Tài liệu Luận văn Tìm hiểu khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng Đông Bắc: Phần I: Khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng Đông Bắc
I. Một số khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu:
1. Khái niệm:
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm gần đây khi quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam và Trung Quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua các cửa khẩu biên giới. Bên cạnh đó Việt Nam còn có biên giới với Lào và Campuchia, tuy họ là các quốc gia nhỏ, còn khó khăn về kinh tế, nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng là nằm trong tiểu vùng sông Mêkông. Giữa các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông đang có nhiều dự án xây dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đông-Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mêkông. Tât cả các điều kiện thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt nếu có các mô hình kinh tế thích hợp, trong đó phải kể đến khu kinh tế cửa khẩu.
Để đưa ra được khái niệm về k...
89 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1081 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng Đông Bắc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng Đông Bắc
I. Một số khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu:
1. Khái niệm:
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm gần đây khi quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam và Trung Quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua các cửa khẩu biên giới. Bên cạnh đó Việt Nam còn có biên giới với Lào và Campuchia, tuy họ là các quốc gia nhỏ, còn khó khăn về kinh tế, nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng là nằm trong tiểu vùng sông Mêkông. Giữa các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông đang có nhiều dự án xây dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đông-Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mêkông. Tât cả các điều kiện thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt nếu có các mô hình kinh tế thích hợp, trong đó phải kể đến khu kinh tế cửa khẩu.
Để đưa ra được khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu, cần phải dựa trên cơ sở của nhiều khái niệm có liên quan. Khái niệm được đề cập đến đầu tiên là “giao lưu kinh tế qua biên giới”, từ trước đến nay khái niệm về “giao lưu kinh tế qua biên giới” thường được hiểu theo nghĩa hẹp là các hoạt động trao đổi thương mại, trao đổi hàng hoá giữa cư dân sinh sống trong khu vực biên giới, hoặc giữa các doanh nghiệp nhỏ đóng tại các địa bàn biên giới xác định, thuộc tỉnh có cửa khẩu biên giới. Thương mại qua các cửa khẩu biên giới có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: trao đổi hàng hoá qua các cặp chợ biên giới, nơi cư dân 2 bên biên giới thực hiện các hoạt động mua/bán hàng hoá trên cơ sở tuân thủ các quy định của Nhà nước về tổng khối lượng hoặc tổng giá trị trao đổi. Địa điểm cho các cặp chợ này do chính quyền của cả 2 bên thỏa thuận. Hoặc là các hoạt động thương mại biên giới thực hiện dưới dạng trao đổi hàng hoá giữa hai xí nghiệp nhỏ tại địa phương với các đối tác của mình ở bên kia biên giới. Thông thường, đây là các hoạt động trao đổi hàng hoá với giá trị không lớn lắm. Trong khi đó, hiểu theo nghĩa rộng, giao lưu kinh tế qua biên giới bao gồm các dạng hoạt động trao đổi kinh tế, kĩ thuật qua các cửa khẩu biên giới, trong đó các hoạt động trao đổi thương mại là một trong những yếu tố cấu thành. Trong vòng hơn một thập kỉ vừa qua , nội dung của giao lưu kinh tế đã có những thay đổi lớn và trở thành các hoạt động hợp tác kinh tế, kĩ thuật ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn. Trong đó, các hoạt động giao lưu kinh tế không chỉ đơn thuần là việc buôn bán, trao đổi hàng hoá thông thường mà còn bao gồm cả các hoạt động hợp tác kỹ thuật, xuất và nhập khẩu dịch vụ, thực hiện các liên doanh xuyên biên giới, các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của phía bên kia biên giới, buôn bán các trang thiết bị kỹ thuật, liên doanh phát triển cơ sở hạ tầng, du lịch qua biên giới, v..v… Như vậy, có thể trao đổi hàng hoá đơn giản thành các hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh. Tại một số nước (như Trung Quốc, Thái Lan) xu hướng này ngày càng trở nên rõ ràng và trở thành hướng đi chính, dẫn tới việc thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, hoăc thành lập các khu hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế.
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng giao lưu kinh tế qua biên giới với tư cách là một hình thức mở cửa kinh tế giữa các nước láng giềng có thể mang lại nhiều lợi thế cho các nước này. Sơ lược có thể đưa ra bốn lợi thế như sau: Thứ nhất, các nước láng giềng có ưu thế về vị trí địa lý, khoảng cách nối liền qua biên giới sẽ làm giảm nhiều chi phí giao thông vận tải và liên lạc; các vùng biên giới lại thường là các vùng có nguồn tài nguyên dồi dào, sản vật quý đa dạng, là những tiền đề tốt để phát triển thương mại và du lịch. Thứ hai, khu vực các cửa khẩu biên giới trên bộ hiện còn chưa phải đối mặt với cạnh tranh thương trường ở mức gay gắt như các vùng cửa khẩu hàng không hàng hải, mà chỉ là một thị trường mới mở, mang tính chất bổ sung cho các nhu cầu của nhau. Thứ ba, các nước láng giềng có trình độ phát triển không quá chênh lệch về cơ cấu ngành nghề, sản phẩm, nguyên liệu, nhu cầu thị trường. Thứ tư, buôn bán biên giới trên bộ có thể có những hình thức đa dạng hơn so với buôn bán qua các cửa khẩu hàng không, hàng hải. Nhân dân vùng biên giới hai nước qua lại buôn bán, giao lưu, làm thúc đẩy nhu cầu quan hệ, trao đổi chính thức ở cấp Nhà nước.
Giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới là hình thức tiếp cận mới để thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng. Cho đến nay, lịch sử hợp tác kinh tế đã biết đến nhiều hình thức liên kết kinh tế thông thường. Trong đó, ở trình độ cao, phải kể đến các hình thức như:
- Khu vực thương mại tự do
- Liên minh thuế quan
- Thị trường chung
- Liên minh kinh tế
Trong khi đó, tại các vùng, các địa phương có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, các hoạt động hợp tác kinh tế còn được thực hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Trong đó phải kể đến là:
- Các vùng tăng trưởng: là hình thức hợp tác kinh tế mới giữa các vùng nằm kề nhau về mặt địa lý của các nước làng giềng, cho phép đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. Đồng thời, chúng còn có các ưu điểm khác nhau cho phép khai thác các thế mạnh bổ sung của mỗi nước thành viên, tận dụng hiệu quả kinh tế qui mô lớn.
- Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế: cũng là một hình thức liên kết thương mại được xem xét tại một số nước đang phát triển ở châu á (ví dụ: giữa ấn Độ và Nêpan. Trung Quốc và một số nước láng giềng,vv…). Những thỏa thuận này có thể dẫn đến việc thực hiện các qui định về miễn thuế quan cho một số loại hàng hoá được trao đổi gữa các nước thành viên, và thậm chí có thể làm tiền đề cho một liên minh thuế quan về sau.
- Các đặc khu kinh tế (như khu chế suất, khu công nghiệp tập trung) được áp dụng tại nhiều nước Đông á và Đông-Nam á trong vài thế kỉ gần đây, và ở Việt Nam hiện nay, cũng là một trong những hình thức đặc thù này.
Yếu tố chính qui định sự khác biệt về mức độ hợp tác và các hình thức được lựa chọn là sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các nước đang thực hiện liên kết. Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định sự cho sự lựa chọn một mô hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết định hình thức này hay hình thức kia sao cho phù hợp hơn và có hiệu quả hơn.
Do đó, thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình kinh tế gắn liền với cửa khẩu, cho phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi không gian và thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu kinh tế biên giới phát triển… sẽ hình thành khu kinh tế cửa khẩu. Vì vậy, có thể hiểu khu kinh tế cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và được thực hiện những cơ chế chính sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Hay khu kinh tế cửa khẩu có thể được hiểu là một vùng lãnh thổ bao gồm một hoặc một số cửa khẩu biên giới được Chính phủ cho áp dụng một số chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội nhằm tăng cường giao lưu kinh tế với các nước, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế các địa phương có cửa khẩu.
2. Những điểm giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các khu kinh tế khác.
Nội hàm của khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu đã đề cập ở trên cho ta thấy, nó có một số điểm giống và khác nhau so với một số mô hình kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất… Và thông qua sự so sánh này chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về mô hình khu kinh tế cửa khẩu.
- Trên thế giới có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đối với Việt Nam các khái niệm trên được hiểu một cách thống nhất theo cơ chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo NĐ số 36/Chính phủ ngày 24/4/1997. Các khái niệm được hiểu như sau:
Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới xác định không có dân cư sinh sống, được hưởng một chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, là đối tượng đầu tư chủ yếu vào các khu công nghiệp vì họ hi vọng vào thị trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hoá của mình. Hơn nữa, việc mở của thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hóa mậu dịch trên thế giới và khu vực… Việc cho phép tiêu thụ hàng hoá tại thị trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh tranh sản xuất trong nước từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu.
- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu - triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác định được hưởng một số chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Đặc khu kinh tế là một khu vực không gian kinh tế, mà ở đó thiết lập một chế độ ưu tiên riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập. Chế độ ưu tiên này được hình thành nhờ một loạt các điều kiện ưu đãi nhất định (như được miễn giảm các loại thuế, nới lỏng qui tắc thuế quan và ngoại hối…), nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc nghiên cứu khoa học trong khu vực.
Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là ba loại của đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Qua các khái niệm trên có thể thấy một số điểm giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các loại hình kinh tế trên là:
- Điểm giống nhau, trước hết về tư cách pháp nhân, chúng được thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ và được hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ hoặc chính quyền địa phương,có một không gian kinh tế hay một vị trí xác định. Ngoài ra, các hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, địa phương, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình này đối với vùng, địa phương, hay kinh tế cả nước.
- Điểm khác nhau cơ bản giữa khu kinh tế cửa khẩu với các hình thức kinh tế này, là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập khu kinh tế cửa khẩu trước hết phải gắn với vị trí cửa khẩu, đây là khu vực có dân hoặc không có dân sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước ngoài. Hơn nữa, mực đích thành lập khu kinh tế cửa khẩu nhằm ưu tiên phát triển thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, qua trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ, bao gồm: hoạt động xuất, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng hoá quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế… Như vậy, nguồn hàng hóa trao đổi ở đây có thể là tại chỗ, hoặc từ nơi khác đưa đến, khác với khu công nghiệp và khu chế xuất. Do đó các chính sách ưu tiên cũng khác nhau, phù hợp với đặc thù của vùng, địa phương nơi các loại hình này được thành lập.
II. Mô hình phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
1. Mô hình không gian.
Các khu kinh tế cửa khẩu đều có đặc điểm chung về hành chính là nơi tiếp giáp hai hay nhiều quốc gia, có vị trí địa lý riêng trên đất liền, biển, sông hồ…. nằm trong tài liệu phân chia biên giới theo Hiệp Định và được Nhà nước cho áp đặt một số chính sách riêng.
1.1. Nguyên tắc chung của mô hình không gian:
- Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, thuỷ, thềm lục địa, vùng trời theo hiệp định đã ký và các quy ước quốc tế.
- Các hoạt động ở khu vực phải xét đến yếu tố địa lý, tự nhiên để không làm tổn hại đến lợi ích các bên về các mặt, chú ý đến lĩnh vực môi trường.
- Bảo đảm sự phối hợp tốt nhất các yếu tố tự nhiên để các bên cùng có lợi.
- Cần có sự bàn bạc cụ thể khi triển khai các hoạt động trong khu vực nhằm tạo ra sự hợp tác các nguồn lực của các bên.
- Tìm kiếm các các yếu tố tương đồng, tìm kiếm và hướng tới các vị trí mà ở đó có mối liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp các thiếu hụt về nguồn lực, về trao đổi hàng hoá.
- Tránh các vị trí bất lợi, vị trí để tội phạm hoạt động hoặc có thể xảy ra tranh chấp, lấn chiếm, vị trí dễ nảy sinh mâu thuẫn.
1.2. Một số mô hình không gian:
Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình tốt, một mặt giảm tập trung cao về biên giới, đồng thời là nơi sử dụng hàng hoá nhập khẩu và tạo ra hàng xuất khẩu dựa trên cơ sở lợi thế về mặt giao thông. Để đáp ứng về điều đó các bên phải có tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, hoặc liền bờ biển, ngoài ra trên các tuyến giao thông đó cần hình thành các, khu công nghiệp, đô thị, bến cảng ở mỗi bên với cự ly hợp lý, có mối liên hệ kinh tế mật thiết với khu kinh tế cửa khẩu. Mô hình này gần như đã tồn tại một cách “tự nhiên” trong lịch sử, từ một lối mòn dân chúng qua lại sau đó nhu cầu trao đổi tăng giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Có thể cho rằng mô hình này là cơ sở của các mô hình khác. (hình 1a)
Mô hình quát giao nhau ở cán: là mô hình dựa trên hai bên có hành loạt các đô thị, khu công nghiệp, các vùng sản xuất nhưng cách biên giới một khoảng do tự nhiên hoặc quy ước một cách phù hợp, việc trao đổi hàng hoá đều tập trung về khu kinh tế theo đường giao thông gần nhất. Mô hình này có tính tập trung cao về thương mại, có thể gọi là cảng khô hay khu thương mại tự do. (hình1b)
Mô hình quạt giao nhau ở cánh: là mô hình mà biên giới có các khu đô thị, khu công nghiệp tập trung, hàng hoá hai bên được trao đổi một cách phân tán ở nhiều cặp chợ biên giới. Mô hình này thích hợp với biên giới có địa hình phẳng đông dân cư để có thể xây dựng các phố biên giới dài hàng km. (hình 1c)
Mô hình lan toả: là mô hình dựa trên cơ sở tập quán sinh hoạt của dân cư nên mô hình này mang tính tự phát và phát triển theo yêu cầu lợi dụng các yếu tố tự nhiên. Mô hình này thích hợp với các cặp chợ, thị trấn biên giới, hay các công trình hạ tầng do hai bên hợp tác, hoặc sẵn có.
