Tài liệu Luận văn Tìm hiểu phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh Kiên Giang: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN:
Phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh
Kiên Giang - thực trạng và giải pháp
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiên Giang (KG) là một tỉnh trọng điểm lúa của đồng bằng sông Cửu Long. Cùng
với cả nước trong công cuộc đổi mới, những năm gần đây tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh đã có nhiều thay đổi cơ bản. Trong nông nghiệp, nông thôn mọi nguồn lực phát triển
kinh tế - xã hội đã được phát huy mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
nói chung và nông dân nói riêng đã được cải thiện một bước quan trọng. Tổng sản phẩm
trên địa bàn tỉnh trong 5 năm trở lại đây liên tục tăng trưởng khá. Nông nghiệp có sự phát
triển nhảy vọt, nhiều cơ sở vật chất hạ tầng trong nông nghiệp được xây dựng, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế xã hội, trên địa bàn tỉnh
KG đã và đang xuất hiện những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Đáng chú ý
là hiện tượng phân hóa già...
91 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh Kiên Giang: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh
Kiên Giang - thực trạng và giải pháp
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiên Giang (KG) là một tỉnh trọng điểm lúa của đồng bằng sông Cửu Long. Cùng
với cả nước trong công cuộc đổi mới, những năm gần đây tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh đã có nhiều thay đổi cơ bản. Trong nông nghiệp, nông thôn mọi nguồn lực phát triển
kinh tế - xã hội đã được phát huy mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
nói chung và nông dân nói riêng đã được cải thiện một bước quan trọng. Tổng sản phẩm
trên địa bàn tỉnh trong 5 năm trở lại đây liên tục tăng trưởng khá. Nông nghiệp có sự phát
triển nhảy vọt, nhiều cơ sở vật chất hạ tầng trong nông nghiệp được xây dựng, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế xã hội, trên địa bàn tỉnh
KG đã và đang xuất hiện những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Đáng chú ý
là hiện tượng phân hóa giàu nghèo đang có chiều hướng gia tăng tới mức độ có thể xem
là trầm trọng. Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh KG đã nhận định: "Phân hóa
giàu nghèo trong xã hội... có chiều hướng phát triển" [33, 36]. Phân hóa giàu nghèo
(PHGN) trong xã hội nói chung và trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng đang là một
hiện thực khách quan tác động đến mọi mặt của sản xuất và đời sống của hộ nông dân
(HND). Hiện tượng nghèo đói, lạc hậu, thấp kém như là người bạn đường đối với một
bộ phận HND trên các địa bàn của tỉnh. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương càng mạnh mẽ thì dường như sự PHGN ngày càng sâu sắc thêm, nhất là trong
nông nghiệp, nông thôn và đối với HND. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải
quyết mới có thể phát triển xã hội theo mục tiêu: Thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội mà Đảng ta đã đề ra. Không thể xem thường sự phân hóa giàu nghèo, nhất
là khi nó đang ảnh hưởng tới quá trình phát triển nhanh và bền vững của xã hội. Từ
nhận thức đó, Đảng bộ tỉnh đã vạch ra phương hướng quyết tâm của tỉnh là: "Bằng
nhiều biện pháp đồng bộ tích cực hạn chế phân hóa giàu nghèo" [33, 59].
Để góp phần vào thực hiện mục tiêu trên, đề tài: " Phân hóa giàu nghèo của
các hộ nông dân ở tỉnh Kiên Giang - thực trạng và giải pháp " là đề tài có ý nghĩa cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giàu nghèo và phân hóa giàu nghèo là đề tài đã có nhiều tác giả đề cập
từ nhiều góc độ. Tiêu biểu là một số công trình sau đây:
Khuynh hướng phân hóa HND trong phát triển sản xuất hàng hóa, Nguyễn
Xuân Khoát (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Một số giải pháp giải
quyết mâu thuẫn nảy sinh giữa việc phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị
trường với sự phân hóa giàu nghèo, Nguyễn Huy Oánh;... Vấn đề phân tầng xã hội - một
xu thế tất yếu của Việt Nam, Đỗ Nguyên Phương...(Đề tài KX 07-05); Phân hóa giàu
nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Nhật Bản từ 1945 lại nay, Dương Phú Hiệp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Phân hóa giàu nghèo ở một số quốc gia khu vực châu
á - Thái bình Dương, Dương Phú Hiệp, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; Kinh tế thị
trường và sự phân hóa giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện
nay, Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999....
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đến
nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học kinh tế
chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phân hóa giàu nghèo của các HND trong
nền kinh tế thị trường (KTTT). Từ đó phân tích thực trạng phân hóa giàu nghèo của
các HND ở tỉnh KG hiện nay nhằm đề xuất các giải pháp để hạn chế sự phân hóa này.
Nhiệm vụ của đề tài này được cụ thể hóa như sau:
Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề phân hóa giàu nghèo của các HND
với tư cách là những đơn vị sản xuất tự chủ trong quá trình phát triển kinh tế thị trường.
Phân tích thực trạng và chỉ rõ nguyên nhân của sự phân hóa giàu nghèo của các
HND trên các địa bàn của tỉnh KG.
Đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp để giải quyết vấn đề phân
hóa giàu nghèo đối với các HND KG.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản
xuất của các HND trong nền KTTT. Những quan hệ này là nguyên nhân dẫn tới sự phân
hóa, do đó giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo, thực chất là điều chỉnh các quan hệ
kinh tế để phát triển lực lượng sản xuất của HND nghèo. Luận văn đi sâu phân tích các
HND nghèo đói, từ đó, đề ra phương hướng và giải pháp về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu:
Vấn đề phân hóa giàu nghèo được tiếp cận từ góc độ kinh tế - chính trị. Về thời
gian, luận văn nghiên cứu sự phân hóa chủ yếu từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị, khi HND trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nền sản xuất hàng hóa (từ 1990
đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, trên cơ sở phương
pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử; trong quá trình nghiên cứu,
luận văn còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như thống kê điều tra xã hội học, lập
bảng biểu, so sánh, phân tích, tổng hợp v.v...
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những cơ sở lý luận và thực tiễn của sự phân hóa giàu
nghèo của các HND, phân tích thực trạng PHGN HND trên địa bàn tỉnh KG từ khi
chuyển sang cơ chế thị trường và chỉ rõ các nguyên nhân đã dẫn tới sự phân hóa đó; trên
cơ sở đó, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp từ góc độ kinh tế - chính
trị nhằm góp phần hạn chế mặt tiêu cực của sự phân hóa giàu nghèo đối với các HND ở
địa phương hiện nay. Với những mức độ đó, luận văn có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo trong việc giảng dạy, hoạch định chính sách đối với hộ nông dân ở tỉnh Kiên
Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3
chương 6 tiết. Ngoài ra, luận văn còn có thêm phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn
của phân hóa giàu nghèo hộ nông dân
trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa
1.1. Phát triển kinh tế hàng hóa tất yếu dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo của
Hộ nông dân với tư cách là đơn vị sản xuất tự chủ
1.1.1. Hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân
Trong tiếng Việt, hộ là một danh từ được dùng để chỉ gia đình - được coi như
một đơn vị xã hội trong các quan hệ với chính quyền, có liên quan đến tài sản, tư liệu
lao động, nhân khẩu [38, 385]. Chính vì vậy mà người ta thường gộp chung hộ và gia
đình. Tiêu biểu là cách sử dụng thuật ngữ kép "hộ gia đình" trong khẩu ngữ.
Tuy vậy, giữa hộ và gia đình có điểm phân biệt. Cụ thể: gia đình là một nhóm
người có quan hệ hôn nhân hoặc huyết tộc. Nó cũng là một loại hộ cơ bản và chứa đựng
nhiều yếu tố để hình thành hộ. Song điều mà chúng ta chú ý là mối quan hệ giữa các
thành viên của hộ không đơn thuần chỉ là huyết thống.
Trên thế giới và ở nước ta đã có nhiều quan niệm về hộ. Theo Liên Hợp Quốc
(UN), "Hộ là những người cùng chung sống một mái nhà cùng ăn chung và có chung
ngân quỹ" [51, 8]. Quan niệm này nhấn mạnh đến các tiêu thức: cơ sở kinh tế và sinh
sống.
Tiếp cận khái niệm hộ từ góc độ vai trò và đặc thù của hộ, tại Hội thảo quốc tế
lần thứ 4 về quản lý nông trại (Hà Lan, 1980), nhiều đại biểu có đồng quan điểm: "Hộ là
đơn vị kinh tế cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất tiêu dùng và các loại hoạt
động xã hội khác". Hộ trong nông nghiệp, nông thôn chủ yếu là HND, gắn liền với canh
tác nông nghiệp.
Nhà khoa học Nga, AV.Traianôp (1889- 1939), cho rằng "HND là đơn vị sản xuất
rất ổn định", "HND là phương tiện tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển sản xuất nông
nghiệp". Còn hai nhà khoa học Mats Lundahl và Thommy Svensson thì nhấn mạnh: "HND
là đơn vị sản xuất rất cơ bản" [22, 15].
Từ một số quan niệm tiêu biểu của các nhà khoa học nước ngoài, ta thấy họ
cùng chung những quan điểm sau: Hộ là một đơn vị kinh tế - xã hội cơ bản, sự tồn tại
của kinh tế hộ là một khách quan, nó có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã
hội.
Các nhà khoa học nước ta cũng đã đưa ra nhiều quan niệm về hộ. Có tác giả
cho rằng: "Hộ là một nhóm người cùng huyết tộc hay không cùng huyết tộc, cùng chung
sống hay không cùng chung trong một mái nhà. Họ có cùng nguồn thu nhập, cùng ăn
chung, cùng tiến hành sản xuất chung" [20, 29]. Một tác giả khác nhấn mạnh tới các tiêu
thức: "HND là đơn vị kinh tế mà các thành viên của nó sống chung với nhau trong một
mái nhà, liên hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống, có chung thu nhập, trong đó có thu
nhập từ nông nghiệp do lao động sử dụng đất đai đem lại. Trong nền kinh tế hàng hóa,
HND là một đơn vị kinh tế độc lập - tự chủ... trong mọi loại hoạt động sản xuất kinh
doanh nông nghiệp" [29, 8]. Có tác giả nhấn mạnh đến hoạt động kinh tế cho rằng,
"HND là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông nghiệp hoạt động theo cơ chế thị
trường". Một tác giả khác xuất phát từ các tổng kết về mặt lịch sử cũng như thực tiễn, lại
cho rằng: "Quan điểm coi HND là đơn vị sản xuất tự chủ là hoàn toàn đúng đắn về lý
luận cũng như thực tiễn"... [22, 14].
Để có nhận thức đầy đủ về hộ và kinh tế HND ở nước ta hiện nay, cần tìm hiểu
những đặc điểm của kinh tế HND ở các nước kinh tế đang phát triển. Chúng tôi đồng
tình với quan điểm cho rằng, ngoại trừ một số nước phát triển, các HND ở khu vực các
nước đang phát triển "có mức thu nhập thấp nhất so với các nhóm hộ khác trong xã hội"
[22, 16]. Các HND là các nhà sản xuất nhỏ, quy mô ruộng đất của nhiều hộ chỉ cho
phép sản xuất ra một lượng sản phẩm đủ nuôi sống các thành viên, tỷ trọng nông phẩm
là hàng hóa còn thấp.
Các HND có số thu lợi nhuận thấp, phần lớn sản phẩm của họ làm ra khi bán ra
chỉ vừa đủ để trang trải chi phí sản xuất. Vì vậy mức độ tích lũy để mở rộng sản xuất hầu
như không đáng kể. Các HND thường sản xuất độc canh trên diện tích sản xuất nhỏ, thời
gian lao động của họ chưa được tận dụng tối đa, không có thu nhập thêm nếu không tạo ra
được việc làm tại chỗ.
Cơ cấu kinh tế HND khá đa dạng theo nhiều nghề khác nhau. Tổ chức phân
công lao động trong hộ có khả năng linh hoạt, vừa chuyên môn lại vừa có khả năng theo
hướng kinh doanh tổng hợp. Kinh tế HND có tính ổn định tương đối cao và có khả năng
điều chỉnh linh hoạt phương hướng sản xuất theo mùa vụ, ngành nghề cho phù hợp với
thời tiết và nhu cầu của xã hội. Mặt khác, tính khép kín chu trình sản xuất (từ sản xuất,
chế biến đến tiêu thụ) lại cho phép HND có tính ổn định tương đối trước những diễn
biến bất thường của mùa vụ hay thị trường.
Tính độc lập của kinh tế HND tương đối cao, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ
bé, vốn liếng hạn hẹp, trình độ sản xuất còn thấp cũng là những nhân tố khiến cho HND
gặp nhiều khó khăn trong ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ nên không có khả năng
chuyển hướng sản xuất trước những tác động của thiên tai hay biến động của thị trường.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự PHGN của đối tượng HND mà ở
các nhóm xã hội khác không có.
Gắn với nông nghiệp và nông thôn, kinh tế HND còn mang trong nó nhiều đặc
điểm kinh tế - xã hội, văn hóa của cộng đồng nông thôn được hình thành trong lịch sử.
Với nhiều quốc gia, trong đó có nước ta, những đặc điểm này vừa mang lại những thuận
lợi (chẳng hạn, làng nghề truyền thống, văn hóa truyền thống, những tục lệ tốt đẹp trong
kinh doanh...), và cũng gây ra không ít những trở ngại trên con đường phát triển kinh tế
hộ (chẳng hạn, tính chất cô lập của phường hội, những hủ tục, quan niệm lạc hậu trong
sản xuất...).
Từ những ý kiến trên đây và từ thực tiễn có thể rút ra một số kết luận về hộ và
kinh tế HND ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường như sau:
Một là, HND và kinh tế HND là hai khái niệm phân biệt, song HND và kinh tế
HND có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ và quy định lẫn nhau. Đặc biệt là trong điều kiện
sản xuất hàng hóa hiện nay, nhiều khi sự hình thành HND là bắt nguồn từ nhu cầu phát
triển kinh tế và mặt khác, chính hoạt động sản xuất kinh doanh của HND lại làm cho
HND phân biệt với các đơn vị sản xuất khác trong một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. HND và kinh tế HND có mối quan hệ chặt chẽ, và trên thực tế, đã có nhiều
trường hợp, hai yếu tố này đóng vai trò là tiền đề và điều kiện cho nhau phát triển.
Hai là, HND là đơn vị kinh tế xã hội ở nông thôn, có thể sản xuất kinh doanh
độc lập hoặc tham gia các hình thức hợp tác liên doanh, liên kết sản xuất nhằm phát
triển kinh tế hộ. Hoạt động kinh tế của HND mang tính độc lập, tự chủ trong quá trình
sản xuất, có khả năng linh hoạt, cơ động cao trong việc vạch hướng hay chuyển hướng
kinh doanh, có thể tự hình thành những cơ cấu sản xuất phù hợp với mùa vụ và nhu cầu
của kinh tế thị trường.
Tính năng động, tự chủ của HND trong sản xuất có thể ở hai trạng thái: nó có
thể là một tác nhân thúc đẩy sự năng động nhằm kịp thời đáp ứng và hòa nhập vào
KTTT. Mặt khác, nó cũng có thể "tự chọn" một hướng vận động được coi như một bước
lùi trong sản xuất: HND rất có thể tạm bằng lòng với phương thức khép kín tự cung, tự cấp.
