Tài liệu Luận văn Tìm hiểu doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội: LUẬN VĂN:
Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN ở nước ta, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là bộ
phận chủ yếu. DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu trong ứng dụng khoa
học - công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội… DNNN
nói chung và DNNN hoạt động vì mục tiêu công ích (gọi tắt là doanh nghiệp công ích)
hoạt động theo các chính sách xã hội của nhà nước phục vụ cho lợi ích trực tiếp của toàn
xã hội hay lợi ích công cộng như: cung ứng hàng hóa công cộng (HHCC) theo kế hoạch
hay đơn đặt hàng của nhà nước như các hàng hóa về quốc phòng, an ninh, y tế công cộng
và văn hóa... Mặc dù nhóm hàng hóa công cộng được coi là hàng hóa đặc biệt này chiếm
tỷ trọng không lớn trong nền kinh tế nhưng nhà nước phải có những nguyên tắc quản lý
riêng do vai trò quan trọng và tính ...
108 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN ở nước ta, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là bộ
phận chủ yếu. DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu trong ứng dụng khoa
học - công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội… DNNN
nói chung và DNNN hoạt động vì mục tiêu công ích (gọi tắt là doanh nghiệp công ích)
hoạt động theo các chính sách xã hội của nhà nước phục vụ cho lợi ích trực tiếp của toàn
xã hội hay lợi ích công cộng như: cung ứng hàng hóa công cộng (HHCC) theo kế hoạch
hay đơn đặt hàng của nhà nước như các hàng hóa về quốc phòng, an ninh, y tế công cộng
và văn hóa... Mặc dù nhóm hàng hóa công cộng được coi là hàng hóa đặc biệt này chiếm
tỷ trọng không lớn trong nền kinh tế nhưng nhà nước phải có những nguyên tắc quản lý
riêng do vai trò quan trọng và tính đặc thù của nó đối với nền kinh tế. Những năm qua của
thời kỳ đổi mới, quá trình sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp công ích (DNCI) cho phù hợp
với yêu cầu phát triển của KTTT nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, DNCI đã có
những đóng góp đáng kể: kết cấu hạ tầng được cải thiện, góp phần đảm bảo những cân đối
lớn trong nền kinh tế ổn định và phát triển, giảm thiểu mức đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Ngày nay cùng với quá trình phát triển chung của đất nước, việc tăng trưởng kinh
tế với tốc độ cao và mức độ đô thị hóa ngày càng nhanh chóng của thành phố Hà Nội đang
đặt ra rất nhiều nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng phải tập
trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển, nâng cấp, cải tạo, đồng bộ và hiện đại hóa các công
trình hạ tầng giao thông công chính. Cung cấp kịp thời với chất lượng ngày càng tốt hơn
các dịch vụ, tiện ích công cộng cho mọi người.
DNNN mà đặc biệt là DNCI, trong quá trình chuyển sang KTTT đang phát sinh
nhiều bất cập như tình trạng đầu tư lớn nhưng kết quả kinh tế - xã hội không được như
mong muốn. Nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách đặt ra gây lúng túng trong công tác tổ
chức quản lý. Thậm chí DNCI còn bị đánh giá là khu vực kém hiệu quả nhất hiện nay.
Một số công trình trọng điểm triển khai chưa đạt yêu cầu so với tiến độ đặt ra. Những
công trình về dân sinh như cấp thoát nước, chiếu sáng, cải tạo và nâng cấp hạ tầng kỹ
thuật… triển khai còn chậm. Nhiều khu vực của thành phố thiếu nước sạch sinh hoạt, rác
tồn đọng ở các ngõ xóm, phế thải xây dựng còn chưa được thu dọn kịp thời, đường phố
còn bụi, vệ sinh nơi công cộng chưa đảm bảo. Công tác xử lý và phối hợp xử lý các vi
phạm chưa đạt yêu cầu, lãng phí điện, nước công cộng vẫn ở mức cao, dịch vụ vui chơi
giải trí chưa phát triển tương xứng với vị thế của Thủ đô.
Hà Nội là Thủ đô của cả nước, các DNCI chiếm một số lượng lớn, có vai trò, vị trí
trọng yếu trong việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích (SP, DVCI) với giá ưu đãi
(thấp hơn giá thành, ổn định trong thời gian dài) như: giao thông đô thị; cung cấp nước
sạch; đảm bảo tiêu thoát nước mưa, nước thải; thu gom chế biến rác thải và chất thải công
nghiệp, y tế; chiếu sáng công cộng; phát triển hệ thống các vườn hoa, cây xanh, công viên,
giải phân cách… Kết quả hoạt động của hệ thống DNCI đóng góp to lớn vào việc bình ổn
giá cả thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, người dân thực sự được hưởng lợi từ các SP,
DVCI và tạo ra diện mạo mới cho bộ mặt của Thủ đô.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH trước yêu cầu phát triển nhanh, vững chắc
đặt ra đối với DNCI những nhiệm vụ cấp bách. Yêu cầu ấy đòi hỏi phải đổi mới cách nhìn
nhận, đánh giá và có những giải pháp, chính sách cả vĩ mô, vi mô đối với các DNCI nói
chung và DNCI của Thủ đô Hà Nội nói riêng. Vì vậy vấn đề: " Doanh nghiệp công ích
trên địa bàn Hà Nội " được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn nhằm có cách nhìn
khách quan, khoa học đối với DNCI nói chung, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp thiết thực
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động DNCI trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về DNCI như:
"Thực trạng và những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích" của tác giả Nguyễn Trung Kiên. Đề tài đề cập đến
những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước; phân tích thực trạng quản lý nhà nước
DNCI trong 2 năm (1999 - 2000). Đồng thời đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước DNCI. "Những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác quản lý các
doanh nghiệp hoạt động công ích ngành Giao thông công chính Hà Nội" của tác giả Hoàng
Kim Hồng. Đề tài phân tích thực trạng hoạt động của các DNCI ngành Giao thông công
chính Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm, những thế mạnh cần phát huy và những tồn tại, hạn
chế trong hoạt động thực tiễn cần được điều chỉnh hoặc đổi mới phương thức hoạt động;
nhằm phát huy năng lực tiềm tàng của các doanh nghiệp và xã hội để các hoạt động trong
lĩnh vực này có hiệu quả cao. "Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả công tác kế hoạch đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - Cụm cảng
Hàng không miền Bắc" của tác giả Nguyễn Hữu Vinh. Đề tài phân tích công tác kế hoạch,
tổng kết thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh thời kỳ 1998 - 2002; phân tích đánh giá
tình hình quản lý điều hành kế hoạch và đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNCI - Cụm cảng Hàng không miền Bắc. "Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp
nhà nước hoạt động công ích ngành Văn hóa thông tin" của tác giả Nguyễn Danh Ngà. Đề
tài đề cập đến đổi mới cơ chế hoạt động của DNCI ngành văn hóa thông tin dưới giác độ
nghiên cứu của môn học Kinh tế phát triển.
Ngoài ra còn một số bài đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành về DNCI. Tuy
nhiên các công trình trên chủ yếu nghiên cứu các DNCI dưới góc độ là một bộ phận của
kinh tế nhà nước và chỉ ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Một số
tác giả có đề cập đến một ngành, lĩnh vực công ích cụ thể. Do giới hạn lịch sử, cách tiếp
cận KTTT đã có nhiều điểm còn hạn chế, các giải pháp không còn phù hợp với thực tiễn,
đòi hỏi phải được xem xét, bổ sung trong điều kiện mới. Việc nghiên cứu DNCI trong nền
KTTT định hướng XHCN qua khảo sát trên địa bàn Thủ đô Hà Nội là một hướng đi mới,
không trùng lắp với các đề tài, công trình đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu cơ sở lý luận về vị trí, vai trò, mô hình tổ chức và phương thức hoạt
động của DNCI trong nền KTTT. Đặc biệt làm rõ đặc điểm của DNCI ở nước ta và của
Thành phố Hà Nội trong phát triển KTTT định hướng XHCN thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH. Từ đó chỉ ra phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của
các DNCI Thành phố Hà Nội phù hợp với yêu cầu phát triển mới theo hướng ngày càng
thích nghi với yêu cầu của các quy luật KTTT và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã
hội.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ nội dung của DNCI nói chung, DNCI trong phát triển KTTT định hướng
XHCN.
Phân tích thực trạng hoạt động của các DNCI thành phố Hà Nội trong thời gian
qua, chỉ ra được thành tựu và vấn đề đặt ra trong thời kỳ mới đối với yêu cầu phát triển
Thủ đô, ngang tầm là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa, trái tim của cả nước, "Thành
phố vì hòa bình" theo tôn vinh của tổ chức UNESCO.
Đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các DNCI; dự báo xu hướng và cơ chế hoạt động, sắp xếp lại DNCI nhằm phát huy
hiệu quả của vốn đầu tư, nâng cao chất lượng phục vụ và kiến nghị những yêu cầu, những
vấn đề trước mắt phải giải quyết.
3.3. Giới hạn của luận văn
Luận văn không đề cập đến tất cả các DNCI trên địa bàn thành phố Hà Nội nói
chung mà tiếp cận chủ yếu các DNCI trong khu vực nội thành của Thủ đô Hà Nội và các
số liệu chủ yếu tập trung trong DNCI ngành Giao thông công chính.
Trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN, thực hiện nhiệm vụ đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, các số liệu minh họa chủ yếu thời kỳ đổi mới và tập trung từ
năm 2000 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời kế
thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên
quan đến nội dung này.
Luận văn vận dụng những phương pháp chung của kinh tế chính trị Mác - Lênin,
trong đó coi trọng phương pháp: kết hợp lôgic với lịch sử, phân tích, thống kê, so sánh,
tổng hợp. Sử dụng một số số liệu tại Niên giám thống kê nhà nước, Báo cáo tổng kết của
các sở, ngành Thành phố Hà Nội và các doanh nghiệp có liên quan.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về DNCI, vị trí, vai trò và đặc điểm
của DNCI trong phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Đề xuất được những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của các DNCI thành phố Hà Nội trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- ý nghĩa lý luận: thông qua việc nghiên cứu có tính chất hệ thống, khoa học quá
trình hình thành và phát triển DNNN nói chung, DNCI nói riêng trong các nền kinh tế qua
các thời kỳ từ đó thấy được vị trí, vai trò, đặc điểm của hệ thống DNCI ở nước ta. Đặc biệt
khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về DNCI trong phát triển KTTT định hướng XHCN
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- ý nghĩa thực tiễn: trên cơ sở những vấn đề lý luận được gợi mở, phân tích làm
căn cứ đánh giá khách quan, khoa học thực trạng hoạt động của các DNCI Thủ đô Hà Nội
trong những năm qua và dự báo xu hướng phát triển hệ thống doanh nghiệp này. Chỉ ra
những kết quả đạt được, đồng thời phân tích nguyên nhân của tình trạng trên. Đề xuất giải
pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả trước mắt và đảm bảo tính ổn định lâu dài
các DNCI của thành phố Hà Nội.
Làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ làm công tác quản lý thực tiễn các DNCI
của thành phố.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành, phát triển
các doanh nghiệp công ích
1.1. Quá trình hình thành các Doanh Nghiệp Công ích trong các nền kinh tế
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp công
ích
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
DNNN là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế nhà nước, tuy nhiên
chúng ta không nên hiểu đồng nhất khái niệm DNNN với kinh tế nhà nước. Quan niệm về
DNNN ở các quốc gia trên thế giới cũng có nhiều điểm không thống nhất với nhau. Ngay
ở Việt Nam, quan niệm về DNNN trong từng giai đoạn cũng có nhiều thay đổi, do đó còn
những điểm chưa thống nhất trong lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong quá trình sắp xếp,
đổi mới DNNN hiện nay.
Trước kia, khi đất nước ta còn tập trung tối đa sức người, sức của cho cuộc chiến
tranh giành độc lập tự do cho tổ quốc, Đảng ta chủ trương thực hiện cơ chế kế hoạch hóa
tập trung nền kinh tế, các xí nghiệp quốc doanh (ngày nay gọi là DNNN) chiếm vị trí
thống trị trong nền kinh tế.
Về mặt sở hữu, đó là các xí nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư 100% vốn (hoặc
từ nguồn viện trợ của các nước anh em trong hệ thống XHCN); do nhà nước trực tiếp quản
lý. Nhà nước cung cấp vật tư, nguyên liệu và các xí nghiệp sản xuất khi đó phải giao nộp
toàn bộ sản phẩm. Về phân phối, thực hiện chế độ phân phối hiện vật, theo định lượng do
nhà nước quy định.
Khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN, việc đổi mới cơ chế quản lý,
DNNN luôn dành được sự quan tâm đúng mức. Các DNNN không những thay đổi về
nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý, phương thức hạch toán mà còn thay đổi cơ cấu sở
hữu, ngoài ra còn xuất hiện một số hình thức sở hữu hỗn hợp. Luật DNNN ban hành ngày
30 tháng 3 năm 1995 lần đầu tiên tại nước ta đã đưa ra khái niệm về DNNN như sau:
DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp
quản lý.
Đến tháng 11 năm 2003, luật DNNN được điều chỉnh như sau: "DNNN là tổ chức
kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được
tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH".
1.1.1.2. Khái niệm doanh nghiệp công ích
Tại Nghị định số: 56/CP ngày 2/10/1996 của Chính phủ, DNCI được quan niệm
như sau: DNNN hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN là thành viên hạch toán
độc lập của tổng công ty nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc
sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước, do Nhà
nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định,
hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận. Đây là lần đầu tiên luật pháp Việt Nam
thừa nhận loại hình DNNN hoạt động công ích làm cơ sở để xác định phạm vi và cơ chế
quản lý các DNCI, là vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Trước đây, trong cơ chế "thu đủ,
chi đủ" không có sự khác nhau giữa doanh nghiệp kinh doanh và các DNCI chuyên sản
xuất các hàng hóa, dịch vụ công cộng nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường, sau khi
các DNNN chuyển sang nguyên tắc thương mại, trong một thời gian dài cả nhà nước và
các DNCI đều lúng túng về cơ chế quản lý.
