Luận văn Tìm hiểu phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre

Tài liệu Luận văn Tìm hiểu phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre: LUẬN VĂN: Phân công lao động xó hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Với đà phát triển đi lên của đất nước, đặc biệt là từ sau khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển hướng quản lý nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết quả là hơn mười năm qua tình hình kinh tế xã hội của cả nước nói chung và của Bến Tre nói riêng đã có bước phát triển mới. Đời sống của nhân dân trong tỉnh đã có nhiều khởi sắc, thu nhập bình quân đầu người từ 101,8 USD năm 1991 tăng lên 187,8 USD năm 1994 và chỉ tiêu cuối năm 2000 là 280 USD. Tuy nhiên, sự chuyển biến đó đến nay vẫn còn chậm chạp, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân vẫn ở vào hạng "nghèo" trong khực vực mặc dù tiềm năng kinh tế - xã hội có thể cho là không thua kém các tỉnh bạn bao nhiêu; có lẽ đây là tình trạng khá phổ biến ở các tỉ...

pdf87 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phân công lao động xó hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Với đà phát triển đi lên của đất nước, đặc biệt là từ sau khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển hướng quản lý nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết quả là hơn mười năm qua tình hình kinh tế xã hội của cả nước nói chung và của Bến Tre nói riêng đã có bước phát triển mới. Đời sống của nhân dân trong tỉnh đã có nhiều khởi sắc, thu nhập bình quân đầu người từ 101,8 USD năm 1991 tăng lên 187,8 USD năm 1994 và chỉ tiêu cuối năm 2000 là 280 USD. Tuy nhiên, sự chuyển biến đó đến nay vẫn còn chậm chạp, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân vẫn ở vào hạng "nghèo" trong khực vực mặc dù tiềm năng kinh tế - xã hội có thể cho là không thua kém các tỉnh bạn bao nhiêu; có lẽ đây là tình trạng khá phổ biến ở các tỉnh đa phần là nông nghiệp. Thực tế trên đã được Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đánh giá: "nền kinh tế tỉnh ta phát triển chưa vững chắc một số mặt yếu kém chậm được khắc phục như công nghiệp chế biến yếu, thiết bị lạc hậu. Cơ sở hạ tầng dù các năm qua ta có nhiều cố gắng để xây dựng nhưng nhìn chung vẫn còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng. Thiếu đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và cán bộ kỹ thuật giỏi" [3, 36]. Sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh còn thấp so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, theo số liệu thống kê cuối năm 1999, tỉnh Bến Tre có gần 5,2% lực lượng lao động thất nghiệp, trong khi số lao động tăng bình quân mỗi năm là 16.500 người và dân số phi nông nghiệp lại giảm từ 8,9% năm 1990 xuống còn 3,2% năm 1998. Vậy nguyên nhân từ đâu? Chúng tôi nghĩ rằng có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là lao động, đào tạo nguồn lao động, tổ chức sử dụng nguồn lao động. Do đó nếu có chủ trương chính sách đúng, thật sự hợp lý về việc phân công lao động vào các ngành sẽ tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Bến tre phát triển nhanh và vững chắc. Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đã quan tâm đến vấn đề sắp xếp, tổ chức lao động để giải quyết việc làm cho người lao động; khẳng định đây là vấn đề bức bách hiện nay đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân trong cả nước, đặc biệt là đối với nông nghiệp, nông thôn, trong đó có tỉnh Bến Tre phải thực hiện. Căn cứ vào vị trí địa lý, vào đặc điểm kinh tế - xã hội, vào thực trạng phân công lao động thể hiện qua thành quả lao động của từng ngành, dựa vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của tỉnh Bến Tre, là phấn đấu để thu nhập bình quân đầu người 440 USD/năm; muốn thực hiện được các mục tiêu chiến lược đó thì vấn đề " Phân công lao động xó hội theo hướng hỡnh thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 - 2010)" là vấn đề đòi hỏi phải được thực hiện có hiệu quả. Do đó chúng tôi đã chọn đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu Phân công lao động xã hội là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn kinh tế - xã hội rất lớn. Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu vấn đề này ở những góc độ khác nhau, trong đó bàn nhiều về phân công lao động ở phạm vi từng địa phương, từng ngành, tiêu biểu như: "Bàn về phân công lại lao động xã hội ở Việt Nam" của Chế Viết Tấn, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982; "Phân công lại lao động xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vấn đề lao động quân sự'" của Nguyễn Đăng Khoa, chuyên ngành kinh tế chính trị, Trường đại học Biên Phòng; "Phân công lại lao động ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình (1996 - 2000)" của Nguyễn Văn Vọng, chuyên ngành kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; "Về phân công lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp" của PTS Hồ Vũ, Lao động và xã hội, tháng 2/1996, tr. 18; "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự gắn bó với phân công lại lao động xã hội" của PGS.PTS Phan Thanh Phố và Trần Huy Năng, Lao động và xã hội, 1/1994; ""Thay đổi phân công lao động theo giới" một số vấn đề đặt ra" của Lê Ngọc Văn, Khoa học về phụ nữ, 2/1999; "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nhìn từ phân công lao động xã hội" của Nguyễn Hữu Thảo, Phát triển kinh tế, số 92, 6/1998... Các công trình nghiên cứu nêu trên đã khai thác, nêu bật những tiềm năng thúc đẩy phân công lao động xã hội của từng ngành ở từng địa phương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã phân tích khá sâu sắc thực trạng và bước đầu nêu ra những giải pháp thúc đẩy phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề ở nước ta nói chung. ở Bến Tre, trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre thời kỳ 1999 - 2010 đã đề ra "từ nay đến năm 2010 nền kinh tế - xã hội của Bến Tre sẽ tiến tới hoàn chỉnh dần cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long" [26, 19]. Hiện nay, chúng tôi chưa tìm thấy đề tài nào bàn về phân công lao động theo hướng này; vì vậy, chúng tôi vận dụng một số hiểu biết của mình để góp phần tìm hiểu thêm về thực trạng phân công lao động và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phân công lao động xã hội nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế ở Bến Tre hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi xác định mục đích của đề tài là trên cơ sở những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân công lao động xã hội và khảo sát thực trạng lực lượng lao động, phân công lao động hiện nay của Bến Tre mà đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phân công lao động theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại trong vòng mười năm tới của Tỉnh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Khái quát lại những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về lao động, về phân công lao động về cơ cấu kinh tế làm cơ sở khoa học cho đề tài. 3.2.2. Phân tích một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên, kinh tế - xã hội có quan hệ trực tiếp đến tiến trình phân công lao động và hoàn thiện cơ cấu kinh tế của Bến Tre. Những đặc điểm này làm tiền đề cho việc phân công lao động mới. Khảo sát thực trạng lực lượng lao động và thực chất của việc sử dụng lực lượng lao động hiện nay, trên cơ sở đó rút ra những kết luận có căn cứ xác thực đề xuất một số giải pháp trước mắt cho việc phân công lao động theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế mới nói trên của địa phương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi không có tham vọng và cũng không có khả năng nghiên cứu hết những nội dung của phân công lao động xã hội mà chỉ tập trung nghiên cứu dự kiến phân công lao động đã được đề ra qua các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, nghiên cứu phân công lao động theo hướng từng bước hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế của Bến Tre từ nay đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài thực hiện trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về lao động, phân công lao động và cơ cấu kinh tế. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Về phương pháp chung: Chúng tôi dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Về phương pháp cụ thể: Chúng tôi sử dụng các phương pháp kết hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và các phương pháp nghiên cứu khác. 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Lần đầu tiên thực trạng của việc phân công lao động ở tỉnh Bến Tre được trình bày một cách có hệ thống. - Nêu được hệ thống giải pháp có ý nghĩa thực thi thúc đẩy quá trình phân công lao động trên địa bàn tỉnh theo hướng hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ vào năm 2010. 7. ý nghĩa của luận văn - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề xây dựng lực lượng lao động, tổ chức phân công lao động xã hội nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế mới trên địa bàn tỉnh Bến Tre. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ lãnh đạo tỉnh Bến Tre trong việc tổ chức phân công lao động theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ của tỉnh đến năm 2010. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Phân công lao động xã hội với việc hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế 1.1. Khái lược một số vấn đề lý luận cơ bản về phân công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế 1.1.1. Lao động Trong bất cứ xã hội nào con người cũng phải lao động để tồn tại. Lao động là "quá trình hoạt động tự giác, hợp lý của con người, nhờ đó, con người làm thay đổi các đối tượng tự nhiên và làm cho chúng thích ứng để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động là điều kiện đầu tiên và cơ bản của sự tồn tại của con người. Nhờ lao động, con người đã tách khỏi thế giới động vật, đã có thể chế ngự lực lượng tự nhiên và bắt chúng phục vụ lợi ích của mình, biết chế tạo công cụ lao động, có thể phát huy khả năng và kiến thức của mình; tất cả những điều đó gộp lại đã quyết định sự phát triển tiến bộ hơn nữa của xã hội" [25, 222]. Lao động là hoạt động tự giác, có tổ chức, có kế hoạch của con người và chỉ có ở con người. Trong tự nhiên mặc dù hoạt động của một số loài vật có vẻ giống như hoạt động của con người, tuy nhiên "việc sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động, tuy đã có mầm mống ở một vài loài động vật nào đó, nhưng vẫn là một nét đặc trưng riêng của quá trình lao động của con người" [ , 269]. Hoạt động tự giác đầu tiên của con người là hoạt động tác động vào tự nhiên, cho nên theo C.Mác "lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [ , 266]. Trong quá trình đó con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên một cách có mục đích, có ý thức nhằm biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Vì vậy, trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là yếu tố cơ bản, điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người, là một sự tất yếu vĩnh viễn, một điều kiện chung của sự trao đổi chất giữa con người với giới tự nhiên. Khi xã hội loài người sản xuất ra sản phẩm để trao đổi thì thực thể xã hội chung của tất cả các hàng hóa đó là lao động. Như vậy, lao động sản xuất là một quá trình hoạt động của con người do kết hợp giữa các yếu tố sức lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động. Nếu tách riêng biệt của từng yếu tố đó thì chúng ở trạng thái khả năng mà thôi. C.Mác giải thích: "Tiêu dùng sức lao động, đó chính là lao động" [13, 265]. Vậy sức lao động là gì? C.Mác cho rằng: "Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [13, 251]. Thế nên, sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất trong quá trình lao động. Nó phát động và đưa các tư liệu lao động vào hoạt động. Nó là yếu tố chi phối của quá trình sản xuất, đồng thời cũng là yếu tố mang lại lợi ích cho quá trình sản xuất. Sự phân công lao động xã hội phát triển càng sâu sắc, sự xã hội hóa nền sản xuất càng cao thì tính chất xã hội của sức lao động của mỗi người càng nhiều hơn. Qua sự phân tích ở trên có thể khái quát mấy đặc trưng cơ bản của lao động: - Lao động là sự vận dụng sức lao động thông qua công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên trong quá trình sản xuất ra những giá trị sử dụng. - Lao động của con người là hoạt động tự giác, có ý thức. - Lao động là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. - Trong