thác đồn
điền và cùng với ngành khai thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng
sản nhằm cung cấp các nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc.
Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới thì hoạt động đầu tư ra nước
ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có quy mô to lớn hơn. Trong
thế kỷ 19, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước
công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản
khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Theo
nhận định của Lênin, trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản" thì việc xuất khẩu tư bản đã trở thành đặc trưng cơ bản
của sự phát triển mới nhất về kinh tế trong thời kỳ "đế quốc chủ nghĩa". Tiền
đề của việc xuất khẩu tư bản là: tư bản thừa xuất hiện trong các nước tiên tiến.
Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách
quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ
xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của
sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc
gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường khi
nền kinh tế ở các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước
không còn mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản, vì lợi thế so sánh ở
trong nước không như trước nữa. Để tăng cường lợi nhuận, các nhà tư bản ở
các nước tiên tiến đã thực hiện xuất khẩu tư bản. Vì ở đó các chủ đầu tư nước
ngoài khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về: tài nguyên, lao động, thị
trường... để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với các tập đoàn kinh
tế xuyên quốc gia thì việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp thực hiện bành
trướng, mở rộng thị phần và tối ưu hoá hạch toán doanh thu, chi phí lợi
nhuận... thông qua hoạt động "chuyển giá". Giảm chi phí kinh doanh khi đặt
trụ sở sản xuất, dịch vụ gần vùng nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ.
Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi, vì xây dựng được cơ
sở kinh doanh nằm "trong lòng" các nước thực thi chính sách bảo hộ mậu
dịch. Đầu tư trực tiếp cho phép các chủ đầu tư tham dự trực tiếp kiểm soát và
điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư.
Thông qua hoạt động trực tiếp đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài tham dự vào
quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi chính sách mở cửa kinh tế theo
cam kết thương mại và đầu tư song phương và đa phương của các chủ nhà.
Theo Lênin, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc
bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng
chính Lênin đưa ra chính sách "kinh tế mới" đã nói rằng: Những người cộng sản
phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư
bản thông qua hình thức "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Theo quan điểm này
nhiều nước đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát
triển kinh tế như: khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước
thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức
đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng
được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. FDI giúp tiếp
thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư
nước ngoài. Nhờ đó FDI cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất
những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước... Sự cạnh tranh,
ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài tạo động lực kích
thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp và đâu là nhân tố
quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án FDI góp phần
giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Với những ưu
điểm trên FDI giúp cho các nước tiếp nhận phát triển kinh tế nhanh hơn tự thân
vận động hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát
triển.
Mặt khác, mức độ "bóc lột" của các nước tư bản còn tuỳ thuộc vào điều
kiện kinh tế chính trị của các nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây
hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật
của chính họ, thì ngày nay các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có
chủ quyền, hoạt động đầu tư nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý
của Chính phủ sở tại và thông lệ quốc tế, nếu các Chính phủ của nước chủ nhà
không phạm phải những sai lầm của quản lý vĩ mô thì có thể hạn chế được
những thiệt hại của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bảng 1.1: Lợi thế của doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp nước
tiếp nhận đầu tư [58, tr.36]
Lợi thế Mô tả
Vốn Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp
trong nước
Trình độ
quản lý
Có trình độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự
báo và xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn
Công nghệ Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ
vào sản xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và
áp dụng trong sản xuất
Marketting Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối
sản phẩm
Mua nguyên
vật liệu
Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật
liệu phục vụ cho quá trình sản xuất
Thoả thuận
với Chính phủ
Có khả năng đàm phán thoả thuận để được hưởng những ưu
đãi từ phía Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư
1.1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển là quá trình qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu đạt tới
chỗ thoả mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa
rộng, "xã hội" bao gồm cả các khía cạnh như "chính trị" và "phát triển con người".
Nếu như trước đây nói đến thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, người ta chỉ
tập trung vào tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế mà bỏ qua những yếu tố
khác, thì ngày nay quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội được đề cập ở trên đã
có những thay đổi căn bản. Bên cạnh yếu tố phát triển kinh tế nhanh và chất
lượng, thì các vấn đề khác như phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đã trở thành
những thành phần cơ bản của quá trình phát triển. Phát triển kinh tế - xã hội với
tốc độ nhanh bền vững và chất lượng cao đang dần trở thành một vấn đề có tính
cấp bách, vừa có tính chiến lược đối với tất cả các quốc gia.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ khi Đại hội VI của Đảng
(12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước đến nay đã trải qua gần
20 năm. Một trong những nội dung đổi mới then chốt là chuyển nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ
thể của nước ta. Kể từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
ngày càng đi vào chiều sâu, đồng thời quan niệm về con đường phát triển của
nước ta cũng từng bước được định hình ngày càng rõ nét. Đại hội VII của
Đảng (6/1991) lần đầu tiên đã đưa ra công thức: "Phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước" [14]. Công thức này về sau được Đại hội
VIII của Đảng (6/1996) điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN" [17]. Tiến lên một bước, Đại hội IX của Đảng
(4/2001) đã điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN" và xem đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Trong mô hình này, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường
với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để năng
động hoá và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân. Đồng thời, chúng ta đề cao vai trò quản lý và điều
tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu: "Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [18].
Mô hình kinh tế tổng quát được xác định tạo cơ sở rất quan trọng cho
sự hình thành những quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu liên hệ với
ba trụ cột của phát triển bền vững là "tăng trưởng kinh tế nhanh", "xã hội ổn
định, tiến bộ" và "môi trường trong sạch" thì có thể nhận thấy rằng những chủ
trương được vạch ra trong các nghị quyết quan trọng của Đảng đều hướng tới
phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội VI của Đảng khẳng định phải gắn kết
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem "trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã
hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế... Trên cơ sở phát triển sản xuất,
tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm
cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế,
văn hoá và các sự nghiệp phúc lợi khác" [13, tr.86]. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được thông qua tại Đại hội VII của
Đảng, chỉ rõ: "Phương hướng lớn nhất của chính sách xã hội là: phát huy
nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng bình đẳng về quyền lợi, về
nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với
chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [14,
tr.13]. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991 - 2000
được thông qua tại Đại hội VII của Đảng nêu rõ: "Tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi
trường" [15, tr.9]. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII của Đảng (1/1994) nhấn mạnh thêm: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển" [16,
tr.47]. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định những nội dung cốt lõi có
liên quan đến phát triển bền vững. Đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 10 năm 2001 - 2010, được thông qua tại Đại hội IX, Đảng ta đã đặt ra
nhiệm vụ: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, phát triển kinh
tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà
giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên giữ gìn đa dạng sinh học"
[18, tr.162].
Theo những chủ trương nêu trên, các cơ quan chức năng và các chủ thể có
liên quan đã hoạch định và thực thi các thể chế, chính sách nhằm từng bước thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững. Ngày 17 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban
hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình
Nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định
hướng lớn làm cơ sở để các Bộ, các địa phương, các tổ chức và cá nhân triển
khai thực hiện. Cho đến nay, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi
vào đời sống và dần dần trở thành xu thế phát triển tất yếu của đất nước. Điều
này phần nào cho thấy quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững
và chất lượng cao ở nước ta từng bước trở nên sáng rõ hơn.
Công cuộc tổng kết thực tiễn của nước ta, phân tích kinh nghiệm trên
thế giới và nghiên cứu lý luận bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống luận điểm và
đường lối phát triển đất nước vừa có ý nghĩa cơ bản vừa có tính thời sự cấp
bách. Cùng với những cố gắng của Hội đồng lý luận Trung ương, gần đây
một số nhà nghiên cứu đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Bảng 1.2: Một số tiêu chí chủ yếu đánh giá tốc độ, tính chất bền vững
và chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội [1, tr.76-77]
Tiêu chí Ý nghĩa
* Phát triển
- Tốc độ tăng GDP (hay GNP) Mức độ tăng về quy mô của nền kinh tế.
- Cơ cấu ngành Trình độ phát triển
- GDP bình quân đầu người Phản ánh chất lượng của tăng trưởng và
phát triển.
- Năng suất lao động (GDP/LĐ) Phản ánh chất lượng của tăng trưởng và
phát triển.
- Xuất, nhập khẩu/ GDP Độ mở cửa nền kinh tế
- Tỷ trọng GDP ngành phi nông nghiệp
trong nền kinh tế
Đánh giá mức độ công nghiệp hoá.
- Tỷ lệ ngành dịch vụ/ sản xuất Đánh giá độ hài hoà của sự phát triển.
- Tỷ lệ GDP ngành dịch vụ/ dân số Mức độ hưởng thụ các sản phẩm dịch vụ
của dân cư.
- Hệ số GINI Đo mức độ chênh lệch giữa các nhóm dân
cư theo thu nhập
- Tỷ lệ đầu tư cho chi phí sản xuất trong
tổng đầu tư.
Đánh giá mức độ đầu tư cho công nghiệp
hoá.
* An sinh xã hội
- HDI Chỉ số phát triển con người liên quan đến
ba mặt: thu nhập, kiến thức và tuổi thọ.
- HPI Chỉ số đánh giá mức độ nghèo đói
* Báo đảm môi trường
- Chất lượng môi trường:
- Tỷ lệ CO2, CO, SO2, chì trong không khí.
- Hệ số mất đất, độ che phủ rừng.
Tình hình ô nhiễm không khí, nước, đất,
rừng và đa dạng sinh học.
- Đầu tư cho BVMT/ tổng đầu tư. Mức độ tái tạo, bảo vệ môi trường.
Những trình bày trên đây đã phần nào thể hiện sự tiến triển về quan
niệm phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở
Việt Nam trong thời kỳ 20 năm đổi mới vừa qua.
1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước về FDI trong phát triển
kinh tế - xã hội
Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò
của đầu tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều thay đổi. Những
thay đổi này xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế và do thay đổi về bối cảnh
kinh tế trong khu vực và thế giới. Nếu như trước năm 2000, các doanh nghiệp
FDI chưa được coi như một chủ thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại hội
Đảng lần thứ IX (năm 2001) trở lại đây, khu vực FDI đã được khẳng định là
một trong các thành phần cùng tồn tại trong nền kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996),
tuy không tách riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một
"thành phần kinh tế" trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song
đã ghi nhận sự hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước
ngoài, khẳng định khu vực đầu tư nước ngoài: "có vai trò to lớn trong động
viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý..." [17]. Với quan điểm như
vậy, chính sách đối với khu vực có vốn FDI trong thời kỳ này chủ yếu hướng
vào việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp nhà
nước của Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, trừ những lĩnh
vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân và an ninh quốc
phòng.
Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
công nhận là một thành phần kinh tế với vai trò "hướng vào xuất khẩu, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo
thêm nhiều việc làm..." [18]. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá
IX), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ "phải tạo chuyển biến cơ
bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài" [19].
Theo đó, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới sẽ tập trung vào
nâng cao chất lượng FDI vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa
các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của
nền kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Thay
đổi trong nhận thức và quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là cơ sở quan trọng để Chính phủ sửa đổi và
hoàn thiện các văn bản pháp luật về cơ chế chính sách thu hút vốn FDI đối
với hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong những năm gần đây.
Đảng và Nhà nước có những quan điểm về nâng cao hiệu quả và tăng
thu hút vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới:
Một là, phải biến những yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Khi
nói về việc tranh thủ sự viện trợ quốc tế, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh:
"Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng
của ta, nhân dân và cán bộ ta chớ nên ỷ lại, mà phải tự lực tự cường" [43,
tr.289]. Muốn vậy phải có các chủ trương chính sách sao cho việc thu hút vốn
nước ngoài góp phần hình thành một nền kinh tế phát triển có hiệu quả.
Việc nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và vốn đầu tư nước ngoài phải
góp phần khơi dậy và phát huy nội lực. Trên cơ sở phát huy nội lực mà thực
hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài.