Sơ đồ 1: Sơ đồ các mô hình không gian
1a. Mô hình đường thẳng 1b. Mô hình quạt giao nhau ở cán
1c. Mô hình quạt giao ở cánh 1d. Mô hình lan tỏa
1.3. Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu:
Là mô hình căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi nước, khả năng giao lưu với nước thứ ba nhờ hệ thống giao thông như đường bộ, sân bay bến cảng đường thủy; dựa trên các điều kiện tự nhiên thuận lợi các nước sẽ bố trí các cặp cửa khẩu quốc tế, quốc gia và địa phương.
Mô hình này được dựa trên một số các nguyên tắc như: thuận lợi cho việc kiểm soát các phương tiện, người và hàng hoá qua lại, trong đó cần có sự phối hợp hỗ trợ về các tiện ích công cộng như điện, nước, chiếu sáng, cây xanh, môi trường. Ngoài ra cần có dịch vụ tốt cho sự lưu trú của người cũng như của hàng hoá và các phương tiện quá cảnh,... Có hai mô hình cụ thể sau:
- Mô hình đối xứng: là mô hình được xây dựng theo định hướng phát triển của mỗi bên và thoả thuận quốc gia, mỗi bên xây dựng khu kinh tế cửa khẩu độc lập, cạnh tranh phát triển, do vậy nó có nét đối xứng mỗi bên có kết cấu hạ tầng giống nhau do đó chúng có những điểm bố trí tương đồng với nhau về kết cấu bao gồm: khu dân cư, khu thương mại, khu sản xuất, khu vui chơi giải trí, khu hành chính.
Sơ đồ 2: Sơ đồ mô hình khu kinh tế cửa khẩu đối xứng
Khu sản xuất
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
Dải phân cách
Khu sản xuất
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
Mô hình đặc biệt: đây là mô hình liên kết hai giai đoạn, tạo ra vùng lãnh thổ đặc biệt, hai bên có thể thoả thuận bằng một hiệp ước, theo đó chỉ ra vùng lãnh thổ hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống. Điểm khác biệt về nguyên tắc của mô hình là hình thành một công ty kinh doanh hạ tầng cho thuê toàn bộ các tiện ích trong khu theo danh mục ngành nghề kinh doanh. Mô hình này có lợi thế khai thác tốt nhất hạ tầng và có khả năng thu hút đầu tư quốc tế. Tuy nhiên cơ chế qui định trách nhiệm và lợi ích mỗi bên cần được phân định một cách thật rõ ràng.
Sơ đồ 3: Sơ đồ khu kinh tế cửa khẩu đặc biệt
Khu sản xuất (công ty liên doanh đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng thuê đất)
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
Đường phân cách
Khu sản xuất (công ty liên doanh đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng thuê đất)
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
2. Mô hình thể chế.
2.1. Nguyên tắc chung:
- Tôn trọng luật pháp quốc tế, các hiệp định thoả thuận, quốc gia, khu vực trên cơ sở bảo đảm hoà bình, thịnh vượng và cùng có lợi.
- Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
- Chủ động thông báo cho nhau cùng hợp tác, thiện chí giải quyết những vướng mắc dựa trên sự tôn trọng truyền thống và tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.
- Tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và dân chúng làm ăn.
- Phân cấp giải quyết các vấn đề phát sinh thường xuyên cho các cấp chính quyền khu vực theo nguyên tắc đối xứng.
Giữa các quốc gia có chung biên giới cần có sự trao đổi thông tin một cách thường xuyên về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu của mỗi nước, để cùng phối hợp điều chỉnh và thực hiện cho phù hợp. Những nội dung mà các bên cùng quan tâm là :
- Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực qui ước như điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, văn hóa, dân tộc và tập quán, các ưu thế và các hạn chế.
- Những vấn đề về cơ chế chính sách chung như đường lối, chủ trương, chính sách, những văn bản pháp lý, các hiệp định, mô hình thể chế tại các khu vực cửa khẩu.
- Các chính sách cụ thể trong hoạt động xuất nhập khẩu, các biểu thuế và thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh đối với người và phương tiện; những văn bản quy định về đầu tư nước ngoài vào khu vực này, cũng như các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự và các biện pháp bảo vệ môi trường cho sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
- Các văn kiện thỏa thuận dự kiến đưa ra trao đổi và phân cấp hợp tác. Các dự án đầu tư hỗn hợp và danh sách các đối tác trực tiếp tham gia.
2.2. Vùng giao thoa các chính sách khuyến khích
Các khu kinh tế cửa khẩu thuộc khu vực hành chính đến cấp cơ sở (thôn, tổ dân phố) được chính quyền Trung ương phân cấp quản lý theo hướng khuyến khích phát triển hơn các vùng khác nhưng không phải khu hành chính riêng như các đặc khu kinh tế vì vậy khu kinh tế cửa khẩu là vùng giao thoa chính sách.
2.3. Một cửa áp dụng cho hình thức phân cấp quản lý :
Một trong những vấn đề được mọi nguời quan tâm và lo ngại đó là vấn đề trong việc ra vào khu kinh tế cửa khẩu và xuất nhập cảnh. Cần phải có sự công khai công việc và thống nhất trong các đơn vị làm dịch vụ về vấn đề thu lệ phí.
Các khu kinh tế cửa khẩu có nhiều hình thức và phân cấp quản lý khác nhau nhưng đều theo nguyên tắc một cửa cho các hoạt động đầu tư và thương mại.
- Cửa khẩu độc lập, hình thành theo điều ước quốc tế mà chính phủ nước sở tại phê chuẩn giao cho ngành hải quan quản lý có qui chế riêng.
- Khu thương mại tự do trong đó có khu công nghiệp tự do cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia, khu vực này không có dân cư, hàng hoá vào được miễn thuế, việc chuyển đổi hàng hoá như thay đổi nhãn hiệu, bao bì, lắp ráp,… không chịu sự giám sát của hải quan và khi tái xuất hoặc nhập khẩu phải lập sổ sách chịu sự giám sát của hải quan, phải nộp thuế.
Khu kinh tế cửa khẩu cấp tỉnh trong đó có khu thương mại tự do như trên, có dân cư và có đặc quyền riêng về đầu tư và thương mại, ở vùng thuận lợi có sân bay, bến cảng có thể hình thành đặc khu kinh tế với vùng lãnh thổ rộng, thiết chế hành chính riêng.
3. Mô hình của một khu kinh tế cửa khẩu không có dân.
Cửa khẩu mỗi nước có bốn cửa. Xu hướng tự do hoá thương mại, hàng hóa, trong danh mục thoả thuận được tự do vào khu, chỉ thu phí và phía bên kia miễn thuế nhập khẩu. Chỉ kiểm soát hàng hoá xuất ra khỏi khu để vào nội địa việc này phụ thuộc chính sách của mỗi nước.
Thu phí theo danh mục niêm yết đối với hàng hoá từ nội địa vào khu và từ phía bên kia nhập vào khu.
Quy định loại hàng hoá sản xuất kinh doanh trong khu được miễn kiểm soát của hải quan, không phải chịu bất kì loại thuế nào nhưng phải trả tiền thuế đất và các dịch vụ theo mức cao hơn nội địa, chịu thuế khi xuất khỏi khu vào nội địa; kê khai nộp lệ phí khi xuất sang bên kia
Có cửa thì chỉ có một cửa thu thuế và ba cửa thu phí. Thu lệ phí vào một lần trong đó có lệ phí sử dụng các tiện ích công cộng trong khu không phải trả tiền như bãi đỗ xe trong ngày, vệ sinh công cộng cho cá nhân, bảo đảm an ninh trật tự… và được miễn thuế, lệ phí khi mang hàng hoá theo cá nhân về nội địa và khi xuất cảnh.
Sơ đồ 4: Sơ đồ khu kinh tế cửa khẩu không có dân.
Kiểm soát nhập khẩu vào nội địa, nộp thuế
Miễn thuế nhập, kê khai nộp phí
Khuyến khích xuất khẩu, kê khai, nộp lệ phí
Vào tự do chỉ phai nộp lệ phí
Vào tự do chỉ phai nộp lệ phí
Khuyến khích xuất khẩu, kê khai, nộp lệ phí
Kiểm soát nhập khẩu vào nội địa, nộp thuế
Miễn thuế nhập, kê khai nộp phí
Khu kinh tế cửa khẩu nước B
Khu kinh tế cửa khẩu nước A
Đường
phân
cách
III. Vai trò và vị trí của các khu kinh tế cửa khẩu
Khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK) ở Việt Nam ra đời phù hợp với quan điểm đổi mới mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới của Đảng và Nhà nước trong những năm trở lại đây. Khu kinh tế cửa khẩu đầu tiên ở Việt Nam là KKTCK Móng Cái được thành lập ngày 18/9/1996 theo Quyết định 675 /TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong thời gian qua, hoạt động của khu KTCK đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của tỉnh, của vùng khi có KTCK nói riêng và của cả nước nói chung. Đối với những nước có nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển như Việt Nam thì việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ mở rộng quy mô thị trường, tăng cường giao lưu hàng hóa, kích thích sản xuất và tăng tính cạnh tranh cho các sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra việc phát triển khu KTCK sẽ tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp trong tổng GDP. Với những đóng góp không nhỏ đối với phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua các khu KTCK đã ngày càng khẳng định rõ vai trò và vị trí của mình.
1. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
Các khu kinh tế cửa khẩu được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi thế về quan hệ kinh tế-thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hoá, đầu tư, thương mại, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước từ nước ngoài vào nội địa thông qua cơ chế chính sách ưu đãi tại các khu kinh tế cửa khẩu. Chính sự thu hút này đã làm cho các ngành, các địa phương trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp dẫn của cơ chế chính sách ưu đãi thực hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu thông hàng hoá cho phù hợp. Bên cạnh đó khi mô hình khu kinh tế cửa khẩu được phát huy tốt sẽ tạo ra sự lưu thông hàng hoá giữa trong và ngoài nước nhằm khai thác thị trường rộng lớn của nước bạn. Hơn nữa, trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và và du lịch cũng có những đòi hỏi tương tự, cần phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hoá chậm phát triển, thị trường còn nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh trước mắt của nền kinh tế còn thấp kém như Việt Nam.
Việc hình thành khu kinh tế cửa khẩu đã làm phong phú thêm tính đa dạng hóa của các loại hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở được xây dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới vừa qua. Và cũng chính việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã hình thành một mô hình phát triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy khu kinh tế cửa khẩu tiềm năng của địa bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu.
Khu KTCK có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ không chỉ các nhà đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng của Chính phủ. Bên cạnh đó, khu KTCK góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài ở địa phương. Mặt khác, khu KTCK còn góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương giảm bớt sự phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách Nhà nước. Hơn nữa còn đóng góp cho ngân sách Nhà nước ở cửa khẩu có doanh thu lớn, qua đó nâng cao được tỉ lệ tích luỹ đầu tư cho tương lai, đồng thời nâng cao đời sống của đồng bào vùng biên giới thông qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng khu KTCK, nâng cao dân trí đồng bào biên giới thông qua việc tiếp xúc với các hoạt động kinh tế, thị trường, qua đó lan toả tới đồng bào biên giới các địa bàn xa hơn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển các khu KTCK tác động thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nó có tác dụng như chiếc cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới, nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, góp phần quan trọng trong việc thực hiện quan điểm phát triển giai đoạn 2001-2002 mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX là: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tựchủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khu KTCK hình thành sẽ tạo ra sự phân công lao động theo hướng chuyển lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp, hỗ trợ phát triển đối với dịch vụ trong nước thông qua việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các nước láng giềng; tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, kiểm tra giám sát các hoạt động, phát hiện và xử lý các vi phạm. Điều đó thể hiện khi môi trường kinh tế phát triển thuận lợi khu KTCK cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách kinh tế đối ngoại củ các quốc gia có đường biên giới chung. Vì vậy những nhu cầu về kinh tế cả cho sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân cận; trong phạm vi rộng nó sẽ trực tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương, các vùng trong cả nước thông qua sự luân chuyển các kênh hàng hóa từ khu vực KTCK đến các nơi và ngược lại theo sự vận động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường đối với các chủng loại hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó với phạm vi ảnh hưởng càng lớn, khu KTCK càng phát triển, nó sẽ tác động càng mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả nước, khai thác tối đa những tiềm năng và thế mạnh của vùng.
