Tài liệu Luận văn Tìm hiểu quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với nông hộ ở khu vực miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam: LUẬN VĂN:
Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực
miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều năm qua nền
kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng ổn định, sự cách biệt giữa các vùng miền, khu
vực được rút ngắn, tỷ lệ và diện hộ đói nghèo giảm đáng kể, kinh tế nông nghiệp và nông
thôn đã có những chuyển biến hết sức to lớn và tích cực. Phong trào nông dân sản xuất
giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ sản xuất đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế
vườn, kinh tế trang trại mang lại hiệu quả cao. Những chuyển biến tích cực cả về mặt kinh
tế và xã hội đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung
và nông nghiệp, nông thôn miền núi nói riêng, từng bước nâng cao đời sống của người dân
ở các khu vực vùng 2 ...
79 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 987 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với nông hộ ở khu vực miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực
miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều năm qua nền
kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng ổn định, sự cách biệt giữa các vùng miền, khu
vực được rút ngắn, tỷ lệ và diện hộ đói nghèo giảm đáng kể, kinh tế nông nghiệp và nông
thôn đã có những chuyển biến hết sức to lớn và tích cực. Phong trào nông dân sản xuất
giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ sản xuất đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế
vườn, kinh tế trang trại mang lại hiệu quả cao. Những chuyển biến tích cực cả về mặt kinh
tế và xã hội đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung
và nông nghiệp, nông thôn miền núi nói riêng, từng bước nâng cao đời sống của người dân
ở các khu vực vùng 2 vùng 3. Vai trò kinh tế hộ đã trở thành nhân tố động lực trong phát
triển kinh tế hàng hóa tại khu vực, mối quan hệ giữa kinh tế hộ với các thành phần kinh tế
khác tăng lên. Chính sách điều tiết hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế hộ đan xen với mục
tiêu lợi ích kinh tế chung đã giải phóng được sức sản xuất, xác lập đủ điều kiện để phát
triển một ngành nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp, nông thôn.
Trong mối quan hệ đó với chức năng của mình tín dụng ngân hàng đã có những tác
động thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hộ thông qua các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi từ
dân cư, tổ chức kinh tế để cấp vốn tập rung vao các mục tiêu xoá dói, giảm nghèo, kích
thích sản xuất phát triển tín dụng ngân hàng đã tạo được đầu ra giúp hộ sản xuất đủ nguồn
lực để tổ chức sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa
gắn với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn là một trong những
đầu mối hỗ trợ Nhà nước thực hiện có hiệu quả các chính sách, cơ chế khuyết khích ưu đãi
về kỹ thuật và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho phát triển kinh tế hộ thông qua kỹ năng kiểm tra
trước trong và sau khi cho vay của ngân hàng.
Nhờ tính chất ưu việt của mình đã làm cho, mối quan hệ của tín dụng ngân hàng
với nông hộ được cải thiện, trong đó tín dụng giữ vai trò động lực cho phát triển kinh tế
tại khu vực nông thôn. Bằng các nghiệp vụ chuyên môn, nhất là công tác huy động vốn
và thực hiện đầu tư tín dụng của Ngân hàng cho hộ sản xuất nông nghiệp tại địa bàn đã
góp phần thực hiện tốt nhất định hướng cơ cấu kinh tế tại địa phương thúc đẩy tăng
trưởng, tăng được thu nhập của kinh tế hộ. Với ý nghĩa đó tác giả chọn đề tài " Quan
hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở
khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam " làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên
ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua 5 năm thực hiện chiến lược về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại ở ku
vực miền núi Quảng Nam. Các mô hình kinh tế hộ đã thật sự đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế tại địa bàn. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được mới chỉ mang tính khởi
đầu, khẳng định tính đúng đắn trong xác định cơ cấu kinh tế với bước đi cụ thể. Việc còn
phải làm là rất lớn, nhất là yêu cầu về vốn đầu tư, trong đó không thể thiếu được mối quan
hệ giữa hoạt động tín dụng của ngân hàng với phát triển kinh tế hộ.
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có một số công trình về hoạt động ngân hàng
với phát triển kinh tế hộ nhưng phạm vi nghiên cứu rộng, có thể thấy ở một số đề tài cụ thể
sau:
- Đề tài: "Phát triển tín dụng nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long" của tác giả:
Phạm Văn On (Khoa Kinh tế chính trị, HVCTQG Hồ Chí Minh)
- Đề tài: "Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm phát triển
ngành nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hoá" của tác giả: Đặng Ngọc Ba (Khoa Phát triển kinh
tế, HVCTQG Hồ Chí Minh).
- Đề tài: "Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp nhằm phát triển nông
nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam" của tác giả: Võ Văn Lâm (Khoa Quản lý
kinh tế, HVCTQG Hồ Chí Minh).
- Đề tài: "Mở rộng tín dụng ngân hàng đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn" của tác giả: Hoàng Xuân Hùng (Khoa Quản lý kinh tế, HVCTQG Hồ Chí
Minh).
Để thực hiện đề tài của luận văn này tác giả đã kế thừa những ý tưởng về cơ sở lý
luận và một số nội dung liên quan để phục vụ cho quá trình khảo sát thực trạng và đề xuất
giải pháp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng của
NHNo&PTNT nói riêng với mục tiêu phát triển kinh tế của các hộ trồng trọt và chăn nuôi
tại khu vực. Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả của tín dụng ngân
hàng.
- Chỉ rõ mục tiêu lợi ích của các bên và lợi ích xã hội trong mối quan hệ đó.
3.2. Nhiệm vụ: Luận văn có gắng luận giải vai trò của tín dụng ngân hàng, đăc biệt
là tìm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nói
chung và tín dụng NHNo&PTNT nói riêng đối với việc phát triển kinh tế hộ tại khu vực
nghiên cứu. Trong đó kinh tế hộ ngày càng được chuyển giao nhiều ứng dụng kỹ thuật, tư
vấn tổ chức sản xuất thông qua tác động của tín dụng ngân hàng. Đáp ứng phát triển đúng
định hướng kinh tế xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng X và Nghị quyết Đại
hội Đảng các cấp ở địa phương.
Phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ tín dụng ngân hàng, những mặt đạt được,
những hạn chế, nguyên nhân. Chú trọng những yếu kém, đề xuất biện pháp chủ yếu thiết
thực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng: Nghiên cứu mối quan hệ hỗ trợ vốn, thực hiện uỷ thác đầu tư và chuyển
giao các ứng dụng kỹ thuật đến phát triển kinh tế hộ trồng trọt và chăn nuôi tại khu vực nghiên
cứu.
4.2. Phạm vi: Đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn với nông hộ ở 3 huyện miền núi phía bắc Quảng Nam (huyện
Đông Giang, huyện Tây Giang, huyện Nam Giang) từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp duy vật
biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, các phương pháp thống kê, phân tích, tổng
hợp và phương pháp toán học.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã đánh giá, phân tích thực trạng mối quan hệ, chỉ ra những thành tựu đạt
được và bài học thành công, những hạn chế khiếm khuyết trong hoạt đông tín dụng của
ngân hàng thương mại trên địa bàn.
Trình bày các giải pháp tổng thể nhằm phát huy tốt hơn mối quan hệ của hoạt động
tín dụng ngân hàng với phát triển kinh tế hộ.
Đưa ra những kiến nghị với ngân hàng cấp trên, các cấp uỷ, chính quyền, các ngành,
các đoàn thể tại địa phương để có chính sách đúng hơn trong đầu tư phát triển kinh tế hộ, tạo
lập cơ sở sát thực hơn trong tổng kết và đánh giá vai trò kinh tế hộ trong chiến lược phát triển
kinh tế chung của địa phương.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ
giữa tín dụng ngân hàng trong phát triển kinh tế hộ
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa ngân hàng thương mại với
kinh tế hộ
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng và vai trò của nó
1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là tín dụng do ngân hàng làm trung gian vừa đại diện cho người đi
vay để vay tiền của người gửi tiền, vừa đại diện cho người gửi tiền để đem cho vay sao cho có
hiệu quả. Tín dụng ngân hàng linh hoạt hơn, quy mô rộng hơn, phong phú hơn vì nguồn vốn
không chỉ là tư bản tạm thời nhàn rỗi, mà còn gồm cả thu nhập của người lao động, tuy nhỏ
nhưng tập trung thành nguồn tư bản lớn. Chính vì vậy, đã nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong xã hội, vì biến vốn tạm thời nhàn rỗi, biến tiền để dành thành tư bản hoạt động. Ngân
hàng thương mại với tính tạo tiền, có thể nhân nguồn vốn tiền gửi lên theo số nhân tiền, kể cả
tạo ngoại tệ khi tập trung được tiền gửi ngoại tệ.
NHTM ra đời là một kết quả tất yếu của sự phát triển nền kinh tế, nhưng mặt khác,
hệ thống NHTM với tư cách là “kênh dẫn vốn chủ yếu” của nền kinh tế, cũng tác động trở
lại, đóng vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế. NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập theo nghị định 53/HĐBT (26-3-1988),
đến tháng 11/1990 đổi tên là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và được thành lập lại theo
Quyết định 282/QĐ-NHT (15-10-1996) của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
lấy tên là NHNo&PTNT Việt Nam, là một NHTM nhà nước hoạt động kinh doanh chủ
yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Biểu hiện rõ nét là trực tiếp đầu tư cho phát
triển kinh tế, xã hội trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Với vị trí đó, hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chủ yếu thực thi các chính
sách của Đảng, Nhà nước và của ngành như:
- Chính sách tín dụng đối với hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác: Nhà
nước có chính sách tín dụng tạo điều kiện về vốn, điều kiện vay nhằm hỗ trợ cho hợp tác
xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác đổi mới và phát triển; bảo đảm kinh tế nhà nước
cùng kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
- Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân: Nhà nước có
chính sách tíng dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiên, thời hạn vay vốn đối với nông
nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá, thực
hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn.
- Chính sách tín dụng đối với miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng có điều kiện linh tế
- xã hội khó khăn: Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, thời hạn vay
vốn để mở rộng đầu tư phát triển kinh tế hàng hoá và đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các
vùng.
1.1.1.2. Vai trò của tín dụng trong phát triển Kinh tế hộ ở nông thôn miền núi
Trong quá trình tổ chức thực thi các chính sách nêu trên, đã hình thành mối quan hệ
tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam với kinh tế hộ và mối quan hệ này chiếm thị phần
chủ yếu trong hoạt động cung ứng vốn ngắn - trung - dài hạn cho phát triển kinh tế tại địa
bàn nói chung và kinh tế hộ nói riêng.
Vai trò của KTH trong quá trình phát triển nền sản xuất hàng hoá rất lớn, những
hình thái sản xuất hàng hoá có hiệu quả đã xuất hiện và hình thành như kinh tế vườn, kinh
tế trang trại, làng nghề… trên quy mô sản xuất ngày càng lớn, khả năng tích tụ, tập trung
đất đai ngày càng mở rộng. Sự tồn tại các hình thức tổ chức trên đã tạo điều kiện ứng dụng
công nghệ mới, tạo động lực giải phóng sức sản xuất ở nông thôn và chuyển dịch lao động
ở khu vực miền núi, từ đó phát sinh nhu cầu mới về lao động, vốn đầu tư, thị trường và các
mối quan hệ liên doanh, liên kết giữa sản xuất nông nghiệp với ngân hàng trong đó quan
hệ ín dụng sẽ được phát triển khởi sắc hơn.
Với vai trò là trung gian tài chính “đi vay để cho vay” tín dụng ngân hàng góp phần
thúc đẩy sự liên kết trong sản xuất, kinh doanh, xoá đi tập quán sản xuất kinh doanh theo
kiểu tự cấp, tự túc mang tính cục bộ theo từng khu vực, thôn bản. Hơn nữa tín dụng còn
thúc đẩy thị trường hàng hoá phát triển ngày càng đa dạng và sống động ở các khu vực
kinh tế tập trung như thị trấn, thị xã, nơi giao lưu hàng hoá mạnh hơn. ở đây tín dụng là
cầu nối điều hoà vốn giữa nơi thừa đến nơi thiếu, giữa người thừa vốn đến người thiếu vốn
cần vay để phục vụ sản xuất cũng như các nhu cầu đời sống khác. Tín dụng ngân hàng
càng năng động, tạo lập trung gian tài chính giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh- tiêu
thụ thông qua việc huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế đầu tư cho các nhu cầu để mở
rộng sản xuất, kinh doanh và giao lưu hàng hoá. Từ đó đẩy nhanh sự phát triển của thị
trường tiền tệ ở nông thôn, tạo nên dòng lưu chuyển vốn nhanh và kịp thời thúc đẩy thị
trường hàng hoá phát triển. Đối với KTH tín dụng có vai trò cơ bản sau:
Một là, tín dụng ngân hàng tích cực tham gia góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp nông thôn nhờ đó thúc đẩy KTH phát triển.
Nội dung quan trọng của CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, thực hiện chuyển dịch mạnh cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường. Muốn vậy, trong tiến trình CNH, HĐH phải thực hiện cơ
khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học vào
sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng
từng địa phương. Quá trình chuyển dịch cơ cấu phải tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm
và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động
nông nghiệp. Để thực hiện cần sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất đai canh tác của
các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng
đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung.
ở nông thôn cần phát triển các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với sự hình thành
các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu
thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Trong tiến trình này tín dụng ngân hàng đã và đang thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn,
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, hỗ trợ kinh tế hộ đưa các thiết bị kỹ thuật và
công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ giới hoá, hiện đại hoá,
thuỷ lợi hoá…, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và
công nghệ thông tin nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá nông nghiệp.
Trong quá trình CNH-HĐH NNNT, cần khuyến khích phát triển công nghiệp quy
mô vừa và nhỏ ở nông thôn. Tín dụng ngân hàng cũng đã chuyển dịch đầu tư, tăng cường
nguồn vốn trung - dài hạn nhằm đáp ứng cơ cấu đầu tư phù hợp với yêu cầu khôi phục,
phát triển ngành nghề, thực hiện CNH- HĐH NNNT.
Hai là, tín dụng ngân hàng góp phần thiết thực trong việc giải phóng nguồn nhân
lực, khai thác tiềm năng đất đai, mặt nước và khôi phục phát triển ngành nghề, tạo công
ăn việc làm ở nông thôn thúc đẩy KTH phát triển.