Hai là, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các đối tác
nước ngoài và trong nước. Các nhà đầu tư đưa vốn vào nước ta tất nhiên
phải thu nhiều lợi nhuận hoặc tìm nguyên liệu quý hiếm. Để khuyến khích
họ yên tâm và hăng hái kinh doanh không những cần phải đảm bảo quyền
lợi sở hữu hợp pháp của họ mà còn phải có những ưu đãi để họ thu được
lợi nhuận thoả đáng thậm chí lợi nhuận cao, nhưng phải là lợi nhuận từ
phát triển kinh doanh, nâng cao năng suất lao động và cạnh tranh lành
mạnh chứ không phải từ việc lợi dụng thế yếu của các đối tác trong nước
và kể cả sở hữu của luật pháp.
Về phía chúng ta, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng
phải đưa lại hiệu quả, thể hiện ở chỗ:
- Góp phần khai thác các nguồn lực trong nước để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế bền vững, tăng thu ngân sách nhà nước.
- Tăng việc làm, tăng trình độ lành nghề và tăng thu nhập của công nhân.
- Tiếp thu được những bí quyết về công nghệ, về kinh doanh, kinh
nghiệm quản lý để trong tương lai cán bộ và công nhân ta có thể tự vận hành
những doanh nghiệp mới.
- Tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội. Chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm, tăng
thu nhập của công nhân, tăng thu ngân sách... Chưa hẳn đã có tiến bộ và công
bằng xã hội. Cần nhận thức rằng sự ra đời của các khu công nghiệp gắn với
quá trình hình thành các đô thị, các thị trấn. Việc quản lý đô thị khác với quản
lý nông thôn, đòi hỏi cao hơn về kết cấu hạ tầng, về bảo vệ môi trường, an
ninh, về các loại dịch vụ, nhất là dịch vụ công cộng...
Không chỉ là tổ chức và quản lý những khu dân cư mới mà quan trọng
hơn phải có chương trình xây dựng một đội ngũ công nhân mới mà đa số vừa
xuất thân từ nông dân, từ học sinh hay những người lao động tự do, làm cho họ
không chỉ nâng cao về tay nghề mà cả về ý thức chính trị, lập trường giai cấp
công nhân, về lối sống nhân văn, hiện đại; phòng ngừa và ngăn chặn các tệ nạn
xã hội; xây dựng quan hệ chủ thợ lành mạnh, đảm bảo lợi ích chính đáng của cả
hai bên.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Những ảnh hưởng tích cực của FDI đến quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Đầu tư quốc tế được thực hiện ở Việt Nam dưới hai hình thức cơ bản:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tín dụng quốc tế chủ yếu thực hiện qua thu hút
vốn ODA. 18 năm qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời ở Việt Nam
(12/1987 - 12/2005) hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự đóng góp
to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội thể hiện qua các mặt:
Thứ nhất, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát
triển kinh tế:
Vốn FDI có bước chuyển tích cực, tổng mức vốn đăng ký đạt
20,9 tỷ USD. Vượt trên 39% so với kế hoạch; tổng vốn thực hiện
14,3 tỷ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm
trước. Năm 2005, các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP,
chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu
tính cả dầu khí), đóng góp gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước
(tính cả dầu khí thì trên 36%), tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao
động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp [20, tr.152-153].
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do
vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng
cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển.
Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn
biến thất thường của nguồn vốn này, một phần thể hiện những thay đổi về đầu
tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của
FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31%, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ
lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 15,5% trong
tổng đầu tư toàn xã hội (xem sơ đồ 1.1).
Tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã cấp
giấy phép cho 5.400 dự án đầu tư nước ngoài. Trừ các dự án hết thời hạn
hoạt động hoặc bị giải thể trước thời hạn, hiện còn 4.376 dự án còn hiệu
lực với tổng số vốn đăng ký là 41 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này, tạo ra
lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế: Các dự án đầu tư nước ngoài hiện
chiếm 35% giá trị sản lượng công nghiệp của Việt Nam, cụ thể: khu vực
đầu tư nước ngoài chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô, sản xuất lắp
ráp ô tô; sản xuất máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ; thiết bị văn
phòng máy tính. Các dự án đầu tư nước ngoài chiếm 60% sản lượng thép
cán; 55% sản xuất sợi các loại phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may;
49% sản lượng sản xuất da và giày dép; 76% dụng cụ y tế chính xác; 35%
sản xuất máy móc thiết bị điện; 28% tổng sản lượng xi măng; 29% về thực
phẩm và đồ uống...
Sơ đồ 1.1: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp
của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP (giá hiện hành) [55]
1 7
2 3
2 6
3 1 3 0 . 4
2 6
2 8
2 0 . 8
2 2 .6
1 6 .31 7 . 51 7 . 61 8
1 7 . 3
1 5 . 5
1 3 . 8
1 3 .3
1 2 . 2
1 0
9 . 1
6 . 36 . 46 .1
1 4 . 5
1 5 . 2
7 . 4
0
5
1 0
1 5
2 0
2 5
3 0
3 5
1 9 9 1 1 9 9 2 1 9 9 3 1 9 9 4 1 9 9 5 1 9 9 6 1 9 9 7 1 9 9 8 1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4
% s o v í i tæn g ®Çu t x · h é i % ®ã n g g ã p t r o n g G D P
Đầu tư nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế: Thời kỳ 1991 - 1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25%
tổng vốn đầu tư xã hội; thời kỳ 1996 - 2000 số vốn đầu tư nước ngoài tăng
1,8 lần so với giai đoạn trước đó, chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội. Riêng
trong hai năm 2001, 2002 vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18,5% tổng vốn
đầu tư xây dựng.
Thứ hai, các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp
phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia: Với
hàng ngàn dự án đang hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong tổng GDP của Việt Nam. Năm 1993 chiếm 3,3%; năm 1995
chiếm 6,3%; năm 1998 chiếm 10,1%. Từ năm 2000 đến năm 2004 mỗi năm
đều chiếm trên 13% của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư thì giai đoạn 1996 - 2000 thu từ khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 6-7%
nguồn thu ngân sách quốc (nếu kể cả ngành dầu khí thì chiếm gần 20% thu
ngân sách).
Bảng 1.3: Đóng góp của các dự án FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam
[51, tr.27]
FDI 89-90 91 92 93 94 95 96 97 98 99
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
Tỷ trọng trong
GDP (%) 1,0 1,5 2,0 3,6 6,1 6,3 7,4 9,1 10,0 11,8 12,7 13,1 13,9
14,3 14,5
Ngoài ra, với hoạt động xuất khẩu các dự án đầu tư FDI góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại của Việt Nam: không
kể dầu khí thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài thời kỳ
1991 - 1995 đạt trên 1,12 tỷ USD; thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD;
năm 2001 đạt 3,67 tỷ USD; năm 2002: 4,5 tỷ USD (xem bảng 1.4). Nhiều mặt
hàng xuất khẩu quan trọng do các dự án FDI thực hiện: xuất khẩu dầu thô
10%; giày dép 42%; hàng dệt may 25%; 84% hàng điện tử, máy vi tính và
linh kiện. Tỷ trọng trị giá hàng xuất khẩu so với doanh thu của các dự án FDI
tăng nhanh 30% ở thời kỳ 1991 - 1995 lên 48% thời kỳ 196-2000 và đạt 50%
vào năm 2002; trên 50% năm 2003 [51, tr.27].
Bảng 1.4: Tình hình xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài
(không kể dầu thô) [51, tr.28]
Đơn vị tính: triệu USD
FDI 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004
Xuất khẩu 52 112 260 352 336 788 1.790 1.982 2.547 3.300 3.670 4.500 5.900 8.600
XK so với
doanh thu
(%)
34,4 49,1 533 34,3 16,3 28,7 46,9 50,7 55,4 53,5 48,1 50 79 132
Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Việt Nam theo hướng CNH, HĐH. Ở những năm 1988-1995 đầu
tư nước ngoài chủ yếu thực hiện trong các ngành bất động sản: Xây dựng
khách sạn, khu nghỉ mát, khu chế xuất, văn phòng cho thuê... thì thời kỳ
1996-2003 đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện nhiều hơn vào các ngành sản
xuất công nghiệp và dịch vụ: chiếm 53% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện,
các dự án đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ kỹ thuật tăng 1,4
lần ở thời kỳ này [24]. Hiện đầu tư nước ngoài chiếm gần 38% sản lượng
công nghiệp của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20%. Đầu tư
nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu chế xuất và
khu công nghiệp ở Việt Nam.
Thứ tư, các dự án đầu tư nước ngoài đóng góp quan trọng trong nâng
cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam. Thông qua các dự án đầu
tư FDI nhiều công nghệ mới, hiện đại đã đưa vào sử dụng ở Việt Nam
trong các ngành tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, ngành bưu chính
viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hoá chất, sản xuất
ô tô, thiết kế phần mềm... Những dự án này đóng góp đáng kể để tăng khả
năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế (xem bảng 1.5).
Bảng 1.5: Mức độ hiện đại của máy móc thiết bị sử dụng trong các khu vực
kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh so với tiêu chuẩn quốc tế
(năm 1999) [51, tr.29]
Khu vực
Tỷ lệ những
thiết bị hiện đại
(modern)
Mức độ hiện đại
trung bình (so
với thiết bị hiện
đại nhất)
(Moderate)
Khoảng cách
trung bình (so
với những thiết
bị hiện đại nhất)
(obsolete)
Công cộng 11,4 53,1 35,5
Các công ty Trung ương 10,6 60,6 28,8
Các công ty địa phương 11,9 48,6 39,5
Không phải công cộng 6,7 27 66
Công ty tư nhân 20 30 50
Kinh tế gia đình 3,6 22,8 73,6
Công ty đầu tư nước ngoài 44,4 55,6 0,0
Ngoài ra, sự sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các dự án FDI,
cũng tạo ra sự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới
công nghệ để tạo được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với sản
phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường nội
địa và xuất khẩu.
Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam
đổi mới tư duy quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ năm, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam hội
nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. Cho đến hết năm 2003 đã có 74 quốc gia
và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có trên 80 công ty xuyên
quốc gia nằm trong 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, chính
những dự án này có tác động không nhỏ tới thay đổi cơ chế chính sách quản
lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế chúng tác động đến xoá bỏ
sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam gia nhập
ASEAN, ký kết trên 100 hiệp định song phương và đa phương trong đó có
hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Ngoài ra trên 50% trị giá sản phẩm của các dự án đầu tư nước ngoài
được xuất khẩu ra thị trường thế giới góp phần nâng cao thị phần sản phẩm và
uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ sáu, đầu tư nước ngoài góp phần giải quyết công ăn việc làm, đào
tạo nguồn nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động. Số lao động
làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng
(xem bảng 1.6). Một số lượng đáng kể các nhà quản lý kinh doanh và người
lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp phần làm cho chất lượng lao
động tăng lên, đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho môi trường đầu tư
của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, các dự án FDI thông qua lương mang lại thu nhập cho người
lao động, góp phần cải thiện đời sống. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư năm 2003: lương bình quân của công nhân trong các dự án đầu tư
nước ngoài là 76-80 USD/tháng; của kỹ sư: 220-250 USD/tháng, của cán bộ
quản lý khoảng 490-510 USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động của
các dự án FDI hàng năm trên 500 triệu USD, đây là nhân tố góp phần tăng
sức mua cho thị trường xã hội.
Bảng 1.6: Số lượng việc làm cho khu vực FDI tạo ra [51, tr.30]
ĐVT: 1000 người
FDI 91-95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004
Giải quyết việc làm 200 220 250 279 296 349 450 590 665 739
Tóm lại, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cho nên Chính phủ cần
quan tâm đến hoàn thiện môi trường đầu tư để tăng tính hấp dẫn trong thu hút
vốn đầu tư FDI. Đạt được những kết quả tích cực trong thu hút và sử dụng
vốn FDI. Xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
Nước ta duy trì ổn định chính trị, an ninh được đảm bảo, được đánh giá
là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, chủ
động hội nhập, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Ngoài ra, nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dung lượng thị trường trong nước lớn
(khoảng 80 triệu dân) cũng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế.