Hiện nay, theo quan niệm mới tại Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005
của Chính phủ cho rằng: SP, DVCI là sản phẩm, dịch vụ thiết yếu đối với đời sống, kinh
tế, xã hội của đất nước, cộng đồng dân cư của một khu vực lãnh thổ hoặc đảm bảo quốc
phòng, an ninh mà việc sản xuất, cung cấp theo cơ chế thị trường thì khó có khả năng bù
đắp chi phí đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ này; do đó được
Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước quy định.
Đối với DNCI, trước đây do chưa xác định rõ tiêu chí DNNN hoạt động công ích
và SP, DVCI đã dẫn đến tình trạng mở rộng quá nhiều danh mục (có tới 30 nhóm sản
phẩm dịch vụ thuộc loại SP, DVCI), được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, làm cho số
DNNN làm nhiệm vụ công ích phát triển tràn lan, từ 617 doanh nghiệp (năm 1999) lên 732
doanh nghiệp (năm 2000), chiếm 12,8% tổng số DNNN. Hơn nữa, do không phân biệt việc
cung ứng các SP, DVCI với xếp loại doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích nên doanh
nghiệp làm nhiệm vụ công ích được bao cấp khá nhiều so với DNNN làm nhiệm vụ kinh
doanh. Khắc phục tình trạng trên, Nghị định số: 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của
Chính phủ đã quy định rõ danh mục SP, DVCI. Danh mục này không cố định mà căn cứ
vào tình hình thực tế, có thể điều chỉnh cho phù hợp. Ngoài phụ lục kèm theo, Nghị định
còn quy định rõ: "trong từng thời kỳ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ
quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc sửa đổi, bổ sung danh mục
SP, DVCI". Danh mục được chia làm ba loại theo thứ tự A, B, C; trong đó quy định rõ các
phương thức cung ứng SP, DVCI và nguyên tắc lựa chọn.
Đối với danh mục loại A, Nghị định ghi rõ: "Việc sản xuất và cung ứng các SP,
DVCI quy định tại danh mục A Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này do công ty nhà
nước đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, thực hiện theo phương thức đặt hàng
hoặc giao kế hoạch". Ví dụ như: sản xuất thuốc nổ, hóa chất phục vụ quốc phòng; sản xuất
chất phóng xạ; sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang thiết bị kỹ thuật cho quốc phòng an
ninh, trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật mật mã; in tài liệu, sách báo chính trị, quân sự chuyên
dùng cho quốc phòng an ninh; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với Danh mục sản phẩm loại B, Nghị định cho phép các DNCI thực hiện theo
phương thức đặt hàng (cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoặc hợp
tác xã), hoặc giao kế hoạch. Sản phẩm loại B gồm: in tiền, các chứng chỉ có giá và sản
xuất tiền bằng kim loại; dịch vụ điều hành bay; dịch vụ bảo đảm hàng hải; quản lý, bảo trì
đường sắt quốc gia; quản lý, bảo trì cảng hàng không; xuất bản sách giáo khoa, sách và tạp
chí phục vụ giảng dạy và học tập; xuất bản bản đồ, sách báo chính trị; xuất bản tạp chí,
tranh ảnh, sách báo phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số; sản xuất phim thời sự, tài liệu, khoa
học, phim cho thiếu nhi; quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi quy mô lớn; quản
lý, duy tu công trình đê điều, công trình phân lũ và các công trình phòng chống thiên tai;
trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sinh thái, rừng ngập
mặn lấn biển; sản xuất, lưu trữ giống gốc cây trồng, vật nuôi, sản xuất vac-xin phòng bệnh;
dịch vụ bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thoát nước đô thị; chiếu sáng công cộng, cung cấp điện
cho vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo; quản lý, bảo trì đường đô thị, đường bộ vùng
sâu, vùng xa; quản lý, bảo trì đường thủy nội địa; hoạt động điều tra cơ bản về địa chất, khí
tượng thủy văn, đo đạc bản đồ; hoạt động khảo sát, thăm dò, điều tra về tài nguyên đất đai,
nước, khoáng sản và các loại tài nguyên thiên nhiên; dịch vụ bưu chính phổ cập, dịch vụ
bưu chính bắt buộc; một số lĩnh vực quan trọng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ.
Việc sản xuất và cung ứng các SP, DVCI quy định tại Danh mục C Phụ lục ban
hành kèm theo Nghị định này do DNNN, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
và hợp tác xã thực hiện theo phương thức đấu thầu hoặc đặt hàng. Ví dụ như: quản lý, khai
thác hệ thống công tình thủy lợi có quy mô vừa và nhỏ; dịch vụ vận tải công cộng bằng xe
buýt tại các đô thị; dịch vụ công cộng: vệ sinh môi trường công cộng, quản lý công viên,
trồng và quản lý chăm sóc cây xanh, hoa cảnh vỉa hè, đường phố, dải phân cách, vòng
xoay, quản lý nghĩa trang, hỏa táng; sản xuất phim truyện do nhà nước đặt hàng hoặc tài
trợ; quản lý bảo trì hệ thống đường bộ, quản lý bảo trì bến phà, bến xe quan trọng; vận
chuyển, cung ứng hàng hóa và dịch vụ thiết yếu phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu,
vùng xa; một số sản phẩm và dịch vụ quan trọng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ. Đối với những SP, DVCI có thể thực hiện theo hai phương thức, việc lựa chọn phương
thức cung ứng SP, DVCI thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau: đấu thầu; đặt hàng, giao kế
hoạch.
Như vậy, việc định ra các tiêu chí quy định cụ thể, rõ ràng các DNCI; SP, DVCI là
căn cứ cho các chính sách, cơ chế quản lý đầu tư… phù hợp, sát thực tế, khắc phục tình
trạng chồng chéo,lãng phí.
1.1.2. Quá trình hình thành doanh nghiệp công ích trong các nền kinh tế thị
trường
1.1.2.1. Tư tưởng kinh tế về nhà nước tham gia vào sản xuất các hàng hóa công
cộng
Những người thuộc trường phái Trọng thương thế kỷ 15 - 17 cho rằng để có nhiều
tiền, Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ, làm "bà đỡ" cho quá trình làm tăng của cải,
tăng giá trị của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh tế học cổ điển Anh thì muốn phủ định vai
trò kinh tế của Nhà nước. Mặc dù vậy, A. Smith, nhà kinh tế học cổ điển nổi tiếng thời bấy
giờ - vẫn phải thừa nhận rằng Nhà nước không thể không có vai trò trong việc duy trì các
công trình công cộng (đường sá, cầu cống, sông đào, bến cảng) và những thể chế mang lại
lợi ích cho toàn xã hội. ăng-ghen khi nói về sự tác động của nhà nước đối với sự phát triển
kinh tế đã khẳng định có ba loại: Một là, nếu những tác động phù hợp, đúng quy luật, cùng
hướng sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại, làm trái quy luật, áp đặt sẽ kìm hãm sự
phát triển kinh tế. Ba là, tác động của nhà nước tốt hướng này, cản trở hướng khác sẽ gây
những cản trở trong quá trình phát triển kinh tế. Can thiệp vào đời sống kinh tế có nghĩa là
Nhà nước dùng quyền lực áp đặt những quy chế của mình nhằm hướng dẫn, điều chỉnh hành
vi của các chủ thể trong nền kinh tế cho phù hợp với những mục tiêu Nhà nước đã lựa chọn.
Để thực hiện vai trò này, Nhà nước có thể ban hành và thực thi hệ thống luật pháp kinh tế
can thiệp vào phân phối thu nhập trong xã hội, các chính sách kinh tế, hoặc trực tiếp tổ chức
xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Chẳng hạn, khi nói về vai trò của
Nhà nước trong tổ chức xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng, C. Mác cho rằng, đó không chỉ
là sự thể hiện chức năng của Nhà nước, mà trong những trường hợp riêng biệt, nó còn là đòi
hỏi phải có Nhà nước. Đó là trường hợp các Nhà nước ở phương Đông: "Dù cho những
chính quyền chuyên chế đã xuất hiện và suy vong ở Ba Tư và ấn Độ có nhiều đến đâu chăng
nữa, thì mỗi một chính quyền đó cũng biết rất rõ rằng nó trước hết là người tổng phụ trách
việc tưới nước cho các thung lũng mà nếu không có thì ở đó không thể có một nền nông
nghiệp nào hết" [19, tr.10-14]. Với quan niệm như vậy chúng ta có thể hiểu rằng, ngay cả
những quốc gia vốn coi trọng vai trò của kinh tế tư nhân, những quốc gia có nền KTTT phát
triển từ rất sớm nhưng đều có một quan điểm chung về vai trò của nhà nước trong việc đảm
nhận trách nhiệm cung ứng các sản phẩm HHCC trên thị trường.
1.1.2.2. Sự hình thành các doanh nghiệp công ích trong các nền kinh tế
Ngay tại những nước tư bản phát triển nhất, kết cấu hạ tầng vẫn phải do Nhà nước
đảm nhận xây dựng và vận hành. Các quốc gia phát triển ở châu á như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Xin-ga-po,... kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò "bà đỡ" cho các doanh nghiệp vào
những giai đoạn khó khăn, nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với
nước ngoài. Những năm gần đây, khi nền kinh tế trì trệ, chính phủ Nhật Bản nhiều lần xuất
dự trữ Nhà nước mua cổ phiếu để cứu vãn một số công ty khi chúng bị chao đảo trên thị
trường chứng khoán.
Tại Mỹ chủ trương "Chính phủ mang tinh thần kinh doanh" nhằm chống lại mô
hình "Chính phủ quan liêu" và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của dân, đã đem lại nguồn sinh khí
mới cho bộ máy Nhà nước, được dân chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Tại Anh, Pháp và
nhiều nước khác, người ta tổ chức việc đấu thầu các dịch vụ công, chuyển đại bộ phận giáo
dục, đào tạo và y tế… sang chế độ ký hợp đồng với các chủ thể nằm ngoài khu vực Nhà
nước tạo nên một xu thế xã hội hóa dịch vụ công rất sôi động.
ở nước Anh, dưới thời Thủ tướng M. Thát-chơ, người ta không thể nào tư nhân
hóa được hệ thống đường sắt mà chỉ bán các nhà ga và những đoàn tàu. Chính phủ Anh
giữ vai trò chính trong chi tiêu bảo đảm xã hội: trong tổng chi tiêu bảo đảm xã hội của
nước Anh chỉ có 1/4 chi phí đến từ phí nộp của các ông chủ, 1/5 đến từ công nhân viên,
còn trên 50% số chi tiêu là từ ngân sách của chính phủ. Hàng năm, chính phủ Anh đã chi
về phương diện bảo đảm xã hội tới 30% tổng chi tiêu của chính phủ. Trong chi tiêu tài
chính của Anh, khoản chi tiêu này được liệt vào hàng số một.
Còn ở Pháp, sự thỏa thuận giữa các nhà quản lý và chính quyền cũng hết sức hiệu
quả: các nhà quản lý làm chủ các dự án công nghiệp - công nghệ lớn, còn chính quyền thì
sử dụng nguồn thu của dịch vụ công cộng làm đòn bẩy điều tiết kinh tế xã hội và làm
phương tiện thực hiện chính sách tạo ra các nhà vô địch quốc gia dựa trên chủ nghĩa bảo
hộ tấn công. Các hãng Alcatel Alsthom, Framatome, Thomson, Aérospatiale, Dassault…
từng trong một thời gian dài được hưởng chế độ ưu đãi của Công ty Điện lực Pháp (EDF),
France Telecom, Air France, Tổng cục Vũ khí…
Tại Thụy Điển, các khoản chi đặc biệt để lắp đặt hệ thống điện thoại cần thiết cho
những người khiếm thính hay thiểu năng phát âm được trích từ ngân sách xã hội của nhà
nước, ngân sách này được hình thành từ nguồn thu là thuế phổ thông (thuế thu nhập, thuế
giá trị gia tăng…).
Không những ở mỗi quốc gia mà ngay cả các khối liên kết kinh tế cũng đề cao vai
trò của dịch vụ công cộng. Tại điều 130A của Hiệp ước Maastricht đã nêu rõ quyền được
sử dụng dịch vụ công cộng là một yếu tố góp phần vào việc tăng cường sự liên kết về kinh
tế và xã hội của Liên minh Châu Âu. Trên cơ sở một nghiên cứu so sánh các văn bản pháp
lý hiện hành tại năm nước thuộc liên minh Châu Âu (Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Italia
và Anh) đã cho kết luận rằng quyết tâm bảo đảm những quyền cơ bản của con người là nền
tảng chung cho một quy chế Châu Âu thống nhất về dịch vụ công cộng. Bởi lẽ các dịch vụ
công cộng là cần thiết cho việc thực hiện các quyền cơ bản, nên chúng cũng cần được bảo
đảm chắc chắn như những quy định của Hiệp ước Maastricht bảo đảm cho sự vận hành trôi
chảy của cơ chế thị trường. Nói vậy không có nghĩa là đối lập dịch vụ công cộng với thị
trường, mà là tạo ra cơ sở khẳng định tính pháp lý cho việc nhà nước can thiệp nhằm tạo
khuôn khổ, bổ sung và nếu cần thì điều chỉnh các cơ chế của thị trường nhằm bảo đảm
được một nguồn cung ứng dịch vụ công cộng thỏa đáng.