Nước ta là một nước nông nghiệp với tiềm năng đất, nước, rừng, biển và khoáng
sản còn rất lớn chưa được quản lý và sử dụng, khai thác tốt. Nếu Nhà nước có những chính
sách quản lý vĩ mô thích hợp như quy hoạch, đầu tư…hợp lý sẽ thúc đẩy việc khai thác có
hiệu quả các nguồn tài nguyên nông nghiệp nông thôn, trong đó tín dụng ngân hàng là đòn
bẩy góp phần động viên các nguồn lực vào sản xuất hàng hoá ở nông thôn.
Mặt khác, nước ta với nguồn lao động dồi dào, hàng năm có từ 5-6 triệu người ở
nông thôn không có đủ việc làm nên áp lực về nhu cầu giải quyết việc làm trong quá trình
CNH-HĐH sẽ rất lớn. Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư của tín dụng ngân hàng để
phát triển diện tích rừng trồng cây nguyên liệu gỗ, giấy, phát triển chăn nuôi gia súc tập
trung gắn với công nghiệp chế biến đã thu hút số lao động dôi thừa ở nông thôn miền núi,
tạo công ăn việc làm tại chổ, dần dần sắp xếp lại lao động từ chổ tự phát, du canh, du cư
tiến tới lao động tự giác có tổ chức và chuyên môn cao. Đây chính là vai trò quan trọng
của tín dụng ngân hàng thông qua cho vay kinh tế hộ nhằm thúc đẩy quá trình khai thác
nguồn lực trong nông nghiệp và phát triển ngành nghề ở nông thôn, tạo thêm nhiều công
ăn việc làm ở nông thôn miền núi và phát triển quy mô sản suất hàng hoá trong nông
nghiệp.
Ba là, tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung ruộng
đất, phát triển hàng hoá đối với KTH ở nông thôn.
Sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp ngày càng phát triển, nhiều hộ biết tính toán
đầu tư vào nhiều lĩnh vực sản xuất mang lại hiệu quả cao như: đầu tư cho phát triển theo
mô hình kinh tế vườn-ao-chuồng-rừng. Vốn tín dụng đã hỗ trợ cho kinh tế hộ trong việc bố
trí lại sản xuất, cải tạo đất đai…đồng thời, vốn tín dụng ngân hàng tăng đầu tư vào khoa
học công nghệ, giảm chi phí sản xuất, hỗ trợ kinh tế hộ tận dụng tốt các cơ chế ưu đãi về
phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại.
Theo quy luật phát triển, khi quy mô sản xuất hàng hoá càng tăng, việc tích tụ tập
trung đất đai càng lớn, vốn tín dụng càng tăng lên theo yêu cầu đầu tư đồng thời thúc đẩy
nhanh tăng trưởng sản lượng hàng hoá trong nông nghiệp ở nông thôn.
Bốn là, tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều
kiện ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hàng hoá.
Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong việc xây dựng cơ
sở hạ tầng như: hệ thống giao thông nông thôn, mạng lưới điện, hệ thống nước sạch…vốn
tín dụng đã đầu tư hỗ trợ bổ sung vào vốn tự có của bà con nông dân và sự hỗ trợ đầu tư
của nhà nước. Nhờ đó các công trình kết cấu hạ tầng đã được xây dựng và đưa vào sử
dụng, góp phần cải thiện đời sống người dân nông thôn tạo điều kiện để họ tiếp thu và ứng
dụng công nghệ mới vào sản xuất. Nhiều mô hình thử nghiệm tại chổ nhờ sự giúp đỡ của
tín dụng đã mang lại hiệu quả cao như: tạo giống bò lai F1 từ giống bò vàng tại chỗ, ứng
dụng kỹ thuật chăm sóc cây trồng, vật nuôi... tạo ra sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt,
năng suất cao được thị trường chấp nhận. Bộ mặt nông thôn cũng được cải thiện, đời sống
văn hoá ngày càng nâng cao, thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo ngày càng đem lại
hiệu quả thiết thực.
Năm là, tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn
tháo gỡ những khó khăn cho các hộ nông dân khi giáp vụ hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống.
Từ những năm 1990 trở về trước, khi mà kinh tế hộ chưa được khuyến khích bằng
chính sách đầu tư tín dụng của ngân hàng thương mại nhà nước, các hộ sản xuất phải đi
vay lãi suất cao từ 15 đến 20%/tháng trên thị trường cho vay nặng lãi ở nông thôn đã làm
nhiều hộ nông dân phá sản, gia đình li tán hoặc đau khổ.
Sau năm 1990, khi có chính sách cho hộ nông dân vay vốn, tín dụng ngân hàng
ngày càng mở rộng với cơ chế thông thoáng và thủ tục đơn giản đã góp phần đáng kể vào
việc hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Việc cho vay đối với kinh tế nông hộ của
ngân hàng thương mại đã bổ sung kịp thời khoản vốn thiếu cho các dự án sản xuất kinh
doanh có tính chất khả thi đã thực sự góp phần thiết thực thúc đẩy sản xuất phát triển, đời
sống nông dân ngày càng được cải thiện.
Vốn tín dụng ngân hàng đã được chuyển tải đến hộ vay có sức lao động, có đất đai,
có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng thiếu vốn sản xuất không phân biệt giàu
nghèo trên tinh thần khuyến khích làm giàu chính đáng. Chính vì vậy đã có nhiều hộ mạnh
dạn vay vốn mở mang trang trại, chuyển đổi giống mới, thu hút thêm lao động nông nhàn
trên tinh thần hộ giàu có kinh nghiệm giúp hộ nghèo cùng vươn lên làm giàu. Vốn tín dụng
tạo ra cơ hội cho các xí nghiệp nông nghiệp nhỏ ở nông thôn ra đời và phát triển, góp phần
cơ bản giải quyết nạn thất nghiệp cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn Việt Nam.
1.1.2. Kinh tế hộ và đặc trưng các mối quan hệ kinh tế phát sinh của nó
Trong quá trình phát triển kinh tế hộ ở nông thôn việt nam đã nảy sinh không ít vấn
đề về lý luận và thực tiễn, đặc biệt cho đến nay còn không ít những ý kiến khác nhau
chung quanh khái niệm hộ, đồng thời sự phát triển của kinh tế hộ còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Để hiểu về KTH và những quan hệ khách quan
nẩy sinh giữa KTH với tín dụng ngân hàng, cần phải nhận dạng về KTH.
1.1.2.1. Nhận diện về kinh tế hộ
Thoạt tiên có thể tưởng rằng những khái niệm như: “hộ”, “gia đình”, “hộ gia đình”,
“kinh tế hộ”… là những khái niệm đơn giản mọi người ai cũng có thể hiểu bình thường
trong đời sống xã hội. Song trong nghiên cứu khoa học thì việc tiếp cận các khái niệm này
còn những ý kiến khác nhau [1, tr.15].
Giáo sư Raul lturna, Trường đại học tổng hợp Lisbon nghiên cứu cộng đồng nông
dân ở một số nước châu á đã khái quát “hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết
thống, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tao ra vật phẩm để bảo tồn chính
bản thân họ và cộng đồng” [20, tr.10].
Về phương diện thống kê thì Liên Hiệp quốc cho rằng: "hộ là những người cùng
sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ” [20, tr.8].
Tiến sỹ Nguyễn Văn Lịch cho rằng:
Hộ là một đơn vị kinh tế mà các thành viên đều dựa trên cơ sở kinh tế
chung, các nguồn thu nhập do các thành viên tạo ra được sử dụng chung. Quá
trình sản xuất của hộ được tiến hành một cách độc lập (Một điều quan trọng là
các thành viên của hộ thường cùng huyết thống, cùng chung sống trong một
ngôi nhà và cùng ăn chung). Hộ cũng là đơn vị để tổ chức lao động, hộ gia đình
sống ở nông thôn làm nông nghiệp được gọi là nông hộ. Mỗi hộ là một đơn vị
kinh tế của xã hội, do đó hộ cũng có nền kinh tế đặc trưng đó là kinh tế nông hộ.
Nói cách khác kinh tế nông hộ là kinh tế hộ gia đình nông dân [11, tr.9-10].
Tuy nhiên đối với hộ vẫn còn một số ý kiến khác nhau [1, tr.17].
- Có quan niệm hộ gồm những người cùng sống dưới một mái nhà, khái niệm này
thường gặp trong quản lý hành chính nhân khẩu.
- Một quan niệm khác xem hộ là đơn vị gồm những người cùng sống chung cùng ăn
chung như: Hộ tập thể mà thành viên là những người cùng làm việc ở cơ quan, không có
cùng thu chi chung.
- Một quan niệm khác xem hộ gồm các thành viên có chung nguồn thu nhập và chi
tiêu, cùng tiến hành sản xuất chung, quan niệm này có thể phù hợp với những hộ nông dân có
kinh tế “tự túc, tự cấp” trình độ phát triển thấp, khi trình độ xã hội phát triển cao lên thì thành
viên trong hộ có thể không còn làm chung và ăn chung, mặc dầu họ có thể cùng chung sống.
Xu hướng này đang trở thành thực tế trong sinh hoạt hộ ở đô thị, ở các vùng đồng bằng ven
biển.
Có thể nhìn nhận rằng “hộ” là một khái niệm đã tồn tại ở Việt Nam ngay từ thời
phong kiến. Nó được xem như là một tế bào của xã hội cũng như khái niệm “gia đình”.
Tuy nhiên giữa “hộ” và “gia đình” không phải bao giờ cũng hoàn toàn thống nhất với nhau
về nội dung.
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật, hộ được xem như là chủ thể trong các quan
hệ dân sự do pháp luật quy định và được xác lập như là một đơn vị mà các thành viên có
cùng hộ khẩu, chung tài sản và có hoạt động sản xuất làm ăn kinh tế chung.
Còn gia đình là những người cùng huyết thống, cùng thân tộc hoặc có quan hệ hôn
nhân, cùng sống chung hoặc không cùng sống chung.
Có 3 tiêu thức chính để phân biệt hộ và gia đình: [1, tr.16]
a. Quan hệ hôn nhân, huyết thống và thân tộc.
b. Cư trú chung.
c. Có chung cơ sở kinh tế.
Thông thường gia đình dựa trên tiêu thức (a) không nhất thiết phải có 2 tiêu thức (b)
và (c) vì khi trưởng thành họ có thể làm ăn xa, có nhà cửa riêng… nhưng vẫn cùng chung
gia đình.
Trong Tiếng Việt trước đây cũng như hiện nay người ta sử dụng từ ghép “hộ gia
đình” mà không cần đến khái niệm riêng về sự giống nhau hoặc khác nhau giữa “hộ” và
“gia đình”.
Do vậy, sự gắn bó gần như đồng nhất giữa “hộ” và “gia đình” là khái niệm kép
đang được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên qua khảo sát thực tế cho thấy, do quá trình phát triển kinh tế xã hội càng
cao làm cho chức năng của hộ không nhất thiết là các thành viên phải làm chung, ăn
chung, song cũng cho thấy các thành viên trong gia đình sống chung dưới một mái nhà, có
hoặc không làm chung, có hoặc không có ăn chung và có đăng ký trước chính quyền là
một hộ. Đa số các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có thiết chế hình thành hộ như
vậy, chỉ riêng một số dân tộc sống vùng Tây nguyên theo chế độ mẫu hệ thì họ được hình
thành theo huyết thống lấy theo người phụ nữ.
Xét về mặt kinh tế, hộ là một trong những loại hình đơn vị kinh tế cơ sở mà quá
trình lao động được phân công theo tinh thần tự giác, hộ chịu trách nhiệm chung về chi phí
sản xuất, tiêu thụ, thu nhập và phân phối tiêu dùng trong hộ. Quan điểm hộ là đơn vị kinh
tế trong đó các thành viên “làm chung, ăn chung, ở chung” [1, tr.22].
Trong xã hội chậm phát triển, kinh tế hộ mang tính tự cấp, tự túc, hộ đồng thời giữ
3 chức năng: Sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng và đầu tư tái sản xuất mở rộng. Trong xã hội
phát triển cao thì tỷ lệ hộ sản xuất tự cấp, tự túc ngày càng thấp, kinh tế hộ mang tính sản
xuất hàng hoá ngày càng tăng cao.
ở Việt Nam, hầu như từ trước đến nay mặc nhiên thừa nhận “kinh tế hộ” dựa trên
tiêu thức chung, đó là một cơ sở kinh tế, là quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, tình
trạng cư trú…Tuy nhiên, trong thực tiễn khái niệm “kinh tế hộ” được coi là gia đình khi
các thành viên của gia đình đó có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ
sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó (theo
điều 116 bộ luật dân sự). Hộ gia đình này có chung hộ khẩu được hưởng quyền lợi và trách
nhiệm chung do chủ hộ làm chủ gia đình.
Kinh tế hộ là đơn vị kinh tế có sự kết hợp hài hoà giữa sản xuất với xã hội, giữa
phương hướng sản xuất, quy mô sản xuất, điều kiện sản xuất với lực lượng lao động cụ thể
của từng gia đình.
Kinh tế hộ thực chất đã có từ lâu, song ở mỗi hình thái kinh tế, mỗi giai đoạn phát
triển nhất định thì có biểu hiện khác nhau.
Trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế nông hộ được xem
là kinh tế tiểu nông, cá thể, là mô hình sản xuất nhỏ trong nông nghiệp. Họ tiến hành sản
xuất bằng các công cụ lạc hậu, thô sơ trên những mảnh đất nhỏ của mình. Cùng với sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản, ruộng đất ngày càng tích tụ, tập trung, những nông hộ nhỏ
bị phân hoá trở thành những người làm thuê do không đủ sức cạnh tranh hoặc trở thành
những nông trang, những trang trại sản xuất nông nghiệp.
Qua nghiên cứu thực tiễn về kinh tế hộ nhiều vùng trong cả nước cũng như ở vùng
miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam, thì quan niệm về kinh tế hộ tại địa bàn nghiên cứu
được khái quát như sau: Hộ là một tập hợp người cùng huyết thống, sống chung hoặc có
thể không sống chung với những người khác huyết thống trong cùng một mái nhà, cùng ăn
chung và cùng ngân quỹ chi tiêu. Và thực tế chứng minh cho thấy rằng gia đình là cơ sở
nòng cốt của hộ và kinh tế gia đình là cơ sở của kinh tế hộ.
Hộ với tư cách là đơn vị kinh tế, hoạt động kinh tế của hộ tập trung vào những nội
dung sau:
- Hộ làm chủ sỡ hữu các nguồn lực kinh tế được pháp luật thừa nhận và được sử
dụng các nguồn lực đó vào hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ như: đất đai, lao
động, vốn liếng (bằng tiền, bằng hiện vật…).
