Tài liệu Luận văn Tìm hiểu hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay: LUẬN VĂN:
Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
ở Thái Bình hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được Đảng, Nhà nước
quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, thì HTXNN cũng được
chuyển đổi cả về nội dung và hình thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành
năm 1996), nhằm thích ứng kịp thời với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Tuy
nhiên, trong thực tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn,
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Tr...
98 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
ở Thái Bình hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được Đảng, Nhà nước
quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, thì HTXNN cũng được
chuyển đổi cả về nội dung và hình thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành
năm 1996), nhằm thích ứng kịp thời với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Tuy
nhiên, trong thực tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn,
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên
cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại
kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật hợp tác xã mới (Luật HTX năm 2003), và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Đó là căn cứ thực tiễn và pháp lý quan trọng để tiếp
tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Do vậy,
việc nghiên cứu kinh tế HTX vẫn là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Do vậy, phải quan tâm
phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp.
Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX (ban hành 1996), HTX kiểu mới nói chung
và HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình có bước phát triển mới, đã đáp ứng
được một phần nhu cầu của những người lao động, hộ sản xuất - kinh doanh nông
nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên,
HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh hiện nay còn yếu kém nhiều mặt, một số lớn HTX
chuyển đổi còn mang tính hình thức, năng lực nội tại hạn chế, số HTX làm ăn hiệu quả
còn ít, lợi ích đem lại cho các thành viên chưa nhiều, HTXNN kiểu mới phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng và vai trò kinh tế - xã hội vốn có của nó.
Những hạn chế, yếu kém của HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cả về khách quan, chủ quan; cả về kinh tế, chính
trị, xã hội; đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đổi
mới HTXNN cả về nội dung và phương thức hoạt động theo Luật HTX năm 2003 cho
phù hợp với yêu cầu thực tiễn của tỉnh.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài " Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái
Bình hiện nay " làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, nhằm góp
phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTXNN là một trong những vấn
đề được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ở nước ta, vấn đề HTXNN là chủ đề được nhiều cơ quan khoa học, nhiều
nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Trong đó, có
những công trình tiêu biểu được công bố như:
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã: "Đổi mới tổ chức và quản lý hợp tác xã
trong nông nghiệp nông thôn", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã khái quát
toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý HTX trong nông thôn Việt
Nam từ trước đây đến khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình
tổ chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó, phác họa một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại
hình HTX.
- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng: "Kinh tế hợp tác, hợp tác
xã ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001.
Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác,
HTX trên thế giới và ở Việt Nam với những thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định
hướng phát triển phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ: "Kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các tác giả tập trung
trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách
quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện
nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế
hợp tác, HTX trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về "Phát triển
kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp". Tác giả
nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp tác ở Thành phố Hồ Chí Minh và
đề xuất các giải pháp phát triển.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về "Kinh tế tập thể
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp". Tác giả trình bày vai trò, tính tất yếu
khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển
kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- "Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn từ thực
tiễn" của Nguyễn Văn Tuất, Tạp chí Khoa học về chính trị, số 3, 2002.
- "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta" của PGS.TS Vũ Văn Phúc, Tạp chí Lý
luận chính trị, số 1, 2002.
Một số bài viết của tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa, Hoàng Việt...
Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu trên nhiều khía cạnh của kinh tế
HTXNN. Trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi vào làm rõ
những yếu kém của mô hình HTX kiểu cũ, luận giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi
mô hình HTX theo Luật HTX (1996); các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng
về nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể nói chung theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội Đảng IX. Cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTXNN kiểu mới trên
địa bàn tỉnh Thái Bình. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả
nghiên cứu của các công trình trên, vận dụng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5
(khóa IX) và cập nhật những điểm mới của Luật HTX năm 2003 vào nghiên cứu, đánh
giá hoạt động của các HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX 1996) ở Thái Bình, để từ đó đề
xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển HTXNN kiểu mới trên địa
bàn tỉnh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Khảo sát, đánh giá hoạt động của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ năm 1997
(khi Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay. Từ đó đề xuất một số phương hướng, giải
pháp tiếp tục hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát lại những vấn đề cơ bản về HTXNN kiểu mới: nội dung, phương
thức hoạt động và tính cấp thiết phải phát triển HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX năm
2003) ở Thái Bình hiện nay;
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ
1997 đến nay;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển, hoàn thiện HTXNN kiểu mới
ở Thái Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX (năm 1996 và năm 2003).
- Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm 1997 (khi
Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung
gần gũi với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị
như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với
thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề,
rút ra kết luận.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về HTXNN kiểu mới; trên cơ
sở đó, khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, xác định
nguyên nhân những yếu kém tồn tại; từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển, hoàn thiện
HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở đánh giá HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, luận văn rút ra những vấn đề
phù hợp và chưa phù hợp của mô hình HTXNN kiểu mới hiện nay; từ đó, đề xuất các giải
pháp để hoàn thiện chúng.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính
sách, chỉ đạo thực tiễn, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,
đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy ở trường chính
trị tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới và sự cần thiết
phát triển Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
1.1. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
1.1.1. Khái niệm Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
* Hợp tác:
Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên sức mạnh
lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động riêng rẽ sẽ
gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực hiện kém hiệu quả so với
hợp tác [7, tr. 11].
Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con
người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung, của lao động sản
xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con người. Do vậy, sự phát triển của hợp tác gắn
liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và hoạt động kinh
tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát
triển của các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển
kinh tế.
Hợp tác lao động được thực hiện từ khi loài người xuất hiện và ngày càng phát
triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa
sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, nhu cầu về hợp tác lao động
ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng. Nó không bị giới hạn
trong phạm vi từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương, trong một nước, mà còn mở rộng
trên phạm vi quốc tế.
Hợp tác có nhiều hình thức với đặc điểm, tính chất, trình độ khác nhau: hợp tác
ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thường xuyên, ổn định; hợp tác lao động như Mác đã phân
tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp; hợp tác giữa các
đơn vị, các ngành v.v...
* Kinh tế hợp tác:
Kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp của hợp tác, phản ánh một phạm vi hợp tác - hợp
tác trong lĩnh vực kinh tế.
Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế, hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với
ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất - kinh
doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành
viên.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, thì kinh
tế hợp tác là một hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế tự chủ có điều kiện phát
triển. Như vậy, quan hệ kinh tế hợp tác phải được xây dựng trên nguyên tắc: tự nguyện,
bình đẳng, cùng có lợi và tính tự chủ, độc lập của các thành viên tham gia.
Hợp tác trong nông nghiệp là nhu cầu khách quan. Từ thời xa xưa, các hộ nông
dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, nâng cao
hiệu quả sản xuất.
Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp thì quá trình hợp tác mang
tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v... nhằm đáp
ứng nhu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ
gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như: phòng
chống thiên tai, thú dữ, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Đặc điểm cơ bản của hợp tác
kiểu này là hợp tác theo thời vụ, việc hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính
đến giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác ở trình độ thấp.
Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản
xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng, như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu
bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong điều kiện này, từng hộ nông dân
tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả
năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó, nảy sinh nhu
cầu hợp tác ở trình độ cao hơn, đó là hợp tác thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị
ngày công, giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành hợp tác xã.
Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị -
xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế, nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản
đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu
cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng. Do đó, tất yếu hình
thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn, từ kinh tế
hợp tác giản đơn như các tổ, hội nghề nghiệp; các tổ, nhóm hợp tác, đến các tổ kinh tế
hợp tác và hợp tác phát triển ở trình độ cao là hợp tác xã.
* Hợp tác xã:
Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại hình
kinh tế hợp tác giản đơn. ở nhiều nước trên thế giới, HTX đã có lịch sử hình thành và phát
triển hơn 100 năm. Trong luật HTX của nhiều nước cũng như một số tổ chức quốc tế đều
có các định nghĩa về HTX. Liên minh HTX quốc tế (International Covperatise Alliance -
ICA) được thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa
HTX như sau: "Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại
để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa qua một
xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ". Năm 1995, định nghĩa này được hoàn thiện:
"Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công
bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên
hợp tác xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội
và quan tâm chăm sóc người khác" [1].
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: HTX là sự liên kết của những người
đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù
hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự
chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác,
phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung v.v...
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về HTX, cũng như sự khác nhau về đặc
điểm, cơ chế tổ chức, phương thức hoạt động v.v. của các mô hình HTX ở các nước trên
thế giới, song các loại hình HTX đều có một số đặc điểm chung sau đây:
- HTX là một tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp sức
hình thành. Hoạt động của HTX chủ yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh tế của
các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ lẫn nhau (cũng là giúp đỡ chính mình).
Ngoài ra, hoạt động của HTX còn mang tính cộng đồng xã hội - tương trợ, giúp đỡ cộng
đồng. Do vậy, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX.
- Nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý
dân chủ. ở các nước tư bản, kinh tế hợp tác mặc dù chỉ là dòng "Kinh tế phụ", nhưng nó
đặc biệt quan trọng đối với nông dân. HTX giúp đỡ các trang trại, hộ nông dân tồn tại
trước những tác động của kinh tế thị trường và ảnh hưởng của các tổ chức độc quyền lớn.
Do vậy, ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn là loại hình kinh tế mang tính chất xã hội -
nhân đạo.
* Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới:
ở nước ta, trong quá trình cải tạo kinh tế XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, phát triển. Thời
kỳ 1958 - 1980, kinh tế HTX phát triển mạnh trong phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng
góp to lớn trong xây dựng nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc. Song, trong
một thời gian dài, do nhận thức chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, chúng
ta đã đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, hợp tác hóa với cải tạo XHCN; xây dựng các
HTX không hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, mà thực hiện bằng các biện pháp
hành chính, xem nhẹ các biện pháp kinh tế, coi thường các bước quá độ trung gian trong
cải tạo XHCN. ở thời kỳ này, vẫn có các hình thức tổ chức sản xuất ở trình độ thấp như
tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, HTX bậc thấp, nhưng cũng chỉ là tạm thời, xu hướng
chung là chuyển nhanh lên trình độ tập thể hóa bậc cao. Do vậy, chúng ta đã vi phạm
nghiêm trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Các HTX càng tập thể hóa ở trình độ cao, càng hoạt động kém hiệu
quả; đã đẩy kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, trì trệ.
Khi đất nước đổi mới, mở cửa, chuyển đổi cơ chế hoạt động của nền kinh tế, hàng
loạt các HTX bị đổ vỡ, giải thể, đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về nội dung và phương
thức hoạt động của HTX cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và các
biện pháp chỉ đạo hiệu quả của Chính phủ, sản xuất nông nghiệp nước ta đã có bước phát
triển mạnh mẽ; kinh tế tập thể trong nông nghiệp cũng xuất hiện nhiều hình thức hợp tác,
liên kết mới, song chưa được định hình về tổ chức. ở một số địa phương, các HTX đã tìm
tòi, thử nghiệm mô hình HTX kiểu mới cho phù hợp với thực tế kinh tế.
Tổng kết thực tiễn đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
(1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới - HTX cổ phần. Tháng 3-1996, tại kỳ
họp thứ 9, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và
hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những HTX được thành lập
và hoạt động theo Luật này được gọi là HTX kiểu mới (để phân biệt với mô hình HTX
trước đổi mới).
Theo luật này, HTX được định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu
cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp
nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 7, tr. 5].
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996), Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là
HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày
26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung
(Luật HTX năm 2003). Luật này định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp
nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể
của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả
các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách
pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi
vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định
của pháp luật 8, tr. 7].
Các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX năm 1996 và
Luật HTX năm 2003 được gọi chung là HTXNN kiểu mới (để phân biệt với mô hình
HTXNN trước đổi mới). HTXNN kiểu mới là tổ chức kinh tế do những người nông dân
tự nguyện thành lập lên nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động sản xuất nông nghiệp của
họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và chuyên môn hóa
hoạt động. HTXNN kiểu mới ra đời dựa trên nền tảng kinh tế hộ nông dân.
Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, HTXNN kiểu mới có thể tổ chức theo
các hình thức sau:
- HTXNN làm dịch vụ: về mặt hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp
được tách hẳn để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu
vào (các HTX cung ứng vật tư), dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp (các HTX
làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…), dịch vụ quá trình tiếp theo của sản xuất nông
nghiệp (các HTX bảo quản và tiêu thụ sản phẩm). Tuy nhiên, tùy theo tính chất của từng
ngành, từng mức độ, yêu cầu của hợp tác và phân công lao động để lựa chọn các hình
thức HTX cho thích hợp. Bởi vì, ngay mô hình HTX dịch vụ cũng được phân thành nhiều
hình thức: HTX dịch vụ chuyên khâu và HTX dịch vụ tổng hợp.
- HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ: các HTXNN loại này thường dưới dạng các
HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là các HTX dịch vụ chuyên ngành gắn sản xuất
với chế biến và tiêu thụ. Trong đó, trực tiếp sản xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao
tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ: các HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa…
- HTX sản xuất nông nghiệp thuần túy: HTX loại này giống như các HTXNN ở
nước ta trước khi đổi mới. Tức là, những người sản xuất liên kết với nhau ở khâu sinh
học của sản xuất nông nghiệp với mục đích tạo ra quy mô sản xuất thích hợp, nhằm
chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo ra những ưu thế mới ở những ngành khó tách
riêng như chăn nuôi cá ở các hồ, đầm lớn…
Căn cứ vào những hình thức HTXNN nêu trên, cần lựa chọn mô hình HTX phù
hợp với đặc điểm của từng ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân và đặc thù từng
địa phương - mô hình đó hoạt động sẽ có hiệu quả.
Từ khái niệm và các hình thức HTXNN kiểu mới, có thể thấy được các đặc điểm
đặc thù của chúng như sau:
- HTXNN là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn - lực
lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển, do đó, có
ưu thế về số lượng lao động. Lực lượng lao động ở HTXNN nếu được bồi dưỡng, tập
huấn và đào tạo về khoa học, kỹ thuật và công nghệ, sẽ là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn.
- HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người còn nhiều hạn chế về trình độ
dân trí, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Điều này
được biểu hiện ở các nước đang phát triển. Đây là hạn chế lớn nhất về kinh doanh của
loại hình tổ chức kinh tế này. Do đó, vai trò của Nhà nước đối với HTXNN là tất yếu về
các mặt: quản lý nhà nước, giúp đỡ, hỗ trợ và quản lý HTX, HTXNN cũng không thể
không liên kết, kinh doanh với các tổ chức kinh tế, xã hội khác trong quá trình phát triển.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi nên trong quá trình
hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, vừa bị
chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Đặc điểm này thường làm cho các HTXNN phải chịu
rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp, tích lũy ít. Tuy nhiên, nếu được đầu tư tốt và HTXNN
năng động, sáng tạo thì sẽ có nhiều lợi thế trong việc tung ra thị trường những loại hàng
hóa đặc sản có chất lượng cao và sức cạnh tranh lớn cũng như thực hiện chuyên môn hóa,
đa dạng hóa sản phẩm.
1.1.2. Mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
1.1.2.1. Đặc trưng và ưu thế của mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
Qua nội dung Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về: tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Luật HTX năm 2003, đã thể hiện những đặc điểm
cơ bản của mô hình HTXNN kiểu mới và ưu thế của nó, đó là:
Thứ nhất, HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
góp sức, góp vốn lập ra, hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình và được bình đẳng như các
thành phần kinh tế khác. Bản chất của HTX là tổ chức kinh tế tập thể mang tính xã hội
cao bao gồm cả thể nhân, pháp nhân (các tổ chức kinh tế - xã hội), cán bộ công chức, cả
người ít vốn lẫn người nhiều vốn, nhưng phải tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ về gia
nhập và ra khỏi, về tổ chức quản lý HTX theo luật định. Mặt khác, HTX là tổ chức kinh
tế tự nguyện, có quyền tự chủ, bình đẳng với các loại hình kinh doanh khác trong quá
trình hoạt động. Chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của mình đối với các tổ chức
kinh tế khác theo thỏa thuận, hợp đồng đã kí kết. Điều này đã khắc phục được tư tưởng
HTX nặng về tổ chức xã hội và là công cụ của chính quyền cơ sở như mô hình HTX
trước đổi mới.
Thứ hai, HTX tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện
theo quy định của luật HTX, tán thành điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX. xã viên
có quyền ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX. Nguyện vọng của họ được tôn
trọng, không bị cưỡng bức, gò ép. Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo động viên
được sự nhiệt tình của các đối tượng tham gia.
- Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham gia quản
lý, kiểm tra, giám sát HTX; những vấn để lớn trong sản xuất, kinh doanh của HTX đều
phải được đại hội xã viên thảo luận dân chủ và thông qua; các xã viên đều có quyền
ngang nhau trong biểu quyết theo hình thức mỗi người một phiếu bầu, giá trị mỗi phiếu
như nhau, không phụ thuộc vào mức vốn góp; đồng thời, HTX phải thực hiện tốt việc
công khai cho xã viên biết theo định kỳ về phương thức, kế hoạch sản xuất - kinh doanh,
công khai tài chính, phân phối, thu nhập của HTX. Đây là nguyên tắc then chốt, liên quan
đến sự tồn tại và phương hướng phát triển lành mạnh của HTX.
- Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX là tổ chức kinh tế,
hoạt động với mục đích lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi
ích tập thể, đồng thời, coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên. Trong thành lập và hoạt
động, HTX có quyền được lựa chọn ngành nghề sản xuất - kinh doanh phù hợp mà pháp
luật không cấm, theo ý chí, nguyện vọng của xã viên; hoàn toàn tự chủ trong hoạt động
sản xuất - kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường; liên doanh liên kết
với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong phân phối lợi ích và giải quyết những
vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi, phải tuân thủ nguyên tắc cùng có lợi, hài
hòa giữa xã viên và xã viên, giữa xã viên và HTX, HTX với lợi ích cộng đồng. Nguyên
tắc này đã xác định rõ điều kiện tồn tại và phát triển của HTX chính là ở vai trò, trách
nhiệm làm chủ của các xã viên đối với HTX; chủ động phát huy các nguồn lực, nhất là
nguồn lực sẵn có của xã viên; HTX năng động tìm kiếm cơ hội kinh doanh và cạnh tranh
để tồn tại và phát triển.
- Hợp tác và phát triển cộng đồng: Là nguyên tắc và tiêu chí mang tính đặc trưng
của HTX kiểu mới, gắn kết lợi ích kinh tế của các thành viên HTX với lợi ích xã hội và
phát triển cộng đồng. HTX là tổ chức kinh tế tập thể, mọi hoạt động kinh tế của các thành
viên tham gia với phương châm hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua khó khăn; tăng thu
nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên tham gia. Trên cơ sở đó,
không ngừng nâng cao vai trò, tính chất xã hội của HTX để giải quyết các vấn đề xã hội,
góp phần tích cực thực hiện chủ trương giải quyết công ăn, việc làm, xóa đói giảm nghèo,
xây dựng kết cầu hạ tầng xã hội, tăng cường tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng,
đó là nhân tố quan trọng để HTX phát triển bền vững.
Thứ ba, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX.
- Về quan hệ sở hữu: Trong mô hình HTX kiểu cũ, một đặc điểm quan trọng nhất
quyết định các quan hệ khác là chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Người nông dân
khi vào HTX phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu; xóa bỏ sở hữu của
hộ gia đình, sở hữu cá nhân không được thừa nhận. Chính điều này đã làm nảy sinh tình
trạng vô chủ và sự thiếu trách nhiệm của nhiều xã viên đối với tài sản của HTX. Trong
HTX kiểu mới, sở hữu của HTX là sở hữu đan xen, đa dạng và linh hoạt, phù hợp với yêu
cầu và đặc điểm của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, "dựa trên sở hữu của
các thành viên và sở hữu tập thể" [3, tr. 34].
Sở hữu của tập thể xã viên (sở hữu của HTX) là nguồn vốn tích lũy tái đầu tư,
các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX và các quỹ không chia.
Những vốn, quỹ, tài sản thuộc sở hữu tập thể được khuyến khích tăng thêm cùng với sự
phát triển của HTX nhằm tạo điều kiện củng cố, phát triển HTX. Sở hữu thuộc cá nhân
xã viên được tôn trọng, xã viên có toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất
thuộc sở hữu riêng để sản xuất - kinh doanh. Nếu HTX có nhu cầu sử dụng các tư liệu sản
xuất đó, thì phải thuê của xã viên. Vốn góp của xã viên khi vào HTX được sử dụng cho hoạt
động chung của HTX và sẽ trả lại cho xã viên khi ra khỏi HTX. Như vậy, HTX không tập
thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên, tôn trọng sở hữu của các thành viên. HTX
kiểu mới làm cho xã viên thực sự là chủ nhân của HTX thông qua quy định về góp vốn,
góp sức xây dựng HTX; quyền lợi, trách nhiệm của xã viên gắn liền với kết quả hoạt động
sản xuất - kinh doanh của HTX.
- Về quan hệ quản lý: Trong cơ chế quản lý của HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã
viên với HTX là quan hệ phụ thuộc, xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao
động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX; tính chất hợp tác đích thực trong HTX
không còn, người lao động phụ thuộc, bị động, thiếu chủ động sáng tạo. Đặc trưng của HTX
kiểu mới là hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản
xuất - kinh doanh của xã viên, mà chỉ diễn ra ở từng công đoạn, khâu công việc nhằm bổ trợ,
phát huy thế mạnh của từng xã viên. Do đó, HTX kiểu mới phát huy được quyền làm chủ
của họ. Xã viên trực tiếp tham gia quản lý, giám sát hoạt động của HTX theo nguyên tắc
quản lý dân chủ, xã viên quyết định các công việc quan trọng của HTX một cách bình đẳng,
không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX được tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả,
tách rõ chức năng quản lý với chức năng điều hành. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu trình độ
phát triển của HTX mà có thể thành lập bộ máy vừa quản lý, vừa điều hành hoặc thành lập
riêng bộ máy quản lý với bộ máy điều hành. Ban quản trị HTX là bộ máy quản lý HTX
do đại hội xã viên bầu trực tiếp. Trường hợp HTX không tổ chức riêng bộ máy quản lý và
bộ máy điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản lý và bộ máy điều hành là chủ nhiệm
HTX, đồng thời là trưởng ban quản trị và phải là xã viên HTX, do đại hội xã viên bầu.
Trường hợp HTX tổ chức riêng bộ máy quản lý và điều hành thì người đứng đầu bộ máy
quản lý là trưởng ban quản trị và người đứng đầu bộ máy điều hành là chủ nhiệm HTX; ở
trường hợp này, chủ nhiệm HTX có thể là người được thuê ngoài HTX, không phải là xã
viên.
- Về quan hệ phân phối: Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối mang nặng
tính bình quân, bao cấp, không khuyến khích xã viên tích cực, hăng say lao động; xã viên
thiếu gắn bó với HTX, giành công sức làm kinh tế gia đình. HTX kiểu mới "thực hiện
phân phối theo nguyên tắc công bằng, cùng có lợi", người lao động ngoài tiền công được
nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo mức độ tham gia
dịch vụ và lợi tức cổ phần theo vốn góp. Lợi nhuận HTX càng cao, lợi tức cổ phần càng
lớn, thu nhập của xã viên càng nhiều. Đây là động lực khuyến khích xã viên hăng say làm
việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, HTX còn tạo ra các quỹ không chia;
một mặt, để mở rộng sản xuất; mặt khác, tạo lên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên
trong HTX; kết hợp chặt chẽ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài.
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn về quy mô, lĩnh vực và
địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng) với mô hình linh hoạt, đa dạng về hình
thức, phù hợp với đặc điểm từng ngành, từng vùng, với nhiều trình độ phát triển từ thấp
đến cao.
Có những HTX chỉ hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu chung về một hay một số
dịch vụ đầu vào đầu ra, dịch vụ chuyên ngành, dịch vụ tổng hợp đa chức năng; HTX sản
xuất kết hợp dịch vụ, HTX sản xuất kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện; từ HTX phát
triển thành các liên hiệp HTX.
Thứ năm, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó, tác động tương hỗ,
cùng nhau phát triển.
Nếu như trong HTX kiểu cũ, kinh tế cá thể, hộ gia đình không được chấp nhận
hoặc chỉ được coi là kinh tế phụ và bị hạn chế trong một giới hạn nhất định, thì HTX kiểu
mới được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ. HTX kiểu mới không thủ tiêu
tính tự chủ sản xuất - kinh doanh của các thành viên, HTX chỉ làm những gì mà mỗi
thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không hiệu quả để hỗ trợ cho các thành
viên phát triển. Trong nông nghiệp, hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, vừa là
người chủ của HTX, là người tiêu dùng các dịch vụ đầu vào và bán sản phẩm cho HTX;
do đó, kinh tế hộ càng phát triển, càng tạo ra những tiền đề kinh tế thuận lợi cho sự phát
triển HTX; ngược lại, HTX phát triển để hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ phát huy hết khả
năng của mình trong sản xuất - kinh doanh.
Có thể khái quát đặc trưng mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới so với HTX
nông nghiệp thời kỳ trước đổi mới (bảng 1.1).
Bảng 1.1: So sánh HTXNN trước đổi mới và HTXNN kiểu mới
HTXNN trước đổi mới HTXNN kiểu mới
Cách thức thành
lập
áp đặt, "Từ trên xuống" Tự nguyện, "Từ dưới lên"
Tính chất của tổ
chức
Vừa là tổ chức kinh tế, vừa là
tổ chức xã hội ở địa phương.