Quan điểm về dịch vụ công cộng mà hầu hết các nước phát triển đều nhất trí là
không thể để mặc cho các dịch vụ này phát triển tùy tiện, càng không thể để cho các đối
tượng kinh doanh trong một lĩnh vực có cạnh tranh như vận tải đường bộ tàn phá chính
những yếu tố cơ bản trong các lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời cũng không thể để
cho một lĩnh vực độc quyền bóc lột người sử dụng. Điều tiết của chính quyền dưới hình
thức nào đó là một việc làm cần thiết. Do hoạt động điều tiết đó xử lý những vấn đề quan
trọng như chất lượng và giá cả của các dịch vụ công cộng, những điều kiện cạnh tranh giữa
các đơn vị cung ứng dịch vụ, nên nhất thiết phải tổ chức công tác điều tiết theo những mô
hình vừa chặt chẽ, vừa thực tế. Dịch vụ công cộng bao hàm một khía cạnh mang tính xã
hội: bảo đảm quyền sử dụng bình đẳng các HHCC cơ bản với mức giá vừa phải. Nó cũng
bao hàm một khía cạnh mang tính lãnh thổ, thông qua biện pháp điều hòa giá cho phép tạo
ra quyền hưởng thụ bình đẳng tại mọi địa điểm trên lãnh thổ. Thực tế điều này đã cho phép
xử lý các hiệu ứng ngoại lai, nhưng điều tạo ra màu sắc đặc thù của dịch vụ công cộng
chính là việc nó được sử dụng như một công cụ phục vụ chiến lược quốc gia nhằm tạo ra
tính tự chủ về mặt khoa học - công nghệ. Hiện nay, phần lớn các nước công nghiệp phát
triển đều chuyển sang áp dụng phương thức quản lý theo hoạt động công ích do có hiệu
quả và tốt hơn việc quản lý các DNCI.
1.1.2.3. Sự hình thành nhận thức về doanh nghiệp công ích ở nước ta
Quan niệm về HHCC ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay:
Trong những năm đổi mới, thuật ngữ HHCC đã dần dần được sử dụng và hiện nay
trở thành khái niệm tương đối thông dụng trong nghiên cứu khoa học và đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, đến nay vấn đề này vẫn khá mới mẻ và nhiều
điểm chưa thống nhất cả về lý thuyết cũng như thực tế. Có hai góc độ tiếp cận về HHCC ở
Việt Nam: góc độ thuần túy lý thuyết và góc độ chính sách - cơ chế quản lý. Hai góc độ
tiếp cận này phát triển song hành từ đầu thập kỷ 90 và ngày càng hoàn thiện cùng với sự
phát triển của công cuộc cải cách - đổi mới tư duy kinh tế và sự xâm nhập, phát triển các
quan niệm KTTT. Hai góc độ tiếp cận này không mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau.
Với góc độ tiếp cận lý thuyết, giáo trình Kinh tế công cộng Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội và sách tham khảo của Học viện Hành chính quốc gia: HHCC được xem xét như một
đối tượng của quản lý khu vực công cộng. Coi "HHCC là những loại hàng hóa mà việc một
cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác
cùng đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó". Các định nghĩa, đặc điểm, nguyên lý cơ chế quản lý
và tổ chức sản xuất đều tham khảo kế thừa các tài liệu nước ngoài. Do vậy, có đủ căn cứ để
kết luận rằng, quan niệm về HHCC dưới góc độ lý thuyết ở nước ta hầu như nhất trí hoàn toàn
với quan niệm của kinh tế học hiện đại của thế giới.
Dưới góc độ chính sách - cơ chế quản lý, quan niệm về HHCC được phát triển
xuất phát từ nhu cầu tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp
chuyên cung ứng HHCC (các DNCI) đã và đang tồn tại trong nền kinh tế từ thời bao cấp.
Do vậy, bản thân tên gọi cũng sử dụng thuật ngữ có tính kế thừa. Các dịch vụ quốc phòng,
an ninh và các hàng hóa chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh mặc dù không được
xếp vào nhóm HHCC nhưng các doanh nghiệp cung ứng chúng được coi là DNCI và có
quy chế quản lý giống như đối với HHCC. Như vậy có thể thấy, dưới góc độ chính sách,
quan niệm về HHCC ở Việt Nam hiện nay vừa rộng hơn vừa hẹp hơn so với quan niệm lý
thuyết về HHCC trên thế giới.
Quan niệm rộng hơn thể hiện ở chỗ, nó hàm chứa một loạt hàng hóa cá nhân
khuyến dụng. Trong điều kiện nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường, nhóm hàng hóa
này chưa thể tổ chức sản xuất và cung ứng hoàn toàn theo phương thức thị trường, việc
xếp chúng vào danh mục HHCC là phù hợp. Về bản chất, nhóm hàng hóa này là hàng hóa
cá nhân được cung cấp bởi phương thức công cộng, được gọi là nhiệm vụ công ích hoặc
hàng hóa cá nhân khuyến dụng. Tuy nhiên, trong thời gian tới sẽ thu hẹp dần danh mục
này lại do các thành phần kinh tế khác có khả năng đảm nhận như: xã hội hóa một phần
thu gom, vận chuyển rác thải; đấu thầu một số tuyến xe buýt nội đô, cung cấp nước sạch…
nhằm giảm mức đầu tư của nhà nước. Quan niệm hẹp hơn thể hiện ở chỗ, có một loạt hàng
hóa và dịch vụ như giáo dục, dịch vụ y tế, bảo đảm không khí sạch, cảnh quan kiến trúc,
dịch vụ hành chính công… do ở Việt Nam chưa được coi là hàng hóa nên không xếp vào
danh mục HHCC. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với giai đoạn cải cách hiện nay. Tuy
nhiên, trong quá trình đổi mới, dần dần danh mục các HHCC sẽ được bổ sung, hoàn thiện.
Để hiểu rõ vị trí, vai trò của các DNCI trong nền KTTT trước hết chúng ta cần tiếp
cận khái niệm hàng hóa và dịch vụ công cộng (sau đây gọi chung là hàng hóa công cộng -
HHCC). Có nhiều cách quan niệm khác nhau về HHCC: Một số ý kiến cho rằng HHCC là
loại hàng hóa được cung cấp mà người tiêu dùng nó không phải trực tiếp trả tiền. Một số ý
kiến khác lại cho rằng dịch vụ công là mọi hoạt động thực thi các chức năng của Nhà
nước, bao gồm cả chức năng cai trị của bộ máy Nhà nước đối với xã hội và chức năng
cung cấp các hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của công dân còn HHCC chỉ
là một bộ phận của dịch vụ công, HHCC xét theo nghĩa này chỉ gồm những hàng hóa và
dịch vụ phục vụ cho những nhu cầu tối cần thiết của cộng đồng, do các tổ chức của Nhà
nước hoặc các chủ thể được Nhà nước ủy quyền và tài trợ đứng ra cung cấp, không bao
gồm các hoạt động mang chức năng cai trị. Mặc dù vậy, trước xu hướng hiện nay là thu
hẹp dần phạm vi của các loại hàng hóa và dịch vụ không phải trực tiếp trả tiền, quan niệm
về HHCC như cách thứ nhất không phản ánh được đầy đủ tính sâu sắc của khái niệm
HHCC.
Thuật ngữ HHCC theo cách quan niệm thứ hai và được xem xét trên khía cạnh
những thuộc tính cơ bản của nó: tính không kình địch và tính không loại trừ. Đây là những
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, đảm bảo lợi ích
chung của cả cộng đồng. HHCC được chia làm các loại:
Nhóm HHCC thuần túy: những hàng hóa và dịch vụ không thể chia nhỏ và không
thể quy định mức độ sử dụng đối với các đối tượng khác nhau. Nói cách khác đó là các
hàng hóa và dịch vụ mà nếu thêm một người sử dụng thì không ảnh hưởng đến việc người
khác sử dụng (tính không kình địch) và khi chúng được sản xuất ra không thể ngăn cấm ai
đó muốn tiêu dùng (tính không loại trừ). Các HHCC thuần túy điển hình: hệ thống đê điều
phòng chống lụt bão, hệ thống các biển báo đường sông, đường biển, đường bộ, hệ thống
vệ sinh môi trường và cảnh quan đô thị, hệ thống các phát minh khoa học. Loại HHCC này
rất khó có thể tính toán các chi phí để sản xuất ra đồng thời cũng không thể phân bổ lượng
tiêu thụ cụ thể cho mỗi thành viên của xã hội (hội việc một ai đó sẽ hưởng bao nhiêu hàng
hóa chiếu sáng công cộng), từ đó cũng không thể định giá cho người sử dụng (ai sử dụng
nhiều thì phải trả nhiều tiền).
Nhóm các HHCC không thuần túy: nhóm này mang những thuộc tính gần giống
HHCC thuần túy nhưng ở mức độ khác. Một số loại không thể loại trừ nhưng việc một
người sử dụng có thể ảnh hưởng đến người khác. Ví dụ như trong dịch vụ cấp giấy phép,
mọi công dân đều có quyền đòi hỏi được cung cấp nhưng do năng lực có hạn, cơ quan có
trách nhiệm chỉ có thể làm việc với từng người một nên nó có phần nào tính kình địch.
Một số loại khác không có tính kình địch nhưng lại có thể loại trừ nhưng trên thực tế việc
loại trừ rất tốn kém và không đáng để loại trừ. Như với một cây cầu mọi người có thể đi
qua mà không ảnh hưởng tới việc cũng đi qua cầu của người khác và hoàn toàn có thể tiến
hành thu phí qua cầu nhưng để thu được một khoản lệ phí nào đó lại phải bỏ ra những
khoản chi phí lớn hơn nhiều. Hay như trong giáo dục bậc tiểu học và chăm sóc sức khỏe có
thể loại trừ nhưng để tạo ra sự công bằng tối thiểu cho các công dân Nhà nước không
muốn loại trừ.
Mặc dù vậy HHCC thuần túy và không thuần túy cũng chỉ có giới hạn tương đối.
Nếu như truyền hình ở một số nước là không thể loại trừ và không kình địch thì ở một số
nước khác, với sự ra đời của truyền hình cáp, hoàn toàn có thể loại trừ ai đó muốn sử dụng.
Từ những đặc điểm của các loại HHCC nêu trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét:
Một số HHCC khu vực kinh tế tư nhân không muốn tham gia sản xuất và cung ứng (gọi
chung là cung cấp) do tính phi hiệu quả của nó. Nguyên tắc hoạt động của khu vực này là
vì lợi nhuận chứ không phải vì lợi ích xã hội, do đó nếu không thể tính toán một cách
chính xác chi phí cũng như không thể loại trừ đối tượng sử dụng thì đương nhiên họ sẽ
không làm. Một số loại HHCC khác khu vực tư nhân không thể cung cấp do chi phí đầu tư
quá lớn hoặc đòi hỏi công nghệ quá hiện đại, điển hình là việc xây dựng các loại cầu lớn,
mạng lưới phát thanh truyền hình, đường sá giao thông hay công nghệ vũ trụ. Trong một
số lĩnh vực cung cấp HHCC khác, khu vực tư nhân không được tham gia do luật pháp quy
định. Bởi vì đây có thể là những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự ổn định trật
tự an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh hay đê điều phòng chống lụt bão. Nhưng những
HHCC này lại có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì sự ổn định chung, dựa vào đó
các hoạt động kinh tế - xã hội khác mới diễn ra thông suốt và hiệu quả do vậy không ai
khác mà chính Nhà nước phải đảm nhiệm việc cung cấp.
Mặc dù có sự khác biệt như vậy nhưng xét theo quan điểm lịch sử cụ thể có thể
khái quát, quan niệm về HHCC ở nước ta hiện nay là phù hợp và thống nhất với khoa học
kinh tế hiện đại. Phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trong
giai đoạn đổi mới và hội nhập mạnh mẽ hiện nay. Về tên gọi, mặc dù chưa có sự thống
nhất nhưng về bản chất ngữ nghĩa của thuật ngữ và quan niệm hoàn toàn không có sự mâu
thuẫn, đáp ứng các đòi hỏi của công cuộc cải cách kinh tế hiện nay. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 3 (khóa IX) tháng 9/2001 cũng đã xác định rõ hơn quan niệm về loại hình
DNCI là những doanh nghiệp chuyên sản xuất, cung ứng HHCC không vì mục tiêu lợi
nhuận nhưng rất cần thiết để bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đảm bảo các
mục tiêu xã hội.
Trước thời kỳ đổi mới, trong điều kiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thị trường
không được thừa nhận, do đó khái niệm hàng hóa nói chung trên thực tế cũng không được
thừa nhận. Mọi sản phẩm, trong đó có HHCC đều do Nhà nước tổ chức sản xuất và nắm
quyền phân phối theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thu đủ chi đủ. Trên thực tế, HHCC
trong giai đoạn này đã tồn tại và giữ vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo mục tiêu của
Nhà nước cũng như đáp ứng nhu cầu nhân dân. Sự khác biệt trong quan niệm về HHCC
trong thời kỳ này biểu hiện trên 5 nội dung sau đây:
Thứ nhất, quan niệm dịch vụ công cộng được coi là HHCC: Trong cơ chế cũ, Nhà
nước đảm nhiệm vai trò sản xuất cả HHCC và hàng hóa cá nhân nên không thể đặt vấn đề
tại sao Nhà nước lại cung ứng HHCC. Những HHCC thuần túy như: hệ thống đê điều, biển
báo giao thông, vệ sinh môi trường, phát minh khoa học… thuộc vào loại dễ xác định căn
cứ vào mục đích cung cấp hàng hóa của Nhà nước. Những HHCC như: dịch vụ cấp giấy
phép, giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khỏe, phát thanh và truyền hình… khó xác định về
phạm vi bởi hàng hóa được bao cấp và phân phối theo nhóm dân cư. Một mặt HHCC được
quan niệm khá hẹp do rất nhiều sản phẩm, dịch vụ chưa được thừa nhận là hàng hóa ví dụ
như: vận tải hành khách, vệ sinh đô thị, cung ứng nước sạch. Trong khi các dịch vụ giáo
dục, y tế, an ninh, thủy nông, chiếu sáng… được coi là nhiệm vụ của các cơ quan sự nghiệp
chứ không phải là hàng hóa. Ngược lại có một số dịch vụ cá nhân nhưng do quan niệm của
thời kỳ bao cấp phải do khu vực công cộng cung ứng theo phương thức cào bằng như ăn
uống công cộng, cắt tóc, nhà ở… nên nhiều tài liệu cũng xếp vào nhóm HHCC.