- Tham gia vào các hoạt động kinh tế theo các chương trình, dự án kinh tế, theo
ngành nghề, theo các vùng miền và quan hệ với các ngân hàng thương mại trong đó có
NHNo&PTNT bình đẳng như các tác nhân kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Hộ gia đình cũng được hưởng nguồn lợi từ các chính sách của Đảng, Nhà
nước, vừa thực thi đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước như một thực thể kinh tế có tư cách
pháp nhân khác.
- Trình độ phát triển của kinh tế hộ được đánh giá từ khả năng tích tụ tập trung
ruộng đất, tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Nếu sản xuất để tự tiêu dùng và trang trải cho
nhu cầu hàng ngày của hộ, thì trình độ phát triển ở dạng tự cung tự cấp, nếu hộ sản xuất
mang mục tiêu lợi nhuận thì đó là hộ sản xuất hàng hoá, là một chủ thể của thị trường.
- Hiệu quả hoạt động của kinh tế hộ được hạch toán chi phí với giá trị thu được từ
kết quả sản xuất, kinh doanh.
Tuy vậy, để nhận diện đầy đủ hơn về kinh tế hộ như là một loại hình tổ chức sản
xuất đặc biệt, thì ngoài các yếu tố nêu trên, còn yếu tố tự nhiên và xã hội cũng rất quan
trọng, bởi vì hộ còn là tế bào của xã hội.
1.1.2.2. Những đặc trưng và các mối quan hệ cơ bản của kinh tế hộ
Thứ nhất: Kinh tế hộ là tổ chức sản xuất mà trong đó mỗi thành viên là những
người có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân gồm:ông bà, cha mẹ, anh chị em, vợ
chồng, con cái, vừa là chủ thể sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp. Quá trình sản xuất,
kinh doanh chủ yếu dựa vào lao động gia đình là chính và kết hợp quan hệ đổi công theo
tính cộng đồng ở thôn, bản, xóm. Các thành viên trong hộ có sự kết hợp quan hệ mật thiết
trên cơ sở cùng cộng đồng sở hữu sản xuất và cùng cộng đồng trách nhiệm trên tinh thần
tự nguyện, tự giác với nội dung, mục đích đóng góp sức mình để làm tăng thu nhập của hộ,
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mọi thành viên. Tính huyết thống cũng làm cho
hoạt động lao động của hộ được hình thành trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện chứ
không chỉ là sự ép buộc lao động như đã từng diễn ra trong lịch sử. Quan hệ phân phối
cũng mang tính ước lệ, không tuân thủ theo nguyên tắc kinh tế dựa vào kết quả lao động
hay mức độ đóng góp của mỗi thành viên như ở một số hình thức tổ chức kinh tế khác mà
dựa vào nhu cầu tiêu dùng cần thiết của mỗi thành viên và khả năng đáp ứng nhu cầu đó
của hộ.
Thứ hai: KTH là một mô hình kinh tế có cấu trúc đa dạng, có thể tiến hành các khâu
của quá trình sản xuất, phân phối, dự trữ, trao đổi, tiêu dùng… cũng có thể hoạt động sản
xuất trong mọi lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, khai
thác chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp và thực hiện các dịch vụ phục vụ nông nghiệp,
vừa thích ứng với các hình thức sở hữu khác nhau để khai thác mọi nguồn lực tài chính
phục vụ sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: KTH có khả năng tự điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh một
cách linh hoạt, khi gặp khó khăn giá cả thị trường, hộ gia đình có thể chuyển hướng sản
xuất với các đối tượng phù hợp, lấy thu nhập từ nguồn này bù vào nguồn khác. Chính vì
vậy, mà kinh tế hộ có sức sống bền bỉ, dẻo dai qua các thời kỳ cũng như qua các phương
thức sản xuất xã hội.
Thứ tư: KTH là hình thức tổ chức kinh tế rất phù hợp với ngành sản xuất nông
nghiệp, bởi vì đối tượng của ngành này là cây trồng, vật nuôi, tức là những cơ thể sống,
nhạy cảm với sự chăm sóc của con người không những bằng sức lao động mà còn bằng
tình cảm và sự cần mẫn từ khi bắt đầu sản xuất cho đến khi thu hoạch sản phẩm.
Thứ năm: quy mô sản xuất của kinh tế hộ nông nghiệp thường khép kín trong phạm
vi gia đình là chủ yếu, sản xuất thường manh mún, phân tán, đa số là canh tác thuần nông
mà tập trung là trồng trọt lúa nước, hoa màu, kết hợp chăn nuôi. Tư liệu sản xuất nhỏ của
hộ gia đình chủ yếu là công cụ sản xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác dựa vào kinh nghiệm dân
gian và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi thời tiết và môi trường tự nhiên. Trình độ canh tác
của hộ còn ở mức thấp, người nông dân chưa mạnh dạn khi tiếp cận ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào canh tác nếu không có sự tác động bằng kết quả cụ thể mà hộ nhìn thấy trước.
Do vậy, năng suất lao động trong KTH thường không ổn định, mặt khác còn phụ thuộc vào
thái độ lao động của họ, trong khi đó thái độ lao động bị chi phối bởi tình cảm, đạo đức,
truyền thống và phong tục tập quán, lề thói… của từng địa phương. Song bản chất cơ bản
của họ luôn luôn gắn bó với đồng ruộng, bản làng, quê hương, dòng tộc của họ.
Thứ sáu: chi phí đầu tư sản xuất kinh tế hộ thường là thấp và rải đều cho nhiều đối
tượng, ngược lại khi có nhu cầu đầu tư tập trung thì dẫn đến thiếu vốn, do vậy muốn mở
rộng quy mô sản xuất, thực hiện thâm canh v.v… thông thường hộ phải vay vốn của
những người thân quen, hàng xóm, hoặc vay nặng lãi và vay ngân hàng. Do đó, mối
quan hệ giữa ngân hàng thương mại mà chủ yếu là NHNo&PTNT với kinh tế hộ nếu
được xác lập thường xuyên và dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi thì có tác dụng
to lớn. Nó cơ thể định hướng KTH phát triển và tồn tại vững chắc trong nền kinh tế thị
trường. Trong mối quan hệ này, KTH là đối tượng chủ yếu trong hoạt động của tín
dụng ngân hàng và là người thườg xuyên và bền vững mang lại lợi ích lâu dài cho các
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Do đó quan hệ giữa KTH với ngân
hàng là quan hệ tương hỗ và biện chứng và là cơ sở tồn tại của nhau.
Tóm lại: KTH có thể thực hiện cùng một lúc nhiều chức năng thích hợp với đối
tượng sản xuất là các cơ thể sống có chu kỳ sản xuất khác nhau mà các đơn vị kinh tế khác
khó có thể tiến hành một cách có hiệu quả, mặt khác các thành viên của kinh tế hộ vừa là
người chủ vừa là người lao động với thái độ tự nguyện trên cơ sở ràng buộc chặt chẽ về
nhận thức trách nhiệm tuyệt đối trong việc quản lý, sở hữu tài sản, tập trung cho các quá
trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng trong một đơn vị kinh tế tự chủ.
Mặt khác, KTH còn là sự thống nhất chặt chẽ với xã hội, là tế bào cấu thành nền
kinh tế - xã hội với nhiều chức năng, nhiều nghĩa vụ gắn kết cộng đồng làng xã, tạo lập và
lưu giữ truyền thống văn hoá mang bản sắc đặc thù của từng địa phương, đồng thời KTH
là cơ sở giáo dục, tôn vinh truyền thống gia đình, dòng họ, thôn bản…của mỗi gia đình mà
các đơn vị kinh tế khác không thể có được [22]. Bản thân sự tồn tại của KTH đã tạo ra
nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội, trong đó quan hệ giữa KTH với tín dụng NHNo&PTNT
là mối quan hệ biện chứng là cơ sở tồn tại của nhau.
1.2. Quan hệ giữa tín dụng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với
kinh tế hộ và các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1. Sự hình thành các mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với kinh tế hộ và các hình thức tồn tại
Sự hình thành và phát triển mối quan hệ giữa ngân hàng với kinh tế hộ luôn luôn
gắn liền với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ, gắn
liền với sự vận dụng sáng tạo của các cấp, ngành ở từng địa phương cũng như thoả mãn
nhu cầu lợi ích của các bên. Trong mối quan hệ này được xác lập trên cơ sở đảm bảo
thực hiện đúng các quy định về cho vay đối với kinh tế hộ của NHNo&PTNT Việt Nam
ban hành theo quyết định 72/QĐ-HĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam.
Thông qua cho KTH vay vốn Ngân hàng Nông nghiệp &phát triển nông thôn Việt
Nam đã xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách của mình. Để thực hiện Ngân hàng cần
đa dạng hoá đối tượng vay vốn, cải tiến và hoàn thiện thủ tục hồ sơ theo hướng đơn giản,
thuận lợi cho người vay, tạo mọi điều kiện để hộ gia đình thoả mãn các nhu cầu về vốn
phục vụ sản xuất kinh doanh, phục vụ tiêu dùng và đời sống. Có thể khẳng định rằng: Điều
kiện, hồ sơ thủ tục, cơ chế bảo đảm tiền vay…đã được đơn giản hoá cũng cần tiếp tục cải
tiến cho phù hợp với từng đối tượng và địa phương. Cơ chế tín dụng nói chung, tín dụng
cho kinh tế hộ nói riêng đã được hoàn thiện tương đối phù hợp với từng cây, con-đối tượng
vay vốn và trình độ dân trí; thoả mãn cơ bản các yêu cầu của thông lệ quốc tế.
Không chỉ có vậy, thông qua cho kinh tế hộ vay, chất lượng tín dụng không ngừng
được cải thiện, nâng lên, tỷ lệ nợ quá hạn/nợ xấu thấp;Nếu như tỷ lệ nợ quá hạn cuối năm
1991 là 22%, thì qua các năm và đến cuối năm 2005, tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 3%. Đạt tỷ
lệ nợ xấu ở mức thấp trong điều kiện sản xuất nông, lâm nghiệp ở nước ta thường gặp
những rủi ro bất khả kháng là một thành công to lớn của NHNo&PTNT Việt Nam [13,
tr.22].
Mặt khác, xét về vai trò tác dụng, thì KTH cũng là thị trường rộng lớn đối với
ngành kinh tế khác: Kinh tế hộ cùng với việc cung ứng cho thị trường những nông sản
hàng hoá thiết yếu cho đời sống xã hội, đồng thời cũng chính họ là lực lượng tiêu thụ
chủ yếu của ngành nghề khác như: hàng hoá cần thiết cho tiêu dùng, vật tư, máy móc
thiết bị, công cụ lao động cho sản xuất. Do vậy, kinh tế hộ được coi là thị trường quan
trọng của nền kinh tế trên cả hai phương diện: một là, do yêu cầu mở rộng sản xuất
nông nghiệp, kinh tế hộ cần phải đổi mới thiết bị, ứng dụng công nghệ mới để tăng
năng suất, tăng sản lượng đòi hỏi phải mua sắm nhiều tư liệu sản xuất mới, hiện đại
hơn. Hai là nhờ sản xuất phát triển, thu nhập kinh tế hộ ngày càng tăng, nhu cầu tiêu
dùng, cải thiện chất lượng đời sống cũng đòi hỏi kinh tế hộ cần mua sắm những sản
phẩm hàng hoá công nghệ cao ngày càng nhiều hơn, nhiều chủng loại hơn…làm cho thị
trường sống động hơn. Chính từ những mối quan hệ kinh tế phát sinh này mà chức
năng trung gian tài chính của tín dụng Ngân hàng trở nên phong phú đa dạng, vòng
quay của vốn tín dụng ngân hàng nhanh và trở thành yếu tố thiết yếu của toàn bộ nền
kinh tế nói chung và trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nói riêng.
* Các hình thức tồn tại của quan hệ tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với kinh tế hộ
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với KTH thường tồn tại dưới các hình thức sau:
Thứ nhất: Căn cứ vào thời hạn tín dụng ta có: 1) Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng
có thời hạn cho vay đến 12 tháng, thường được sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động
trong quá trình sản xuất như: các khoản chi phí vật tư, nhân công, nguyên vật liệu và 2)
Tín dụng trung dài hạn: loại tín dụng có thời hạn cho vay trên 12 tháng đến 60 tháng là tín
dụng trung hạn, từ 60 tháng trở lên là tín dung dài hạn, thường được sử dụng cho các nhu
cầu mua sắm tài sản cố định, đổi mới thiết bị kỹ thuật mở rộng sản xuất hoặc xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất quy mô lớn, thời gian thu hồi vốn
chậm.
Thứ hai: Căn cứ vào bảo đảm vốn vay ta có: 1)Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín
dụng áp dụng trong trường hợp ngân hàng chưa thật sự tin tưởng vào khả năng kinh doanh
và tình hình tài chính người vay nên đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo cho khoản
vay. Việc bảo đảm vốn vay được thực hiện dưới 3 hình thức: Tài sản thế chấp, tài sản cầm
cố và bảo lãnh của bên thứ ba; và 2) Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng áp dụng
đối với khách hàng có uy tín trong quan hệ vay trả đối với ngân hàng, có năng lực tài chính
để trả nợ ngân hàng, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi đảm bảo trả nợ ngân hàng
theo thoả thuận. Tín dụng không có bảo đảm cũng áp dụng đối với các khoản vay theo quy
định của chính phủ cho phép theo Quyết định số 67/CP ngày 30/3/1999 về một số chính
sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và Thông tư 03/TT-
NHNN ngày 24/3/2003 của ngân hàng nhà nước hướng dẫn việc cho vay không phải đảm
bảo bằng tài sản của tổ chức tín dụng đối với khách hàng như: hộ nông dân, chủ trang trại
sản xuất nông, lâm, ngư diêm nghiệp mang tính sản xuất hàng hoá được vay đến 30 triệu,
hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng vật tư, cây con giống để sản xuất nông, lâm, ngư diêm
nghiệp được vay đến 100 triệu, hợp tác xã sản xuất hàng xuất khẩu, làm nghề truyền thống
được vay đến 500 triệu không áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Thứ ba: Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay: gồm 2 hình thức: 1)Tín dụng đầu tư
sản xuất kinh doanh:là tín dụng sử dụng cho vay mà mục đích sử dụng vốn vay vào việc
mua sắm vật tư, nguyên liệu thiết bị máy móc dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh; và
2)Tín dụng phục vụ nhu cầu đời sống:là tín dụng sử dụng cho vay đáp ứng nhu cầu đời
sống của người vay như: phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn, sửa chữa nhà cửa.