Môi trường đầu tư từng bước được cải thiện. Hệ thống luật pháp, chính sách
về đầu tư nước ngoài dần được hoàn thiện đã tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng
và thông thoáng cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài như: công tác điều
hành của Chính phủ các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực,
chủ động trong việc thực hiện lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu
tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính và tháo gỡ các
khó khăn cho việc triển khai dự án, công tác vận động xúc tiến đầu tư cũng
được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp. Đặc biệt nhiều chuyến thăm, làm
việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở nhiều quốc gia đã gắn với việc
quảng bá hình ảnh Việt Nam và vận động xúc tiến đầu tư - thương mại.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm qua bộc lộ những mặt hạn
chế cần khắc phục.
1.2.2. Những hạn chế của FDI trong phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam
Qua 18 năm (1987 - 2005) thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, nước ta
đã thu được những thành tựu quan trọng trong thu hút FDI phục vụ công cuộc
xây dựng, đổi mới đất nước. FDI đã góp phần xứng đáng vào việc tạo nên
những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian qua.
Mặc dù vậy, trong lĩnh vực này vẫn còn không ít vấn đề đặt ra. Những hạn
chế, cản trở đang làm kém sự hấp dẫn và hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam, đó là:
1.2.2.1. Về phía Việt Nam
Thứ nhất, môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đó là về
các lĩnh vực như: luật pháp, cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng, buôn lậu, hàng
giả, hàng nhái, hệ thống công nghiệp hỗ trợ...
Về pháp luật, cơ chế chính sách, mặc dù trong những năm qua luật đầu
tư nước ngoài của Việt Nam đã được sửa đổi nhiều theo hướng ngày thông
thoáng, thuận lợi cho đầu tư nước ngoài nhưng không ít nhà đầu tư vẫn còn
băn khoăn, than phiền về tình trạng thiếu tính hệ thống, ổn định, minh bạch và
khả thi của luật pháp. Bộ máy hành chính - tổ chức quản lý của ta còn rườm
rà, nhiều khi chồng chéo nhau. Trong khi đó, sự hợp tác giữa các bộ, ngành,
địa phương còn kém hiệu quả, thủ tục đầu tư, đặc biệt là thủ tục triển khai dự
án vẫn còn phức tạp. Nhiều chuyên gia về đầu tư nước ngoài vẫn chưa hài
lòng về môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Theo điều tra của tổ
chức xúc tiến thương mại Nhật Bản năm 2003 thì 42% doanh nghiệp Nhật
Bản được hỏi đều trả lời rằng, khó khăn nhất của họ tại Việt Nam là thủ tục
hành chính, trong khi đó con số này ở Thái Lan là 12%, Inđônêxia là 22%
[25].
Cơ sở hạ tầng (đường sá, cầu cống...) còn yếu kém, ô nhiễm môi trường
(do bụi, khói xe, nước thải, rác công nghiệp...). Tình trạng tắc đường giao
thông; nhà ở cho công nhân còn thiếu thốn và trở thành vấn đề bức xúc hiện
nay, nhất là ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương - những nơi thu
hút nhiều dự án đầu tư mà công nhân phần lớn từ tỉnh ngoài về làm việc,
không có nhà ở... đang gây trở ngại trong việc thu hút và triển khai các dự án
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Hệ thống công nghiệp hỗ trợ của ta còn yếu, làm cho chi phí kinh
doanh cao. Đây là một trong những nguyên nhân làm kém sức hấp dẫn thu hút
đầu tư nước ngoài vào nước ta. Nạn buôn lậu, hàng hoá, hàng nhái ở nước ta
còn phổ biến trong khi chúng ta chưa có những biện pháp ngăn chặn hiệu quả.
Hàng lậu, hàng giả, hàng nhái với giá rẻ tràn ngập thị trường không những có
hại đến sức khoẻ nhân dân, đến tâm lý nhà sản xuất và người tiêu dùng, đến
sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội mà còn làm nản lòng các nhà
đầu tư nước ngoài khi họ có ý định đầu tư vào sản xuất một sản phẩm nào đó.
Hơn nữa, cho đến nay, Việt Nam chưa tham gia vào WTO nên không được
hưởng những quy chế ưu đãi của tổ chức này về đầu tư và thương mại sẽ góp
phần làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
Thứ hai, về nguồn nhân lực. Có thể nói hiện nay nước ta đang thiếu
một đội ngũ lao động có trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đầu tư
nước ngoài cũng như để cạnh tranh với các nước trong khu vực. Điều đó đã
hạn chế việc tiếp thu kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Đây là yếu tố bảo đảm
sự bền vững lâu dài trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng và sự
nghiệp CNH, HĐH của nước ta nói chung. Thêm vào đó, trình độ của một bộ
phận cán bộ ta tham gia quản lý liên doanh còn nhiều yếu kém, chưa có nhiều
kinh nghiệm về lĩnh vực này, lại mắc tệ tham ô, hối lộ đã phần nào làm nản
lòng các nhà đầu tư cũng như góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
nước ngoài.
Thứ ba, thiếu một quy hoạch dài hạn về tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
Thiếu quy hoạch sẽ khó tránh khỏi đầu tư dàn trải, trùng lắp và để lại những
hậu quả khó khắc phục về sau. Hiện nay, có thể nói, có một phong trào là các
tỉnh, địa phương đang "trải thảm đỏ" kêu gọi đầu tư nước ngoài. Để thu hút
đầu tư nước ngoài, một số địa phương đã vượt quá thẩm quyền của mình, ưu
đãi quá mức nhà đầu tư, làm tổn hại tới quyền lợi của địa phương và đất nước,
làm rối môi trường đầu tư chung của cả nước đưa đến tình trạng chồng chéo
nhau, dàn trải trong việc tiếp nhận các dự án và các địa phương không bổ
sung được cho nhau.
Thứ tư, cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Việt Nam với các nước trong việc
thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nhiều nước nhất là những nước gần
nước ta như: Trung Quốc, các nước thành viên ASEAN khác đang là đối thủ
cạnh tranh với Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong
cuộc cạnh tranh gay gắt này, Trung Quốc, nhiều nước thành viên ASEAN một
mặt có những thế mạnh tương tự như nước ta (lao động dồi dào với giá nhân
công rẻ, tài nguyên phong phú...), mặt khác, có ưu thế hơn hẳn ta (về cơ sở hạ
tầng, công nghiệp hỗ trợ, kinh nghiệm trong việc quảng bá, kêu gọi đầu tư).
Thứ năm, tình trạng mất đất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng cùng với
quá trình đẩy mạnh xây dựng các dự án đầu tư nói chung và đầu tư nước
ngoài nói riêng. Để thu hút đầu tư, nhiều vùng đất nông nghiệp trồng lúa tốt,
thuận tiện giao thông được phép san lấp để xây dựng các nhà máy, xí nghiệp.
Hậu quả của điều này là đất nông nghiệp bị giảm nghiêm trọng, nhất là những
vùng đất màu mỡ, có nguy cơ đe doạ đến an ninh lương thực của đất nước và
một bộ phận lớn nông dân bị mất việc làm, phát sinh nhiều hiện tượng tiêu
cực xã hội.
Thứ sáu, việc quảng bá, giới thiệu về môi trường, tiềm năng đầu tư của
Việt Nam với nước ngoài. Đây là một công việc rất cần thiết để các doanh
nghiệp nước ngoài hiểu về tiềm năng, môi trường đầu tư của nước ta từ đó có
thể thu hút đầu tư từ họ nhưng vấn đề này trong thời gian qua chưa được
chúng ta chú ý đúng mức làm giảm đi phần nào sức hấp dẫn của Việt Nam đối
với các nhà đầu tư nước ngoài. Ông Oliver Schnakenberg - Tham tán Đại sứ
quán Đức tại Việt Nam nói: Với sự thiếu hụt này, Việt Nam đã đánh mất cơ
hội tự giới thiệu mình với các nhà đầu tư.
1.2.2.2. Về phía các nhà đầu tư vào Việt Nam
Thứ nhất, hiệu quả của hoạt động đầu tư chưa cao. Thể hiện trước hết
của điều này là vẫn còn khá phổ biến hiện tượng rút giấy phép, huỷ bỏ hợp
đồng đầu tư, kinh doanh thua lỗ. Tình trạng rút giấy phép còn khá phổ biến.
Trong ba năm 1988-1990, số dự án FDI bị rút giấy phép bình quân 2 dự án/
năm; giai đoạn 1991-1995, con số này tăng lên bình quân 47 dự án/ năm; giai
đoạn 1996-2000 là 80 dự án/năm; giai đoạn 2001-2002 tăng lên đến 95 dự án/
năm. Đi liền với sự tăng lên của số dự án bị rút giấy phép, số vốn đầu tư bị rút
xuống cũng tăng lên qua từng giai đoạn. Tổng số vốn bị rút giấy phép trong
giai đoạn 1988 - 2002 là 10 tỷ USD. Năm 2003, tại thành phố Hồ Chí Minh,
có khoảng 80% số dự án đăng ký bị giải thể hoặc rút giấy phép, con số này ở
Hà Nội là khoảng 30%. Nguyên nhân chính của tình hình này có thể do môi
trường đầu tư của Việt Nam còn những hạn chế như đã nêu ở trên.
Về kinh doanh thua lỗ: Từ năm 1988 đến năm 2003, có 888 dự án bị
giải thể trước thời hạn, trong đó, hầu hết là các dự án kinh doanh thua lỗ.
Còn nữa, tính đến hết năm 2002, trong số 2.250 dự án đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam đã kết thúc giai đoạn xây dựng cơ bản đang đi vào sản xuất
kinh doanh thì có 536 dự án có lãi (chiếm 29%) với tổng số lãi khoảng
8.500 triệu USD, còn lại là dự án thua lỗ (1.714 dự án, chiếm 76% dự án)
với tổng số tiền lỗ là 6.426 triệu USD. Thiết nghĩ đây là một câu hỏi đặt ra
và phải có câu trả lời cùng biện pháp khắc phục đối với các nhà quản lý,
nghiên cứu Việt Nam [25].
Thứ hai, vấn đề chuyển giao công nghệ thông qua dự án đầu tư thông
qua các dự án đầu tư chuyển giao công nghệ nước ta có thể hiện đại hoá nền
công nghệ - kỹ thuật nước mình. Tuy nhiên, trong những năm qua, vẫn còn
những hiện tượng nhập, chuyển giao vào nước ta những công nghệ đã mất
tính cạnh tranh không những gây ô nhiễm môi trường, nguy cơ biến nước ta
thành "bãi rác thải công nghiệp".
Thứ ba, về vấn đề chuyển mục đích đầu tư, trong thời gian qua, có hiện
tượng nước ngoài trong công ty liên doanh đã cố tình hoạt động thua lỗ làm
cho phía Việt Nam do đóng góp ít vốn, không theo được buộc phải để cho
công ty liên doanh biến thành công ty có 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam
mà chúng ta phải có những biện pháp để hạn chế tình trạng này nếu không lần
lượt sẽ có nhiều công ty liên doanh biến thành công ty có 100% vốn nước ngoài.
Thứ tư, vẫn thường xảy ra những xung đột giữa chủ và thợ trong một số
xí nghiệp, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, như công ty của Hàn Quốc, Đài
Loan... Nguyên nhân của tình hình này có thể do hai bên chưa hiểu về phong
tục tập quán, ngôn ngữ... của nhau hoặc do một số chủ đầu tư chưa giải quyết
tốt chế độ cho người lao động Việt Nam [25].
1.2.2.3. Về an ninh kinh tế
Đứng trên góc độ an ninh kinh tế, chúng ta thấy xuất hiện những vấn đề
cần được quan tâm khi tiếp nhận FDI vào Việt Nam.
Thứ nhất, về công nghệ thiết bị và giá thành. Mặc dù công nghệ nhập
không còn là bí quyết nhưng nhiều chủ đầu tư nước ngoài khi đàm phán vẫn
ép buộc bên Việt Nam phải chấp nhận hợp đồng chuyển giao công nghệ và đi
kèm theo đó là phí chuyển giao công nghệ (chiếm 2-5% doanh thu dự án
trong thời gian 5-7 năm), có dự án bên nước ngoài đòi hưởng tới 8% tiền bán
sản phẩm trong thời hạn 20 - 30 năm. Khoảng 10% dự án đầu tư (qua kiểm
tra) có công nghệ lạc hậu hoặc quá lạc hậu. Nguy hiểm hơn là có dự án sản
xuất thuốc trừ sâu cực kỳ độc hại, nhiều nước đã có luật cấm sản xuất ta lại
nhập về và triển khai ở nhiều địa phương như công nghệ tạo bột ABS từ
Alkysbenzen là chất dễ gây bệnh ung thư, ở nước ta đã có quy định cấm từ
lâu song họ vẫn nhập vào.