Thứ hai, về chủ thể sản xuất và cung cấp dịch vụ công cộng: Do Nhà nước nắm
giữ mọi hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ công cộng. Nhà nước có nghĩa vụ sản xuất
và cung cấp HHCC góp phần vào thực thi sự công bằng, đảm bảo quyền làm chủ của
người lao động, đồng thời định hướng xu hướng phát triển nói chung của nền kinh tế theo
kế hoạch của Nhà nước. Như vậy, trong cơ chế cũ không có các chủ thể tư nhân cung cấp
HHCC.
Thứ ba, về đối tượng tiêu dùng HHCC: Khía cạnh này không có sự khác biệt lớn
vì trong hai cơ chế quản lý đối tượng đều là các thành viên trong xã hội. Sự khác nhau chủ
yếu ở chỗ cung cấp hàng hóa trong giai đoạn trước đổi mới có đạt hiệu quả cao hay không.
Có thể khẳng định rằng các HHCC trong giai đoạn trước đổi mới được cung ứng và tiêu
dùng chưa đạt hiệu quả cao. Hiện tượng "người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra" tương đối
phổ biến (đầu nguồn thì để nước máy chảy tràn, lãng phí trong khi cuối nguồn nước máy
lại không thể tự chảy được). Một trong những nguyên nhân là do khi đó giá nước máy
được chi trả theo hình thức khoán sử dụng theo đầu người. Các thành viên trong xã hội tiêu
dùng các HHCC không phải trực tiếp trả tiền nhưng gián tiếp thông qua thuế. Lợi dụng sơ
hở quản lý dẫn đến tình trạng tiêu dùng lãng phí HHCC diễn ra ở nhiều nơi với cấp độ
trầm trọng, làm cho rất nhiều người khác không được hưởng thụ chúng (ví dụ sự lạm dụng
và thất thoát trong cung ứng điện, nước, giao thông công cộng…).
Thứ tư, về quan hệ cung cầu HHCC: Trong cơ chế quản lý cũ, đường cầu tiêu
dùng HHCC luôn ở mức tối đa vì: thứ nhất, nhu cầu của người dân cả HHCC và hàng
hóa cá nhân luôn lớn hơn cung thực tế; thứ hai, Nhà nước là chủ thể cung cấp và người
tiêu dùng không phải trả tiền cho việc sử dụng. Do vậy, trên thị trường luôn có sự thiếu
hụt và Nhà nước thường phải áp dụng chế độ tem phiếu hoặc các biện pháp hành chính
khác để điều chỉnh quan hệ cung - cầu.
Thứ năm, về hiệu quả cung cấp HHCC: Đánh giá hiệu quả cung cấp HHCC là
công việc rất khó khăn, đặc biệt là trong cơ chế quản lý cũ. Tuy nhiên, thời kỳ trước 1975,
một số HHCC cũng đã được cung cấp tương đối tốt, thỏa mãn một phần quan trọng các
nhu cầu của nhân dân về các hàng hóa này như: giáo dục, y tế, văn hóa văn nghệ... Thời kỳ
khủng hoảng kinh tế vào thập kỷ 80 (thế kỷ XX), việc cung cấp HHCC trở nên bất cập,
mức độ thiếu hụt ngày càng trầm trọng. Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với yêu cầu phát
triển nhanh thì tình trạng lợi dụng thị trường HHCC để trục lợi cá nhân ngày càng phát
triển. Việc đánh giá hiệu quả tuy đã có những tiêu chí định lượng như áp dụng các đơn giá
định mức cho từng chuyên ngành cụ thể, lắp đặt đồng hồ đo đếm điện, nước; bãi bỏ chế độ
dùng khoán theo đầu người…
1.1.2.4. Về mô hình tổ chức, cung cấp các hàng hóa công cộng
Trên cơ sở tiêu chí phân định HHCC, xác định các mô hình tổ chức quản lý sản
xuất và cung cấp HHCC nhằm tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt được hiệu quả xã hội cao
đòi hỏi phải rất linh hoạt, xuất phát từ thực tế có nhiều cách tổ chức quản lý cụ thể như:
Một là: Nhà nước trực tiếp cung cấp thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà
nước, các DNCI. Một số tổ chức nằm trong hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước
hay các tổ chức sự nghiệp của Nhà nước đảm nhiệm cung cấp các dịch vụ thuộc hạ tầng xã
hội như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ. cungMột số được tổ chức theo mô hình các doanh
nghiệp cung cấp các loại hàng hóa và dịch vụ do Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch
thực hiện theo giá phí Nhà nước quy định, đây chính là các DNCI. Có loại hình này là do
quy trình cung cấp của một số HHCC tương tự như quy trình cung cấp các hàng hóa và
dịch vụ thông thường: nghĩa là đã có những quy định rõ về việc mỗi người phải làm, các
đầu vào đầu ra đã có quan hệ xác định, từ đó hoàn toàn có thể tính được chi phí và mở ra
khả năng hoàn thành nhiệm vụ với chi phí thấp nhất. Do vậy, nó phải được vận hành theo
nguyên lý doanh nghiệp, hạch toán kinh doanh nhưng không phải với bất kỳ chi phí nào.
Bởi vậy các DNCI cung cấp các HHCC thường hoạt động trong các lĩnh vực thuộc hạ tầng
kỹ thuật, chiếu sáng công cộng, vệ sinh môi trường, sửa chữa đường sá.
Hai là: Nhà nước không trực tiếp sản xuất, tùy theo khả năng và điều kiện cụ thể,
khu vực kinh tế tư nhân cũng có thể tham gia dưới các hình thức cơ bản như: trợ cấp cho
các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp các HHCC theo đúng yêu cầu của
Nhà nước: giá cả, chất lượng, đối tượng phục vụ đồng thời đảm bảo được lợi ích của các
chủ thể cung cấp. Thông qua đấu thầu ký hợp đồng với các chủ thể cung cấp, đây là hình
thức Nhà nước mua lại các HHCC và giữ quyền kiểm soát thông qua hợp đồng. Chuyển một
số lĩnh vực sang cho khu vực tư nhân cung cấp trên cơ sở hạn chế độc quyền, thông qua
quá trình cổ phần hóa, bán, cho thuê DNNN. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cá
nhân và tổ chức, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ hay các tổ chức từ thiện, tham gia
cung cấp các HHCC trên cơ sở không vì lợi nhuận.
Xét trên khía cạnh các hàng hóa cá nhân với tư cách là bộ phận nằm ngoài các
HHCC nói trên, nghĩa là có cả hai đặc điểm kình địch và dễ loại trừ:
Nhóm những cá nhân có tính công cộng: những hàng hóa và dịch vụ này thường ít
có tính kình địch nhưng có thể loại trừ và việc loại trừ là cần thiết do chi phí gia tăng khi
thêm một người tiêu dùng là lớn như: điện, nước, viễn thông, khí đốt. Đặc điểm của các
ngành này là thường có lợi thế nhờ quy mô do đó dễ dẫn tới độc quyền, loại bỏ cạnh tranh
gây tổn hại đến người tiêu dùng; mặt khác đây là những ngành có vai trò cực kỳ quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Với loại hàng hóa này, Nhà nước
thường nắm hoặc kiểm soát chặt chẽ việc cung cấp và nhằm hướng tới sự công bằng chỉ có
thể đảm bảo cung cấp một lượng nhỏ như nhau cho tất cả mọi người (thông qua các dịch
vụ giá rẻ) còn nếu muốn sử dụng nhiều hơn phải trả tiền nhưng nếu sử dụng ít hơn thì
không được hoàn lại hay khấu trừ phần chưa sử dụng; hoặc áp dụng giá phí khác nhau đối
với những vùng có mức sống chênh lệch. Với mục tiêu xã hội này, việc thành lập các
DNCI nhằm cung cấp một phần các hàng hóa dịch vụ nói trên là phù hợp.
Có nhiều địa bàn khu vực tư nhân không muốn cung cấp do sức mua quá thấp
hoặc chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, ví dụ như cung cấp các hàng hóa cho vùng sâu, vùng
xa, miền núi, hải đảo (ở Việt Nam có các chương trình cung cấp muối I-ốt, thuốc chữa
bệnh, dầu hỏa, giấy viết cho đồng bào dân tộc). Để đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các
vùng và thiết lập công bằng xã hội. DNCI là tổ chức thích hợp để đảm đương nhiệm vụ
này.
Một số loại hàng hóa khác Nhà nước không muốn khu vực tư nhân tham gia cung
cấp do chúng có tính hai mặt: lợi và hại, trong đó cái hại đặc biệt nguy hiểm: sản xuất các
chất độc, chất cháy, vũ khí, các loại thuốc bào chế từ các loại ma túy. Việc Nhà nước nắm
lấy độc quyền cung cấp là cần thiết nhưng không thể kinh doanh vì lợi nhuận, do vậy hình
thức DNCI sẽ là sự lựa chọn hợp lý.
Ngoài ra, DNCI còn đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội: cung cấp các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đặc biệt là trong
lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật: giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch, thoát nước, chiếu
sáng công cộng, bưu chính viễn thông; kết cấu hạ tầng xã hội: giáo dục, y tế, công viên -
cây xanh - vườn thú, môi trường đô thị, nghiên cứu khoa học cơ bản và trong lĩnh vực đảm
bảo quốc phòng an ninh. DNCI góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của
thị trường, … những ngành, lĩnh vực có độ rủi ro cao, đòi hỏi đầu tư lớn nhưng lại chậm
thu hồi vốn, những ngành có lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận trên vốn thấp và đặc biệt là
những ngành mà Nhà nước cấm. Những ngành này mặc dù rất cần thiết và tạo điều kiện
cho phát triển sản xuất nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, hoặc không
đủ khả năng, chưa đủ điều kiện triển khai thì DNCI là bộ phận đảm đương nhiệm vụ này
tạo nên sự cân bằng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho tái sản xuất được trôi chảy, góp
phần đắc lực vào quá trình CNH, HĐH đất nước.
Tính đặc thù của DNCI được quy định bởi những lý do sau:
- Thứ nhất: trong cơ cấu hàng hóa, có một bộ phận hàng hóa cá nhân với tính chất
đặc thù của loại hàng hóa này là tính cạnh tranh và tính loại trừ. Một bộ phận hàng hóa
khác không thể do thị trường cung cấp vì nhiều lý do hoặc nếu thị trường cung cấp thì
cũng không đủ số lượng và không đáp ứng yêu cầu, hoặc thị trường không muốn cung cấp,
đó là HHCC. J.E.Stiglitz (người Mỹ, từng được giải Nôbel về Kinh tế năm 2001) cho rằng,
HHCC có hai đặc tính quan trọng là: "Thứ nhất, chúng không bắt cá nhân nào phải trả
thêm tiền khi hưởng lợi HHCC hay chi phí cận biên bằng 0 khi tăng lên một đơn vị cá
nhân sử dụng. Thứ hai, nói chung thật là khó hoặc không thể không cho các cá nhân
hưởng lợi từ HHCC". Với đặc điểm trên, thị trường không cung cấp hoặc không thể cung
cấp HHCC vì chi phí quá lớn, thu hồi vốn chậm hoặc khó thu hồi. Có những lĩnh vực,
HHCC có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp nhưng nếu để thị trường đầu tư thì các
doanh nghiệp tư nhân không thấy hết tầm quan trọng của hàng hóa mà trước hết là tính đến
mục tiêu lợi nhuận. Nếu chỉ tính đến lợi nhuận sau khi bỏ vốn đầu tư sẽ không bảo đảm
mục tiêu sử dụng HHCC của Nhà nước. Và với đặc điểm chi phí bằng 0 khi tăng thêm một
đơn vị người sử dụng thì Nhà nước cung cấp loại hàng hóa này tốt hơn tư nhân. Điểm tốt
hơn ở đây không chỉ ở chỗ Nhà nước đóng vai trò trong việc phân phối HHCC mà vì nếu
tư nhân đầu tư thì họ sẽ thu tiền tăng thêm khi tăng thêm một cá nhân sử dụng, như vậy
người tiêu dùng sẽ không muốn sử dụng hàng hóa này dẫn tới tình trạng HHCC được sử
dụng dưới mức trung bình.
- Thứ hai: những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn, không thể hay không
được cung ứng. Những hàng hóa mà cá nhân không muốn cung ứng vì độ rủi ro cao (như
chuyển muối lên vùng cao) và tính phi lợi nhuận của nó; có những hàng hóa tư nhân không
thể làm được vì không đủ vốn hay trình độ công nghệ quá cao đối với một doanh nghiệp
(điển hình như các công trình lớn thuộc kết cấu hạ tầng kỹ thuật) hay những hàng hóa mà
tư nhân không được tham gia do pháp luật quy định đối với lĩnh vực có tầm quan trọng đặc
biệt đến sự ổn định, trật tự an toàn xã hội.
1.2. Quá trình hình thành Doanh nghiệp nhà nước và Doanh nghiệp công ích
ở Việt Nam
1.2.1. Sơ lược quá trình hình thành doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Từ khi giành được độc lập ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) cho
đến thời kỳ đổi mới, DNNN được thành lập và phát triển gắn liền với lịch sử đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh tế - xã hội của đất
nước ta có nhiều điểm khác biệt với các nước XHCN khác nên quá trình hình thành cũng
có một số điểm đặc thù cả về quy mô, tỷ trọng, tính chất.