Với đặc thù đó, HND có thể là một yếu tố quan trọng trong quá trình khai thác những tiềm
năng của nông nghiệp, nông thôn để tạo ra sức sản xuất mới góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội. Ngoài ra, cũng chính từ đặc thù này, HND có thể tiềm tàng một khả năng
kìm hãm quá trình vận động phát triển của kinh tế HND từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn. Với quy mô sản xuất thường là nhỏ, vốn cho tái sản xuất mở rộng không nhiều, năng
suất lao động thấp, năng lực sản xuất hàng hóa còn thấp, cho nên nhiều HND ít có khả năng
cạnh tranh bình đẳng trong nền kinh tế thị trường. Cũng từ đây, nếu không có sự can thiệp
của Nhà nước thì sự PHGN sẽ diễn biến theo chiều hướng xấu: chỉ có một thiểu số hộ
giàu lên còn đại đa số thì nghèo đi, thậm chí bị bần cùng. Để hạn chế tác động phân hóa
dẫn tới sự phá sản một bộ phận lớn HND, đòi hỏi xuất hiện các hình thức kinh tế hợp tác,
liên doanh, liên kết để bảo vệ kinh tế HND.
Ba là, kinh tế HND bao gồm toàn bộ tư liệu tiêu dùng bảo đảm cuộc sống các
thành viên trong gia đình và những tư liệu sản xuất hoặc vốn bằng tiền mà các thành
viên trong hộ sử dụng để đem lại thu nhập, trong đó có thu nhập từ hoạt động kinh
doanh nông nghiệp.
Từ những phân tích trên chúng tôi quan niệm kinh tế HND là một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế quốc dân, sự phát triển hay trì trệ của nó có tính quy định
với quá trình PHGN của các HND. Với nhiều quốc gia đang phát triển có nền kinh tế
mà nông nghiệp còn đang đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân, "hình ảnh" HND
làm ăn phát đạt có thể được xem là hình mẫu tiêu biểu cho quá trình chống những hậu
quả tiêu cực của quá trình PHGN trong xã hội
1.1.2. Sự phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân trong phát triển kinh tế
hàng hóa
1.1.2.1. Về phân hóa giàu nghèo
Để làm rõ PHGN phải bắt đầu từ các khái niệm giàu, nghèo, phân hóa. Theo Từ
điển tiếng Việt, giàu là khái niệm dùng để chỉ tình trạng "có nhiều tiền của, có tài sản
lớn hơn mức bình thường" [38, 380]; còn nghèo "là tình trạng không có hoặc có rất ít
những gì thuộc yêu cầu tối thiểu của đời sống vật chất", là trái với giàu [38, 653]; phân
hóa là "chuyển một khối thành các phần đối lập nhau", khác hẳn nhau [38, 633].
Thu nhập, tài sản, vốn liếng và chi tiêu là những yếu tố cấu thành giàu và nghèo
của mỗi cá nhân và hộ gia đình. Trong đó, thu nhập là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì nó
sẽ quyết định mức độ, cơ cấu của tài sản, vốn liếng và chi tiêu. Như vậy, giữa giàu và
nghèo tồn tại một khoảng cách chênh lệch về độ lớn của các yếu tố cấu thành theo
hướng đối lập nhau giữa cao và thấp, giữa nhiều và ít... ở các nước TBCN phát triển
người ta cho rằng, thu nhập bình quân đầu người của xã hội là đường ranh giới giữa
giàu và nghèo. Nếu cá nhân hộ gia đình nào có mức thu nhập cao hơn thu nhập bình
quân của xã hội thì được xếp vào lớp giàu, ngược lại thì xếp vào lớp nghèo [21, 25].
PHGN đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Nó được coi là một xu
hướng vận động xã hội, trong những điều kiện lịch sử nhất định, là một trong những
nguyên nhân cơ bản để dẫn tới phân chia giai cấp, là một hệ quả tất yếu do sự tác động
của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa.
PHGN là một hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện trong quá trình tan rã của
các công xã nguyên thủy. Trong điều kiện kinh tế tự cung tự cấp PHGN diễn ra trong
phạm vi từng cộng đồng với mức độ hạn chế, sự cách biệt chưa lớn. Song trên phạm vi
toàn xã hội, PHGN thường gắn liền với bạo lực và với quyền uy. Trong nền sản xuất
hàng hóa, sản xuất và đời sống của mỗi cá nhân và hộ gia đình trong xã hội là khác
nhau. Điều đó do "sự không ngang nhau về năng khiếu cá nhân" [25, 479], do có sự
khác biệt về thể chất, năng lực, điều kiện sản xuất.... Dưới tác động của các quy luật
kinh tế, họ tham gia vào quá trình phân công lao động xã hội khác nhau nên có mức thu
nhập khác nhau, mức độ giàu nghèo cũng khác nhau. Từ đó, quá trình PHGN đã diễn ra.
Như vậy PHGN gắn liền với điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi địa
phương, dân tộc, quốc gia trong quá trình tồn tại và phát triển. Nó phản ánh một quan hệ
bất bình đẳng giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất, tham gia vào phân
công lao động xã hội, trong phân phối sản phẩm, thu nhập... Vì vậy, PHGN còn là một
phạm trù nghiên cứu của môn kinh tế - chính trị.
Từ đó có thể định nghĩa PHGN là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng kinh tế- xã
hội, trong đó diễn ra quá trình chuyển các cá nhân và hộ gia đình thành các tầng lớp
khác hẳn nhau theo chuẩn mực giàu nghèo.
Phân tầng xã hội và PHGN đã được nhiều tác giả kinh điển mácxít nghiên cứu.
Theo C. Mác (1818-1883) cơ sở của vấn đề này là: "Tư liệu sản xuất, hay quyền sở hữu
tài sản là nhân tố đóng vai trò quyết định trong phân chia xã hội thành các giai cấp và
tầng lớp". Và C.Mác chỉ rõ: "Chính quan hệ chiếm hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở, là
cái quyết định quan hệ phân phối để từ đó nảy sinh sự khác biệt về thu nhập", dẫn tới
PHGN [16, 11].
Cũng từ quan niệm duy vật lịch sử, V.I. Lênin (1870-1924) chỉ ra: "Sự khác
nhau về địa vị trong một hệ thống sản xuất xã hội là khác nhau về quyền sở hữu tư liệu
sản xuất và về vai trò trong tổ chức lao động cũng như về cách hưởng thụ và chiếm đoạt
lao động, đó là những yếu tố chi phối sự phân hóa xã hội" [16, 15].
Về PHGN, nhiều tác giả khác cũng đã đề cập tới vấn đề này. Nhà xã hội học
Max Weber (1864-1920) có cách tiếp cận khác khi nghiên cứu cơ sở của sự PHGN.
Theo ông: "Phân công lao động xã hội, quyền lực và uy tín của mỗi cá nhân đều có ảnh
hưởng tới PHGN". Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, hoàn cảnh giai cấp, địa vị xã
hội xét đến cùng, như một nhận xét của ông, cũng là "hoàn cảnh thị trường" [16, 17].
KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Trong KTTT, lợi nhuận
là mục tiêu và động lực của hoạt động kinh tế. Nó đòi hỏi mọi chủ thể của các thành
phần kinh tế phải tích cực suy nghĩ, tính toán, tổ chức sản xuất kinh doanh sao cho phù
hợp với yêu cầu thị trường. Giá cả hàng hóa - dịch vụ trên thị trường là "mệnh lệnh" đối
với người sản xuất. Tiếp cận thị trường được hay không là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến "số phận" mỗi cá nhân. Mỗi người đều có sự khác nhau về năng lực thể chất, trí tuệ,
đạo đức. Từ đó khả năng thâm nhập "hoàn cảnh thị trường" là khác nhau và dẫn đến thu
nhập, tài sản... khác nhau.
Nhờ phát huy được nhân tố con người, tận dụng được thành tựu của khoa học
công nghệ, mở rộng được thị trường kinh doanh nên KTTT đã tạo ra sự phát triển vượt
bậc của lực lượng sản xuất. Dưới sự tác động của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị,
quy luật cung cầu... chủ thể sản xuất hàng hóa phải tìm mọi cách thức để nâng cao năng
suất lao động trong đó áp dụng khoa học kỹ thuật là cốt yếu nhất. KTTT cũng tạo điều
kiện, cơ hội cho mỗi con người phát huy năng lực của mình trong sản xuất và đời sống
xã hội. Đây cũng được coi là những cơ sở khách quan cho việc giải quyết PHGN. Nhận
định về vấn đề này, có tác giả cho rằng: "Sự PHGN là hệ quả tất yếu của nền kinh tế
hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường [18, 199].
Song cũng phải nhận thấy rằng trên nền tảng của quan hệ sản xuất tư hữu không
thể giải quyết triệt để vấn đề PHGN trong xã hội. Thậm chí trong KTTT, tác động khách
quan của các quy luật kinh tế... lại làm tăng thêm sự bất bình đẳng xã hội. Bởi vì KTTT
chỉ thừa nhận những nhân tố phù hợp với nó, loại bỏ không thương xót các yếu tố không
phù hợp. Do đó, những người tài giỏi hoặc có những ưu thế vượt trội khác thì trở nên
giàu có. Ngược lại, nó cũng đẩy những cá nhân và gia đình hộ gia đình không thích ứng
được với yêu cầu của thị trường về phía đối lập. PHGN cũng diễn ra với một quy mô
lớn hơn, tốc độ nhanh hơn, mức độ giàu, nghèo, độ chênh lệch giữa giàu và nghèo cũng
trở nên cách biệt hơn.
Nền KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) cũng đã đặt ra những thách thức, trở ngại
to lớn khi giải quyết vấn đề PHGN. Đó là chế độ tư hữu TBCN về tư liệu sản xuất cùng
với mặt trái của cơ chế thị trường. Với chế độ tư hữu TBCN về tư liệu sản xuất, người
làm chủ điều hành toàn bộ quá trình sản xuất - kinh doanh và phân chia lợi nhuận là nhà
tư bản. Đồng thời, nhà nước TBCN cũng là công cụ quyền lực của giai cấp tư sản bênh
vực bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Mặt trái của cơ chế thị trường như thất nghiệp,
chạy theo lợi nhuận một cách mù quáng, ô nhiễm, tàn phá môi trường môi sinh, suy đồi
đạo đức truyền thống, thất học, bệnh tật, bất công... lại càng làm cho tình hình PHGN
sâu sắc thêm. Có tác giả cho rằng: "Trong nền kinh tế tư nhân TBCN thì phân hóa giàu
nghèo là tất yếu", "Kinh tế thị trường TBCN... không giải quyết được phân hóa giàu nghèo"
[17, 23]. KTTT có xu hướng làm cho sự PHGN trở nên ngày càng sâư sắc thêm; PHGN
được coi là sản phẩm trực tiếp của sự phát triển KTTT.
PHGN hiện đang là vấn đề kinh tế - xã hội đối với hầu khắp các nước trên thế
giới, đặc biệt là những nước đang phát triển. Cùng với hiện tượng bùng nổ dân số đô thị,
toàn cầu hóa kinh tế, PHGN cũng dường như chuyển sang giai đoạn mới. Những biểu
hiện mới của nó là: do thay đổi cơ cấu sản xuất nhanh chóng làm cho số người thất
nghiệp tăng lên ở cả nông thôn và thành thị; lao động và dân cư dịch chuyển từ nông
thôn ra thành thị, từ các vùng điều kiện kinh tế xã hội khó khăn đến vùng đất mới thuận
tiện; nạn chặt phá rừng, khai thác cạn kiệt tài nguyên môi trường, những bệnh tật hiểm
nghèo... cũng đang gia tăng theo quá trình này.
ở Việt Nam, vấn đề PHGN đã từng diễn ra trong lịch sử nhưng chưa trở thành vấn
đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng như hiện nay. Những năm trước đổi mới, trong cơ chế
quản lý kinh tế tập trung bao cấp, ở nước ta tuy vẫn có sự chênh lệch về thu nhập, tài
sản, chi tiêu giữa các cá nhân và hộ gia đình nhưng không lớn. Bởi vì, khi mà "có tới
70% dân số nghèo" [49, 3] ở cả nông thôn và thành thị thì hiện tượng này cũng có thể
được coi là kết quả của việc lực lượng sản xuất kém phát triển và chế độ phân phối theo
lối "bình quân, cào bằng".
Từ khi cả nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, một trong những thành tựu nổi bật
của công cuộc đổi mới là sự phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nhờ khai
thác giải phóng sức sản xuất của kinh tế HND mà năng suất, sản lượng lương thực liên
tục tăng lên. Hơn mười năm qua Việt Nam luôn là nước xuất khẩu gạo có thứ hạng cao
trên thế giới.
Kinh tế nông nghiệp và nông thôn có những bước phát triển to lớn. Nếu lấy
mức tăng giá trị sản lượng nông sản giai đoạn 1976-1980 chỉ đạt 1,7%/ năm, thì giai
đoạn 1991-1997 đạt bình quân 4,5%/năm. Sản lượng lương thực năm 1991 là 21,5 triệu
tấn. Đến năm 1997 là 30,5 triệu tấn. Năm 1999 giá trị sản xuất nông nghiệp tăng so với
năm 1998 là 5,2-5,5%. Sản lượng lương thực ước khoảng 33,8 triệu tấn.
Thu nhập của nông dân ngày càng nâng cao. Năm 1995 so với năm 1990 thu
nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng 22,2%, năm 1996 so với năm 1995 là 8,9%.
GDP bình quân đầu người năm 1999 cả nông thôn và thành thị tăng 1,7 lần so với năm
1990.
Được hưởng thành tựu của công cuộc đổi mới sản xuất và đời sống của nhiều
HND được nâng lên rõ rệt. Nhận định tình hình này, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII viết: "Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm"
[48, 59]. Nhiều cơ sở vật chất hạ tầng ở cả nông thôn và thành thị được nâng cấp và xây
dựng mới. Cùng với thành tựu khác trong công cuộc đổi mới đã làm cho "lòng tin của nhân
dân vào chế độ, vào tiền đồ của đất nước, vào đảng và Nhà nước được nâng lên" [48, 60].
Song cơ chế kinh tế mới cũng bắt đầu làm nảy sinh hiện tượng PHGN với một
tốc độ nhanh hơn. Một bộ phận nông dân giàu lên khá nhanh, trong khi đó, một bộ phận
nông dân khác do nhiều nguyên nhân, đã nghèo đi. "Cái giàu và cái nghèo là hai cực đã
và đang tồn tại ở các vùng nông thôn Việt Nam" [30, 16].
Khoảng cách giàu - nghèo của Việt Nam đã thay đổi trong những năm gần đây:
1994 là 6,48 lần; 1995 là 6,99 lần; 1996 là 7,31 lần và năm 1998 là 11,3 lần. Khoảng
cách này ngày càng tăng cả về tốc độ và quy mô ở những địa phương có kinh tế hàng
hóa năng động phát triển. Đối với các hộ thuộc nhóm nghèo tốc độ tăng thu nhập chậm
hơn so với nhóm giàu.
Mức thu nhập của hộ giàu cũng tăng lên. Nếu mức thu nhập bình quân theo
đầu người/ tháng, ở hộ giàu năm 1989 là 56.441đ, tương đương 75,4 kg gạo, thì năm
1991 các chỉ tiêu tương ứng là 138.000đ và 81,5 kg gạo. Năm 1992 ở 9 tỉnh trọng điểm là
173.000đ và 8 tỉnh phụ điểm là 227.000đ, tương đương 87,7 kg gạo [6, 49]. Hiện nay,
với quy mô hộ trung bình ở nước ta là 4,97 người/hộ, nếu lấy tiêu chí hộ giàu là HND
sản xuất giỏi có thu nhập (m) từ 20 triệu đồng năm trở lên [32], thì riêng thu nhập (m) là
335.345đ/người/tháng, tương ứng 95,5 kg gạo. Trong khi đó, mức thu nhập (v + m) của
hộ nghèo ở các thời điểm tương ứng là 10,33 kg và 13,2 kg. Giai đoạn 1997-2000 thu
nhập của hộ nghèo là 15 kg gạo. "Do vậy, đây cũng là vấn đề đặt ra khi giải quyết xóa đói,
giảm nghèo của Việt Nam" [27, 51].