Điểm quan trọng là do khâu giám định thiết bị và công nghệ nhập khẩu
của ta còn yếu kém nên đã để xảy ra tình trạng đối tác nước ngoài nâng giá
thiết bị, nhập vào thiết bị cũ do các nước phát triển thải loại. Kết quả giám
định thí điểm 14 dự án liên doanh do công ty giám định quốc tế SGS (Thuỵ
Sĩ) cho biết: có tới 8 liên doanh, chủ đầu tư đã báo cáo giá thiết bị nhập khẩu
cao hơn 10-20% so với giá giám định. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho nhà
nước Việt Nam cũng như cho đối tác Việt Nam tham gia liên doanh [57].
Thứ hai, về tình trạng lừa đảo và trốn lậu thuế. Theo thống kê trong 3
năm 1993-1995 đã có 66 vụ tội phạm kinh tế trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
làm thiệt hại 8.616 triệu USD và 11,636 tỷ VNĐ trong đó tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của công ty liên doanh. xảy ra phổ biến và nghiêm trọng
nhất (chiếm 86% số vụ và 75% số tài sản thiệt hại).
Loại tội phạm thứ hai thường xảy ra ở các công ty liên doanh là kinh
doanh trái phép và trốn lậu thuế. Trong số 61 vụ được phát hiện cho thấy các
chủ đầu tư nước ngoài trốn thuế 93,9 tỷ đồng. Về buôn lậu hàng hoá, phát
hiện 38 vụ trị giá 8,9 triệu USD và 22 tỷ VNĐ. Ngoài ra ở các công ty liên
doanh còn xảy ra một số vụ tội phạm khác như cố ý làm trái pháp luật, tham
ô, trộm cắp, làm hàng giả. Một số chủ đầu tư lợi dụng danh nghĩa các tổ chức,
công ty nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm đối tác, hứa hẹn đầu tư nhưng
thực chất chỉ là những đối tượng môi giới lừa đảo, nếu ký được dự án đầu tư
thì họ cũng đem bán giấy phép để hưởng hoa hồng. Một số khác khi kiếm
được giấy phép đã chủ động đóng góp trước một số ngoại tệ, máy móc cũ, lạc
hậu để lấy lòng tin, sau đó đi lừa đảo đối tác Việt Nam. Trong số 57 vụ lừa
đảo thì có 49 vụ phía nước ngoài lừa người Việt Nam [57].
Thứ ba, về môi trường đa số các dự án chưa quán triệt việc thực thi
luật bảo vệ môi trường. Nhiều dự án tiến hành xây dựng mà không thông
qua thẩm định, đánh giá, tác động môi trường; thậm chí nhà máy đã xây
dựng xong, đi vào hoạt động vẫn không có công trình xử lý chất thải.
Đặc biệt, một số nơi tình trạng gây ô nhiễm môi trường đã tới mức báo
động như một số xí nghiệp công ty có vốn FDI xả nước thải ra sông,
kênh rạch gây chết cá, cây trồng làm thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho
nhân dân vùng ven các xí nghiệp, công ty đó, khiến cho chính quyền địa
phương phải can thiệp.
Thứ tư, về quan hệ lao động, thời gian qua, xu hướng phản ứng của
tập thể lao động ngày càng tăng cả về số vụ và quy mô. Từ năm 1994 đến
nay có nhiều vụ thu hút cả tập thể lao động của doanh nghiệp cùng tham
gia. Số người tham gia từ vài chục đã lên đến hàng nghìn người. Cần phải
xác định rằng mâu thuẫn chính trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hiện nay là mâu thuẫn giữa hai đối tượng làm thuê là người lao động
Việt Nam và cán bộ quản lý người nước ngoài. Mục tiêu của các vụ phản
ứng chủ yếu xoay quanh vấn đề tiền lương, tiền thưởng. Một số ít vụ phản
ứng xảy ra do nguyên nhân người lao động bị đối xử thô bạo, bị xúc phạm
nhân phẩm, danh dự...
Nhìn chung, trong các xí nghiệp có vốn đầu tư FDI mới có khoảng 30%
xí nghiệp ký hợp đồng với người lao động nhưng phần lớn nội dung còn sơ
sài hoặc chưa phù hợp với quy chế ban hành. Hoạt động của các tổ chức
Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên chưa được chú trọng đúng mức. Tình
trạng khá phổ biến là chủ đầu tư nước ngoài thực hiện không nghiêm túc quy
định về "mức lương tối thiểu" cố tình vận dụng sai để làm giảm tiền lương
công nhân. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây ra tranh chấp lao động ở những
năm gần đây. Bản chất của nhà tư bản là tìm kiếm lợi nhuận "càng nhiều càng
tốt". Sự bóc lột sức lao động của người làm thuê ngày nay không trắng trợn
như những thập kỷ đầu thế kỷ XX mà nó tinh vi hơn, khôn khéo hơn bởi vì
"nhân quyền" ngày nay là một vấn đề quốc tế.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ TRONG VIỆC
KHAI THÁC FDI ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.3.1. Kinh nghiệm khai thác FDI của Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 1988 đến năm 2003 hoạt động FDI ở Thành phố Hồ Chí Minh đã
trải qua 4 trạng thái khác nhau:
Từ năm 1988 đến 1990 là 3 năm khởi đầu FDI chưa có tác dụng rõ rệt
đến tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Cả ba
năm cộng lại chỉ có 0,67 tỷ USD vốn đăng ký còn vốn thực hiện gần 0,5 tỷ
USD. Từ năm 1991 đến 1997 là thời kỳ tăng trưởng nhanh và góp phần ngày
càng quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong giai
đoạn này đã thu hút gần 10 tỷ USD vốn đăng ký và trên 4 tỷ USD vốn thực
hiện. Từ năm 1998 đến năm 2000 là thời kỳ suy thoái của FDI, vốn đăng ký
bắt đầu giảm từ 1998 và giảm mạnh trong hai năm tiếp theo. Năm 1998 vốn
đăng ký là 0,7 tỷ USD, thì năm 1999 chỉ bằng 71% còn 0,5 tỷ USD, năm
2000 hạ 0,2 tỷ USD. Sau khi đạt kỷ lục về vốn thực hiện vào năm 1997 với
0,5 tỷ USD thì 3 năm tiếp theo đã giảm rõ rệt, năm 1998 là 0,3 tỷ USD, năm
1999 là 0,2 tỷ USD và năm 2000 là 0,1 tỷ USD [9].
Từ năm 2001 đến nay là thời kỳ phục hồi hoạt động của FDI ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Vốn đăng ký năm 2001 là 0,6 tỷ USD tăng gần gấp 3 lần so
với năm trước. Năm 2002 vốn đăng ký gần 0,4 tỷ USD và vốn thực hiện 0,13 tỷ
USD. Trong năm 2003 vốn đăng ký 0,5 tỷ USD và vốn thực hiện 0,23 tỷ USD.
FDI tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng
tại Thành phố Hồ Chí Minh. Theo số liệu thống kê năm 2002 của Tổng cục
thống kê thành phố và số liệu năm 2003 của Sở Kế hoạch - Đầu tư, các doanh
nghiệp FDI đã đóng góp trên 20% cơ cấu GDP, chiếm tỷ trọng 30% tổng sản
lượng công nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 20% kim ngạch xuất khẩu, đóng góp
cho ngân sách khoảng 7%. Thêm vào đó trong quá trình hoạt động các dự án
FDI ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã góp phần giải quyết một số vấn đề mà
xã hội rất quan tâm đó là việc làm cho người lao động. Cùng với sự mở rộng
hoạt động của mình các doanh nghiệp có vốn FDI cũng góp phần giải quyết
việc làm cho xã hội. Theo thống kê của Sở Lao động Thương binh - Xã hội
thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang là khu vực có mức lương cao
nhất và thu hút nhiều chất xám có chất lượng cao từ các trường đại học và cao
đẳng đã tạo việc làm cho gần 200.000 lao động trực tiếp và vài trăm ngàn lao
động gián tiếp [9].
Tác động quan trọng nhất của FDI tại Thành phố Hồ Chí Minh là góp
phần làm tăng hiệu quả kinh tế - xã hội, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế,
hình thành các định chế tiền tệ tín dụng lẫn đáp ứng các chuẩn mực quốc tế
đóng góp ngày càng nhiều vào thu ngân sách và góp phần cải thiện môi
trường sống xã hội.
Cũng như các hoạt động kinh tế khác, FDI ở thành phố Hồ Chí Minh
cũng đã có tác động tiêu cực đến một số mặt kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ
Chí Minh như sau:
- Một là, hiệu quả kinh tế thu được từ FDI còn thấp. Tuy có những đóng
góp tích cực cho sự phát triển kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh, nhưng trên
thực tế 19 năm qua cho thấy mức lợi nhuận thu được từ khu vực FDI còn thấp,
thậm chí một số doanh nghiệp còn bị thua lỗ, nhất là các doanh nghiệp liên
doanh.
Theo số liệu của Cục Thống kê và Sở Kế hoạch Đầu tư Thành phố Hồ
Chí Minh tính đến 31/12/2002 có 195 số dự án đầu tư theo hình thức liên
doanh, rút giấy phép đầu tư trên tổng số 291 dự án đầu tư có giấy phép, chiếm
tỷ lệ 67%. Cũng như phân tích ở phần trên hình thức liên doanh là hình thức
đầu tư phổ biến nhất vì nó giúp cho các bên đối tác đạt được mục tiêu của
mình đặc biệt đối với phía nước ngoài, vì họ muốn tranh thủ các mối quan hệ
ở Việt Nam trong thời gian đầu để làm quen với môi trường đầu tư, đồng thời
chia sẻ rủi ro với các đối tác đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh, để tiếp cận và
chiếm lĩnh thị trường nội địa, với hình thức này họ dễ thích nghi với phong
tục tập quán của môi trường đầu tư mới thông qua đối tác tại địa phương. Hình
thức này cũng đáp ứng nhu cầu của địa phương nhằm sử dụng hiệu quả hơn thiết
bị, máy móc, nhà xưởng, tiếp thu trình độ kỹ thuật quản lý tiên tiến, giao thương
với thị trường thế giới. Nói cách khác, đây là hình thức giúp tạo ra nhân tố để
thực hiện sự hoà nhập tốt nhất cho các bên đối tác. Thế nhưng, sau một thời gian
hoạt động các dự án bị lỗ ngày càng tăng. Đặc biệt trong những năm 96, 97 sự
thua lỗ của các liên doanh mà các đối tác là các công ty xuyên quốc gia hùng
mạnh như liên doanh Côcacôla thực sự trở thành vấn đề cần giải quyết.
Mục tiêu hướng về xuất khẩu khi thu hút vốn FDI trong những năm gần
đây mặc dù kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI ở Thành phố Hồ Chí Minh
gia tăng về số tuyệt đối, nhưng nếu xét tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của
Thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ trọng này gia tăng không nhiều trong nhiều
năm qua.
Mặt khác, xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ chiếm 40% doanh thu, còn 60% là tiêu thụ ở thị trường nội địa. Vì
thế nhiều mặt hàng tiêu dùng sản xuất trong nước đã đáp ứng được như: nước
giải khát, bột giặt... nay thêm các liên doanh thì phải chia sẻ thị trường mà xu
thế lại thuộc về các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí
Minh đã góp phần tích cực vào việc đổi mới, nâng cấp thiết bị, công nghệ,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, các dự án có vốn đầu tư lớn đa số sử
dụng thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến (như bia, ô tô...) vì đó là yêu cầu
tất yếu để duy trì hoạt động của chi nhánh trong bối cảnh kinh tế thế giới cạnh
tranh gay gắt. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại một bộ phận công nghệ chuyển giao
dưới hình thức thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả (thiết bị hiện
đại chỉ chiếm 10%, trung bình 30% và 60% cũ kỹ lạc hậu).Tuy nhiên, nếu nói
về mức độ hiện đại thì đều không phải là hiện đại bậc nhất, có nghĩa hầu hết
công nghệ chuyển giao đều lạc hậu một cách tương đối.