- Bước đầu, các DNNN được hình thành từ việc quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản
tư nhân hoặc tiếp quản các doanh nghiệp của chính quyền cũ để lại. Một số doanh nghiệp
trong quá trình cải tạo XHCN theo mô hình "công tư hợp doanh", mặc dù không được
quốc hữu hóa trực tiếp bằng pháp lý, nhưng trên thực tế do thực hiện cơ chế quản lý doanh
nghiệp quốc doanh dần dần cũng biến thành DNNN. Tuy nhiên, số lượng các DNNN loại
này không nhiều. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp loại này sau khi trở thành DNNN được
Nhà nước tiếp tục đầu tư phát triển mạnh về quy mô.
- Loại thứ hai: Nhà nước tiến hành xây dựng mới các DNNN. Loại này gồm: trước
hết nhà nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách. Tiếp đến là các DNNN do chính quyền địa
phương (tỉnh, huyện) thành lập trong thời kỳ phân cấp quản lý giai đoạn đầu và giữa thập
kỷ 80 (các DNNN loại này chủ yếu thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, cơ khí sửa chữa;
hầu hết quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng, hiệu quả rất thấp).
- Loại thứ ba: do Nhà nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách hoặc vốn viện trợ xây
dựng mới, công nghệ và thiết bị chủ yếu từ các nước thuộc hệ thống XHCN trước đây như:
Liên Xô, Trung Quốc. Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp loại này dần chiếm
lĩnh hầu hết các ngành kinh tế. Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, các DNNN được thành
lập ở các địa bàn ít dân cư, cần khai thác tài nguyên đất, rừng với các ngành nghề khác
nhau, chủ yếu trồng và khai thác gỗ, các cây công nghiệp dài ngày.
DNNN chiếm giữ hầu như toàn bộ các ngành công nghiệp như năng lượng (điện
lực, than và dầu khí), khai khoáng, luyện kim, chế tạo máy, sản xuất xi măng, phân bón,
thuốc trừ sâu, hóa chất, dược phẩm và công nghiệp phục vụ quốc phòng. Trong các ngành
sản xuất hàng tiêu dùng chủ lực, DNNN cũng có tỷ trọng áp đảo (năm 1990 chiếm: 70%
vải, 85% giấy, 70% xe đạp, 60% xà phòng). Các ngành xây dựng, vận tải (hàng không,
đường sắt, đường biển), xuất nhập khẩu, thương nghiệp bán buôn… DNNN cũng có tỷ
trọng tuyệt đối. Đến tháng 6 năm 1995, cả nước có 6.213 DNNN, trong đó: trung ương
quản lý 1.811 doanh nghiệp, địa phương quản lý 4.402 doanh nghiệp.
- Sự cần thiết của DNNN.
KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong
thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung của KTTT, vừa có những đặc thù, được
quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Đây là sự vận dụng sáng tạo những
kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển KTTT, là sự kết tinh trí tuệ của Đảng và
nhân dân trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác định một
cách nhất quán KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy việc xác định một cách rõ ràng và nhất quán vị trí,
vai trò của kinh tế Nhà nước trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách phát triển
kinh tế đất nước là rất cần thiết. ở nước ta, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là xuất
phát từ lợi ích của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là "hòn đá thử vàng" để xem
xét sự đúng hướng hay chệch hướng XHCN trong tiến trình phát triển kinh tế. Kinh tế Nhà
nước càng phát huy tốt vai trò chủ đạo bao nhiêu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh,
góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
nhanh và vững chắc bấy nhiêu... Nhiều DNNN kinh doanh có hiệu quả và những DNCI
đang góp phần thể hiện rõ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Đó là những "người lính
tiên phong" trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong cuộc chiến chống đói, nghèo và
tụt hậu; là chỗ dựa để Nhà nước điều tiết nền KTTT theo định hướng XHCN. Ngay cả
những người "phản biện" nghiêm khắc nhất đối với các DNNN cũng không thể phủ nhận
được thực tế đó. Tuy khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển, nhưng chúng ta
không thể kỳ vọng nhiều vào các doanh nghiệp tư nhân trong nước hoặc nước ngoài đầu tư
phát triển các ngành kinh tế như kết cấu hạ tầng kỹ thuật, cung ứng những hàng hóa và
dịch vụ quan trọng. Đó còn chưa kể đến việc giải quyết các vấn đề xã hội... ở một nước
kém phát triển như Việt Nam, tư nhân nào có thể nâng cấp và làm mới các tuyến đường
giao thông, các nhà máy điện và các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công
nghệ; tư nhân hoặc liên doanh nào đến những xã vùng sâu, vùng xa để làm đường ô-tô,
xây dựng trạm biến thế, để bán điện với giá tương đương như ở đô thị; hoặc khi thiên tai
xảy đến, tư nhân nào có thể cứu hộ, trợ giúp được cả một địa phương, một khu vực. Đất
nước ta mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Khó khăn càng
chồng chất, khi quan hệ hợp tác kinh tế với các đối tác quốc tế có trình độ phát triển cao
hơn rất nhiều. Việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ phụ thuộc vào năng lực tiếp thu và
khả năng nội sinh hóa công nghệ nhập khẩu. Tiềm lực khoa học và công nghệ yếu kém, lẽ
đương nhiên, dễ gặp phải những khó khăn, rủi ro hơn trong việc thực thi các hợp đồng
chuyển giao công nghệ cũng như các dự án góp vốn đầu tư hoặc nhập khẩu thiết bị toàn
bộ. Trong hoàn cảnh này, các đối tác nước ngoài có thể lợi dụng ưu thế của họ để khống
chế các đối tác nội địa. Chính vì vậy, nếu không có một khu vực kinh tế Nhà nước đủ
mạnh thì Nhà nước không thể hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
vươn lên trong cuộc hợp tác và cạnh tranh với các đối tác nước ngoài.
Để vươn lên nhằm thoát khỏi tình trạng kém phát triển bằng CNH, HĐH đất nước
và hội nhập kinh tế quốc tế là hướng đi đúng của nước ta và không có con đường nào khác.
Cuộc đấu tranh để bảo vệ sự lựa chọn con đường phát triển của mình trong hội nhập kinh
tế quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua càng cho thấy, nhất thiết không thể thiếu vai trò
của kinh tế nhà nước, trong đó các DNNN - yếu tố quan trọng nhất trong việc giữ vững
định hướng XHCN của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh tế quốc
dân. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam
sẽ phải hợp tác và cạnh tranh với hàng loạt các đối tác nước ngoài rất mạnh về vốn và công
nghệ. Đương nhiên các đối tác nước ngoài đó muốn ở Việt Nam sẽ chỉ còn lại những
doanh nghiệp nhỏ làm vệ tinh, đại lý tiêu thụ cho chúng và không có khả năng cạnh tranh
đáng kể với chúng. Chính vì thế, họ không mấy thiện cảm khi thấy chúng ta duy trì và
củng cố các DNNN cỡ lớn. Khi làm việc với những đối tác có tiềm lực to lớn đó, nếu Việt
Nam không có một khu vực kinh tế Nhà nước đủ mạnh, sẽ khó có thể vừa hợp tác hiệu quả
lại vừa giữ vững được sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trên mỗi bước đường đi lên
CNXH. Kinh tế nhà nước phải đủ sức làm chỗ dựa cho Nhà nước "của dân, do dân, vì dân"
trong việc điều tiết, phát triển nền kinh tế nhằm chủ động hơn nữa trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế vì lợi ích của đại đa số nhân dân, bảo đảm thống nhất giữa phát triển kinh
tế với thực hiện công bằng xã hội - một trong những tiêu chí then chốt của nền KTTT định
hướng XHCN.
Từ lợi ích của CNXH, trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN, rõ
ràng, vị trí quan trọng, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là điều không cần tranh luận,
nhất là khi hiểu đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: "kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân… DNNN giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và
chấp hành pháp luật".
DNNN giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Việt Nam khác các
nước khác vì DNNN của nước ta là toàn bộ nền kinh tế, là xương sống của nền kinh tế.
Những gì lớn nhất DNNN đều nắm giữ: 75% tài sản cố định quốc gia, 50% vốn đầu tư nhà
nước đầu tư cho DNNN và 60% vốn tín dụng của ngân hàng đầu tư cho DNNN, 70% tổng
vốn vay nợ nước ngoài, vốn ODA cũng dành cho DNNN phần lớn. Năm 2003, số DNNN
có lãi chiếm 77,2%, tổng số nộp ngân sách nhà nước là 87.000 tỷ đồng (tương đương 9,2%
thu ngân sách), tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 10,79%, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
trong ba năm 2000 -2003 là 10%. Tại Báo cáo giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội
toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhận định:
DNNN vẫn giữ được các vị trí trọng yếu trong kinh tế, tiếp tục đóng góp lớn nhất
vào các nguồn thu nội địa của ngân sách. Đã tổng rà soát, xây dựng và bước đầu triển khai
chương trình đổi mới các DNNN. Một số DNNN đã nâng cao được sức cạnh tranh, hiệu
quả kinh doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp công ích đối với quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.2.2.1. Sự hình thành doanh nghiệp công ích
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tính chất bao cấp nặng nề và tràn lan, do đó
chưa có sự phân biệt DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh. Từ khi
ban hành Luật Doanh nghiệp Nhà nước ngày 20/4/1995, Nhà nước đã phân DNNN thành
hai loại: DNCI và DNNN hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở Luật DNNN, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 56/CP ngày 2/10/1996 xác định cơ chế quản lý đối với DNCI. Như
vậy từ năm 1995 ở Việt Nam mới có khái niệm DNCI và DNCI được thừa nhận về mặt
pháp lý, nhưng trên thực tế trước năm 1995 đã có nhiều DNNN hoạt động với tính chất là
DNCI. Sau gần 7 năm thực hiện Nghị định 56/CP, các DNCI đã có sự phát triển nhanh về
số lượng và lĩnh vực hoạt động. Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có 732 DNCI
(đầu năm 1999 có 617 doanh nghiệp) chiếm 12,77% tổng số DNNN với tổng vốn Nhà
nước là 9.896 tỷ đồng, bằng 7,6% tổng số vốn Nhà nước của toàn bộ DNNN. Nhìn chung
các DNCI ra đời là phù hợp và thực hiện được mục đích thành lập, hoàn thành được nhiệm
vụ kế hoạch hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước, góp phần phục vụ đời sống và phục vụ quốc
phòng, an ninh quốc gia. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ của nhiều DNCI có tiến bộ,
phục vụ tốt khách hàng và phần lớn các DNCI có lãi. Theo số liệu của Cục Tài chính
doanh nghiệp, năm 2003 có tới 82% doanh nghiệp có lãi, 10% doanh nghiệp thua lỗ, giảm
nhiều so với năm 2000. Thu nhập của người lao động trong các DNCI cũng khá cao, năm
2003 thu nhập bình quân của người lao động đạt trên 1.000.000, đồng/người/tháng.
Cơ cấu lĩnh vực hoạt động công ích ở nước ta hiện nay: lĩnh vực giao thông công
chính chiếm 16%; lĩnh vực quản lý, khai thác, duy tu đường, dịch vụ giao thông vận tải
chiếm 20%; lĩnh vực khai thác công trình thủy lợi chiếm 20%; giống cây trồng 20%; phục
vụ quốc phòng an ninh 14%; còn lại 10% thuộc các lĩnh vực khác.
Biểu đồ 1.1: Cơ cấu lĩnh vực hoạt động công ích
10% 16%
20%
20%
20%
14%
Giao thông công chính: 16%
Quản lý khai thác, duy tu đường dịch vụ GTVT: 20%
Khai thác quản lý thủy lợi: 20 %
Giống cây trồng: 20 %
Phục vụ quốc phòng, an ninh 14 %
Lĩnh vực khác: 10 %
Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương [5, tr 30].
1.2.2.2. Vị trí, vai trò, bản chất của doanh nghiệp công ích
Vai trò của hệ thống DNNN gắn liền với việc tham gia vào hoạt động kinh tế của
Nhà nước. Vai trò này thể hiện trên 3 khía cạnh: kinh tế, chính trị và xã hội. Như chúng ta
đều biết: "chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế". Nền chính trị của Việt Nam do
Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm đưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Các doanh nghiệp ở nước ta, trước hết là
DNNN cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này. Thời kỳ từ năm 1990 đến nay, đất nước ta
phải đối mặt với những khó khăn gay gắt, có những năm trong tình thế hiểm nghèo. Đầu
những năm 90, mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn khắc nghiệt như: mô hình
XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; Mỹ thực hiện chính sách bao vây cấm
vận; khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực năm 1997 - 1998 tác động mạnh; thiên tai
liên tiếp xảy ra; việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền KTTT định
hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới và cả những thách thức khó khăn song
với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn.
GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990; tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định;
đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; quốc phòng - an ninh được tăng cường; sức
mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước.
Các DNCI bước đầu đảm bảo cung ứng những sản phẩm dịch vụ quan trọng theo
kế hoạch của Nhà nước giao, giải quyết được nhu cầu thiết yếu về HHCC. Những năm gần
đây, tốc độ đô thị hóa của đất nước ngày càng nhanh, phát sinh nhiều vấn đề phải giải
quyết như: xây dựng và quản lý các dịch vụ công cộng, vệ sinh đô thị, duy tu bảo dưỡng
cơ sở hạ tầng… Chính các DNCI là phương tiện chủ lực của Nhà nước để giải quyết các
vấn đề này đáp ứng phục vụ ngày càng tốt hơn cho cuộc sống xã hội. Các DNCI đã có
nhiều đóng góp tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh tế phát triển: thu nộp ngân sách, cải thiện đời
sống cán bộ công nhân viên ở các doanh nghiệp, tạo thêm việc làm cho người lao động. Cơ
cấu tài sản của DNCI cũng phát triển theo hướng tích cực, giá trị tài sản cố định phục vụ
cho các hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp được tăng lên. Hiệu quả sử dụng đồng
vốn của các DNCI được tăng lên. Số DNCI làm ăn thua lỗ có xu hướng giảm dần. Theo số
liệu thống kê của bảy DNCI ngành Giao thông công chính Hà Nội, trong năm 2004 đã đạt
594 tỷ đồng doanh thu, lợi nhuận 20,2 tỷ đồng, nộp ngân sách đạt 20,1 tỷ đồng, không có
doanh nghiệp bị thua lỗ.