Thứ tư: Căn cứ vào tính chất nguồn vốn và lãi suất cho vay, thì có các hình thức
sau: 1) Tín dụng thương mại:là loại tín dụng thực hiện theo phương thức “đi vay để cho
vay” với lãi suất thoả thuận theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Các ngân hàng cho
vay tự chịu trách nhiệm về hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, đây là loại tín
dụng chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại; 2)Tín dụng chỉ định
của Chính phủ: Là loại tín dụng do Chính phủ chỉ định đối tượng cho vay, khách hàng vay
theo lãi suất quy định trước như:cho vay khắc phục lũ lụt, hạn hán, cho vay làm nhà trên cọc;
và 3) Tín dụng uỷ thác: Là loại tín dụng do các tổ tài chính trong hoặc ngoài nước uỷ thác cho
ngân hàng thương mại cho vay theo quy định của bên uỷ thác về điều kiện cho vay, thủ tục
cho vay, lãi suất cho vay. Ngân hàng nhận uỷ thác cho vay được hưởng phí uỷ thác theo thoả
thuận trước.
Thứ năm: Căn cứ vào tính chất pháp lý; được chia làm 2 hình thức: 1) Hình thức tín
dụng chính thức: Là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng được luật pháp cho phép
hoạt động như: Các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng cổ phần, các quỹ tín dụng… đây là
loại hình tín dụng chủ yếu đang cho vay ở nông thôn; và 2) Hình thức tín dụng không
chính thức: là hình thức tín dụng không được luật pháp cho phép hoạt động hay còn gọi là
tín dụng ngầm, là loại hình cho vay nặng lãi ở nông thôn như:cho vay lãi suất 10 -
20%/tháng, hụi họ, đề đám…hiện nay nông thôn vẫn còn tồn tại loại hình này, mặc dù hoạt
động tín dụng chính thức đang chiếm lĩnh tuyệt đại bộ phận thị trường tín dụng ở nông
thôn.
Trên đây là một số hình thức tín dụng thường sử dụng trong quan hệ tín dụng giữa
ngân hàng và kinh tế hộ mà luận văn đề cập để làm cơ sở cho việc nghiên cứu tác động của
tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ trồng trọt và chăn nuôi tại địa bàn.
1.2.2. Các nhân tố tác động đến mối quan hệ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Với các cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước, NHNN và hệ thống các cơ chế
nghiệp vụ của Ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam đã tạo ra một sức mạnh tổng hợp và
thành công to lớn trong cho KTH vay vốn. Sự thành công của mối quan hệ này luôn chịu
tác động của các nhân tố nẩy sinh từ các phía.
1.2.2.1. Các nhân tố tác động nẩy sinh từ phía Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tới kinh tế hộ thông qua điều chỉnh các cơ chế chính sách từ nhà nước
Ta biết rằng, vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng trên thị trường vốn có thể
được lý giải: Trước hết bởi NHTM là những trung gian tài chính lớn nhất, hoạt động đa
dạng và chức năng cơ bản của nó là đi vay để cho vay. Thứ hai là tính kinh tế do những lợi
thế về quy mô cũng như khả năng đa dạng trong hoạt động của NHTM nên tiết kiệm được
các chi phí giao dịch và hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Bằng khả năng chuyên
nghiệp nó đã trở thành người trung gian về thông tin, tức là có thể kiểm soát tốt hơn vấn đề
thông tin không cân xứng.
Bằng những nghiệp vụ tín dụng của mình, ngân hàng đã tập trung được một khối
lượng vốn lớn từ những nguồn tiền tiết kiệm nhàn rỗi, dù là rất nhỏ, ở mọi ngõ ngách trong
nền kinh tế để đưa chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của những người cần vốn. Trong khi đó, phần đông các cá nhân đều là những người có
khoản tiền tiết kiệm nhỏ và không tập trung, do đó khó có thể tiếp cận với thị trường tài
chính.
Một vấn đề khác là sự linh hoạt giữa huy động và cho vay sẽ cho phép hoạt động tín
dụng điều chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả mà không bị phụ
thuộc vào giới hạn địa lý. Nguồn vốn có thể được ngân hàng huy động ở nơi này nhưng
cho vay ở nơi khác nếu hiệu quả đầu tư tốt hơn, chứ không nhất thiết là huy động ở đâu
cho vay ở đó hoặc ngược lại. Điều này thể hiện cụ thể từ việc đưa Chỉ thị 202/CT vào cuộc
sống: Ngày 12/7/1991, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã ban hành Văn bản
499/TDNN “Qui định về cho vay Hộ sản xuất, Nông-Lâm-Ngư-Diêm nghiệp”. Nội dung
kết cấu qui định tương đối cụ thể và chặt chẽ hơn, sát thực tế hơn. Tuy vậy, văn bản
499/TDNN vẫn còn mang tính chất truyền thống về nghiệp vụ, chưa đa dạng về nội dung,
chi tiết hơn để theo kịp với diễn biến của cuộc sống đang biến đổi hàng ngày lúc bấy giờ,
lại trong hoàn cảnh nhà nước chưa ban hành đầy đủ luật và các văn bản dưới luật…nên kết
quả triển khai về nghiệp vụ tín dụng còn bị hạn chế.
Để tháo gỡ hạn chế, trên cơ sở Nghị định 14/CP của Thủ tướng Chính phủ và
Thông tư hướng dẫn số 01/TT-NH1 của NHNN. Ngân hàng Nông nghiệp đã ban hành văn
bản 499A/TDNT ngày 02/9/1993 “Về biện pháp nghiệp vụ cho hộ sản xuất vay vốn để
phát triển Nông-Lâm-Ngư-Diêm nghiệp và kinh tế nông thôn”. Nội dung cơ bản của văn
bản là: Khái niệm “Hộ sản xuất” được chia thành 2 loại: hộ loại I (hộ chuyên sản xuất
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, có tính chất tự sản tự tiêu do một cá nhân làm chủ hộ;hộ cá
thể tư nhân làm kinh tế gia đình;hộ là thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế) và hộ
loại II (hộ sản xuất kinh doanh theo luật định).
Việc phân chia này là nhằm giảm bớt hồ sơ, thủ tục vay vốn, phù hợp với trình độ
dân trí, giảm bớt phiền hà trong quá trình đi lại, làm thủ tục vay của người dân. Đây là
bước cải tiến quan trọng, “đột phá” của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã được hàng
triệu hộ nông dân áp dụng và đồng tình rất cao.
+ Về hình thức cho vay được chia thành 2 loại: 1) Cho vay “bán lẽ”-Ngân hàng cho
vay trực tiếp, phát tiền vay đến tay người vay; và 2)Cho vay”Bán buôn”-các tổ chức tự
nguyện của cộng đồng dân cư, các tổ chức đoàn thể, xã hội có thể được ngân hàng chọn
làm đại lý dịch vụ uỷ thác đầu tư đến hộ vay vốn.
Đây cũng là biện pháp để Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam thực hiện “xã hội hoá”
hoạt động ngân hàng, tạo thêm kênh dẫn vốn nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của nền
kinh tế nói chung, kinh tế hộ nói riêng.
+ Về bảo đảm tiền vay: Đối tượng cho vay cũng được phân định và cụ thể hoá đối
với từng mức vay. Đặc biệt là đối với hộ nông dân chuyên canh trồng lúa, NHNo&PTNT
Việt Nam áp dụng hình thức cho vay lưu vụ. Đây là phương thức cho vay “riêng có”, được
áp dụng đối với những hộ chuyên canh trồng lúa, đến mùa thu họach nhưng do rớt giá, nếu
bán ngay để trả nợ ngân hàng sẽ bị thua thiệt, cần dự trữ chờ lên giá nhưng vẫn có vốn để
tiếp tục sản xuất và quay vòng.
- Phát huy thành công trong cho kinh tế hộ vay, tiếp tục lĩnh hội những nội dung cơ
bản của Quyết định 67/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ “Về một số
chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn”. Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam đã triển khai chỉ đạo toàn hệ thống phối hợp với Uỷ ban nhân dân
xã lập “Hồ sơ kinh tế địa phương”; xây dựng mô hình đầu tư theo đối tượng, trước hết cho
một số cây con chủ yếu, xác định suất đầu tư trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật. Nắm
thực trạng các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã trên địa bàn, trên cơ sở đó phân loại
và xác định hướng đầu tư tín dụng để đạt hiệu quả và tránh rủi ro.
Thực tiễn hoạt động năm 1999 cho thấy việc triển khai quyết định 67/1999/QĐ-TTg
tại các địa phương là rất kịp thời, đồng bộ và hiệu quả. Do có sự quan tâm ủng hộ rất cao
của cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự phấn khởi của hàng triệu hộ nông dân trên cả nước
đón nhận một chủ trương mới của Chính phủ nên mối quan hệ tương hỗ giữa
NHNo&PTNT với KTH được hình thành bền vững và ngày càng phát triển trên cơ sở đôi
bên cùng có lợi trong nền kinh tế thị trường XHCN.
1.2.2.2. Các nhân tố tác động tới quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với kinh tế hộ nẩy sinh từ phía hộ gia đình
Thời kỳ trước Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/6/1981, KTH
trong cả nước ta chưa định hình rõ trước sự dổi mới của chính sách nhà nước.
Năm 1958, phong trào vận động đưa nông dân ở nông thôn đi vào làm ăn hợp tác
hoá nông nghiệp, kinh tế cá thể và kinh tế gia đình của nông dân bị lu mờ đi. Cuối năm
1960, sau 3 năm vận động xây dựng xây dựng hợp tác xã từ bậc thấp đi lên, nông thôn
miền Bắc đã cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa với trên 4 vạn hợp tác xã ra đời.
Đời sống của nông dân gắn liền với hợp tác xã, thu nhập chủ yếu của hộ gia đình từ phân
phối của hợp tác xã. Đất 5% chỉ dùng để sản xuất rau xanh và trồng cây chăn nuôi cải
thiện thêm cho gia đình. Gần như toàn bộ trí lực sản xuất của hộ nông dân đều góp vào
hợp tác xã. KTH vào thời kỳ này hầu như không được chú ý, quan tâm đầu tư và mất đi vai
trò ngay từ những năm 1958-1960. Với quan điểm cho rằng, kinh tế cá thể là mầm mống
của CNTB, hằng ngày hằng giờ tự phát để hình thành TBCN, do vậy tìm cách ngăn cấm
kinh tế gia đình, kinh tế nông hộ phát triển.
Còn có quan điểm cực đoan hơn cho rằng kinh tế cá thể là kẻ thù của CNXH. Chính
vì vậy, hầu như các hoạt động của thành phần kinh tế này bị chèn ép, kìm hãm bởi kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể mà hai thành phần này được xác định là hai thành phần trụ
cột, nền tảng của CNXH.
Bị ràng buộc bởi quan điểm trên, nên từ ngân sách nhà nước đến tín dụng ngân
hàng không có chính sách đầu tư khuyến khích phát triển thành phần kinh tế này. Trong
khi đó cùng với phong trào hợp tác hoá trong sản xuất, thì hợp tác xã mua bán, hợp tác xã
tín dụng…được tự phát xây dựng ở hầu hết các xã ở nông thôn.
Từ thực tế đó, Đảng ta đã sớm nhận ra sai lầm về chính sách khuyến khích các
thành phần kinh tế, đặc biệt là chưa có quan điểm đúng đắn trong việc thúc đẩy phát triển
KTH. Do đó, từ những năm 1980, sau khi có chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương khoá
V về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao
động trong hợp tác xã nông nghiệp” được coi là điểm đột phá bằng những giải pháp tình
thế chặn đà suy thoái của kinh tế nông nghiệp. Tiếp đến, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
ngày 05/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp được đánh giá là bước ngoặt quan
trọng về sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta. Tháng
3/1989, Nghị quyết Trung ương 6 khoá VI chính thức khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh
tế tự chủ trong nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, từ đó nhà nước đã có nhiều
chính sách quản lý vĩ mô, chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước, đầu tư tín dụng nhà
nước và tín dụng ngân hàng, tạo môi trường thuận lợi cho KTH phát triển. Bằng thiết lập
quan hệ giao lưu hàng hoá, hình thành các chợ nông thôn để tiêu thụ nông sản, mở ra thị
trường xuất khẩu nông sản, khuyến khích bà con nông dân phấn đấu làm giàu bằng lao
động, trí tuệ, và bằng sự cần mẫn, chăm chỉ của mình. Nhờ vậy kinh tế hộ phấn khởi bỏ
vốn liếng, sức lao động để khai thác đất đai, mặt nước, các tài nguyên thiên nhiên tiềm
tàng đưa vào sản xuất nông nghiệp.
Với quan điểm đổi mới, nhận thức đúng vai trò, vị trí của KTH, các chính sách về
ruộng đất, thuế, đầu tư của nhà nước là đòn bẩy quan trọng kích thích phát triển sản xuất
nông nghiệp chuyển sang nền nông nghiệp hàng hoá. Trong đó chính sách đầu tư tín dụng
của ngân hàng đã được đổi mới tạo thuận lợi cho KTH phát triển, phát huy vai trò quan
trọng của thành phần kinh tế này trong quá trình đổi mới quản lý nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta, góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
1.2.2.3. Những nhân tố tác động tới quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ xuất phát từ chính sự đổi mới chính sách
của Nhà nước
Có thể thấy, bắt đầu từ sự ra đời của Chỉ thị số 202/CT-HĐBT (28/6/1991) của
Chủ tịch HĐBT “V/v cho vay vốn sản xuất Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Ngư nghiệp đến hộ
sản xuất” đã làm cho mối quan hệ giữa NHNo&PTNT với KTH khởi sắc. Nội dung chủ
yếu của chỉ thị có thể tóm tắt ở mấy điểm sau: 1) NHNo Việt Nam thực hiện việc cho vay
vốn trực tiếp đến Hộ sản xuất nhằm tao điều kiện cho hộ thực sự là “Đơn vị kinh tế tự chủ”
trong sản xuất; chủ yếu cho vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu chi phí sản xuất thời vụ và khi
có điều kiện sẽ từng bước mở rộng cho vay trung, dài hạn; 2) Mức cho vay, thời hạn cho vay,
phương thức cho vay và trả nợ, lãi suất cho vay đối với từng hộ phải căn cứ vào đặc điểm và
hiệu quả sản xuất của từng vùng, từng loại cây, con, ngành nghề; 3) Ngoài trực tiếp cho vay đến
hộ sản xuất, tuỳ điều kiện cụ thể Ngân hàng cho các tổ chức kinh tế vay ứng trước vật tư kỹ
thuật, hoặc đặt tiền cho các hộ sản xuất vay và thu hồi sản phẩm khi có thu hoạch; 4)Vốn vay
nói chung phải có tài sản thế chấp, đối với hộ sản xuất nghèo không có tài sản thế chấp có thể áp
dụng hình thức “Tín chấp”; 5)Nguồn vốn cho các hộ sản xuất vay chủ yếu là vốn huy động từ
dân cư. Hàng năm và những lúc cần thiết, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho ngân hàng để
hình thành quỹ cho vay đối với Hộ sản xuất Nông - Lâm - Ngư - Diêm nghiệp…; 6)Ngân
hàng phải đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và nghiệp vụ, bám sát địa bàn sản xuất, đặc biệt là sản
xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn được vay vốn sản xuất có hiệu quả; 7) Ngân hàng phối hợp với
chính quyền địa phương có kế hoạch và biện pháp củng cố, chấn chỉnh hợp tác xã tín dụng ở
nông thôn.