Trước hết là tổ chức kinh tế vì
sự phát triển của kinh tế hộ xã
viên HTX.
Cơ chế hoạt động
của HTX
HTX hoạt động theo cơ chế
mệnh lệnh, hành chính, tập
trung bao cấp. Các quan hệ
giải quyết đầu vào, đầu ra
trong hoạt động kinh tế của
HTX chủ yếu thông qua các tổ
chức kinh tế nhà nước (công ty
vật tư nông nghiệp, công ty
Môi trường hoạt động đã khác
hẳn, quan hệ hành chính, độc
quyền được thay bằng quan hệ
kinh tế đa phương, tự nguyện.
HTX phải tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, tự bù đắp, bảo toàn và
phát triển vốn, phải hoạt động
trong môi trường cạnh tranh
lương thực, công ty giống…)
tức là được độc quyền hóa và
hành chính hóa.
của nền kinh tế nhiều thành
phần, giao lưu kinh tế, từng
bước phát triển trên cơ sở luật
pháp của nhà nước.
Thành viên tham
gia
Thể nhân Thể nhân, pháp nhân.
Sở hữu
Sở hữu tập thể trên cơ sở tập
thể hóa tư liệu sản xuất.
Sở hữu chung trên cơ sở góp
vốn, đan xen giữa sở hữu tập
thể và sở hữu cá thể của xã
viên
Tổ chức bộ máy
quản lý HTX
Chức năng quản lý và điều
hành trong HTX được lồng
ghép. Bộ máy quản lý của
HTX bao gồm: Ban quản trị,
Ban kiểm soát, Trưởng ban
quản trị kiêm chủ nhiệm HTX.
Công tác cán bộ HTX được
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng ủy và chính quyền
địa phương, các chức danh chủ
chốt của HTX do Đảng ủy chỉ
định và người trong nội bộ
HTX nắm giữ.
Chức năng quản lý và điều
hành được tách biệt, rõ ràng.
Bộ máy quản lý của HTX bao
gồm Ban quản trị, Ban kiểm
soát, Ban chủ nhiệm. Chủ
nhiệm HTX có thể do Trưởng
ban quản trị kiêm nhiệm hoặc
là người do HTX thuê. HTX
được quyền tự chủ trong công
tác cán bộ của mình, các chức
danh chủ chốt không nhất thiết
phải do đảng viên hay người
trong nội bộ HTX nắm giữ.
Phân phối Bình quân, bao cấp
Theo vốn, lao động và mức độ
sử dụng dịch vụ của HTX.
Nội dung hoạt
động
Trực tiếp tổ chức sản xuất, lao
động tập trung, thủ tiêu sự độc
lập của kinh tế hộ.
Nội dung hoạt động đa dạng
có thể làm dịch vụ, hoặc vừa
làm dịch vụ vừa sản xuất kinh
doanh đa ngành nghề, song
đều hướng vào hỗ trợ kinh tế
hộ tự chủ phát triển.
Phạm vi hoạt động Theo địa giới hành chính
Không bị giới hạn bởi địa giới
hành chính.
Thực hiện các
nguyên tắc HTX
Các nguyên tắc HTX bị vi
phạm
Các nguyên tắc HTX được tôn
trọng.
Nguồn: [51].
Biểu đồ 1.1: Mối quan hệ giữa HTXNN với xã viên và các tổ chức
Nhà nước
Các
cơ
quan
nhà
nước
Xã viên
HTXNN
Các
tổ
chức
kinh
tế
nhà
nước
Nhà nước
Các
cơ
quan
nhà
nước
Hộ nông dân tự
chủ
HTXNN
Các
tổ
chức
kinh
tế
nhà
nước
Các
tổ
chức
kinh
tế
phi
nhà
nước
HTXNN kiểu
mới
HTXNN trước đổi
mới
Nguồn: [51].
1.1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của HTXNN kiểu mới.
Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế nông hộ tự chủ theo hướng sản xuất hàng
hóa.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, HTX thành lập dựa trên chế độ sở
hữu tập thể về tư liêu sản xuất, xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, xóa bỏ sản xuất theo hộ;
xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao động làm công theo sự điều hành
tập trung của HTX; tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn, người lao động
phụ thuộc, bị động, ỷ lại thiếu chủ động sáng tạo; dẫn đến HTX làm ăn ngày càng sa sút,
kém hiệu quả, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong nông nghiệp thực hiện "Chính sách khoán" (theo
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 05- 04-1988, về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp), hộ nông dân được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, sức sản xuất trong nông
nghiệp, nông thôn được giải phóng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế nông hộ
lại nảy sinh nhu cầu hợp tác để nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sức cạnh
tranh trên thị trường. Vì trong nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt có nhiều hoạt
động chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở có sự liên kết chung như: công
tác thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh…
Đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mở cửa hội nhập, kinh tế hộ tự chủ đứng
trước yêu cầu cơ khí hóa, từng bước ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN) mới vào
sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; tổ chức bảo
quản, chế biến và tiêu thụ nông sản… dẫn đến nhu cầu hợp tác kinh tế và phát triển HTXNN
kiểu mới ngày càng mạnh mẽ.
Như vậy, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và tác động qua
lại. HTX kiểu mới hình thành và phát triển trên cơ sở hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ,
phục vụ lợi ích cho các hộ. Hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, lại vừa là người chủ
trong HTX; là người tiêu dùng các dịch vụ đầu vào và bán các sản phẩm nông nghiệp cho
HTX. Do đó, kinh tế hộ càng phát triển, càng tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự phát
triển HTXNN kiểu mới. Đồng thời, HTXNN kiểu mới là môi trường quan trọng để bổ
sung, hỗ trợ cho kinh tế hộ phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất - kinh doanh.
Thứ hai, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khuyến
khích phát triển HTXNN kiểu mới.
Sự chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đã làm cho phần lớn các HTX tổ chức
theo mô hình cũ lâm vào tình trạng khó khăn, lúng túng, mất phương hướng hoạt động.
Kinh tế HTX suy giảm cả về số lượng và vai trò trong nền kinh tế, đòi hỏi phải có sự đổi
mới cả về nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với môi trường sản xuất -
kinh doanh mới.
Trong suốt quá trình tìm tòi thử nghiệm, đặc biệt từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng (1986), đã diễn ra quá trình đổi mới từng phần đến đổi mới toàn bộ, căn
bản mô hình HTX cùng với cơ chế quản lý theo mô hình cũ. Trong từng bước thay đổi, Đảng
ta luôn chú ý tổng kết, đánh giá và kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp, tạo bước
ngoặt quyết định cho sự phát triển nông nghiệp và sự hình thành mô hình HTX kiểu mới. Sự
ra đời và đi vào thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương (ban hành ngày 13- 01-
1981), đã đặt nền móng cho quá trình đổi mới mô hình HTX "tập thể hóa" trước đây. Thực
hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (ban hành ngày 05- 04-1988), về đổi mới quản lý kinh
tế nông nghiệp và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (năm
1993), kinh tế hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận ruộng đất ổn
định lâu dài với năm quyền (chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê). Điều
này thực sự đã tạo lên bước đột phá cho quá trình phát triển nông nghiệp nước ta. Đồng thời,
nó cũng đánh dấu một giai đoạn chuyển biến quan trọng của mô hình HTX kiểu mới trên
phạm vi toàn quốc (giai đoạn 1986 - 1996). Đây là bước chuẩn bị quan trọng cho sự ra đời
Luật HTX được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20-3-1996 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01- 1-1997. Từ sau đó, đã có 9 Nghị định dưới luật được ban hành hướng
dẫn việc thi hành Luật HTX.
Cùng với các văn bản nói trên là hàng loạt các Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai,
thứ tư, thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương khóa VI; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư,
thứ năm, thứ sáu (lần 1) của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII. Hiến pháp, luật dân
sự, luật đất đai, chỉ thị số 68/BBT ngày 24-5-1996 về phát triển kinh tế HTX trong các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế v.v... Thực tế cho thấy, mặc dù các văn bản nói trên chưa
thật sự đầy đủ, đặc biệt trong khâu hướng dẫn thi hành; song đây là lần đầu tiên kinh tế
HTX ở nước ta có được khuôn khổ pháp lý rất cơ bản, tạo điều kiện cho sự vận động,
phát triển của hình thức kinh tế này trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta.
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996), Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã đưa ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là
HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày
26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX
2003) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Luật HTX mới đã hoàn thiện căn bản
khuôn khổ pháp lý để HTX hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường, nên đã thúc đẩy
kinh tế HTX phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Như vậy, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước là
nhân tố tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát triển và hiệu quả kinh tế - xã
hội của kinh tế hợp tác và HTX nói chung, trong đó có HTXNN. Đồng thời, đây cũng là
nhân tố tạo lên bước ngoặt quan trọng cho quá trình chuyển đổi, xây dựng HTX kiểu mới
trong điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hóa, tiến lên sản xuất lớn, hiện đại với sự tác
động của cơ chế thị trường, hội nhập và "mở cửa" trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý HTX nhiệt tình, có trách nhiệm, có
trình độ.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệt tình, có trách nhiệm, có trình độ, có tinh
thần vì lợi ích của nhân dân lao động, hăng hái đi tiên phong trong phong trào hợp tác, là
những người sáng lập và lãnh đạo HTX là nhân tố hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của HTX. Thực tiễn đã chỉ rõ, ở đâu cán bộ tốt, có trình độ, tâm huyết, nhiệt tình và
biết phát huy dân chủ, ở đó HTX ăn lên, làm ra, xã viên phấn khởi, gắn bó với HTX. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay, trình độ học vấn và quản lý của cán bộ HTXNN còn thấp, số
chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Theo báo cáo của Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành
Trung ương tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, trình độ ban
quản lý HTX nông nghiệp (số liệu điều tra tháng 6/2001): Chủ nhiệm HTX có 70,26% là
đảng viên và 49,53% cán bộ chưa qua đào tạo; kế toán trưởng có 53,98% là đảng viên và
42,34% cán bộ chưa qua đào tạo; trưởng ban kiểm soát có 62,52% là đảng viên và
71,84% cán bộ chưa qua đào tạo. Đây là một khó khăn lớn cho việc thực hiện chủ trương
phát triển HTX nông nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Thứ tư, nhận thức của hộ nông dân về HTXNN kiểu mới.
Thực tiễn phát triển HTXNN kiểu mới trong thời gian qua ở cả nước nói chung
và ở Thái Bình nói riêng cho thấy, có nhiều HTXNN sau chuyển đổi đã vươn lên, phát
triển ngày càng mạnh mẽ; nhiều HTXNN thành lập mới hoạt động hiệu quả, hỗ trợ tích
cực cho kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; nhưng cũng có những
HTXNN kiểu mới hoạt động chỉ mang tính hình thức. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng hoạt động yếu kém của HTXNN là do người nông dân nhận thức chưa
đúng, chưa đầy đủ của về vị trí, vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển
HTXNN kiểu mới; chưa phân biệt rõ giữa HTXNN kiểu cũ và HTXNN kiểu mới; dẫn
đến tâm lý hoài nghi, thờ ơ, không ủng hộ. Sở dĩ người nông dân nhận thức chưa tốt về
HTXNN kiểu mới là do:
- Trình độ học vấn của người nông dân nói chung là thấp (có một bộ phận nông
dân không biết chữ), do vậy, khả năng nhận thức của họ rất hạn chế.
- Quan điểm, chủ trương của Đảng; pháp luật, chính sách của Nhà nước về chuyển
đổi và phát triển HTXNN kiểu mới chưa được phổ biến rộng rãi ở nông thôn, chưa biến
thành nhận thức và hành động của người nông dân.
- Đa số các hộ nông dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa thường thiếu các thông
tin có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, đến kinh nghiệm phát triển HTX và các mô
hình HTXNN có hiệu quả.
- Do sự thiếu quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ chức,
hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ các HTXNN phát triển.
- Một bộ phận nông dân thiếu niềm tin vào HTXNN do bị ảnh hưởng của phong
trào hợp tác hóa trước đây, họ sợ vào HTXNN sẽ bị tập thể hóa về tư liệu sản xuất…
HTXNN có thể ra đời, tồn tại và phát triển được hay không là do các hộ nông
dân quyết định. Do đó, muốn thúc đẩy HTXNN phát triển, phải làm tốt việc tuyên truyền;
phải hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để người nông dân hiểu và thấy được những ưu
thế của HTXNN kiểu mới trong việc khắc phục những hạn chế của sản xuất cá thể, nhỏ
lẻ; những tác động xấu của cơ chế thị trường.