Trong những khoảng thời gian nhất định, tỷ lệ số hộ giàu và số hộ nghèo mức
chênh lệch cũng khá lớn. Năm 1984 số hộ giàu trong nông thôn chiếm tỷ lệ 8,08% số
hộ. Năm 1991 tỷ lệ đó là 9,7% và năm 1992 số hộ giàu trong nông thôn chiếm tỷ lệ
khoảng 20%, tỷ lệ hộ nghèo 10-25%, tỷ lệ hộ trung bình khoảng 50-60%.
Hiện nay, sự chênh lệch giàu - nghèo của các HND nước ta là khá lớn. Nếu so
sánh theo tiêu thức: thu nhập bình quân của 20% số hộ nghèo nhất với 20% số hộ giàu
nhất thì bội số chênh lệch trung bình là 7 đến 8 lần. Còn nếu so sánh theo tiêu thức thu
nhập của hộ giàu nhất và hộ nghèo nhất trong cùng một thời điểm, ở trên cùng một địa
phương, như ở Nam Bộ là hàng trăm lần.
Chúng ta có thể tham khảo mức chênh lệch về thu nhập giữa các hộ ở nông thôn
các vùng trong cả nước ở bảng 1:
Bảng 1
So sánh tỷ lệ hộ giàu và hộ nghèo và mức phân tầng trong cả nước
Vùng
Thu nhập
(1.000đ)
Tỷ lệ hộ
nghèo %
Tỷ lệ hộ
giàu %
Mức phân
tầng (lần)
Chung cả nước 68-94 12,5-23,1 1,5 5,5
Vùng núi Bắc Bộ 50-71 11,0-31,0 0,8 4,8
Đồng bằng trung du Bắc
Bộ
71-93 10,7-17,0 1,3 5,31
Duyên hải Bắc Trung Bộ 60-91 15,2-32,9 2,0 6,42
Tây Nguyên 55-74 14,4-26,5 1,3 7,07
Đông Nam Bộ 80-13,8 18,7-23,7 4,6 7,69
Đồng bằng sông Cửu
Long
83,19,3 11,3-17,8 2,7 7,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 1996.
Trong giai đoạn từ 1990 lại đây, khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa hộ
giàu và nghèo vẫn không ngừng tăng lên. Theo công bố
của Ban chỉ đạo điều tra mức sống dân cư Trung ương về mức sống hộ gia đình Việt
Nam thời kỳ 1997-1998, khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo thời kỳ này đã lên tới 11,3
lần. Nhiều tài liệu khác cũng khẳng định xu hướng này [13, 136-138].
Từ những cứ liệu trên, chúng ta có thể nhận xét: PHGN của các HND đã trở
nên phổ biến và khá sâu sắc, phản ánh tính hai mặt trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội ở nông thôn.
Về mặt kinh tế, có thể coi mặt tích cực của PHGN là làm biến đổi về chất các
yếu tố của lực lượng sản xuất. Nhờ đó các HND đạt được hiệu quả sản xuất - kinh
doanh ngày một tăng, kỹ thuật - công nghệ và các tri thức khoa học cũng như kinh
nghiệm tổ chức quản lý ngày càng phổ biến, nâng cao. Thu nhập của các hộ ngày càng
cao hơn, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện. Những dịch vụ về
chăm sóc y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội, sử dụng nước sạch mà các HND được hưởng
theo hướng đô thị hóa. Điều đó làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn, thu hẹp
khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, phân công lao động ngày càng phát
triển; nhiều tiềm năng, lợi thế được khai thác, giải phóng; cơ cấu kinh tế dần dịch
chuyển theo hướng hiện đại.
Cần lưu ý rằng, ở nông thôn nước ta, HND giàu không phải là do chiếm dụng
ruộng đất, bóc lột địa tô mà chủ yếu là do biết cách tổ chức sản xuất, có thuê lao động,
thậm chí cả lao động trí tuệ bậc cao như kỹ sư, nhưng "quan hệ chủ - thợ" ở đây là quan
hệ "sòng phẳng", bình đẳng theo luật pháp quy định, tạo công ăn việc làm cho người lao
động. Bởi vậy, sự tăng số hộ giàu và mức độ giàu trong nông nghiệp, nông thôn là một
hiện tượng, về cơ bản có thể coi là tiến bộ, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội.
HND giàu có thực sự là một nhân tố mới, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong nông nghiệp, nông thôn mà chúng ta cần ủng hộ,
nghiên cứu và phổ biến kinh nghiệm.
Mặt tiêu cực của PHGN của các HND, làm cho một bộ phận HND mất dần khả
năng và cơ hội bình đẳng với các chủ thể khác trên thị trường. Họ không tự vươn lên
được theo quỹ đạo của cơ chế thị trường. Vì nhiều lý do khách quan - chủ quan, họ phải
cầm cố hết các tư liệu sản xuất, buộc phải đi làm thuê, làm mướn kiếm sống hàng ngày.
Bộ phận dân cư này thường gắn với những điều kiện sống tối thiểu: thu nhập thấp, nhà
cửa tạm bợ, lụp xụp, con đông, thất học, không điện và nước sạch... Đây cũng là những
đối tượng thường xuyên phải cứu trợ giúp đỡ của cộng đồng và xã hội. Rõ ràng, nghèo
đói, lạc hậu trong nông nghiệp, nông thôn đang là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và
Nhà nước ta trong sự nghiệp CNH, HĐH cũng như quá trình hội nhập với khu vực và
quốc tế.
Mặt khác, cũng phải thừa nhận rằng việc xuất hiện ngày càng nhiều hộ giàu,
người giàu bằng các hoạt động phi pháp thì công bằng xã hội, lành mạnh xã hội cũng là
những vấn đề nhức nhối. Không ít tiêu cực gắn với hộ giàu, cách làm giàu như buôn lậu,
ăn cắp, cho vay nặng lãi, coi thường người nghèo v.v... Còn hộ nghèo thì bất lực, an phận,
buông xuôi, trông chờ, thậm chí còn sa vào rượu chè, cờ bạc và các tệ nạn xã hội khác.
Nổi bật là những hệ quả xã hội: "phân hóa giàu nghèo tạo nên sự bất công bằng xã hội
dẫn đến sự tha hóa con người, môi trường sinh thái mất cân bằng..." [35, 296].
Như vậy, PHGN của các HND nước ta là hiện tượng kinh tế-xã hội trong đó
diễn ra quá trình chuyển các HND thành các tầng lớp khác hẳn nhau theo chuẩn mực
giàu nghèo.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây có thể rút ra một số kết luận:
Thứ nhất: PHGN là một hệ quả tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trường.
PHGN có liên quan đến tính giai đoạn của KTTT và thay đổi các hình thức tổ chức kinh
tế như: kinh tế hộ, kinh tế cổ phần, kinh tế tư bản tư nhân. Thực tế cho thấy từ thể chế
kinh tế cũ sang thể chế kinh tế mới, từ kinh tế thị trường sơ khai sang kinh tế thị trường
hoàn thiện, cứ sau mỗi bước chuyển như thế, PHGN diễn ra với các mức độ khác nhau.
Điều tương tự cũng diễn ra khi từ kinh tế HND cá thể sang kinh tế hợp tác kiểu cũ, rồi
sang kinh tế HND tự chủ, kinh tế HND trong các hình thức hợp tác mới... Chính các
giai đoạn phát triển của KTTT vừa đặt ra những vấn đề mới, vừa tạo ra những tiền đề
cho việc giải quyết vấn đề PHGN.
Thứ hai: Sự tác động của các nhân tố kinh tế - chính trị - xã hội là nguyên nhân
dẫn đến PHGN. Bởi vậy, chính sách kinh tế xã hội của mỗi quốc gia là một tác nhân
tích cực trong việc khắc phục những hạn chế của PHGN. Phát triển nền kinh tế theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là yếu tố có tính đặc
thù của quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam và là tiền đề kinh tế - chính trị
- xã hội rất quan trọng cho việc giải quyết vấn đề PHGN của HND nước ta.
Thứ ba: Sự khác biệt về năng lực thể chất trí lực, điều kiện hoàn cảnh kinh tế xã
hội của mỗi cá nhân hộ gia đình trong xã hội là rất khác nhau. Cho nên, sự thích nghi
và không thích nghi, thành đạt và không thành đạt, cơ hội và thách thức... không chia
đều cho tất cả mọi cá nhân và hộ gia đình. Từ đó, giải quyết vấn đề PHGN chủ yếu là
tạo cơ hội thích nghi với cơ chế thị trường cho bộ phận dân cư chưa thành đạt.
1.1.2.2. Tiêu chí phân loại giàu nghèo
Hiện chưa có một tiêu chí riêng để đánh giá giàu - nghèo của các HND. Các
tiêu chí thường thấy là để dùng cho các đối tượng xã hội như cá nhân và hộ gia đình nói
chung. Bởi vậy khi đánh giá vấn đề này, chúng tôi sử dụng tiêu chí chung ấy và, sẽ có
một số điều chỉnh, bổ sung. Trong phần đầu, chúng tôi đã trình bày khái niệm giàu
nghèo chủ yếu dưới góc độ định tính. ở đây ta phải làm rõ cả phần định lượng nữa. Tuy
nhiên, giàu - nghèo là những khái niệm mang tính chất tương đối. Bởi vậy, việc xác định
mức độ giàu - nghèo và ranh giới giữa chúng trở nên khó thống nhất giữa các vùng và
các quốc gia trên thế giới. Ngay mỗi quốc gia chuẩn mực này trong từng thời điểm, từng
vùng cũng khác nhau. Liên Hợp Quốc đã đề ra không những chỉ tiêu tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) mà còn phải đề ra cả chỉ số phát triển con người (HDI) để đánh giá mức
độ giàu - nghèo.
Thông thường người ta sử dụng các tiêu chí để đánh giá giàu nghèo như: thu
nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt gia đình, chi tiêu, hưởng thụ văn hóa... Nhưng tiêu chí
thu nhập về kinh tế (thông qua v + m) và nhà ở cùng các tiện nghi sinh hoạt được xem
là quan trọng nhất. Hai tiêu chí này phản ánh trực tiếp mức sống của các cá nhân và hộ
gia đình. Ngoài ra, còn có tiêu chí tư liệu sản xuất và vốn liếng để dành cũng có ý nghĩa
không nhỏ. Như đã phân tích ở trên, thường những cá nhân và hộ gia đình rơi vào hoàn
cảnh nghèo đói chẳng hạn, thì thu nhập hết sức ít ỏi, nhà ở tạm bợ, nghèo nàn cũ kỹ, tư
liệu sản xuất và vốn liếng hầu như không có gì. Nhưng với hộ giàu thì những tiêu chí đó
có sự cách biệt ngược lại tương ứng rất rõ nét.
Để có đơn vị thống nhất, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nước ta đã quy
định lấy mức thu nhập bình quân đầu người/tháng được quy ra gạo và tiền tương ứng...
thu nhập bằng tiền quy ra gạo là dựa trên cơ sở mức chi tiêu lương thực, thực phẩm bảo
đảm khẩu phần ăn duy trì nhiệt lượng tiêu dùng cho một người, một ngày là 2.100 calo.
Căn cứ vào thu nhập, có thể chia các HND thành các mức độ tương ứng với các khái
niệm: nghèo tương đối; nghèo tuyệt đối; thiếu đói; đói gay gắt; trung lưu; giàu... [26, 7].
Sự phân loại giàu nghèo ở nông thôn Việt Nam trong cải cách ruộng đất trước đây
thường căn cứ vào số ruộng đất, trâu bò, tư liệu sản xuất. Do đó, "xét về cơ cấu sản xuất
thì trong giai cấp nông dân có các tầng lớp phú nông, trung nông, bần nông, cố nông"
[1, 187] là phù hợp. Trong điều kiện chuyển sang nền KTTT thì tiêu chí thu nhập bằng
tiền đang nổi lên để xác định chuẩn mực; chẳng hạn: "Thu nhập bình quân đầu
người/tháng ở các loại hộ" năm 1993 được phản ánh trong bảng 2.
Bảng 2
So sánh các loại hộ theo địa bàn
Loại hộ Nông thôn Thành thị
1. Hộ nghèo, trong đó: Dưới: 50.000đ Dưới: 70.000đ
Hộ rất nghèo Dưới: 30.000đ Dưới: 50.000đ
2. Hộ dưới trung bình 50-70.000đ 70-100.000đ
3. Hộ trung bình 70-125.000đ 100-175.000đ
4. Hộ trên trung bình 125-150.000 150-190.000đ
5. Hộ giàu, trong đó Trên 250.000đ Trên: 300.000đ
Rất giàu Trên 350.000đ Trên: 400.000đ
Nguồn: Điều tra tình trạng giàu nghèo ở Việt Nam năm 1997. Tổng cục Thống
kê, tháng 8/1994.
Tùy theo sự phát triển kinh tế, xã hội mà tiêu chí có sự thay đổi. Theo Thông
báo số: 1175/LĐ-TBXH, ngày 20 tháng 5 năm 1997 của Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội về việc xác định chuẩn mực hộ nghèo năm 1997-1998 và áp dụng cho đến năm
2000 thì các chuẩn mực thu nhập bình quân đầu người/tháng cụ thể như bảng 3 (phụ
lục) Như vậy tiêu chí thu nhập ở các loại hộ được nâng dần lên.
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và các chuẩn mực chung, chúng tôi đồng tình
với phương pháp phân chia các HND thành ba loại hộ với các tiêu chí cụ thể như sau:
[39]
Hộ nghèo: Bao gồm cả những hộ dưới trung bình, nghèo, nghèo khó với thu nhập
bình quân đầu người dưới 180.000đ/tháng (tương đương với các hộ loại 8, 9, 10 - theo
cách phân định của UBND tỉnh KG) [40]. Đây là những hộ có thu nhập khoảng dưới
2.000.000đ/người/năm và có các điều kiện kinh tế tài sản như: nhà ở, phương tiện đi lại,
sinh hoạt thuộc nhóm I (nhóm có số phương tiện đi lại thô sơ từ 01, số phương tiện
sinh hoạt phổ biến từ 01, nhà ở: cột chôn chân, vách lá, mái lá, nhà kê có giá trị
thấp...).
Mức thu nhập 180.000đ/người/tháng có thể xem đây là đường ranh giới nghèo
(Poverty line) của KG, áp dụng cho giai đoạn từ 1997-2000.
Hộ khá giả và trung bình: Gọi chung là hộ trung bình, bao gồm
cả những loại hộ 4-5-6-7 với thu nhập bình quân từ 2.000.000đ-5.000.000đ/người/năm
và các điều kiện như trên thuộc nhóm II (có phương tiện đi lại từ 2-3 loại phương tiện
phổ thông, có từ 3-5 loại phương tiện sinh hoạt, nhà "kê" (nhà có nền móng tốt) giá trị
cao, nhà cấp 4.
Hộ giàu: Bao gồm cả những hộ rất giàu, triệu phú, tức những hộ loại 1-2-3.
Với thu nhập bình quân đầu người năm khoảng 5.000.000đ trở lên và các điều kiện như
trên thuộc nhóm III (có từ 4 loại phương tiện đi lại trở lên; có từ 6 loại phương tiện sinh
hoạt trở lên; nhà ở kiên cố, có lầu (tầng), biệt thự.
Cũng có thể tham khảo thêm một số tiêu chí khác để nhận diện rõ hơn PHGN
của nông dân KG. Chẳng hạn, xét về thu nhập, HND đạt danh hiệu sản xuất giỏi theo
quy định của Bộ và của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn KG giai đoạn 1997-
2000 có thể xem là hộ giàu với thu nhập sau khi trừ chi phí sản xuất, từ 20 triệu
đồng/năm trở lên [32]. Nếu so sánh với mức tăng GDP bình quân đầu người từ đầu thập
kỷ 90 lại đây và giữa các địa phương trong cả nước thì tiêu chí này cũng tương đương
như cách đánh giá của một số tác giả khác [37].