Ngoài ra đối với một số tỉnh miền núi biên giới phía Đông Bắc nơi có khu KTCK nó còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hoá, hình thành những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ …
3. Đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước
Phát triển các khu KTCK là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Các khu KTCK thúc đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng công nghệ mới và trình độ quản lý hiện đại trong hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất, tạo ra những yếu tố để liên kết các doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như ngoài nước, góp phần tích cực vào việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ; thực hiện phân công lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối với phát triển xã hội
Sự tác động đối với kinh tế kinh tế của các khu kinh tế cửa khẩu cũng thực chất là tác động đến phát triển xã hội, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển xã hội là nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Các khu KTCK còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc sống của nhân dân qua việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, hình thành nhiều trung tâm tạo việc làmmới, phát triển kinh tế gắn văn minh, tiến bộ và công bằng xã hội. Với sự tác động có tính lan toả mạnh mẽ thì các khu KTCK sẽ thúc đẩy phát triển xã hội rất hiệu quả, đặc biệt là các vùng biên giới cửa khẩu còn đang gặp rất nhiều khó khăn.
5. Đối với an ninh quốc phòng
Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu sẽ thu hút dân cư đến làm ăn, sinh sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đô thị biên giới góp phần làm tăng thêm tiềm lực kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới. Đời sống của nhân dân tại địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu sẽ được thay da đổi thịt tạo thêm lòng tin về chính quyền và về các chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, các lực lượng công an, hải quan, biên phòng tại khu kinh tế cửa khẩu được tăng cường năng lực cũng như trang thiết bị, do đó hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng sẽ được nâng cao về nhiều mặt.
Như vậy việc thành lập khu KTCK có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho khu vực.
IV. Kinh nghiệm phát triển khu KTCK ở một số nước
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Sau hơn 20 năm mở cửa, tuy đã bắt đầu được khai phát một cách tích cực, khu vực biên giới Trung Quốc nhìn chung vẫn lạc hậu và có khoảng cách xa với các vùng ven biển. Việc kiên trì theo đuổi đường lối mở cửa và những biến đổi trong phát triển kinh tế ở Trung Quốc và thế giới đã buộc nước này phải điều chỉnh và hoàn thiện chính sách này theo hướng đẩy nhanh mở cửa vùng biên giới nội địa để phối hợp phát triển với các vùng duyên hải. Chính vì vậy, đã có một số chính sách phát triển mới ra đời: chính sách cải cách mở cửa không chỉ dựa vào nguồn tài chính của chính phủ trung ương mà còn “nới quyền, nhường lợi” cho các địa phương, xí nghiệp, và các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế tại các khu vực lãnh thổ khác nhau. Các chính sách này được thực hiện với những nội dung không giống nhau, tuỳ thuộc vào đặc thù của từng khu vực.
Việc mở cửa vùng biên giới đất liền nhằm khai thác thị trường, tiêu thụ hàng công nghiệp địa phương và cung cấp nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp Trung Quốc, thực hiện “tam khứ nhất bổ” (Tam khứ: xuất khẩu hàng hóa, lao động, thiết bị, kỹ thuật; Nhất bổ: lấy về những mặt hàng thiếu hoặc khan hiếm ở Trung Quốc) cũng là một trong số những chính sách mới kể trên. Tư tưởng chủ đạo của Trung Quốc trong việc mở cửa vùng biên giới là cho phép các tỉnh hợp tác kinh tế trực tiếp với các nước láng giềng, theo nhiều hướng, nhiều hình thức và nhiều con đường, tuỳ điều kiện cụ thể của từng tỉnh đó.
* Chính sách biên mậu của Trung Quốc
Hoạt động kinh tế biên mậu (KTBM) là kết quả tất yếu khách quan của quá trình hợp tác và giao lưu kinh tế giữa các quốc gia có chung đường biên giới với nhau. Đây cũng là một trong những hình thức thương mại truyền thống của Trung Quốc. Là một bộ phận hữu cơ trong hoạt động thương mại quốc tế của Trung Quốc, KTBM đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu vực biên giới nói riêng cũng như tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế nói chung.
Quá trình phát triển kinh tế biên mậu của Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc triển khai và xúc tiến hoạt động biên mậu (HĐBM). Dựa vào lợi thế có đường biên giới trải dài và tiếp giáp với nhiều quốc gia, HĐBM của Trung Quốc có một lịch sử phát triển lâu đời. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (PRC) được thành lập. Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt ký kết các hiệp định thương mại với Liên Xô (cũ), Việt Nam, Triều Tiên, ấn Độ và các quốc gia có chung đường biên khác từ những năm đầu của thập kỷ 50. Tuy nhiên, trong thập kỷ 60 và 70, hoạt động này đã bị tạm ngưng một thời gian do một số vấn đề trong và ngoài nước. Đến đầu thập kỷ 80, cùng với sự cải cách và mở cửa của Trung Quốc cũng như việc nối lại quan hệ chính trị với các quốc gia có chung đường biên. HĐBM lại được tiếp tục và chuyển sang giai đoạn phát triển mới:
- Giai đoạn khôi phục và mở rộng (1982-1991)
Năm 1982, các tỉnh biên giới phía Bắc Trung Quốc đã nối lại quan hệ thương mại với vùng miền Đông Liên xô (cũ). Năm 1988, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với HĐBM. Nhờ đó tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động thương mại các tỉnh biên giới của Trung Quốc, làm cho phạm vi và quy mô của HĐBM đã được mở rộng đáng kể trong giai đoạn này.
- Giai đoạn phát triển (1992-1995):
Năm 1992, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách để đẩymạnh việc trao đổi hàng hóa với Liên Xô (cũ) vàcác nước Đông Âu. Năm 1993, lầm đầu tiên kim ngạch xuất nhập khẩu trong HĐBM (gồm cả hình thức trao đổi hàng) đạt mức cao nhất là hơn 5 tỷ USD. Tuy nhiên, do sự bất ổn của thị trường cùng với việc xuất hiện các sản phẩm xuất khẩu kém chất lượng đã buộc Chính phủ Trung Quốc phải thực hiện các biện pháp để ổn định lại trật tự trong HĐBM vào năm 1994.
- Giai đoạn điều chỉnh và tiêu chuẩn hoá (1996 đến nay)
Để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động thương mại, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Quy định về các vấn đề liên quan đến HĐBM vào năm 1996. Nhờ việc ban hành quy định này đã chuẩn hoá sự quản lý đối với HĐBM. Trong thời gian điều chỉnh ban đầu,hoạt động này đã bị giảm sút nhưng sau đó được phục hồi từ năm 1999 và duy trì được mức độ tăng trưởng ổn định sau năm 2000.
Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc biến động theo mô hình tăng trưởng làn sóng. Năm 1993, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM đã đạt mức kỷ lụclà5,512 tỷ USD, chiếm tới 2,63% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Tuy trong thời gian sau đó (1994-1998) đã có sự giảm sút nhưng đến năm 1999, kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới của Trung Quốc lại đạt được quy mô như năm 1993. Và xu thế tăng trưởng này tiếp tục được duy trì đều đặn từ sau năm 2000. Ước tính, năm 2003 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới đạt khoảng 71 tỷ USD (tăng hơn 35% so với năm 2002). chiếm 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Các hàng hóa xuất khẩu chủ yếu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc là các sản phẩm nông sản như: gạo. rau, hoa quả, các sản phẩm dệt may, sản phẩm công nghiệp nhẹ ,… trong khi Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu thô như gỗ, thép, bột giấy, khoáng sản, các kim loại không chứa sắt, phân bón …
Các hình thức trao đổi trng hoạt động KTBM của Trung Quốc rất phong phú và đa dạng, và phụ thuộc vào đặcđiểm kinh tế - xã hội của các quốc gia có chung đường biên giới. Nhìn chung, theo quy định của Chính phủ Trung Quốc, hai hình thức chủ yếu trong trao đổi KTBM là:
- Hình thức trao đổi hàng hóa của dân cư vùng biên giới: Hình thức trao đổi này được chính phủ quy định trong phạm vi 20km tính từ đường biên giới với một giá trị hạn mức trao đổi tối đa. Hình thức này được sử dụng phổ biến, thuận tiện với nhiều ưu đãi về thuế quan nhằm hỗ trợ cho các tỉnh biên giới phát triển cũng như tạo điều kiện cải thiện đời sống nhân dân.
- Hình thức thương mại tiểu ngạch: Là hoạt động buôn bán giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh doanh các nước có chung đường biên giới tại khu vực cửa khẩu. Hình thức này được tập trung quản lý thống nhất và chịu sự điều chỉnh của các chính sách thương mại.
2. Thái Lan
Thái Lan có đường biên giới khá dài, các hoạt động trao đổi kinh tế - thương mại cửa khẩu biên giới khá sôi động trong thời gian qua với các nước láng giềng là Campuchia, Myanmar, Lào, Malaysia. Có thể thấy rằng, thông qua việc khai thác lợi thế thương mại cửa khẩu biên giới, hàng hóa của Thái Lan đã xâm nhập rất mạnh sang các nước láng giềng. Nhìn chung, các hoạt động này được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là thương mại chính thức và thương mại phi chính thức. Thương mại biên giới chính thức là các hoạt động biên giới theo các quy định của luật pháp (các quy chế, hoặc các hiệp định, thoả thuận đã được hai chính phủ ký kết). Các hoạt động này thường phải chịu những khoản thuế quan nhất định, được ghi chép trong hệ thống sổ sách của các cơ quan có thẩm quyền về xuất nhập khẩu.
Thương mại biên giới phi chính thức bao gồm các hoạt động giao lưu thương mại qua đường biên giới không phải qua (hoặc trốn tránh) các thủ tục hải quan, thường là nhằm mục tiêu trốn chạy việc kiểm soát thương mại, hay trốn thuế hải quan và các sắc thuế khác, kể cả thuế thu nhập. Việc trốn tránh các thủ tục hải quan ở các vùng biên giới này được thực hiện dễ dàng nhờ các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và quan hệ gần gũi của dân chúng ở hai bên đường biên.
Phần lớn các hàng xuất khẩu theo đường phi chính thức từ Thái Lan là các hàng tiêu dùng, các dụng cụ gia đình, thuốc tây, các loại xe gắn máy và phụ tùng. Hàng nhập khẩu phi chính thức vào Thái Lan là đá quý, các hàng lương thực thực phẩm sơ chế hoặc chưa chế biến,. các dụng cụ điện gia dụng, rượu mùi, thuốc lá, gia súc và các hàng nông sản. Theo ước tính, hiện nay kim ngạch thương mại phi chính thức chiếm khoảng từ 1/3 đến trên 1,0 lần so với thương mại chính thức giữa Thái Lan và lào, lớn gấp đôi thương mại chính thức giữa Thái Lan và Myanmar và giữa Thái với Malaysia. Điều cần chú ý là các hàng hóa được buôn bán theo con đường phi chính thức này bao gồm cả những sản phẩm được chế tạo từ những nước khác chứ hông chỉ là từ nước láng giềng có đường biên giới với Thái Lan (ví dụ như rượu, thuốc lá, các đồ điện gia dụng …).
Bảng: Mậu dịch biên giới của Thái Lan với các nước láng giềng
Đơn vị: Triệu bath
Năm
Lào
Campuchia
Mianma
Malaysia
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
1988
1882
264
15
13
797
-21
5684
1400
1989
2793
459
91
-87
1468
-408
8799
3071
1991
2904
-254
….
….
2671
1693
….
….
1992
2770
412
2791
-2053
4069
-867
50035
…..
1993
4128
608
3700
24
5468
1264
54252
….
1994
6511
2603
3914
477
7945
2781
66261
31272
1995
10284
6060
6398
4
5906
3602
38779
24265
1997
12893
8893
8271
477
Nguồn: Văn phòng thư ký thường trực Bộ Thương mại Thái Lan
Các hình thức tổ chức kinh tế biên mậu của Thái Lan khá đa dạng và phong phú, với sự thông thoáng và đơn giản trong nhiều thủ tục hải quan. Nhờ có sự ưu đãi hợp lý của Nhà nước với mức độ quan tâm phù hợp đã càng tạo ra sự hấp dẫn trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ và du lịch đang trong đà tăng trưởng mạnh. Với nhiều thoả thuận ở cấp quốc gia trongviệc phát triển quan hệ thương mại biên giới, theo hướng khai thác tốt hơn những đặc điểm kinh tế - xã hội củakhu kinh tế cửa khẩu, tìm kiếm các mô hình kinh tế linh hoạt hơn với các chính sách cởi mở nhằm tăng cường trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước, mở rộng và phát triển nhiều hình thức hoạt động kinh tế k hác. Để từ đó hình thành một số vùng kinh tế, gắn với các cửa khẩu tạo điều kiện phát triển nhanh hơn để lôi kéo các khu vực lân cận cùng phát triển thông qua sự phát triển có tính chất lan toả.
3. Về Tây Âu và Bắc Mỹ
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
Hình thức quan hệ thương mại qua biên giới đã được một số nước sử dụng thành công. ở Bắc Mỹ, lợi dụng những những điểm khác biệt về chế độ thuế giữa Mỹ và Canada, Mỹ đã chủ động mở nhiều điểm bán hàng giữa biên giới hai nước, khai thác những điểm hạn chế về thuế quan để thu lợi cho mình. Hơn nữa, trong quan hệ hai nước, Mỹ và Canada đã phối hợp xây dựng hàng loạt các xí nghiệp gia công, chế tác theo hình thức liên doanh trên tuyến biên giới. Một số nước khác cũng sử dụng hình thức này, như quan hệ Mêhicô và Mỹ, với nhiều thị trường tự do được xây dựng, trong đó có những ưu đãi về cơ chế chính sách, thuế và mậu dịch, tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại qua cửa khẩu biên giới.