Như vậy, với Chỉ thị 202/CT, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã bước đầu
khẳng định việc cho vay kinh tế hộ là nhu cầu cấp thiết, là xu hướng phát triển tất yếu đối với
nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Người dân muốn phát triển kinh tế hàng hoá, chuyển
dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi…không thể không có vốn đầu tư, trong đó có vốn của các Tổ
chức tín dụng.
Chỉ thị cũng yêu cầu các Tổ chức tín dụng trong đó NHNo&PTNT Việt Nam giữ
vai trò chủ lực, cùng với hợp tác xã tín dụng ở nông thôn phải lo tạo lập nguồn vốn, đáp
ứng cho nền kinh tế, cho nông dân.
Thêm vào đó, sự ra đời Nghị định số 14/CP chính phủ: từ kết quả sơ kết thực hiện
Chỉ thị 202/CT, sau một thời gian nghiên cứu, khảo sát và hội thảo, ngày 2/3/1993 Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 14/CP về “Chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn” do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký. Cùng
với pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Nghị định 14/CP đã nâng
tầm hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và xác lập tư cách của một ngân hàng có vị thế
ở thị trường tài chính nông thôn.
Tiếp sau đó, ngày 26/3/1993 NHNN ban hành Thông tư số 01/TT-NH1 hướng dẫn
thực hiện nghị định, đã giúp cho ngân hàng nông nghiệp lần đầu tiên có đầy đủ một bộ văn
bản dưới luật trong cho vay đối với hộ sản xuất.
Cùng với luật đất đai được chủ tich Quốc hội ký ngày 24/7/1993, Nghị định 14/CP
từng bước đồng bộ hoá cơ chế chính sách đối với địa bàn nông nghiệp, nông thôn tạo điều
kiện cho ngân hàng nông nghiệp có những căn cứ pháp lý để ra các quyết định, qui định về
chính sách, biện pháp nghiệp vụ tín dụng cụ thể sau này sát với cuộc sống hơn.
- Sự ra đời của Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng
Chính phủ: từ những thành công trong cho vay và từ những đòi hỏi vốn của KTH; những
khó khăn trong việc thế chấp tài sản đã được tháo gỡ. Qua đề xuất, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg “Về một số chính sách tín dụng ngân hàng
phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn”.
Đây là chính sách lớn của chính phủ liên quan đến nông nghiệp, nông thôn nói
chung và các chính sách KTH nói riêng, chính sách này mang tính đột phá quan trọng, liên
quan trực tiếp đến sự phát triển KTH, ở đây có sự thông thoáng cởi mở; phù hợp với quá
trình chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Nhờ sự
điều chỉnh của các chính sách của Nhà nước đã tạo vùng nguyên liệu để phát triển công
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng hoạt động ngân
hàng và quan hệ kinh tế với thế giới.
1.2.2.4. Những nhân tố tác động tới quan hệ tín dụng của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ từ phía thị trường
Thực tế cho thấy, để tạo ra sự phát triển của một hướng sản xuất trong nông nghiệp
có hiệu quả đã khó, nhưng để duy trì sự phát triển đó còn khó hơn, vì nó đòi hỏi phải tiêu
thụ được nông sản phẩm. Chỉ có giải quyết tốt việc tiêu thụ sản phẩm mới kích thích được
sản xuất nông nghiệp phát triển, đặc biệt là khuyến khích KTH đổi mới cây trồng, vật nuôi
theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả.
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nông, lâm, ngư
nghiệp nước ta đã có bước phát triển rõ rệt. Sản xuất tăng trưởng liên tục với nhịp độ
cao, cơ cấu đang chuyển dịch theo hướng phát huy có lợi thế so sánh của các vùng, các
địa phương cũng như trong cả nước. Nhờ đó đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng
hoá tập trung tương đối lớn. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 5 năm(2001-2005)
đạt gần 111 tỉ USD tăng 17, 5%/năm (kế hoạch 16%/năm) [4, tr.105], kinh tế nông thôn
có những bước chuyển dịch khá. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện. Tuy
nhiên, vấn đề nổi cộm trong sản xuất nông nghiệp hiện nay là chất lượng sản phẩm còn
thấp, tổ chức tiêu thụ nông sản còn nhiều yếu kém. Mặc dù khối lượng hàng hoá chưa
nhiều, nhưng thường xuyên xảy ra tình trạng ứ đọng, nhiều khi không tiêu thụ kịp, nhất
là trong vụ thu họach, giá cả xuống thấp gây thua thiệt cho nông dân.
Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp nước ta nếu nhiều vùng trước đây chỉ sản
xuất tự cung, tự cấp, thì nay nông dân tự bỏ công sức tiền của đầu tư phát triển thành sản
xuất hàng hoá. Nhiều khu trồng các cây công nghiệp dài ngày, trồng cây theo dạng cây lâm
nghiệp tạo thành rừng, che phủ đất chống xói mòn, tạo môi sinh môi trường bền vững, góp
phần hạn chế lũ lụt cho đồng bằng ra đời và phát triển. Bộ mặt nông thôn nhiều nơi đã thay đổi,
đời sồng nhân dân được nâng lên…Tuy vậy, những nơi xây dựng thành vùng sản xuất hàng hoá
tập trung lớn đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc, trong đó đáng lo ngại và khó khăn nhất là vấn
đề tiêu thụ hàng hoá cho nông dân. Vì không giải quyết trọn vẹn vấn đề tiêu thụ hàng hoá cho
nông dân cho nên đã dẫn đền tình trạng tồn đọng 8.000 tấn chè búp khô như năm 1995. Giá chè
búp tươi bán bằng hoặc thấp hơn giá thành, (giá thành phổ biến 1.400-1.500 đ/kg, giá bán phổ
biến 1.500 đ/kg, có nơi chỉ được 1.000-1.100 đ/kg), Ngô hàng hoá vùng núi giá thành sản xuất
phổ biến từ 1.300-1.500đ/kg, có lúc chỉ bán được 700-800đ/kg dẫn đến người sản xuất bị thua
lỗ. Tình trạng này nếu liên tục lặp lại sẽ buộc nông dân phải chuyển sang trồng cây khác, hoặc
quay về cách sản xuất tự cung, tự cấp hoặc bỏ đất hoang hoá để kiếm sống bằng nghề khác.
Trong những hoàn cảnh như vậy vai trò hỗ trợ của tín dụng NHNo&PTNT trở nên cần thiết.
Tín dụng có thể cung cấp vốn vay giúp nông dân tiếp tục sản xuất hoặc chuyển hướng sản xuất
thành công. Hơn nữa, trong những điều kiện cho phép, tín dụng sẽ hỗ trợ nông dân mua máy
móc thiết bị sơ chế hoặc chế biến nông phẩm để tiêu thụ ở thị trường xa hoặc xất khẩu. Giải
quyết vấn đề bức xúc này chính là tìm ra giải pháp đúng, hữu hiệu, bền vững để tiêu thụ hàng
hoá cho nông dân.
1.3. Kinh nghiệm duy trì và phát triển quan hệ tín dụng ngân hàng với kinh tế
hộ ở một số khu vực điển hình có điều kiện tương đồng trong nước
1.3.1. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quan hệ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ ở khu vực Tây Nguyên
ở Tây Nguyên quan hệ cho vay và huy động vốn giữa NHNo&PTNT với KTH đều
xuất phát từ lợi ích kinh tế mang tính cộng đồng trách nhiệm và cùng phát triển. Cụ thể,
vốn cho vay từng hộ phải phù hợp chi phí sản xuất kinh doanh của hộ. Các hoạt động tín
dụng phải có quan hệ đồng bộ với hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, hộ sản xuất tiểu thủ công
nghiệp và hộ làm dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Vốn tín dụng của NHNo&PTNT khi đầu tư đến hộ phải thật sự góp phần khai thác
tiềm năng đất đai, tạo nên vùng chuyên canh cây công nghiệp có lợi thế như: cà phê, cao
su, tiêu, đào lộn hột… luôn phải giữ vững, ổn định màng lưới hoạt động ở địa bàn nông
thôn, nhất là các chi nhánh ở vùng sâu, vùng xa, cần ưu tiên vốn cho hộ nông dân.
Trong mối quan hệ giữa tín dụng NHNo&PTNT với KTH đã hình thành được sự phối
hợp với các đoàn thể từ tỉnh đến huyện, xã như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ. Thông qua mối
quan hệ này để tuyên truyền phổ biến các chính sách, chủ trương của nhà nước, thủ tục vay
vốn của ngân hàng đến bà con nông dân và hội viên. Đồng thời, thực hiện uỷ thác từng phần
cho các hội đoàn thể đối với những món vay dưới 10 triệu đồng thông qua các hợp đồng dịch
vụ.
Để xây dựng tốt mối quan hệ này NHNo&PTNT đã tăng cường đạo tạo cán bộ, đầu tư
trang thiết bị điều kiện làm việc để tăng năng suất lao động, cải tiến phương pháp lề lối làm
việc của cán bộ. Thường xuyên làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý
thức kỷ luật và đạo đức cán bộ, có thái độ giao tiếp khách hàng tốt, không gây nhũng nhiễu,
phiền hà với khách hàng.
Thực hiện phân giao khoán theo tháng, quý và trách nhiệm địa bàn cho từng cán bộ
tín dụng, tổ chức hội nghị cán bộ tín dụng giỏi, gắn việc thực hiện nhiệm vụ được giao với
công tác thi đua khen thưởng.
Có thể nói, cho vay hộ nông dân ở vùng Tây Nguyên đã và đang đi vào cuộc sống,
đây là một là bước tiến lớn trong hoạt động của ngân hàng nông nghiệp. Với phương châm
“đi vay để cho vay” luôn hướng phát triển mở rộng nhiều hơn, nhanh hơn vào thị trường
nông nghiệp, nông thôn. Coi nông dân là người bạn đồng hành chung thuỷ của mình. Từ
chỗ tín dụng chỉ là kênh dẫn vốn tới doanh nghiệp nhà nước, đến nay đã mở rộng tới cho
vay hộ sản xuất, gắn đầu tư của tín dụng ngân hàng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Nhờ đó trong khó khăn đã trụ vững, cũng cố
được vị thế và ngày càng phát triển.
1.3.2. Kinh nghiệm về phát triển quan hệ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với kinh tế hộ ở khu vực miền núi phía Bắc
Trên cơ sở ổn định lương thực bằng con đường thâm canh, sản xuất hàng hoá ở các
tỉnh miền búi phía bắc đã từng bước phát triển. Nền sản xuất đang chuyển dần từ nền sản
xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp, phân tán sang nền nông nghiệp hàng hoá, hình thành các
vùng tập trung, chuyên canh mới, tạo cơ sở cho công nghiệp chế biến, nâng cao thu nhập
của hộ nông dân trong vùng. Đây là một lợi thế cho hoạt động tín dụng tại khu vực các
tỉnh miền núi phía Bắc, qua vận dụng lợi thế này trong cho vay hộ đã được đúc kết lại
thành những kinh nghiệm:
Thứ nhất: Tổ chức màng lưới các chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam có mặt đều
khắp vùng miền và có chiến lược cho vay, đề án cho vay KTH phù hợp với đối tượng phát triển
nông, lâm nghiệp theo định hướng của từng địa phương.
Thứ hai: Có cơ chế thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi tại chỗ, nhờ nắm bắt được vai
trò của chăn nuôi là một ngành quan trọng đối với nhiều tỉnh miền núi, với tốc độ tăng
trưởng hàng năm của vùng Tây Bắc đạt bình quân 3, 5%, đông bắc là 3% để định hướng
tín dụng. Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT thông qua hoạt động tư vấn đối với KTH
trong vấn đề áp dụng các kỹ thuật tiến bộ mới trong chăn nuôi (giống mới, quy trình nuôi
tiên tiến, thức ăn tổng hợp..) nên đã tạo được một bước phát triển mới trong chăn nuôi ở
miền núi phía Bắc, nhờ đó tạo cho người nông dân có thu nhập cao, nên chất lượng tín
dụng của các chi nhánh NHNo&PTNT luôn đảm bảo.
Thứ ba: áp dụng linh hoạt các phương thức cho vay, tạo lập mối quan hệ tốt với các
cấp chính quyền, đoàn thể trong việc hình thành các tổ nhóm vay vốn, lấy hiệu quả của
phương án sản xuất là cơ sở để xem xét cho vay trên cơ sở ưu tiên đầu tư trang bị máy
móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, giảm dần tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng
lao động công nghiệp tại chỗ, hình thành các khu công nghiệp ở nông thôn.
Đây là những lợi thế đã được phát huy và được đúc kết thành kinh nghiệm rất cần
thiết để các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực miền núi Tây Bắc Quảng nam nghiên
cứu vận dụng, góp phần đưa KTH đi lên sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn và
có hiệu quả.
1.3.3. Những bài học rút ra từ kinh nghiệm của hai vùng được phân tích
Từ lý luận và thực tiễn quan hệ giữa tín dụng ngân hàng với KTH có thể rút ra các
bài học kinh nghiệm sau:
- Hoạt động NHNo&PTNT muốn đạt hiệu quả cao phải quán triệt, chấp hành đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên bám sát các nghị
quyết chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và của địa phương,
trong đó phải chủ động và tích cực thực hiện các chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ
phát triển nông nghiệp - nông thôn từng thời kỳ.
- Kiên trì mục tiêu, chiến lược coi tín dụng của toàn hệ thống NHNo&PTNT là
phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn mà trọng tâm là KTH. Đầu tư tín dụng
phải hướng vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi, ngành nghề của từng
địa phương trong chương trình phát triển kinh tế tổng thể của cả nước.