Những nhân tố cơ bản nêu trên có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của
HTXNN. Ngày nay, những nhân tố kinh tế - xã hội khác cũng có ảnh hưởng rất quan
trọng. Đó là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, trình độ dân trí, trình độ lao
động thấp, sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp chưa phát triển, lượng vốn đầu tư ít; nến
kinh tế đất nước tăng cường mở cửa hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt v.v... Tất cả
những yếu tố đó ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của HTXNN. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta phải tác động tổng hợp nhiều biện pháp mới có thể làm cho HTXNN phát
triển nhanh và vững chắc.
1.1.2.3. Xu hướng vận động của HTXNN kiểu mới ở nước ta đến năm 2020
* Số lượng HTXNN kiểu mới ngày càng tăng
Phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp đặt ra yêu cầu phải tăng sức cạnh
tranh của nông sản hàng hóa, muốn vậy, sản xuất phải đi vào chiều sâu, ứng dụng các tiến bộ
KHCN vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất; mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư nông nghiệp. Những yêu cầu đó, từng hộ
nông dân cá thể không thể tự giải quyết một cách tự phát, riêng lẻ mà nhất thiết phải có sự
liên kết kinh tế với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp
nhà nước, kể cả về tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Dịch cúm gia cầm đầu năm 2004 đã bộc
lộ những yếu kém, hạn chế của chăn nuôi gia cầm phân tán theo quy mô từng hộ gia đình,
không có sự hỗ trợ của HTXNN về dịch vụ thú y, bảo hiểm. Trong tiêu thụ thóc, trái cây
và các nông sản khác, các hộ nông dân cá thể cũng không có các thông tin thị trường nên
rất khó khăn, có năm được mùa thì giá lại giảm. Vì vậy, muốn liên kết kinh tế giữa hộ nông
dân với các doanh nghiệp, tất yếu phải thông qua tổ chức có tư cách pháp nhân đại diện
cho kinh tế hộ. Thực tế liên kết kinh tế và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản theo
Quyết định 87/2002 của Thủ tướng Chính phủ trong 3 năm qua (2002 - 2004) đã cho thấy
vai trò không thể thiếu của các HTXNN trong các hợp đồng kinh tế.
Như vậy, cùng với sự phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, thì nhu cầu
về các dịch vụ hỗ trợ kinh tế ngày càng tăng và HTXNN sẽ ngày càng phát triển cả về số
lượng, quy mô và trình độ.
* Về mô hình Hợp tác xã nông nghiệp
Phân tích thực trạng các HTXNN kiểu mới hiện nay, chúng ta thấy có hai mô
hình chủ yếu đang tồn tại và phát triển theo hai hướng khác nhau. Mô hình thứ nhất,
HTX kinh doanh đơn thuần dịch vụ nông nghiệp cho kinh tế hộ nông dân, bao gồm: thủy
nông, bảo vệ thực vật, giống cây trồng, cung ứng vật tư, làm đất, khuyến nông… Nói
chung, các HTXNN loại này không có các chức năng quản lý, điều hành sản xuất của hộ
nông dân, kể cả trồng trọt và chăn nuôi. Do phạm vi hoạt động dịch vụ hẹp, một số yếu tố
đầu vào và đầu ra bị khống chế (như thủy nông bị khống chế về giá điện, làm đất bị
khống chế giá xăng dầu, bảo vệ thực vật bị khống chế giá thuốc trừ sâu…), nhu cầu dịch
vụ của xã viên không lớn và không ổn định do quy mô ruộng đất của hộ nông dân ít, lao
động dư thừa nhiều nên doanh thu dịch vụ của HTXNN vừa thấp, lại không ổn định. Mặt
khác, đang xuất hiện xu hướng ngành điện sẽ tiến tới trực tiếp quản lý điện ở nông thôn,
thành phần kinh tế tư nhân có thể thay thế HTX đảm nhiệm một số dịch vụ như: cung
ứng vật tư, làm đất v.v... Đó là những nguyên nhân dẫn đến thu nhập của HTXNN thấp,
xã viên không gắn bó với HTX ở nhiều vùng. Do vậy, dự báo trong 15 năm tới, mô hình
này có khả năng thu hẹp và đến năm 2020 sẽ còn ít, chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và miền
Trung, những vùng có quy mô sản xuất hàng hóa nông nghiệp còn hạn chế.
Mô hình thứ hai, HTXNN tổng hợp với nội dung hoạt động bao gồm các hoạt
động dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân nói chung và một số hoạt động sản xuất nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản. Mô hình này đã khắc
phục được hạn chế của mô hình HTX dịch vụ đơn thuần, mở rộng phạm vi dịch vụ cho cả
các hộ phi nông nghiệp ở nông thôn và một số hoạt động sản xuất. Do vậy, nội dung hoạt
động phong phú, lao động HTX có nhiều việc làm, doanh thu của HTX và thu nhập của
xã viên cao và ổn định hơn, tạo sự gắn kết giữa xã viên với HTX hơn. Dự báo đến năm
2020, mô hình này có triển vọng phát triển nhanh, nhất là các tỉnh Nam bộ - nơi sản xuất
hàng hóa phát triển, kiến thức kinh tế thị trường của cán bộ HTX và xã viên cao hơn các
vùng khác ở phía Bắc. Có hai yếu tố quyết định tốc độ tăng của mô hình này là nhu cầu
liên kết kinh tế trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa của hộ nông dân và năng lực của
cán bộ HTXNN được nâng lên.
Ngoài hai mô hình chính trên đây, từ nay đến năm 2020, trong nông nghiệp và
nông thôn nước ta sẽ xuất hiện một số hình thức tổ chức HTX khác với quy mô và nội
dung hoạt động đa dạng, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hộ nông dân từng vùng.
Đó là các HTX chuyên môn hóa cao ở một số hoạt động dịch vụ như: chuyên làm đất,
chuyên thủy nông, chuyên tiêu thụ nông sản hàng hóa, v.v... Tiền thân của các HTX này là
các tổ chức kinh tế hợp tác có tính chuyên môn hóa như: tổ làm đất, tổ đường nước, tổ bảo
vệ thực vật, tổ khuyến nông v.v... ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế là năm
2003 cả nước đã có trên 1000 HTXNN chuyên môn hóa kinh doanh một dịch vụ, riêng
đồng bằng sông Cửu Long có 354 HTX, trong đó có 309 HTX thủy nông.
* Về mô hình tổ chức HTXNN
Trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hai thập niên đầu
thế kỷ XXI, thực hiện Luật HTX năm 2003, dự báo mô hình tổ chức HTXNN ở nước ta
sẽ phát triển đa dạng. Ngoài mô hình mà các xã viên là các hộ sản xuất nông nghiệp
thuần túy, sẽ xuất hiện thêm nhiều mô hình khác như mô hình các xã viên bao gồm cả
doanh nghiệp không trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, mô hình HTXNN mà các
xã viên của nó làm nông nghiệp còn lại rất ít, đại bộ phận sẽ chuyển sang các hoạt động
kinh tế phi nông nghiệp.
Dự báo đến năm 2020, các HTXNN ở nước ta sẽ có bước phát triển mới cả về số
lượng, loại hình, quy mô và chất lượng, phù hợp với yêu cầu CNH - HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
1.2. Phát triển Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới là yêu cầu cấp thiết ở Thái
Bình hiện nay
1.2.1. Vài nét về vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của Thái Bình
- Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm trong
vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh.
Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Phía Tây và
Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam. Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ.
- Tọa độ địa lý: vĩ độ Bắc 20017 - 20044; kinh độ đông 106006 - 106039.
- Diện tích đất tự nhiên: 1542,24 km2 chiếm 0,5% diện tích đất đai cả nước. Từ
Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km.
- Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thành phố, trong đó có 284 xã, phường, thị trấn.
- Là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn
1%, cao trình biến thiên phổ biến từ 1 - 2m so với mực nước biển, thấp dần từ Bắc xuống
Đông Nam [5].
Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín, có bờ biển dài trên 50 km
và có 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh: phía Bắc và Đông Bắc có sông Hóa, dài 35,3
km; phía Bắc và Tây Bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km; phía Tây và
Nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km; sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng)
chảy qua giữa tỉnh từ Tây sang Đông dài 65 km. Đồng thời có 5 cửa sông lớn (Văn úc, Diêm
Điền, Ba lạt, Trà Lý, Lân). Các sông này đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè
nước dâng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao; mùa đông lưu lượng giảm nhiều,
lượng phù sa không đáng kể. Nước mặn ảnh hưởng xấu vào đất liền (15 - 20 km).
- Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5
đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong
năm là 23 - 240C (thấp nhất là 40C, cao nhất là 380C) lượng mưa trung bình 1.400mm -
1.800mm. Số giờ nắng trong năm là 1.600 - 1.800 giờ, lượng bốc hơi 728mm/năm. Độ ẩm
trung bình khoảng 80 - 90% [5].
- Đất đai Thái Bình phì nhiêu màu mỡ, nổi tiếng "bờ xôi, ruộng mật", do được bồi
tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống công trình thủy lợi tưới, tiêu thuận
lợi góp phần làm nên cánh đồng lúa 14 - 15 tấn/ha và đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu
nông nghiệp để xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha trở lên.
- Tổng diện tích tự nhiên 153.596 ha; trong đó, diện tích cây hàng năm là 94.187
ha; ao hồ đã đưa vào sử dụng là 6.018 ha. Hầu hết đất đai được cải tạo hàng năm có thể
trồng được 3 - 4 vụ, diện tích có khả năng làm vụ đông khoảng 40.000 ha [5].
Ngoài diện tích cấy lúa, đất đai Thái Bình rất thích hợp cho các loại cây: cây thực
phẩm (khoai tây, dưa chuột, sa lát, hành, tỏi, lạc, đậu tương, ớt xuất khẩu v.v...); cây công
nghiệp ngắn ngày (cây đay, cây dâu, cây cói v.v...); cây ăn quả nhiệt đới (cam, táo, ổi Bo,
vải thiều, nhãn, chuối v.v...); trồng hoa, cây cảnh v.v...
- Ngoài ra, tiềm năng và nguồn lợi thủy sản là một trong những thế mạnh của
tỉnh Thái Bình cả về nước ngọt, nước lợ và nước mặn.
Có thể nói, điều kiện tự nhiên ở Thái Bình rất thuận lợi cho việc phát triển kinh
tế nông nghiệp. Chính vì vậy, Thái Bình đã sớm trở thành vựa lúa của Đồng bằng sông
Hồng, là tỉnh nông nghiệp với 94.2% dân số hiện đang sống và làm việc tại khu vực nông
thôn, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp chiếm 74,3% lực lượng lao động của tỉnh
[5].
1.2.2. Những yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn trong điều
kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu hình thành, phát triển
hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó là con đường
phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Bởi lẽ, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp,
cây trồng, vật nuôi đều là những cơ thể sống nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại
cảnh, bên cạnh các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp còn gặp phải không ít khó
khăn, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố sâu bệnh, thiên tai phá hoại
v.v...
Từ thời xa xưa, các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp
đỡ nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cấp, tự túc thì quá trình hợp tác mang
tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v... nhằm đáp
ứng yêu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ
gia đình không có khả năng thực hiện hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như phòng
chống thiên tai, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Quá trình hợp tác này còn mang đặc
điểm tình cảm, tâm lý truyền thống cộng đồng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó
khăn trong sản xuất theo vụ, việc, hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính
đến giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác còn ở trình độ thấp.
Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản
xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng dịch vụ, như dịch vụ về giống, phòng trừ
sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong điều kiện này, nền sản xuất
nhỏ, manh mún, tự phát theo quy mô từng hộ gia đình riêng lẻ với kỹ thuật canh tác lạc
hậu, năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm thấp đã mâu thuẫn với yêu cầu của sản
xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao để tăng sức cạnh tranh trên thị
trường và xuất khẩu. Từng hộ nông dân cá thể không thể tự giải quyết được mâu thuẫn đó
một cách cơ bản. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi theo hướng xóa độc canh cây lúa, đa dạng hóa sản xuất gắn với chuyên môn hóa
và liên kết sản xuất - chế biến và tiêu thụ nông sản đã làm xuất hiện những yêu cầu mới
mà từng hộ gia đình nông dân riêng lẻ không thể thực hiện được. Tình trạng tự phát trong
chuyển đất lúa năng suất và hiệu quả thấp sang nuôi tôm ở nhiều địa phương ven biển,
bên cạnh một số lợi ích kinh tế cục bộ, đã xuất hiện những bất cập về môi trường sinh
thái và tính bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Nhiều quy hoạch tổng thể và cụ thể bị
phá vỡ do tình trạng các hộ nông dân tự phát chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Vấn
đề trồng cây gì, nuôi con gì để có thu nhập cao và ổn định phù hợp với quy hoạch chung
của từng vùng và địa phương không thể do từng hộ nông dân riêng lẻ tiến hành tự phát,
vô tổ chức, mà nhất thiết phải do Nhà nước định hướng và các HTXNN tổ chức, hướng
dẫn hộ nông dân thực hiện. Do vậy, phát triển kinh tế hợp tác, nhất là HTXNN kiểu mới
là đòi hỏi khách quan của các hộ nông dân trong thời kỳ CNH, HĐH và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sau khi ruộng đất được giao cho hộ sử
dụng lâu dài và hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ.