Đối với các nước Tây Âu, có đặc điểm về lãnh thổ là các nước tiếp giáp nhau có khoảng cách qua lại gần. Trên cơ sở những chính sách chung của khối EEC, nhiều quốc gia đã xây dựng những chính sách nhằm phối hợpchặt chẽ hơn về kinh tế và thương mại. Năm 1992, theo thống kê của Cộng đồng chung châu Âu, kim ngạch buôn bán biên giới tăng 550 tỉ mác Đức so với năm 1980. Nước Pháp, một nền kinh tế phát triển mạnh ở châu Âu cũng chủ trương khai thác những thế mạnh trên các tuyến biên giới trong trao đổi kinh tế - thương mại. Pháp đã xây dựng nhiều khu kinh tế mở ở biên giới phía Đông, biến khu vực này trở thành trung tâm kinh tế phát triển.
Phần II Thực trạng về các khu kinh tế
cửa khẩu vùng Đông Bắc
I. Tổng quan chung về vùng Đông Bắc
1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.1 Vị trí địa lý, địa hình khí hậu :
Vùng Đông Bắc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng, Tây Bắc, biển Đông và Trung Quốc. Đây là một vị trí hết sức thuận lợi trong việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các vùng và đặc biệt là nước láng giềng Trung Quốc. Việc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng và có một lãnh thổ gắn với vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với những trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng đã cho thấy tiềm năng rất lớn của vùng sau này. Dự báo đến năm 2010 dân số Trung Quốc vào khoảng 1,3 tỷ người sẽ có nhiều khả năng trở thành cường quốc kinh tế của thế giới. Khu vực Đông, Đông Nam Trung Quốc đang phát triển vào loại nhanh nhất khu vực. Trong đó Quảng Đông và một phần vùng ven biển Quảng Tây, đảo Hải Nam đang bứt lên với tốc độ nhanh. Việc Hồng Kông đã được sát nhập trở lại với Trung Quốc và Ma Cao cũng đã được trả lại về Trung Quốc sẽ tạo ra một dải ven biển phát triển hùng hậu, sẽ có những ảnh hưởng lớn từ phía này đối với quá trình đi lên của Đông Bắc. Lúc đó, Đông Bắc bị cuốn vào quá trình phát triển, hợp tác và đứng trước những cơ hội và thách thức lớn.
Vùng Đông Bắc của Việt Nam có địa hình chia cắt phức tạp, ở phía Tây có những dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đặc biêt dãy Hoàng Liên Sơn có đỉnh núi Fanxipăng cao hơn 3000 m, chia cắt Tây Bắc với Đông Bắc Bắc Bộ. ở phía Đông của Đông Bắc có nhiều dãy núi cao hình cánh cung tạo nên địa hình hiểm trở. Đông Bắc tuy vẫn nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới, nhưng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và khí hậu phân dị tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái cho phép phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi đa dạng phong phú, trong đó có những loại đặc sản có giá trị kinh tế cao.
Chính sự độc đáo về vị trí địa lý kinh tế của vùng Đông Bắc mà các tỉnh tính toán và lựa chon cần xem xét hết các vấn đề khai thác các yếu tố tự nhiên để phát triển nền nông, lâm nghiệp sinh thái nhiệt đới bền vững.
1.2 Đông Bắc là một trong những vùng giàu tài nguyên khoáng sản :
Có thể nói rằng tài nguyên khoáng sản của vùng thuộc loại bậc nhất nước ta hiện nay với những loại tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia như : than, apatít, sắt, đồng, chì, kẽm, thiếc,v…v… là những tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp khai khoáng.
Đông Bắc có vùng than Quảng Ninh lớn nhất nước ta với chủ yếu là antraxit chất lượng tốt. Nếu tính đến độ sâu 300 m thì vùng này có trữ lượng than thăm dò tới khoảng 3,5 tỷ tấn trong đó mỏ lộ thiên khoảng 195 triệu tấn. Ngoài than Quảng Ninh còn có than lửa dài tập trung ở Na Dương, Thái Nguyên với trữ lượng khá.
Đông Bắc là vùng duy nhất ở nước ta có mỏ apatít với trữ lượng lớn và tập trung. Tổng trữ lượng dự báo khoảng 2,1 tỷ tấn, đủ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất phân lân phục vụ phát triển nông nghiệp ở nước ta và có thể dành để xuất khẩu một phần.
Đồng chì kẽm là những loại khoáng sản tuy không lớn nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc. Nếu được đầu tư khai thác tốt, với trữ lượng tuy không lớn nhưng có thể đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu trong nước.
Thiếc tập trung lớn ở tỉnh Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang). Một số điểm quặng nằm rải rác ở các địa phương. Cần nâng cao chất lượng khai thác và tuyển, luyện, nâng cao mức độ sạch của thiếc, kim loại quí như đồng, vonphram, titan…
Ngoài ra, Đông Bắc còn có các loại khoáng sản như pirit, sắt, vàng đá quí, đất hiếm, đá granit, đá xây dựng, đá vôi xi măng, nước khoáng v..v… Đây cũng là những loại khoáng sản có tiềm năng, là thế mạnh để phát triển công nghiệp khai khoáng và chế biến khoáng sản của Đông Bắc và cả nước.
1.3 Tài nguyên du lịch đặc sắc
Vùng Đông Bắc có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng và có sức hấp dẫn chẳng những với du khách trong nước, mà còn với khác du lịch nước ngoài. Có khả năng tiếp nhận lớn khách du lịch và đáp ứng các yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các đối tượng khác nhau.
Về mặt tự nhiên, vùng này có rất nhiều cảnh đẹp. Cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, biển thơ mông, đặc biệt có Vịnh Hạ Long ( Quảng Ninh) một danh thắng nổi tiếng thế giới. Khách du lịch tới đây sẽ bị lôi cuốn trước vẻ đẹp của tạo hóa, kỳ thú của một thế giới đảo đá vôi muôn hình muôn vẻ, nửa nổi, nửa chìm trong vịnh biển. Bãi biển Trà Cổ dài, thoải, nước trong và quanh năm lộng gió. Đồng thời có nhiều cảnh quan hấp dẫn như hồ Thác Bà, hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc…. Thác nước Bản Dốc, Đầu Đẳng và núi Các Mác, suối Lê Nin và các cánh rừng già nguyên sinh như khu rừng cấm Tam Đảo với hệ sinh thái rừng nhiệt đới làm thoả mãn trí tò mò của các du khách với lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học.
Về mặt văn hoá lịch sử, vùng này phản ánh bề dày lịch sử Việt Nam. Những di tích khảo cổ học chứng minh cho nền văn hoá Đông Sơn, Hạ Long nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử qua các triều đại của nước ta còn được bảo toàn hoặc phục hồi như khu rừng Trần Hưng Đạo,khu Cao Bằng Pắc Pó và nhiều danh thắng lịch sử khác rất có giá trị về khoa học và giáo dục truyền thống, truyền bá kiến thức. Bên cạnh đó với những lễ hội truyền thống như Hội Đền Hùng, Hội Lim… mang đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho khách du lịch, thăm quan, tìm hiểu và nghiên cứu.
2. Dân số và nguồn nhân lực
Vùng Đông Bắc có số dân khoảng 12,9 triệu người vào năm 2004 chiếm 14,5% dân số cả nước. Dân số của vùng tăng nhanh nhưng nhịp độ tăng dân số đã có xu hướng giảm dần, tuy nhiên mức sinh của dân số vùng Đông Bắc còn cao hơn so với trung bình của cả nước và các vùng khác.
Vùng Đông Bắc có cơ cấu dân tộc đa dạng nhất trong cả nước với 40 dân tộc anh em cùng sinh sống. Các dân tộc ít người sống tập trung trên những địa bàn nhất định thuận lợi cho việc thực hiện chính sách và tổ chức cuộc sống phù hợp với đặc điểm tập quán, lối sống và trình độ vủa mỗi dân tộc, nhưng cũng khó khăn trong việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống vì trình độ dân trí của đồng bào quá thấp.
Trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật trung bình của dân cư nguồn nhân lực ở Đông Bắc khá cao tương đương với trình độ trung bình của cả nước. Có đến 53,7% tổng số nguồn nhân lực đã tốt nghiệp PTCS trở lên cao hơn mức trung bình của cả nước. Tuy nhiên còn có một tỉ lệ không nhỏ nguồn nhân lực không biết chữ và chưa tốt nghiệp PTCS chủ yếu là các đồng bào các dân tộc ít người.
Trong vùng có một số khu tập trung công nghiệp với lịch sử hình thành hàng chục năm nên có đội ngũ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ khá đông đảo. Toàn vùng có trên 60 vạn người đã qua đào tạo, chiếm 12% tổng số lao động tương đương với trình độ trung bình của cả nước trong đó có trên 8 vạn người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Tuy nhiên lại có sự chênh lệch lớn về trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật của nguồn nhân lực giữa các tỉnh trong vùng. Và có sự khác biệt lớn về trình độ học vấn giữa các dân tộc, đặc biệt là người Dao, người Hmông có tỉ lệ trẻ em 5-19 tuổi đi học là rất thấp trong khi tỉ lệ mù chữ lại rất cao.
Cơ cấu phân công lao động xã hội của vùng còn rất lạc hậu, khu vực nông lâm nghiệp chiếm tỉ trọng cao, trình độ trang thiết bị kĩ thuật của người lao động còn thấp kém nên không đủ sức khai thác các thế mạnh của vùng, năng suất lao động rất thấp chỉ bằng 65% mức bình quân chung của cả nước. Ngoài ra Đông Bắc có tỷ lệ dân số đô thị thấp và không đồng đều giữa các tỉnh.
3. Đánh giá khái quát về thực trạng kinh tế – Xã hội vùng Đông Bắc
Trong những năm gần đây nền kinh tế của vùng Đông Bắc đã có những nét khởi sắc đặc biệt ở một số tỉnh thực hiện mô hình khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng một số các chính sách ưu đãi. Đời sống nhân dân được cải thiện một cách nhanh chóng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững. Tuy nhiên nền kinh tế vùng Đông Bắc còn tồn tại nhiều mặt yếu kém cần được giải quyết và khắc phục.
Điểm xuất phát còn đang ở mức thấp. Tổng GDP toàn vùng hiện chỉ bằng khoảng 7,5% so với cả nước. Nhịp độ tăng trưởng GDP thấp kéo dài trong nhiều năm. Từ năm 1991 đến 1994 nhịp độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 5,9% năm là thấp so với cả nước (7,9% năm). Từ 1994 đến nay nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 6,7%, nhịp độ tăng trưởng đã cao hơn rất nhiều nhưng vẫn ở mức thấp hơn so với cả nước. Trong khi đó dân số vẫn tăng khoảng 2% nên GDP bình quân đang ở mức thấp hơn so với mức trung bình của cả nước. Tỉ suất hàng hoá thấp, sản phẩm hàng hoá còn ít cả về chủng loại và khối lượng, hầu hết là những sản phẩm hàng hoá thông thường, chất lượng không cao và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn kém. Tuy nhiên có những sản phẩm hàng hoá chiếm tỉ trọng lớn trong cả nước như chè, hồi, quế, sơn, than, apatít và phân lân, giấy.
GDP bình quân đầu người đă thấp nhưng lại không đồng đều giữa các khu vực và tầng lớp dân cư. GDP/người của nhân khẩu nông nghiệp chỉ bằng khoảng 62% mức trung bình của toàn vùng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, nông- lâm nghiệp còn chiếm tỉ trọng lớn. Công nghiệp tuy có những nơi được phát triển sớm, chủ yếu là công nghiệp khai khoáng và chế biến nông- lâm sản, nhưng nhìn chung ở phần lớn lãnh thổ của Đông Bắc công nghiệp chưa phát triển. Năm 2004 công nghiệp mới thu hút 10,5% lao động xã hội và đóng góp 18% GDP của vùng. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật thấp, sản phẩm công nghiệp mới còn ít, chất lượng còn chưa cao nên mặc dù có ý nghĩa quan trọng đối với đóng góp thu ngân sách Nhà nước nhưng vai trò công nghiệp chưa lớn, nhất là chưa khai thác các tiềm năng về thị trường, về khoáng sản cũng như lợi thế khác biệt của vùng để phát triển kinh tế.
Các ngành dịch vụ nhất là dịch vụ ở khu vục nông thôn chưa phát triển và hiệu quả thấp. Du lịch có tiềm năng lớn nhưng phát triển chậm và còn nặng về khai thác tự nhiên cho nên hiệu quả thấp. Thương nghiệp nhất là thương mại biên giới có phát triển khá hơn nhưng vẫn còn nhỏ bé. Thương nghiệp hoạt động chưa rộng khắp, giao lưu kinh tế còn hạn chế, nhiều khu vực ở Đông Bắc đang thiếu vắng dịch vụ thương nghiệp.
Ngoài ra, do vùng Đông Bắc là vùng đồi núi có địa hình cao so với mặt nước biển và bị chia cắt bởi nhiều dãy núi và sông suối đồng thời điều kiện khí hậu phân dị, chính điều này đã tác động làm cho phát triển theo lãnh thổ có sự chênh lệch lớn. Do đó sẽ tạo ra sự phức tạp trong quản lý và việc phát triển cơ sở hạ tầng cũng gặp nhiều khó khăn.