- Thực hiện có hiệu quả chủ trương chuyển đổi cơ cấu nguồn vốn ổn định; coi trọng
huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn từ dân cư và từ nguồn vốn trung dài hạn để tạo thế ổn
định, tự chủ, cũng cố và mở rộng thị trường nông nghiệp-nông thôn, tiếp cận nhanh và mở
rộng thị trường thành thị, mở rộng và tăng thu dịch vụ ngoài tín dụng để hỗ trợ tài chính
cho vay KTH vốn có chi phí cao.
- Cho vay qua tổ vay vốn của các tổ chức chính trị xã hội quan tâm đúng mức để
luôn cũng cố hoàn thiện, vì đây là một giải pháp giúp hội viên sử dụng vốn có hiệu quả,
tăng sức mạnh của các tổ chức hội, cùng cộng đồng trách nhiệm nâng cao khả năng trả nợ.
Cùng với các tổ chức hội làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, đồng thời đáp ứng nhiều
tiện ích cho hộ sản xuất trong việc đáp ứng các sản phẩm tín dụng, dịch vụ thanh toán và
các dịch vụ ngân hàng khác.
- Chất lượng tín dụng là yếu tố sống còn, quyết định sự tồn tại và phát triển ngân
hàng, phải tích cực kiên quyết để nâng cao chất lượng tín dụng, xử lý nhanh nợ xấu, nợ tồn
đọng để nâng cao vòng quay vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất. Coi trọng kiểm tra
kiểm soát, kiên quyết xử lý kịp thời các sai sót, gắn kiểm tra với việc chỉnh sửa và xử lý
sau kiểm tra.
- ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động ngân hàng nói chung và tín dụng nói
riêng, tạo điều kiện tăng năng suất lao động, tăng cho vay KTH, đồng thời thích ứng với
xu thế cạnh tranh và hội nhập.
- Công tác tổ chức bộ máy, sắp xếp nhân sự phải ổn định, phù hợp với môi trường
và điều kiện kinh doanh. Thường xuyên coi trọng xây dựng nội bộ đoàn kết từ lãnh đạo
đến cán bộ trên cơ sở thực hiện tốt quy chế dân chủ ở từng cơ sở và điều hành theo quy
chế, cơ chế một cách kỹ lưỡng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức vì sự nghiệp
phát triển lâu dài của ngành cũng như sự phát triển bền vững của kinh tế hộ.
Kết luận chương 1
Tín dụng ngân hàng là tín dụng do ngân hàng làm trung gian, vừa đại diện cho
người đi vay để vay tiền, vừa đại diện cho người gửi tiền để cho vay nhằm đạt hiệu quả
kinh tế xã hội cao. Tín dụng NHNo&PTNT là một bộ phận của tín dụng ngân hàng. Tín
dụng này có vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy ứng dụng khoa học công
nghệ, khai thác nguồn nhân lực, tích tụ ruộng đất, phát triển sản xuất hàng hoá lớn, xây
dựng hạ tầng kinh tế xã hội cho nông nghiệp và nông thôn mới, xoá bỏ nạn cho vay nặng
lãi.
Mối quan hệ giữa tín dụng NHNo&PTNT với KTH là mối quan hệ biện chứng,
trong đó KTH không chỉ là đối tượng cho hoạt động tín dụng, mà còn là cơ sở đảm bảo
tăng lợi nhuận ổn định lâu dài cho ngân hàng. Một mặt khác, NHNo&PTNT là chỗ dựa về
tài chính, giúp KTH phát triển, thực hiện kế hoạch hoá sản xuất kinh doanh và hỗ trợ KTH
gặp khó khăn về tài chính, thị trường, vốn triển khai kỹ thuật vào sản xuất. Có nhiều nhân tố
tác động tới mối quan hệ này, trong đó nổi bật là các nhân tố xuất phát từ bản thân NHNo;
nhân tố xuất phát từ chính KTH, từ nhà nước và thị trường. ở chương 1, luận văn đã khảo sát
hai khu vực có điều kiện tương đồng với địa bàn mà luận văn nghiên cứu là khu vực Tây
Nguyên, khu vực miền núi phía Bắc để rút ra các kinh nghiệm hữu ích cho phát triển tốt đẹp
mối quan hệ tín dụng NHNo với KTH.
Chương 2
Thực trạng mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn với phát triển kinh tế hộ ở khu vực miền núi phía tây Bắc
tỉnh Quảng Nam
2.1. Tình hình kinh tế xã hội ở khu vực ảnh hưởng đến quan hệ giữa tín dụng
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với phát triển kinh tế hộ
Khu vực miền núi phía Tây Bắc Quảng Nam (gồm các huyện Tây Giang, Đông
Giang, Nam Giang) có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị-xã hội, an ninh quốc phòng, là
nơi có cửa khẩu (Đak- ôc, Nam Giang) tiếp giáp với huyện Đakchưng, tỉnh SêKông của
nước bạn Lào. Về phía Bắc, tiếp giáp với huyện Alưới tỉnh Thừa Thiên Huế, phía đông
tiếp giáp với thành phố Đà Nẵng. Đây là những cầu nối quan trọng để khơi thông, chuyển
giao các ứng dụng khoa học kỹ thuật cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tổ
chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá từ sản xuất nông, lâm nghiệp tại khu vực, cũng như việc
tổ chức huy động và chuyển giao các nguồn vốn phục vụ cho phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn tại địa bàn.
Toàn khu vực có diện tích tự nhiên là:354.899ha, tổng dân số thời điểm 31/12/2005
là 58.060 người trên 12.324 hộ, trong đó có 81% là đồng bào dân tộc thiểu số anh em như:
Cơtu, Gié, Triêng. Phân bổ đất đai tại khu vực theo thống kê như sau: đất sản xuất nông
nghiệp là 3% (11.380 ha), đất lâm nghiệp là 69% (243.456 ha), đất phi nông nghiệp là 2%
(6.419 ha), đất chưa sử dụng là 26% (93.644 ha). Cơ cấu kinh tế tại khu vực được xác định
là: Nông-Lâm nghiệp kết hợp công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại và du
lịch gắn với định canh định cư. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của khu vực năm 2005 là
98tỉ 303 triệu đồng, trong đó giá trị ngành trồng trọt chiếm 64, 35%, ngành chăn nuôi chiếm
32,15%, ngành dịch vụ nông nghiệp là 3,5% [20].
Sau 20 năm đổi mới, sự phát triển kinh tế tại khu vực đã có những thành tựu đáng
khích lệ, đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn ngày càng được cải thiện hơn. Tuy nhiên so
với khu vực miền núi phía Nam của tỉnh và các vùng đồng bằng trong tỉnh, thì khu vực miền
núi phía Bắc của tỉnh còn chậm phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn so mức bình
quân của toàn tỉnh và có xu hướng tụt hậu so với tiến trình chung của toàn tỉnh. Một số vùng
thụân lợi trong giao lưu với các trung tâm lớn như Đà Nẵng, Đại Lộc, cận cư và gắn bố với
người kinh, gần các Nông lâm trường…nhưng sự chuyển biến trong sản xuất và đời sống rất
chậm. Hơn nữa, còn có sự phát triển không đồng đều ở các địa bàn tộc người khác nhau. Do
đó, đầu tư cho vùng dân tộc và miền núi có ý nghĩa chính trị hơn là kinh tế. Chính vì vậy, từ
khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay, thì ngoài các chương trình dự án từ ngân sách nhà
nước, tại khu vực chưa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài so với các vùng, miền khác của
cả nước.
Trong điều kiện đó, kinh tế xã hội của khu vực miền núi cần được thúc đẩy phát
triển nhanh hơn để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, đảm bảo cho sự phát triển cân đối của
toàn vùng. Quan điểm trên đã được toàn Đảng bộ tỉnh Quảng Nam quyết tâm thực hiện.
Qua đánh giá 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thư XVIII đã khẳng
định: “Kinh tế-xã hội miền núi chuyển biến trên một số mặt; đời sống nhân dân ổn định,
một bộ phận có cải thiện”. Các ngành, các cấp và các huyện miền núi đã triển khai thực
hiện Nghị quyết 05-NQ/TU của tỉnh uỷ về dân tộc và miền núi, bước đầu đã có chuyển
biến trong quy họach phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện các chương trình mục tiêu (134,
135), chuẩn bị cán bộ, xoá đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng… Đã có 17 trung tâm cụm
xã được đầu tư; 460 công trình thiết yếu được xây dựng phục vụ sản xuất và đời sống.
Chính quyền và nhân dân đã tích cực phát triển giao thông; đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào miền núi; hướng dẫn nhân dân canh tác lúa nước, phát triển kinh tế vườn, chăn nuôi
bò, cá nước ngọt…gắn với định canh định cư, đảm bảo ổn định tại chỗ. Nhờ đó, KTH từng
bước phát triển, đời sống dân cư được cải thiện. Chủ trương giao đất, giao rừng cho dân cư
trong cộng đồng, làng bước đầu đạt kết quả, đến cuối năm 2004 đã giao 45.000 ha cho 71
làng quản lý bảo vệ.
Cho đến nay, về cơ bản toàn khu vực đã thực hiện giao đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ nông dân theo các nghị quyết, nghị định và luật đất
đai (1993). Do đó, đã tạo điều cho KTH phát triển, nông dân yên tâm đầu tư thâm canh
tăng năng suất vật nuôi, cây trồng và thực sự làm chủ trên mảnh đất được giao của mình.
Từ đó đã kích thích hộ nông dân hăng hái vươn lên làm giàu bằng lao động của chính
mình.
Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm tại khu vực đã bám sát mục tiêu phát triển
kinh tế-xã hội nông thôn miền núi, góp phần chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống cây
trồng, vật nuôi và sử dụng phân bón, nông dược. Ngoài ra, phương pháp thâm canh,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ…cho kinh tế nông hộ thực hiện tích cực, giúp
họ tin tưởng và mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhiều chương trình, dự án
khuyến nông đưa vào hoạt động của kinh tế của nông hộ đều đem lại kết quả nhất định
như: phương pháp sind hoá đàn bò trên cơ sở giống bò vàng hiện có; phương pháp chọn
giống keo lai chất lượng cao; phương pháp canh tác bền vững trên đất dốc, phương pháp
nhân giống và mở rộng diện tích trồng đối với các giống cây dược liệu tự nhiên quý
hiếm…Hoạt động khuyến nông có vai trò tích cực trong việc nâng cao trình độ hiểu biết
nhiều mặt cho hộ nông dân khu vực dân tộc miền núi theo hướng cầm tay chỉ việc và tổ
chức hội nghị đầu bờ. Những biện pháp trên đã góp phần thực hiện chuyển đổi cơ cấu vật
nuôi, cây trồng, cơ cấu mùa vụ, phương pháp canh tác theo hướng sản xuất hàng hoá. Từ
đó đã phát huy được phần nào lợi thế so sánh của một khu vực miền núi, khắc phục được
nhiều bất thuận do thiên tai gây ra, góp phần ổn định sản lượng lương thực tại chỗ, tăng độ
che phủ rừng, thực hiện xoá đói giảm nghèo và không ngừng nâng cao đời sông nhân dân
tại khu vực dân tộc và miền núi
Đặc biệt, từ khi có chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn đến
nay, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định,
chương trình hành động về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh giúp KTH
phát triển. Ngoài ra, với sự ra đời của Quyết định 30/2002/QĐ-UB (04-5-2002), Quyết định
66/2004/QĐ-UB (20-8-2004) của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam về việc ban hành cơ chế hỗ
trợ đầu tư phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại; cơ chế hỗ trợ đầu tư phát triển chăn nuôi bò
giai đoạn 2004-2007 đã thật sự thúc đẩy KTH khởi sắc. Nông nghiệp trong khu vực được cải
thiện đáng kể, cụ thể tính đến cuối năm 2003 tổng đàn bò hiện có tại khu vực là: 11.905 con, thì
đến cuối năm 2005 đã lên đến 17.517 con, về chất lượng đàn bò cũng đã được nâng lên. Đã có
hàng ngàn mô hình kinh tế vườn được xây dựng từ cải tạo vườn tạp và đem lại thu nhập cao cho
hộ nông dân. Diện tích rừng trồng tăng nhanh: nếu đến cuối năm 2003 diện tích rừng trồng là 308
ha, thì đến cuối năm 2005 đã lên đến 863 ha, đặc biệt là đối với cây nguyên liệu, góp phần khai
thác có hiệu quả diện tích đất chưa sử dụng. Điều này nói lên rằng, KTH tại khu vực có những
chuyển biến tích cực và gặt hái được những thành tựu đáng khích lệ. Là đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt
động sản xuất-kinh doanh của KTH tại địa bàn đang trên đà chuyển động theo hướng vừa chuyên
môn hoá vừa đa dạng hoá, trong đó xu hướng chủ yếu vẫn là chuyên môn hoá trồng trọt và chăn
nuôi. Trên địa bàn đã xuất hiện một số mô hình kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá với quy mô
nhỏ là chính và đang từng bước hình thành những vùng kinh tế chuyên canh phục vụ cho quá
trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn đối với khu vực miền núi của tỉnh.
Bảng 2.1: Giá trị ngành kinh tế các huyện trong khu vực từ 2001-2005
Đơn vị tính:Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
1.Giá trị sản xuất nông nghiệp 73, 6 74, 7 78, 3 84, 7 98, 3
2.Giá trị sản xuất lâm nghiệp 21, 6 22, 6 23, 2 25, 5 27, 4
3.Giá trị sản xuất công nghiệp 8, 5 9, 1 10 11, 7 15.6
Nguồn: Niên giám thống kê 2001-2005 của 3 huyện miền núi phía Bắc Quảng Nam.
Qua khảo sát những đặc trưng về kinh tế xã hội tại khu vực ta thấy, đã có những
ảnh hưởng nhất định đến quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT với KTH thể hiện ở các
điểm sau:
Thứ nhất: do đặc điểm địa lý của các huyện trong khu vực với diện tích đất chưa sử
dụng còn nhiều do bị phân tán hoặc khó khăn về giao thông, địa hình, việc ứng dụng công
nghệ còn thấp, thu nhập từ rừng còn là khoản thu nhập chính của nông hộ. Hơn nữa, bộ
mặt nông thôn miền núi chưa được cải thiện đáng kể dẫn đến hoạt động tín dụng gặp khó
khăn, đặc biệt trong việc huy động vốn, lựa chọn khách hàng, mở rộng thị trường.
Thứ hai: Quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp nông thôn vừa chậm vừa thiếu
đồng bộ, đặc biệt là khâu khảo sát quy hoạch đất đai, lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi
thích hợp…trong điều kiện như thế này ngân hàng luôn gặp khó khăn trong việc lựa chọn
và thẩm định đối tượng đầu tư nhằm phát triển KTH.