quá trình lao động con người không những sáng tạo ra lịch sử mà còn sáng tạo ra cả chính bản thân mình. - Lao động do đó là một phạm trù vĩnh viễn. Những đặc trưng nêu trên của lao động đồng thời cũng nói lên lợi ích của lao động. Giai cấp thốngtrị lợi dụng những đặc trưng đó của lao động, biến nó thành công cụ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị thông qua quá trình tổ chức và phân công lao động xã hội. 1.1.2. Phân công lao động xã hội Phân công lao động xã hội là sự phân chia những người lao động thành nhiều loại để chuyển những lao động cụ thể khác nhau vào những ngành sản xuất khác nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo nên sự tách rời giữa các ngành sản xuất xã hội, hình thành những ngành sản xuất chuyên môn hóa và những vùng sản xuất chuyên môn hóa. Phân công lao động xã hội theo Lênin là sự phân chia, sự tách rời nhau giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Trong mỗi ngành đó lại chia ra nhiều loại nhỏ. Phân công lao động xã hội là nét đặc trưng của nền kinh tế hàng hóa, phân biệt nền kinh tế hàng hóa với nền kinh tế tự nhiên. Như vậy, phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành ngành, thành loại, thành thứ khác nhau để sản xuất ra các giá trị sử dụng hay hàng hóa khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định của xã hội. C.Mác viết: "Toàn bộ những giá trị sử dụng hay vật thể hàng hóa khác nhau thể hiện toàn bộ những lao động có ích, cũng nhiều hình nhiều vẻ, cũng chia ra bấy nhiêu loại, giống, họ, nhánh và biến chủng khác nhau - nói tóm lại là thể hiện sự phân công lao động xã hội" [13, 72]. Theo khái niệm đó, phân công lao động là sự tồn tại đồng thời của nhiều loại lao động và sự phân chia đó làm tách rời các loại lao động khác nhau. Đồng thời tạo nên mối liên hệ tất yếu phụ thuộc lẫn nhau giữa các loại lao động đã được phân chia. Sự ràng buộc giữa chúng do sự bảo đảm những điều kiện vật chất của sản xuất quyết định. Theo từ điển Triết học, phân công lao động "là hệ thống các loại lao động, chức năng sản xuất công việc nói chung được phân biệt theo những dấu hiệu của mình và đồng thời tác động qua lại lẫn nhau, cũng như là hệ thống các mối liên hệ xã hội giữa chúng". "Phân công lao động xã hội với tư cách là hoạt động của con người, khác với sự chuyên môn hóa, là một quan hệ xã hội có tính chất tạm thời trong lịch sử. Sự chuyên môn hóa lao động là việc phân chia các loại lao động theo đối tượng; nó trực tiếp biểu hiện sự tiến bộ của các lực lượng sản xuất và góp phần thúc đẩy sự tiến bộ đó" [24, 436]. Trong các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội như sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng thì phân công lao động xã hội thuộc phạm trù sản xuất. Bởi vì, theo khái niệm phân công lao động xã hội bao hàm sự phân chia lao động và các điều kiện sản xuất khác trong xã hội. Như vậy, phải có sự phân công này thì quá trình sản xuất mới diễn ra, sản xuất là khởi điểm của quá trình tái sản xuất. Nếu không có sản xuất thì các quá trình tiếp theo như phân phối, trao đổi, tiêu dùng không thể có được. Phân công lao động thuộc phạm trù sản xuất nên nó là phạm trù vĩnh viễn, tuy nhiên hình thức biểu hiện của nó sẽ thay đổi. Phân công lao động xã hội hình thành trong quá trình lao động sản xuất xã hội, nó có bước phát triển từ thấp đến cao, từ giản đơn đến tỷ mỷ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động rõ nét nhất mỗi khi xuất hiện hình thái kinh tế xã hội mới. Như vậy, xét về tính chất của phân công lao động thì nó thuộc về quan hệ sản xuất. C.Mác cho rằng: "Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc bộc lộ rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công theo lao động... Những giai đoạn phát triển khác nhau của phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu" [14, 11]. Tóm lại, "phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa lao động và theo đó là chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau" [7, 116]. Phân công lao động xã hội bao gồm sự phân công lao động nói chung, phân công lao động đặc thù và phân công lao động cá biệt. - Phân công lao động đặc thù. Trong quá trình phát triển của bản thân mỗi ngành sản xuất, phân công lao động lại được diễn ra trong nội bộ mỗi ngành. Tức là khi công cụ lao động có bước phát triển và trình độ sản xuất của người lao động ngày càng nâng lên thì sự phân chia trong cùng ngành cũng ngày càng phát triển. Phân công lao động trong nông nghiệp là sự phân công lao động đặc thù. Trong ngành nông nghiệp, lúc đầu việc trồng trọt và chăn nuôi không phân định rõ, dần dần hình thành việc chuyên trồng trọt, chuyên chăn nuôi; trong trồng trọt lại phân công lao động chuyên trồng cây lượng thực, chuyên trồng cây công nghiệp. Mặt khác, cũng trong ngành nông nghiệp, lúc đầu sản xuất và chế biến nông sản gắn chặt nhau như một chức năng kinh tế, dần dần chế biến nông sản mới hình thành một cách riêng biệt có chức năng kinh tế khác với sản xuất nông nghiệp và tách khỏi sản xuất nông nghiệp. Phân công lao động trong nông nghiệp có hai hình thức cơ bản, đó là phân công lao động theo ngành và phân công lao động theo vùng lãnh thổ. Sở dĩ có sự phân công lao động theo vùng lãnh thổ là do đặc điểm riêng biệt của sản xuất nông nghiệp, vì sản xuất nông nghiệp gắn rất chặt với điều kiện tự nhiên: đất đai, thời tiết, khí hậu từng miền, từng vùng lãnh thổ. Tóm lại, theo C.Mác thì sự phân công lao động đặc thù là sự phân chia ngành sản xuất ra thành loại và thứ. - Phân công lao động cá biệt Phân công lao động là một phạm trù gắn liền với tất yếu kỹ thuật của sản xuất. Sản xuất chuyên môn hóa đòi hỏi lao động phải chuyên môn hóa. Chuyên môn hóa trong nông nghiệp khác hẳn với chuyên môn hóa trong công nghiệp. Phân công lao động trong công nghiệp là phân công lao động độc chuyên, còn phân công lao động trong nông nghiệp là phân công lao động theo chuyên khâu. Phân công lao động trong xí nghiệp hay phân công lao động cá biệt như C.Mác thường gọi là sự phân công trong xưởng thợ. Đó là sự phân công công việc cho người lao động cá biệt, là sự phân chia chức năng, nhiệm vụ giữa những người lao động cùng sản xuất ra một sản phẩm trong nội bộ từng xí nghiệp riêng biệt. C.Mác - Ph.Ăngghen viết: "Nếu chỉ xét riêng bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn như nông nghiệp, công nghiệp v.v... là sự phân công lao động chung và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành loại và thứ - là sự phân công lao động đặc thù, còn sự phân công lao động trong xưởng thợ là sự phân công lao động cá biệt" [13, 509- 510]. ở nước ta, phân công lao động trong hợp tác xã nông nghiệp vừa có sự phân công lao động đặc thù (phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp) vừa có sự phân công lao động cá biệt (tổ chức các tổ, đội lao động phân công công việc cho từng người lao động). Như vậy, phân công lao động cá biệt, tổ chức lao động gắn liền với quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất. 1.1.3. Cơ cấu kinh tế 1.1.3.1. Khái niệm Trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế chỉ rõ trình độ kinh tế, nó xác định nền kinh tế của một quốc gia đang ở trình độ cao hay thấp; vì vậy, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Để nhận dạng cơ cấu kinh tế của một quốc gia, người ta thường dựa vào quy mô của từng ngành, vị trí kinh tế và sự tác động của nó đối với toàn bộ nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Cũng như phân công lao động xây dựng, cơ cấu kinh tế không chỉ được hình thành một cách thụ động trong những điều kiện khách quan; con người có thể xác lập cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ hơn; tuy nhiên, không thể tùy tiện mà cần dựa vào trình độ mọi mặt của người lao động, dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội hiện thực và yêu cầu sản xuất - tiêu dùng của xã hội để phân công lao động vào các ngành kinh tế theo hướng cơ cấu kinh tế mới, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Do đó, cơ cấu kinh tế có quan hệ mật thiết với phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội hình thành các lĩnh vực, các ngành mới. Các lĩnh vực, các ngành kinh tế trong xã hội có quan hệ với nhau; chúng vừa hợp tác, hỗ trợ nhau, vừa cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển; trong quá trình đó cơ cấu kinh tế hình thành. Như vậy, phân công lao động xã hội và sự tác động giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế là cơ sở để hình thành cơ cấu kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Bởi vì lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy phân công lao động xã hội, khi phân công lao động có sự tự giác thì nó là một mặt trong quan hệ sản xuất, mà cơ sở để hình thành cơ cấu kinh tế là phân công lao động xã hội. Khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế, C.Mác cho rằng: đó là một sự phân chia về mặt chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá trình tái sản xuất xã hội. Rõ ràng, giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế có quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối ổn định trong những điều kiện cụ thể. Xem xét cơ cấu kinh tế, người ta không chỉ hình dung nó ở phạm vi của một quốc gia, mà cả của một ngành, một địa phương, thậm chí cả của một khu vực gồm nhiều quốc gia trên thế giới. Bởi vì, khi nền kinh tế thị trường phát triển rộng rãi, đòi hỏi quốc tế hóa đời sống kinh tế của người lao động, thì nhiều khu vực kinh tế trên thế giới có ưu thế riêng, hình thành cơ cấu kinh tế riêng của khu vực. Từ những vấn đề nêu trên, có thể khái quát cơ cấu kinh tế như sau: cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế, chúng có quan hệ hữu cơ với nhau và được sắp xếp theo vị trí, tỷ lệ nhất định cho phù hợp với những điều kiện cụ thể. 1.1.3.2. Nội dung cơ cấu kinh tế Như đã phân tích ở trên, nghiên cứu cơ cấu kinh tế thực chất là nghiên cứu cơ cấu kinh tế kỹ thuật và cơ cấu kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân, trong đó có cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Cơ cấu kinh tế kỹ thuật là quan hệ tỷ lệ về lao động, thiết bị, vốn... và sự tác động của chúng trong nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế xã hội là quan hệ về vị trí, vai trò và sự tác động của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, cơ cấu ngành kinh tế cũng phát triển đa dạng. Cơ cấu ngành kinh tế là cơ cấu kinh tế được sắp xếp theo vị trí, vai trò của các ngành như: nông - công nghiệp - dịch vụ hoặc có sự đảo ngược giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân tùy vào điều kiện cụ thể. Cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ biểu hiện các quan hệ: - Giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ về cơ cấu kinh tế kỹ thuật, cơ cấu kinh tế xã hội. - Giữa nội bộ các ngành kinh tế về cơ cấu kinh tế kỹ thuật, cơ cấu kinh tế xã hội, bao gồm: + Quan hệ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. + Quan hệ giữa công nghiệp, TTCN, xây dựng. + Quan hệ giữa các dịch vụ: du lịch, thương mại, thông tin, giao thông vận tải,... Trong ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế còn biểu hiện ở quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi. Trong ngành trồng trọt, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa trồng cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp. Cơ cấu cây trồng công nghiệp biểu hiện quan hệ giữa cây công nghiệp ngắn ngày và cây công nghiệp dài ngày. Cơ cấu kinh tế cho cây lương thực biểu hiện quan hệ giữa cây lúa và cây màu khác. Trong ngành ngư nghiệp, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Trong ngành nuôi trồng và đánh bắt hải sản lại bao gồm quan hệ giữa: Nuôi thủy sản nước ngọt, nuôi thủy sản nước mặn. Thủy sản ngắn ngày và dài ngày. Nuôi cá, tôm và các thủy sản khác. Đánh bắt trên sông, trên biển,... Trong ngành công nghiệp, cơ cấu kinh tế thể hiện quan hệ giữa: công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp. Sản xuất tư liệu tiêu dùng trong những ngành này còn có quan hệ giữa những ngành nhỏ khác. Công nghiệp khai thác trên biển, khai thác nội địa. Trong ngành xây dựng, cơ cấu kinh tế biểu hiện quan hệ giữa quy hoạch xây dựng, thiết kế xây dựng và ngành trực tiếp thi công xây dựng. Về cơ cấu kinh tế vùng: Nghiên cứu cơ cấu kinh tế vùng là nghiên cứu cơ cấu kinh tế của một vùng lãnh thổ có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương đương nhau. Vì thế, vùng kinh tế không chỉ được đề cập đến những vùng rộng lớn trong một quốc gia mà còn đề cập đến những vùng có phạm vi nhỏ trong một địa phương, một tỉnh. Nội dung cơ cấu kinh tế vùng thể hiện quan hệ: Giữa các vùng kinh tế trong một nền kinh tế nhất định. Giữa các ngành trong nội bộ vùng kinh tế. Khi đề cập đến cơ cấu kinh tế vùng, cần nghiên cứu quan hệ giữa vùng đồng bằng với vùng cao. Trong vùng đông fbằng cũng cần nghiên cứu cơ cấu kinh tế giữa những vùng: nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Trong vùng cao cũng cần nghiên cứu cơ cấu kinh tế giữa vùng gò đồi với vùng núi. Tóm lại, nội dung cơ cấu kinh tế gồm nhiều mối quan hệ giữa các ngành, các vùng kinh tế. Nắm vững mối quan hệ này, có tác động thích hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, từng vùng mới mong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.1.3.