II. Các nhân tố tác động đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu
1. Nhân tố tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế-xã hội
1.1 Vị trí địa lý
Việc lựa chọn xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, trước hết căn cứ vào điều kiện tự nhiên xã hội, đó phải là những nơi có thuận lợi về vị trí, Phù hợp với giao lưu kinh tế – thương mại biên giới, là cầu nối giữa kinh tế trong nước với kinh tế nước ngoài. Các cửa khẩu nằm trên vùng Đông Bắc ở những vị trí tương đối thuận lợi, các khu kinh tế cửa khẩu thường nằm ở các thị trấn, thị tứ và đầu mối giao thông như quốc lộ 1A dài 168 km từ Hà Nội đến Hữu Nghị, đường sắt Côn Minh – Lào Cai… Đây được coi là những yếu tố hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của khu kinh tế cửa khẩu. Bởi vì, do đặc điểm của nó, hoạt động thương mại- dịch vụ là một trong những nội dung cơ bản trong sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu, muốn vậy phải có nguồn hàng hóa, dịch vụ từ nội địa được vận chuyển đến để trao đổi qua cửa khẩu biên giới đồng thời phải có hệ thống giao thông thuận lợi để đưa hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào trong nước. Hơn nữa, do nhiều nét tương đồng về khí hậu, môi trường sinh thái, trình độ phát triển, cho nên đòi hỏi phải có các chủng loại hàng hóa đáp ứng được nhu cầu trao đổi, có loại được sản xuất tại chỗ, có loại được khai thác trong nội địa theo nguyên tắc xuất những hàng hóa mà thị trường bạn cần mà ta có lợi thế và nhập những hàng hóa chúng ta chưa có khả năng đáp ứng cho thị trường trong nước. Chính vì thế yếu tố địa lý là rất quan trọng.
1.2 Yếu tố xã hội và trình độ phát triển.
Bên cạnh yếu tố địa lý thì các vấn đề xã hội, trình độ dân trí, phong tục tập quán, cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu. Mặc dù, các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nằm ở những nơi đô thị hóa, có trình độ phát triển cao hơn so với các vùng khác trong vùng nhưng nhìn tổng thể thì đây vẫn là khu vực khó khăn với trên 30 dân tộc sinh sống.
Trình độ dân trí ở đây nhìn chung còn rất thấp với tỉ lệ mù chữ cao, trình độ văn hóa thấp. Số lao động qua đào tọa chỉ chiếm 5% lực lượng lao động của vùng, đáng chú ý là trong số này chủ yếu là giáo viên và bác sỹ. Do trình độ lao động thấp, chủ yếu là lao động giản đơn dựa vào kinh nghiệm là chính, không qua đào tạo nên năng suất lao động thấp, giá trị cá biệt của hàng hóa cao nhưng chất lượng của sản phẩm còn hạn chế, vì thế khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ rất khó khăn khi trao đổi hàng hóa qua cửa khẩu. Cơ cấu kinh tế vẫn còn ở mức lạc hậu, nông – lâm nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao khoảng 55%, do đó thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp.Vấn đề này sẽ dẫn đến hàng loạt các khó khăn khác như : Đời sống văn hoá tinh thần không được đảm bảo, các dịch vụ xã hội còn thiếu và ở mức yếu kém. Đây là những khó khăn cho việc phát triển giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới và nó cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
2. Bầu không khí chính trị của các nước trong khu vực và trực tiếp là quan hệ hữu nghị thân thiên giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đây là một nhân tố mang tính khách quan, qui định sự hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nói riêng và biên giới phía Bắc nói chung, không chỉ hiện nay mà cả trong tương lai. Một Đông Nam á hòa bình hữu nghị và hợp tác sẽ là môi trường tốt để đẩy mạnh giao lưu hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước. Trong các quan hệ này Trung Quốc có vị trí trực tiếp và ảnh hưởng to lớn tới các quan hệ khác. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có truyền thông hữu nghị lâu đời đều lựa chọn con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, nhân dân hai nước đặc biệt là cư dân sống ở khu vực biên giới từ lâu đã có quan hệ tốt đẹp qua lại thăm thân, trao đổi hàng hóa qua cửa khẩu, qua đường mòn biên giới ngoài vấn đề chính trị – xã hội, trong phát triển kinh tế, Việt Nam và Trung Quốc còn có nhiều điểm tương đồng về trình độ phát triển, cùng trong quá trình chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Cơ cấu hàng hóa, tập quán tiêu dùng cũng có nhiều điểm bổ sung cho nhau. Hơn nữa, điều quan trọng là có nhu cầu mở rộng hợp tác để phát triển. Do đó việc hai nước kí Hiệp Định phân chia đường biên giới trên bộ và được Quốc Hội hai nước phê chuẩn và đầu năm 2000 là môi trường tốt để đẩy mạnh hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia.
Do đặc điểm của mô hình khu kinh tế cửa khẩu, sự hình thành và phát triển của nó phụ thuộc chặt chẽ vào sự ổn định chính trị, an ninh biên giới trong từng nước, giữa các nước có đường biên giới chung và các nước trong khu vực. Đây là một thực tế giải thích vì sao mô hình này ở một số nước đã thực hiện rất thành công nhưng ở Việt Nam mãi đến 1996 mới tiến hành thí điểm. Hơn nữa thực tiễn lịch sử ở Việt Nam cũng đã chứng kiến nhiều thời kì, khi quan hệ giữa hai nước lắng xuống khu vực biên giới trở thành điểm nóng về an ninh, chính trị, trật tự- an toàn xã hội, phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, và khi đó trao đổi thương mại hầu như không có. Vì vậy vấn đề này không chỉ có vai trò quan trọng sống còn, có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển khu vực cửa khẩu. Mà trong tương lai, khi qui mô của loại hình này mở rộng, các hoạt động thương mại xuất nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, hoạt động dịch vụ du lịch, trao đổi thông tin tư vấn. Hội trợ phát triển thì sự liên kết không chỉ trực tiếp giữa hai quốc gia, mà đòi hỏi sự tham gia có tính chất khu vực, nơi đây sẽ thực sự là cầu nối, là kênh quan trọng hỗ trợ cho nền kinh tế hội nhập, mở cửa theo xu thế toàn cầu hóa và cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các nước, các nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
3. Tác động của chính sách kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế Việt Nam Trung Quốc.
Sự phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu phụ thuộc trực tiếp vào chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới năm 1986 đến nay đường lối đối ngoại mở rộng của chúng ta : " Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước ", trên nguyên tắc: bình đẳng, cùng có lợi; tôn trọng chủ quyền và không can thiệp và công việc nội bộ của nhau; giữ vững độc lập; chủ quyền dân tộc; kiên định sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… Trên những định hướng cơ bản đó, chúng ta chủ trương giữ vững các thị trường truyền thống, đồng thời tìm kiếm và mở rộng thị trường ra các nước, các khu vực khác trên thế giới. Trong đó, Trung Quốc được coi là thị thị trường truyền thống, có nhiều tiềm năng, là thị trường lớn với hơn 1,3 tỉ dân, có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Việc thực thi một chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại cho phép Việt Nam tìm kiếm nhiều mô hình, hình thức kinh tế đa dạng, năng động. Trong đó, bên cạnh các hoạt động xuất, nhập khẩu; hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài; hoạt động chuyển giao công nghệ; hoạt động tài chính, tiền tệ quốc tế; hoạt động dịch vụ du lịch thu ngoại tệ…, các hình thức này kết hợp đa dạng, đan xen với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Từ đó nhiều mô hình kinh tế mới ra đời, kết hợp được nhiều ưu điểm trong tổ chức, hoạt động của các hình thức kinh tế đối ngoại, như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế cửa khẩu … Điều quan trọng hơn với chính sách kinh tế đối ngoại rộng mở, nền kinh tế thực sự chuyển động theo xu hướng hội nhập, mở cửa nhiều hơn đối với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. Việt Nam đă dần tạo lập được khoảng 10 mặt hàng mũi nhọn, có lợi thế từ đặc điểm truyền thống của kinh tế trong nước, nhưng có khả năng thâm nhập và thị trường quốc tế. Tuy năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trong nước còn đang hạn chế, nhưng điểm yếu này đang từng bước được khắc phục. Chính sách kinh tế đối ngoại hiện nay được coi là tiền đề tốt để hỗ trợ cho việc hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu nói chung và các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nói riêng.
Mặt khác, sự hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc còn phụ thuộc trực tiếp vào quan hệ kinh tế – thương mại Việt – Trung trong những năm gần đây và trong tương lai.
4. Mức độ mở rộng quan hệ thị trường trong nước và áp lực cạnh tranh quốc tế
Đây cũng là nhân tố tác động không nhỏ đến sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu. Trên thực tế những năm từ 1996 đến nay, việc thí điểm một số chính sách tại các khu kinh tế cửa khẩu cũng phản ánh rõ điều này.
Mặt khác, về lý thuyết, việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại đối với việc phát triển kinh tế hàng hóa, mức độ và qui mô mở rộng các quan hệ thị trường cũng là môi trường quan trong để khu kinh tế cửa khẩu tồn tại và phát triển, đến lượt nó, khu kinh tế cửa khẩu ra đời sẽ đóng vai trò là cầu nối, tác động trở lại đối với việc phát triển kinh tế hàng hóa trong nước, là cửa ngõ để nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. Vì vậy, nói đến việc mở rộng các quan hệ thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, trước hết là việc hình thành đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường, tạo ra khuôn khổ pháp lý để thị trường hoạt động đúng với vai trò và chức năng của nó trong nền kinh tế.
Hiện nay và trong những năm tiếp theo, khi xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ và sâu rộng hơn, Việt Nam tham gia đầy đủ hơn vào các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế, tham gia nhiều hơn và các thị trường của các quốc gia phát triển, thì áp lực cạnh tranh đối với sản xuất và trao đổi thương mại quốc tế, trong đó có khu kinh tế cửa khẩu càng trở nên gay gắt. Bởi vì, xét về bản chất trong quan hệ kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh tế chỉ đạt được khi trao đổi diễn ra bình đẳng, mỗi quốc gia chỉ xuất hàng hóa nào mà thị trường quốc tế cần, những hàng hóa mà trong nước có lợi thế, đưa lại giá trị chính sách biệt thấp hơn, có khả năng cạnh tranh. Ngược lại, nếu chỉ xuất hàng thô, hàng được sản xuất với công nghệ lạc hậu, thị trường quốc tế không cần thì hoặc là thua thiệt, hoặc là hàng hóa ứ đọng, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, thậm chí biến thị trường trong nước trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của các quốc gia phát triển hơn. Khi đó, vai trò và hiệu quả của việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ mất tác dụng.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ phát triển kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh của mỗi nước cũng được phản ánh thông qua quan hệ thương mại. Thông qua hoạt động này, Nhà nước sẽ điều chỉnh các chính sách phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong nước cho phù hợp. Bởi vì, đây cũng là kênh quan trọng phản hồi những thông tin của thị trường quốc tế đối với nền kinh tế của mỗi nước. Đối với quan hệ thương mại qua các cửa khẩu biên giới Việt – Trung, những đặc điểm này cũng được phản ánh đầy đủ cả về phạm vi và tính chất trong trao đổi thương mại giữa hai nước. áp lực cạnh tranh gay gắt của hàng hóa Trung Quốc đối với hàng hóa vủa Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nâng cao sức sản xuất trong nước, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại. Mặt khác, trong thời gian đầu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm nội địa cũng kém cùng với những hạn chế về quản lý, chống buôn lậu và gian lận thương mại, đã gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, trong đó có trao đổi hàng hóa qua các khu kinh tế cửa khẩu.
III. Phân tích các chính sách phát triển kinh tế với việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc.
Các chính sách thí điểm được áp dụng tại các khu kinh tế cửa khẩu đã mang lại rất nhiều những kết quả khả quan và ngày càng thể hiện vị trí và vai trò quan trọng của mình. Cho đến nay sau khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 53/2001/QĐ-TTg thì các khu kinh tế cửa khẩu đang thực hiện các chính sách thí điểm theo các Quyết định trước đây của Thủ tướng Chính phủ nay chuyển sang thực hiện theo Quyết định này.
1. Chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng
Chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư để thu hút sự đầu tư không chỉ các doanh nghiệp trong nước mà cả các doanh nghiệp ngoài nước. Và đặc biệt đối với loại hình khu kinh tế cửa khẩu thì chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định đầu tư của các doanh nghiệp.
Trong thời gian thực hiện thí điểm các chính sách ở các khu kinh tế cửa khẩu thì chính sách đầu tư được thể hiện thông qua một số các qui định, các Quyết định mang tính bổ sung, và qua các thông tư. Với một số các nội dung cơ bản như sau: Ngoài quyền được hưởng các ưu đãi theo qui chế hiện hành, các nhà đầu tư trong và ngoài nước còn được hưởng thêm một số ưu đãi như :
- Chủ đầu tư được giảm 50% giá thuê đất và mặt nước so với khung giá hiện hành của Nhà nước đang áp dụng tại các khu kinh tế cửa khẩu.
- Các chủ đầu tư được hưởng mức thuế ưu đãi ở một số ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nhất định.
- Các chủ đầu tư nước ngoài được xét giảm nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể.