Có thể nhận định rằng, nếu đối tượng HND nghèo được phân tích khảo sát
tương đối kỹ cả về định tính và định lượng, thì với những hộ giàu, vấn đề giàu ở nước ta
chưa thật được rõ, vì còn thiếu nhiều dữ kiện, số liệu chính thức. Một lý do khiến các
cuộc điều tra về hộ giàu ở ta chưa chính xác vì chưa có hình thức, biện pháp, cơ chế về
kê khai tài sản, thu thập của các cá nhân và HND.
Để xác định mức độ PHGN, người ta thường sử dụng hai phương pháp. Một là,
xác định tỷ lệ phần trăm của các loại hộ giàu - nghèo trong tổng số hộ khảo sát theo
những tiêu chí cụ thể của mỗi thời kỳ để đánh giá xu hướng diễn biến của sự PHGN.
Hai là, để đo sự chênh lệch giàu - nghèo trong xã hội thì tiêu chí thường được sử dụng
là thu nhập bình quân của 20% tổng số hộ có thu nhập thấp nhất so sánh với thu nhập
bình quân của 20% số hộ có thu nhập cao nhất. Từ đó, có bội số thu nhập trung bình
giữa hai nhóm. Bội số chênh lệch càng lớn thì khoảng cách giàu - nghèo càng tăng. Với
tỷ lệ này thì hệ số chênh lệch giàu nghèo có giá trị phổ biến cho các loại hộ cũng như
cho các địa phương, cộng đồng. Nếu chỉ lấy thu nhập bình quân của 5% số hộ giàu nhất
với thu nhập bình quân của 5% số hộ nghèo nhất, thì tính đại diện, phổ biến thấp hơn.
Còn nếu lấy thu nhập của hộ giàu nhất chia cho thu nhập của hộ mức nghèo nhất thì hệ
số chênh lệch đó nó chỉ mang ý nghĩa so sánh hình thức mà thôi.
1.1.2.3. Nguyên nhân của sự phân hóa giàu nghèo của HND
Xác định nguyên nhân của PHGN cũng chính là xác định nguyên nhân cơ bản
của tình trạng giàu - nghèo của các HND. Vấn đề ở đây cũng chính là việc tìm và trả lời
cho câu hỏi vì sao nghèo, vì sao giàu?
Vì sao các HND lâm vào nghèo đói ?
Những nguyên nhân của PHGN theo một số công trình nghiên cứu, có thể do
những tác động sau: do bản thân người nghèo, hộ nghèo; do điều kiện tự nhiên và môi
trường và do thể chế, chính sách lạc hậu. Các công trình đều nhất trí rằng, nghèo đói của
các HND do một phức hệ các nguyên nhân kinh tế và xã hội, khách quan và chủ quan.
Thực tiễn ở nông thôn nhiều địa phương trong cả nước cho thấy, HND nghèo
chủ yếu là những hộ thuần nông, không có nghề phụ, ở những địa bàn khó khăn về vị trí
địa lý, đất đai thổ nhưỡng cằn cỗi chật hẹp, phèn mặn, khí hậu khắc nghiệt... Mặt khác,
trong nhiều trường hợp HND trở thành người nghèo, hộ nghèo còn do thiên tai, bệnh tật
thất thường, hoặc do việc điều chỉnh đất đai bất hợp lý.
Như vậy, để xác định nguyên nhân của vấn đề này, cần xác định theo các nhóm
sau:
Nhóm 1: Là những nguyên nhân từ bản thân các cá nhân và HND, phổ biến là:
"Thiếu hoặc không có vốn; đông con, ít lao động; không đủ năng lực tổ chức sản xuất -
kinh doanh, yếu kém kỹ thuật thâm canh..; chi tiêu không kế hoạch, lãng phí, lười biếng,
rượu chè, cờ bạc..." [14, 84]. Có tác giả còn xếp vào nhóm này nguyên nhân: trình độ
văn hóa thấp [50, 44]; phong tục tập quán lạc hậu [19]; nhóm này cho thấy: nghèo đói là
do những nguyên nhân chủ quan.
Nhóm 2: Phản ánh những nguyên nhân khách quan - là những nguyên nhân được
xét từ những điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội chưa thuận lợi cho quá trình sản
xuất và đời sống của HND. Chẳng hạn, về nguyên nhân tự nhiên, có thể liệt kê như sau:
Đất canh tác ít; đất cằn cỗi, sỏi đá, phèn mặn, vị trí xa xôi hẻo lánh; thời tiết khí hậu
không thuận lợi cho sản xuất, canh tác; giao thông vận chuyển khó khăn...
Những nguyên nhân xã hội là những nguyên nhân liên quan đến chính sách cơ
chế của Nhà nước và tác động của cộng đồng đối với hộ nghèo và vấn đề nghèo đói. Ví
dụ, chính quyền trung ương, địa phương chưa xây dựng cơ sở hạ tầng: điện, đường,
trường, trạm; chưa có chính sách điều chỉnh ruộng đất hợp lý; do thiếu thị trường, giá cả
thị trường không ổn định, giá nông sản thấp khó tiêu thụ, bị ép cấp, ép giá, giá vật tư
phân bón cao; chưa có biện pháp hành chính, giáo dục thích đáng để hạn chế các tệ nạn
xã hội;... [31, 219].
Nhóm 3: Là nhóm các hộ nghèo đói do các nguyên nhân kết hợp. Các nhóm 1, 2
nêu trên là những nguyên nhân trực tiếp có tính chất chủ quan và khách quan, kết hợp
lại tạo thành ba dạng nguyên nhân gây nghèo đói. Chẳng hạn: Vì mắc các tệ nạn xã hội;
thiếu ruộng đất, do bị thu hồi điều chỉnh bớt ruộng đất; do không biết làm gì khác ngoài
nghề nông...
Gần đây, chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000
đã xác định những nguyên nhân chính và phân thành ba nhóm:
* Nhóm nguyên nhân do điều kiện tự nhiên không thuận lợi: khí hậu khắc
nghiệt, thiên tai, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao
thông khó khăn đã và đang kìm hãm sản xuất, gây ra tình trạng nghèo đói.
* Nhóm nguyên nhân do chủ quan của người nghèo: thiếu vốn, đông con, thiếu
lao động, không có việc làm, thiếu kiến thức làm ăn, mắc các tệ nạn xã hội hay lười lao
động.
* Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: thiếu hoặc không đồng bộ về
chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến
khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, lâm, ngư, chính
sách giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực
đầu tư còn hạn chế... [8, 7].
Đây là những nguyên nhân mang tính tổng hợp phổ quát cho mọi địa phương,
mọi tầng lớp xã hội, dĩ nhiên với mỗi đối tượng cụ thể, có thể có một nguyên nhân đóng
vai trò chủ đạo.
Vì sao có những HND trở nên giàu có ?
Qua khảo sát nghiên cứu, có thể thấy được những nguyên nhân cơ bản làm cho
nhiều hộ giàu lên như sau:
- Do thích ứng nhanh với cơ chế mới trong sản xuất - kinh doanh, những cá
nhân và HND biết tính toán, tổ chức điều hành, làm ăn đạt hiệu quả kinh tế cao. Họ
không chỉ làm nông nghiệp mà còn biết làm nhiều nghề khác nữa như buôn bán, dịch
vụ, làm quản lý... Thu nhập từ đó không những đủ trang trải chi dùng thường ngày trong
gia đình, mà còn dùng để mua sắm tài sản, mở rộng sản xuất và tích lũy.
- Do họ gặp được cơ hội, tranh thủ được thời cơ, thuận đạt, may mắn trong sản
xuất và cuộc sống, hoặc vốn dĩ gia đình thân nhân có điểm xuất phát đã khá giả.
- Cũng có một bộ phận nhỏ các HND giàu lên nhờ có người thân sống và làm
việc ở nước ngoài thường tài trợ. Nhờ đó mà họ có thêm điều kiện cho sản xuất kinh
doanh và tăng thêm thu nhập.
Tóm lại, quy mô, tốc độ cũng như động thái của sự PHGN giữa các HND do
nhiều nguyên nhân, chịu sự chi phối tác động của nhiều nhân tố khác nhau, có thể xếp
vào hai nhóm nhân tố chính sau đây:
* Nhóm nhân tố tự nhiên và xã hội. Đó là những nhân tố thuộc về môi trường,
và các điều kiện sinh tồn gắn với từng cá nhân và hộ gia đình trong những thời điểm lịch
sử nhất định. Theo đó, PHGN là tự nhiên, khó thay đổi vì tính nhẫn nhục, cam chịu của
các HND, như thói quen tập tục của cộng đồng" [22, 34].
* Nhóm nhân tố về chính trị - xã hội: Cơ chế chính sách là những nhân tố,
những công cụ tác động của thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở. Đó là mục tiêu
chính trị của giai cấp cầm quyền, quan điểm nhận thức, phương thức, phương pháp giải
quyết, xử lý vấn đề công bằng xã hội của hệ thống chính trị.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) của Đảng ta đã đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội coi
mục tiêu cao nhất là vì con người và do con người, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh. Chính những điều này thể hiện và quán triệt trong mọi văn
kiện chỉ đạo và thực hiện của Đảng và chính quyền các cấp. PHGN của các HND cũng
như với các đối tượng khác trong xã hội nước ta chịu tác động, chi phối của nhân tố này
cả về quy mô, mức độ, xu hướng.
1.2. phân hóa giàu nghèo của hộ nông dân và kinh nghiệm giải quyết vấn đề
này ở một số nước trong khu vực
1.2.1. Phân hóa giàu nghèo hộ nông dân ở Trung Quốc
Khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, một trong những mục tiêu mà
Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định là xóa bỏ nghèo đói, tiêu diệt áp bức bóc lột, đem
lại hạnh phúc no ấm cho nhân dân. Tuy nhiên, cho đến đầu những năm 70 của thế kỷ
XX mục tiêu đó cũng chưa đạt được. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.
Cuối năm 1978 từ công cuộc cải cách do Đảng cộng sản khởi xướng, Trung
Quốc sửa chữa được những sai lầm, từng bước xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần. Kể từ Đại hội lần thứ XIV của đảng Cộng sản Trung Quốc (1992) Trung
Quốc chính thức khẳng định mục tiêu cải cách theo cơ chế KTTT XHCN. Nhờ vậy
Trung Quốc đã giải phóng được tiềm năng kinh tế xã hội, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng
mau chóng, vượt qua khủng hoảng và đạt bước phát triển thần kỳ liên tục trong nhiều
năm gần đây.
Cuộc cải cách và mở cửa ở nông thôn đã "cởi trói" cho hàng triệu HND, tạo ra
một động lực hết sức mạnh mẽ trong phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc. Nếu sản
lượng lương thực năm 1978 là 300 triệu tấn thì đến năm 1995 là 465 triệu tấn, năm 1997
là 492,5 triệu tấn. Sản lượng thủy sản thời gian tương ứng trên cũng đã tăng từ 4 triệu
tấn lên 28 triệu tấn. Nông dân đã làm ra một khối lượng của cải to lớn và ngày càng
tăng. Thu nhập của họ theo đó cũng được nâng lên.
Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hiện tượng PHGN trong xã hội
cũng đã diễn ra, đó là sự chênh lệch về thu nhập ngày càng tăng giữa thành thị và nông
thôn: Từ 1983 đến nay thì mức độ chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị lại
mở rộng theo xu hướng chung ngày càng lớn. Năm 1983 là 1,69 lần, năm 1990 là 2,02
lần và 1997 là 2,47 lần, giữa các vùng kinh tế khu vực, giữa các ngành nghề và giữa các
cá nhân trong xã hội cũng xuất hiện những vấn đề tương tự...[16, 46].
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến phân hóa về thu nhập giữa nông thôn và thành
thị là do tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các ngành nghề
trong nông nghiệp không thể bằng trong công nghiệp hoặc dịch vụ. Có những nguyên
nhân do thể chế chính sách gây ra như tiến trình cải cách không đồng đều giữa nông
thôn và thành thị. Nếu trước 1985, Trung Quốc chú ý tập trung thực hiện trong khu vực
nông nghiệp, nông thôn thì sau đó lại tập trung ở thành thị hướng vào công nghiệp.
Khi xem xét sự chênh lệch giàu nghèo, giữa các cá nhân và hộ gia đình ở Trung
Quốc, theo tờ "Cải cách Trung Quốc" số 1-1988 thì có trên 1000 "tỉ phú", 3 triệu "triệu
phú", đồng thời cũng còn 58 triệu người nghèo khổ. Năm 1996, điều tra ở một huyện
điểm, thì trong số 441 hộ, số giàu nhất có 8 hộ, thu nhập thuần của mỗi người đạt 18.309
nhân dân tệ (NDT). Trong khi đó nghèo nhất là 89 hộ thì thu nhập thuần của mỗi người
là 385 NDT. Chênh lệch về thu nhập đầu người là 46,6 lần, về hộ là 48,8 lần [16, 58].
PHGN trong xã hội ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối, bức xúc. Vấn đề là ở
chỗ công nhân và nông dân trước đây là chỗ dựa vững chắc của cách mạng thì nay trở
thành những tầng lớp nghèo khổ nhất. Do đó, họ có thái độ phản ứng không chấp nhận tình
trạng chênh lệch quá đáng về thu nhập. Tỷ lệ chênh lệch ở công nhân là 47,51% và ở
nông dân là 41,13% [16, 62]. ở một số vùng nông thôn đã nổ ra các cuộc biểu tình,
manh động. Các phần tử quá khích nêu khẩu hiệu "Sát phú tế bần" kích động nông dân.
Xung đột xã hội có nguy cơ bộc phát.
Trước quá trình PHGN như vậy, thái độ của xã hội là rất khác nhau. Từ chỗ
nghèo nàn, đói khổ những năm 1960-1970, sản xuất và đời sống vụt biến đổi trong một
thời gian ngắn. Thay đổi về thu nhập và mức sống quá nhanh khiến không ít người rơi
vào tình trạng tâm lý mất cân bằng, nghi ngờ, phẫn uất, bất mãn. Mặc dù mức sống
được nâng cao phổ biến, nhưng đa số vẫn cho rằng mình là người nghèo, nghèo đi tương
đối. Có tới 15,11% số người được hỏi tỏ ý không thể chấp nhận sự chênh lệch này,
26,84% cho rằng khó chấp nhận. Có 41,95% số người có thái độ phản ứng, không muốn
có sự PHGN.
Như vậy, cũng có nghĩa từ trong thể chế kinh tế cũ sang thể chế kinh tế mới - đa
số các tầng lớp dân cư trong xã hội vẫn mong muốn rằng tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với công bằng và tiến bộ xã hội. đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc sớm quan
tâm chú ý đến vấn đề phân hóa nói trên và đã có nhiều chủ trương, biện pháp để khắc
phục. Về chủ trương, kế hoạch, Trung Quốc đề ra chính sách chống nghèo đói mang tên
"chênh lệch 8-7", tức là trong vòng 7 năm từ 1994, giải quyết nạn nghèo khổ cho 80
triệu người. Hội nghị Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 9.1996 đã chỉ rõ:
Dù nhiệm vụ gian khổ như thế nào, thì mục tiêu đến thế kỷ này phải giải quyết vấn đề
ăn no, mặc ấm cho những người nghèo khổ ở nông thôn nước ta cũng không được thay
đổi [16, 63].
Kinh nghiệm của Trung Quốc là: huy động vốn từ nhiều nguồn, từ nhiều hình
thức, biện pháp để xóa đói giảm nghèo. Có phân cấp, phân nhiệm rõ ràng, quản lý kiểm
tra nghiêm khắc việc thực hiện. Một mặt, Nhà nước tăng cường xây dựng cơ sở vật chất
hạ tầng cho những vùng nghèo. Mặt khác, có chính sách điều phối, phân bổ nguồn lực
hợp lý giữa các vùng để thúc đẩy sự phát triển công bằng. đồng thời tìm ra hướng giải
quyết căn bản vấn đề bằng cách vừa "tiếp máu" vừa "tạo ra máu mới" tại các địa phương
trọng điểm [16, 65].