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển nói chung, muốn có một nền kinh tế phát triển đều phải dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi nước mà xây dựng cơ sở kinh tế ban đầu để đi lên nền sản xuất lớn. Những nước này đều tiến hành xây dựng và hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ và khi có nền kinh tế phát triển ổn định đều có xu hướng chuyển dịch sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ. Riêng Việt Nam, là một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, từ một xã hội sau chiến tranh tàn khốc cho nên cơ cấu kinh tế khởi đầu là nông nghiệp thuần túy, sau nhiều năm cơ cấu kinh tế đã chuyển dần từng bước sang cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Qua thực tiễn, phân công lao động xã hội đã phát triển, đã hình thành mô hình cơ cấu kinh tế mới là cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ và xu hướng chung của các địa phương trong cả nước là chuyển dịch dần sang cơ cấu kinh tế này. Để có một nền kinh tế phát triển theo kịp với các nước trong khu vực, Việt Nam phải cố gắng chuyển dần sang cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ, đặc biệt đối với những tỉnh đất hẹp người đông như tỉnh Bến Tre thì càng phải chuẩn bị những điều kiện để chuyển dần sang cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ mới có thể có một nền kinh tế phát triển được, nhưng trước mắt Bến Tre vẫn là một tỉnh với nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Vì thế những năm trước mắt Bên Tre vẫn phải theo hướng xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ngày càng hiện đại, tạo tiền đề vật chất sau năm 2010 chuyển sang xây dựng cơ cấu kinh tế mới hiện đại, phù hợp cơ cấu kinh tế của cả nước. ở nước ta hiện nay, xu hướng xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ là cơ sở để tổ chức đội ngũ lao động, phân công lao động cho phù hợp với yêu cầu của những ngành nghề trong nền kinh tế. Vì vậy, xu hướng phân công lao động xã hội hiện nay là phân công lao động theo hướng ưu tiên cho công nghiệp mới đến nông nghiệp và dịch vụ. 1.2. tác động của phân công lao động xã hội đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế 1.2.1. Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển Lịch sử kinh tế - xã hội chỉ cho chúng ta thấy rằng quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là quá trình không ngừng phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lớn mạnh đó là nhờ tác động của phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được sự phân công lao động xã hội thì đòi hỏi lực lượng sản xuất phải đạt được trình độ phát triển nhất định. Trong xã hội công xã nguyên thủy cũng đã hình thành bước đầu sự phân công lao động, tuy nhiên sự phân công lao động đó mới ở hình thức đơn giản nhất, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đương thời, mang đậm nét giới tính. Chẳng hạn đàn ông thì săn bắn, đánh cá; đàn bà thì hái lượm hoa quả, trông nom việc nhà, làm nghề nông và chăn nuôi v.v... Còn người già thì chế tạo công cụ lao động thô sơ. C.Mác - Ph.Ăngghen đã viết: "Lúc đầu chỉ là sự phân công lao động trong hành vi theo giới tính và về sau là phân công lao động tự hình thành hoặc hình thành một cách tự nhiên", do những thiên tính bẩm sinh (như thể lực chẳng hạn) do những nhu cầu, do những sự ngẫu nhiên" [9, 44- 45]. Sang chế độ chiếm hữu Nô lệ và chế độ Phong kiến do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội cũng ngày càng phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 của CNTB đã đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ cao. Hàng loạt máy móc, công cụ sản xuất chuyên môn hóa ra đời đã làm cho quá trình chuyên môn hóa lao động gắn chặt với chuyên môn hóa công cụ lao động, lao động càng chuyên môn hóa sâu thì công cụ lao động cũng ngày càng được hoàn thiện. Quá trình đó cũng thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. C.Mác cho rằng: Khi những công việc khác nhau trong một quá trình lao động bị tách khỏi nhau và mỗi một công việc bộ phận trong tay người công nhân bộ phận, đã có được cái hình thái thích hợp nhất và do đó cũng là hình thái độc chuyên, thì lúc đó nảy sinh sự cần thiết phải thay đổi công cụ trước kia dùng vào nhiều mục đích khác. Khi công cụ được chuyên môn hóa cao thì phân công lao động ngày càng phát triển, nhưng trong điều kiện chưa có công cụ chuyên dùng, nghĩa là trong khi còn phải lao động bằng công cụ thủ công là chủ yếu thì trong quá trình lao động con người bao giờ cũng muốn giảm nhẹ sức lao động của mình, thì riêng việc thực hiện phân công lao động xã hội cũng tạo ra một sức sản xuất mới và năng suất lao động cao hơn. "Trong nền sản xuất dựa trên cơ sở lao động thủ công, kỹ thuật chỉ có thể tiến bộ được dưới hình thức phân công thôi" [8, 535]. Điều đó cũng chỉ rõ là cùng một trình độ của lực lượng sản xuất, nhưng mỗi người làm một việc thì năng suất lao động sẽ cao hơn là khi người đó phải làm nhiều việc. Khi phân tích sự phân công trong công trường thủ công, C. Mác cũng chỉ ra rằng: Do phân tích hoạt động của các nghề thủ công, do chuyên môn hóa các công cụ, do đào tạo công nhân bộ phận, do chia nhóm và kết hợp vào tổng cơ cấu, sự phân công trong công trường thủ công tạo ra một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội. Nghĩa là tạo ra một tổ chức lao động xã hội nhất định, cùng với điều đó thì cũng đồng thời phát triển một sức sản xuất mới, có tính chất xã hội của lao động. Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, lực lượng sản xuất có bước phát triển vượt bậc và cũng là sự phát triển mạnh mẽ của sự phân công lao động xã hội. Trong giai đoạn này, do sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế đã mang tính chất quốc tế, tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất càng lớn thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa càng gay gắt. Muốn duy trì chủ nghĩa tư bản, bảo vệ những lợi ích độc quyền của giai cấp tư sản, nhà nước tư sản đã can thiệp ngày càng sâu vào quá trình kinh tế nói chung và sự phân công lao động nói riêng. Trong giai đoạn lịch sử này, phân công lao động xã hội vừa diễn ra tự phát theo yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, vừa có sự tác động một cách tự giác theo các kế hoạch phát triển kinh tế và sử dụng nguồn lao động được chuẩn bị của nhà nước tư sản. Đến nay nhân loại đã trải qua và đang đi tới những phương thức sản xuất xã hội khác nhau, thực tiễn lịch sử đó đã chỉ cho chúng ta thấy: sự phát triển của phân công lao động xã hội luôn luôn được biểu hiện qua sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phát triển các hình thức phân công lao động xã hội cũng tác động mạnh trở lại đối với sự phát triển của lượng sản xuất. Mác - Ăngghen đã khẳng định: "Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc bộc lộ rõ nét nhất ở trình độ phát triển của phân công lao động xã hội" [9, 30]. Đồng thời sự phát triển của phân công lao động xã hội đến lượt nó lại thúc đẩy sức sản xuất của lao động phát triển. Mác Viết: "Sức sản xuất của lao động chủ yếu phải phụ thuộc vào sự phân công lao động" [12, 175]. Phân công lao động xã hội đã thúc đẩy quá trình sử dụng công cụ ngày càng hiện đại hơn làm tăng sức sản xuất của lao động xã hội và hiệu quả tất yếu dẫn đến năng suất lao động xã hội tăng lên. Năng suất lao động tăng lên nói lên trình độ tiến bộ của người lao động và trình độ, năng lực của người lao động trở thành điều kiện để sử dụng công cụ hiện đại. Nói về mối quan hệ này, Mác giải thích: "Việc phát triển sản xuất cơ khí cũng giống như việc mở rộng phân công lao động, sẽ dẫn đến một việc là: trong khoảng thời gian ngắn hơn có thể sản xuất được nhiều hơn gấp bội" [11,740]. Cũng vì thế mà một phát minh lớn nào về công cụ lao động về máy móc cũng đều đem lại một sự phân công lao động mới hơn và ngược lại mỗi lần phân công lao động cao hơn lại thúc đẩy sự ra đời những phát minh mới về máy móc. Đến lượt nó máy móc ảnh hưởng đến sự phân công lao động đến mức khi người ta đã tìm được cách đưa một phần máy móc vào nghề chế tạo một vật phẩm nào đó thì nghề chế tạo ấy tách thành 2 ngành kinh doanh độc lập với nhau. C. Mác - Ph.Ăngghen cho rằng: "Với việc sử dụng máy móc, phân công lao động trong xã hội đã tăng lên, công việc của người công nhân trong nội bộ công xưởng đã trở thành giản đơn hơn, tích tụ tư bản tăng lên, con người càng bị phân chia hơn" [10, 221]. Như vậy, phân công lao động xã hội đã kích thích sử dụng máy móc và nâng cao năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả của sự phát triển mới về phân công lao động xã hội. Tóm lại, phân công lao động với tư cách là sự chuyên môn hóa sản xuất, đã tạo điều kiện phát triển máy móc và nâng cao trình độ của người lao động, từ đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã đánh dấu 3 lần phân công lớn: Việc tách các bộ lạc chăn nuôi ra khỏi toàn khối bộ lạc là sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ nhất. Nó đã đẩy mạnh năng suất lao động xã hội và tạo tiền đề vật chất cho sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp. Trong lịch sử kinh tế xã hội có một giai đoạn sản xuất mà nghề thủ công là nghề phụ nằm trong nghề nông, đến khi nghề thủ công tách biệt khỏi nông nghiệp, điều đó được xem là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai. Lần phân công này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao một bước nữa năng suất lao động xã hội. Nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển, sản xuất hàng hóa càng tăng là tác nhân kích thích việc hình thành tầng lớp thương nhân, ngành mới xuất hiện đánh dấu sự phân công lao động xã hội lần thứ ba. Lênin viết: Sự chuyên môn hóa lao động xã hội do bản chất của nó là vô tận, cũng giống như sự phát triển của kỹ thuật vậy. Muốn nâng cao được năng suất lao động của con người, ví dụ nhằm làm ra một bộ phận nào đó của một sản phẩm toàn bộ, thì cần làm cho việc sản xuất bộ phận đó được chuyên môn hóa, trở thành một ngành sản xuất riêng biệt, sản xuất được hàng loạt sản phẩm và vì lẽ đó có thể là cần phải sử dụng máy móc. Qua đây, chúng ta thấy việc chuyên môn hóa lao động cũng là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tăng thêm tính chất xã hội hóa của sản xuất. 1.2.2. Phân công lao động thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển Phân công lao động xã hội hình thành dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phân công lao động xã hội đã thúc đẩy những ngành sản xuất độc lập, những ngành sản xuất chuyên môn hóa tạo ra những sản phẩm mới thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng làm cho nền kinh tế hàng hóa phát triển ngày càng sâu, rộng và do đó cũng thúc đẩy thị trường phát triển mạnh. Do vậy, phân công lao động là điều kiện của nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của thị trường. Lênin đã khẳng định: "Sự phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa... phân công xã hội là nhân tố chủ yếu trong quá trình hình thành thị trường trong cả nước của chủ nghĩa tư bản" [8, 23]. Người còn kết luận: Như vậy sự phân công xã hội là cơ sở của toàn bộ quá trình phát triển của kinh tế hàng hóa của chủ nghĩa tư bản. Lịch sử kinh tế xã hội đã chỉ rõ phân công lao động xã hội càng cao thì thị trường càng đa dạng, phong phú. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển thì đồng thời số lượng các ngành sản xuất riêng biệt, độc lập cũng tăng lên. Khi nền kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển lại tác động đến tiến trình mới của sự phân công lao động xã hội. Tầng lớp thương nhân ra đời, như vậy chức năng tiêu thụ sản phẩm tách khỏi chức năng sản xuất, hình thành đội ngũ lao động chuyên làm trong lĩnh vực lưu thông. Sự chuyên môn hóa như trên là cơ sở cho sự tách rời giữa các ngành. Trong ngành công nghiệp, một khi đã sản xuất ra hàng hóa, tức là cũng đặt ra vấn đề cần trao đổi đầu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp. Rõ ràng kinh tế hàng hóa có vai trò tích cực đối với phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội không chỉ thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa nói chung phát triển mà còn làm phong phú thêm giá trị sử dụng của hàng hóa, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của nhân dân và góp phần mở rộng thị trường thế giới. 1.2.3. Phân công lao động xã hội góp phần củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Phân công lao động xã hội không chỉ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mà còn có tác động đến việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Như trên đã nói phân công lao động xã hội vừa phản ánh tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vừa là động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên quan hệ sản xuất lại là hình thức của lực lượng sản xuất nên chúng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, do đó phân công lao động xã hội cũng góp phần củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Như ta đã biết, quan hệ sản xuất gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm, trong ba mối quan hệ đó thì quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất đã bao hàm sự phân công lao động xã hội và qua đó Nhà nước đã tác động vào quá trình phân công lao động xã hội. Nếu tác động phù hợp với quy luật khách quan sẽ có tác động tốt đến việc phát triển lực lượng sản xuất và do đó có tác động trực tiếp đến việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Nước ta đã chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế quản lý hành chính bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy, các hình thức mới của quan hệ sản xuất vừa phải phù hợp với quá trình tổ chức và phân công lao động xã hội, vừa phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong từng ngành, từng đơn vị sản xuất nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và tài nguyên của đất nước. Vấn đề này đã được nêu rõ trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: "Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường là cốt để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ cho mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa" [1, 4]. Phân công lao động xã hội có tác động thúc đẩy việc hoàn thiện quan hệ sản xuất, nhưng việc thúc đẩy đó nhanh hay chậm, đúng định hướng hay không còn tùy thuộc vào phương thức quản lý nền kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta, thực tiễn đòi hỏi Nhà nước phải nhận thức cho được sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế thị trường đối với phân công lao động xã hội, từ đó có giải pháp và chính sách hợp lý tác động có hiệu quả đến tiến trình phân công lao động xã hội nhằm vừa thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển vừa hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nước ta. 1.2.4. Mối quan hệ của nhận thức với hiện thực khách quan trong tiến trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế Khi lãnh đạo quản lý nền kinh tế, bất kỳ Nhà nước nào cũng đều phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, điều kiện địa lý tự nhiên khác của đất nước, của địa phương để xác định cơ cấu kinh tế. Bởi vì, quá trình lao động sản xuất bao giờ cũng là sự kết hợp giữa lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động; tài nguyên thiên nhiên là đối tượng có sẵn trong tự nhiên, Nhà nước căn cứ vào loại tài nguyên nào nhiều hay ít mà tập trung lực lượng lao động để khai thác nhằm thu được nguồn lợi kinh tế nhanh nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Nhà nước còn phải căn cứ vào nguồn lao động về thể lực, trí lực, trình độ chuyên môn sản xuất, kinh nghiệm sản xuất mà phân bố lực lượng lao động vào các ngành nghề cho phù hợp với khả năng của người lao động, có như vậy mới tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo. Ngoài ra, nhà nước còn phải căn cứ vào điều kiện địa lý tự nhiên của các vùng trong nước, của từng địa phương mà bố trí lực lượng lao động nhằm khai thác thế mạnh kinh tế của đất nước. Do vậy, việc xác định cơ cấu kinh tế phải tùy thuộc vào các nguồn lực vật chất hiện có của đất nước mới mong thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế phải dựa trên thế mạnh kinh tế của quốc gia, của địa phương ở từng thời kỳ nhất định để xác định hướng sản xuất trọng tâm, xác định các ngành kinh tế, từ đó có hướng đầu tư về tài chính theo tỷ lệ thích hợp cho các ngành kinh tế, có kế hoạch đào tạo cán bộ, đào tạo đội ngũ lao động lành nghề cho từng ngành và phân bổ lao động cho hợp lý, do đó cơ cấu kinh tế mới dần dần hình thành và phát triển. Nhưng muốn có cơ cấu kinh tế hợp lý phải căn cứ vào khả năng dự đoán chủ quan của con người, trong đó thực tiễn khách quan là căn cứ quan trọng nhất. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế của một quốc gia là nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hay công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ,.... đều phải tùy vào lực lượng lao động trong nông nghiệp hay lực lượng lao động trong công nghiệp... là chủ yếu mà hình thành nên. Nếu không căn cứ vào thực tế phân công lao động xã hội mà tùy tiện hoạch định cơ cấu kinh tế thì sẽ không phát huy được sức mạnh của cơ cấu kinh tế mới, sẽ xem như lý luận không xuất phát từ thực tiễn và vì thế mà lý luận sẽ không phục vụ thực tiễn, cơ cấu kinh tế không thúc đẩy phân công lao động xã hội. Như vậy, phân công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhau, hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế là cơ sở thúc đẩy phân công lao động xã hội và ngược lại. Xây dựng cơ cấu kinh tế mới là cơ sở để thực hiện sự phân công lao động xã hội mới. Phân công lao động xã hội càng phát triển, nhiều ngành, nghề mới được hình thành sẽ tác động mạnh đến tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nắm vững quan hệ này những nhà quản lý kinh tế sẽ quản lý tốt và kích thích nền kinh tế phát triển. Tóm lại, cơ cấu kinh tế không phải tự nó hình thành, nó cũng không thể do ý chí chủ quan của chủ thể quản lý vĩ mô; dù đó là cơ cấu kinh tế của cả nước, của một địa phương, hay cơ cấu nội bộ của một ngành kinh tế; mà phải là sự kết hợp nhuần nhuyễn lý luận, đường lối chiến lược kinh tế với hiện thực khách quan - có như vậy mới có thể xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, và hình thành từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Chương 2 Thực trạng phân công lao động xã hội và những vấn đề đặt ra hiện nay ở tỉnh Bến Tre Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở Bến Tre là một tất yếu như các tỉnh khác nông nghiệp, tuy nhiên do điều kiện kinh tế xã hội và điều kiện tự nhiên của tỉnh Bến Tre có những nét đặc trưng riêng, làm cho quá trình phân công lao động xã hội có những nét đặc thù. Điều đó đòi hỏi những người có trách nhiệm đối với quá trình này cần phải nắm bắt, nhất là việc xây dựng lực lượng lao động để hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ của tỉnh. 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến tiến trình phân công lao động của tỉnh 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên Bến Tre là một trong mười hai tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, nằm về phía Đông Nam của vùng. Tỉnh Bến Tre là một vùng đất thấp được bồi lắng qua nhiều thế kỷ bởi bốn nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên), hình thành nên ba dãy cù lao, trong đó có ba cù lao lớn là: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt mà cán quạt nằm ở phía thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như những nan quạt xòe rộng ra ở phía Đông. Phía Bắc của Bến Tre giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền; phía Tây và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên; phía Đông giáp biển Đông với chiều dài hơn 65km. Diện tích tự nhiên vùng đất liền của tỉnh Bến Tre là 2.287 km2 (chiếm 0,68% diện tích cả nước và 5,68% diện tích đồng bằng sông Cửu Long) và vùng lãnh hải khoảng 20.000 km2. Địa hình tỉnh Bến Tre tương đối bằng phẳng, nơi cao nhất không quá 5 mét, thấp dần theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam và ra biển, trong đó địa hình có độ cao từ 1-2 mét chiếm trên 90% diện tích, toàn tỉnh bị ngập nước một phần khi có triều cường từ tháng 9 đến tháng 12. "Đặc điểm nổi bật của vị trí địa lý kinh tế là Bến Tre nằm ở cửa hệ thống sông Mê Công, tốc độ bồi lắng lớn, cùng với những khó khăn về xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghiệp, và đô thị là những tác động xấu từ bên ngoài như dễ bị xâm lấn mặn, ô nhiễm v.v..." [26, 2]. - Về đất đai của tỉnh Bến Tre gồm nhiều loại và được phân làm bốn nhóm chính: + Nhóm đất phù sa: diện tích khoảng 66.000 ha (35% diện tích toàn tỉnh) nằm trên khu vực phía Tây. + Nhóm đất phù sa nhiễm mặn (từ lợ đến mặn): hơn 96.000 ha (khoảng 50% diện tích toàn tỉnh) đã và đang được cải tạo cho nhiều mục đích sử dụng; từ trồng lúa, các cây công nghiệp như mía, dừa; cây ăn trái khác đến làm muối, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng. + Nhóm đất phèn: diện tích khoảng 15.000 ha, đang được cải tạo để trồng lúa. + Nhóm đất giồng cát: diện tích hơn 14.000 ha (khoảng 7% diện tích toàn tỉnh) thích hợp cho trồng rau màu, các loại cây lâu năm, cây công nghiệp ngắn ngày và là nơi tập trung dân cư. Gần đây do việc xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống thoát nước ra biển, nước mặn đã lấn sâu vào đất liền, thu hẹp đáng kể vùng ngọt và ngọt hóa của tỉnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên đất và nước, đặc biệt là hệ thực vật, làm biến động các hệ sinh thái của tỉnh Bến Tre. Tóm lại, thời gian qua quỹ đất của Bến Tre được sử dụng khá triệt để. Đáng chú ý là quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây công nghiệp và cây ăn quả, cũng như quá trình gia tăng các loại đất lâm nghiệp, diêm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và đất thủy lợi. Sự dịch chuyển cơ cấu sử dụng đất 8 năm qua khá cao (22%) và được đánh giá là đúng hướng. Nó đã có tác động tích cực lên gia tăng giá trị và cơ cấu sản xuất của khu vực I. Tuy nhiên, quỹ đất dành cho cơ sở hạ tầng và các công trình dân dụng vẫn còn thấp, chưa đáp ứng những yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội Bến Tre. - Về khí hậu: Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ bình quân là 27,30C; độ ẩm bình quân là 81-82%; số giờ nắng trung bình 7,2 giờ/ngày; lượng mưa hàng năm trung bình từ 1264mm đến 1498,2mm. ở Bến Tre phân bố thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5-11, mùa khô từ tháng 12-04; gió hướng Tây - Tây Nam vào mùa mưa và hướng Đông - Đông Bắc vào cuối mùa mưa và mùa khô. - Sông ngòi của tỉnh Bến Tre chằng chịt gồm 4 nhánh sông lớn (sông Tiền dài 90km, sông Ba Lai dài 70km, sông Hàm Luông dài 72km, sông Cổ Chiên dài 87km), và nhiều kênh rạch nối các con sông lại với nhau. Với "46 kênh, rạch chính có tổng chiều dài 343km, các con sông bao bọc và chia cắt làm cho tỉnh Bến Tre thành một cù lao bốn bề sông nước" [18, tr. 12]. Thủy triều ở Bến Tre lên xuống 2 lần mỗi ngày, mỗi tháng có 2 kỳ triều cường, đỉnh triều cường cao nhất vào tháng 10 đến tháng 12. Bến Tre bị nước mặn xâm nhập nghiêm trọng nhất vào mùa khô, độ mặn biến thiên theo từng tháng do ảnh hưởng của thủy triều, gió và lượng nước nguồn đổ về. Trong những năm gần đây, nhất là năm 1998 nước mặn xâm nhập sâu hơn, mặn 4% của tháng 4 năm 1998 đã bao phủ hơn 90% diện tích của tỉnh, đây là vấn đề bức xúc cho sản xuất và đời sống nhân dân. Theo đánh giá của ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre: "Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa và nền nhiệt cao, ổn định quanh năm, ít bão. Tuy nhiên, trong 10 năm gần đây, tình hình khí hậu thủy văn diễn biến khá phức tạp tạo nên tình trạng ngập lũ, bão lốc, xâm nhập mặn sâu và rộng trên hầu hết các địa bàn" [26, tr. 2]. Với điều kiện tự nhiên như trên, Bến Tre một mặt thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, lưu thông thuận tiện bằng đường thủy..., nhưng mặt khác tạo không ít khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống, do diện tích đất nhiễm mặn lớn vào mùa khô và cách trở lưu thông bằng đường bô, khó thu hút đầu tư quốc tế và kể cả trong nước. Để đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Bến Tre muốn phát triển kịp các tỉnh lân cận cần phải chú trọng xây dựng nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, cải tạo môi trường, phát triển ngành nghề thích hợp với điều kiện tự nhiên. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre 2.1.2.1. Về dân số ở Bến Tre có 15 thành phần dân tộc (Kinh, Hoa, Khơme, Thái, Tày, Nùng, Mường, Chăm, Ba Na, Ê Đê, Pháp, Mỹ, Mã Lai, Phi, ấn Độ) nhưng chủ yếu là người Kinh, các dân tốc khác rất ít và hầu như hòa nhập với người Kinh. Theo báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - xã hội năm 1999 của ủy ban nhân dân tỉnh, theo số liệu thống kê của Cục thống kê tỉnh Bến Tre, số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thì dân số Bến Tre năm 1997 hơn 1289 ngàn người, năm 1998 là 1.293.487 người, năm 1999 là 1.296.914 người, trong đó nữ là 669.483 người và nam là 627.431 người. Khu vực thành thị có 109.853 người, khu vực nông thông có 1.187.061 người chiếm 91,5% dân số của tỉnh. Mật độ dân số là 567 người/km2, gấp 1,4 lần mật độ bình quân của đồng bằng sông Cửu Long. Cơ cấu dân số thành thị - nông thôn năm 1990 là 7,49%-92,51%, năm 1998 là 8,75%-91,25%, năm 1999 là 8,5%-91,5%. Dân số phi nông nghiệp ở nông thôn giảm từ 8,9% năm 1990 xuống 3,2% năm 1998. Hiện nay, tỷ lệ tăng dân số của Bến Tre là 1,26%/năm, tỷ lệ sinh là 1,6%; nếu tính bình quân hai cuộc điều tra thì tốc độ tăng dân số trong mười năm qua là 0,61%/năm. Những số liệu trên cho thấy Bến Tre là tỉnh đất hẹp người đông, lao động việc làm đã và đang là những vấn đề dễ dàng đẩy quá trình phát triển kinh tế của tỉnh vào vòng luẩn quẩn. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã nhận định: "Động thái biến động dân số cao, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu (trên 90% sống ở nông thôn), công nghiệp nông thôn thu hẹp, tìm kiếm việc làm khó khăn nên phần lớn số lao động, nhất là những người trong độ tuổi sinh đẻ dưới 30 tuổi đã di chuyển và lập nghiệp nơi khác, dẫn tới tỷ lệ lao động trẻ giảm, tỷ lệ sinh có xu thế giảm mạnh" [26, tr. 4]. Tuổi thọ bình quân của dân Bến Tre tương đương mức chung của cả nước, song lứa tuổi từ 15-29 tuổi chỉ chiếm khoảng 30-31% dân số trong 8 năm qua, thể hiện dân số không trẻ. Lứa tuổi lao động tăng 46,6%/năm 1990 lên 51,8% năm 1998, trong khi đó số trẻ dưới 14 tuổi lại giảm. Những năm gần đây, số lao động tăng bình quân 18.000 người/năm, năm 1999 tỷ lệ thất nghiệp là 5,1%; số người chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm chiếm 7%; 17% dân số thất nghiệp theo thời vụ, do vậy, có một bộ phận không nhỏ lao động hàng năm phải đi làm thuê ngoài thời vụ hoặc đi lập nghiệp ở các tỉnh và địa phương khác. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (dưới 6%), lao động trong độ tuổi tham gia các cấp học cũng rất thấp (2,68%). Dân số đông là hạn chế lớn và không thể thoái thác trong những năm phát triển tới của Bến Tre. Song trong điều kiện hội nhập mạnh mẽ với kinh tế của cả nước, kinh tế thế giới và kinh tế khu vực điều này có thể là một lợi thế so sánh lớn nếu nhìn vào thị trường lao động rộng lớn ở Đông Nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long, cả nước nói chung và các nước trong khu vực. Người lao động Bến Tre có truyền thống hiếu học, cần cù sáng tạo, điều cần có chính là một chiến lược phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm đúng hướng, hình thành thêm nhiều cơ hội mới cho tương lai phát triển kinh tế của tỉnh. 2.1.2.2. Đặc điểm kinh tế của tỉnh Bến Tre Trong những năm qua, tình hình kinh tế của Bến Tre tuy có bước phát triển nhưng nhìn chung "Nền kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ chậm" [17, tr. 14]. Số liệu thống kê cho thấy GDP của tỉnh ở khu vực I (nông - lâm - ngư nghiệp) năm 1997 chiếm 2990 tỷ đồng, đạt 65,3% tổng sản phẩm của tỉnh; năm 1998 chiếm 3389 tỷ đồng đạt 66,5% tổng sản phẩm của tỉnh, năm 1999 chiếm 3856 tỷ đồng đạt 65,8%. ở khu vực II (công nghiệp - TTCN, xây dựng) năm 1997 chiếm 486 tỷ đồng, đạt 10,6% tổng sản phẩm của tỉnh; năm 1998 chiếm 536 tỷ đồng, đạt 10,5%, năm 1999 chiếm 609 tỷ đồng chiếm 10,4%. Tốc độ tăng trưởng từ 1990 - 1995 của khu vực I theo giá trị thị trường (giá so sánh 1994) là 5,4%, từ 1996 - 1998 là 6,5%. Tốc độ tăng trưởng từ 1990 - 1995 của khu vực II theo tổng sản phẩm của tỉnh là 8,6%, từ 1996 - 1998 là 7,9%. Về cơ cấu ngành nghề, Bến Tre bị hạn chế về địa lý lãnh thổ nên ít bị ảnh hưởng bởi sự tăng trưởng kinh tế của các trọng điêmr kinh tế trong vùng và các tỉnh lân cận. Do đó, mức độ đa dạng hóa ngành nghề sản xuất còn thấp, chủ yếu phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương như khai thác và chế biến nông - thủy sản, vì vậy, nền kinh tế của Bến Tre đang đứng trước những khó khăn thách thức như: + Những tồn tại yếu kém của nền kinh tế chưa khắc phục được trong nhiều năm qua vẫn còn rất nặng nền, trình độ phát triển của tỉnh còn thấp, quy mô sản xuất còn nhỏ bé. + Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế trong 3 năm (từ 1997 đến nay) diễn biến theo chiều hướng không thuận lợi; trong khi đó, những điều kiện để chặn đà giảm sút và tạo bước đi lên cho những năm sau còn hạn chế. + Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế còn lạc hậu, vấn đề đổi mới thiết bị, công nghệ triển khai rất chậm. + Những vấn đề bức xúc đặt ra trong lĩnh vực xã hội ngày càng gay gắt, nổi lên là vấn đề giải quyết việc làm, một bộ phận đời sống dân cư ở vùng nông thôn vẫn còn khó khăn, tiêu thụ sả phẩm sản xuất của nông dân không ổn định, các tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng làm hạn chế động lực phát triển kinh tế. + Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước của bộ máy các cấp chưa đồng bộ và đáp ứng kịp so với yêu cầu là cản trở lớn cho sự phát triển. + Bên cạnh đó, các tỉnh trong khu vực có điều kiện thuận lợi hơn tỉnh Bến Tre trong việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, cạnh tranh sản xuất và xuất khẩu; trong khi đó ở Bến Tre sản phẩm hàng hóa và môi trường thu hút vốn đầu tư đã yếu kém, sẽ càng khó khăn hơn trong bối cảnh mới. Tình hình chung về kinh tế Bến Tre từ 1991 đến nay cho thấy đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn là khu vực I. Đây là khu vực có tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 5,83%/năm từ 1990 - 1998, trong đó giai đoạn 1990 - 1995 là 5,42%/năm và 1996 - 1998 có tăng nhanh hơn, tức 6,5%/năm. Tỷ trọng trong GDP của khu vực I vẫn thuộc loại cao và theo hướng gia tăng từ 60,3% năm 1990 lên 66,5%/năm 1998; năm 1999 tuy có giảm (65,8%) nhưng không đáng kể. Điều đáng chú ý là trong khi kinh tế cả nước gặp khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, tốc độ tăng trưởng giảm từ 8,2% năm 1997 xuống 5,8% năm 1998 thì kinh tế Bến Tre vẫn giữ mức tăng trưởng tương đối đều đặn. Khu vực II phát triển yếu, tốc độ tăng trưởng bình quân 8,37%/năm (8,64%/năm trong giai đoạn 1990 - 1995; 7,93%/năm trong 3 năm gần đây); tỷ trọng trong GDP của khu vực II giảm dần từ 17,7% năm 1990 xuống 10,4% năm 1999, mặc dù mấy năm gần đây tốc độ giảm có hạn chế (10,7% năm 1996, 10,6% năm 1997, 10,5% năm 1998) nhưng nhìn chung vẫn giảm. Khu vực III - khu vực dịch vụ tăng trưởng trung bình so với hai khu vực nói trên (8,2%/năm), nhưng từ năm 1996 đến 1999 tốc độ bị giảm nhiều, còn khoảng 7,33%/năm. Tỷ trọng trong GDP của khu vực III tăng từ 21,97% năm 1990 lên 23,84% năm 1999. GDP của tỉnh trên một người theo giá so sánh năm 1994 gia tăng từ 1,66 triệu đồng (tương đương 151 USD) năm 1990 lên 2,68 triệu đồng (tương đương 244 USD) năm 1998. So sánh với cả nước và xu thế của nó cho thấy GDP trên một người của Bến Tre hiện nay chỉ bằng 70% và khoảng cách ngày càng lớn. Về nhiều chỉ tiêu, đời sống nông dân có những cải thiện, song cũng có sự phân cực rõ rệt về thu nhập giữa dân cư nông nghiệp và phi nông nghiệp. Mức chênh lệch giứa GDP của tỉnh/người trong khu vực phi nông nghiệp và nông nghiệp ngày càng lớn, từ 2,53 lần năm 1990 lên 4,5 lần năm 1998. Do dân số phi nông nghiệp ở nông thôn giảm nên các hộ có thu nhập cao đều thuộc khu vực thành thị. Thực trạng kinh tế nói trên cho thấy mặc dù kinh tế Bến Tre đã có những chuyển dịch về cơ cấu nhưng chưa thật đúng hướng và còn rất chậm chạp, tất yếu phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển ngành nghề, nâng cao chất lượng hàng nông sản. Đây là điều không dễ dàng đối với một tỉnh còn nhiều khó khăn, đòi hỏi những nhà quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế chú trọng hơn nữa đến vấn đề phát triển ngành nghề, thực hiện phân công lao động xã hội hợp lý hơn. 2.1.2.3. Về các lĩnh vực xã hội Những năm gần đây đời sống dân cư bước đầu được cải thiện nhưng còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ khá và giàu có tăng nhưng số hộ nghèo còn nhiều. Theo điều tra của Sở Lao động - Thương binh và xã hội [25, tr. 8] năm 1998 Bến Tre có 45.996 hộ nghèo, chiếm 16,64% số hộ của tỉnh; năm 1999 có 58.084 hộ, chiếm 19% số hộ. Hội nghị về công tác xóa đói giảm nghèo năm 2000 ghi nhận còn 50.481 hộ nghèo, chiếm 16,79% [26, tr. 7]. Ngoài ra, trong năm 1999 có 107 trường hợp phải cứu trợ đột xuất với 4.585.000 đ và 562 trường hợp phải giải quyết trợ cấp thường xuyên. Nơi trung tâm xã hội của tỉnh đang nuôi dưỡng 56 người già cô đơn, trong đó có 9 đối tượng chính sách, quản lý 11 đối lượng lang thang. Làng SOS đang nuôi dưỡng 83 cháu. Như vậy, qua hai cuộc điều tra của năm 1998 và giữa năm 2000, chúng tôi nhận thấy số hộ dân tăng lên 8,77% nhưng số hộ nghèo cũng tăng lên cao hơn (9,75%). Điều đó chỉ rõ đời sống khó khăn của một bộ phận dân cư khá đông, mặc dù một năm qua có giảm nhưng vẫn còn cao hơn trước đó. + Hậu quả chiến tranh rất nặng nề, đã để lại cho Bến Tre 34.446 liệt sĩ, Nhà nước đã ghi nhận 1843 bà mẹ Việt Nam anh hùng, hiện nay có 573 mẹ còn sống và Bến Tre có trách nhiệm trực tiếp phụng dưỡng. Ngoài ra còn 530 thương binh nặng được nuôi dưỡng tại nhà, 132 thương binh nặng được xã hội chăm sóc. Nếu tính chung ở Bến Tre, Nhà nước đã đãi ngộ cho 18.015 gia đình thương binh 1.504 bệnh binh; trợ cấp thờ cúng liệt sĩ cho 1032 trường hợp; đãi ngộ 1283 cá nhân có công với cách mạng, 3976 cựu chiến binh. Năm 1999, Bến Tre đã xây dựng mới 203 nhà tình nghĩa, 38 nhà tình thương, nâng tổng số nhà tình nghĩa lên 1334 nhà. * Về giáo dục - đào tạo Giáo dục - đào tạo có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển lực lượng lao động, là nền tảng cho sự phát triển xã hội, bởi thế Đảng ta đã khẳng định: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" [22, tr. 107]. ở Bến Tre, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có những chuyển biến tích cực, toàn tỉnh hiện có 12.247 giáo viên, công nhân viên, cán bộ quản lý; trong đó các cơ sở đào tạo có 247 giáo viên, với 191 giáo viên có trình độ Đại học và Sau Đại học. Số lượng và chất lượng học sinh các cấp tăng lên, hầu hết 159 xã đều có trường tiểu học và trung học cơ sở, cả tỉnh có 29 trường phổ thông trung học. Số giáo viên giỏi cấp tỉnh ngày càng nhiều (3 giáo viên), trong đó số đó có 3 giáo viên tiểu học đạt danh hiệu dạy giỏi cấp toàn quốc. Số học sinh thi đạt loại giỏi vòng tỉnh là 5.230 học sinh giỏi của trường chuyên đạt hạng nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Số học viên ở các trường dạy nghề ngày càng tăng (4736 học viên so với 536 học viên ở năm 1990) và như thế hiện nay cứ 4 người dân có một người đi học. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là: "Tỷ lệ học sinh bỏ học nhiều hơn so với năm học trước: Trung học cơ sở 5,25% (tăng 0,41%), trong đó học sinh hệ công lập 4,98%, hệ bán công 7,62%, trung học phổ thông 2,54%. Nguyên nhân chủ yếu là học sinh vùng sâu, vùng xa thuộc các hộ nghèo theo gia đình di dân tự do theo mùa vụ" [27, tr. 12]. Thực trạng về giáo dục đào tạo của tỉnh góp phần quan trọng vào việc xây dựng nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí, "tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo chưa đáp ứng kịp thời với những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà, việc giáo dục đạo đức, pháp luật và thể chất trong nhà trường chưa được chú trọng đúng mức; lượng đào tạo, thu hút nhân tài còn hạn hẹp" [11, tr. 19]. Trong đó nổi lên các vấn đề như: việc đào tạo và sử dụng người được đào tạo chưa thích hợp và cân đối giữa các ngành nghề; số sinh viên, học viên của tỉnh đang học ở các trường ngoài tỉnh từ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật trên 3.600 người nhưng có sự mất cân đối giữa các bậc và các ngành đào tạo, phần lớn tập trung ở ba nhóm ngành: kinh tế, tài chính kế toán, quản trị kinh doanh còn các nhóm ngành mũi nhọn của tỉnh như nông học, chế biến nông thủy sản - hải sản rất ít, chỉ có khoảng trên 30 sinh viên. Khi tốt nghiệp xong, các em trở về tỉnh không nhiều, dẫn đến không ổn định trong xây dựng quy hoạch đào tạo, nhất là cán bộ đầu đàn của các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tất cả những điều nói trên đòi hỏi Bến Tre cần có những giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nhất là để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng lao động cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành, nghề. Tóm lại, những đặc điểm kinh tế - xã hội tạo nên những nét đặc thù của việc phát triển phân công lao động xã hội của tỉnh Bến Tre hiện nay. Việc phát triển kinh tế - xã hội ở một vùng đất có nhiều tiềm năng nhưng cũng không ít khó khăn, hiệu quả khai thác và sử dụng còn thấp, đời sống của nhân dân còn nghèo khó, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống thấp kém. Trước xu thế tất yếu và đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". 2.2. Thực trạng của việc phân công lao động ở tỉnh bến tre 2.2.1. Bức tranh chung về lực lượng lao động và tình hình phân công lao động ở tỉnh Bến Tre 2.2.1.1. Thực trạng về lực lượng lao động ở Bến Tre Trong lịch sử đất nước và con người Bến Tre, dân Bến Tre vừa thể hiện những đặc điểm chung của người Việt Nam vừa mang đặc điểm riêng của con người ở một vùng đất cù lao bốn bề sông nước. Cũng như các tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre vốn là một vùng đất hoang vu mới được khai phá theo bước chân người "mang gươm đi mở nước" của cha ông người Việt từ miền ngoài vào. Với những người xưa, sự khai phá vùng đất mới, sáng tạo nên cuộc sống như những anh hùng văn hóa thuở vua Hùng, nhưng ở vùng đất này có những điều kiện mới hơn. Khi chính quyền nhà nước được dựng lên nơi này, chủ quyền Nhà nước được khẳng định, đồng thời cũng hình thành cơ chế áp bức lóc lột của chế độ Phong kiến. Tiếp theo là phải đương đầu với sự xâm lược và thống trị của thực dân Pháp, sau đó là 30 năm chống Pháp, chống Mỹ. Qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, Bến Tre là một mảnh đất phải chịu nhiều đau thương vào loại bậc nhất của nước ta. Bến Tre "Anh dũng Đồng Khởi, thắng Mỹ diệt Nguỵ", nhưng cái giá phải trả là 34.446 liệt sĩ và rất nhiều thương binh. Chính những điều đó đã nói lên con người Bến Tre có đầy đủ những truyền thống quý báu của người Việt Nam với ý chí kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, đoàn kết xã hội, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm, đoàn kết xã hội, tương trợ lẫn nhau; cần cù siêng năng, sáng tạo trong lao động, học tập; biết quý trọng lẽ phải, sống giản dị chất phác, ghét thói xa hoa cầu kỳ; có lòng nhân ái... Đó là những chất men xúc tác để người Bến Tre hôm nay kế thừa và phát huy hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội mới. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử để lại, nhân dân chịu nhiều gian khổ trong chiến tranh, cho nên còn ảnh hưởng khuynh hướng muốn tự do thoát khỏi sự quản lý của pháp luật, của chính quyền cũ; cùng với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, bộ phận dân nghèo đông và cũng có lẽ phần nào do cách trở giao thông của vùng sông nước nên Bến Tre không ít người không quan tâm đến pháp luật, một bộ phận dân cư mang nặng tâm lý của người sản xuất nhỏ, thiếu tư duy, chưa có tác phong công nghiệp, chưa biết cách làm ăn lớn, thiếu ý thức tiết kiệm. Ngoài ra cũng có một số người có phần bảo thủ, cục bộ địa phương mà qua câu ca dao: "Sông Bến Tre có lở anh bồi Sông Sài Gòn có lở anh ngồi anh coi". đã cho chúng ta nhận thức rõ hơn. Tất cả những điều nói trên đã góp phần hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội; vì vậy, việc tổ chức phân công lao động xã hội hiện nay ở Bến Tre cần lưu ý khắc phục. Nguồn lao động của tỉnh thể hiện quy mô và kết cấu dân số, mà trực tiếp là lực lượng lao động. Năm 1976 1980 1985 1989 1995 1997 1998 1999 Dân số (người) 943.3 18 1.058.37 0 1.170.66 4 1.214.3 29 1.356.57 8 1.289.00 0 1.293.48 7 1.296.91 4 Dân số trong độ tuổi lao động (người) 749.148 765.207 783.818 Mặc dù mấy năm gần đây quy mô dân số tăng chậm nhưng tốc độ tăng dân số trong vài chục năm trước khá cao tạo nên nguồn lực lượng lao động hàng năm tăng nhanh. Năm 1999 số người trong độ tuổi lao động là 783.818 người, chiếm 60,43% dân số. Như vậy, lực lượng lao động của Bến Tre rất dồi dào, đây là một tiềm năng lớn về nguồn lực lao động nếu được quan tâm đào tạo để nâng cao chất lượng lao động. Trình độ học vấn của số người trong độ tuổi lao động còn thấp và sự khác biệt giữa thị xã và các huyện, có một số người chưa học hết bậc tiểu học, chỉ biết đọc và viết sơ sài. Địa bàn Tiểu học THCS PTTH Thị xã (%) 22,61 40,29 30,70 Các huyện (%) 43,83 31,95 7,15 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của số người trong độ tuổi lao động còn rất thấp với tỷ lệ như sau: Địa bàn CNKT không có bằng (%) CNKT có bằng (%) THCN (%) Cao đẳng trở lên (%) Tổng cộng (%) Thị xã (%) 1,78 0,65 4,7 3,23 10,36 Các huyện (%) 0,27 0,29 1,37 0,61 2,54 Thực tế trên đây đã cho chúng ta thấy sẽ có nhiều khó khăn cho sự phát triển kinh tế của tỉnh mà trước hết là vấn đề tổ chức phân công lao động các ngành nghề. Nếu tính riêng đội ngũ cán bộ sản xuất kinh doanh, đội ngũ này chủ yếu tập trung ở các ngành: thủy sản, dừa, mía đường, thương mại và dịch vụ... Theo quy hoạch đào tạo cán bộ năm 2000 và 2010 [28, tr. 10] thì trình độ cán bộ như sau: Tổng Trình độ chuyên môn Ngoại ngữ Tin học số Trên ĐH và ĐH Tỷ lệ (%) Cao đẳng & THCN Tỷ lệ (%) Sơ cấp và CNKT Tỷ lệ (%) Các loại Tỷ lệ (%) Các loại Tỷ lệ (%) 2907 542 18,6 997 34,3 136,4 46,9 162 5,6 99 3,4 Qua đó, chúng ta thấy đại bộ phận cán bộ sản xuất kinh doanh của tỉnh được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ; họ cũng đã có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, một bộ phận được đào tạo lại từng bước đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới; phần lớn đủ tiêu chuẩn theo ngạch, bậc quy định. Thực trạng đó là vốn quý cho xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lực lượng lao động của Bến Tre bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cần nhanh chóng khắc phục. Trong những năm gần đây, việc sử dụng nguồn lao động trong các ngành kinh tế chưa triệt để, cung lao động vượt quá cầu lao động trên thực tế còn nhiều. Theo số liệu đã điều tra được của Sở Lao động, Thương Binh và Xã hội Bến Tre như sau: Năm 1996 1997 1998 1999 Dân số trong độ tuổi lao động 734.511 749.148 765.207 783.811 Lao động làm việc trong ngành kinh tế 613.685 620.984 629.541 645.354 Tỷ lệ so độ tuổi lao động (%) 83,5 82,8 82,2 82,3 Số liệu trên cho thấy, mặc dù tình hình kinh tế của Bến Tre còn rất nhiều khó khăn, nhưng những năm gần đây việc tổ chức sản xuất nhằm thu hút nhiều người lao động sản xuất vẫn lãnh đạo Tỉnh phải hết sức quan tâm đến "những chiến lược nguồn lao động" thì mới mong xây dựng được cơ cấu kinh tế mới trong mười năm tới. 2.2.1.2. Về phân công lao động hiện nay ở tỉnh Bến Tre - Về cơ cấu lao động: Thực tế những năm gần đây cho thấy cơ cấu lao động ở Bến Tre chủ yếu vẫn tập trung cho khu vực I, cụ thể như sau: Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Lao động theo ngành kinh tế (người) 605.965 613.685 620.984 629.541 645.354 Khu vực I (người) 499.378 503.097 507.427 517.191 530.495 Tỷ lệ so với lao động kinh tế (%) 82,3 81,9 81,7 82,1 82,2 Khu vực II (người) 40.526 41.825 43.541 41.849 42.216 Tỷ lệ so với lao động kinh tế (%) 6,68 6,81 7,01 6,64 6,54 Khu vực III (người) 66.061 70.016 70.061 70.501 70.829 Tỷ lệ so với lao động kinh tế (%) 10,90 11,40 11,28 11,19 10,97 Với những số liệu trên cho chúng ta khẳng định lực lượng lao động ở khu vực I vẫn cao và có chiều hướng gia tăng, ở khu vực II với lực lượng quá nhỏ lại có xu hướng giảm sút, khu vực III tuy có khá hơn khu vực II nhưng vẫn trên đà giảm sút về lực lượng lao động. Tình hình trên đã chỉ ra rằng phân công lao động giữa các khu vực trong nền kinh tế của tỉnh chưa có tiến triển tốt trong mấy năm qua, mặc dù đời sống kinh tế của nhân dân trong tỉnh có nâng lên chút ít, nhưng với đà này nền kinh tế Bến Tre sẽ còn tụt xa hơn so với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh khác trong cả nước. - Việc di chuyển lao động của Bến Tre. Sự chậm phát triển của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Bến Tre đã chưa phát huy được vai trò của nó trong cơ cấu sử dụng lao động. ở nông thôn Bến Tre tuy đa số lao động vẫn làm nghề nông, nhưng đã bắt đầu có bước chuyển dịch sang nghề thủ công. Một bộ phận người lao động không thuần nông, do tình trạng nông nhàn họ phải tự xoay sở làm thêm các nghề thủ công nghiệp, dịch vụ cho gia đình hoặc làm công cho các hộ gia đình khác. Người lao động với ước mong có việc làm hiệu quả, thu nhập cao cho mình và gia đình, đã cố gắng tìm tòi học hỏi nhiều nơi mong hình thành thêm những nghề mới, nhưng hiện vẫn còn bế tắc. Người lao động ở nông thôn Bến Tre không chỉ làm việc ở nơi cư trú mà do nhu cầu bức xúc về việc làm, một bộ phận không ngần ngại rời nơi cư trú một thời gian trong năm, khi việc làm ở địa phương đã hết. Hàng năm ước tính trên 2% số người trong độ tuổi lao động đi tìm việc làm ở ngoại tỉnh. Một số người tìm được việc làm ổn định thì làm việc lâu dài ở ngoài tỉnh, số khác lại trở về. Trước tình hình đó, tỉnh đã tổ chức tuyển chọn lao động, bồi dưỡng lại tay nghề, gởi đi làm việc tại các doanh nghiệp ngoài tỉnh, "tính đến tháng 5/2000 đã được 2.028 người" [29, tr.5]. Ngoài ra việc đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cũng đã được lãnh đạo tỉnh quan tâm chỉ đạo. Sau khi thu thập thôn tin từ nhiều nguồn, trung tâm dịch vụ việc làm Bến Tre nhận định trước mắt chỉ có thị trường lao động tại Nhật Bản là tương đối ổn định về tiền lương, về an ninh xã hội, về quan hệ chủ thợ tốt, cho nên từ năm 1998 đến nay trung tâm chỉ tập trung giới thiệu người lao động đi làm việc có thời hạn tại Nhật Bản qua hai công ty: Công ty xuất khẩu lao động và chuyên gia thành phố Hồ Chí Minh kể từ 1998, Công ty xây dựng và Thương mại của Bộ Giao thông vận tải kể từ đầu năm 2000. Tính đến nay, Bến Tre đã đưa đi lao động ở Nhật Bản được 37 người, trong đó có 26 nữ, chủ yếu là lao động trong ngành may công nghiệp và cơ khí, hiện còn 49 tu nghiệp sinh đang chuẩn bị đi Nhật nữa, trong đó có 36 nữ [21, tr.2]. Tóm lại, mặc dù việc di chuyển lao động ra ngoài tỉnh và ra nước ngoài không nhiều, nhưng nó đã mở ra một hướng mới cần khai thác nhằm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm sức ép về lao động việc làm ở địa phương, góp phần tăng thu nhập cho một số hộ gia đình. 2.2.2. Một số kết luận rút ra từ việc nghiên cứu thực trạng phân công lao động và cơ cấu kinh tế ở Bến Tre 2.2.2.1. Về tình hình lao động và lực lượng lao động Trong những năm qua, do đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi và đã xuất hiện nhiều nhân tố đa dạng để các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, tổ chức xã hội và mọi người chủ động tạo việc làm mới, nên đã giải quyết được một bước yêu cầu về lao động, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lực lượng lao động của Bến Tre đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cần nhanh chóng khắc phục như: trình độ lao động thấp, sử dụng công cụ thô sơ còn nhiều; lực lượng lao động thuộc thành phần kinh tế cá thể nhỏ chiếm đại bộ phận, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất lao động và giá trị thấp (năm 1999 có 530.495 người lao động ở khu vực I chiếm 82,2% lao động trong các ngành kinh tế chỉ tạo được 3.856 tỷ đồng, 65,8 % GDP của Tỉnh). Mặt khác, do dân số lao động còn tăng ở mức cao vì chịu ảnh hưởng của quy luật tăng bù sau chiến tranh nên hàng năm bình quân có gần 16.000 người đến tuổi lao động cần giải quyết việc làm (năm 1996 có 14.168 người, 1997 có 14.637 người, 1998 có 16.059 người, 1999 là 18.611 người). Bên cạnh đó một số lao động dư thừa do sắp xếp lại tổ chức sản xuất, giải thể các đơn vị sản xuất kinh doanh, bộ đội xuất ngũ, học sinh tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp và dạy nghề, người hồi hương từ các nước trở về... đang có nhu cầu bố trí việc làm nhưng chưa đáp ứng được, dẫn đến sức ép ngày càng tăng và bức bách hơn. Ngoài