Với các ưu đãi trên đã tạo ra sự thông thoáng, hấp dẫn có sức thu hút các doanh nghiệp của nhiều tỉnh, nhiều vùng trong cả nước đến đó kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ và đóng góp không nhỏ cho ngân sách của tỉnh và Nhà nước. Qua đó góp phần tạo ra tăng trưởng nhanh cho chính các khu kinh tế cửa khẩu điều đó càng cho chúng ta thấy được vai trò khá quan trọng của các chính sách đầu tư. Tuy nhiên các chính sách đầu tư trên mới chỉ là thí điểm nên nó còn một số điểm chưa phù hợp. Vì thế việc thu hút đầu tư còn hạn chế, các nhà kinh doanh trong nước tại các địa phương ngoài vùng biên giới, các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa mạnh dạn đầu tư vào các khu kinh tế cửa khẩu.
Để thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các khu vực cửa khẩu thực hiện thí điểm thì được phép thành lập công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng là doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời gian đến năm 2000 mỗi năm Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh có các khu kinh tế cửa khẩu không dưới 50% tổng số thu ngân sách trong năm trên địa bàn khu vực cửa khẩu đó. Cơ chế đầu tư trở lại không dưới 50% số thu ngân sách trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã đem lại một lượng vốn đầu tư lớn cho địa phương. Thậm chí có nơi lượng vốn này còn cao hơn cả số ngấn sách đầu tư cho các khu vực khác trong toàn tỉnh. Cơ chế này đã tạo điều kiện cải tạo, nâng cấp, phát triển nhanh chóng cơ sở hạ tầng, góp phần tích cực vào việc tạo ra một diện mạo mới, khang trang hơn tại khu kinh tế cửa khẩu, làm tăng thêm niềm tự hào của nhân dân trong các quan hệ giao lưu kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội với nước láng giềng; đồng thời tạo thêm động lực để nuôi dưỡng và tăng thêm nguồn thu ngân sách Nhà nước tại khu kinh tế cửa khẩu.
Tổng số vốn đầu tư và danh mục các công trình cơ sở hạ tầng được đầu tư từ vốn ngân sách do ủy ban nhân dân tỉnh có các khu kinh tế cửa khẩu đề nghị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định sau khi có ý kiến thỏa thuận của Bộ Tài chính.
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu.
- Căn cứ số thực thu ngân sách Nhà nước hàng năm tại khu kinh tế cửa khẩu Nhà nước đầu tư trở lại để xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu theo các mức sau đây. Đối với các khu kinh tế cửa khẩu thực hiện thu ngân sách dưới 50 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại 100%. Đối với các khu kinh tế cửa khẩu có số thực hiện thu ngân sách từ 50 tỷ đồng/năm trở lên thì được đầu tư trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thực thu còn lại. Đối với các khu kinh tế cửa khẩu đã thực hiện 5 năm (kể từ khi thực hiện thí điểm) và có số thực thu ngân sách trên 100 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại không quá 50% số thực thu.
- Các khu kinh tế cửa khẩu được vay vốn ưu đãi Nhà nước (quỹ hỗ trợ phát triển) để phát triển cơ sở hạ tầng và được sử dụng nguồn vốn quy định theo điều khoản đã nêu.
- Các khu kinh tế cửa khẩu có số thực thu ngân sách thấp, ủy ban nhân dân tỉnh bố trí trong kế hoạch ngân sách hàng năm để đầu tư. Việc đầu tư các công trình hạ tầng tại khu kinh tế cửa khẩu do ủy ban nhân dân tỉnh quyết định theo các quy định hiện hành, trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch được duyệt.
- Nếu các công trình hạ tầng trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã được đầu tư đồng bộ, hoàn chỉnh thì được dùng nguồn vốn còn lại được quy định để đầu tư hỗ trợ các công trình ngoài địa bàn khu kinh tế cửa khẩu nhưng có liên quan và phục vụ trực tiếp khu kinh tế cửa khẩu. Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình, đồng thời thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, theo dõi chung.
2. Chính sách thuế
Chính sách về thuế có vai trò rất quan trọng trong việc khuyến khích các nhà đầu tư tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa bàn khu kinh tế cửa khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà đầu tư khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các ưu đãi về thuế được thể hiện trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với các nội dung cơ bản như sau :
- Về thuế lợi tức: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện nộp thuế lợi tức theo thuế suất quy định tại giấy phép đầu tư ; các doanh nghiệp trong nước áp dụng thuế suất, thuế lợi tức quy định cho từng ngành nghề theo quy định tại Luật thuế lợi tức, Luật khuyến khích đầu tư trong nước trong thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Trong thời hạn 4 năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế lợi tức, doanh nghiệp chỉ phải nộp thuế với mức thuế suất thấp nhất trong khung thuế suất theo quy định phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng thuế suất lợi tức 10% trong thời hạn 4 năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải phải nộp thuế lợi tức theo quy định hiện hành của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước được áp dụng thuế suất lợi tức 25%trong thời hạn 4 năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế lợi tức theo quy định hiện hành của Luật thuế lợi tức. Mọi ưu đãi về giảm thuế lợi tức sau khi kết thức thời hạn miễn thuế lợi tức vẫn theo quy định hiện hành tại các Luật thuế lợi tức, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhưng được tính toán trên cơ sở thuế suất xác định ở trên trong thời hạn thuế suất đó được áp dụng.
- Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Các chủ đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập doanh nghiệp và kinh doanh tại khu vực cửa khẩu Móng Cái nếu chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì chỉ phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài với thuế suất 5% (áp dụng cho chủ đầu tư lựa chọn để hưởng các ưu đãi đầu tư theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước hoặc theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam).
Với các ưu đãi về thuế trên đã tạo ra một sự thông thoáng để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên việc áp dụng các chính sách về thuế ở các khu kinh tế cửa khẩu vẫn còn thể hiện nhiều bất cập và chưa thực sự yên tâm cho các nhà đầu tư.
IV. Thực trạng của các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
1. Quá trình hình thành các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc.
1.1 Vài nét về đặc điểm và sự hình thành các cửa khẩu phía Bắc
* Thời kì trước đổi mới :
- Giao lưu kinh tế với bên ngoài qua các cửa khẩu trên bộ phía Bắc gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử mối quan hệ truyền thống, lâu đời giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ xa xưa các triều đại phong kiến đã mở nhiều điểm để nhân dân địa phương hai bên biên giới qua lại, buôn bán và có những chính sách trao đổi hàng hóa, thuế khóa cụ thể. Thời kì Pháp thống trị Việt Nam, Chính quyền địa phương và triều đình phong kiến Mãn Thanh (Trung Quốc) đã kí kết nhiều văn bản liên quan đến cột mốc biên giới và buôn bán qua các cửa khẩu hai nước. Bản "Điều ước Việt Nam năm 1885" và "Chương trình hợp tác tuần tra biên giới năm 1896" qui định mỗi bên lập 25 đồn trú (trong đó có 19 điểm trên bộ và 6 điểm dưới biển) đồng thời là những điểm họp chợ, trao đổi hàng hóa trên biên giới. Phần lớn những điểm này được giữ đến ngày nay
- Đến năm 1950 hai nước Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết lập ngoại giao. Tháng 4/ 1952 hai nước thông qua " Bị vong lục mậu dịch " những năm sau đó lại kí tiếp các nghị định thư về buôn bán, trong đó có ấn dịnh mở ba cặp cửa khẩu và 28 điểm trao đổi hàng hóa. Theo thỏa thuận có 2 hình thức buôn bán là tiểu ngạch dân gian (giữa nhân dân hai bên vùng biên giới) và các công ty quốc doanh của các địa phương dọc đường biên. Những năm 1965 – 1975 trên biên giới đã có 28 cặp cửa khẩu (trong đó có 4 cửa khẩu quốc tế, 10 cặp cửa khẩu quốc gia và 14 cặp cửa khẩu tiểu ngạch). Tháng 2/1979 chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra, từ đó quan hệ giao lưu kinh tế gữa hai nước bị gián đoạn.
* Thời kì đổi mới và mở cửa kinh tế :
- Những năm 1986 – 1990 tình hình quan hệ hai nước đã bắt đầu dịu đi và với sự thỏa thuận của chính phủ địa phương hai bên thì hàng chục cặp cửa khẩu tiểu ngạch và nhiều đường mòn đã được mở để nhân dân hai bên biên giới qua lại và trao đổi hàng hóa. Song hoạt động còn mang tính dân gian, tự phát. Để đáp ứng nguyện vọng giao lưu của nhân dân 2 nước Ban Bí Thư Trung Ương Đảng (khóa IV) đã ra thông báo 118/TB-TW ngày 19/11/1988. Hội đồng Bộ trưởng đã có chỉ thị số 32/CT ngày 21/2/1989, số 405 ngày 19/11/1990 để chấn chỉnh công tác quản lý vùng biên giới phía Bắc. Tiếp đó cuộc gặp gỡ cấp cao giữa 2 Đảng và Nhà nước (tháng 11/1991) đã thống nhất chủ trương "khép lại quá khứ, mở ra tương lai" bắt đầu thời kì mới bình thưòng hóa và mở cửa.
- Thực hiện chủ trương trên, ngày 7/11/1991 đại diện Chính phủ hai nước kí "Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên biên giới…". Sau Hiệp định, Chính phủ đã phê duyệt mở 21 cặp cửa khẩu với Trung Quốc và số lượng các cặp cửa khẩu tính đến năm 1994 là 25 cặp cửa khẩu. Điều đó thể hiện sự nỗ lực của cả hai bên trong quá trình nhằm cải thiện giao lưu kinh tế giữa hai nước.
- Để tăng cường giao lưu kinh tế với Trung Quốc cũng như nhằm đưa ra một chính sách quản lý phát triển cho phù hợp. Một trong sự thay đổi quan trọng đầu tiên là chủ trương thực hiện chính sách thí điểm ở một số cửa khẩu điều đó thể hiện qua việc xây dựng thí điểm khu kinh tế cửa khẩu.
1.2 Quá trình hình thành các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc.
Để khuyến khích phát triển khu vực biên giới, ngày 18/9/1996, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 675/TTg cho phép áp dụng thí điểm một số cơ chế chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái đặt mốc cho việc hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trong cả nước. Tính đến tháng 1/1999 đã có thêm 8 khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng thuộc các tỉnh : Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Kiên Giang, Hà Tĩnh, Tây Ninh, Quảng Trị, Kon Tum.
Chủ trương xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt – Trung cùng nhằm đón trước triển vọng to lớn của quan hệ kinh tế – thương mại Việt –Trung trong thời gian tới. Bởi vì hiệu quả các khu kinh tế cửa khẩu chỉ phát huy được khi quan hệ kinh tế – thương mại được hai nước thực sự quan tâm và phát triển ở mức độ nhất định. Hơn nữa khi các quan hệ này càng phát triển thì khu kinh tế cửa khẩu sẽ đóng vai trò là khu kinh tế mở, cùng động lực kinh tế để kéo các khu vực xung quanh phát triển, góp phần thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các vùng núi phía Bắc Việt Nam nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, số lượng cửa khẩu và vùng địa lý được phép xây dựng khu kinh tế cửa khẩu chung trên các tuyến biên giới đất liền của cả nước, cho đến nay mới chỉ là 10 mặc dù hiện nay một số địa phương đang tiếp tục đề nghị được Chính phủ cho phép xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu.
Vùng Đông Bắc Việt Nam có 5 tỉnh giáp với Trung Quốc là : Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang và Lào Cai. Và trong đó có 4 khu vực địa lý được Chính phủ chính thức cho phép xây dựng khu kinh tế cửa khẩu, đó là khu kinh tế cửa khẩu ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai. Điểm đáng chú ý là, các khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc Việt Nam đều nằm ở vùng Đông Bắc và cũng là các khu kinh tế cửa khẩu được xây dựng đầu tiên ở nước ta với tư cách là thí điểm một mô hình kinh tế mới.
Bảng 1 : Các vùng địa lý biên giới Đông Bắc Việt Nam
được phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
Khu vực cửa khẩu
Phạm vi hành chính các địa phương thuộc khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam
Cửa khẩu phía Trung Quốc
1. Móng Cái (Quảng Ninh)
- Thị xã Móng Cái
- Các xã: Hải Xuân, Hải Hòa, Bình Ngọc, Trà Cổ, Ninh dương, Vạn Ninh, Hải Yến, Hải Đông, Hải Tiến, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực
Đông Hưng tỉnh QuảngTây-
Trung Quốc
2. Lạng Sơn
- Cửa khẩu Đồng Đăng (đường sắt);
- Cửa khẩu Hữu Nghị (đường bộ), gồm thị trấn Đồng Đăng và xã Bảo Lam- huyện Cao Lộc;
Hữu Nghị
Quan- Quảng Tây- Trung Quốc
3. Cao Bằng
- Cửa khẩu quốc gia Tà Lùng và Xã Tà Lùng- huyện Quảng Hà.
- Cửa khẩu Hùng Quốc và xã Hùng Quốc huyện Trà Lĩnh.
- Cửa khẩu Sóc Giang và xã Sóc Hà- huyện Quảng Hà.
Thủy Khẩu
Long Bảng- Quảng Tây
Bình Mãng
4. Lào Cai
- Cửa khẩu quốc tế Lào Cai gồm: phường Lào Cai, Phố Mới, Cóc Lếu, Duyên Hải; xã Vạn Hòa, thôn Lục Cẩu, xã Đông Tuyển (thị xã Lào Cai), thôn Na Mo xã Bản Phiệt- huyện Bảo Thắng.
- Cửa khẩu Mường Khương: gồm toàn bộ xã Mường Khương.