1.2.3. Đặc điểm về tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình hiện nay và
nhu cầu tham gia hợp tác xã của người lao động, hộ sản xuất kinh doanh trong nông
nghiệp
Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức quản lý trong sản xuất nông
nghiệp, Thái Bình đã thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988), Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VII (1993), hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ,
được nhận ruộng đất ổn định, lâu dài và hưởng 5 quyền gắn với ruộng đất, đó là: quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê. Các tư liêu sản xuất khác mà tập
thể quản lý sử dụng không hiệu quả, đã được hóa giá, bán lại cho hộ xã viên. HTXNN từ
chỗ hỗ trợ chỉ đạo, điều hành trực tiếp kế hoạch sản xuất, chuyển sang hướng dẫn sản
xuất, làm dịch vụ cho hộ xã viên. Hộ xã viên tự bố trí sản xuất, kinh doanh, tự do lao
động, mua vật tư, thuê dịch vụ, bán sản phẩm và quan hệ với HTXNN bình đẳng thông
qua hợp đồng kinh tế. Do vậy, đã phát huy được tính năng động, sáng tạo của kinh tế hộ.
Theo số liệu thống kê năm 2004, Thái Bình có 476.225 hộ sản xuất nông nghiệp. Kinh tế
hộ có xu hướng phát triển mạnh mẽ và tương đối đồng đều, đời sống nhân dân được cải
thiện nhanh.
Theo thống kê phong trào làm kinh tế VAC của tỉnh từ năm 2000 đến nay, toàn
tỉnh đã tập trung cải tạo được 4.574 ha vườn, phá bỏ cây tạp đưa vào trồng các giống cây
mới thích hợp có năng suất và chất lượng tốt hơn. Một số cây trồng đã thực sự phát huy
hiệu quả như nhãn, vải, xoài, cam… Từ năm 2000 đến nay, toàn tỉnh đã trồng được 6
triệu cây ăn quả các loại, tổng giá trị thu nhập từ kinh tế vườn năm 2005 đạt 249,402 tỷ
đồng, tăng 43,8% so với năm 2000, bình quân đạt trên 33 triệu đồng/ha vườn/năm. Năm
2005 thu của kinh tế hộ từ làm vườn chiếm tỷ trọng 20% tổng thu nhập từ sản xuất nông
nghiệp của kinh tế hộ gia đình.
Kết quả sản xuất kinh doanh làm giàu của kinh tế hộ trong những năm qua đã
xuất hiện nhiều hộ giỏi trên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Toàn tỉnh đã có 158.889 hộ
(bằng 33,36% tổng số hộ) đăng ký phấn đấu kinh doanh sản xuất giỏi; số được công nhận
để suy tôn: hộ sản xuất kinh doanh giỏi từ cấp xã trở lên là 85.548 hộ, bằng 53,8% tổng
số hộ đăng ký, trong đó:
- Giỏi về kinh tế đồng ruộng: 51.380 hộ (bằng 60% số hộ giỏi);
- Giỏi về kinh tế VAC: 32.422 hộ (bằng 37%);
- Giỏi về kinh tế tiểu thủ CN và dịch vụ:v1.476 hộ (bằng 2,1%) [34].
Nâm 1993, Nhà nước có Luật đất đai, thực hiện Nghị định 64/CP về giao đất ổn
định lâu dài, nhiều hộ nhân dân đã chuyển sang sản xuất theo hình thức kinh tế trang trại.
Qua khảo sát điều tra 120 trang trại (theo tư liệu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) trong đó:
- Trang trại trồng trọt có 14, bình quân diện tích mỗi trang trại là 1,54 ha, trong đó
trang trại lớn nhất là 7 ha.
- Trang trại chăn nuôi có 43, bình quân số đầu con một trang trại nuôi lợn là 92
con, trang trại có số đầu con lớn nhất là 142 con, trang trại gia cầm (nuôi gà công nghiệp)
số đầu con bình quân là 1.480 con.
Bình quân vốn của một trang trại là 95 triệu đồng. Trong đó vốn cố định là: 54
triệu đồng, vốn lưu động là 41 triệu đồng, vốn đi vay là 17 triệu đồng (vốn vay chủ yếu
phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh).
Lao động của trang trại bình quân là 13 người; trong đó, lao động thường xuyên
là 5 người, lao động thời vụ là 7 người [34].
Thu nhập bình quân một lao động là 462.000đ/tháng. Hiện nay hình thức kinh tế
trang trại đang tiếp tục phát triển về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia,
nhưng chủ yếu vẫn là kinh tế trang trại hộ nông dân đang là xã viên HTXNN. Hầu hết các
trang trại có quy mô diện tích đất đai dưới mức hạn điền, lao động trong gia đình là chủ
yếu. Sự phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác nguồn vốn trong nông dân, mở
rộng đất đai, mặt nước đưa vào sản xuất, nhất là đất ven biển, ven sông lớn…, tạo thêm
việc làm cho người lao động, tăng thêm nông sản hàng hóa, góp phần xóa đói, giảm
nghèo, phát triển nông nghiệp bền vững, khuyến khích làm giàu, xây dựng nông thôn
mới. Kinh tế trang trại phát triển sẽ tạo ra mô hình HTX dịch vụ tiêu thụ sản phẩm ra đời.
Như vậy, từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương xác định hộ là đơn vị kinh tế tự
chủ, được trao quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh; tồn tại, phát triển lâu dài trong quá
trình CNH, HĐH đất nước; kinh tế hộ đang trở thành những chủ thể kinh tế chủ yếu, có
vai trò quyết định đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tỉnh.
Tuy nhiên, do quá trình xã hội hóa sản xuất diễn ra ngày càng sâu rộng, kinh tế hộ
đã dần dần bộc lộ những hạn chế làm cản trở sự phát triển; đó là:
+ Nguồn lực sản xuất như đất đai, vốn hạn hẹp, quy mô sản xuất nhỏ bé, manh
mún. Theo số liệu thống kê năm 2001, diện tích đất nông nghiệp tính bình quân cho một
nhân khẩu ở Thái Bình là 590 m2/người. Vốn tự có đầu tư vào sản xuất rất hạn hẹp, phần
lớn nông hộ mới chỉ đầu tư theo chiều rộng, chưa có khả năng thâm canh, chuyên canh,
nâng cao chất lượng sản phẩm.
+ Lao động thủ công vẫn là phổ biến, năng suất lao động thấp. Đây cũng là
nguyên nhân quan trọng gây lên nghèo đói ở nông thôn. Nguồn lao động nông thôn trên
địa bàn tỉnh ngày càng gia tăng nên nạn thiếu việc làm cũng tăng. Việc thuê mướn lao
động chủ yếu theo thỏa thuận riêng giữa người làm thuê và người đi thuê, nhưng do cung
về lao động lớn hơn cầu, nên người làm thuê thường bị trả công thấp.
+ Quy mô thị trường địa phương hạn hẹp, hệ thống thông tin thị trường kém phát
triển, phần lớn hộ nông dân chưa nắm được kịp thời thông tin, chưa tiếp cận được thị
trường trong và ngoài nước, sức cạnh tranh của hàng hóa thấp, nên còn chịu thua thiệt do
biến động bất thường của giá cả hàng hóa trên thị trường và bị các đầu nậu, thương nhân
chèn ép.
+ Trình độ văn hóa của đa số nông dân còn thấp, chậm tiếp thu các thành tựu của
KHCN và kinh tế thị trường. Hiện nay, lao động trong tỉnh mới có 23,5% qua đào tạo,
76,5% lao động chưa qua đào tạo chủ yếu là lao động nông nghiệp tập trung ở khu vực
nông thôn [5, tr. 14].
Từ những hạn chế phân tích trên, kinh tế nông hộ cả nước nói chung và Thái
Bình nói riêng đòi hỏi phải có những hình thức hợp tác nhất định phù hợp với kinh tế thị
trường. Kinh tế hộ tùy theo từng ngành nghề mà có yêu cầu mức độ dịch vụ khác nhau,
nhưng đều có nhu cầu cơ bản về các hình thức dịch vụ như: cung ứng vật tư, điện, nước,
phòng trừ sâu bệnh, tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ bản, sửa chữa máy móc thiết
bị, bao tiêu sản phẩm, tìm kiếm thị trường… có thể khẳng định kinh tế hộ là cơ sở tồn tại
cho các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay.
Theo số liệu điều tra 536 hộ nông dân ở 22 HTXNN thuộc 8 huyện, thành phố về
nhu cầu của nông dân với HTX có 536/536 ý kiến (100%) số người được hỏi đề nghị
HTX phải làm dịch vụ tưới tiêu nước; 534 ý kiến (99,6%) đề nghị HTX làm dịch vụ
BVTV; 384 ý kiến (71,64%) đề nghị công tác tiêm phòng gia súc, gia cầm giao cho ủy
ban nhân dân (UBND) xã vì đã có ban chăn nuôi thú y trực thuộc UBND xã; 529 ý kiến
(98,6%) đề nghị HTX làm dịch vụ khoa học kỹ thuật; 466 ý kiến (86,9%) đề nghị HTX
làm dịch vụ bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho xã viên; 439 ý kiến (81,9%) đề
nghị HTX làm dịch vụ tín dụng nội bộ để huy động vốn và cho xã viên vay vốn; 351 ý
kiến (65,4%) đề nghị HTX mở thêm dịch vụ làm đất; 514 ý kiến (95,9%) đề nghị HTX
làm dịch vụ cung ứng đạm, lân, kali, thuốc bảo vệ thực vật cho nông dân…[35].
Qua phân tích đặc điểm về tổ chức sản xuất nông nghiệp và kết quả điều tra cho
chúng ta thấy, Thái Bình muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiêp theo hướng sản xuất
hàng hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thì tất yếu phải
phát triển mạnh HTXNN kiểu mới.
Kết luận chương 1
Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con
người. Tuy nhiên, tùy từng lĩnh vực hoạt động và trình độ phát triển mà xác định hình
thức và trình độ hợp tác tương ứng. Đặc trưng của lĩnh vực nông nghiệp là sản xuất gắn
liền với cơ thể sống mà sự tồn tại và phát triển của nó tuân theo các quy luật sinh học. Do
vậy, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, diễn ra ngoài trời trên không gian rộng lớn,
chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên; quá trình sản xuất trong nông nghiệp được phân
chia làm nhiều khâu trong đó có những khâu cần thiết phải có sự hợp tác lao động song
cũng có khâu từng người làm riêng rẽ sẽ hiệu quả hơn. Vì vậy, hợp tác trong nông nghiệp
là hợp tác từng khâu, từng công việc, từng thời kỳ và tùy vào điều kiện, hoàn cảnh và môi
trường sản xuất - kinh doanh. Đó là cơ sở kinh tế - kỹ thuật để lựa chọn và xây dựng mô
hình HTXNN kiểu mới theo Luật HTX (năm 1996) và Luật HTX sửa đổi bổ sung (năm
2003).
Khi kinh tế hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ thì việc phát
triển HTXNN là tất yếu khách quan để phát huy tính chủ động sáng tạo, khai thác tối đa
tiềm năng phát triển của nông nghiệp, nông dân và nông thôn; giúp kinh tế hộ nông dân
giải quyết có hiệu quả các nhu cầu của sản xuất kinh doanh và đời sống để phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa lớn trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế. Do vậy, việc tổ chức lại sản xuất, củng cố, nâng cao chất lượng và tạo điều
kiện hơn nữa cho HTXNN kiểu mới ở Thái Bình phát triển và phát huy tác dụng là yêu
cầu vừa có tính cấp bách trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải nghiên cứu, đánh giá
đúng thực trạng HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, làm rõ nguyên nhân của nhưng yếu
kém tồn tại để có các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy HTXNN phát triển.
Chương 2
Thực trạng Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
ở Thái Bình từ 1997 đến 2005
2.1. Tình hình chuyển đổi và phát triển hợp tác xã nông nghiệp theo Luật
hợp tác xã (1996) và Luật hợp tác xã sửa đổi (năm 2003) ở Thái Bình
Sau khi có Chỉ thị 68-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 24-5-1996
về phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã có Thông báo số 03, ngày 20-7-1996 về "đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp". Tỉnh thành lập Ban chỉ đạo,
giao cho Ban Kinh tế Tỉnh ủy, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng một số ban,
ngành liên quan làm thí điểm chuyển đổi 14 HTXNN trên phạm vi toàn tỉnh. Như vậy,
việc chuyển đổi 14 HTX nói trên được tiến hành trước khi có Luật HTX, nhưng trong
quá trình thực hiện đã điều chỉnh theo luật, nghị định và các hướng dẫn của Chính phủ và
các bộ, ngành Trung ương.