1.2.2. Phân hóa giàu nghèo hộ nông dân ở Malaixia
Malaixia là một quốc gia đa sắc tộc ở khu vực Đông Nam á, với dân số 8,8 triệu
người (1970) trong đó người Mã Lai chiếm 50%, người Hoa chiếm 36% và người ấn Độ
chiếm 11%. Năm 1957, sau khi giành được độc lập, Malaixia có một nền nông nghiệp
lạc hậu, gồm 13 bang, chia thành hai miền Đông và Tây. Thị trường trong nước nhỏ bé
và nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào nước ngoài.
Khác với nhiều nước trong khu vực sau khi giành được độc lập dân tộc thường
phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp, Malaixia đã tập trung phát triển nông
nghiệp và nông thôn, đồng thời phát triển công nghiệp. Do điều kiện tự nhiên nên
Malaixia đã tập trung phát triển cây cọ và cây cao su làm cây trồng chủ đạo để xuất
khẩu. Bên cạnh đó công nghiệp cũng được chú trọng phát triển để thay thế hàng nhập
khẩu và từng bước hướng ngoại. Kết quả là thời kỳ 1957-1970 ngành nông nghiệp đạt
102,5% kế hoạch, còn công nghiệp đạt 167,2% kế hoạch, trong đó xuất khẩu sản phẩm
cao su chiếm tới một nửa giá trị xuất khẩu. Tuy vậy nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ
chốt trong nền kinh tế quốc dân, chiếm tới 30,78% GDP và công nghiệp chiếm tỷ trọng
12,21% GDP [36, 145].
Ngay từ giai đoạn này, bức tranh về PHGN trong xã hội Malaixia đã phong phú
đa dạng. Tình trạng nghèo khổ là hiện tượng phổ biến ở mọi địa phương trong cả nước.
Sự bất bình đẳng về thu nhập kinh tế đã dẫn tới sự bất ổn định của xã hội ở giai đoạn
này mà tiêu biểu là những va chạm sắc tộc sâu sắc ngày 13/5/1969 để lại những hậu quả
nặng nề về chính trị xã hội của đất nước.
Giai đoạn từ 1970-1990 là giai đoạn nền kinh tế của Malaixia có sự thay đổi cơ
cấu kinh tế mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, lấy xuất khẩu
làm động lực chính để phát triển nông nghiệp và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên
cạnh đó, các kế hoạch, chính sách của Nhà nước cũng hướng vào giải quyết các vấn đề
xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế. Kết quả, đây là giai đoạn Malaixia đạt
tốc độ tăng trưởng cao và trở thành một nền kinh tế mạnh trong khu vực. Bình quân thu
nhập đầu người từ 390 M$ (1970) đã lên tới 2.700 M$ (1990), gấp 7 lần trong vòng 20
năm. Nghèo đói đã giảm một cách đáng kể, tuy nhiên PHGN vẫn còn ở nhiều vùng.
Chẳng hạn khi các bang như Kuala lumpur, Fereugganu thu nhập bình quân đầu người
tăng 10 lần thì các bang Perak, Pahang, Kelantan chỉ tăng có 3 đến 3,5 lần [36, 150].
Giai đoạn từ 1991 lại nay, Chính phủ Malaixia đưa ra chiến lược phát triển kinh
tế nhằm trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Kết quả 5 năm đầu thực
hiện chiến lược "Tầm nhìn năm 2020" tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 8,6%/năm. Sự
thành công này đã nâng cao được tính hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,
khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tự do hóa hơn nữa trong môi trường đầu tư, thị
trường vốn; ổn định và tạo lập sự thống nhất và công bằng hơn về xã hội.
Nhờ thực hiện đồng bộ chính sách phát triển kinh tế - xã hội như trên - Malaixia
đã đạt được những thành tựu to lớn - GDP bình quân đầu người đạt 4022 USD (1995),
tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 2,8% (1995). Tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn 15% GDP
và vẫn đạt tốc độ tăng trưởng bình quân/năm giai đoạn này là 3,5%. Malaixia đã trở
thành nước có nền công nghiệp kỹ thuật cao, nông nghiệp phát triển trong khu vực.
Là một quốc gia đa sắc tộc, nhìn lại quá trình phát triển bốn thập niên qua dễ
nhận thấy Nhà nước Malaixia rất chú trọng đến việc giải quyết công bằng xã hội. đặc
biệt có những biện pháp mạnh như cấu trúc lại dân cư theo sắc tộc, để từ đó có chủ
trương chính sách xóa đói giảm nghèo hợp lý. Chú trọng phát triển nông nghiệp và nông
thôn, đặc biệt là những giống cây trồng để xuất khẩu. Từ năm 1986, Chính phủ đẩy
mạnh chương trình đô thị hóa nông thôn nhằm tạo ra các trung tâm tăng trưởng ở nông
thôn. Chương trình này tạo ra "hiệu ứng lan tỏa" [36, 163] góp phần to lớn vào việc xóa
đói giảm nghèo của nông dân. để xóa đói giảm nghèo, tăng trưởng và phát triển kinh tế,
Chính phủ Malaixia rất chú trọng lĩnh vực giáo dục đào tạo để phát huy nguồn nhân lực.
Kinh nghiệm có thể tóm tắt ở những điểm chính sau: Thứ nhất, kết hợp tăng trưởng kinh
tế nhanh với phân phối thu nhập công bằng. Thứ hai, chú trọng phát triển nông nghiệp,
coi phát triển nông nghiệp là khâu đột phá, là điểm đầu cầu để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và giải quyết các vấn đề xã hội khác. Thứ ba, coi giáo dục là nền tảng để tiến hành
phân phối thu nhập bình đẳng.
1.2.3. Quá trình phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân
Thái Lan
đầu những năm 50, nền kinh tế Thái Lan sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng khoảng 45%trong cơ cấu GDP. Lúc bấy giờ 85% dân cư Thái Lan sống và làm
việc ở nông thôn với thu nhập thấp như nhau. Chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và
nông thôn chưa cách biệt lắm. Năm 1954 thu nhập lương trung bình của một lao động ở
Thủ đô Bangkok là 137 baht thì ở vùng đông Bắc Thái Lan (nơi xa xôi khó khăn nhất)
là 109 baht. Nhờ quỹ đất đai khá phong phú nên vấn đề bất bình đẳng về thu nhập, xung
đột xã hội tuy có nhưng không gay gắt như ở các quốc gia khác.
Vào giai đoạn có cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, nhờ việc quân
đội Mỹ đã xây cất nhiều công trình hạ tầng cho việc đồn trú, đã tạo ra cơ hội việc làm,
cải thiện thu nhập cho thành phố Bangkok và các vùng phụ cận. Do đó tạo ra một cách
biệt về sự phát triển giữa thủ đô và các vùng còn lại của đất nước, nhất là đông Bắc.
Nông dân ở vùng Trung và Nam Thái Lan có điều kiện tự nhiên khí hậu thuận lợi cho
việc canh tác nông nghiệp, lại được sự hỗ trợ của Nhà nước nên đã tận dụng được lợi
thế này. Sản xuất nông nghiệp của Thái Lan nhờ đó phát triển mạnh mẽ, đưa sản lượng
lương thực, gạo xuất khẩu đứng đầu trên thế giới đã nhiều năm qua. đời sống của nông
dân nhờ thế được cải thiện rõ rệt. Trong khi đó, điều kiện tự nhiên, khí hậu ở vùng phía
Bắc, nhất là đông Bắc Thái Lan lại khó khăn hơn nhiều. Sản xuất và đời sống của nông
dân vùng này chậm phát triển. Chênh lệch về thu nhập và mức sống của nông dân trên
cùng một vùng, giữa các vùng và giữa nông thôn và thành thị là khá rõ. Năm 1988 trên
quy mô cả nước tỷ lệ người nghèo khổ ở vùng nông thôn lên tới 26,3% dân số.
Nếu lấy chuẩn nghèo khó ở thành thị là 5.834 baht/người/năm
(23 bath = 1USD) thì ở nông thôn chỉ có 3.823 baht/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo khổ ở
thủ đô là 3,5% còn ở nông thôn vùng xa là 35,8%, điều đó phản ánh mức độ chênh lệch
quá lớn giữa nông thôn mà chủ yếu là nông dân với thành thị với các tầng lớp dân cư
khác.
Đầu những năm 90 lại đây, kinh tế Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng khá. Thu
nhập bình quân đầu người tăng từ 21.000 baht (1986) lên 41.000 baht (1991); tạo ra hàng
trăm ngàn chỗ làm việc, tỷ lệ thất nghiệp còn 0,6% năm 1991 [36, 181]. Tuy vậy, tình
trạng khác biệt về thu nhập giữa các cá nhân và hộ gia đình trong xã hội Thái Lan lại
tăng lên đến "mức báo động", đặc biệt là giữa nông thôn và thành thị. Lao động trong
nông nghiệp vẫn luôn là nhóm có thu nhập thấp nhất trong xã hội, thu nhập chỉ bằng
một nửa mức thu nhập bình quân của xã hội. Ngay cả người lao động làm thuê, nặng
nhọc trong các nghề dịch vụ dân sự vẫn có thu nhập cao hơn lao động nông nghiệp.
để giải quyết vấn đề PHGN, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, Chính
phủ Thái Lan tập trung vào một số chủ trương chính sách sau: cải cách ruộng đất, giao
quyền sử dụng đất trong nông nghiệp nhằm tạo ra sự bình đẳng xã hội trong nông thôn.
Bên cạnh đó, là chính sách phát triển công nghiệp nông thôn, chính sách khuyến khích
đầu tư khu vực, phi tập trung hóa nhằm tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nông dân,
nông thôn. đồng thời, thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực, chăm sóc y tế cho
cộng đồng những người có thu nhập thấp, đặc biệt là nông dân.
Qua thực tiễn và kinh nghiệm giải quyết vấn đề PHGN của các nước xung
quanh, cho thấy, PHGN không phải là hiện tượng kinh tế- xã hội đơn lẻ mà phổ biến
cho tất cả các nước trong quá trình phát triển. đó là vấn đề mà Chính phủ các nước khi
bắt tay xây dựng đất nước phải đối mặt giải quyết. Có điểm chung là tình hình nghèo
đói, PHGN khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa các địa phương trong khu vực, giữa
các ngành nghề của các nước ở nông thôn gắn với đối tượng HND vẫn là trầm trọng
nhất, tiêu biểu nhất.
Chính phủ các nước này đã tập trung mọi nỗ lực cố gắng để giải quyết vấn đề
PHGN. Cách làm, biện pháp chỉ đạo mỗi nước một kiểu, nhưng chung quy lại cho thấy
đều đã tập trung điều chỉnh các quan hệ kinh tế- xã hội phát sinh trong quá trình phát
triển. đó là các quan hệ về sở hữu ruộng đất, công bằng thu nhập, phân phối bình đẳng
về văn hóa, giáo dục. Về giải pháp có những kinh nghiệm như: phát triển và xây dựng
các dự án hỗ trợ về vốn, hướng dẫn áp dụng tiến bộ kỹ thuật cho HND nghèo, đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn... Từ
đó, chuyển dịch cơ cấu sản xuất của nông dân từ tự cung, tự cấp, thuần nông sang sản
xuất hàng hóa với cơ cấu đa dạng và hướng ngoại. điều chỉnh ruộng đất cho những hộ
thiếu đất hoặc không đất. Mở rộng quỹ tín dụng trong nông thôn, đa dạng hóa nguồn
vốn cho HND nghèo vay và đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm xã hội trong nông thôn. đây
là những giải pháp chúng ta cần phải tham khảo để vận dụng.
Kết luận chương 1
Nhận thức đúng đắn những cơ sở lý luận về hộ, kinh tế hộ, sự phân hóa kinh tế
HND do những nguyên nhân với mức độ khác nhau là hết sức cần thiết để giải quyết
vấn đề này. Những đúc kết lý luận trên đây nhằm tạo cơ sở cho việc phân tích thực tiễn
và đề xuất giải pháp cho vấn đề này ở Kiên Giang. PHGN bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân song nó được thể hiện khá rõ nét và tác động sâu sắc trên bình diện xã hội. Giải
quyết vấn đề này đòi hỏi sự quan tâm chung của cả xã hội song trước hết là những nỗ
lực của nhà nước - chủ thể trực tiếp quản lý và điều tiết sự phát triển kinh tế xã hội.
Thực tế cho thấy, PHGN trong xã hội là hiện tượng phổ biến với nhiều quốc
gia, dân tộc có nền kinh tế thị trường. Nhưng ở những quốc gia đang trong quá trình
chuyển biến từ một nền sản xuất nhỏ là phổ biến lên sản xuất lớn thì PHGN của HND
trong nông nghiệp, nông thôn là bộ phận chủ yếu trong PHGN của xã hội. Chính vì vậy
mà các chính sách kinh tế xã hội trong thời kỳ này cần hướng vào giải quyết vấn đề bức
xúc trong nông nghiệp, nông thôn là xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tiến bộ và công bằng xã hội.
Chương 2
Thực trạng Phân hóa giàu nghèo
của các Hộ nông dân tỉnh Kiên Giang
2.1. Đặc điểm Tự NHIÊN, Xã Hội Và nông nghiệp, nông thôn ảnh Hưởng
đến kinh tế Hộ nông dân ở Kiên Giang
Kiên Giang là một tỉnh lớn ở đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL). Theo sách
"Địa phương chí tỉnh Kiên Giang" được chính quyền cũ ấn hành năm 1965 thì vùng
Kiên Giang xưa kia là phần đất của xứ Thủy Chân Lạp. Miền này được bồi đắp nhờ phù
sa của sông Cửu Long, ước lượng hàng triệu mét khối mỗi năm. Trên đường Nam tiến,
dân tộc Việt đã chiếm cứ và khai mở bờ cõi miền này cũng như đã khai suốt dải đất
miền Trung vào đến Đồng Nai vào cuối thế kỷ 17. Địa giới của tỉnh được định hình
khoảng giữa thế kỷ 19, gần giống với hiện tại [23, 49]. Kiên Giang ngày nay vốn là phần
đất của hai tỉnh Rạch Giá và Hà Tiên [5, 18]. Ranh giới hành chính của tỉnh được xác
định: phía Bắc giáp nước bạn Campuchia, phía Nam giáp các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau,
phía Đông giáp tỉnh Cần Thơ, phía Tây tiếp giáp với vịnh Thái Lan. Theo ranh giới này,
tỉnh có diện tích khoảng 6224,5 km2. Dân số đến tháng 4/1999 là 1.494.330 người với
cơ cấu thành phần dân tộc là: Kinh 85,00%, Khmer 12,19% Hoa 2,16%, các dân tộc
khác 0,05% [9].
Tỉnh có 11 huyện thị trong đất liền (thị xã Rạch giá, thị xã Hà Tiên, các huyện:
Tân Hiệp, Kiên Lương, Hòn Đất, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An
Minh, Vĩnh Thuận) và 2 huyện đảo (Phú Quốc, Kiên Hải). Các huyện thị trải dài trên 4
vùng sinh thái khác nhau là: Tứ giác Long Xuyên (TGLX), Tây sông Hậu (TSH), Bán
đảo Cà Mau (BĐCM) và Hải đảo (HĐ). Địa hình của Kiên Giang vừa có đồng bằng,
vừa có đồi, rừng, núi đá vôi (địa hình Karstơ), lại vừa có hải đảo. Do đo, vừa có tiềm
năng, nguồn lực phát triển kinh tế xã hội to lớn, có điều kiện để xây dựng một cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, du lịch dịch vụ phát triển gắn với các vùng sinh thái
nhân văn, lại vừa có những khó khăn do chính điều kiện địa lý đặt ra.