- Vị trí của DNCI.
ở Việt Nam, trong cơ chế tập trung bao cấp thời kỳ trước, kinh tế Nhà nước được
xác định giữ vai trò chủ đạo nhưng với nghĩa là kinh tế Nhà nước phải chiếm tỷ trọng lớn
cả về số lượng và giá trị trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Với cách hiểu như
vậy, DNNN với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế Nhà nước phát
triển tràn lan trên mọi ngành nghề và lĩnh vực mà không chú ý tới hiệu quả hoạt động từ
đó trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Ngoài những lĩnh vực then chốt, DNCI đảm đương những lĩnh vực mà các thành
phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh. Mặc dù vậy,
những lĩnh vực mà DNCI nắm không phải cố định mà thay đổi linh hoạt, khi các thành
phần kinh tế khác chưa sẵn sàng đầu tư kinh doanh vào những lĩnh vực cần thiết đối với sự
phát triển kinh tế thì Nhà nước mở đường bằng cách thành lập các DNCI, khi vai trò mở
đường này không còn thì có những biện pháp chuyển đổi chức năng và hình thức sở hữu
thích hợp.
Như vậy, DNCI cùng các cơ quan hành chính Nhà nước và một số cá nhân, tổ
chức thuộc các thành phần kinh tế khác hợp thành hệ thống các tổ chức cung cấp các
HHCC cho xã hội, hệ thống này phục vụ những nhu cầu chung của xã hội, đảm bảo cho
mọi mọi hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra thông suốt và an toàn. Nhưng DNCI không chỉ
cung cấp các HHCC mà còn cung cấp cả những hàng hóa cá nhân mà khu vực tư nhân
không muốn hoặc không được kinh doanh. Do vậy, xét toàn diện hơn DNCI cùng với các
DNNN hoạt động kinh doanh hợp thành hệ thống các DNNN, các doanh nghiệp này vừa
thực hiện chức năng kinh tế vừa thực hiện chức năng xã hội theo nhiệm vụ được Nhà nước
giao. Hệ thống DNNN đến lượt nó lại cùng các tổ chức kinh tế phi doanh nghiệp của Nhà
nước như dự trữ quốc gia, ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước hợp thành hệ thống
kinh tế Nhà nước, đây là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước điều tiết kinh tế - xã hội
nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, công bằng và ổn định.
- Vai trò của DNCI.
Cả lý thuyết và thực tiễn đều khẳng định, trong nền KTTT định hướng XHCN
không thể thiếu khu vực kinh tế nhà nước vững mạnh, đủ khả năng đóng vai trò chủ đạo
trong nền KTTT định hướng XHCN. Trong thành phần kinh tế nhà nước, không có những
DNCI và những doanh nghiệp giữ các vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân không thể
tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo đúng định hướng XHCN.
Vai trò của DNCI là cung cấp HHCC, vai trò của HHCC được thể hiện tập trung
trên ba khía cạnh cơ bản sau:
Một là, trên thị trường có nhiều "chỗ trống" do tính phi hiệu quả hoặc do sự cấm
đoán của pháp luật trong việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ, DNCI góp phần lấp
những chỗ trống này. Từ đó nó tham gia vào sự hình thành một môi trường kinh doanh ổn
định, đóng góp tích cực và không thể thiếu cho việc nâng cao hệ thống kinh tế - xã hội nói
chung. Các doanh nghiệp khác không thể có điều kiện kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao
nếu thiếu sự cung ứng kịp thời và đầy đủ các hàng hóa và dịch vụ trong lĩnh vực an ninh,
quốc phòng và hạ tầng kỹ thuật.
Hai là, xét trên phương diện sản xuất xã hội có hai phương thức phân bổ nguồn
lực, phân bổ thị trường áp dụng chủ yếu cho các hàng hóa cá nhân và phân bổ phi thị
trường áp dụng chủ yếu cho các HHCC. Nếu như tất cả mọi hàng hóa đều là hàng hóa cá
nhân và mọi nguồn lực đều được phân bổ thông qua thị trường sẽ dẫn tới sự bất bình đẳng,
các DNCI góp phần tạo ra sự công bằng. Các công dân sinh sống ở các vùng khác nhau, có
địa vị xã hội khác nhau, có mức thu nhập khác nhau có thể hưởng thụ một số lợi ích tối
thiểu như nhau là minh chứng cho vai trò của loại hình doanh nghiệp hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận này.
Ba là, giá trị của các HHCC thể hiện ở những mặt tích cực của hàng hóa này mang
lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, cung cấp HHCC còn góp phần tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển kinh tế vùng, ngành và cân đối sự phát triển kinh tế của đất nước. Tác
dụng điều tiết và cân đối thể hiện rõ trong các chương trình đầu tư vào kết cấu hạ tầng
nông thôn, miền núi, các chương trình về giáo dục, nước sạch, bảo vệ môi trường, chăm
sóc sức khỏe.
DNCI thực hiện định hướng XHCN, nó sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ
công cộng và một số hoạt động thực hiện chính sách xã hội nhằm đảm bảo và nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần, vật chất của cộng đồng, thực hiện sự bình đẳng giữa mọi người,
giảm chênh lệch trong sự phát triển giữa các vùng, ví dụ: xe buýt công cộng; hay việc cung
cấp một số sản phẩm thiết yếu: dầu hỏa, muối I-ốt, thuốc chữa bệnh, giấy viết cho đồng
bào vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn. DNCI sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ
công cộng mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không được làm như:
in tiền, các sản phẩm phục vụ an ninh, quốc phòng.
- Bản chất của DNCI.
DNNN nói chung, DNCI nói riêng cũng có những đặc trưng về kinh tế và pháp lý
như các loại hình doanh nghiệp khác: là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân (được
thành lập một cách hợp pháp, có tài sản riêng và chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó,
có quyền quyết định độc lập về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, có quyền
nhân danh mình trong các quan hệ pháp luật) đảm nhận việc sản xuất, cung ứng, tiêu thụ
và trao đổi hàng hóa trên thị trường. Trên tư cách là một DNNN, DNCI là doanh nghiệp do
Nhà nước đầu tư vốn, tổ chức quản lý và kiểm soát, hoạt động không nhằm mục tiêu lợi
nhuận. Nhưng chính mục tiêu hoạt động là đặc trưng quan trọng nhất thể hiện bản chất của
nó. ở nước ta DNCI nhằm mục đích phục vụ ngày càng tốt hơn những nhu cầu về HHCC,
dịch vụ công cộng của mọi thành viên trong xã hội.
1.2.3 Sự cần thiết nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp công ích
Trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp trợ giúp DNNN như:
miễn giảm thuế, cho vay ưu đãi, vay không phải thế chấp, khoanh nợ, giãn nợ, chuyển nợ
thành vốn ngân sách cấp, được trúng thầu hoặc giao thầu nhiều công trình do Nhà nước
đầu tư… Tuy vậy, những yếu kém của DNNN vẫn còn rất nghiêm trọng, đó là: năng lực
cạnh tranh thấp do chất lượng kém, giá thành của nhiều sản phẩm còn cao, nhiều mặt hàng
có giá cao hơn mặt hàng cùng loại nhập khẩu (như sắt thép, phân bón, xi măng, đường);
công nợ quá lớn, nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng tăng, quy mô doanh nghiệp quá nhỏ;
công nghệ lạc hậu, có những doanh nghiệp còn làm ăn thua lỗ kéo dài. Trước tình hình đó,
việc cải cách DNNN đã trở nên hết sức cấp bách, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, bởi nhiều DNNN đang cung ứng những hàng hóa, dịch vụ chủ yếu là
chi phí đầu vào của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Yêu cầu đặt ra là, điều chỉnh
để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan
trọng; đa dạng hóa sở hữu, chuyển từ chế độ sở hữu duy nhất là Nhà nước sang đa sở hữu,
kể cả sở hữu tư nhân, với mục tiêu sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động và cơ sở vật
chất kỹ thuật, phát triển sản xuất kinh doanh. Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX đã quyết
định đến năm 2005, hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu DNNN hiện có
(khoảng 5.175 doanh nghiệp vào cuối năm 2002), bằng các hình thức như cổ phần hóa,
chuyển một số doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp trực thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, sáp nhập, giải
thể, phá sản, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê.
Vấn đề hiệu quả của DNNN là đặc biệt quan trọng, vì đã là doanh nghiệp kinh
doanh đương nhiên phải có hiệu quả thì mới tồn tại, phát triển. Việc xem xét, đánh giá hiệu
quả của DNNN cần có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội; trong đó lấy
suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của
doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ
yếu để đánh giá hiệu quả của DNCI.
Các đơn vị công lập chiếm tỷ trọng lớn trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học
công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao, phần lớn hoạt động theo cơ chế sự nghiệp công ích,
với nguồn kinh phí chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước. Việc duy trì cơ chế này dẫn tới
tình trạng vừa bất cập, vừa không hợp lý trong hoạt động dịch vụ và là một nguyên nhân
khiến cho lĩnh vực văn hóa xã hội phát triển chậm hơn lĩnh vực kinh tế. Nguồn kinh phí từ
ngân sách cho hoạt động sự nghiệp dù có tăng nhanh hơn các lĩnh vực khác cũng rất hạn
chế, không đảm bảo được chi phí cần thiết của đơn vị sự nghiệp, trước hết là không đủ trả
lương thỏa đáng cho thầy giáo, thầy thuốc và cán bộ, nhân viên, càng không đáp ứng được
yêu cầu phát triển. Trong khi đó, nhu cầu của nhân dân về các lĩnh vực này đang tăng lên
nhanh chóng với đòi hỏi cao hơn về chất lượng khi mức sống ngày một cải thiện. Người đi
học, đi khám, chữa bệnh ở các cơ sở công lập hiện nay, ngoài mức chi phí chính thức,
thường phải chi nhiều khoản khác một cách không minh bạch, dẫn tới nhiều hiện tượng
tiêu cực trái với đạo đức nghề nghiệp mà xã hội đã lên án gay gắt. Trong khi thu nhập
trong xã hội đã có sự phân tầng rõ nét, việc duy trì chế độ thu phí thấp không đủ trang trải
chi phí cần thiết đối với người sử dụng dịch vụ là dùng ngân sách trợ cấp đồng đều cho
mọi người, không phân biệt thu nhập; trong đó không có điều kiện chăm lo tốt hơn cho
người nghèo, vùng nghèo. Các đơn vị sự nghiệp công lập chịu sự quản lý của cơ quan chủ
quản tương tự như đơn vị hành chính, không phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong hoạt động và trong sự phát triển của mình. Chế độ chúng ta luôn coi trọng yêu
cầu nâng cao các phúc lợi cơ bản của nhân dân. Song việc thực hiện yêu cầu đó không thể
chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước, duy trì bao cấp tràn lan mà phải chuyển sang cơ chế dịch
vụ phù hợp với KTTT định hướng XHCN.
Nhằm đáp ứng những yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNCI,
phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN. Yêu
cầu tạo lập cơ chế sử dụng tài sản sở hữu toàn dân có hiệu quả trên cơ sở gắn lợi ích, trách
nhiệm của cá nhân người lao động và lãnh đạo doanh nghiệp với hiệu quả phục vụ cộng
đồng. Yêu cầu nâng cao hiệu quả vai trò chỉ đạo, điều tiết của Nhà nước trong nền KTTT
thông qua đặt hàng, đấu thầu cung cấp các SP, DVCI. Yêu cầu xã hội hóa các SP, DVCI
trên cơ sở sử dụng có hiệu quả ngân sách Nhà nước và huy động của các thành phần kinh
tế tham gia cung cấp các SP, DVCI mà xã hội cần nhưng Nhà nước không cấm là những
vấn đề cấp thiết đang đặt ra.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, DNCI là một bộ phận của DNNN,
do đó cũng phải đặt chung trong chỉnh thể của quá trình đổi mới quản lý đối với khu vực
kinh tế nhà nước. Yêu cầu đổi mới DNNN nhằm tạo lập môi trường và hành lang pháp lý
thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy cao độ quyền tự chủ, năng động trong sản xuất
kinh doanh. Thúc đẩy và định hướng các hoạt động kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Có chính sách và cơ chế giải quyết đúng đắn
mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước - doanh nghiệp - người lao động; quản lý bằng hệ
thống pháp luật và điều chỉnh thông qua hệ thống các đòn bẩy kinh tế.
Ngày nay, vai trò của Nhà nước đang thay đổi nhanh chóng ở hầu hết các nước
đang phát triển. Vai trò của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ
yếu, là người sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đang là vấn đề được xem
xét lại trong nhiều lĩnh vực. Có ý kiến cho rằng, Nhà nước đã và đang thực hiện các nhiệm
vụ mà nó không có đủ chuyên môn để thực hiện các nhiệm vụ này, kết quả là các nguồn
lực được đầu tư vào các hoạt động đã không được khai thác tối đa. Cụ thể như:
- Sự điều hành kém hiệu quả của Nhà nước đối với hệ thống cơ sở hạ tầng thường
dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng các dịch vụ công ích được cung cấp. Điều này cản trở sự
tiến bộ về mặt kinh tế và xã hội của các nước đang phát triển. Việc cung cấp gián đoạn
điện, nước và hệ thống đường nông thôn yếu kém đã làm tăng các chi phí của hoạt động
thương mại và công nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp thường là người gánh chịu điều
này do họ không thể có sự lựa chọn nào khác về cơ sở hạ tầng công cộng.