Tương tự như sự hạn chế về mức độ hiện đại, công nghệ chuyển giao
có xu hướng là thiếu đồng bộ. Chẳng hạn các liên doanh ô tô, xe máy, điện tử
đều được phân công chuyên môn hoá theo từng công đoạn. Trong đó những
bộ phận quan trọng nhất chứa hàm lượng vốn và kỹ thuật cao như máy của xe
máy, xe ô tô đều được thực hiện ở công ty mẹ. Thực tế hiện nay, công nghệ
chuyển giao ở những ngành này chủ yếu vẫn là lắp ráp.
Tình trạng đối tác nước ngoài khai tăng giá thiết bị để tăng tỷ lệ vốn
góp vào liên doanh là khá phổ biến. Một công bố của công ty kiểm toán quốc
tế SGS (Societe General de Surveillance) Thuỵ Sĩ đã giám định giá thiết bị
góp vốn của phía nước ngoài trong 12 liên doanh thì có 6.112 công ty đã khai
khống giá trị thiết bị với tỷ lệ chênh lệch giá đến 28,4%.
Những hạn chế trên trong thực tiễn thu hút FDI tại thành phố Hồ Chí
Minh là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, về chính sách và môi trường đầu tư. Mặc dù đã có những cải
tiến tích cực, song nhìn chung chính sách điều hành vĩ mô của nhà nước vẫn
chưa đồng bộ và hay thay đổi chưa ổn định. Nhiều lĩnh vực quan trọng và rất
nhạy cảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài như: vấn đề thanh toán ngoại tệ,
vấn đề chính sách về đất đai... chưa được giải quyết nhanh chóng. Chẳng hạn,
việc xử lý cán cân thanh toán đảm bảo ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI thu
hồi vốn là chuyển lợi nhuận ra ngoài là vấn đề các nhà đầu tư nước ngoài
quan tâm hàng đầu, nhưng chính sách Nhà nước giải quyết là chưa thoả đáng.
Hay về chính sách đất đai, quy định hiện hành chỉ cấp quyền sử dụng đất lâu
dài cho phần đất ở, nếu người sử dụng đất ở chuyển mục đích sử dụng sang
sản xuất kinh doanh thì Nhà nước sẽ thu hồi và người được sử dụng đất trở
thành người thuê đất tình hình đó dẫn đến tình trạng người có đất không
muốn đưa đất vào các dự án FDI trong khi đất là một trong những nguồn vốn
quan trọng nhất trong nước. Mặt khác, về thủ tục hành chính tuy đã có nhiều
cải thiện, nhưng những quy định của Nhà nước trong những lĩnh vực như: Hải
quan, thuế, xuất nhập cảng còn rườm rà, dễ nảy sinh tiêu cực và gây phiền hà
cho các nhà đầu tư.
Thứ hai, về công tác xúc tiến và chuẩn bị đầu tư. Từ ngày Chính phủ
ban hành Luật đầu tư nước ngoài công tác xúc tiến đầu tư đã triển khai liên
tục nhưng hiệu quả còn thấp, nhiều đoàn tổ chức đi nước ngoài vận động đầu
tư nhưng không có kết quả, tuy đã có định hướng đầu tư nước ngoài nhưng
quy hoạch dài hạn, cụ thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chậm, kinh
phí để tổ chức mạng lưới đại diện và tổ chức vận động đầu tư quốc tế còn hạn
chế. Mạng lưới các công ty tư vấn đầu tư nước ngoài còn quá ít, trình độ
chuyên môn chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ, nên công tác xúc tiến
đầu tư và chuẩn bị đầu tư còn rất chậm.
Thứ ba, về thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Thủ tục thẩm định dự án
đầu tư nước ngoài và cấp giấy phép đầu tư còn qua nhiều tầng nấc trung gian,
gây phiền hà, mất rất nhiều thời gian. Tuy gần đây có sự phân cấp một số lĩnh
vực cho các địa phương nhưng quản lý chưa chặt chẽ và cụ thể, một số địa
phương còn lúng túng, một số dự án đầu tư do trình độ năng lực của các cán
bộ thẩm định kém đã làm thiệt hại cho phía đối tác hoặc một số dự án không
có tính khả thi.
Thứ tư, về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Việc triển khai thực hiện giấy phép của doanh nghiệp FDI vẫn
còn nhiều khó khăn vướng mắc nhất là thủ tục giao nhận đất, nhập vật tư thiết
bị để hình thành tài sản cố định vẫn còn nhiều phức tạp, gây phiền hà cho nhà
đầu tư. Khi doanh nghiệp đi vào hoạt động thì lại có rất nhiều ngành, nhiều
cấp có thẩm quyền quản lý, kiểm tra doanh nghiệp nhưng gần như không có
cơ quan nào nắm chắc tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Về phía các
doanh nghiệp, đa số đều ít nhiều vi phạm nội dung cấp giấy phép, thậm chí
một số doanh nghiệp còn có biểu hiện gian lận trong kinh doanh hoặc cam kết
xuất khẩu để dễ dàng xin giấy phép và sau đó thì tiêu thụ nội địa, nhưng luật
pháp, chính sách của Nhà nước chưa quy định chặt chẽ, đầy đủ các biện pháp
xử lý, chế tài có hiệu quả.
Thứ năm, lực lượng lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh làm việc
trong khu vực FDI ngày càng lớn, bên cạnh việc có điều kiện tiếp cận công
nghệ mới, phương pháp quản lý tiên tiến, thu nhập khá cao thì cũng nảy sinh
vấn đề mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ thợ, nhiều doanh nghiệp đã trở nên
gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu là do cường độ lao động, có thời điểm quá
cao nhưng tiền lương và đãi ngộ chưa thoả đáng. Việc xử lý mâu thuẫn này
rất phức tạp, cần phải tuân thủ đúng và đầy đủ pháp luật hiện hành. Nếu chỉ
xuất phát từ lợi ích của người lao động thì nguy cơ người lao động mất việc
hàng loạt ở các doanh nghiệp thực sự khó khăn vì nguyên nhân khách quan
chung hiện nay, nếu ngược lại sẽ đối lập với người lao động, giúp nhà đầu tư
nước ngoài có điều kiện sử dụng lao động với cường độ cao hơn, điều này sẽ
trái với bản chất của chế độ XHCN của chúng ta.
1.3.2. Kinh nghiệm khai thác FDI của Thành phố Hà Nội
Hà Nội đã đổi mới công tác vận động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng
cách chuyển phương thức vận động đầu tư nước ngoài từ bị động (đợi các chủ
đầu tư đến) sang chủ động hướng các nhà đầu tư nước ngoài tập trung đầu tư
theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội, tạo nên
một nền kinh tế phát triển bền vững, nâng cao chất lượng các tài liệu vận
động đầu tư, xây dựng trang web để giới thiệu danh mục các dự án kêu gọi
đầu tư và chính sách ưu đãi đầu tư của Hà Nội, thành phố chủ động hoặc phối
hợp với các tổ chức quốc tế để tổ chức diễn đàn kêu gọi xúc tiến đầu tư nước
ngoài, trong nước hoặc tại các nước, khu vực có tiềm năng tài chính, tạo điều
kiện thuận lợi cho các tập đoàn, các công ty, các tổ chức tài chính quốc tế mở
văn phòng đại diện tại Hà Nội.
Các chế độ ưu đãi FDI vào Thành phố Hà Nội như sau:
Thứ nhất, danh mục các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư như: sản
xuất, chế biến xuất khẩu 80% sản phẩm trở lên; chế biến nông sản, lâm sản
(trừ gỗ), thuỷ sản từ nguồn nguyên liệu trong nước xuất khẩu 50% sản phẩm
trở lên; sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại màu, kim loại đặc biệt, phôi
thép, sắt xốp; luyện gang; sản xuất máy móc thiết bị. Cụm chi tiết trong các
lĩnh vực: khai thác dầu khí, mỏ, năng lượng; sản xuất thiết bị nâng hạ cỡ lớn;
sản xuất máy công cụ gia công kim loại, thiết bị luyện kim; sản xuất thiết bị y
tế trong công nghệ phân tích và công nghệ chiết xuất trong y học; sản xuất
thiết bị kiểm nghiệm độc chất trong thực phẩm; sản xuất vật liệu mới, vật liệu
quý hiếm, ứng dụng công nghệ mới về sinh học; công nghệ mới để sản xuất
thiết bị thông tin; công nghiệp kỹ thuật cao; đầu tư vào nghiên cứu và triển
khai (R&D) chiếm 25% doanh thu; sản xuất thiết bị xử lý chất thải; xử lý ô
nhiễm và bảo vệ môi trường, xử lý chất thải, sản xuất nguyên liệu thuốc
kháng sinh: đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT.
Thứ hai, Hà Nội đang xây dựng một số cơ chế ưu đãi đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau:
- Đối với các dự án khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu
tư, có quy mô vốn lớn (từ 50 triệu USD trở lên) và sử dụng nhiều diện tích đất
(từ 5 ha trở lên), miễn tiền thuê đất từ 07 năm đầu (không tính thời gian xây
dựng cơ bản) và giảm 50% trong 03 năm tiếp theo.
- Miễn tiền thuê đất trong thời gian dài đối với dự án khuyến khích và
đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực Hà Nội đang cần để tạo nên
những bước đột phá làm động lực phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
- Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài ứng tiền đền bù, giải phóng mặt
bằng để xây dựng công trình dự án, thành phố cho phép trừ số tiền chi phí ứng
trước đó vào tiền thuê đất, tương ứng giữa tổng số tiền chi phí với thời gian
thuê đất (trên cơ sở giá thuê đất cơ bản).
- Hệ thống hạ tầng ngoài hàng rào được chính quyền Hà Nội hỗ trợ đầu
tư.
- Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo công nhân, cán bộ ở các ngành nghề
trình độ cao, công nghệ hiện đại, các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư (nếu
nhà đầu tư yêu cầu).
Thứ ba, quy trình về xét duyệt thẩm định cấp giấy phép đầu tư:
- Về thời hạn: rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư (đối với dự án
đăng ký cấp giấy phép đầu tư: 10 ngày; đối với dự án thẩm định cấp giấy
phép đầu tư: 20 ngày). Rút ngắn thủ tục xúc tiến, phê duyệt và cấp giấy phép
đầu tư từ 26 đầu mối xuống còn 5 đầu mối chính đối với các dự án có quy mô
vốn lớn, sử dụng đất rộng gồm: cung cấp thông tin, tiếp nhận dự án, thẩm
định cấp giấy phép đầu tư (Sở Kế hoạch và Đầu tư); giới thiệu đất, hướng dẫn
về quy hoạch (kiến trúc sư trưởng); ký hợp đồng thuê đất (Sở Địa chính - nhà
đất); đền bù và giải phóng mặt bằng (Ban giải phóng mặt bằng thành phố);
thẩm định thiết kế và cấp giấy phép xây dựng (Sở Xây dựng). Rút ngắn thủ
tục xúc tiến, phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư từ 26 đầu mối xuống còn một
đầu mối đối với các dự án có quy mô vốn nhỏ, sử dụng đất hẹp (chủ đầu tư
nước ngoài nộp hồ sơ dự án đến Sở Kế hoạch - Đầu tư và được xem xét phê
duyệt cấp giấy phép đầu tư, sau khi đã xin ý kiến các Bộ chuyên ngành và
trình UBND thành phố phê duyệt).
Về nội dung thẩm định: Rút ngắn quy trình thẩm định dự án đầu tư
nước ngoài từ 22 nội dung xem xét đánh giá xuống còn 5 nội dung cơ bản: tư
cách pháp lý, năng lực tài chính của chủ đầu tư; mức độ phù hợp của dự án
với quy hoạch; lợi thế kinh tế - xã hội, trình độ khoa học và công nghệ; tính
hợp lý của việc sử dụng đất.