Hà Khẩu-
Vân Nam-
Trung Quốc
Kiều Dâu
Nguồn: Tổng hợp theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
từ năm 1996 đến nay.
* Nội dung chính sách thí điểm tại các khu kinh tế cửa khẩu:
- Mỗi một khu kinh tế cửa khẩu đều có những đặc thù riêng vốn có nên những chính sách thực hiện thí điểm tại các khu kinh tế cửa khẩu không thể hoàn toàn đồng nhất và nó được dựa trên các cở sở các điểm chung nhất sau:
- Qui định về mặt địa bàn của các khu kinh tế cửa khẩu trên cơ sỏ khai thác tối ưu về địa lý kinh tế, xã hội của cửa khẩu
- Cho phép phát triển đồng bộ các loại hình hoạt động thương mại như: Xuất nhập khẩu, thương mại nhập tái xuất, vận chuyển hàng quá cảnh, kho ngóại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, các chi nhán đại diện các công ty trong nước ngoài nước,chợ cửa khẩu.
- Phát triển du lịch với thủ tục xuất, nhập cảnh phù hợp với đạc điểm vùng biên giới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho công dân hai nước giáp khu vực khu kinh tế cửa khẩu và công dân nước thứ ba qua lại, tạm trú tại khu khu kinh tế cửa khẩu.
- Qui định về đầu tư ngân sách Nhà nước cho khu khu kinh tế cửa khẩu. Trong khoảng thời gian xác định (thường là 5 năm), Nhà nước đầu tư riêng cho ngân sách Tỉnh có khu khu kinh tế cửa khẩu một tỷ lệ nhất định (thường là không dưới 50%) từ tổng số ngân sách trong năm trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu cho xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu khu kinh tế cửa khẩu.
- Quyết định khung khổ các chính sách về tài chính, tiền tệ phù hợp với đặc điểm vùng biên.
- Qui định các vấn đề về quản lý Nhà nước với khu kinh tế cửa khẩu.
* Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu bao gồm bốn mục tiêu
- Một là phát triển kinh tế tại các địa bàn khu vực cửa khẩu trên cơ sỏ khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện, tạo địa bàn thuận lợi để các doanh nghiệp trong cả nước đầu tư kinh doanh trên địa bàn khu vực cửa khẩu; qua đó tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp
- Hai là nâng cao đời sống nhân dân taị các khu vực cửa khẩu và các khu vực kề cận, góp phần nâng cao dân trí đông bào cùng biên thông qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển giao lưu kinh tế qua các khu kinh tế cửa khẩu
- Ba là thực hiên chiến lược gắn việc giữ vững an ninh chín trị quốc phòng, trật tư an toàn xã hội, chủ quyền quốc gia với việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và trình độ dân trí của nhân dân nhằm tạo thêm thế vững mạnh về quốc phòng an ninh trên tuyến biên giới nói chung và trên địa bàn các cửa khẩu nói riêng.
- Bốn là thực hiện tốt hơn việc điều hòa, phối hợp về quản lý Nhà nước đối với khu kinh tế cửa khẩu; nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nước tại địa bàn.
Và sau giai đoạn thử nghiệm ngày 19/4/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 53/2001/QĐ_ TTg cho phép chính thức thực hiện một số chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới.
2. Thực trạng về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc .
2.1 Thực trạng các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
2.1.1 Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái
Ngày 18/9/1996 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 675-TTg cho “áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái”. Sau nhiều năm thực hiện, được sự quan tâm giúp đỡ của các Bộ ngành trung ương; Cùng với quyết tâm chỉ đạo triển khai thực hiện của tỉnh Quảng Ninh, nên đã thu được kết quả tích cực trên các lĩnh vực tại địa bàn huyện Hải Ninh (nay là thị xã Móng Cái) cũng như tỉnh Quảng Ninh về các mặt như:
- Về thương mại-xuất nhập khẩu: Đã bước đầu hình thành các khu thương mại dịch vụ, từng bước đáp ứng các nhu cầu phát triển mới: mở rộng chợ Móng Cái, xây dựng mới các phố thương mại, cửa hàng miễn thuế, kho ngoại quan, phát triển các cơ sở dịch vụ (ngân hàng, bưu điện, khách sạn, nhà hàng...). Theo “Báo cáo tổng kết hai năm thực hiện Quyết định 675/TTg của Thủ tướng Chính phủ” của UBND tỉnh Quảng Ninh (ngày 10/3/1999), tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân hàng năm tăng 27%. Trong đó hàng xuất khẩu tăng 34%, hàng nhập khẩu tăng 6%. Hàng chuyển tải, tạm nhập tái xuất, kho ngoại quan tăng 129%. Kim ngạch xuất khẩu lớn gấp 3-4 lần kim ngạch nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 248,3 triệu USD, bằng 83% kế hoạch, tăng 6,1% so với năm 2001, trong đó: xuất khẩu địa phương (kim ngạch thực xuất, không tính kim ngạch tạm nhập tái xuất) 56,4 triệu USD, vượt kế hoạch 16% tăng 20%. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2003 là 264,4 triệu USD, năm 2004 là 279,7 triệu USD. Tốc độ tăng bình quân từ năm 2001-2004 là trên 6%
Số lượng người Trung Quốc sang buôn bán, làm ăn tại chợ Móng Cái và thuê điểm mở cửa hàng buôn bán kinh doanh vẫn được duy trì. Các công ty, các doanh nghiệp tư nhân, các hộ buôn bán nhỏ theo Nghị định 66 tăng bình quân 33% năm. Số lượng các chi nhánh, đại diện của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tại khu vực cửa khẩu Móng Cái cũng tăng nhanh. Hiện nay, đã có hai cửa hàng miễn thuế tại cửa khẩu Bắc Luân và một điểm bán hàng tại cảng Vạn Gia đã được đưa vào hoạt động. Bốn kho ngoại quan và kho chờ xuất.
- Xuất nhập cảnh và du lịch: Từ ngày thành lập cho đến tháng 11/1998, đã có trên 73 nghìn lượt người Trung Quốc vào Quảng Ninh bằng giấy thông hành xuất nhập cảnh. Trong đó chủ yếu là khách du lịch (chiếm 98%) và một số người nhập cảnh với mục đích tìm hiểu kinh doanh. So với thời kỳ 1994-1995, con số này tăng 4,8 lần. Khách du lịch Trung Quốc vào Việt nam nhìn chung thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại, cho đến nay tại địa bàn Móng Cái chưa có trường hợp nào đáng tiếc xảy ra. Thực tế cho thấy khách đi tham quan, du lịch bằng giấy thông hành được quản lý chặt chẽ hơn so với đi bằng hộ chiếu. Số lượng khách lữ hành năm 1997 tăng 37.350 lượt người (195%); năm 1998 so với năm 1997 tăng 3 981 lượt người (8,5%). Doanh thu từ du lịch lữ hành năm 1998 tăng gấp 2 lần năm 1997. Vào năm 2002 tổng số khách du lịch đạt 2,34 triệu lượt khách, tăng 18,9% so với cùng kỳ trong đó: khách quốc tế 921,2 nghìn lượt khách (chiếm 39% tổng số khách) tăng 35,6%; khách lưu trú ước đạt 954,4 ngàn lượt khách, tăng 27,2% so với cùng kỳ trong đó: khách quốc tế 564,5 ngàn lượt khách, tăng 74,1% tổng doanh thu du lịch ước đạt 7 64,1 tỷ đồng, tăng 50,4%. Năm 2003 tổng số khách du lịch đạt 2,78 triệu lượt khách tăng 19% so với năm 2002, năm 2004 tổng số khách du lịch đạt 3,34 triệu lượt khách tăng trên 20% so với năm 2003.
- Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước: Trên địa bàn khu cửa khẩu Móng Cái hiện có trên 10 dự án được cấp phép với tổng số vốn đầu tư 80 triệu USD. Trong đó có 2 dự án được cấp phép từ trước, và trên 7 dự án được cấp phép sau Quyết định 675-TTg. Bên cạnh đó, hiện còn 2 dự án đã hoàn thành hồ sơ đang chờ cấp phép,trong đó có một dự án xin bổ sung ngành nghề kinh doanh và tăng vốn đầu tư với tổng số vốn dự kiến lên đến 30 triệu USD. Ngoài ra, còn có hàng chục doanh nghiệp trong nước (chủ yếu đó là các doanh nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội) đang làm thủ tục thuê đất để chuẩn bị kinh doanh.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Từ khi được áp dụng cơ chế thí điểm bằng nguồn vốn được đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, đến 12/1998 đã tập trung xây dựng 56 dự án phát triển khu vực cửa khẩu Móng Cái với tổng số vốn 201 tỷ đồng. Chủ yếu đầu tư vào các ngành giao thông, điện, cấp thoát nước, và các công trình phúc lợi xã hội khác. Đã đưa vào sử dụng 10 cầu trên quốc lộ 18A (Móng Cái-Tiên Yên), 2 bến cảng, 1 bến xe, 55 km đường bộ: 173 km đường dây cáp 0,4 KV, và 125 trạm biến áp các loại, 83 km đường dây tải 22 KV, cấp điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt ở khu vực cửa khẩu. Một nhà máy cấp nuớc công suất 5.400m2/ngày, một hệ thống cấp nước cho cư dân thị xã, một hệ thống thoát nước 24 km, đã được đưa vào sử dụng. Xây dựng mới 60 phòng học cho các trường phổ thông và 1 nhà trẻ (300 cháu), nâng cấp bệnh viện đa khoa; Xây mới 5000 m2 nhà cấp 2- cấp 3 cho các cơ quan chính quyền và các cơ quan quản lý khu cửa khẩu.
- Về mặt xã hội: từ một khu vực nghèo của một huyện miền núi biên giới, với kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là chủ yếu, Móng Cái nay đã biến thành một khu vực phát triển mạnh, với cơ cấu kinh tế hoàn toàn thay đổi. Móng Cái đã trở thành một khu đô thị có tốc độ phát triển nhanh, hạ tầng cơ sở tăng nhiều. Đời sống của dân chúng được cải thiện rõ rệt, nhất là về các điều kiện vật chất: thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ 360 USD lên 472 USD vào năm 2002. Tỷ lệ người nghèo giảm từ 17% xuống còn 11%.
Chúng ta có thể khẳng định rằng Móng Cái là một trong những cửa khẩu quốc tế quan trọng nhất trên biên giới phía Bắc Việt Nam trong việc giao lưu với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đặc biệt, Móng Cái tiếp giáp với thị xã Đông Hưng là khu kinh tế mở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Khu kinh tế này đang được xây dựng thành một thành phố lớn, hiện đại, đa chức năng và được xác định là cửa ngõ để Trung Quốc đi vào thị trường Đông Nam á.
Móng Cái có hệ thống đường bộ, đường biển giao lưu trong nước và quốc tế thuận lợi. Vùng ven biển có thể xây dựng các cảng nhỏ, (cả cảng du lịch và cảng thương mại) Mũi Ngọc, Thọ Xuân. Đặc biệt cảng Vạn Gia là cảng chuyển tải xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt-Trung qua khu vực này.
Móng Cái đã có 1 sân bay nhỏ có thể nâng cấp để phục vụ việc đi lại bằng hàng không. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng như hệ thống thông tin viễn thông, lưới điện 110 kv, đường 18A nối với thành phố Hạ Long, cảng biển Vạn Gia, chợ, khách sạn, trung tâm hội chợ triển lãm, công viên.. đã được đầu tư nâng cấp.
Móng Cái có bãi biển Trà Cổ nổi tiếng với bãi cát phẳng, chạy dài 17km. Khu du lịch Trà Cổ, Vĩnh Thực gắn với quần thể du lịch Hạ Long-Bái Tử Long càng tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong quy hoạch tổng thể phát triển khu vực Móng Cái được phân thành 3 chức năng: khu thương mại quốc tế, khu du lịch và khu công nghiệp.
Với những lợi thế của mình, Móng Cái là khu vực cửa khẩu giàu tiềm năng. Nhằm đưa Móng Cái thành địa bàn có sức thu hút nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Mặc dù có những mặt tích cực nêu trên thì còn có nhiều tồn tại hạn chế Quyết định 675-TTg và 103-TTg áp dụng vào Móng Cái còn rất hạn hẹp, không đồng bộ, mặt khác Nghị định số 57/CP ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ và các Nghị định, thông tư giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu và đầu tư thì Quyết định 675-TTg và 103-TTg chính sách ưu đãi không còn nữa nên chưa tạo ra bước phát triển nhanh, mạnh ,vững chắc ở khu vực Móng Cái về các lĩnh vực, đặc biệt về kinh tế và lợi thế của cửa khẩu Móng Cái về thương mại – xuất nhập khẩu, du lcịh, dịch vụ, cảng biển.. chưa được nhiều mặt. Mặt khác, mấy năm qua, Trung Quốc đã tập trung xây dựng khu khai phát Đông Hưng (tiếp giáp với Móng Cái) thành một khu kinh tế cửa khẩu phát triển với cơ chế chính sách ữu đãi đặc biệt là đối tựợng hợp tác cạnh tranh trực tiếp về phát triển kinh tế – xã hội đối với thị xã Móng Cái của ta.
2.1.2. Khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn
Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng và cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị; có 2 cửa khẩu quốc gia là Chi Ma (huyện Lộc Bình), Bình Nghi (huyện Tràng Định), cửa khẩu Tân Thanh và 7 cặp chợ biên giới với Trung Quốc. Lạng Sơn có 10 huyện và 1 thành phố, 266 xã, phường, thị trấn.