- Tại nhiều nước đang phát triển, sự thua lỗ của các DNNN đã vắt kiệt các nguồn
lực cần thiết cho các dịch vụ công cộng khác. Tuy nhiên, với sự điều hành tốt, nhiều quốc
gia trong số các nước đang phát triển đã có thể tạo ra một nguồn lợi nhuận đáng kể đầu tư
từ nguồn ngân sách. Các công ty Nhà nước có chi phí cao, không tương xứng các nguồn
lực của thị trường vốn trong nước. Thay vào đó, nếu các công ty này tạo ra lợi nhuận thì
họ có thể góp phần tăng nguồn vốn huy động trong nước và thu hút vốn nước ngoài.
- Nhà nước đưa ra hàng loạt các quy định nhằm bảo hộ các DNCI không hiệu quả
khỏi sự cạnh tranh đã ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội thông qua nhiều hình thức như tăng
chi phí đầu vào...Cùng với xu thế chung và những yêu cầu về đổi mới mô hình quản lý tài
chính và các chính sách tài chính đi kèm như chính sách về vốn, bảo toàn vốn, chi phí, giá
thành và doanh thu, chính sách về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận đối với các DNNN thì
DNCI cũng đòi hỏi phải được đổi mới tương ứng. Để khuyến khích các doanh nghiệp
không ngừng cải tiến công tác quản lý nhằm giảm chi phí, phấn đấu kinh doanh có lãi, tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh, Nhà nước cần có những chính sách nhằm tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp này chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh, có khả năng chủ động
về tài chính, có mức lợi nhuận thỏa đáng cho từng loại hình doanh nghiệp, trong từng lĩnh
vực cụ thể. Có thể thấy, DNCI cũng là một DNNN, vì vậy ngoài những nghĩa vụ và quyền
lợi của DNNN, DNCI vẫn cần thực hiện các hoạt động kinh doanh khác như Luật Doanh
nghiệp đã quy định như một doanh nghiệp kinh doanh đơn thuần.
1.3. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp công ích
1.3.1. Kinh nghiệm Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc đã có những chính sách cải cách kinh tế đem lại hiệu quả
rõ rệt, là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ở châu á. Nhà nước đã
tập trung một khối lượng vốn đầu tư lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, nhiều hơn số
lượng vốn hiện có tính từ sau ngày giải phóng cho đến năm 1980. Trung Quốc là nước chủ
trương xây dựng CNXH thông qua phát triển nền KTTT mà kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Với tỷ trọng hơn 70% của chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế, song Trung
Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới, đạt khoảng trên dưới
10% liên tục trong nhiều năm và đang có những dự báo cho rằng trong tương lai không xa,
Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế số 1 thế giới, lớn hơn cả của Mỹ về giá trị tuyệt đối.
áp dụng chính sách mở cửa, Nhà nước Trung Quốc đã có những chính sách rất cụ
thể áp dụng cho từng vùng khác nhau. Riêng đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế có thể nói Trung
Quốc đã có nhiều mạnh dạn sử dụng các phương pháp đầu tư thu hồi nhanh để tái đầu tư
cơ sở hạ tầng. Chỉ tính trong 10 năm gần đây, cơ sở hạ tầng đã được xây dựng mang tính
hiện đại đồng bộ ngay từ đầu, ưu tiên làm đường giao thông, đường điện, điện chiếu sáng,
cấp thoát nước, quy hoạch các ô xây dựng nhà ở, các công trình công cộng trước; còn trụ
sở làm việc thì xây sau.
Một trong những vấn đề đáng quan tâm về huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng
là kinh nghiệm của tỉnh Quảng Đông trong việc phát triển giao thông. Chỉ trong vòng 10
năm, theo thống kê chưa đầy đủ đã xây dựng được hơn 293 km đường cao tốc, hàng ngàn
km đường cấp I, cấp II và hơn 1.000 cây cầu lớn nhỏ. Nhờ đó đã rút ngắn thời gian đi lại
còn khoảng 1/3 so với trước. Có được kết quả đó là nhờ tỉnh Quảng Đông đã áp dụng chủ
trương "lấy đường nuôi đường, lấy cầu nuôi cầu" từ rất sớm, trong đó cho phép thu lệ phí
đối với tất cả các loại xe cộ khi qua cầu hoặc đường mới xây dựng và nâng cấp. Chỉ trong
vòng 10 năm đã thu được hơn 40 tỷ NDT (tương đương 5 tỷ USD). Do việc thu phí cầu
đường đạt kết quả tốt nên nhiều công ty nước ngoài đã và đang xây dựng các con đường
mới ở Quảng Đông. Đến năm 2000 đã xây dựng khoảng 1.000 km đường cao tốc trong nội
bộ tỉnh và đường liên tỉnh.
Một điểm đáng chú ý là Trung Quốc đã sử dụng rất hiệu quả công cụ trái phiếu
Chính phủ và hình thức kinh tế cổ phần để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông công chính.
Các đô thị lớn ở Trung Quốc thường phát hành cổ phiếu huy động vốn để xây dựng các
tháp truyền hình, công viên… Đối với các DNCI của Trung Quốc nói chung, Nhà nước chỉ
cấp đủ vốn ban đầu cho doanh nghiệp, còn lại mọi vấn đề đều do doanh nghiệp tự lo, kể cả
vốn nếu có nhu cầu phát sinh thêm. Tuy nhiên, để làm được việc đó thì các chính sách về
thu phí phải thông thoáng và phải đi trước một bước.
1.3.2. Kinh nghiệm một số nước ASEAN
- Kinh nghiệm của Thái Lan.
Thái Lan là quốc gia có xuất phát điểm thấp giống Việt Nam trong việc phát triển
kinh tế. Trong giai đoạn đầu phát triển đều gặp mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn đầu tư lớn,
trong khi khả năng nguồn vốn trong nước có hạn. Thái Lan rất coi trọng nguồn vốn trong
nước, khuyến khích tiết kiệm bằng nhiều biện pháp thu hút vốn tiền gửi tiết kiệm, thông
qua điều chỉnh lãi suất hợp lý, kết hợp với mở rộng hệ thống ngân hàng ở trong nước, ngân
hàng ở nước ngoài. Tỷ lệ tiết kiệm luôn được duy trì ở mức ổn định (20 ÷ 22% GDP).
Hình thành và hoàn thiện dần thị trường chứng khoán, sử dụng đồng bộ các công
cụ tài chính - tiền tệ, miễn giảm thuế lợi tức 2 năm cho các doanh nghiệp đầu tư vào kết
cấu hạ tầng. Theo số liệu thống kê, trong hai thập kỷ qua, Thái Lan đã đầu tư vào cơ sở hạ
tầng khoảng 30 tỷ USD.
Ngoài ra, Thái Lan cũng tạo môi trường pháp lý linh hoạt để thu hút nguồn vốn
nước ngoài, tiếp thu công nghệ, đổi mới kỹ thuật, cho tự do chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài, cung cấp nguồn lao động giá rẻ… Vì vậy Thái Lan đã có sự tăng trưởng kinh tế
nhanh so với các nước trong khu vực và đã xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng giao
thông công chính khá hiện đại.
- Kinh nghiệm của Singapore.
Singapore là một trong những nước có nền kinh tế năng động nhất ở Đông Nam á,
sử dụng thành công các công cụ tài chính - tiền tệ để động viên mọi nguồn lực trong và
ngoài nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế nói chung, cơ sở hạ tầng giao thông
công chính nói riêng. Singapore đặc biệt coi trọng nguồn vốn trong nước và khẳng định
đây là yếu tố chủ yếu để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, đặc biệt vốn đầu tư từ lĩnh
vực tư nhân thường chiếm tỷ trọng lớn. Nhà nước tạo môi trường đầu tư thuận lợi, khuyến
khích thu hút vốn bằng các chính sách ưu đãi dưới mọi hình thức. Để đẩy nhanh tốc độ
huy động vốn đầu tư đối với tất cả các thành phần kinh tế, Nhà nước đã ban hành Luật
khuyến khích thu hút, sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Có thể nói, vốn đầu tư
cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực giao thông công chính ở Singapore do tư nhân đầu tư ngày
càng tăng lên, các DNNN đầu tư có xu hướng giảm dần. Thời gian gần đây, Nhà nước đã
đẩy mạnh tư nhân hóa để giảm nhẹ gánh nặng cho Chính phủ, nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh, nâng cao năng suất lao động và việc sử dụng vốn đầu tư ngày càng có hiệu quả
cao hơn. Đã thực hiện việc phát hành trái phiếu với nhiều hình thức đa dạng nhằm thu hút
vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
ở các nước công nghiệp phát triển, các chính phủ thường coi DNNN là công cụ để
thực hiện những hoạt động sản xuất kinh doanh mà khu vực kinh tế tư nhân không muốn hoặc
không thể làm. Vì vậy ở những nước này các DNNN được hình thành chủ yếu để cung cấp
các HHCC và thực hiện những mục tiêu xã hội khác. DNNN tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong
GDP nhưng có những đóng góp hết sức quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng và sự
ổn định của nền kinh tế. Trong khi đó, hầu hết các nước đang phát triển không chỉ xem xét các
DNNN với tư cách là các công cụ để thực hiện các mục tiêu xã hội mà còn là công cụ để thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Do vậy, DNNN còn được thành lập ở những ngành cung
cấp các hàng hóa cá nhân, đặc biệt ở những ngành đòi hỏi công nghệ cao và nhiều vốn: sản
xuất ô-tô, điện tử và ngay trong những ngành cung cấp các hàng hóa cá nhân có tính công
cộng cũng có sự đan xen giữa các DNCI và DNNN hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Ví dụ
như trong ngành điện các khâu phát điện, chuyển tải điện do các DNCI đảm nhiệm còn khâu
phân phối điện lại do các DNNN hoạt động kinh doanh đảm nhiệm. Ngay chính ở các nước tư
bản, DNNN cũng còn có vai trò không nhỏ. Theo đánh giá của UNDP, DNNN trong các nước
tư bản phát triển vẫn còn chiếm khoảng 10%.
1.3.3. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh
Công ty Quản lý công trình giao thông Sài Gòn (thuộc Sở Giao thông công chánh)
đã áp dụng công tác khoán quản lý sửa chữa thường xuyên đường bộ đã mang lại nhiều
hiệu quả thiết thực. Thông qua việc triển khai công tác khoán đã tạo nên động lực mạnh
mẽ thúc đẩy việc nhanh chóng sửa chữa, duy tu đường, góp phần quan trọng trong việc
thực hiện Nghị định 36/CP của Chính phủ về lập lại trật tự an toàn giao thông đô thị trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với xã hội: đường sạch đẹp hơn, giao thông an toàn
hơn, hệ thống biển báo giao thông đầy đủ và rõ ràng hơn. Đối với người quản lý: phải thi
công đúng quy trình, quy phạm, bảo đảm chất lượng, phải thi công nhanh hơn, quá trình
thi công đảm bảo tuyệt đối an toàn lao động, an toàn giao thông, mỹ quan đô thị. Thực
hiện phương án khoán quản lý, sửa chữa đường bộ đã đáp ứng được nguyện vọng của
người dân, tiếng nói của công luận thể hiện ở chỗ: mọi sự cố phát sinh trên hệ thống đường
bộ đều được phản ảnh hoặc trực tiếp (qua điện thoại hoặc phản ánh trực tiếp), hoặc gián
tiếp (qua đơn thư, báo chí…) đến Công ty quản lý và chậm nhất sau 24 giờ đã được xử lý.
Cũng từ đây, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ xã hội của người quản lý được nâng
cao, không chạy theo lợi nhuận đơn thuần. Thời gian đầu nhận khoán, trung bình Công ty
nhận được từ 10 ÷ 20 ý kiến phản ánh/ngày của nhân dân về tình trạng sự cố cầu đường
phải xử lý. Thời gian hiện nay chỉ còn 2 ÷ 3 ý kiến phản ánh/ngày mà tính chất lại không
ảnh hưởng đến an toàn giao thông như trước (ví dụ: nước đọng trên đường).
Vấn đề vốn cho công tác duy tu, sửa chữa thường xuyên chống xuống cấp cũng là
vấn đề cần được quan tâm hơn nữa. Hiện nay, tỷ lệ vốn cho công tác quản lý duy tu so với
tiêu chuẩn ngành còn thấp (chỉ đạt khoảng 50%). Đa số đường đều khai thác và sử dụng
vượt quá hạn mức duy tu. Tương tự như vậy, Công ty Quản lý công trình cầu phà với
nhiệm vụ quản lý 184 cầu (năm 2000) có tổng chiều dài 11.132 m, kinh phí Công ty dự
kiến là 15,2 tỷ đồng nhưng chỉ được cấp 11,7 tỷ đồng; 192 cầu (năm 2001) có tổng chiều
dài tăng thêm 2.431 m, kinh phí Công ty dự kiến là 27,9 tỷ đồng nhưng chỉ được cấp 21,6
tỷ đồng (77,4%); 193 cầu (năm 2002) có tổng chiều dài tăng thêm 1.057 m, kinh phí Công
ty dự kiến là 30 tỷ đồng nhưng chỉ được cấp 24 tỷ đồng (61,4%). Nếu không có những
thay đổi mang tính chiến lược về đầu tư và quản lý thì thời gian tới, viễn cảnh sẽ xấu đi
nghiêm trọng, đây là vấn đề mà Nhà nước cần quan tâm đúng mức trong thời gian tới.