Về một số chi phí đầu tư ở Hà Nội: Tiền thuê đất: vùng đô thị (1-12
USD/m2/năm); ngoại ô (0,35 - 0,72 USD/m2/năm); xa trung tâm thị trấn, thị
xã (0,03 - 1,08 USD/m2/năm). Giá điện: sản xuất công nghiệp (0,075 - 0,092
USD/Kwh); dịch vụ (0,098 - 0,15 USD/Kwh). Tiền nước: sản xuất công
nghiệp (0,2 USD/m3); dịch vụ (0,43 USD/m3). Thuê nhà xưởng (trong khu
công nghiệp: 5 - 8 USD/m2/tháng; ngoài KCN: 1,6 - 2,5 USD/m2/tháng). Chi
phí lao động (lao động phổ thông: 50-80 USD/tháng; lao động lành nghề: 85-
170 USD/tháng; quản lý 150-250 USD/tháng) [54, tr.338-353].
1.3.3. Kinh nghiệm khai thác FDI của tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là một trong những tỉnh thu hút được FDI nhiều nhất trong cả
nước. Trong thời gian qua, trong quá trình thực hiện chính sách thu hút FDI ở
Đồng Nai đã cho chúng ta thấy rằng:
Về số lượng các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng liên doanh với
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn rất ít vì các doanh nghiệp có khả
năng liên doanh đã có dự án liên doanh. Chính vì vậy, việc thành lập thêm các
doanh nghiệp liên doanh rất hạn chế trong thời gian qua. Hơn nữa vai trò bên
Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng Nai thường rất khó
khăn do hạn chế về tài chính, năng lực, kinh nghiệm. Sự hạn chế này là
nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ một số doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng
Nai, từ đó tạo ra tâm lý ngần ngại không ít cho các nhà đầu tư chọn hình thức
liên doanh.
Chủ đầu tư FDI do đặc trưng về các hình thức tổ chức của nó bao gồm
các chủ đầu tư phía Việt Nam và phía nước ngoài:
- Về phía Việt Nam, tham gia liên doanh chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương chiếm tỷ trọng lớn. Các
doanh nghiệp Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất, phần
còn lại góp bằng một số tài sản hiện hữu và một ít tiền mặt. Tỷ trọng góp vốn
của các nhà đầu tư Việt Nam trong liên doanh phổ biến khoảng 30% và đây là
một trong những yếu tố làm hạn chế khả năng quản lý điều hành phía Việt
Nam. Do vậy vấn đề trình độ, kinh nghiệm, bản lĩnh quản lý các thành viên
Việt Nam trong Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám đốc liên doanh là rất
quan trọng đối với sự tồn tại phát triển các đơn vị liên doanh. Thực tế ở
Đồng Nai cho thấy có một số liên doanh thất bại do bất đồng trong quản lý
về phía nước ngoài, trong những năm đầu, chủ đầu tư nước ngoài hầu hết
thuộc các nước NICs và ASEAN với các dự án đầu tư của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Những năm tiếp theo, dự án đầu tư các nước NICs,
ASEAN vẫn tiếp tục phát triển đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp lớn từ
Nhật, Mỹ, EU... Hầu hết các dự án đầu tư công nghiệp đều tập trung vào
các khu công nghiệp đã và đang quy hoạch, tạo sự thuận lợi trong quản lý,
xử lý chất thải và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng điều này tạo khả năng để
Đồng Nai chủ động hơn trong việc điều tiết các dự án đầu tư theo yêu cầu
cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ.
Về khoa học - công nghệ và môi trường, Đồng Nai là tỉnh thu hút nhiều
dự án công nghiệp, nên việc quản lý môi trường được tỉnh rất chú trọng để
thuận lợi trong việc giám sát môi trường, tỉnh có định hướng các dự án công
nghiệp chủ yếu bố trí vào các KCN đã và đang quy hoạch, chỉ bố trí bên ngoài
KCN các loại dự án công nghiệp sạch nhằm giải quyết lao động tại chỗ, công
nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, các dự án công nghiệp mang tính
chất dịch vụ (kho tàng, bến bãi) và các dự án có tính chất đặc thù cao. Ngoài
ra, từng KCN đều có xác định các loại hình công nghiệp có thể bố trí phù hợp
với tính chất loại chất thải để thuận lợi trong việc đầu tư xử lý. Về phía doanh
nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều lập các báo cáo đánh
giá tác động môi trường trình duyệt theo quy định. Tuy nhiên trong quá trình
thực hiện, tình hình ô nhiễm đã rải rác xảy ra ở một số đơn vị vì các lý do
chính như:
Một là, nhà đầu tư có xu hướng không đầu tư công trình xử lý chất thải
để giảm chi phí đầu tư vì phí đầu tư xử lý chất thải rất tốn kém.
Hai là, khai thác tối đa phần diện tích đã thuê, nên không đảm bảo tối
thiểu 15% diện tích cây xanh.
Ba là , các KCN của tỉnh Đồng Nai chưa triển khai kịp thời công trình
nhà máy xử lý nước thải chung và bãi thải chất rắn. Trong thời gian chưa có
hệ thống xử lý chung, các doanh nghiệp phải tự đầu tư hệ thống xử lý cục bộ,
có nơi hệ thoát nước bên ngoài nhà máy chưa có, gây không ít khó khăn cho
doanh nghiệp.
Về tình trạng thiết bị và công nghệ, các doanh nghiệp FDI tuy số thiết
bị và công nghệ các dự án FDI tại Đồng Nai ở mức độ trung bình so với các
nước trong khu vực, nhưng nhiều loại thiết bị công nghệ vẫn rất mới mẻ và
hữu dụng đối với nước ta. Hơn nữa, giai đoạn đầu thu hút đầu tư, mục tiêu
được quan tâm là giải quyết việc làm cho người lao động, nên một số loại
hình doanh nghiệp như (dệt, giày da, may mặc) không bắt buộc phải cần công
nghệ tiên tiến. Công nghệ sử dụng chỉ cần đảm bảo mục tiêu hợp lý, hiệu quả
đối với những yêu cầu, điều kiện của Đồng Nai.
Về tình hình lao động trong các doanh nghiệp FDI. So sánh với số
lượng lao động ở các thành phần kinh tế khác trên địa bàn tỉnh cho thấy các
doanh nghiệp FDI có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động. Hầu hết các doanh nghiệp FDI đã thực hiện
tốt các quy định về tuyển dụng lao động, có chính sách đối với người lao
động phù hợp với bộ luật lao động. Lao động làm việc trong các doanh
nghiệp FDI đều xuất thân từ học sinh, từ lao động nông nghiệp hoặc lao
động phổ thông, nên vẫn còn hạn chế về tác phong công nghiệp, kỹ thuật
lao động hoặc hiểu biết về pháp luật... Do vậy, ngoài việc tập huấn, hướng
dẫn cho nhà đầu tư về bộ luật lao động, các trung tâm dịch vụ việc làm
Đồng Nai đã tổ chức cho người lao động học tập luật lao động trước khi
giới thiệu cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua một số doanh
nghiệp FDI cũng vi phạm một số quy định lao động như: Một là, tự ý tuyển
dụng lao động không thông qua các cơ quan giới thiệu việc làm. Hai là,
kéo dài thời gian thử việc hoặc dùng mức lương tối thiểu để trả lương cho
lao động có tay nghề trong thời gian dài. Ba là, thời gian và cường độ làm
việc căng thẳng, tổ chức làm thêm giờ quá quy định khi chưa có sự thoả
thuận của người lao động. Bốn là, chưa quan tâm đúng mức công tác huấn
luyện an toàn lao động và trang bị bảo hộ lao động. Năm là, còn tuỳ tiện
cho người lao động nghỉ việc hoặc sa thải người lao động, chấm dứt hợp
đồng lao động sai pháp luật. Sáu là, ít quan tâm đến việc ký kết bản thoả thuận
lao động tập thể và thành lập Hội đồng hoà giải tranh chấp lao động.
Sự phát triển nhanh các dự án đầu tư và số lượng lao động đã xảy ra
nhiều vụ tranh chấp lao động và đình công chủ yếu là các doanh nghiệp Hàn
Quốc, Đài Loan... Các vụ tranh chấp lao động và đình công xảy ra ở tỉnh
Đồng Nai chủ yếu với mục đích là kinh tế. Ngoài ra còn có một số vụ phản
đối thái độ đối xử của giám đốc, nhân viên quản lý, kỹ thuật là người nước
ngoài đối với công dân Việt Nam trong quá trình quản lý điều hành sản xuất.
Tất cả các việc làm đình công đều xảy ra tự phát, tiến hành không đúng trình
tự thủ tục theo quy định của Bộ luật lao động. Hầu hết nội dung kiến nghị của
người lao động đưa ra trong quá trình tranh chấp lao động và đình công là phù
hợp với quyền lợi của người lao động theo Bộ luật lao động quy định.
Khi đình công xảy ra các ngành của tỉnh Đồng Nai đã nhanh chóng
phối hợp xử lý trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người lao động và tôn trọng
lợi ích của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, do đó chỉ có một vụ
tranh chấp kéo dài 5 ngày, số còn lại đều không quá 24 giờ.
FDI tác động trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Đồng Nai: Quá trình đầu tư FDI tại Đồng Nai trong thời gian qua đã tạo
những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thứ nhất, ảnh hưởng tích cực: Đầu tư FDI đã bổ sung nguồn vốn và
công nghệ quan trọng cho phát triển. Trong ngân sách, kinh phí nhà nước
dành đầu tư xây dựng cơ bản cho tỉnh hàng năm không quá 100 tỷ VNĐ,
mức kinh phí đầu tư như vậy không thể đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho
phát triển mặc dù tỉnh đã bổ sung nhiều nguồn vốn khác huy động trong xã
hội với khả năng cao nhất. Do vậy mức vốn đầu tư FDI thực hiện trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai trong các năm qua, là rất lớn và có ý nghĩa quan trọng
đối với hoạt động đầu tư cho phát triển ở Đồng Nai bởi nó chiếm tỷ trọng
lớn trong cơ cấu vốn đầu tư. Tỷ trọng vốn FDI đã làm giá trị tài sản cố định
mới tăng hàng năm của khu vực kinh tế nước ngoài lớn hơn khu vực kinh
tế trong nước rất nhiều. Số tài sản tăng thêm từ khu vực kinh tế nước ngoài
đã làm thay đổi trình độ và tiềm lực công nghệ tỉnh Đồng Nai. Điều này
được phản ánh rõ nét ở sự phát triển nhiều khu công nghiệp mới có tầm
mức vượt qua khu công nghiệp Biên Hoà I, niềm tự hào về tiềm lực công
nghệ của Đồng Nai trước đây. FDI đã thúc đẩy công nghiệp Đồng Nai phát
triển nhanh, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đồng
Nai theo hướng tích cực, hiện đại. Do lĩnh vực FDI tại Đồng Nai trong thời
gian qua chủ yếu là công nghiệp nên công nghiệp Đồng Nai đạt mức tăng
trưởng nhanh cả về quy mô sản lượng và tốc độ phát triển. Sự phát triển
của công nghiệp đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy rất nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Đồng Nai sang cơ cấu hiện đại. FDI đã làm
tăng nhanh khối lượng, giá trị sản phẩm xuất khẩu, từng bước tạo điều kiện
để tiếp cận, hội nhập với thị trường, với kinh tế thế giới. FDI đã tạo công
ăn việc làm số lượng lớn lao động Việt Nam, tác động tích cực đến việc
thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn. FDI đã góp phần vào hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, những ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh những thành quả lớn đã
đạt được từ FDI cũng đã phát sinh một số vấn đề trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Môi trường sinh thái bị ảnh hưởng do việc chuyển dịch công nghiệp
có chất thải độc hại từ các nước phát triển sang các nước có nền kinh tế đang
phát triển là một xu hướng đáng ngại và trở thành hiện thực ở Đồng Nai. Đầu
tư xử lý chất thải khá tốn kém, nên một số nhà đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận đã
đầu tư xử lý chưa đồng bộ, chưa triệt để. Công nghiệp tăng nhanh trong khi
các KCN chưa có nhà máy xử lý chất thải chung, nên từng lúc từng nơi môi
trường bị ảnh hưởng. Hơn nữa, dù hệ thống xử lý chất thải rất hoàn thiện, ảnh
hưởng của chất thải công nghiệp đối với môi trường vẫn có những tác động
nhất định.