Các vùng sinh thái có những đặc điểm khác nhau, do đó sự phát triển kinh tế xã
hội trên các địa bàn đó là khác nhau. Điều đó được phân tích như sau: Vùng TGLX có
diện tích tự nhiên khoảng 262.000 ha, đất đai bị nhiễm phèn nặng. Mùa khô bị nước
mặn lấn sâu, mùa mưa lại ngập lũ. Trước đây dân cư thưa thớt, đất đai hoang hóa nhiều.
Sản xuất nông nghiệp của các HND chỉ làm được một vụ năng suất thấp. Do vậy đời
sống của họ gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải dời chỗ ở vì khó làm ruộng được. Những
năm gần đây, tỉnh đã có sự đầu tư lớn để khai thác vùng này. Được hỗ trợ của "Chương
trình thoát lũ biển Tây" của Trung ương, hàng loạt công trình cầu đường, kênh mương
được kiến tạo đem lại khả năng to lớn cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Hiện tại
số HND trên địa bàn này nhiều hơn so với vùng hải đảo song lại ít hơn các vùng còn lại.
Đưa nước ngọt từ sông Hậu về thau chua rửa mặn đồng ruộng. Chính quyền địa phương
đang thực hiện giãn dân từ các vùng đông dân và thực hiện chính sách cho thuê đất
thông thoáng. Đây sẽ là vùng đất hứa hẹn sự phát triển mạnh mẽ, HND từ nhiều nơi sẽ
về đây chung tay góp sức làm giàu.
Vùng TSH đồng ruộng có mặt bằng tương đối tốt. Hệ thống kênh rạch khá đầy
đủ dẫn nguồn nước ngọt từ sông Hậu đổ về, hàng năm bồi đắp một lượng phù sa khá lớn
làm cho ruộng vườn thêm màu mỡ. Với diện tích tự nhiên khoảng 175.000 ha, đây là
vùng trọng điểm về nông nghiệp của tỉnh. Khả năng thâm canh tăng vụ vùng này còn
lớn. Đây là vùng số HND đông hơn cả, sản xuất và đời sống của họ nhờ sự lao động cần
cù cộng với ưu đãi của tự nhiên đã có bước phát triển rõ nét hơn ở các vùng khác.
Vùng BĐCM có diện tích tự nhiên khoảng 175.000 ha đang được sử dụng vào
sản xuất nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Khó khăn lớn nhất của vùng này là
toàn bộ đất đai đều bị nhiễm mặn do thủy triều biển Tây và một phần thủy triều biển
Đông. Do vậy, nước cho sản xuất và sinh hoạt chủ yếu dựa vào nước mưa. Vùng này
không chịu ảnh hưởng của lũ sông Cửu Long, lại có nhiều kênh rạch tiêu thoát nhanh ra
biển. Do đó, phần lớn diện tích sản xuất 1 vụ năng suất thấp. Bên cạnh đó vùng này lại
mở ra khả năng thực hiện các mô hình kinh tế độc đáo, như: luá - cá, nuôi tôm, cua, sò,
hoặc khai thác lâm sản: mật ong, trăn, rắn, rùa... hoặc khoanh nuôi rừng đặc dụng để tạo
cảnh quan cho du lịch sinh thái. Số HND trên địa bàn này cũng xấp xỉ số HND ở vùng
TSH và tỷ lệ HND dân tộc Khmer là thấp hơn cả. Do điều kiện tự nhiên khó khăn, sản
xuất và đời sống của nông dân vùng này phát triển chậm hơn các vùng khác.
Vùng HĐ bao gồm 2 huyện đảo Phú Quốc và Kiên Hải trong đó trung tâm là ở
Phú Quốc. Do địa bàn trải rộng trên vịnh Thái Lan, tập trung các loại hải sản có giá trị
kinh tế cao, trên rừng có nhiều gỗ quý và dược liệu, phong cảnh hùng vĩ, nên vùng này
rất có điều kiện để phát triển ngành kinh tế biển, rừng, khai thác khoáng sản và du lịch.
Nước mắm và h tiêu là hai sản phẩm truyền thống chủ yếu của vùng này. Với diện tích
tự nhiên khoảng 57.000 ha, ở đây có thể phát triển các loại cây công nghiệp như tiêu,
cây ăn trái, cà phê, và chăn nuôi gia súc có sừng. Mặt khác, với vị trí nằm ở cửa ngõ
giao lưu quốc tế, gần với các nước trong khu vực, Phú Quốc có đủ khả năng để thành
lập mô hình đặc khu kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác, sử dụng các nguồn lực
trong nông nghiệp, nông thôn vùng này chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh. Đây
cũng là vùng có số HND ít hơn cả, giá cả sinh hoạt quá đắt đỏ, nên các tiêu chí phân
định giàu nghèo về thu nhập thường cao hơn các vùng khác.
Cho đến nay, nông nghiệp vẫn là thế mạnh kinh tế số 1 của tỉnh Kiên Giang.
Điều đó không chỉ được thể hiện ở tiềm năng như đã phân tích ở trên mà còn được thể
hiện thông qua các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội của cấp ủy và chính
quyền các cấp. Nhiều năm qua, Tỉnh ủy và UBND tỉnh luôn xác định nông nghiệp là
mặt trận kinh tế hàng đầu, ưu tiên đầu tư phát triển cả chiều rộng và chiều sâu nhằm
thực hiện an toàn lương thực, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp vẫn thu hút 79,8% lao động xã hội trong tỉnh, chiếm
80% dân số, đóng góp 47,2% GDP [41, 14]. Mặt khác, nông nghiệp Kiên Giang còn
đóng một vai trò vị trí quan trọng đối với sự phát triển của khu vực ĐBSCL và của cả
nước.
Giai đoạn 1991 - 1999, kinh tế nông nghiệp nông thôn và đi sống của mỗi hộ
nông dân luôn có mức tăng trưởng khá, bình quân trên 7%/năm. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của tỉnh có sự dịch chuyển đúng hướng với tỷ trọng nông - lâm - thủy sản giảm
dần. Giá trị sản phẩm ngành chăn nuôi, dịch vụ hàng năm gia tăng, chiếm tỷ trọng
10,3% tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Chế biến nông sản từng bước được tăng
cường thêm và đã chiếm 50,6% giá trị sản phẩm nông nghiệp với hai sản phẩm chủ yếu
là lúa và mía. Sản xuất nông nghiệp đặc biệt là sản xuất lương thực tăng nhanh. Nhờ đẩy
mạnh thâm canh, tăng vụ, đồng thời chú trọng khai hoang mở rộng diện tích, đưa hệ số
sử dụng ruộng đất từ 1,32 lần lên 1,92 lần nên sản lượng lương thực từ 1 triệu tấn năm
1991 lên 2,15 triệu tấn
năm 1999, tương ứng mức lương thực bình quân đầu người từ 790 kg lên 1.369 kg. Như
vậy, trong vòng 8 năm trở lại đây, sản lượng lương thực của tỉnh tăng trên 1 triệu tấn.
Nông nghiệp của tỉnh vượt qua mốc chỉ tiêu
2 triệu tấn lương thực, hoàn thành chỉ tiêu mà Nghị quyết đại hội VI Tỉnh Đảng bộ đề ra
thời gian trước 1 năm [9, 6]. Đây không chỉ là thành tích mà còn là thc lực kinh tế để
giải quyết vấn đề PHGN ở địa phương. Ngoài sản xuất lương thực, các cây con thế
mạnh của tỉnh về cơ bản giữ được quy mô mặc dù gặp nhiều khó khăn vì giống có năng
suất thấp, thị trường đầu ra khó khăn, hiệu quả kinh tế thấp. Bên cạnh đó các hoạt động
kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp nước sạch nông thôn, văn hóa giáo
dục trên địa bàn nông thôn đều được chú trọng phát triển.
Những năm qua, từ khi xác định HND là đối tượng phục vụ của mình, hệ thống
Ngân hàng nông nghiệp đã mở rộng đại lý xuống xã. Doanh số cho vay năm 1998 đạt
1.357,6 tỷ, trong đó cho vay phục vụ và sản xuất nông nghiệp là 888 tỷ; cho ngành hải
sản là 162 tỷ. Tỉnh có 45 quỹ tín dụng nhân dân với doanh số cho vay đạt 307 tỷ. Ngoài
ra, khu vực nông thôn còn được hỗ trợ vốn từ các chương trình cho vay theo dự án,
chương trình, vốn xóa đói giảm nghèo của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ nước
ngoài tài trợ... Tuy nhiên, hoạt động tín dụng trong nông thôn của hệ thống ngân hàng,
quỹ tín dụng... còn hạn chế chưa sát xóm ấp, người nông dân. Việc thẩm định và theo
dõi sử dụng vốn đúng mục đích đạt hiệu quả còn thấp. Do thiếu vốn, tình trạng hộ nông
dân phải cầm cố ruộng đất, bán lúa non, vay nặng lãi vẫn còn khá phổ biến.
Thành tựu to lớn trong việc tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp- nông thôn đó
là phong trào kinh tế hợp tác và phong trào nông dân thi đua sản xuất giỏi được tỉnh
quan tâm chỉ đạo hơn mười năm nay. Toàn tỉnh hiện có 33 HTX sản xuất nông nghiệp,
270 tập đoàn và hơn 5000 tổ đoàn kết sản xuất nông nghiệp [18].
Về kinh tế hợp tác, qua kiện toàn đổi mới theo Luật Hợp tác xã, bình quân 1
HTX có ban quản lý từ 2-3 người, ban kiểm soát từ 1-3 người, tiền lương trả cho cán bộ
ban quản lý được trích từ lãi nguồn thu dịch vụ của HTX. So với năm 1986 cán bộ gián
tiếp của HTX giảm 41,6%, từng bước năng lực điều hành, quản lý của ban quản lý HTX
được nâng lên, tinh gọn, hoạt động có hiệu quả hơn. Hoạt động của HTX nông nghiệp
phần lớn tập trung sản xuất cây lúa, điều hành kế hoạch sản xuất, lịch thời vụ cũng như
các dịch vụ: bơm tưới, chuyển giao kỹ thuật...
Qua kết quả sản xuất từ năm 1991 lại đây, nhờ điều hành hoạt động theo cơ chế
mới, tập trung đầu tư san lấp mặt bằng, phát triển hệ thống thủy lợi, áp dụng đồng bộ
các biện pháp kỹ thuật như cơ cấu giống mới, lịch thời vụ phòng chống sâu bệnh, lũ lụt
nên năng suất, sản lượng và thu nhập của khu vực HTX không ngừng được nâng lên.
Năng suất lúa bình quân từ 8,1 tấn/ha/năm 1991 lên 10,8 tấn/ha/năm 1996. So với sản
xuất cá thể, chi phí sản xuất của HTX thấp hơn 16% và năng suất cao hơn 25-30%, bình
quân lương thực đầu người đạt 3.412 kg/năm, cao hơn toàn tỉnh 2,7 lần, thu nhập bình
quân hộ xã viên đạt 5,18 triệu đồng/người/năm, cao hơn mức thu nhập cá thể. Đời sống
mọi mặt của hộ nông dân trong khu vực kinh tế HTX được cải thiện tích cực. Có gần
50% số hộ có nhà xây dựng kiên cố,100% số hộ được sử dụng điện sinh hoạt và sản
xuất, 90% số hộ có ti vi, cassette. Trạm xá, trường học được xây dựng kiên cố, có cả
trường dân lập, làm bảo hiểm y tế. Đời sống văn hóa, phong trào cách mạng ở địa
phương được các hộ xã viên tích cực hưởng ứng, an ninh trật tự giữ vững làm hạn chế
thấp nhất các tệ nạn xã hội, tình làng nghĩa xóm được nâng cao [34].
Một phong trào được phát động và duy trì hơn 10 năm nay, thu hút hàng vạn hộ
nông dân trong tỉnh tham gia, đó là phong trào nông dân thi đua sản xuất giỏi. Kết quả
trong năm 1999 qua bình xét toàn tỉnh có 21.500 hộ và 14 tập thể đạt danh hiệu "Nông
dân sản xuất giỏi". Đến năm 1999 toàn tỉnh có hơn 60.000 HND đạt danh hiệu sản xuất
giỏi, chiếm 27,2% số hộ nông nghiệp của tỉnh [44].
Những HND sản xuất giỏi là những hộ sản xuất hàng hóa, luôn phải suy nghĩ
tính toán sao cho có lãi, có ý thức tự lực tự cường vươn lên làm giàu, phát huy nội lực
gia đình là chính, nhờ vậy sử dụng có hiệu quả lao động, đất đai, đồng vốn. Đây cũng là
những hộ đi đầu trong việc tiếp thu, phổ biến những tiến bộ kỹ thuật công nghệ trong
sản xuất, vận chuyển, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm của mình làm ra. Nhờ
vậy, mở ra khả năng to lớn để đưa năng suất, sản lượng trong nông nghiệp tăng lên. Đa
số HND sản xuất giỏi đều có mô hình sản xuất với cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý
theo phương thức kinh doanh tổng hợp, ví dụ: luân canh, xen canh, lấy ngắn nuôi dài
VAC, RVAC, RVACD... Những HND sản xuất giỏi còn là những hộ được ngân hàng và
các tổ chức tín dụng coi là bạn hàng tin cậy nhất, vì đã biết sử dụng có hiệu quả nhất
đồng vốn của họ.
Bên cạnh đó, HND sản xuất giỏi là người đi đầu trong việc "xóa đói giảm nghèo
tại chỗ" bằng cách cho vay vốn cây con giống không lấy lãi, tạo công ăn việc làm,
hướng dẫn cách thức kỹ thuật và xây dựng cơ sở hạ tầng như bắc cầu, làm giao thông
nông thôn.
2.2. phân hóa giàu nghèo của các Hộ nông dân Kiên giang
2.2.1. Tình hình phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh Kiên
Giang qua các giai đoạn
ở các tỉnh miền Tây Nam Kỳ từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 việc chiếm
đoạt ruộng đất của bọn địa chủ, cường hào ngày càng phát triển. ở Nam Bộ trong nét
sinh hoạt xưa và nay, không gọi là địa chủ mà gọi là điền chủ, nhiều ruộng đất gọi là
điền chủ lớn, ít hơn gọi là điền chủ nhỏ. Phần lớn nông dân trở thành tá điền, sống phụ
thuộc vào điền chủ. Điều này được chính quyền thực dân các thời kỳ không những bảo
lưu mà còn khuyến khích. Những phương thức bóc lột như: chế độ làm ruộng rẽ, chế độ
làm ruộng giao, chế độ sử dụng tá điền, chế độ canh tác trực tiếp, chế độ thuê nhân
công, tệ cho vay nặng lãi... đã cột chặt thân phận người nông dân tá điền vào nghèo, đói,
hèn kém, nợ nần. Người nông dân tá điền thuở ấy chịu mấy tầng bóc lột, không sao kể
xiết nỗi cơ cực. Ta có thể nói không sợ sai rằng trong lẫm lúa (kho lúa) của điền chủ
"chỉ có chừng một phần ba là địa tô, còn lại hai phần ba là tiền lời giá cao" [23, 44].
Bên cạnh đời sống cơ cực của tầng lớp nông dân tá điền là lớp điền chủ giàu có,
sống xa hoa mà sử sách phải lưu truyền kiểu "Trần Trinh Trạch với lứa con nổi danh là
Công Tử Bạc Liêu" có cánh đồng thẳng cánh cò bay 15.000 ha, cũng như ở Rạch Giá có
Chủ Chẹt (Huỳnh Tấn Tước) đã đứng bộ (sổ địa bạ) 12.000 ha đất [23, 142]. Theo con
số thống kê của Pháp, toàn Đông Dương thời 1930 có khoảng 6.690 người có điền sản
trên 50 ha. Riêng ở Nam Kỳ đã có tới 6.300 người. Năm 1951, người ta ước lượng thu
nhập bình quân của một gia đình người Âu hàng năm là 5.000 đồng (tiền Đông Dương),
trong khi nhà giàu "bổn xứ" và người Hoa lại có tới 6.000 đồng. Có nghĩa là điền chủ
lớn và thương gia lớn có thể có mức sống cao hơn công chức quan lại người Âu. Giới
trung lưu người Việt, công chức nhỏ và tiểu chủ thu nhập bình quân khoảng 170 đồng ở
Nam Kỳ [23, 148]. Những thống kê trên đây khó có thể coi là chính xác nhưng cũng
giúp cho chúng ta có khái niệm về phân hóa giai cấp, chênh lệnh về thu nhập và mức
sống của xã hội nói chung và của nông dân nói riêng ở địa phương trong thời kỳ phong
kiến thuộc địa.