Tháng 7 năm 2000, UBND tỉnh Thái Bình đã tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả
thí điểm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của HTXNN và chuyển đổi HTXNN
theo Luật HTX. Từ kết quả thí điểm ở 14 HTX đối chiếu với Luật HTX, Nghị định
16/CP, Nghị định 43/CP của Chính phủ thì mô hình HTXNN ở Thái Bình là: HTX dịch
vụ nông nghiệp, xóa bỏ thu quỹ theo đầu sào, bầu Ban quản trị, xã viên tự nguyện gia
nhập và góp cổ phần; HTX tổ chức dịch vụ khâu nào thì thanh toán theo khâu đó trên cơ
sở định mức kinh tế kỹ thuật [46]. Trên cơ sở kết quả thí điểm, UBND tỉnh Thái Bình đã
có chủ trương, xây dựng kế hoạch chuyển đổi toàn bộ các HTXNN theo Luật HTX.
Sau 5 năm chuyển đổi và phát triển HTXNN theo Luật HTX (1996) và Luật
HTX sửa đổi (năm 2003), ở Thái Bình hiện nay có 321 HTXNN, trong đó có 315 HTX
đã chuyển đổi theo luật, 3 HTX mới thành lập (HTX chăn nuôi Đông Kinh, HTX giống
cây trồng Vũ Chính, hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm), 3 HTX chưa chuyển đổi: HTX Thụy
Việt (huyệnThái Thụy), HTX Chi Lăng, HTX Hòa Bình (huyện Hưng Hà).
Trong 315 HTX đã chuyển đổi theo luật:
- Phân loại theo quy mô có:
+ 250 HTX quy mô xã;
+ 17 HTX quy mô liên thôn;
+ 48 HTX quy mô thôn.
- Phân loại theo lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh có:
+ HTX dịch vụ nông nghiệp: 305 HTX;
+ Sản xuất kinh doanh tổng hợp: 6 HTX;
+ Sản xuất chuyên ngành: 4 HTX [35].
2.1.1. Hợp tác xã chuyển đổi theo luật
* Xã viên HTX:
Tất cả các HTX chuyển đổi đã xác định xã viên là hộ gia đình, hộ cử người đại
diện đăng ký là xã viên HTX. Tổng số hộ nông dân trên địa bàn HTX là 476.225 hộ, số
hộ xã viên bình quân 1 HTX là 1.512 hộ/1 HTX. Toàn tỉnh, số hộ xã viên đăng ký lại đạt
98,9% (huyện Quỳnh Phụ 99,8%, Vũ Thư 99,4%, Đông Hưng 99,2%; các huyện khác tỷ
lệ đăng ký đạt 95 - 97%, thành phố đạt tỷ lệ 89,98%).
* Tổ chức trong các HTX:
- Cán bộ HTX quy mô xã có từ 4 - 8 người; HTX quy mô thôn, liên thôn có 4
người: chủ nhiệm, cán bộ kiểm soát, kế toán, thủ kho kiêm thủ quỹ. HTX quy mô diện
tích trên 300 ha và có 6 dịch vụ trở lên, bộ máy cán bộ HTX có 7 người gồm: chủ nhiệm,
phó chủ nhiệm, ủy viên ban quản trị, kế toán trưởng, kế toán viên (1 người), thủ kho kiêm
thủ quỹ, 1 đến 2 cán bộ kiểm soát. Có 37/315 HTX thành lập hội đồng quản trị. Phần lớn
số HTX cán bộ có 5 người, gồm: chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, cán bộ kiểm soát, kế toán
trưởng, thủ kho kiêm thủ quỹ.
- Góp vốn trách nhiệm: chủ nhiệm HTX góp vốn từ 1- 2 triệu đồng; phó chủ
nhiệm, cán bộ kiểm soát, kế toán trưởng HTX góp từ 0,7 - 1,5 triệu đồng; cán bộ chuyên
môn góp từ 0,5 - 1 triệu đồng; người lao động trong các tổ chức dịch vụ góp từ 200 - 700
ngàn đồng (HTX Thụy Thanh, huyện Thái Thụy, chủ nhiệm HTX góp 5 triệu đồng; phó
chủ nhiệm, trưởng ban kiểm soát, kế toán trưởng góp 4 triệu đồng). Cá biệt còn một số
HTX, cán bộ và người làm dịch vụ chưa góp vốn trách nhiệm.
- Vốn điều lệ bình quân 1 HTX là 462.208 ngàn đồng. Vốn góp tối thiểu bình
quân xã viên là 389 ngàn đồng. Vốn góp lớn nhất bình quân xã viên là 1.413 ngàn đồng
(số liệu được tính bình quân theo từng huyện, thành phố).
* Vốn, quỹ của HTX đến 31/12/2005 (tài sản, vốn, quỹ, công nợ trong HTX đã
được kiểm kê, đánh giá theo giá trị thực tế):
- Tổng số vốn hoạt động bình quân 1 HTX có:1.043.487 ngàn đồng.
- Nguồn vốn tự có của HTX: 804.179 ngàn đồng.
Trong đó:
+ Nguồn vốn kinh doanh: 702.117 ngàn đồng;
+ Quỹ HTX: 92.004 ngàn đồng;
+ Lãi chưa phân phối: 10.058 ngàn đồng;
+ Các khoản phải trả bình quân 1 HTX: 239.308 ngàn đồng.
Sau 5 năm chuyển đổi, vốn, quỹ bình quân của 1 HTX tăng 39,59% (tăng
240.087 ngàn đồng). Trong đó, vốn cố định tăng 49,1% vốn lưu động tăng 10,77% [34].
Vốn cố định tăng chủ yếu là vốn Nhà nước hỗ trợ cứng hóa kênh mương và giá
trị tài sản điện sáng do UBND xã chuyển sang (Nhà nước hỗ trợ tiền cứng hóa kênh
mương do UBND xã làm chủ đầu tư. Khi công trình hoàn thành, UBND xã bàn giao cho
HTX đưa vào sử dụng. Nhưng một số xã không bàn giao giá trị tài sản cho HTX quản lý
nên số tiền tăng trên không thể hiện đúng thực tế về tổng số vốn Nhà nước đã hỗ trợ về
cứng hóa kênh mương).
Số phải thu bình quân 1 HTX tăng 19,26% so với năm 2001 (năm 2001, bình
quân nợ phải thu của HTX là 296.000 nghìn đồng, đến 31/12/2005 là 352.005 nghìn
đồng).
Các khoản phải trả bình quân 1 HTX tăng 15,59% so với năm 2001 (năm 2001,
các khoản phải trả = 207.020 ngàn đồng, năm 2005 = 239.308 ngàn đồng).
Doanh thu bình quân 1 HTX đạt 878.660 ngàn đồng (toàn tỉnh có 6 HTX doanh
thu đạt trên 2 tỷ đồng; doanh thu từ 1,5 tỷ đến 2 tỷ đồng có 26 HTX; doanh thu từ 1 đến
1,5 tỷ có 66 HTX; có 7 HTX ở huyện Thái Thụy doanh thu dưới 100 triệu đồng).
Bình quân 1 HTX thực lãi 28.619 ngàn đồng. Có 4 HTX lãi trên 100 triệu đồng
(HTX Thái Thịnh - Thái Thụy lãi 138 triệu đồng, HTX Nguyên Xá - Vũ Thư lãi 124 triệu
đồng, HTX An Ninh - Tiền Hải lãi 120 triệu đồng, HTX Thống Nhất, An Khê - Quỳnh
Phụ lãi 105 triệu đồng, có 9 HTX lãi trên 40 triệu đồng).
Toàn tỉnh có 34 HTX bị lỗ (HTX Vĩnh Thắng - Thành phố lỗ 39.618 ngàn đồng,
HTX Dũng Nghĩa - Vũ Thư lỗ 17.058 ngàn đồng, HTX Vũ Thắng - Kiến Xương lỗ 17.797
ngàn đồng) [34].
* Kết quả hoạt động của các khâu dịch vụ:
Toàn tỉnh có 15 HTX làm được 8 khâu dịch vụ (chiếm 5,6% số HTX kinh doanh
tổng hợp), 53 HTX làm được 7 khâu dịch vụ (chiếm 19,78%), 103 HTX làm được 6 khâu
dịch vụ (chiếm 38,43%), 68 HTX làm được 5 khâu dịch vụ (chiếm 25,37%), 22 HTX làm
được 4 khâu dịch vụ (chiếm 8,21%), 6 HTX làm được 3 khâu dịch vụ, 1 HTX làm được 2
khâu dịch vụ [34].
- Dịch vụ tưới, tiêu nước:
Có 309/315 HTX(98,1%) làm dịch vụ tưới, tiêu nước. Các HTX đã xây dựng
định mức kinh tế kỹ thuật, từ việc bảo quản máy, vận hành, sửa chữa tài sản cố định (kể
cả phụ tùng thay thế), khấu hao tài sản cố định, chi phí điện năng, nhiên liệu, sửa chữa
kênh mương, dẫn nước, giữ nước, tiêu nước khi úng… cho cả chu kỳ sinh trưởng của cây
trồng. Bình quân toàn tỉnh, định mức thu dịch vụ tưới, tiêu nước là 17,06 kg/sào/năm.
Huyện có mức thu bình quân cao là Đông Hưng: 18,84 kg, Hưng Hà: 18,21 kg (HTX có
mức thu cao là Đô Lương - Đông Hưng: 24,36kg/sào/năm). Huyện có mức thu bình quân
thấp là Kiến Xương 15,19 kg/sào (HTX có mức thu thấp là Tu Trình - Thái Thụy: 6,72
kg; Đức Long - Vũ Thư: 6,2 kg). Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật, các HTX đã giao
khoán cho tổ thủy nông trên cơ sở nội quy hoạt động cụ thể: xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng thành viên trong tổ; quy định rõ trách nhiệm của hộ xã viên và ban
quản lý HTX. Doanh số hoạt động dịch vụ thủy nông bình quân 1 HTX đạt 270.460 ngàn
đồng; có 185/309 HTX (59,87%) tiết kiệm được chi phí; bình quân 1 HTX tiết kiệm được
3.142 ngàn đồng (HTX có mức tiết kiệm chi phí cao là Thụy Sơn - Thái Thụy: 42 triệu
đồng, Nam Thịnh - Tiền Hải: 40 triệu đồng, Trà Giang - Kiến Xương: 34,9 triệu đồng)
[34].
Toàn tỉnh có 81 HTX (chiếm 26,2% số HTX làm dịch vụ tưới tiêu nước) do lên
định mức kinh tế kỹ thuật thấp, dẫn đến thu không đủ chi phí và không trích được khấu
hao tài sản cố định. Định mức trả công cho người làm dịch vụ thủy nông thấp, nhất là
phần nạo vét kênh mương (thu 3 - 4 kg thóc/công) nên khi thực hiện trả công theo định
mức không có người làm; HTX phải căn cứ vào số tiền thu được để điều công làm theo
giá thỏa thuận nên việc sửa chữa, tu bổ hệ thống kênh tưới tiêu nước không đảm bảo theo
kế hoạch đề ra. Đầu năm 2006, đa số các HTX tổ chức đại hội đại biểu xã viên đều điều
chỉnh định mức kinh tế kỹ thuật trên cơ sở tính đúng, tính đủ các khoản chi phí cho các
khâu dịch vụ.
- Dịch vụ bảo vệ thực vật và khoa học kỹ thuật:
Có 313/315 (99,4%) HTX thành lập tổ dịch vụ bảo vệ thực vật gắn với công tác
k. Tổ dịch vụ bảo vệ thực vật - khoa học kỹ thuật làm nhiệm vụ điều tra, phát hiện sâu
bệnh, hướng dẫn xã viên phòng trừ, tập huấn về khoa học kỹ thuật, quy trình công nghệ
trồng trọt, chân nuôi, nuôi trồng thủy sản cho hộ xã viên. Hiện nay đã có 230 HTX làm
tốt khâu dịch vụ bảo vệ thực vật, 236 HTX làm tốt dịch vụ khoa học kỹ thuật nên năng
suất cây trồng được ổn định và phát triển. Còn 5 HTX chi quá định mức về dịch vụ khoa
học kỹ thuật, bình quân 1 HTX chi quá 2.533 ngàn đồng (HTX Thái Thuần - Thái Thụy
chi quá 24.394 ngàn đồng, Thái Hà - Thái Thụy là 23.146 ngàn đồng, Tây Giang - Tiền
Hải là 16.491 ngàn đồng) [34].