- FDI gây ra các khó khăn do tăng dân số cơ học, do tốc độ tăng
trưởng cao, Đồng Nai đã thu hút một số lượng lớn lao động từ các địa
phương khác đến làm việc. Điều đó đã và đang gây ra áp lực rất lớn về an
ninh, nhà cửa, bệnh viện, trường học, các công trình cơ sở hạ tầng... Tình
trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến gây khó khăn lớn trong việc quy
hoạch sử dụng đất.
- Một số doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, do hạn chế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường
doanh nghiệp trong nước đã gặp khó khăn do: thị phần sản phẩm bị chia sẻ,
yếu thế cạnh tranh bởi sức mạnh độc quyền của các tập đoàn đa quốc gia, bị
chèn ép trong các liên doanh, dẫn đến doanh nghiệp bị phá sản hoặc chuyển
nhượng vốn lại cho bên nước ngoài.
- Chưa nắm bắt được thực chất kết quả tài chính của các nhà đầu tư
nước ngoài, do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện sự lỏng lẻo trong quản lý
vì thiếu thông tin, các cơ quan quản lý chưa kiểm soát đầy đủ thực chất hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Đối với các doanh nghiệp Việt
Nam, có tình trạng lãi giả lỗ thật, nhưng đối với doanh nghiệp FDI, bên nước
ngoài thường nâng giá đầu vào, ép giá đầu ra, nhập nhằng giữa thiết bị cũ và
mới, độc quyền về thị trường nước ngoài, độc quyền cung cấp vật tư nguyên
liệu... nên việc lãi thật lỗ giả đối với một số doanh nghiệp FDI là cơ sở, nhưng
chúng ta thiếu thông tin để kiểm chứng.
Tóm lại, qua kinh nghiệm khai thác FDI để phát triển kinh tế - xã hội ở
ba địa phương đã cho chúng ta những bài học kinh nghiệm vận dụng vào khai
thác FDI phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương:
Qua kinh nghiệm khai thác FDI để phát triển kinh tế - xã hội ở thành
phố Hồ Chí Minh cho chúng ta những bài học kinh nghiệm về chính sách
đầu tư, công tác xúc tiến, chuẩn bị đầu tư, thẩm định cấp giấy phép đầu tư;
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI thấy được những mặt hạn chế,
nguyên nhân và những giải pháp khắc phục nhằm khai thác FDI một cách
hiệu quả hơn.
Ở Thành phố Hà Nội cho chúng ta bài học kinh nghiệm về cách kêu gọi
đầu tư FDI, những phương thức tiếp thị đầu tư ở Hà Nội, từ bị động chờ
doanh nghiệp FDI đến đầu tư chuyển sang chủ động mời gọi với những chế
độ ưu đãi và cách thực hiện quy trình về xét duyệt, thẩm định cấp giấy phép
được đổi mới thông thoáng, hấp dẫn nhằm thu hút được FDI vào Thủ đô Hà
Nội.
Qua những kinh nghiệm thực tế về khai thác FDI ở tỉnh Đồng Nai cho
chúng ta thấy các mặt tác động tích cực và hạn chế của FDI đến phát triển
kinh tế - xã hội ở địa bàn tỉnh Đồng Nai và cách giải quyết tháo gỡ của chính
quyền địa phương tỉnh Đồng Nai. Và là một tỉnh giáp với tỉnh Bình Dương có
những nét tương đồng trong thu hút FDI nên những bài học kinh nghiệm của
tỉnh Đồng Nai cũng là những bài học kinh nghiệm để khai thác FDI ở Bình
Dương được hiệu quả hơn.
Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA TÁC ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA
TỈNH BÌNH DƯƠNG TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. TÌNH HÌNH FDI TRONG NHỮNG NĂM QUA Ở BÌNH DƯƠNG
2.1.1. Những lợi thế so sánh và ưu đãi trong thu hút FDI ở Bình
Dương
Bình Dương với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, lực lượng
lao động dồi dào, kết cấu hạ tầng kỹ thuật chất lượng cao, nhiều khu công
nghiệp mới đang triển khai xây dựng cùng với chính sách "trải chiếu hoa mời
gọi các nhà đầu tư" Bình Dương đã và đang tạo ra những cơ hội mới cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển sản xuất.
Về lợi thế so sánh, Bình Dương có nhiều thế mạnh về nông sản,
khoáng sản, vật liệu xây dựng đáp ứng nhu cầu sản xuất công nghiệp,
xuất khẩu. Tỉnh nằm trên các trục đường giao thông quan trọng của quốc
gia là đầu mối giao lưu của các tỉnh miền trung, Tây Nguyên, theo quốc
lộ 13, 14 về thành phố Hồ Chí Minh nên có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế. Bình Dương có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi,
đặc biệt là nền đất chắc rất phù hợp để xây dựng các KCN và cơ sở hạ
tầng. Với lực lượng lao động dồi dào, kết cấu hạ tầng kỹ thuật chất
lượng cao cộng với chính sách "trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư"
cởi mở và năng động, Bình Dương đang tạo ra những cơ hội mới và
những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến
đầu tư phát triển sản xuất. Tỉnh đã quy hoạch được 13 KCN tập trung
với diện tích trên 6.000 ha, hiện có 9 chủ dự án đầu tư xây dựng, kinh
doanh cơ sở hạ tầng được cấp phép. Hơn 500 doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và hàng nghìn doanh nghiệp trong nước thuộc các thành
phần kinh tế đã và đang hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Điều
đó chứng minh tính đúng đắn và nhất quán của chủ trương khuyến khích
đầu tư theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, tạo ra những tiền
đề quan trọng để Bình Dương đẩy nhanh hơn nữa sự nghiệp CNH, HĐH
phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới.
Về chế độ ưu đãi, Bình Dương đã và đang thực hiện chính sách "trải
chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư" nhằm thu hút vốn cho các dự án, KCN
trên địa bàn. Nhờ vậy, các mặt kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương
không ngừng phát triển và luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao. Các chế độ ưu
đãi cụ thể là:
Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp FDI đầu tư ở ngoài KCN, về thuế
thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất. Với dự án sản xuất, chế biến có tỷ lệ
xuất khẩu dưới 50% và thuộc địa bàn thị xã Thủ Dầu I, huyện Dĩ An và huyện
Thuận An: thuế suất thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 20% thu nhập
chịu thuế được áp dụng trong 10 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản
xuất kinh doanh và bằng 25% trong các năm tiếp theo. Doanh nghiệp được
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và
giảm 50% trong 03 năm tiếp theo. Với dự án sản xuất, chế biến có một trong
các điều kiện sau: thuộc danh mục dự án khuyến khích đầu tư của Chính phủ,
đầu tư vào địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn (huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu
Tiếng, Bến Cát), chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho Nhà nước Việt Nam
sau khi hết thời hạn hoạt động: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng
năm bằng 10% thu nhập chịu thuế được áp dụng trong 15 năm, kể từ khi dự
án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh và bằng 15% trong các năm tiếp
theo. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 04 năm kể
từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 04 năm tiếp theo. Với dự án sản
xuất thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo quy định của
Chính phủ: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu
nhập chịu thuế trong suốt thời gian hoạt động của dự án. Doanh nghiệp được
miễn thuế thu nhập trong 04 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50%
trong các năm tiếp theo. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn được miễn trên thuế
đất trong thời gian dự án xây dựng cơ bản. Đối với các dự án trồng rừng,
trong thời gian kinh doanh còn được giảm 90% số tiền thuê đất phải nộp. Các
dự án thuộc Khoản 2, 3, 4 còn được miễn tiền thuê đất trong 07 năm kể từ
ngày xây dựng cơ bản hoàn thành và đưa dự án vào hoạt động. Về thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
bằng 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với: người Việt Nam định cư ở
nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định hoặc vấn đề thực hiện hợp
đồng hợp tác kinh doanh từ 10 triệu USD trở lên. Thuế suất chuyển lợi nhuận
ra nước ngoài bằng 5% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà đầu tư
nước ngoài góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh
doanh từ 5 triệu USD đến dưới 10 triệu USD và đối với nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào các lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu
khoa học. Thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 7% đối với các
trường hợp còn lại.
Thứ hai, đối với các dự án đầu tư FDI vào các KCN: về thuế thu
nhập doanh nghiệp, với dự án hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ: thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm bằng 20% thu nhập chịu thuế.
Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh
có lãi và giảm 5% trong 03 năm tiếp theo. Với dự án xuất khẩu trên 50%
sản phẩm, thuộc danh mục dự án khuyến khích đầu tư: thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 15% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp
được miễn thuế thu nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm
50% trong 03 năm tiếp theo.
Với dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, dự án
thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học,
doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN, KCX, khu công nghệ cao, doanh
nghiệp chế xuất: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10%
thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 04 năm kể
từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 04 năm tiếp theo. Thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài bằng 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài [54, tr.926-
957].
2.1.2. Đánh giá chung về thu hút FDI ở tỉnh Bình Dương
Thu hút FDI ở Bình Dương được đẩy mạnh và tăng đột biến chủ yếu
trong giai đoạn 1996-2000. Còn giai đoạn 1995 trở về trước, sức hút của Bình
Dương (lúc đó thuộc tỉnh Sông Bé cũ) không đáng kể, chỉ ngang mức các tỉnh
ở miền Tây Nam Bộ như Long An, Kiên Giang, và kém xa Đồng Nai, Bà Rịa
- Vũng Tàu, càng không thể so được với các "đầu tàu" lớn như thành phố Hồ
Chí Minh hay Hà Nội. Nhưng từ năm 1995 trở lại đây, Bình Dương với chủ
trương "trải chiếu hoa mời gọi đầu tư", Bình Dương tập trung mọi lực lượng
xây dựng và phát triển các KCN. Trong 03 năm 1995-1997, trên vùng đất
nông nghiệp này đã mọc lên 7 KCN. Đồng thời, tỉnh cũng quan tâm chỉ đạo
công tác cải cách thủ tục hành chính, chu đáo nhiệt tình khi đón tiếp các nhà
đầu tư đến với Bình Dương để biến họ từ vị trí thượng khách trở thành đối tác
làm ăn tại đây.
Kết quả mà chính quyền địa phương mong đợi quả thực hơn cả dự
kiến. Vốn FDI tại Bình Dương đã có tăng trưởng đột biến, từ 382 triệu
USD giai đoạn 1991-1995 (chiếm 2,4% tổng vốn FDI cả nước) lên 1,6 tỷ
USD trong giai đoạn 1996-2000 (chiếm 7,9% tổng vốn FDI cả nước).
Thành tích này đưa Bình Dương trở thành địa phương duy nhất có mức
tăng khoảng FDI gấp 4 lần chỉ trong vòng 05 năm. Riêng năm 2000, trong
khi các địa phương khác còn khó khăn về thu hút FDI, do tác động của
khủng hoảng tài chính khu vực, Bình Dương vẫn vươn lên dẫn đầu cả nước
về thu hút FDI. Phát huy thành tích này từ năm 2001 đến nay, Bình Dương
vẫn giữ được nhịp độ thu hút đầu tư và tiếp tục là một trong 5 địa phương
đứng đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài.
Bảng 2.1: Đầu tư nước ngoài được cấp phép năm 2004 vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam [10]
Tên địa phương Số dự án Tổng vốn đầu tư (triệu USD)
Bình Dương 147 398,2
Đồng Nai 95 680,00
Bà Rịa - Vũng Tàu 16 40,40
TP Hồ Chí Minh 294 490,60
Tổng số 492 1.549,20
Năm 2005, Bình Dương thu hút thêm 205 dự án đầu tư mới và 152
dự án bổ sung vốn, với tổng thu hút là 893 triệu 679 ngàn USD. Tính đến
tháng 4/2005, Bình Dương có 1.159 dự án đầu tư nước ngoài trên địa
bàn tỉnh với tổng số vốn đầu tư là 5 tỷ 377 triệu 455 nghìn USD. Trong
đó các KCN thu hút 488 dự án, tổng vốn đầu tư khoảng 2.497 triệu USD,
671 dự án nằm ngoài khu công nghiệp có tổng vốn đầu tư 2 tỷ 880 triệu
455 nghìn USD.