ra, còn do khả năng thu hút lao động được tạo ra từ việc phát triển kinh tế hàng năm khoảng 7.000 người, nên số người đến tuổi lao động mỗi năm cần giải quyết việc làm nhưng chưa sắp xếp được còn nhiều. Như vậy thực trạng về cơ cấu lao động của Bến Tre vẫn chủ yếu là lao động nông nghiệp, trình độ lao động thấp kém, chưa phát huy được thế mạnh kinh tế của tỉnh, đời sống kinh tế - xã hội thấp kém. Xuất phát từ tầm quan trọng và tính bức xúc của vấn đề lao động và việc làm, trong thời gian vừa qua Bến Tre đã tổ chức thực hiện bố trí lao động, bước đầu đạt được một số kết quả nhất định như: thực hiện các chương trình trồng rừng, khuyến nông - ngư, di dân phát triển vùng kinh tế mới ngoài tỉnh, chương trình cho vay giải quyết việc làm, chương trình xóa đói giảm nghèo, thành lập và phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm. Tuy nhiên, nếu nhìn bao quát thì đó chỉ là những giải pháp tình thế, muốn xây dựng được cơ cấu kinh tế theo hướng hiên đại hóa cần có giải pháp chặt chẽ và đồng bộ. 2.2.2.2. Về thực trạng cơ cấu kinh tế hiện nay của tỉnh Bến Tre Cơ cấu kinh tế, của tỉnh thể hiện rõ tình hình phát triển kinh tế, của tỉnh đó. ở Bến Tre, cho đến nay cơ cấu kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp, chưa có sự dịch chuyển trong cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực, mà chủ yếu là giá hàng hóa ở khu vực I chiếm tỷ trọng trong GDP của tỉnh ngày càng tăng (1990 là 60,3%, 1995 là 63,3%, 1999 là 65,8%). Ngược lại, giá hàng hóa ở khu vực II chiếm tỷ trọng trong GDP của tỉnh ngày càng giảm (1990 là 17,7%, 1995 là 11,9%, 1999 là 10,4%). Giá hàng hóa ở khu vực III chiếm tỷ trọng trong GDP của tỉnh cũng giảm dần (1990 là 22%, 1995 là 24,8%, 1999 là 23,8%). Thực trạng trên cho chúng ta thấy mặc dù cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực I đã có những bước chuyển dịch đúng hướng (chăn nuôi, thủy sản, cây ăn trái, cây công nghiệp tăng), trên 60% GDP của tỉnh do đóng góp của khu vực I, song một nền kinh tế nông nghiệp sẽ không thể đảm bảo cho nền kinh tế một tích lũy lớn, phát triển với tốc độ cao, như vậy thực chất cơ cấu kinh tế của Bến tre hiện nay vẫn là thuần nông, chưa phát huy được thế mạnh kinh tế của tỉnh, đời sống kinh tế - xã hội vẫn còn rất thấp kém. 2.2.2.3. Thuận lợi và khó khăn - Thuận lợi Về vị trí địa lý kinh tế, Bến Tre sẽ có nhiều thuận lợi trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội sắp tới. Với một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, mà trong sản xuất nông nghiệp, vị trí địa lý là một trong những yếu tố quan trọng quyết định cho việc đầu tư sản xuất. Bến Tre là tỉnh nằm trong một vòng cung các địa bàn và trung tâm phát triển: Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu và địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Tuy có khó khăn về đường bộ, song đường thủy nối Bến Tre với các trung tâm này khá thuận lợi. Hiện nay, nhiều tuyến đường bộ được dự định nối Bến Tre với các tỉnh lân cận, một số cảng trung chuyển đường thủy đang được đầu tư mới và nâng cấp theo hướng hiện đại. Mười năm sắp đến, sự giao lưu thông suốt về đường bộ và thủy giữa Bến Tre với các tỉnh khác sẽ tạo cho Bến Tre một lợi thế về vị trí quan trọng giao thông đường bộ, đường thủy từ đồng bằng sông Cửu Long đi miền Đông Nam bộ và ngược lại. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thị trường . Với giao thông đường biển, đường sông và hệ thống kênh, rạch chằng chịt, liên thông với nhau, Bến Tre có thể phát triển mạnh mẽ các ngành vận tải thủy, dịch vụ đường thủy và cơ hội phát triển cho những ngành này sẽ càng lớn khi nền kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long và khu vực Đông Nam bộ phát triển. Về tài nguyên thiên nhiên của Bến Tre cũng rất đa dạng và phong phú (đất đai, sông nước, các hệ sinh thái cửa sông ven biển...) thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, đặc biệt là phát triển nuôi trồng thủy hải sản và đang là tỉnh trọng điểm cây ăn quả của đồng bằng sông Cửu Long. Đó là những lợi thế tuyệt đối không chỉ trước mắt mà còn có tính chất lâu dài, cung cấp sản phẩm cho thị trường trong nước và cả cho xuất khẩu, tạo nền tảng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ đi kèm. Bên cạnh đó, cảnh quan sông nước - cồn bãi và các di tích lịch sử văn hóa tạo nên một vành đai môi trường và sinh thái thuận lợi cho việc phát triển các tuyến và điểm du lịch, hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế. Hệ thống các cơ sở công nghiệp, thương mại, vận tải, ngân hàng và dịch vụ; các cụm thương mại - dịch vụ - công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh đã được hoạch định, tạo cho nền kinh tế Bến Tre dần dần thích nghi hơn với cơ chế thị trường và ngày càng phát triển đa dạng. Với công nghiệp chế biến thủy sản và lương thực thực phẩm có đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật tương đối lành nghề cũng được xem là một lợi thế lớn, nhờ đó Bến Tre có thể xây dựng cơ cấu công nghiệp hợp lý hơn ở giai đoạn mới và còn có thể hỗ trợ cho ngành nông nghiệp phát triển, các ngành cơ khí phục vụ sản xuất ở địa phương. Người lao động Bến Tre đã hấp thu những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam nên rất cần cù siêng năng, sáng tạo trong lao động sản xuất. Thêm vào đó để đẩy mạnh phân công lao động xã hội, Bến Tre đã có những cơ sở dạy nghề với chất lượng được thử nghiệm gần đây cho kết quả khá. Đây chính là điều kiện thuận lợi ban đầu để Bến Tre nâng cao chất lượng nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, mở mang thêm ngành nghề trong tỉnh và cung cấp lực lượng lao động cho các tỉnh khác. Tóm lại, vị trí địa lý của Bến Tre, tài nguyên thiên nhiên, cơ cấu kinh tế hiện có và sự phân công lao động vừa qua, Bến Tre đã hòa nhập vào nền kinh tế thị trường và từng bước có phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy phân công lao động xã hội theo hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới của Tỉnh. - Khó khăn Bến tre là tỉnh đất hẹp người đông, đất nông nghiệp bình quân 0,11 ha / người, lại thêm địa thế là một quần thể các cù lao ở hạ lưu của hệ thống sông Cửu Long, kênh rạch chằng chịt. Đất đai hiện có cũng một phần do sự bồi lắng của các dòng sông tạo nên, điều đó đã gây hó khăn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Hơn nữa, bất kỳ một dự án nào, thủy lợi hay thủy điện, công nghiệp hay giao thông... xây dựng ở phía thượng nguồn sông Cửu Long đều có tác động xấu đến kinh tế của Bến Tre như: gây ô nhiễm môi trường, nước mặn có thể xâm lấn sâu hơn. Tất cả đều có ảnh hưởng đến việc phát triển ngành nghề, khó phân công lao động cao hơn. Việc phân công lao động xã hội như hiện nay chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế chung của cả nước, năng suất lao động trong các ngành nghề thấp, chất lượng hàng hóa chưa cao nên khả năng cạnh tranh trên thị trường kém, tạo cho việc tích lũy với tỷ lệ còn quá thấp. Những yếu kém nói trên là do phần lớn người lao động có trình độ sản xuất thấp, công nghệ lạc hậu; một số làng nghề hoạt động có hiệu quả nhưng vốn còn ít nên không đủ khả năng cải tiến, nâng cao năng lực sản xuất. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh như thủy sản, trái cây về cơ bản vẫn ở dạng sơ chế hay dạng thô do chưa tổ chức được lực lượng lao động chuyên sâu vào ngành chế biến cho nên hiệu quả kinh tế thu được thấp. Hệ thống cơ sở hạ tầng tuy đã được quan tâm đầu tư, nhưng còn thiếu và yếu làm ảnh hưởng đến phân công lao động xã hội. Các hệ thống hậu cần công nghiệp, hệ thống cơ sở dịch vụ trên thực tế còn yếu, không đảm bảo đủ việc làm cho lực lượng lao động tăng thêm hằng năm. Tất cả những việc trên đã chỉ ra tình hình phân công lao động ở Bến Tre còn rât thấp so với các tỉnh trong khu vưc. Với thực tiễn tình hình phân công lao động nặng về nông nghiệp khó có thể đảm bảo cho nền kinh tế có tỷ lệ tích lũy lớn. Đồng thời muốn xây dựng được một cơ cấu phân công lao động theo hướng hình thành cơ cấu kinh tế với lực lượng lao động công nghiệp và dịch vụ cao hơn đòi hỏi phải có vốn và thời gian. Tình hình tổ chức đưa người đi lao động ở nước ngoài hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn như: tỉnh không có đơn vị chuyên doanh hoặc có chức năng xuất khẩu lao động, nên lệ thuộc vào chỉ tiêu từ nơi khác cho; nhiều thông tin xấu về xuất khẩu lao động từ một số quốc gia (Đài Loan, Hàn Quốc,...) đã tác động xấu đến đối tượng muốn tham gia lao động ở nước ngoài. Ngoài ra, chi phí để được đi lao động ở nước ngoài quá cao (25 triệu đồng tiền mặt / người và tài sản thế chấp phải tương đương 10 ngàn USD / người, và đang có xu hướng tăng lên) vì thế có nhiều người đủ tiêu chuẩn, nhưng lại thiếu tài sản thế chấp nên không được chấp nhận đi lao động ở nước ngoài. Tóm lại, bên cạnh những khó khăn về điều kiện tự nhiên cũng như trình độ sản xuất thấp, hạ tầng kỹ thuật còn thiếu và yếu, nên việc phát triển phân công lao động xã hội ở Bến Tre đã vấp phải, Bến Tre cũng đã và sẽ phải chịu đựng hàng loạt những thách thức lớn trong cơn lốc hội nhập lôi cuốn mà việc tổ chức lao động trong xã hội phải nghĩ đến như: đòi hỏi cao của thị trường lao động, của thị trường hàng hóa khác, làn sóng di dân vào các vùng đô thị, kéo theo những khó khăn khác về hạ tầng kỹ thuật và xã hội khu vực đô thị. 2.3. Yêu cầu kinh tế - xã hội cấp bách khách quan phải đẩy mạnh phân công lao động hình thành cơ cấu kinh tế mới ở Bến tre 2.3.1. Điều kiện để thực hiện phân công lao động xã hội ở Bến Tre - Điều kiện tự nhiên: đây là một yếu tố rất quan trọng đối với phân công lao động. Như chúng ta đã biết, lao động sản xuất là quá trình kết hợp giữa các yếu tố: tư liệu lao động, sức lao động và đối tượng lao động, nếu tác biệt giữa các yếu tố đó thì chúng chỉ ở dạng khả năng mà thôi. Phân công lao động là sự phân chia những người lao động nhằm kết hợp những tư liệu lao động, sức lao động với đối tượng lao động nhất định nào đó trong xã hội nhằm tạo ra những sản phẩm nhất định. Như vậy, lao động phải kết hợp với tự nhiên mới thực sự là nguồn gốc của của cải "lao động là cha của của cải vật chất, còn đất đai là mẹ của nó". Đảng ta xem lao động và đất đai là hai nguồn vốn quý của xã hội, là tiềm năng to lớn cho việc phát triển nền kinh tế của đất nước. Trong lịch sử xã hội trước đây việc phân bố lao động và dân cư được hình thành một cách tự phát, tức là nơi nào điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sinh sống thì nơi đó dân cư tập trung đông đúc, nơi nào điều kiện tự nhiên không thuận lợi thì dân cư thưa thớt. Đối với tỉnh Bến Tre hiện nay trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với điều kiện tự nhiên đa dạng và phong phú cho phép Bến Tre phát triển nền kinh tế toàn diện, Nghị quyết của Đảng đã ghi: "Đảng bộ Bến Tre quyết tâm đưa tỉnh ta từ tỉnh nghèo đi lên từ kinh tế nông nghiệp toàn diện thành một trong những tỉnh sản xuất hàng hóa có tỷ trọng cao trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long" [3, tr.45]. Với đặc điểm tự nhiên của một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long như đã phân tích ở phần đặc điểm nêu trên, với ý nghĩa điều kiện tự nhiên xét theo góc độ kinh tế của C.Mác, Bến Tre có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển phân công lao động. Với một tỉnh "cù lao" được bao bọc bởi con sông lớn, Bến Tre có điều kiện để hình thành các vùng chuyên canh cây, con chủ lực (lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp, heo, bò, tôm); cụm công thương nghiệp chiến lược; chuyển đổi từng bước trong cơ cấu kinh tế. Về dịch vụ, Bến Tre có thể phát triển dịch vụ vận tải đường thủy, dịch vụ du lịch trên sông, dịch vụ thương mại làm cho việc trao đổi hàng hóa được nhanh chóng, nhờ thế có thể mang lại công cụ lao động phục vụ cho sản xuất. Mặt khác, thương mại giải phóng nhanh hàng hóa, thu hồi vốn sớm để tái sản xuất. Thương mại phát triển sẽ tạo cho người sản xuất thấy được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, giữa các vùng trong tỉnh làm cho sản xuất phát triển. Vì vậy thương mại hoạt động tốt cũng là điều kiện thúc đẩy phân công lao động. - Để có được phân công lao động xã hội mới còn đòi hỏi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ vài thập kỷ qua ở nước ta rất thuận lợi cho việc thực hiện xã hội hóa sản xuất và xã hội hóa lao động. Trong điều kiện cần có sự phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải suy nghĩ đến lực lượng lao động và lao động, nếu một địa phương mà dân số trong độ tuổi lao động quá