- Dịch vụ thú y:
Có 263 HTX (83,5%) làm dịch vụ thú y, nhưng phần lớn các HTX chưa làm tốt
dịch vụ này; có tới 69 HTX phải lấy quỹ bù vào dịch vụ thú y. Nguyên nhân chính là hộ
chăn nuôi không tiêm phòng, vì họ không hiểu về tác dụng của tiêm phòng và tác hại khi
gia súc, gia cầm mắc bệnh; họ cho rằng tiêm phòng chưa có tác dụng mà phải trả tiền trực
tiếp theo đầu gia súc, gia cầm. Trong khi đó, việc tuyên truyền, hướng dẫn về công tác
tiêm phòng rất hạn chế; nhân viên thú y không có phụ cấp trách nhiệm; UBND xã phó
mặc cho ban thú y và HTX thực hiện nên việc tiêm phòng đạt kết quả thấp. HTX thường
chỉ tiến hành tuyên truyền, khuyến cáo công tác tiêm phòng gia súc, gia cầm là chính, tỷ
lệ tiêm phòng thấp. UBND xã không nhắc nhở, xử phạt hộ gia đình chăn nuôi nhưng
không tiêm phòng theo quy định của Pháp lệnh thú y. Công tác tiêm phòng chưa được sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng ở cơ sở nên nhiều hộ đảng viên có tham gia
chăn nuôi nhưng cũng không gương mẫu chấp hành. Qua khảo sát, điều tra thực tế cho
thấy, những nơi HTX làm dịch vụ tiêm phòng tốt đều có sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy
Đảng, mọi đảng viên gương mẫu chấp hành và có sự chỉ đạo trực tiếp của UBND xã theo
quy định của Pháp lệnh thú y. Tháng 2/2005, UBND tỉnh đã có quyết định thành lập Ban
chăn nuôi thú y xã, các xã đang tổ chức thực hiện để khắc phục những hạn chế của công
tác thú y đã nêu trên, nhưng đến nay vẫn chưa thấy có chuyển biến tích cực. Dịch vụ này
nên giao cho Ban chăn nuôi thú y xã thực hiện gắn với việc mở rộng chức năng, nhiệm
vụ của UBND xã theo quy định của Pháp lệnh thú y.
- Dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp:
Có 252/315 HTX dịch vụ tổng hợp (chiếm 80%) cung ứng được 35% đến 80%
nhu cầu về thuốc bảo vệ thực vật và từ 25% - 60% nhu cầu về đạm, lân, kali cho hộ xã
viên. Phần lớn số HTX đã ký hợp đồng với các công ty theo hình thức trả chậm, một
phần vì không có vốn, phần khác vì muốn gắn trách nhiệm giữa công ty, HTX với hộ xã
viên. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tiền Hải đã tổ chức cho các
HTX ký hợp đồng trực tiếp với công ty sản xuất chế biến phân bón, cung ứng và tổ chức
tập huấn cho xã viên kỹ thuật bón phân cho từng loại cây trồng, tạo ra tập quán bón phân
đa sinh dưỡng thay cho phân bón đơn.
Toàn tỉnh có 141 HTX làm dịch vụ cung ứng giống lúa cho xã viên; trong đó có
19 HTX ký hợp đồng sản xuất giống cho Công ty Giống cây trồng của tỉnh với khối
lượng hàng năm khoảng 4.200 tấn lúa giống, 350 tấn giống mầu. Công ty chịu trách
nhiệm về đầu tư giống và trực tiếp phụ trách kỹ thuật nhân giống, chọn giống và mua sản
phẩm giống của HTX. Một số HTX ký hợp đồng với Công ty giống để cung ứng giống
cho xã viên.
Theo kết quả điều tra, có 250 HTX làm dịch vụ cung ứng vật tư có lãi, chỉ có 2
HTX bị lỗ 3,5 triệu đồng, HTX phải trích quỹ ra bù [34].
- Dịch vụ điện sáng:
Trước tháng 8/2003, có 15 HTX đã tổ chức dịch vụ cung ứng điện sáng cho hộ
nông dân. Thực hiện Quyết định của UBND tỉnh về việc chuyển giao công tác quản lý,
kinh doanh điện sáng của UBND xã cho các HTXNN, đến nay toàn tỉnh đã có 225
HTX(71,4%) làm dịch vụ điện sáng. HTX thành lập tổ dịch vụ điện sáng, xây dựng định
mức kinh tế kỹ thuật có khấu hao tài sản, sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn hệ thống
đường điện. Phần lớn số HTX lên giá thu thấp hơn giá chỉ đạo của điện lực tỉnh. Theo báo
cáo của Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện, thành phố, HTX làm dịch
vụ điện năng đã quản lý và điều hành tốt, bảo đảm an toàn về điện. Ngoài việc trả công lao
động theo hợp đồng, mỗi năm HTX còn lãi từ 25 - 40 triệu đồng, những HTX có lãi cao như
HTX Tây Giang (Tiền Hải), Phú Sơn (Hưng Hà) [34].
- Dịch vụ huy động vốn và cho xã viên vay vốn (dịch vụ tín dụng nội bộ HTX):
Có 11 HTX đã huy động vốn của xã viên và vốn tự có của HTX cho hộ xã viên
vay để phát triển sản xuất với lãi suất hợp lý, được xã viên chấp nhận như HTX Bình
Định, Vũ An (Kiến Xương), HTX Kim Chung (Hưng Hà)…
- Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm:
Có 49 HTX làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm đã đầu tư kho lạnh, cửa hàng... để
phục vụ cho việc cung ứng giống chất lượng cao và tiêu thụ sản phẩm cho hộ xã viên.
Trong đó, có 37 HTX làm Dịch vụ có lãi, bình quân
1 HTX lãi 10 triệu đồng (HTX Thái Giang (Thái Thụy) lãi 87.608 ngàn đồng, HTX
Quang Trung (Kiến Xương) lãi 12.087 ngàn đồng, HTX Thanh Tân (Kiến Xương) lãi
6.976 ngàn đồng, HTX Thống Nhất (Quỳnh Phụ) lãi 49 triệu đồng, HTX An Ninh (Tiền
Hải) lãi 21 triệu đồng, HTX Nguyên Xá (Vũ Thư) lãi 31 triệu đồng). Các HTX tổ chức
dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, đã tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho hộ xã viên, khuyến
khích họ mở rộng, phát triển sản xuất; HTX có thêm lãi để trích quỹ, tăng vốn sản xuất
kinh doanh, tăng tiền công cho cán bộ HTX [34].
- Dịch vụ làm đất:
Toàn tỉnh có 20 HTX mở thêm dịch vụ làm đất như HTX Vũ An, HTX Quang
Bình (Kiến Xương); Vũ Vinh (Vũ Thư); Phong châu, Đông Phương (Đông Hưng);
Quỳnh Ngọc, Quỳnh Nguyên, Quỳnh Bảo, An Đồng, An Vinh (Quỳnh Phụ) bảo đảm
chất lượng, kịp thời vụ và mức thu giảm so với các hộ có máy làm đất từ 10 - 15%, được
xã viên đồng tình ủng hộ.
2.1.2. Hình thành mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo Luật Hợp tác
xã
* HTX chăn nuôi Đông Kinh: Đã tổ chức hội nghị thành lập tháng 10-2002. HTX gồm
70 hộ chăn nuôi trang trại, gia trại tự nguyện góp vốn, góp sức để thực hiện các dịch vụ
phục vụ phát triển chăn nuôi gồm: dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật, thức ăn chăn nuôi;
dịch vụ kỹ thuật nuôi dưỡng phòng trừ dịch bệnh; dịch vụ tiêu thụ sản phẩm. Tuy bước
đầu thành lập, cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền vốn còn nhiều khó khăn nhưng HTX đã cố
gắng đáp ứng nhu cầu của kinh tế hộ, tạo thuận lợi cho hộ nông dân phát triển chăn nuôi
lợn. Do hạn chế về năng lực cán bộ, thiếu vốn, không có cơ sở vật chất kỹ thuật nên HTX
hầu như không phát triển.
* HTX giống cây trồng xã Vũ Chính: Quy mô HTX lúc đầu có trên 200 hộ nông
dân tham gia. Trong quá trình thực hiện, các xã viên rút dần, đến nay còn 25 xã viên.
HTX đã thuê 1 vùng đất để sản xuất giống, 1 vùng đất để sản xuất hoa. HTX tổ chức sản
xuất, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm giống lúa, rau, khoai tây và trồng hoa. HTX bảo đảm
các điều kiện về vật tư cho sản xuất, là cầu nối giữa sản xuất với thị trường, bảo quản
giống, hướng dẫn biện pháp kỹ thuật sản xuất, cung ứng giống, kỹ thuật, vật tư phân bón,
tiêu thụ nông sản cho xã viên.
* HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình:
HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình là HTX chuyên ngành có quy mô
toàn tỉnh, nội dung dịch vụ của HTX bao gồm:
+ Dịch vụ cung ứng con giống;
+ Dịch vụ cung ứng thức ăn chăn nuôi;
+ Dịch vụ cung cấp thuốc thú y;
+ Dịch vụ kỹ thuật;
+ Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi.
Tuy mới thành lập từ tháng 10-2004, nhưng bước đầu HTX hoạt động có hiệu
quả; mỗi tháng cung ứng cho xã viên trong HTX từ 100 - 150 tấn thức ăn, tiêu thụ sản
phẩm chăn nuôi từ 120 đến 150 tấn/tháng.
Năm 2006, HTX xây dựng phương án mở rộng đối tượng phục vụ, mở rộng dịch
vụ tiêu thụ sản phẩm cho tất cả các hộ chăn nuôi trong tỉnh, phấn đấu cung ứng 3.000 -
3.500 tấn thức ăn/năm cho hộ chăn nuôi. Từng bước xây dựng xí nghiệp giết mổ, chế
biến thịt lợn với thương hiệu "thịt lợn sạch Thái Bình" để cung cấp cho siêu thị, nhà
hàng, trường học, khu công nghiệp ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh… [34].
2.2. Những ưu điểm và hạn chế cần khắc phục của hợp tác xã nông nghiệp
kiểu mới theo Luật Hợp tác xã sửa đổi (2003) ở Thái Bình
2.2.1. Những ưu điểm của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật Hợp
tác xã (2003) ở Thái Bình
Thứ nhất, các HTXNN chuyển đổi hoặc thành lập đã thể hiện được các nguyên
tắc cơ bản của HTX theo Luật. Các HTXNN đã chuyển từ điều hành sản xuất tập trung
sang hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân tự chủ; bước đầu đã đảm bảo nguyên tắc
thu đủ bù chi, kinh doanh có lãi hợp lý, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế hộ xã
viên, tăng trưởng kinh tế chung của địa phương, cộng đồng, không chỉ thuần túy thu lợi
nhuận cho HTX; quyền lợi và nghĩa vụ của xã viên và HTX được cụ thể hóa; mối quan
hệ giữa cấp ủy, chính quyền địa phương và HTX được đổi mới, phân công, phân cấp rõ
ràng hơn.
Bên cạnh chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ là chủ yếu, nhiều HTX đã mở rộng
phạm vi hoạt động sang sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác để tạo thêm việc làm,
tăng thu nhập cho xã viên, tăng tích lũy cho kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới.
Thứ hai, ổn định tổ chức bộ máy. Sau khi chuyển đổi, các HTXNN đã tổ chức lại
bộ máy quản lý theo hướng tinh giản số lượng các ban gián tiếp, tăng cường về chất
lượng đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu hoạt động dịch vụ, tạo lập tư cách pháp nhân
để tiến hành sản xuất - kinh doanh, kịp thời cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho kinh tế hộ.
Vốn, quỹ và cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTXNN được tăng cường về số lượng
và được quản lý chặt chẽ hơn. Vốn của HTX được hình thành từ nhiều nguồn: từ các
HTX cũ chuyển sang, từ sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, từ huy động vốn góp của xã
viên, từ vay ngân hàng…Tuy còn rất hạn chế, song các HTX đã có vốn ban đầu để hoạt
động dịch vụ.
Thứ ba, về định hướng hoạt động. Tuy có sự khác nhau về tên gọi, hình thức, quy
mô và phạm vi hoạt động nhưng tất cả các HTXNN đã chuyển đổi và thành lập mới trong
tỉnh đều lấy nội dung hoạt động chính là làm dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, phù hợp
với cơ chế thị trường và Luật HTX.
Nhiều HTXNN đã bước đầu xây dựng mô hình hoạt động và các phương án sản
xuất - kinh doanh đa dạng, phù hợp với các điều kiện thực tế về trình độ và đặc điểm sản
xuất của từng ngành, từng vùng; về kết cấu hạ tầng như hệ thống thủy nông, đường sá…;
về máy móc, lao động, vốn… nhằm đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khác nhau
một cách tốt nhất trong điều kiện hiện có của mình.