Xét về cơ cấu ngành, FDI ở Bình Dương phân bố hợp lý và hiệu quả.
Hầu hết các dự án này đều nhằm vào lĩnh công nghiệp (bao gồm cả xây dựng)
với khoảng 92,9% vốn đầu tư. Trong đó, ngành công nghiệp nhẹ và công
nghiệp chế biến chiếm 70,5%, phần lớn sản xuất các mặt hàng hướng về xuất
khẩu. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 1,92% và dịch vụ 4,9% tổng vốn
(trong khi đó, tỷ lệ chung của cả nước đến năm 2004 như sau: công nghiệp và
xây dựng 82%; công nghiệp nhẹ và chế biến chỉ chiếm 23,1%, nông - lâm -
ngư nghiệp chiếm 6%, dịch vụ 12%) [58, tr. 211].
Xét về quy mô, các dự án tại Bình Dương chủ yếu thuộc loại vừa và
nhỏ với mức vốn trung bình khoảng 5,1 triệu USD/dự án (tỷ lệ chung cả nước
là 20,7 triệu USD/ dự án). Quy mô dự án tại các KCN Bình Dương là 3,78
triệu USD/dự án (KCN cả nước là 10 triệu USD/dự án, Đồng Nai là 15,9 triệu
USD/dự án). Với quy mô như vậy là phù hợp với hiệu quả trong giai đoạn
đầu. Xét về hình thức đầu tư, đa phần là 100% vốn nước ngoài chiếm 70%
tổng vốn đầu tư, dự án liên doanh chiếm 30% tổng vốn đầu tư (tỷ lệ chung cả
nước là 59%). Về đối tác nước ngoài, các đầu tư vào Bình Dương chủ yếu đến
từ các nước châu Á, chiếm khoảng 70% (bằng tỷ lệ chung của cả nước) trong
đó dẫn đầu là Đài Loan (27%), Hồng Kông (13%), Nhật Bản (11%), tiếp đó
là các nước Tây Âu, Mỹ, v.v.. [6, tr.284-285].
Tính đến tháng 12 năm 2004 cho thấy, Bình Dương là địa phương có tỷ
lệ dự án triển khai thành công cao nhất. Trong đó, dự án loại 1 (hoạt động tốt)
chiếm 61%, loại 2 (đang triển khai) chiếm 13,5%, tỷ lệ dự án đã rút vốn giải
thể chiếm khoảng 5,2%. Tỷ lệ án đang trong giai đoạn làm thủ tục đầu tư xây
dựng là 20,3%. Trong khi đó, tỷ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh và Đồng
Nai lên đến 29%, còn Bà Rịa - Vũng Tàu cũng ở mức 15%.
Bảng 2.2: Tình hình triển khai dự án FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương,
theo mức độ thực hiện (đến 2004) [47]
Đơn vị tính: triệu USD
Mức độ thực hiện Số dự án Tổng vốn
đăng ký
Vốn pháp
định
Hoàn thành giai đoạn đầu tư xây
dựng, đã hoạt động 641 3.133,16 1.350,52
Đang đầu tư xây dựng 68 206,28 80,41
Đang trong giai đoạn làm thủ tục dầu
tư xây dựng 183 661,65 269,63
Đã rút vốn giải thể 70 208,8 102,64
Tổng số 962 4.209,89 1.803,20
Tổng số vốn đã thực hiện là 1755,2 triệu USD (chỉ tính các dự án còn
hiệu lực), chiếm khoảng 40% vốn đã đăng ký. So với cả nước, tỷ lệ này là
49,5% (không kể dự án đầu tư vào ngành dầu khí). Điều này cho thấy, quy mô
dự án ở Bình Dương chủ yếu là vừa và nhỏ. Theo số liệu thống kê cho thấy,
những năm đầu mở cửa, vốn đăng ký bình quân mỗi dự án là 4,3 triệu USD,
sau đó quy mô vốn tăng dần, đến năm 1996 bình quân 11 triệu USD/dự án.
Nhưng giai đoạn 1997 đến nay, quy mô giảm dần chỉ còn 1,96 triệu/dự án
năm 2003, năm 2005 bình quân là 2,4 triệu USD/dự án.
Các doanh nghiệp FDI đóng góp phần nâng cao năng lực sản xuất
cho ngành công nghiệp Bình Dương. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài không ngừng chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên
đáng kể trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh. Trong đó tỷ trọng
giá trị sản xuất tăng từ 43,91% (1997) lên 55,93% (năm 2001) [6, tr.288] và
tăng 39,8% (năm 2005) [63, tr.2]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI còn
góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế Bình Dương với
việc du nhập nhiều công nghệ mới như lắp ráp, sản xuất xe ô tô, sản xuất
tổng đài kỹ thuật số, sản xuất cáp quang, dây chuyền tự động lắp ráp hàng
điện tử. Phần lớn trang thiết bị này có trình độ bằng hoặc cao hơn trình độ
thiết bị tiên tiến đã có trong nước, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới
chất lượng đạt chuẩn quốc gia và quốc tế.
Ngoài nguồn vốn ngân sách, trong thời gian tới Bình Dương cần
thêm một lượng vốn đầu tư lớn cho kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp,
xử lý môi trường và các công trình phúc lợi xã hội khác. Đây cũng là
những lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư mạnh mẽ hơn nữa. Danh sách
những lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư nước ngoài đã dài thêm, đặc
biệt là các ngành sản xuất, chế biến có tỷ lệ xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở
lên, chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), chế biến thuỷ sản từ nguồn nguyên
liệu trong nước với tỷ lệ xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên; và sản xuất
thuốc kháng sinh v.v.. Trong giai đoạn 2003-2010 tỉnh Bình Dương sẽ tập
trung mời gọi các nhà đầu tư vào một số lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ theo
quy hoạch. Cụ thể, đối với các vùng công nghiệp tập trung, đặc biệt là khu
vực phía Nam, tỉnh sẽ khuyến khích phát triển các ngành sản xuất sử dụng
công nghệ kỹ thuật cao, thiết bị hiện đại như cơ khí chế tạo máy, điện, điện
tử, công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, Bình Dương cũng sẽ ưu tiên phát
triển ngành công nghệ chế biến nông sản thực phẩm gắn với vùng nguyên
liệu; có chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh trên các vùng phía Bắc của tỉnh. Bình Dương cũng khuyến
khích đầu tư sản xuất các sản phẩm dệt, da giày, may mặc, v.v.. góp phần
tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp và giá trị xuất khẩu, giải quyết việc
làm và nâng cao đời sống của người lao động.
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH
BÌNH DƯƠNG TRONG THỜI GIAN QUA
2.2.1. Tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Bình Dương, nguyên nhân dẫn đến những tác động đó
2.2.1.1. Những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế- xã
hội ở tỉnh Bình Dương
Hiện tại khu vực lao động có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 32%
GDP toàn tỉnh thu hút khoảng 200 ngàn lao động. Cơ cấu, quy mô và hình
thức đầu tư của các dự án khá thích hợp, đã và đang đóng góp tích cực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, FDI tác động đến phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương.
- FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, nguồn vốn đầu tư trong nước hạn
chế thì mức vốn thực hiện khoảng 2 tỷ USD có ý nghĩa quan trọng, tạo điều
kiện cho tỉnh từng bước xây dựng cơ sở ban đầu trong phát triển kinh tế - xã
hội. FDI thời kỳ 1997-2005 chiếm gần 70% tổng vốn đầu tư phát triển thực
sự đã trở thành một trong những động lực quan trọng góp phần phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH ở Bình Dương. Việc tăng vốn FDI đã tác động tích cực
vào tăng trưởng GDP, cụ thể như: tốc độ GDP đã tăng từ 14,57% năm 1999
lên 15,5% năm 2000. Năm 2003, mục tiêu tăng trưởng GDP của Bình
Dương là 14,5-15% nhưng đã thực hiện vượt kế hoạch, đạt 15,3% do tăng
17,3% vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2002 [52, tr.20]. Năm 2005, mục
tiêu tăng trưởng GDP của tỉnh Bình Dương là 15%, nhưng đã thực hiện vượt
kế hoạch đạt 15,4% do tăng 43% vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2004
[63].
Như vậy, rõ ràng đầu tư nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, tác động
đến sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài đóng góp 32% GDP toàn tỉnh.
- FDI đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển lực
lượng sản xuất. Các dự án hoạt động tập trung ở 3 ngành trong đó nhiều nhất
là lĩnh vực công nghiệp, chiếm 97,17% tổng số dự án và 91,16% số vốn, phân
bố trên 24 ngành công nghiệp chế biến và 2 ngành sản xuất và phân phối điện,
ga, khí đốt, nước. Kế đến là lĩnh vực dịch vụ chiếm 1,6% tổng số dự án, 5,4%
tổng số vốn đầu tư, chủ yếu là dịch vụ văn phòng cho thuê, kho lạnh, vận
chuyển hàng hoá... Còn nông nghiệp, lâm nghiệp mặc dù là khu vực tập trung
hơn 70% dân số của tỉnh nhưng chỉ thu hút 0,83% số dự án và chiếm 2,2%
trên tổng vốn đầu tư. Cuối cùng là khu vực xây dựng chiếm tỷ trọng thấp nhất
0,4% tổng vốn đầu tư [52, tr.18]. Trong những năm đầu, nhà đầu tư nước
ngoài chủ yếu đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm sản dựa trên nguồn
nguyên liệu có sẵn của địa phương như chế biến gỗ, đũa tre, sản phẩm cao su
v.v.. còn những năm trở lại đây FDI đã tập trung nhiều vào ngành công
nghiệp kỹ thuật cao như: sản xuất linh kiện điện tử, phụ tùng ô tô, xe máy,
nhựa PVC, kính cao cấp, ti vi, tủ lạnh, v.v.. Nhờ đó, nhiều công nghệ mới kỹ
thuật số, cáp quang, hàng điện tử kỹ thuật số v.v.. góp phần nâng cao trình độ
công nghệ của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao,
đạt tiêu chuẩn quốc tế được minh chứng bằng tố độ tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu của các doanh nghiệp. Tổng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đạt bình quân 334 triệu USD/năm [52, tr.20].
Bảng 2.3: Số dự án FDI được cấp giấy phép đến năm 2004,
phân theo ngành kinh tế ở Bình Dương [47]
STT Các ngành kinh tế Số dự án
Tổng vốn đầu
tư (triệu
USD)
Vốn pháp
định (triệu
USD)
1 Nông, lâm nghiệp 8 81,25 64,25
2 Công nghiệp, xây dựng 943 3.922,57 1.656,71
3 Dịch vụ
- GTVT, Bưu điện 2 7,00 3,9
- Hoạt động VH, TT 1 28,23 8,47
- Dịch vụ khác 8 170,84 69,87
Tổng số 962 4.209,89 1.803,20
- Tác động trong lĩnh vực nông nghiệp, thực trạng sản xuất nông
nghiệp của địa phương những năm trước đây luôn gặp nhiều khó khăn do
người dân sản xuất không theo một định hướng cụ thể nào cả. Việc trồng
loại cây nào, nuôi con gì chủ yếu là theo phong trào. Quy mô chăn nuôi
theo kiểu hộ gia đình nên số lượng ít, chất lượng không đồng đều. Tuy vậy,
đến nay tình trạng này đã được khắc phục do ngành nông nghiệp Bình
Dương đã thu hút được rất nhiều doanh nghiệp FDI tham gia sản xuất kinh
doanh, tạo nên nhân tố mới, hướng sản xuất theo nhu cầu của thị trường
dưới sự định hướng của các doanh nghiệp. Tính đến năm 2001, ngành nông
nghiệp Bình Dương thu hút được 297 doanh nghiệp ngoài quốc doanh có
vốn đầu tư 9.220 tỷ đồng, trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đầu tư 574 triệu USD. Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu
tư lớn nhất vào nguồn nông nghiệp, cụ thể là trong ngành chăn nuôi phải kể
đến Công ty Nông lâm Đài Loan (vốn đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bình Dương.pdf