ít và sống thiếu tập trung thì cũng khó thực hiện phân công lao động. Ngược lại, một địa phương có dân số đông, lực lượng lao động dồi dào sẽ thuận lợi cho việc thực hiện phân công lao động, tuy nhiên dân số trong độ tuổi lao động quá đông không phải lúc nào cũng thuận lợi mà thậm chí có thể gặp khó khăn. Như đã phân tích trên ở Bến Tre lực lượng lao động dồi dào về số lượng nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế. Tuy vậy người Bến Tre biết phát huy truyền thống cách mạng, cần cù siêng năng, sáng tạo trong lao động sản xuất. Bên cạnh đó, trong tỉnh đã hình thành những trung tâm dạy nghề, những năm qua chất lượng đào tạo được đánh giá khá. Về tư liệu lao động, Bến Tre đã có sự gia tăng mạnh mẽ cho đầu tư từ 3 năm qua, 13,4% ngân sách của tỉnh đã đầu tư cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng; ngoài ra một số cơ sở sản xuất của Nhà nước đã được đầu tư công nghệ sản xuất mới tạo điều kiện mở rộng và thâm nhập thị trường ngoại tỉnh và thế giới. - Việc quy hoạch, phân vùng kinh tế ở Bến Tre đã bắt đầu thực hiện từ năm 2000 như: vùng ngọt, vùng lợ, vùng mặn; điều tra để nắm chắc tình hình lao động, đất đai, tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật, tập quán và kinh nghiệm sản xuất... Từ đó cơ cấu các ngành sản xuất và cơ cấu tổ chức phân công lao động đã có cơ sở để định hình cơ cấu kinh tế. Qua sự phân tích trên cho thấy Bến Tre đã hội tụ đủ điều kiện để thực hiện phân công lao động xã hội theo hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới. 2.3.2. Yêu cầu kinh tế - xã hội cấp bách của việc phân công lao động xã hội ở tỉnh Bến Tre 2.3.2.1. Khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động và tài nguyên Việc tiến hành phân công lao động ở Bến Tre những năm tới là vấn đề có ý nghĩa kinh tế - xã hội cấp bách, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả hai thế mạnh kinh tế chủ yếu của Tỉnh là lao động và đất đai. Qua khảo sát thực trạng nêu tren cho thấy những thế mạnh đó chủ yếu vẫn còn tiềm ẩn. Số liệu điều tra mới nhất đã chỉ ra rằng 91,5% dân số sống ở nông thôn, với việc sử dụng thời gian lao động trong ba năm qua tuy có tăng nhưng tăng không đáng kể (1997 là 72,13%, 1998 là 73,09%, năm 1999 là 74,02%). Trong số 91,5% dân số sinh sống ở nông thôn thì 80% sống bằng nghề nông. Với thực trạng đất để sản xuất nông nghiệp nhỏ bé (0,11 ha /người) thì việc phát huy yếu tố lao động để mở rộng diện tích canh tác, tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện tái sản xuất mở rộng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. C.Mác đã cho rằng: nếu các điều kiện khác không có gì thay đổi thì giá trị và khối lượng sản phẩm sẽ tăng lên theo tỷ lệ thuận với số lao động được sử dụng. Chúng ta đều biết, trong bất kỳ nền sản xuất ở xã hội nào, nếu không có sự tham gia của lao động sống thì tư liệu sản xuất sẽ là những vật thể chết, không thể tiêu dùng, kể cả hệ thống máy móc thiết bị hiện đại nhất. Cũng theo C.Mác: Một cái máy không dùng vào lao động là một cái máy vô ích. Hơn nữa nó còn bị ảnh hưởng phá hoại của những yếu tố tự nhiên mà hư hỏng đi. Sắt thì han rỉ, gỗ thì mục nát, len không đem chế biến thì bị sâu cắn, lao động sống phải nắm lấy những vật đó, cải tử hoàn sinh cho nó, biến từ những công dụng tiềm ẩn thành những công dụng có công hiệu thực sự. Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng của Bến Tre còn ở trình độ thấp, tỷ trọng trong GDP của tỉnh ngày càng giảm từ 17,7% năm 1990 xuống 10,4% năm 1999, nguyên do có nhiều như thiếu vốn đầu tư, trình độ người lao động thấp...; bên cạnh đó, cần phải tính đến đội ngũ lao động có tay nghề cao do chưa được tổ chức sử dụng hợp lý và đãi ngộ thỏa đáng của địa phương nên đã bỏ đi tìm việc ngoài tỉnh. Về tài nguyên: Hiện nay, cơ bản nước ta mới bước vào thềm các nước đang phát triển. Riêng Bến Tre vẫn là một trong những tỉnh nghèo và lạc hậu vào bậc nhất nước. Hai thế mạnh kinh tế của tỉnh là lao động dồi dào, đất đai, biển bạc trù phú, nhưng lại chưa được khai thác có hiệu quả. Tất cả những thực tế nói trên đòi hỏi có số lượng lao động và trình độ lao động nhất định, đòi hỏi tổ chức và phân công lao động hợp lý vào việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên của địa phương, phát triển ngành nghề tạo nhiều công ăn việc làm, thúc đẩy từng bước sự hình thành cơ cấu kinh tế mới. 2.3.2.2. Nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng tổng sản phẩm xã hội, cải thiện đời sống người lao động Để phát huy tiềm năng kinh tế của Bến Tre, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên con người và đẩy nhanh tiến trình phát triển công nghiệp, dịch vụ, từ đó chuyển dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên trong cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải phân bố lại lực lượng lao động, nâng cao năng suất lao động xã hội, đồng thời tạo ra cơ cấu lao động xã hội mới. Phân công lao động xã hội có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến khó khăn về kinh tế của Bến Tre - mất cân đối trong nền kinh tế, cơ cấu kinh tế nặng về nông nghiệp - là chưa tạo được cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đàu cho các ngành sản xuất trong tỉnh, chưa có những cơ sở công nghiệp đủ sức cải biến tình hình kinh tế nghèo nàn hiện nay. Vì vậy, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã đề ra phương hướng cho những năm trước mắt là phải tập trung tối đa nguồn lực đầu tư có trọng điểm vào các thế mạnh kinh tế, phải rất quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Quá trình công nghiệp hóa XHCN luôn luôn gắn với quá trình phân công lao động xã hội, do đó, yêu cầu đặt ra cho Bến Tre là năng suất lao động phải được nâng lên rõ rệt trên cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và sẽ nâng lên hơn nữa bằng cách tổ chức phân công lao động xã hội theo hướng, khai thác tiềm năng kinh tế sẵn có của mỗi người lao động, của từng cơ sở, từng ngành, từng vùng kinh tế trong tỉnh. Muốn khai thác được thế mạnh tiềm năng đó, tất nhiên là sau khi điều tra khảo sát, quy hoạch từng vùng, và đi liền với quá trình tổ chức sản xuất; cần phải phân công lao động cho thích hợp theo khả năng, trình độ của người lao động. Tất nhiên muốn quá trình đó diễn ra trôi chảy thì công tác đào tạo cán bộ, đào tạo công nhân lành nghề phải được tiến hành cùng với quá trình quy hoạch và phân vùng kinh tế. Để có thể tận dụng mọi nguồn lao động và tạo việc làm cho nhiều người, trong việc phát triển kinh tế, Bến Tre phải chú trọng tổ chức sản xuất kết hợp quy mô nhỏ, vừa và lớn; kết hợp sử dụng lao động thủ công với lao động nửa cơ khí và cơ khí; vừa tạo điều kiện để chuyên môn hóa sức lao động nhằm tận dụng tài năng và sức lực của mọi người lao động; vừa chú trọng phát triển kinh doanh tổng hợp trên mỗi đơn vị, mỗi khu vực kinh tế. Tuy nhiên, tạo việc làm cho nhiều người không có nghĩa là sử dụng bừa bãi sức lao động, xem nhẹ việc giảm lượng hao phí lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm. Mặt khác trong quản lý kinh tế cần mạnh dạn tăng thêm lao động cho việc mở rộng quy mô và cơ cấu sản xuất có hiệu quả kinh tế cao và có lợi cho việc tăng năng suất lao động xã hội. Tăng năng suất lao động xã hội không chỉ là tăng thêm sản phẩm trong một đơn vị thời gian hoặc giảm bớt thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, mà còn phải tiết kiệm lượng hao phí nguyên liệu, hao phí máy móc, thiết bị. C.Mác cũng đã nói: sự tăng lên của sức sản xuất hay năng suất của lao động, chúng ta hiểu, nói chung là sự thay đổi trong cách thức lao động, một sự thay đổi rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, sao cho một số lượng lao động ít hơn mà lại có được một sức sản xuất ra nhiều giá tri sử dụng hơn. Tóm lại, ở Bến Tre hiện nay, việc tăng năng suất lao động xã hội, việc khai thác thế mạnh kinh tế từng vùng trong tỉnh tùy thuộc vào việc phân công lao động xã hội, vào việc xác định cơ cấu lao động hợp lý để tổ chức sản xuất, phát huy mọi tiềm năng kinh tế và tính sáng tạo của người lao động nhằm tăng tổng sản phẩm xã hội, cải thiện đời sống người lao động. 2.3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ Trong đường lối kinh tế của Đảng, Đảng ta đã đề ra là xây dựng nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 và quá trình "hội nhập mạnh mẽ của hệ thống kinh tế thế giới và khu vực" đã đặt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cả nước nói chung và Bến Tre nói riêng trước nhiều thách thức và cơ hội lớn, trong đó có cơ hội về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh. Nhưng muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp, hay công nghiệp, đều phải tiến hành phân công lao động xã hội nhằm sử dụng tốt nguồn lao động dồi dào, khai thác được tài nguyên thiên nhiên, phát triển sản xuất các hàng hóa mới, để hội nhập với kinh tế thế giới tạo cơ may tích lũy tốt hơn, tạo thế vững chắc cho tiến trình đầu tư công cụ hiện đại, từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế của tỉnh. Theo đà phát triển chung với kinh tế cả nước, tỉnh đã định hướng kinh tế đến năm 2010 như sau: "Từng bước đổi mới công nghệ và nâng cao tỷ trọng cơ giới hóa trong nông - ngư nghiệp, đổi mới nhah trang thiết bị và mở rộng quy mô công nghiệp, xây dựng hệ thống kinh tế mở, đẩy mạnh thương mại - dịch vụ và tăng nhanh mối quan hệ thị trường tạo lực đẩy phát triển mới cho toàn tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa"[26, tr.18]. Tóm lại, muốn chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ các ngành kinh tế của tỉnh theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP thì nhất thiết phải tổ chức phân công lao động thích hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó. 2.3.2.4. Phân công lao động xã hội là một quá trình có tính quy luật chuyển hóa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại Bên Tre đã qua 25 năm xây dựng chế độ xã hội mới, nhưngcs kinh tế của tỉnh vẫn là sản xuất nông nghiệp cá thể nhỏ; công nghiệp tuy đã có bước phát triển nhưng giá trị sản lượng công nghiệp cũng mới chỉ chiếm 6% so với đồng bằng sông Cửu Long và xếp hạng thứ tám trong số 12 của vùng này. Do vậy, muốn hiện đại hóa các ngành kinh tế, đòi hỏi phải đào tạo, phân bổ lực lượng lao động xã hội sao cho vừa phù hợp, vừa tạo điều kiện cho tất cả các ngành kinh tế đều phát triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại, đồng thời bằng nhiều hình thức giải quyết hết lao động có trình độ thấp của tỉnh và thu hút lao động có ỏình độ cao đang làm việc ở tỉnh khác trở về. Trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ làm chủ của nhân dân lao động cũng đã được hình thành và người dân lao động đã từng bước hình thành quyền làm chủ về nhiều mặt. Làm chủ về kinh tế bao gồm làm chủ về tư liệu sản xuất, về lao động, làm chủ trong quản lý và làm chủ trong phân phối sản phẩm; trong đó làm chủ về lao động là một nội dung rất quan trọng. ở điều kiện của Bến Tre hiện nay, làm chủ về lao động có nghĩa là nắm chắc mọi nguồn lao động trong tỉnh cũng như từng vùng kinh tế của tỉnh, bằng các biện pháp chính trị, kinh tế - xã hội tạo được một động lực thúc đẩy người lao động hăng say lao động sản xuất vì lợi ích cho mình, cho gia đình và cho xã hội. Về vấn đề làm chủ kinh tế trong xã hội mới, Lênin đã viết: sau hàng thế kỷ phải lao động cho người khác, phải lao dịch nô lệ cho bọn bóc lột, lần đầu tiên người ta đã có thể lao động cho mình và lao động mà có thể hưởng thụ được tất cả những thành quả của kỹ thuật hiện đại và của văn hóa hiện đại. Một trong những nguồn vốn quý của Bến Tre là lao động, vấn đề cấp bách đặt ra là phải sử dụng nguồn vốn quý đó để tạo ra tư liệu sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật và có tích lũy lớn hơn, cho nên làm chủ về lực lượng lao động là nắm vững mọi nguồn lao động trong xã hội, chủ động phân công lao động xã hội một cách hợp lý để sử dụng hết mọi nguồn lao động với năng suất lao động ngày càng cao. Lao động trong tỉnh được sử dụng triệt để và hợp lý cũng là một nội dung của làm chủ về lực lượng lao động. Làm chủ về lao động còn là biến lao động của mỗi người thành lao động có tính chất xã hội, lao động cho xã hội. Đây cũng là điểm cơ bản của yêu cầu cấp bách phải phân công lao động xã hội ở Bến Tre trong quá trình đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, phân công lao động xã hội là một quá trình tất yếu có tính quy luật, là khởi điểm của sự chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre.pdf
Tài liệu liên quan