Các HTX đã tiến hành kiểm kê vốn quỹ, làm rõ công nợ, bước đầu thực hiện quy
chế dân chủ, công khai kinh tế nội bộ, xóa bỏ bao cấp, thực hiện hạch toán độc lập, lấy
thu từ hoạt động dịch vụ sản xuất và kinh doanh ngành nghề để chi cho bộ máy quản lý.
Các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá các khâu dịch vụ được các HTX xác định lại
hợp lý hơn.
Nét mới trong hoạt động kinh doanh của nhiều HTXNN là vừa bảo đảm nguyên
tắc lấy thu bù chi vừa tạo nền tảng phục vụ tăng trưởng chung của cộng đồng chứ không
chỉ kinh doanh thuần túy vì lợi nhuận của HTX. Vì vậy, sau vài năm chuyển đổi hoặc
thành lập mới theo Luật, mặc dù tỷ trọng kinh tế của các HTX hiện còn nhỏ và không còn
giữ vai trò trực tiếp tổ chức và điều hành sản xuất tập trung mà chuyển sang chức năng
làm dịch vụ, nhưng những tác động tích cực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển đã chứng minh
tính đúng đắn trong định hướng hoạt động của các HTXNN.
Thứ tư, nội dung hoạt động của các HTXNN đa dạng, phạm vi hoạt động được
mở rộng, chất lượng dịch vụ có tiến bộ. Hầu hết các HTXNN đã đảm nhiệm những dịch
vụ nông nghiệp có tính cộng đồng, trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Cùng với việc
cung ứng các dịch vụ, một số HTXNN kiểu mới đã mở rộng phạm vi hoạt động, kinh
doanh tổng hợp, trong đó có các hoạt động sản xuất như sản xuất giống, ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, nuôi trồng thủy sản…
Ví dụ: HTX chăn nuôi Đông Kinh (Đông Hưng); HTX giống cây trồng Vũ Chính
(thành phố); HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình.
Hầu hết các hoạt động dịch vụ do HTXNN kiểu mới đảm nhiệm đã thể hiện được
tính ưu việt của kinh tế tập thể như thủy nông, bảo vệ thực vật, khoa học kỹ thuật, giống
cho hộ xã viên. Kết quả khảo sát thực tế tại các HTXNN chuyển đổi và thành lập mới cho
thấy, phương thức và giá cả dịch vụ do HTXNN điều hành thuận tiện và thấp hơn dịch vụ
của tư nhân trên cùng địa bàn. Phỏng vấn 536 hộ nông dân ở 22 HTX thuộc 8 huyện,
thành phố năm 2005 cho thấy: 65% số người được hỏi cho rằng việc cung ứng giống cây
trồng, con vật nuôi, vốn phục vụ sản xuất, làm đất, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm
của HTX tốt hơn tư nhân, doanh nghiệp. Chỉ có 31 hộ (chiếm 5,78%) tự làm được một số
khâu dịch vụ; số hộ còn lại đề nghị cần phải có các thành phần kinh tế khác phục vụ [35].
Thứ năm, tỷ lệ HTXNN kinh doanh có lãi đã tăng dần. Tính chung cả tỉnh, năm
2005 có 266/315 (84,4%) HTX có lãi, bình quân 1 HTX lãi 28.619 nghìn đồng. Số HTX
lỗ là 34 HTX (10,7%), lỗ bình quân 1 HTX là 8.061 nghìn đồng [35]. Một số HTXNN có
vốn lớn, có đội ngũ cán bộ quản lý khá, am hiểu kinh tế thị trường đã mạnh dạn đầu tư
mở rộng phạm vi kinh doanh sang các địa phương và dịch vụ khác ở nông thôn như điện,
tín dụng, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, dịch vụ tiêu thụ nông sản, cung ứng vật
tư, hàng hóa… vừa phục vụ tốt nhu cầu kinh tế hộ vừa tạo thêm việc làm tăng thu nhập
cho HTX. Tính đến năm 2005, doanh thu bình quân 1 HTX đạt 878.660 ngàn đồng; có 6
HTX doanh thu đạt trên 2 tỷ đồng; 21 HTX doanh thu đạt từ 1,5 tỷ đến 2 tỷ đồng; 66
HTX doanh thu đạt từ 1 tỷ đến 1,5 tỷ đồng, cao hơn các năm trước [35].
Thứ sáu, thông qua hình thức cung cấp dịch vụ, các HTXNN thực sự đã bắt đầu
phát huy được vai trò "bà đỡ" cho kinh tế hộ phát triển. Tuy tỷ trọng kinh tế HTXNN
còn bé, vai trò tổ chức điều hành trực tiếp sản xuất nông nghiệp không còn nhiều, nhưng
vai trò "hậu cần" cho kinh tế hộ lại nổi lên khá rõ nét. Thực tế là ở địa phương nào
HTXNN phát triển thì các dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo về thực vật, giống cây trồng, vật
nuôi, cung ứng vật tư nông nghiệp và đặc biệt là ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất
nông nghiệp được thực hiện có tổ chức, đồng bộ và hiệu quả cao hơn so với những nơi
không có HTX. Tính tự phát, manh mún, mạnh ai lấy làm, cạnh tranh không lành mạnh,
chi phí dịch vụ cao, chất lượng giống cây trồng không đảm bảo, năng suất cây trồng, vật
nuôi thấp do làm ăn cá thể tạo ra được khắc phục hoặc hạn chế. Nhờ làm tốt dịch vụ cho
kinh tế hộ nên các HTXNN đã góp phần quan trọng trong phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xóa
đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới theo hường CNH, HĐH.
Thứ bảy, HTXNN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và
sản xuất nông nghiệp theo hướng tích cực. Mặc dù vị thế kinh tế còn yếu nhưng các
HTXNN đã đóng góp trực tiếp cũng như gián tiếp vào tăng trưởng chung về kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, đóng vai trò tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng,
vật nuôi, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên. HTXNN bước đầu đáp ứng được
nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp,
đổi mới phương thức kinh doanh, củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn. Các HTXNN đã
từng bước tổ chức cho hộ xã viên sản xuất theo quy hoạch và yêu cầu của thị trường,
hướng dẫn hộ nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất để tăng năng suất,
chất lượng và giảm chi phí, từ đó tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; qua đó đã
hạn chế được việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi một cách tự phát. Nhiều
HTXNN đã góp phần tích cực chỉ đạo phong trào "dồn điền, đổi thửa" để tiện lợi cho
khâu cơ giới hóa, thủy lợi hóa và chuyên canh cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất
hàng hóa. Sản xuất nông nghiệp ở các xã có HTXNN kiểu mới hoạt động tốt đã bước đầu
được chuyên môn hóa kết hợp thâm canh cao, tiện lợi cho các khâu canh tác và tiêu thụ
sản phẩm sau thu hoạch.
Ngoài ra, các HTXNN cũng đã góp phần khai thác được tiềm năng, thế mạnh của
các xã về nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường, huy động vốn nhàn rỗi trong dân…để
tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Thứ tám, mở rộng liên kết kinh tế trong nông nghiệp. Hầu hết các HTXNN kiểu mới
đã và đang định hình những mối liên kết kinh tế mới, chủ yếu làm cầu nối, liên kết giữa
các hộ nông dân với doanh nghiệp nhà nước (Công ty cổ phần giống cây trồng Thái Bình,
Công ty cổ phần giống chăn nuôi, Trung tâm khảo nghiệm - khuyến nông, các công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân…), cũng như liên kết kinh tế giữa các trang trại, gia
trại và các HTXNN với nhau để mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
dịch vụ nông nghiệp. Sau khi có Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về liên kết 4
nhà trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho hộ nông dân, vai trò và thế mạnh của HTXNN
càng thể hiện rõ và bước đầu đã được phát huy ở những vùng sản xuất nông sản hàng hóa
tập trung. HTX trở thành cầu nối giữa hộ nông dân sản xuất hàng hóa với các doanh
nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp.
Thứ chín, HTXNN góp phần tích cực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội ở
nông thôn. Đóng góp của HTXNN kiểu mới trong lĩnh vực xã hội là rõ nét, thể hiện trên
các mặt sau:
- HTX đã phát huy được tinh thần tương thân tương ái trong việc giúp nhau xóa đói,
giảm nghèo, góp phần giải quyết vấn đề mang tính kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Nhiều
HTXNN đã ứng trước không lấy lãi cho hộ xã viên nghèo khó khăn một số vật tư chủ yếu
như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, để họ phát triển sản xuất và đến vụ thu hoạch mới phải
trả. Nhiều hộ nghèo, hộ chính sách được ưu tiên vay vốn hoặc bố trí lao động tham gia các
hoạt động dịch vụ phù hợp với khả năng của họ để tăng thu nhập, đảm bảo đời sống ở mức
trung bình.
- Góp phần tạo thêm việc làm mới, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn, nâng
cao trình độ tay nghề cho lao động nông nghiệp; thực hiện các chương trình xóa đói,
giảm nghèo.
- Góp phần xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn như điện, đường, tr-
ường, trạm, nước sinh hoạt, nhà trẻ và các công trình phúc lợi khác.
- Xây dựng và phát triển các dịch vụ sinh hoạt cộng đồng, phòng chống tệ nạn xã
hội, xây dựng gia đình văn hóa, thôn làng văn hóa, tăng cường đoàn kết tình làng, nghĩa
xóm, phát huy dân chủ cơ sở…
Tất cả những việc làm đó của các HTXNN thời gian qua đã góp phần tích cực
làm đổi mới bộ mặt nông thôn Thái Bình. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn về doanh
thu và lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ còn nhỏ nhưng nhiều HTXNN đã phát huy vai
trò của kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới. HTXNN không dừng lại ở chủ trư-
ơng, hô hào hoặc dựa vào bao cấp của Nhà nước như trước đây mà thể hiện bằng việc
làm cụ thể trên cơ sở phát huy nội lực tại chỗ của HTX và bà con xã viên. Nguồn kinh
phí chủ yếu được trích từ thu nhập của các hoạt động dịch vụ của HTXNN, nguồn lao
động do xã viên đóng góp tự nguyện. Các phương thức cũ "bổ đầu sào", "đầu người" như
trước đây đã được khắc phục. Do vậy, ở những xã có HTXNN hoạt động hiệu quả, bộ
mặt nông thôn đổi mới nhanh, tình làng nghĩa xóm đậm đà và thắm thiết hơn nhiều so với
làm ăn cá thể "đèn nhà ai rạng nhà ấy".
Thứ mười, HTXNN kiểu mới góp phần củng cố chính quyền cơ sở ở nông thôn.
Việc chuyển đổi hoặc thành lập mới các HTXNN theo Luật đã góp phần phân định rõ
ràng hơn chức năng quản lý nhà nước của chính quyền xã, thôn, với các chức năng quản
lý, điều hành sản xuất - kinh doanh của các HTX. Chính quyền cơ sở có điều kiện tập
trung nhiều hơn cho công tác quản lý nhà nước trên địa bàn, đồng thời vai trò của Ban
chủ nhiệm và xã viên trong hoạt động của HTX đều được nâng cao, góp phần giữ vững
ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội nông thôn.
Tóm lại, những kết quả khởi sắc của HTXNN sau 5 năm thực hiện Luật HTX,
tuy mới chỉ là bước đầu, nhưng đã khẳng định được vai trò và vị trí tất yếu của nó trong
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nông thôn Thái Bình thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Các HTXNN chuyển đổi, thành lập mới đã thể hiện được các nguyên tắc cơ bản của HTX
theo Luật. Chuyển từ điều hành sản xuất sang hoạt động dịch vụ là sự chuyển đổi khó
khăn, nhưng đến nay hầu hết các HTXNN đã vượt qua khó khăn, mò mẫm, trở thành
những đơn vị kinh doanh dịch vụ độc lập, thích ứng với cơ chế thị trường và bước đầu
làm ăn có hiệu quả. Bên cạnh chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ là chủ yếu, nhiều HTX đã
mở rộng phạm vi hoạt động sang sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác để tạo thêm
việc làm tăng thu nhập cho xã viên, tăng tích lũy cho kinh tế tập thể và xây dựng nông
thôn mới. Nhiều mô hình mới, tiến bộ đã và đang xuất hiện và nhân rộng, trở thành
những hạt nhân tích cực góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa và chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tiến bộ.
2.2.2. Những hạn chế, yếu kém của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật
Hợp tác xã ở Thái Bình và nguyên nhân
2.2.2.1. Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những thành tựu là chủ yếu, sau khi chuyển đổi hoặc thành lập theo
Luật, nhiều mô hình HTXNN kiểu mới đã bộc lộ những khó khăn và hạn chế trong hoạt
động. Dưới đây là những biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất, hầu hết các HTXNN kiểu mới đều thiếu vốn, cơ sở v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay.pdf