Ngày 11/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 748/TTg cho phép áp dụng thí điểm một số cơ chế chính sách mới tại khu vực các cửa khẩu biên giới giữa Lạng Sơn và Trung Quốc. Việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng đã được tỉnh xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nên đã tập trung lực lượng để thực hiện. Sau một thời gian thực hiện, đã đạt được một số kết quả ban đầu:
- Về xuất nhập cảnh (XNC) và du lịch: UBND Tỉnh đã cùng với các ngành hữu quan thống nhất công tác quản lý XNC và hoạt động của người nước ngoài trên địa bàn thông qua các Quyết định số 314 UB QĐ ngày 11/3/1998 của UBND tỉnh về việc ban hành “Qui định tạm thời về XNC tại khu vực Đồng Đăng, Hữu Nghị, Tân Thanh” và “Qui chế phối hợp tạm thời quản lý khách XNC qua ba cửa khẩu và quản lý hoạt động của người nước ngoài trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” : Hướng dẫn người Trung Quốc và người nước ngoài khác nhập cảnh và tạm trú tại khu vực thí điểm; cấp giấy phép cho người Trung Quốc vào các địa điểm khác trong tỉnh; Cấp giấy thông hành cho người Việt Nam sang huyện biên giới của Trung Quốc; quản lý người qua lại các cặp chợ tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh. Quyết định số 468/UB ngày 18/4/1998 của UBND tỉnh qui định việc thu và sử dụng phụ phí du lịch để đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn; chỉ định Công ty Du lịch- XNC làm đầu mối đưa đón khách bằng thẻ du lịch, vv... Hoạt động du lịch tăng nhanh, bình quân tăng từ 13-18%/năm về lượng khách. Doanh thu du lịch tăng khá, bình quân 15%/năm, lượng khách du lịch năm 2000 đến Lạng Sơn trên 180.00 lượt người, trong đó riêng khách quốc tế đã lên đến hơn 60.000 lượt người. Năm 2004 lượng khách du lịch đến Lạng Sơn ước đạt khoảng 301.800 người đây là một con số đáng khích lệ. Kể từ khi Quyết định số 53/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 19/4/2001 đã tạo đà cho sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn ngày một mạnh mẽ hơn.
- Về thương mại- xuất nhập khẩu (XNK): Công tác xuất nhập khẩu đã có sự tăng trưởng khá, đến nay đã có hơn 350 doanh nghiệp trong cả nước tham gia hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu qua khu vực cửa khẩu biên giới của Lạng Sơn trong khi năm 1996 có 240 doanh nghiệp trong cả nước thực hiện xuất nhập khẩu qua Lạng Sơn, năm 1998 là 268 và năm 1999 là 300 doanh nghiệp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 4 năm đạt 1.400 triệu USD. Điều đáng chú ý là hoạt động ngoại thương qua khu vực cửa khẩu Lạng Sơn luôn suất siêu, các sản phẩm thuộc nhóm hàng nông-lâm hải sản, thủ công mỹ nghệ.. là chủ yếu, tạo điều kiện cho sản xuất chế biến phát triển (năm 1997: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 303 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm 2000: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt xấp xỉ 700 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 500 triệu USD). Năm 2004 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 1421 triệu USD. Một số doanh nghiệp trong nước đã có sự liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn để tổ chức sản xuất vùng nguyên liệu, chế biến sản phẩm tại nơi sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo được công ăn việc làm cho nhiều lao động… Để tạo đà cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại Lạng Sơn đã khai trương phòng quản lý xuất nhập khẩu theo Quyết định số 0679/QĐ-BTM ngày 1/6/2004 của Bộ thương mại. Phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực Lạng Sơn thực hiện cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá mẫu E tại thành phố Lạng Sơn cho các doanh nghiệp và thương nhân trong và ngoài tỉnh xuất khẩu hàng hoá nông sản, trái cây Việt Nam sang thị trường Trung Quốc qua các cửa khẩu của Lạng Sơn và toàn quốc từ 01/02/2005.
- Về hoạt động đầu tư: Cho tới năm 2004 có trên 10 dự án đầu tư đã và đang triển khai tại khu kinh tế cửa khẩu với tổng số vốn lên đến hàng trăm tỉ đồng, trong đó là phần lớn là các dự án đầu tư nước ngoài. Hiện nay tại Tân Thanh có hàng chục đơn vị trong nước đã đăng kí thuê đất đầu tư và một số đơn vị của Việt Nam đã và đang làm thủ tục liên doanh với các công ty nước ngoài vốn đầu tư trên 15 triệu USD. Số vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực cửa khẩu tuy còn nhỏ bé nhưng đã nói lên sự hấp dẫn của khu kinh tế cửa khẩu này, vì thời gian xây dựng chưa nhiều và còn nhiều việc đang tiếp tục triển khai. Công tác tổ chức thu ngân sách đã có nhiều tiến bộ, tăng trưởng khá hơn, thường năm sau cao hơn năm trước, và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Từ đó có nguồn để đầu tư trở lại cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu và các hoạt động thương mại trên địa bàn. Trong hơn sáu năm tính từ khi thành lập khu kinh tế cửa khẩu, tổng số vốn được đầu tư trở lại cho khu kinh tế cửa khẩu hơn 1000 tỷ đồng.
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cho đến tháng 1 năm 2000, đã triển khai thực hiện giá trị khối lượng hoàn thành là 150,830 tỷ đồng; đã bàn giao đưa vào sử dụng 54 dự án được phê duyệt với tổng đầu tư là 292,201 tỷ đồng. Trong đó, dự án giao thông có 15 hạng mục với số vốn 138,6 tỷ đồng; dự án điện nước có 10 hạng mục với số vốn 36,4 tỷ đồng; dự án giáo dục y tế có 5 hạng mục, với số vốn 24,8 tỷ đồng; các công trình công cộng và quản lý nhà nước có 24 hạng mục với số vốn 92,5 tỷ đồng. Các cơ sở vật chất được xây dựng nhanh, quy hoạch được xây dựng và xét duyệt kỹ, từ đó các tuyến đường giao thông được xăy dựng và mở rộng, nâng cấp tốt hơn, hệ thống đường nội thị ở cửa khẩu được xây dựng cơ bản hoàn thành, hệ thống cấp, thoát nước được xây dựng, điện chiếu sáng, thông tin liên lạc được đảm bảo, nhiều khách sạnm khu thương mại, nhà nghỉ và các cơ sở dịch vụ khác được xây dựng mới, đảm bảo điều kiện phục vụ tốt hơn. Đã chú trọng tập trung ưu tiên một được số dự án đầu tư phục vụ đảm bảo quốc phòng an ninh khu vực và các dự án kết hợp kinh tế với quốc phòng. Một số khu du lịch cũng được khôi phục hoặc đầu tư xây dựng mở rộng nhe: khu du lịch Mẫu Sơn-thuộc xã biên giới huyện Lộc Bình, nằm trên độ cao 1200m so với mặt nước biển, khu du lịch thắng cảnh Tam-Nhị Thanh, thành nhà Mạc, và nhiều cơ sở dịch vụ du lịch khác ở Đồng Đăng, Hữu Nghị v.v…
Các tuyến Quốc lộ trên địa bàn đã được xây dựng:
+ Quốc lộ 1A: là tuyến Quốc lộ xuyên Việt, từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan qua địa phận Lạng Sơn về Hà Nội
+ Quốc lộ 1B: Lạng Sơn qua Thái Nguyên
+ Quốc lộ 4B: Lạng Sơn đi Cao Bằng
+ Quốc lộ 4A: Lạng Sơn qua Tiên Yên đến thị xã Móng Cái-Quảng Ninh
+ Quốc lộ 31: Đình Lập-Bắc Giang
+ Quốc lộ 279: Bắc Cạn-Bình Gia (Lạng Sơn)
+ Các tuyến đường sắt:
+ Đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội-Trung Quốc chạy qua địa phận Lạng Sơn khoảng trên 100 km.
+ Đường sắt Lạng Sơn-Na Dương
Con đường thông thương giữa các khu kinh tế cửa khẩu của Lạng Sơn với các địa bàn khác trong nước cũng như ngoài nước là khá thuận tiện với chất lượng ngày càng được nâng cao.
- Về thu ngân sách: Trong 2 năm 1997-1998, số thu trên địa bàn thí điểm đạt bình quân 154 tỷ đồng. Năm 1999, số thu trên địa bàn đạt 276,704 tỷ đồng, chiếm 67% tổng thu ngân sách của tỉnh Lạng Sơn. Từ năm 2001 đến nay mỗi năm số thu từ khu kinh tế cửa khẩu tăng 15-25% so với năm trước. Năm 2002 số thu từ khu kinh tế cửa khẩu đạt 687,5 tỉ đồng; năm 2003 đạt 825 tỉ đồng; năm 2004 đạt xấp xỉ 950 tỉ đồng. Con số này thể hiện công tác quản lý nguồn thu, chống buôn lậu và gian lận thương mại được thực hiện tốt nhờ đó mà tạo ra môi trường thông thoáng cho hoạt động thương mại xuất nhập khẩu phát triển, làm nguồn thu ở mức cao mặc dù thời điểm đó kinh tế các nước trong khu vực đang bị khủng hoảng.
Các kết quả trên cho thấy sự nỗ lực của các cấp các ngành địa phương trong việc tổ chức thực hiện, quản lý và phối hợp một cách nghiêm túc trong thời gian qua. Trong thời gian gần đây nếu được Chính phủ cho phép Lạng Sơn tiếp tục thực hiện các chính sách đã được ban hành với sự điều chỉnh bổ sung cho thích hợp với tình hình thực tế thì trong vòng vài năm trước mắt bộ mặt khu vực cửa khẩu biên giới sẽ có sự thay đổi cơ bản theo chiều hướng tạo điều kiện cho sự hội nhập của nước ta với khu vực và thế giới, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nền kinh tế tỉnh phát triển lên một trình độ mới vững chắc.
Tuy nhiên để có thể có những bước tiến như trên đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của các cấp các ngành địa phương để có thể khắc phục được một số những hạn chế còn tồn tại sau:
- Sự điều hòa phối hợp chính sách chưa được đồng bộ, chưa thực sự thông thoáng. Các chính sách về XNC, XNK, quản lý thu đổi tiền tại các khu vực biên giới chưa được điều chỉnh kịp thời; chưa mạnh dạn phân cấp cho địa phương tự quyết định đầu tư trong XDCB; chưa giải quyết được việc cấp hóa đơn thu thuế cho lưu thông hàng hoá nhập theo Quy chế chợ biên giới Việt – Trung.
- Các chính sách còn chưa thể hiện được sự ưu tiên đặc biệt đối với khu vực kinh tế cửa khẩu. Ngoài chính sách về tài chính, hầu hết vẫn thực hiên theo các qui định chung của cả nước.
- Ta chưa có một cơ quan thống nhất quản lý điều hành các hoạt động giao lưu kinh tế với Trung Quốc; chưa có tổ chức nghiên cứu thị trường một cách đầy đủ, kịp thời nắm những thông tin cần thiết để có đối sách phù hợp.
- Các sản phẩm du lịch của tỉnh còn đơn giản, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của địa phương nên chưa có sức lôi cuốn du khách lưu lại. Công tác khảo sát thiết kế một số công trình chưa sát với thực tế nên trong quá trình còn phải bổ sung nhiều.
- Mặc dù đã có nhiều cải cách về quy trình thủ tục trong công tác XNK, XNC, kiểm dịch tại các cửa khẩu, nhưng vẫn còn nhiều phiền hà nảy sinh tiêu cực thông qua thực hiện công tác chuyên môn. Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm dịch còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
2.1.3 Khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng
Khu kinh tế cửa khẩu ở Cao Bằng được thành lập theo Quyết định số 171/1998/QĐ-TTg ngày 09/9/1998 của Thủ tường Chính phủ, bao gồm ba khu vực: khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng rộng 500 ha; khu vực kinh tế cửa khẩu Hùng Quốc rộng 30 ha; khu vực kinh tế cửa khẩu Sóc Giang rộng 58 ha và một số xã, được ưu tiên phát triển thương mại, đầu tư, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du lịch, công nghiệp và nông nghiệp theo luật pháp của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế. Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh nhận thấy việc áp dụng các chính sách ưu đãi là một cơ hội rất lớn để có thể khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Khi các hoạt động kinh tế tại khu vực cửa khẩu được đẩy mạnh có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế; tác động đến các mặt kinh tế, đời sống và quốc phòng an ninh, phát triển mối quan hệ giữa trong nước và nước ngoài. Do đó ngày 19/12/1998 UBND tỉnh đã ra Quyết định số 2461/QĐ-UB thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện QĐ 171/1998/TTg. Sau đó vào ngày 5/2/1999 UBND tỉnh đã ra Quyết định số 122/1999/QĐ-UB giao chỉ tiêu kế hoạch năm 1999, nguồn thu để lại cửa khẩu là 14 tỉ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo đề án. Bên cạnh đó là một số văn bản khác được ban hành của các cấp từ Trung ương xuống địa phương để triển khai thực hiện.
Với tinh thần trên tỉnh Cao Bằng đã có những thành tựu về phát triển kinh tế như: Tốc độ tăng trưởng GDP đã tăng rõ rệt; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng ngày càng hợp lý; công nghiệp tăng mạnh trong thời gian
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KQ08.Doc