Thứ ba: Cơ cấu thành phần kinh tế chưa phát huy tác dụng đồng bộ, các doanh nghiệp
trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp tuy có hình thành, nhưng là những doanh nghiệp nhỏ bé
hoặc chỉ đơn thuần làm chức năng khai thác, quản lý vốn rừng tự nhiên sẵn có. Toàn khu vực
chưa hình thành được một hợp tác xã nông, lâm nghiệp, hợp tác xã ngành nghề mặc dù là địa
phương luôn cung cấp nguyên liệu làm hàng xuất khẩu cho các địa phương khác. Điều này
làm cho KTH phát triển thiếu tính bền vững, bình quân thu nhập của nông hộ từng vùng miền
chưa đồng đều, từ đó vấn đề mở rộng tín dụng cũng thiếu tính ổn định.
2.2. Thực trạng tác động của tín dụng ngân hàng đến phát triển kinh tế hộ ở khu
vực
Đồng hành với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của toàn tỉnh, khu vực
miền núi phía Bắc Quảng Nam cũng đã được Đảng và Nhà nước tập trung đầu tư với các
chương trình dự án lớn, bước đầu một số cơ sở hạ tầng quan trọng cho sự phát triển trước
mắt và lâu dài đã được xây dựng. Nếu như trước đây chưa có một xã một thị trấn nào có
đường ôtô đến, thì nay đường ôtô đã tới 26/30 xã toàn vùng; đời sống đồng bào, đặc biệt ở
các vùng gần thị trấn, gần đường giao thông được nâng lên một phần…Tốc độ phát triển
chung của vùng dân tộc và miền núi đã tăng trưởng so với các năm trước. Các thành quả
trên đang là cơ hội cho việc đầu tư thông qua hoạt động tín dụng NHNo&PTNT để đáp
ứng nhu cầu vốn trong quá trình triển khai đồng bộ các dự án phát triển kinh tế theo ngành,
vùng với mục tiêu là làm chuyển biến thực sự cơ cấu kinh tế tại khu vực.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, hoạt động tín dụng bám sát các chủ
trương, chính sách kinh tế của Đảng cũng như các chương trình kinh tế lớn của chính phủ
để cho vay vốn. Trong đó việc cho vay nhằm thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp nông
thôn, cho vay để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng…cho vay cải tạo phát
triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, mở mang ngành nghề, cho vay theo hợp đồng tiêu thụ
nông sản hàng hoá của doanh nghiệp đối với nông dân được thực hiện và phát triển…Việc
đa dạng đối tượng cho vay, bình đẳng trong cơ chế tín dụng đối với các thành phần kinh tế,
đặc biệt là mở rộng tín dụng theo quyết định 67/CP của chính phủ ngày 30/3/1999, trong
đó áp dụng cơ chế giảm lãi đối với khách hàng vay theo khu vực II, khu vực III đã thúc
đẩy khai thác tối đa tiềm năng về đất đai, lao động, các tài nguyên vốn có tại khu vực tạo
nên thị trường tài chính sôi động ở vùng dân tộc và miền núi. Trong những năm vừa qua,
các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam tại địa bàn, cũng như trong toàn tỉnh từ chỗ tập
trung vào đối tượng cho vay là các doanh nghiệp nhà nước cấp tỉnh và huyện, thì sau năm
1990 hoạt động tín dụng đẩy mạnh địa bàn về vùng nông thôn với phương châm “Lấy
nông thôn làm thị trường chính, lấy nông nghiệp làm đối tượng cho vay và nông dân là
khách hàng truyền thống”. Từ đó hoạt động tín dụng đã giúp hàng trăm nghìn lượt hộ nông
dân vay vốn mở rộng sản xuất, làm ra của cải vật chất, theo hướng chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp. Tín dụng của NHNo&PTNT đã lấy đầu tư phát triển đàn bò và trồng các cây
nguyên liệu chủ lực làm hướng chính để cho vay nên đã góp phần sắp xếp lại lao động
vùng dân tộc miền núi, thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi theo hướng sản xuất hàng hoá
tập trung.
Mặt khác, ý nghĩa có tính chiến lượt của hoạt động tín dụng ở vùng dân tộc và miền
núi cũng như trong toàn tỉnh là tạo lập mối quan hệ trách nhiệm giữa ngân hàng với người
dân. Thông qua việc truyền đạt phổ cập những kiến thức về ngân hàng, về thủ tục và quy
trình vay vốn, cách thức lập kế hoạch sản xuất kinh doanh… NHNo&PTNT đã nâng dần
kiến thức về tiếp cận thị trường, về tính toán chi phí sản xuất của nông hộ. NHNo&PTNT
tạo điều kiện để nông dân học tập các mô hình tổ chức phát triển kinh tế vườn, kinh tế
trang trại, phục hồi các nghề truyền thống… Những sự hỗ trợ này đang được đánh giá là
có hiệu quả để triển khai thực hiện đầu tư vốn tự có cùng với vốn vay ngân hàng vào các
mô hình sản xuất nói trên.
Từ khi thực hiện ưu tiên đầu tư cho KTH đến nay, ngoài vốn huy động trong nước
để cho vay, các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực cũng đã tranh thủ tiếp nhận và sử
dụng có hiệu quả các kênh vốn từ NHNo&PTNT Việt Nam thông qua hỗ trợ của các tổ
chức tài chính quốc tế dưới hình thức uỷ thác đầu tư. Các chi nhánh NHNo&PTNT trên
địa bàn cùng với toàn bộ hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam đã hưởng ứng tích cực việc
cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất theo nghị định 14/CP của Thủ tướng Chính phủ và tổ
chức triển khai quyết định 67 của Thủ tướng Chính phủ trên diện rộng đến các vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Thông qua các chương trình phối hợp với Hội Nông dân,
Hội Phụ nữ và các đoàn thể khác để chuyển tải vốn đến hộ sản xuất. Vấn đề có tính khả thi
trong cho vay KTH tại vùng dân tộc và miền núi là tập trung vào việc chuyển đổi cơ cấu
tín dụng, từ chỗ chủ yếu cho vay vốn ngắn hạn thì nay việc cho vay vốn trung dài hạn
được chú trọng hơn. Sau khi được Thống đốc cho phép sử dụng 30% nguồn vốn ngắn hạn
dưới 12 tháng để cân đối cho vay trung dài hạn mà các đối tượng đang có nhu cầu vốn
như: cải tạo vườn tạp, trồng rừng nguyên liệu, phát trển chăn nuôi bò thịt v.v…đưa cơ cấu
dư nợ cho vay trung dài hạn tại địa bàn chiếm tỷ lệ 80% trên tổng dư nợ cho vay. Một điều
thuận lợi đối với nông hộ tại khu vực là hầu hết vốn cho các công trình kênh mương thuỷ
lợi, đường giao thông, hạ thế điện…đều nằm trong kế hoạch đầu tư hàng năm của ngân
sách đối với vùng dân tộc và miền núi. Nhờ chủ trương này người nông dân chỉ hưởng lợi
và tập trung cho phát triển kinh tế hàng hoá bền vững ở nông thôn miền núi.
2.2.1. Thực trạng quan hệ cho vay, huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn ở vùng núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam
2.2.1.1. Về quan hệ cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
với kinh tế hộ ở khu vực miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam
Có thể đánh giá, thời kỳ đầu triển khai cho vay đối với nông hộ, các chi nhánh
NHNo&PTNT tại khu vực còn e dè trong việc cho vay đến hộ nông dân. Do dân cư sinh
sống phân tán, giao thông đi lại khó khăn thậm chí có những xã vừa đi xe mô tô vừa đi bộ
mất cả hai ngày mới đến được trung tâm xã. Hơn nữa công tác quy hoạch đất đai ở nông
thôn miền núi không đồng bộ, trình độ dân trí thấp và còn bất đồng về ngôn ngữ giữa nhân
viên ngân hàng với bà con nông dân người địa phương và đặc biệt là tài sản thế chấp thì
chẳng có gì đáng kể, đời sống người dân còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên phương án được tiến hành có hiệu quả để vốn cho vay đến với bà con
nông dân là sự phối hợp với chính quyền địa phương và lập ra các tổ cho vay lưu động, các
bàn xét duyệt cho vay ở cấp xã để đánh giá phân loại hộ có nhu cầu vay vốn. Từ đó, chỉ có
hộ có điều kiện để tổ chức sản xuất, biết tính toán làm ăn, kinh nghiệm mới được cho vay
vốn. ở địa phương nào sự hợp tác của chính quyền xã với NHNo&PTNT càng chặt chẽ thì
ở đó phong trào cho vay hộ nông dân có bước phát triển lớn. Vào thời kỳ đó, mức cho vay
vốn chỉ là 500.000đ/hộ và không yêu cầu phải có tài sản thế chấp nên qua 2 năm thực hiện
cho vay NHNo&PTNT Việt Nam đã nâng mức mức cho vay này lên 1 triệu đồng/hộ.
Đến năm 1997, vấn đề cho vay hộ tại khu vực đã được nhân rộng ra và được đông
đảo bà con nông dân đồng tình đón nhận. Tuy vậy, vào thời kỳ này, thị trường của sản
phẩm nông nghiệp chưa phát triển nên sản lượng tiêu thụ còn hạn chế. Cơ chế tín dụng
được mở ra cho hộ nông dân vay vốn để phát triển nông, lâm nghiệp và nuôi cá nước ngọt
đến 5 triệu đồng/hộ hoặc vay dưới 10 triệu đồng/hộ để trồng cây ăn quả đã được Uỷ ban
nhân tỉnh chấp thuận với mức vay này được áp dụng không thế chấp tài sản.
Đến 30/3/1999, chỉnh phủ ban hành quyết định 67/CP cho phép hộ nông dân vay
vốn sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp đến 10 triệu đồng/hộ không yêu cầu phải có tài
sản thế chấp. Năm 2000, Chính phủ cho phép mức vay 20 triệu(hiện nay là 30 triệu) đối
với nông dân sản xuất hàng hoá và 50 triệu đồng/hộ đối với hộ sản xuất giống thuỷ sản,
không phải thực hiện đảm bảo tiền vay. Chủ trương này có tác động tích cực đến việc mở
rộng cho vay đến hộ, đặc biệt là cho vay để phát triển các mô hình kinh tế trang trại nhỏ và
vừa tại địa bàn xã Ba, xã TaBhing. Đây là những địa phương đã có hàng hoá xuất ra ngoài
khu vực và thu hút được nguồn lao động dôi dư tại địa bàn, góp phần xoá đói giảm nghèo,
nên hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT khởi sắc.
Qua đó, cho thấy do còn ràng buộc về cơ chế đảm bảo tiền vay, nên việc e dè trong
đầu tư vốn tín dụng cho KTH của ngân hàng cũng là tồn tại khách quan.Do vậy trong
những năm trước khi có quyết định 67/CP KTH nói riêng cũng như kinh tế nông nghiệp
nông thôn chưa được khai thác đầy đủ về tiềm năng để phát triển kinh tế tại khu vực có lợi
thế về đất đai và nguồn lao động. Rõ ràng việc quyết định 67/CP được ban hành đã tạo
hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh và là cơ hội để ngân hàng mạnh dạn đầu tư vốn
vào lĩnh vực nông nghiệp và khách hàng chủ yếu là hộ nông dân, đặc biệt đã cơ bản giải
quyết không còn xã trắng về hoạt động tín dụng.
Trong 5 năm qua, từ năm 2001 dến 2005 cùng với việc mở rộng cung cấp tín dụng
đến hộ sản xuất, các chi nhánh NHNo&PTNT tại địa bàn cũng đã thành công trong việc
xây dựng và tổ chức thực hiện đề án án huy động vốn từ dân cư để tạo nguồn vốn ổn định
tập trung cho vay các đối tương trung dài hạn. Ngoài ra việc tiếp cận kịp thời các dự án có
tính khả thi NHNo&PTNT đã góp phần quan trọng thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế
hàng năm trên địa bàn, có thể thấy rõ ở các số liệu thống kê tại biểu 2.2 dưới đây:
Biểu 2.2: Kết quả hoạt động tín dụng từ 2001-2005
Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005
1.Doanh số cho vay
+Tr.đó: Hộ sản xuất
Tỷ
đồng
/
29
21, 2
31
23
28
25
32
28, 5
36
32
2.Doanh số thu nợ
+Tr.đó: Hộ sản xuất
Tỷ
đồng
24
15
26
19
24
21, 3
28
23, 2
30
23
/
3.Tổng dư nợ cho vay
+Tr, đó:. Dư nợ hộ sản
xuất
.Số lượt hộ vay vốn
. Số hộ dư nợ
Tỷ
đồng
Tỷ
đồng
Hộ
Hộ
32
16
3.533
2.940
37
20
3.538
3.320
41
23, 7
3.471
3.564
45
29
3166
4620
51
38
3.478
5.693
4.Nợ quá hạn
+Tổng số
.Tr.đó: Hộ sản xuất
%
%
%
0, 58%
0, 43%
0, 41%
0, 32%
0, 37%
0, 31%
1, 20%
0, 25%
0, 75%
0, 26%
Nguồn: Báo cáo Tín dụng các NHNo&PTNT huyện từ 2001-2005.
Quan hệ tín dụng với khách hàng tại địa bàn trong 5 năm qua nói chung và với
khách hàng là hộ sản xuất nói riêng, đều được duy trì có hiệu quả. Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ
cho vay hộ sản xuất qua từng năm đều tăng trưởng phù hợp với quy mô mở rộng sản xuất
của nông hộ và chu kỳ sinh trưởng của các đối tượng vay vốn. Với thế mạnh về sản xuất
nông lâm nghiệp, nên định hướng chính sách đầu tư cho lĩnh vực này luôn có sự chỉ đạo trực
tiếp của các ngành chuyên quản, cùng với vốn của các chương trình dự án, vốn tín dụng của
các chi nhánh NHNo&PTNT tại địa bàn đã tiếp cận đến hộ nông dân, giải quyết kịp thời các
nhu cầu vay vốn thanh toán chi phí sản xuất, mua giống cây trồng, vật nuôi, trang bị mới máy
móc thiết bị phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp.
Do thủ tục đơn giản, các hộ vay lại được Ngân hàng nơi cho vay cấp sổ vay vốn đối
với hộ vay dưới 10 triệu đồng; đã tạo điều kiện để người nông dân thuận lợi tiếp cận vốn
vay để thực hiện dự án sản xuất kinh doanh, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn đầu tư khai
hoang, chuyển hướng sang trồng rừng nguyên liệu kết hợp phát triển chăn nuôi bò hình
thành các trang trại nhỏ và vừa, đã cơ bản giải quyết hợp lý nguồn lao động hiện có của hộ
và thu hút được nguồn lao động dôi thừa tại địa bàn theo từng mùa vụ.