Một vấn đề nữa cần trình bày ở đây là, do thiên nhiên hào phóng, ưu đãi "chim
trời", "cá nước", "lúa ma" mà con người Nam Bộ tính tình khoáng đạt, rộng rãi. Bởi vậy
trong các dịp lễ tết "người Việt quen xài quá trớn" [23, 150]. Còn thì xài, hết thì nhịn,
mai làm tiếp, chưa quen tính toán chi ly trong tổ chức cuộc sống. Bên cạnh đó, việc đá
gà ăn tiền, cờ bạc vừa là trò giải trí, vừa là tệ nạn có từ thời mở mang bờ cõi khá phổ
biến ở vùng này. Nhà văn Sơn Nam đã nhận định: "Nợ nần, cờ bạc là hai vấn đề lớn
không giải quyết nổi từ đời các Chúa Nguyễn. Chủ điền, giới mại bản người Hoa làm
giàu nhanh, thêm ruộng thêm đất, thêm nhà cao cửa rộng, một phần cũng nhờ khai thác
hai mặt chủ yếu này" [24, 190]. Do đó, khi xem xét vấn đề giàu nghèo, PHGN của các
HND phải đề cập đến những vấn đề này.
Dưới thời Mỹ ngụy, sau hai lần "cải cách điền địa" nhưng ruộng đất vẫn tập
trung trong tay địa chủ và quan chức chính quyền thực dân đế quốc khá nhiều. Tuy vậy,
trung nông ngày càng trở thành tầng lớp phổ biến trong nông nghiệp, nông thôn; phú
nông là những nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp. Nông nghiệp Kiên Giang đã
mang đậm tính chất của một nền nông nghiệp hàng hóa. Sự PHGN của các HND ở đây
đã chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong điều kiện của
cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt thì không chỉ có các quy luật kinh tế mà còn có cả
quy luật chiến tranh cùng tác động đến vấn đề này. Do vậy, PHGN của các HND thời
kỳ này chưa phải là vấn đề bức xúc của xã hội.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà thực hiện chủ trương hợp
tác hóa nông nghiệp, tập thể hóa sản xuất, hàng vạn HND KG đã được điều chỉnh lại
ruộng đất, diện tích canh tác theo lối bình quân. Hàng ngàn hộ nông dân được chia cấp
ruộng đất bất kể là hộ người Kinh hay hộ người dân tộc khác. Đây có thể coi như một
dấu ấn lịch sử trong đời sống kinh tế xã hội nông nghiệp - nông thôn KG. Chính điều
này làm cho điểm xuất phát của các HND KG khi đi vào giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường có đất đai canh tác là khá đồng đều nhau, có chênh lệch nhưng không cách biệt
lắm. HND nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình là đơn vị kinh tế tự chủ trong
nền kinh tế thị trường.
Sự PHGN của các HND ở Kiên Giang đã diễn ra ngay trong những năm đầu
thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, khoảng cách giàu nghèo của các HND KG ngày càng gia tăng. Năm 1992 Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ban kinh tế tỉnh ủy KG phối hợp điều tra mẫu
thu nhập của các HND trên các địa bàn của tỉnh. Căn cứ vào tiêu chí của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội (giai đoạn 1990 - 1992) mà phân loại hộ. Kết quả cụ thể đã
được phản ánh trong bảng 4.
Bảng 4
Phân loại theo thu nhập của các HND Kiên giang
Tên loại hộ Số hộ Tỷ lệ %
1. Hộ giàu 468 10,8%
2. Hộ trung bình 2.530 58,6%
3. Hộ nghèo 1.316 30,6%
Tổng cộng 4.314 100%
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn KG năm 1993.
Trong đó nhóm HND giàu có cơ cấu thu nhập như sau: Tổng thu nhập năm (c +
v + m) = 32,8 triệu đồng, từ các loại sản phẩm theo tỷ lệ như sau: Sản phẩm trồng trọt:
60,4%; chăn nuôi:12,7% và những ngành nghề khác: 26,9%. Giá trị sản phẩm cần
bán:19,68 triệu đồng. Thu nhập (v + m): 18,04 triệu đồng. Tích lũy hàng năm: 9,146 triệu
đồng. Còn nhóm HND nghèo thì có thu nhập hàng năm bình quân (c+v+m)/năm là:
2.180.000đ. Chia theo các nguồn là: sản xuất: 48,1%; làm thuê: 37,5%; nguồn khác: 14,4%.
Thu nhập (v+m)/năm là 1.569.000đ. Bình quân thu nhập đầu người/năm là 261.000đ tương
ứng 21.000đ/người/tháng, tương ứng với 163 kg gạo.
Chúng tôi cho rằng, kết quả trên phản ánh khá trung thực hiện tượng PHGN của
các HND KG. Điều đó cũng phù hợp với tiêu chí và kết quả của một số tác giả quan tâm
đến vấn đề này đã được công bố trên các công trình nghiên cứu. Nó cũng phù hợp với
kết quả điều tra của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo tỉnh lúc bấy giờ. Tỷ lệ hộ nghèo
đói giai đoạn 1990 - 1993 trên địa bàn KG khoảng 25% - 30% trên tổng số hộ toàn tỉnh.
Từ kết quả phân loại theo thu nhập, chúng tôi có một số nhận xét sau:
Một là: Ngay từ khi mới thực hiện chủ trương phát triển kinh kinh tế hộ theo
tinh thần Nghị quyết 10/BCT ở tỉnh Kiên Giang thì hiện tượng PHGN đã diễn ra phổ
biến. Một bộ phận lớn HND thuộc loại trung bình, hộ giàu chưa nhiều, hộ nghèo đói
không phải là ít.
Hai là: Hộ giàu là hộ có tỷ suất nông sản hàng hóa cao, số lượng sản phẩm cần
bán nhiều và nhờ đó tích lũy vốn càng lớn. Bên cạnh đó ở HND nghèo sản xuất chỉ ở mức
thiếu hoặc may ra là đủ ăn. Ngoài sản xuất nông nghiệp của gia đình họ phải tìm thêm
các nguồn khác để tăng thu nhập.
Ba là: Lao động làm thuê trong nông nghiệp, nông thôn đã trở thành phổ biến
trong kinh doanh nông trại quy mô lớn của hộ giàu, nhiều diện tích canh tác phải thuê
mướn lao động ở các hộ có ít hoặc không có ruộng đất, không có công ăn việc làm để
kịp thời vụ. Lao động làm thuê đem lại thu nhập không nhỏ đối với hộ nghèo.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì tình hình PHGN ở Kiên Giang ngày càng
phức tạp.
Cuối năm 1996 đầu năm 1997, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, Cục
Thống kê KG tiến hành điều tra một cách toàn diện nhằm đánh giá đúng thực trạng hộ
nghèo trên địa bàn toàn tỉnh và tổng kết 3 năm thực hiện chương trình xóa đói giảm
nghèo (1994-1996). Căn cứ vào những tiêu chí và quy định của Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội và điều kiện cụ thể của địa phương, kết quả được Cục Thống kê thông
báo bốn mức thu nhập quy định bằng tiền, tính bình quân đầu người, tỷ lệ hộ nghèo
tương ứng các mức sau:
Nếu lấy mức 1: Với thu nhập bình quân đầu người ở thị xã dưới 150.000đ, thị
trấn dưới 120.000đ, nông thôn dưới 100.000đ, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 16,76% với
43.998 hộ.
Nếu lấy ở mức 2: Với thu nhập tương ứng thị xã dưới 120.000đ, thị trấn dưới
100.000đ, nông thôn dưới 90.000đ, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 14,49% với 38034 hộ.
Nếu lấy ở mức 3: Thị xã dưới 100.000đ, thị trấn dưới 90.000đ, nông thôn dưới
80.000đ, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 10,76% với 28.256 hộ.
Nếu lấy ở mức 4: Thị xã dưới 90.000đ, thị trấn dưới 80.000đ, nông thôn dưới
70.000đ, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 10,68% với 28.041 hộ.
Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo KG đã thống nhất chọn mức 2 đối với số hộ
nghèo là 38.034 hộ. Trong số đó có 30.856 HND sản xuất nông lâm thủy sản và làm
mướn trong nông nghiệp là hộ nghèo, chiếm khoảng 80% tổng số hộ nghèo của tỉnh. Về
thu nhập, đa số HND nghèo có mức thu nhập rất thấp. Đáng chú ý là trong 18.277 hộ có
mức thu nhập dưới 70.000đ/người/tháng, thì ở nông thôn chiếm tới 17.277 hộ. Nhiều
huyện như Hòn Đất, Châu Thành, An Minh, Vĩnh Thuận có tới 95% số HND có thu
nhập thấp dưới 90.000đ/người/tháng.
Xét về quy mô diện tích đất canh tác: quy mô diện tích đất canh tác của các
HND nghèo là điểm đáng chú ý. Trong số 30.856 hộ nói trên, quy mô diện tích trung
bình là 7,27 công (1công = 1000m2), nhưng có tới hàng chục ngàn hộ không có đất.
Nhiều nhất là ở các huyện: Tân Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, An Biên, An Minh,
Gò Quao. Về nhà ở, điện nước của HND nghèo, tình hình chung là rất thấp kém. Có tới
gần 70% số hộ này ở nhà cột chôn, vách mái lá, 15% số hộ ở nhà lều, chòi, lán trại tạm
bợ. Thậm chí có 0,17% số hộ không có nhà phải ở nhờ, ở đậu trên ghe, chẹt. Hà Tiên,
Hòn Đất, An Minh là những địa bàn có tới trên 90% số HND nghèo, có tình trạng nhà ở
thấp kém nhất. Phần lớn HND nghèo không có điện. Nước sinh hoạt lấy dưới kênh rạch,
ao hồ, nhà vệ sinh không có hoặc bắc tạm trên kênh. Số HND nghèo thuộc dân tộc Khmer
ước khoảng 15 - 20%.
Sự phân bố HND nghèo trên các địa bàn huyện thị như sau: Số HND nghèo
theo đơn vị huyện thị có đến tháng 1/1997: thị xã Rạch Giá: 582 hộ; huyện Hà Tiên:
705 hộ; huyện Hòn Đất: 1444 hộ; huyện Tân Hiệp: 2993 hộ; huyện Châu Thành: 2609
hộ; huyện Giồng Riềng: 4693 hộ; huyện Gò Quao: 4122 hộ; huyện An Biên: 4796 hộ;
huyện An Minh: 4625 hộ; huyện Vĩnh Thuận: 3899 hộ; huyện Phú Quốc: 335 hộ; huyện
Kiên Hải: 53 hộ; tổng cộng số hộ nghèo là: 30856 hộ [10]. Tỷ lệ và tình hình này cũng
tương đồng như của một số địa phương khác trong khu vực [4], [2], [3].
Năm 1997 trường Chính trị tỉnh Kiên Giang được ủy ban nhân dân tỉnh giao
thực hiện đề tài "Điều tra phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường ở tỉnh Kiên Giang".
Ban chủ nhiệm đề tài căn cứ vào tiêu chí chung và thực tiễn của địa phương đã xây
dựng tiêu chí như đã trình bày ở phần trước nhằm đánh giá một cách toàn diện sự phân
hóa xã hội nói chung và PHGN nói riêng.
Đề tài lấy 3000 đối tượng là cá nhân và hộ gia đình của nhiều nghề nghiệp, tầng
lớp dân cư trong xã hội. Đó không chỉ là công nhân, nông dân, buôn bán (tiểu thương),
mà có cả cán bộ, giáo viên, công chức nhà nước. Đề tài sử dụng phương pháp điều tra
xã hội học trên các địa bàn đặc trưng cho các tiểu vùng của tỉnh. Các thông tin thu nhập
được là đáng tin cậy, có độ chính xác tương đối cao. Từ kết quả phân tích phản ánh
trong bảng 5(a).
Bảng 5 (a)
Tổng hợp tình hình giàu, nghèo của các đối tượng
Tỷ
Lệ
Nghèo Trung bình Giàu
TP
dân
cư
T/n
hập
(%)
Nh
à ở
(%)
PT
SH
(%)
PT
đi
lại
(%)
TL
t/bì
nh
T/n
hập
(%)
Nh
à ở
(%)
PT
SH
(%)
PT
đi
lại
(%)
TL
t/bì
nh
T/n
hập
(%)
Nh
à ở
(%)
PT
SH
(%)
PT
đi
lại(
%)
TL
t/bì
nh
Nông
dân
43,
71
75,
67
66,
1
63,
09
57,
63
29,
71
24
33,
72
35,
69
30,
78
26,
58
0,3
4
0,2
7
0,9
5
7,0
3
Ngư
dân
37,
41
83,
67
91,
8
67,
35
69,
06
25,
58
15,
56
7,4
8
22,
65
17,
81
36,
73
0,6
8
0,6
8
0
9,2
5
Công
nhân
1,9
8
72,
28
64,
4
51,
49
47,
58
34,
64
25,
74
34,
65
48,
37
35,
9
63,
37
1,9
8
1,9
8
0,9
9
17,
08
Quân
nhân
22,
2
41,
41
48,
5
46,
46
39,
63
23,
2
50,
51
49,
49
52,
53
43,
93
54,
58
8,0
8
2,0
2
1,0
1
16,
42
Giáo
viên
4,9
2
58,
2
46,
3
57,
38
41,
7
61,
48
40,
16
51,
64
42,
42
48,
92
33,
6
1,6
5
2,0
5
0
9,3
2
NV y
tế
12,
08
49,
66
43,
3
42,
28
36,
83
57,
72
44,
3
46,
31
57,
72
51,
51
30
6,0
6
8,7
2
0,6
7
11,
35
Buôn
bán
19,
03
38,
71
31,
3
36,
13
31,
29
24,
19
50,
32
60,
97
63,
87
49,
83
56,
67
11
7,7
4
0,6
5
19
Trung
bình
20,
19
59,
94
55,
9
52,
02
47,
01
36,
64
35,
79
40,
6
46,
2
39,
9
43,
07
4,2
4
3,3
5
0,6
1
12,
81
Nguồn: Đề tài điều tra phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường KG.
Trường Chính trị tỉnh KG.
Chúng tôi thấy HND KG phổ biến vẫn là những hộ sản xuất nhỏ, cá thể. Những
vùng sâu vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến... vẫn là những vùng có nhiều HND nghèo
nhất. HND nghèo là những hộ quy mô diện tích nhỏ, thu nhập mức sống có tăng lên so
trước 1975, song vẫn nằm trong giới hạn đủ ăn, đủ chi dùng ở mức tối thiểu. Những
năm gần đây giá cả thị trường nông sản không ổn định, bão lụt khiến cho việc sản xuất
và cải thiện đời sống gặp không ít khó khăn. Việc giá cả một số mặt hàng tiêu dùng như
radio, xe đạp giảm dần làm cho mức tiêu dùng có được tăng lên đối với đa số HND.
Tuy nhiên nếu so sánh với mức tăng thu nhập của các tầng lớp khác như công
nhân, quân nhân, công chức nhà nước thì mức thu nhập của HND trong những năm gần
đây giảm đi tương đối. Nông dân vẫn là đối tượng có tỷ lệ hộ giàu thấp nhất khi so sánh
với các đối tượng khác của xã hội trong cùng một hệ quy chiếu. Để làm rõ thêm, chúng
ta xem các thông số qua các bảng xếp hạng qua các bảng 6, 7 và 8.