Về lãi suất tiền vay:hiện nay tất cả các chi nhánh NHNo&PTNT tại địa bàn đều áp
dụng cho vay giảm lãi 15% đối với vùng II, 30% đối với vùng III (phần giảm lãi không
được ngân sách cấp bù).Với việc giảm lãi này thì NHNo&PTNT Việt Nam đã góp phần
đáp ứng vốn, cùng với các cơ chế khuyến khích ưu đãi hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã trở
thành nhân tố hỗ trợ tài chính giúp hộ vay thay đổi tập tục canh tác, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Thực hiện thắng lợi chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước, giữ vững an ninh xã hội, an ninh biên giới, tạo lập sự gắn
bố, đoàn kết hoà thuận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Thời gian qua trên cơ sở sự chỉ đạo của NHNo&PTNT tỉnh, các chi nhánh
NHNo&PTNT tại khu vực đã phối hợp cùng các đoàn tăng cường công tác trực tiếp bám
sát cơ sở từng thôn bản để xây dựng các dự án đầu tư chuyên ngành, chuyên vùng (Dự án
phát triển kinh tế vườn khu vực những xã vùng thấp, dự án khoanh vùng chăn nuôi bò thịt
kết hợp phát triển mô hình trang trại nhỏ và vừa). Đồng thời thông qua tiếp cận cơ sở đã có
những giải pháp cụ thể và có hiệu quả xử lý đối với nợ quá hạn tồn đọng. Khách hàng
nông dân và các chi nhánh NHNo tại khu vực luôn là chỗ dựa đáng tin cậy và là người bạn
đồng hành của nhau. Điều đó thể hiện khi thời vụ thu hoạch có hiệu quả, bán được hàng,
bà con đã trả nợ sòng phẳng và kịp thời, khi gặp khó khăn khách quan như thiên tai dịch
bệnh các chi nhánh NHNo sẵn sàng cho bà con được gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ,
một số trường hợp đặc biệt còn được khoanh nợ và đề nghị cấp có thẩm quyền xét miễn
giảm lãi suất. Chính vì vậy, trong những năm qua, nợ quá hạn, nợ xấu khó thu hồi ở đối
tượng cho vay hộ nông dân trên địa bàn lúc nào cũng chiếm tỷ trọng thấp nhất so với các
đối tượng cho vay khác. Trong nhiều năm liên tục, tỷ lệ này luôn ở dưới 0, 5%, luôn thấp
hơn mức khống chế. Kết quả trên, trước hết là do NHNo tỉnh đã có định hướng đúng đắn
khi đột phá và mạnh dạn cho hộ sản xuất được vay trực tiếp, đồng thời luôn có sự điều
chỉnh về cơ chế nghiệp vụ cho phù hợp với tình hình thực tế tại mỗi giai đoạn. Còn tại khu
vực, ngoài nguyên nhân hết sức rõ ràng là có sự chỉ đạo, hỗ trợ của cấp uỷ, chính quyền địa
phương, sự gắn bó thân thiết của các khách hàng là hộ sản xuất, thì sự nổ lực không ngừng của
tập thể cán bộ nhân viên tại các chi nhánh là một nhân tố hết sức quan trọng. Họ luôn ý thức
được rằng, muốn làm tốt nhiệm vụ của mình để gắn bó và đồng hành cùng nông dân thì phải
luôn tìm tòi, suy nghĩ để làm sao chuyển tải nguồn vốn của ngân hàng đến với hộ một cách kịp
thời nhất, với một thủ tục đơn giản nhất và giúp khách hàng của mình sử dụng đồng vốn một
cách hiệu quả nhất.
Trong quan hệ cho vay hộ sản xuất, các chi nhánh chủ yếu triển khai thực hiện hình
thức cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất và cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Một là, về cho vay trực tiếp đến hộ: Đây là hình thức được triển khai rộng ở các chi
nhánh, phòng giao dịch tại khu vực.Ngoài ra ở các xã vùng sâu, vùng xa các ngân hàng
còn thành lập các tổ cho vay lưu động đến từng hộ nông dân ở từng thôn bản theo định kỳ
đã thoả thuận với địa phương. Hoạt động này đã giúp những hộ vay giảm được chi phí đi
lại, tính toán được thời gian đầu tư vốn vào sản xuất, ngược lại ngân hàng cũng bám sát
được địa bàn, tạo niềm tin đối với cấp uỷ, chính quyền địa phương, được bà con nông dân
đồng tình ủng hộ.
Việc cho vay trực tiếp còn được thực hiện thông qua các tổ chức vay vốn như: Tổ
tín chấp, Tổ liên đới, Tổ tương hỗ… Các đơn vị này từ năm 2000 đến nay đã được thống
nhất thực hiện thông qua nghị quyết liên tịch 2308 đối với Hội Nông dân, nghị quyết 02
đối với Hội Liên hiệp phụ nữ, có tên gọi là tổ vay vốn. Nội dung hoạt động của các tổ vay
vốn nhằm mục đích hỗ trợ nhau, giúp nhau trong sản xuất, tập huấn chuyển giao công
nghệ nuôi, trồng, làm các thủ tục vay vốn, chia sẻ rủi ro trong sản xuất-nâng cao tính cộng
đồng trong sinh hoạt đoàn thể.
Các tổ vay vốn được thành lập theo nhóm người có cùng địa bàn cư trú như thôn,
bản, hoặc nhóm người theo ngành nghề sản xuất…Căn cứ vào khả năng quản lý và uy tín
mà tổ bầu ra người đứng đầu là tổ trưởng, tổ phó vay vốn thay mặt cho tổ vay vốn quan hệ
với ngân hàng nơi cho vay.
Các chi nhánh NHNo&PTNT nơi cho vay tiến hành lập hợp đồng dịch vụ với tổ
trưởng tổ vay vốn, trong đó quy định cụ thể các khâu công việc của tổ trưởng. Tuỳ theo
năng lực quản lý, kinh nghiệm tổ chức hoạt động của tổ, chi nhánh Ngân hàng nơi cho vay
có thể uỷ quyền một phần hoặc toàn bộ các khâu công việc như: 1) Nhận giấy đề nghị vay
vốn của tổ viên; 2) Lập danh sách tổ viên đề nghị ngân hàng cho vay; 3) Kiểm tra, giám sát
sử dụng vốn vay đúng mục đích; 4) Đôn đốc tổ viên vay vốn tích cực, trả lãi đúng hạn.
Ngân hàng nơi cho vay khi nhận được đề nghị vay vốn của Tổ trưởng vay vốn, sẽ
tiến hành: 1) Thẩm định điều kiện vay vốn; 2) Hướng dẫn thủ tục vay và trả nợ; 3) Ký hợp
đồng tín dụng với tổ vay vốn; 4) Giải ngân trực tiếp đến hộ vay theo lịch đã thoả thuận; 5)
Thu nợ, thu lãi theo định kỳ.
Hình thức cho vay qua tổ vay vốn theo nghị quyết liên tịch 2308 đối với Hội nông
dân, nghị quyết 02 đối với Hội phụ nữ của NHNo&PTNT Việt Nam. Nhờ đó đã tạo thuận
lợi cho đại đa số bà con nông dân có được cơ hội quan hệ với ngân hàng thông qua tổ chức
chính trị xã hội của mình, giúp các chi nhánh ngân hàng mở rộng diện cho vay vốn nhỏ,
không phải tăng thêm biên chế, đưa vốn giải ngân cho hộ vay theo thời vụ trong sản xuất
nông nghiệp.
ý nghĩa đặc biệt của cho vay qua tổ là bất cứ hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn và đủ
điều kiện vay vốn nhưng không có tài sản thế chấp với mức vay dưới 10 triệu đồng hoặc
dưới 20 triệu đồng đối với hộ sản xuất hàng hoá nông lâm diêm nghiệp, thuỷ hải
sản…được các tổ chức đoàn thể bình chọn, đề xuất thì được vay vốn tại NHNo&PTNT sở
tại.
* Kết quả cho vay trực tiếp qua tổ vay vốn theo nghị quyết 2308 giữa
NHNo&PTNT Việt Nam với Hội nông dân Việt Nam tại khu vực đến cuối năm 2005 như
sau:
- Đã thành lập được 215 tổ, số thành viên 3.010 bình quân một tổ gồm 14 người.
- Số tổ còn dư nợ đến cuối năm 2005: 186 tổ với 2.976 thành viên.
- Doanh số cho vay : 19.400 triệu.
- Doanh số thu nợ: 15.520 triệu.
- Dư nợ : 22.147 triệu.
- Nợ quá hạn : 17, 7 triệu, tỷ lệ nợ quá hạn 0, 08%.
Biểu 2.3: Tình hình cho vay qua tổ theo Nghị quyết liên tịch 2308
tại khu vực đến 31/12/2005
Chi nhánh
Số tổ đã
thành
lập
Số thành
viên trong
tổ (người)
Số tổ còn
dư nợ (tổ)
Dư nợ 2005
(triệu
đồng)
Dư nợ quá
hạn (triệu
đồng)
Đông Giang 116 1.624 92 11.240 11
Nam Giang 82 1.230 77 9.456 7, 7
Tây Giang 17 156 17 1.451 0
Nguồn: Báo cáo tổng hợp cho vay theo NQLT 2308 các chi nhánh tại khu vực.
Qua số liệu biểu 2.3 cho thấy, hình thức cho vay trực tiếp thông qua tổ vay vốn
ngày càng mở ra trên diện rộng, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội tích cực hưởng ứng
tạo thành mạng lưới bán lẽ trực tiếp đến kinh tế hộ của các chi nhánh tại khu vực. Giảm
thiếu áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng trong cho vay đối với hộ sản xuất nông nghiệp
tại vùng đồng bào dân tộc và miền núi vốn dĩ đã có khó khăn về đi lại, hiểu biết về công
tác cho vay của ngân hàng không đồng đều và là một địa bàn rộng nhưng phân bổ dân cư
thưa thớt.
Tuy nhiên việc cho vay qua tổ vay vốn đã xuất hiện một số trường hợp tổ trưởng
vay vốn đã xâm tiêu vào nguồn thu nợ vốn hoặc lãi nhằm sử dụng vào việc riêng của mình.
Song đây cũng là những trường hợp không phổ biến tại khu vực, đã được phát hiện qua đối
chiếu nợ của ngân hàng, cũng như sự phản ảnh từ các thành viên nên Ngân hàng cùng các
đoàn thể, chính quyền đã xử lý thu hồi dứt điểm.
Hai là, về hình thức cho vay gián tiếp đối với hộ sản xuất: Hình thức này đã triển
khai trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Song tại địa bàn chưa hội đủ điều kiện để áp
dụng rộng rãi bởi các định chế tài chính trung gian như Ngân hàng cổ phần nông thôn,
Quỹ tín dụng nhân dân chưa hình thành… Do vậy, các chi nhánh NHNo&PTNT tại địa
bàn chỉ mới thực hiện cho vay gián tiếp qua các tổ chức kinh tế mà chủ yếu là các Nông,
lâm trường có thực hiện giao khoán các khâu sản xuất đối với hộ nhận khoán và tổ chức
bao tiêu sản phẩm như: chè búp, nguyên liệu giấy, gỗ…Tuy nhiên dư nợ cho vay không
lớn, chủ yếu là cho vay những khoản chi phí sản xuất như trả công lao động khi mùa vụ
tập trung.
2.2.1.2. Về quan hệ huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đối với các hộ nông dân vùng núi phía bắc tỉnh Quảng Nam
Với cơ chế khóan trong kinh doanh, việc tự tạo lập cân đối nguồn vốn là yếu tố
quyết định để mở rộng đầu tư tín dụng.Song đối với địa bàn khu vực miền núi nói chung
và tại khu vực nói riêng, thì công tác này luôn gặp phải những hạn chế bởi các yếu tố
khách quan như:
Thứ nhất, đời sống, thu nhập của đa số nhân dân tại địa bàn còn nhiều khó
khăn.Toàn bộ những khoản thu nhập của công chức, viên chức từ đồng bằng lên công tác
tại địa bàn sau khi bù đắp những chi phí sinh hoạt phần còn lại đã di chuyển về đồng bằng
do điều kiện gia đình, nhà ở quyết định, tạo sự thất thu trong huy động vốn của các chi
nhánh NHNo&PTNT, cũng như làm tăng chi phí quản lý điều hoà lưu thông tiền mặt tại
khu vực.
Thứ hai, phong tục tập quán còn lạc hậu, phần đông số gia đình còn đẻ dày và đông
con. Trình độ dân trí thấp, đa phần các hộ gia đình là người dân tộc thiểu số Cơtu, thiếu
kiến thức kinh nghiệm làm ăn, nên việc tính toán làm ra kinh tế tạo thu nhập để tăng tích
luỹ là một vấn đề hết sức khó khăn.
Tuy nhiên bên cạnh những hạn chế bởi yếu tố khách quan nêu trên, những chuyển
biến về diện mạo kinh tế xã hội tại khu vực miền núi Bắc Quảng nam trong thời gian gần
đây đã tạo ra những lợi thế cho các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực trong việc khai
thác, thu hút các nguồn vốn trong dân cư từ các khoản đền bù đất, hoa màu, tài sản để giải
toả mặt bằng phục vụ thi công các công trình mang tính chiến lược lâu dài cho phát triển
bền vững đối với kinh tế-xã hội, ổn định an ninh quốc phòng tại khu vực miền núi.
Từ việc xác định nhiệm vụ trọng tâm là khai thác nguồn vốn ổn định.Nắm bắt kịp
thời ý kiến chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền địa phương về việc yêu cầu các tổ chức
Ngân hàng, Kho bạc phải có biện pháp thiết thực giúp các hộ đồng bào dân tộc tại địa bàn
quản lý. Từ đó có biện pháp hướng dẫn hộ nông dân sử dụng có hiệu quả các khoản thu
nhập từ công tác đền bù giải toả mặt bằng, để sau khi nhà nước thực hiện xong tái định cư
thì các hộ có nguồn vốn để tổ chức lại sản xuất. Đây là một yêu cầu có ý nghĩa kinh tế và
chính trị, hạn chế người dân trong việc tổ chức cúng lễ theo những tập tục lạc hậu, cũng
như sự cám dỗ của các tư thương chuyên lừa gạt người dân vào những chi tiêu không đáng
có.
Tiên phong đi đầ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam.pdf