Bảng 6
Bảng xếp hạng hộ nghèo theo các tiêu chí
I. Theo thu nhập II.Theo nhà ở III.Theo PTSH IV. Theo PTĐL
1.Nông dân 1.Ngư dân 1.Ngư dân 1.Ngư dân
2.Ngư dân 2.Nông dân 2.Nông dân 2.Nông dân
3.Quân nhân 3.Công nhân 3.Công nhân 3.Giáo viên
4.Buôn bán 4.Quân nhân 4.Giáo viên 4.Công nhân
5.Nhân viên y tế 5.Giáo viên 5.Nhân viên y tế 5.Quân nhân
6.Giáo viên 6.Nhân viên y tế 6.Quân nhân 6.Nhân viên y tế
7.Công nhân 7.Buôn bán 7.Buôn bán 7.Buôn bán
Nguồn: Đề tài điều tra phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường KG.
Trường Chính trị tỉnh KG.
Bảng 7
Xếp hạng hộ khá giả theo các tiêu chí
I.Theo thu nhập II.Theo nhà cửa III. Theo PTSH IV. Theo PTĐL
1.Giáo viên 1.Quân nhân 1.Buôn bán 1.Buôn bán
2.Nhân viên y tế 2.Buôn bán 2.Giáo viên 2.Nhân viên y tế
3.Công nhân 3.Nhân viên y tế 3.Quân nhân 3.Quân nhân
4.Nông dân 4.Giáo viên 4.Nhân viên y tế 4.Công nhân
5.Ngư dân 5. Công nhân 5.Công nhân 5.Giáo viên
6.Buôn bán 6.Nông dân 6.Nông dân 6.Nông dân
7.Quân nhân 7.Ngư dân 7,Ngư dân 7.Ngư dân
Nguồn: Đề tài điều tra phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường KG.
Trường Chính trị tỉnh KG.
Bảng 8
Xếp hạng hộ giàu theo các tiêu chí
I.Theo thu nhập II.Theo nhà cửa III. Theo PTSH IV. Theo PTĐL
1.Công nhân 1.Buôn bán 1.nhiệm vụ y tế 1.Buôn bán
2.Buôn bán 2.Quân nhân 2.Buôn bán 2.Công nhân
3.Quân nhân 3.Nhân viên y tế 3.Giáo viên 3.Quân nhân
4.Ngư dân 4.Công nhân 4.Quân nhân 4.Nhân viên y tế
5.Giáo viên 5.Giáo viên 5.Công nhân 5.Ngư dân
6.Nhân viên y tế 6.Ngư dân 6.Ngư dân 6.Giáo viên
7.Nông dân 7.Nông dân 7.Nông dân 7.Nông dân
Nguồn: Đề tài điều tra phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường KG.
Trường Chính trị tỉnh KG.
Như vậy thực trạng PHGN của các tầng lớp xã hội nói chung và của HND nói
riêng được đánh giá ở cả ba cấp độ (nghèo, khá giả, giàu) trên bốn tiêu chí cụ thể (thu
nhập, nhà ở, phương tiên sinh hoạt, phương tiện đi lại) và trong quan hệ so sánh với 7
đối tượng khác trong xã hội (công nhân, buôn bán, ngư dân, quân nhân, giáo viên, nhân
viên y tế, nông dân). Qua đó cũng cho thấy sự PHGN của nông dân và ngư dân diễn ra
một cách rộng rãi và xu hướng mang tính quy luật là: Tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ hộ giàu
trong tổng số hộ cùng loại biến đổi ngược chiều nhau.
PHGN của các HND xét theo vùng trên địa bàn của tỉnh. Địa bàn có mật độ
dân cư đông nhất là thị xã rồi đến vùng ven, vùng sâu, biên giới, hải đảo. Nơi có đông
đảo HND sinh sống lại là vùng ven, vùng sâu. HND ở vùng thị xã, vùng ven, vùng có
điều kiện sản xuất canh tác thuận lợi, nước ngọt, làm 3 vụ lúa trong năm, nơi có kết cấu
hạ tầng thuận lợi, trình độ dân trí cao thì tỷ lệ hộ khá và giàu chiếm tới 80% - 90%.
Ngược lại, nơi vùng sâu vùng xa, nơi cơ sở hạ tầng yếu kém thì tỷ lệ hộ nghèo và trung
bình chiếm tới 85% - 90%. Bảng 5(b) giúp chúng ta thấy được thực trạng này.
Bảng 5 (b)
Tổng hợp tình hình hộ nghèo, vùng nghèo
T/hình T/số Nghèo Khá Giàu
địa bàn đ/tra SL % SL % SL %
Thị xã 484 65 13,43 198 40,91 221 45,66
Vùng ven 502 155 30,88 189 37,65 158 31,47
Vùng sâu 991 439 44,30 309 31,18 242 24,42
Vùng BG 464 184 39,66 147 31,68 133 28,66
Hải đảo 365 59 16,16 187 49,59 126 34,52
Nguồn: Đề tài điều tra phân hóa xã hội trong cơ chế thị trường KG.
Trường Chính trị tỉnh KG.
Cuối năm 1999 đầu năm 2000 Cục Thống kê KG tiến hành một khảo sát điều
tra nhằm xác định mức chênh lệch cách biệt về thu nhập giữa hai cực giàu và nghèo, ở
cả nông thôn và thành thị. Phương pháp tiến hành là: điều tra ngẫu nhiên mức thu nhập
của các HND ở 25 điểm mẫu trên các địa bàn huyện, thị của tỉnh rồi xếp dần từ thấp đến
cao. Sau đó so sánh bình quân thu nhập của 20% số hộ có thu nhập thấp nhất với chỉ số
tương ứng của 20% số hộ có thu nhập cao nhất và thu được số lần cách biệt về thu nhập.
Đương nhiên số lần cách biệt càng lớn thì PHGN càng mạnh mẽ, độ bất bình đẳng về
thu nhập, kinh tế càng lớn. Theo đó, số lần cách biệt ở khu vực thành thị là 4,96 và ở
nông thôn là 6,91 lần.
PHGN xét theo mô hình tổ chức sản xuất trong nông nghiệp. Toàn tỉnh hiện có
31 HTX sản xuất nông nghiệp gắn với kinh doanh dịch vụ tổng hợp và khoảng 5000 đơn
vị tổ đoàn kết tập đoàn sản xuất. Trên cơ sở này PHGN trong kinh tế hợp tác, hình thức
kinh tế trang trại, nông trại mang nét đặc trưng riêng. Qua điều tra 12 HTX vào cuối
năm 1996 trên địa bàn huyện Tân Hiệp, nhiều hợp tác xã có số HND giàu và khá chiếm
tới 37%, cao hơn gấp 3 lần ở những địa bàn chưa có kinh tế hợp tác. Số hộ trung bình
đạt 57,5%, số hộ nghèo còn 5,5%. HTX Tân Long xã Tân Hiệp A, được kiện toàn vào
năm 1992, số hộ nghèo giảm từ 10,7% xuống còn 2,67% năm 1996 trong khi toàn tỉnh
tỷ lệ hộ nghèo là 14,5%, có nơi còn trên 30% số hộ nghèo. Năm 1999 nếu lấy tiêu
chuẩn hộ giàu là HND sản xuất kinh doanh giỏi thì tỷ lệ này ước khoảng trên 10% tổng số
hộ toàn tỉnh.
Xét theo biến đổi cơ cấu tỷ lệ giàu nghèo thì PHGN của các HND diễn ra theo
xu hướng tăng dần số hộ khá và giàu chiếm từ 85 - 90% trên tổng số hộ cùng loại. Tỷ lệ
HND nghèo ở các địa bàn từ 10 - 15%, cao hơn tỷ lệ hộ nghèo trong toàn tỉnh. Điều lưu
ý là số hộ có thu nhập cao ngày càng nhiều thì số hộ cầm cố, sang nhượng hết ruộng đất
có xu hướng tăng lên. Toàn tỉnh hiện có hơn 20.000 HND không có đất sản xuất, trắng
tay, chiếm tỷ lệ xấp xỉ 10% tổng số hộ [11] tham khảo bảng 10.
Bảng 10
Thực trạng HND không đất có đến tháng 8/1998
TT Địa bàn
Hộ
SXNN
Hộ
không đất
Tỷ lệ
%
1 Thị xã Rạch Giá (ước của TX) 5675 964 16,9
2 Huyện Kiên Lương 8.239 1.281 15,5
3 Huyện Hòn Đất (đã phúc tra lại) 19.082 2.351 12,3
4
Huyện Châu Thành (số ước của
huyện)
2.0572 1.440 7,2
5
Huyện Tân Hiệp (số ước của
huyện)
21.274 1.437 6,7
6 Huyện Giồng Giềng 33.727 3.650 10,8
7 Huyện Gò Quao 25.792 1.935 7,5
8 Huyện An Biên 22.129 2.198 9,93
9 Huyện An Minh 19.193 3.149 16,41
10 Huyện Vĩnh Thuận 20.054 2.958 14,75
11 Thị xã Hà Tiên 1.408 64 4,5
Toàn tỉnh 197.085 21.427 10,87
Nguồn: Cục Thống kê Kiên Giang, tháng 8/1998
PHGN xét theo thành phần dân tộc. KG là một tỉnh có đa dân tộc, khảo sát
PHGN của các HND theo thành phần dân tộc cũng có những vấn đề cần quan tâm.
Nhóm dân tộc được chọn làm tiêu biểu trong khảo sát là Hoa và Khmer - dù tỷ lệ người
Hoa và Khmer trong cơ cấu dân cư không lớn.
Đặc điểm về tỷ lệ giàu nghèo của các nhóm dân tộc này như sau: Trong khi
phần lớn hộ người Hoa làm ăn trong lĩnh vực buôn bán, kinh doanh dịch vụ tỷ lệ HND
người Hoa ước khoảng 30% trên tổng số và phần lớn trong số này nằm trong diện hộ
khá và giàu. Ngược lại trong số HND người Khmer tỷ lệ hộ giàu trên tổng số hộ cùng
loại là thấp nhất, trong khi đó tỷ lệ hộ nghèo lại ở mức cao nhất. HND người Kinh nằm
vào loại giữa mức cao nhất, giàu nhất không bằng người Hoa và mức thấp nhất, nghèo
nhất cao hơn của người Khmer. Một số huyện thị trong tỉnh có đông hộ dân tộc Khmer,
người Hoa sinh sống như Tân Hiệp, Hòn Đất, Châu Thành, Gò Quao. Đáng chú ý HND
người dân tộc cũng nằm trong quá trình phân hóa nhưng với tốc độ khá lớn. Chúng ta
khảo sát hai huyện có tỷ lệ hộ dân tộc trên tổng số HND ở mức độ điển hình - kết quả
như bảng 11 (phụ lục).
Như vậy, số hộ giàu người dân tộc chiếm tỷ lệ thấp nhưng số hộ nghèo lại
chiếm tỷ lệ khá cao. Một khảo sát của Dự án tổng quan đầu tư xây dựng trung tâm cụm
xã vùng dân tộc Khmer của tỉnh giai đoạn 1999 - 2010 đối với 9 huyện thị, 33 xã, 17
trung tâm cho kết quả như sau: Toàn khu vực Dự án có 91.187 hộ trong đó người
Khmer có tới 23.427 hộ thì số hộ giàu chiếm 9,42%, khá 22%, nghèo 68,58%. Tuyệt đại
đa số hộ người dân tộc Khmer nằm trong diện trung bình và nghèo. HND người Khmer
có nhà tre lá tạm bợ chiếm trên 90% [42, 17].
Tóm lại, thực trạng của PHGN của các HND ở KG đang diễn ra khá phức tạp
với nhiều biểu hiện, mức độ khác nhau và đang tác động khá sâu sắc đến nhiều lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội không chỉ của nông dân, nông nghiệp và nông thôn KG. Như
vậy, so với HND trong kinh tế hợp tác, HND cá thể có mức độ phân hóa cao hơn, chịu
tác động của tiêu cực phân hóa nhiều hơn. Do đó, chống hậu quả tiêu cực của PHGN ở
KG thực chất là quá trình xóa đói giảm nghèo cho các HND, là quá trình đưa nông
nghiệp KG từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn (chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đưa
nông nghiệp KG vào quá trình sản xuất hàng hóa, phát triển các hình thức kinh tế hợp
tác,...), là quá trình xây dựng nông thôn mới... Hiệu quả xã hội mang tính đa diện của
quá trình này cho thấy, để khắc phục những hậu quả tiêu cực của nó cần nhận thức rõ
những vấn đề hiện đang đặt ra.
2.2.2. Đặc điểm và xu hướng của sự phân hóa giàu nghèo của các hộ nông
dân Kiên Giang
2.2.2.1. Đặc điểm phân hóa giàu nghèo của các HND Kiên giang
Đặc điểm PHGN của các HND KG là sự phản ánh những nét tiêu biểu từ cấu
trúc bên trong đến hình thức biểu hiện bên ngoài của sự phân hóa. PHGN ở đây không
nằm ngoài hoặc bên trên PHGN trong xã hội mà được xem như một bộ phận chủ yếu
của nó. Hiện nay, PHGN ở KG đang nổi lên những đặc điểm cơ bản sau:
Một là: PHGN của các HND KG ngoài đặc điểm chung như ở các địa phương
khác trong cả nước, có những nét riêng. Đó là các tiêu chí về mặt định lượng thường
được xác định cao hơn so với chuẩn mực chung của cả nước. Điều này do sự phát triển
kinh tế của tỉnh nói chung và sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn Kiên Giang nói
riêng mà có
Hai là: PHGN của các HND KG thể hiện rất rõ theo địa bàn lãnh thổ theo phân
vùng sinh thái. Điều đó chịu ảnh hưởng của yếu tố địa lý tự nhiên, điều kiện sản xuất và
đời sống của vùng này. Những địa bàn sản xuất và đời sống khó khăn thì ở đó sự PHGN
của các HND diễn ra càng mạnh mẽ. Do đó bức tranh về PHGN trên các địa bàn sinh
thái của các HND Kiên Giang càng đa dạng mà các vùng địa phương khác không có
Ba là: PHGN của các HND KG còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa và
cơ cấu thành phần dân tộc. Cộng đồng người Hoa vốn đoàn kết và có kinh nghiệm tổ
chức sản xuất kinh doanh nên HND thành phần dân tộc này có tỷ lệ hộ nghèo là thấp
nhất. Ngược lại, HND người Khmer có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. Bên cạnh đó, HND
trong cộng đồng người Bắc di cư ở Tân Hiệp, Hòn Đất.. cũng có tỷ lệ hộ nghèo thấp
hơn. Từ đó, hình thành những gam màu sắc khác nhau trong phân hóa giàu nghèo.
Bốn là, PHGN của các HND KG là khác nhau trong các hình thức tổ chức sản
xuất nông nghiệp khác nhau. Hiện nay trong nông nghiệp KG còn nhiều hình thức tổ
chức kinh tế hợp tác: tổ đoàn kết, tập đoàn sản xuất, HTX nông nghiệp và kinh tế trang
trại, nông trại. Một điều dễ hiểu là trong kinh tế hộ cá thể, người nông dân dễ bị tổn
thương nhất. Rất nhiều những nguy cơ như thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu hiểu biết tổ
chức quản lý, thiếu thông tin, thiếu thị trường.... luôn đặt toàn bộ cơ nghiệp của họ đối
mặt với những nguy cơ đó mà nếu không vượt qua được, họ như "rơi ở trạng thái tự do"
xuống nghèo khổ. Vì thế, tỷ lệ hộ giàu ở đây là thấp, ngược lại tỷ lệ hộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phân hóa giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh Kiên Giang - thực trạng và giải pháp.pdf