1.3.4. Những bài học kinh nghiệm rút ra
Qua thực tiễn kinh nghiệm quản lý các DNCI của một số nước và Thành phố Hồ
Chí Minh, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Thủ đô Hà Nội như sau:
Cần có chính sách cho phép và khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công cộng. Tạo điều
kiện thành lập các doanh nghiệp tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp với hiệu quả quản lý cao,
năng động trong vận hành.
Thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính - tiền tệ, không phân biệt hình thức sở
hữu doanh nghiệp. Thực hiện thu phí đối với các dịch vụ công cộng với giá phù hợp, từng
bước tiến tới đảm bảo thu phí có thể bù đắp được chi phí cung cấp dịch vụ.
Đối với các DNCI, Nhà nước cần cung cấp đầy đủ vốn ban đầu cho doanh nghiệp
và doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, còn lại mọi vấn
đề về tài chính, kể cả việc huy động thêm vốn nếu doanh nghiệp có nhu cầu đều do doanh
nghiệp chủ động. Cho phép các DNCI được thực hiện các hình thức huy động vốn và được
áp dụng các hình thức đầu tư đa dạng như: BT, BOT, BTO, …
Đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong đầu tư, có chính sách bảo đảm quyền
lợi cho các nhà đầu tư vào kết cấu hạ tầng GTCC, một lĩnh vực có nhiều rủi ro và khó
khăn trong việc thu hồi vốn.
Đối với công tác duy tu, duy trì hệ thống hạ tầng kỹ thuật GTCC, cần có cơ chế
quản lý phù hợp, khoán quản lý theo chất lượng sản phẩm. Điều cơ bản nhất là cần cung
cấp vốn duy tu đầy đủ, theo yêu cầu sửa chữa chống xuống cấp, đúng định kỳ kỹ thuật.
Kết luận chương 1
Mặc dù quan niệm về DNNN, DNCI của các quốc gia có phần khác nhau về phân
loại SP, DVCI; về từng thời kỳ mở rộng hay thu hẹp nhưng tựu chung SP, DVCI đều được
các quốc gia coi trọng do tính đặc thù của các DNCI hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận nhưng rất cần thiết để đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đảm bảo các
mục tiêu xã hội; các thành phần kinh tế khác không muốn tham gia do vốn đầu tư lớn, hiệu
quả thấp hoặc không có hiệu quả, thời gian thu hồi vốn chậm. Khu vực phục vụ công cộng
được định hướng nhiều đến trách nhiệm xã hội và nhận thức về môi trường và hoạt động
công ích tồn tại khách quan trong mọi nền kinh tế.
Chương 2
Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp
công ích thành phố Hà Nội trong thời gian qua
2.1. Quá trình hình thành và phát triển các doanh nghiệp công ích Thành phố
Hà Nội
2.1.1. Vị trí, vai trò Thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
Từ một thành phố tiêu thụ sau ngày tiếp quản Thủ đô (10/10/1954) lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, ngày nay Hà Nội đã trở thành một trung tâm lớn về kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học, giáo dục… có vị trí rất quan trọng trong khu vực và cả nước. Kinh
tế phát triển đồng đều ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP là
40,4%, dịch vụ là 57,2%, nông nghiệp là 2,4%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng mỗi năm
bình quân 15 ÷ 16%, giá trị sản xuất nông nghiệp trên một hec-ta canh tác đạt gần 50 triệu
đồng, nhịp độ tăng trưởng GDP mỗi năm tăng 10 ÷ 11%. Theo số liệu thống kê, năm 2004
GDP của Hà Nội (theo giá 1994) là 30.526,7 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng GDP là 11,2%
(toàn quốc là 7,69%), GDP bình quân đầu người đạt 18,2 triệu đồng/người/năm (toàn quốc
là 8,69 triệu đồng/người/năm); kinh tế nhà nước chiếm 62,9% GDP. Mặc dù chỉ chiếm
3,6% dân số và 0,3% diện tích lãnh thổ (xếp thứ 61/64 tỉnh thành), Hà Nội đã đóng góp
8% GDP và 15% thu ngân sách của cả nước. Từ năm 1999, Hà Nội đã hoàn thành phổ cập
trung học cơ sở, mạng lưới y tế được kiện toàn, đảm bảo 100% các trạm y tế xã, phường
đều có bác sĩ. Hộ nghèo chỉ còn 1%, toàn bộ người nghèo đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế.
Quy mô thành phố được mở rộng, đến năm 2004 Hà Nội có diện tích 920,97 km2
(gấp 6 lần thời Pháp thuộc), với dân số 3.118.000 người (gấp 8 lần thời Pháp thuộc), mật
độ dân số cao nhất cả nước 3.386 người/km2. Nhiều tuyến đường, trục đường lớn, nút giao
thông quan trọng được mở rộng; hàng triệu mét vuông nhà ở và nhiều khu đô thị mới theo
quy hoạch chung của thành phố được xây dựng. 100% các xã ngoại thành đều có điện
thoại, số máy điện thoại bình quân đạt 35,4 máy/100 dân (năm 2000 là 17,1 máy/100 dân).
Những vấn đề bức xúc về nước sạch, điện chiếu sáng, xử lý úng ngập, rác thải… từng
bước được giải quyết. Diện mạo Thủ đô ngày càng khang trang, sạch đẹp; xứng đáng là
"trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa,
khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế". Hà Nội có vinh dự lớn và trách nhiệm rất
nặng nề như Nghị quyết số 15 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII) đã chỉ
rõ. Hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2010, Hà Nội phải phấn đấu
bảo đảm ổn định vững chắc về chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, khoa học -
công nghệ, văn hóa - xã hội toàn diện, bền vững, xây dựng về cơ bản cơ sở vật chất - kỹ thuật
và xã hội của Thủ đô, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, từng bước trở thành một trung
tâm ngày càng có uy tín ở khu vực.
2.1.2. Khái quát sự hình thành và phát triển doanh nghiệp công ích ngành
Giao thông công chính Thành phố Hà Nội
2.1.2.1. Tổ chức giao thông và công chính Hà Nội từ sau ngày giải phóng
Ngày 10/10/1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng, dân số thành phố khi đó
khoảng 40 vạn người. Ngay sau khi tiếp quản Thủ đô, chính quyền thành phố đã thực thi
một số biện pháp cấp bách nhằm nhanh chóng ổn định bước đầu tình hình kinh tế, chính trị
và xã hội ở Hà Nội.
Trong niềm vui Thủ đô được giải phóng, công nhân điện, nước, vệ sinh tích cực
làm việc phục vụ nhân dân. Giao thông trong thành phố đã được giữ vững, xe điện đảm
bảo vận chuyển hành khách bình thường. Các tuyến đường bộ, đường thủy giữa Hà Nội và
các tỉnh vẫn thông suốt. Ngày 30/10/1954, chuyến xe lửa Hà Nội - Hải Dương bắt đầu
chạy.
Một số mốc lịch sử:
+ Sở Vận tải Hà nội được thành lập từ ngày 12/10/1957.
+ Đổi tên thành Sở Giao thông vận tải Hà nội từ ngày 18/5/1965.
+ Sở Công trình thị chính được thành lập năm 1960 đến tháng 5/1969.
+ Từ tháng 5/1969 sáp nhập Sở Công trình thị chính và Sở Nhà đất thành Cục
Quản lý công trình công cộng Hà Nội.
+ Tách Cục Quản lý công trình công cộng Hà Nội thành Sở Quản lý Nhà đất và Sở
Quản lý công trình đô thị từ tháng 10/1978.
+ Sáp nhập Sở Giao thông vận tải và Sở Quản lý công trình đô thị thành Sở Giao
thông công chính từ tháng 11/1989. Sở GTCC có nhiệm vụ:
- Một là: Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển GTCC hàng năm và 5 năm về
xây dựng, cải tạo sửa chữa các công trình giao thông vận tải và công trình hạ tầng đô thị
của các địa phương, mạng lưới giao thông đô thị và nông thôn, quản lý và phát triển các
lực lượng vận tải.
- Hai là: Bố trí lại cơ cấu vốn đầu tư xây dựng, cải tạo các công trình giao thông
vận tải và công trình hạ tầng đô thị, theo dõi việc thực hiện các quy hoạch, kế hoạch đã
được duyệt.
- Ba là: Quản lý vốn ngân sách được giao hàng năm và giao thầu cho các đơn vị
làm nhiệm vụ xây dựng, cải tạo, sửa chữa các công trình giao thông, công trình hạ tầng kỹ
thuật đô thị.
- Bốn là: Hướng dẫn việc tổ chức và quản lý các đơn vị vận tải ngoài quốc doanh;
được ủy nhiệm tổ chức đăng ký, kiểm tra kỹ thuật an toàn phương tiện vận tải thủy theo
phân cấp.
- Năm là: Nghiên cứu, soạn thảo các văn bản hướng dẫn các ngành, các cấp và
nhân dân thực hiện các chính sách, luật lệ, quy định của Nhà nước về xây dựng, khai thác,
bảo quản và sửa chữa hệ thống các công trình giao thông vận tải thủy, bộ; các công trình
cơ sở hạ tầng đô thị được phân công quản lý.
Sở GTCC được thành lập giữa lúc Thủ đô đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới sau hai
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần
thứ X của Đảng bộ thành phố. Một trong sáu nhiệm vụ then chốt cần tập trung chỉ đạo trong
hai năm 1989 -1990 là: "tạo một bước chuyển về công tác quản lý đô thị và các hoạt động văn
hóa, xã hội của Thủ đô".
Lúc đó, Sở GTCC Hà Nội quản lý một số DNNN tham gia cung cấp HHCC trên
địa bàn nội thành bao gồm: Công ty Môi trường đô thị, Công ty thoát nước, Vườn Thú,
Công ty Công trình giao thông 3, Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị, Công ty Công viên
Cây xanh, Công ty Xe buýt, Công ty Khai thác điểm đỗ xe, Công ty Xe điện, Công ty
Quản lý bến xe. Công ty Kinh doanh nước sạch, Công ty Kinh doanh nước sạch số 2
(thành lập tháng 8/1996), Công ty Công viên Thống Nhất (thành lập tháng 10/1997).
2.1.2.1. Khái quát thực trạng cơ sở hạ tầng giao thông đô thị trước đổi mới và
trước khi thành lập Sở Giao thông công chính
Trước thời kỳ đổi mới, Thành phố Hà Nội đứng trước thực trạng khó khăn, phức
tạp. Nhiều mặt quản lý đô thị xuống cấp nghiêm trọng đang là vấn đề nhức nhối, lo âu, bất
bình trong nhân dân. Trật tự, trị an, trật tự giao thông, trật tự vỉa hè, trật tự vệ sinh, trật tự
xây dựng bị buông lỏng trong thời gian dài làm cho văn minh đô thị ngày càng giảm sút.
Sang năm 1990, lĩnh vực công tác xã hội của Hà Nội có nhiều khó khăn và phức tạp, đời
sống cán bộ công nhân viên chức và nhân dân giảm sút hơn năm 1989. Số người chưa có
việc làm ngày càng tăng, hàng vạn công nhân dôi dư được trợ cấp thôi việc theo Quyết
định 176/HĐBT, phần đông sau khi ra khỏi cơ quan, xí nghiệp phải tự kiếm sống bằng
nhiều cách, chủ yếu "bung ra" vỉa hè buôn bán nhỏ, gây mất trật tự công cộng và an toàn
giao thông.
Trong cuốn 15 năm (1990-2005) ngành GTCC Hà Nội đổi mới và phát triển đã
thống kê:
+ Về hệ thống cấp nước:
Từ tháng 6/1985 trở về trước, tình hình cấp nước của Hà Nội rất căng thẳng. Hệ
thống cấp nước chỉ có 106 giếng nước ngầm, 8 nhà máy nước lớn và khoảng 210 km
đường ống. Công suất cấp nước tính toán trong toàn khu vực nội thành vào khoảng
290.000 m3/ngày đêm. Các cụm xử lý và trạm bơm xuống cấp cần cải tạo gấp rút vì mức
độ cấp nước thấp, mạng lưới bị rò rỉ (khoảng 50%), áp lực nước trong mạng rất thấp.
Đến cuối năm 1990, hệ thống cấp nước Hà Nội có 112 giếng, đã cải tạo và thi
công mới 8 nhà máy nước có công xuất phát nước từ 30.000 m3/ngày đêm đến 60.000
m3/ngày đêm. Tổng công suất phát nước của thành phố là 360.000m3/ngày đêm, song chỉ
có 120.000 hộ với khoảng 500.000 người dân được hưởng nước có chất lượng đảm bảo với
áp lực cao, bình quân đạt 80 lít/người/ngày. Còn lại 50% dân cư ở nhiều khu vực trong
thành phố vẫn chưa được cấp nước đều đặn.
+ Về hệ thống thoát nước:
Hệ thống thoát nước của khu vực thành phố cũ được xây dựng từ năm 1839 cho
đến thập niên 90 vẫn chưa được cải tạo và nâng cấp ngoài một số sửa chữa nhỏ kể từ năm
1954 đến năm 1990. Nội thành Hà Nội có 120 km cống ngầm, mật độ cống quá thấp so với
mặt bằng xây dựng. Nhiều tuyến cống không phát huy được hiệu quả thoát nước vì không
được nạo vét thường xuyên, nhiều nhà xây dựng không phép nên cơ quan chức năng
không quản lý được COS, vì vậy nước thải cũng không thoát được ra mương.
Tại khu vực mới mở rộng, số lượng cống không đủ để thoát nước, gây ứ đọng
nước thải và úng ngập nước mưa. Địa hình bằng phẳng và nhiều hồ ao bị san lấp nên khả
năng thoát nước mưa của cống ngầm ngày càng bị hạn chế. Khi mưa trên 100 mm đã xuất
hiện trên 60 điểm úng ngập trên đường phố và khu dân cư nội thành. Nước thải sinh hoạt
và công nghiệp không được xử lý chảy thẳng ra sông, mương qua hệ thống cống chung
gây ô nhiễm nghiêm trọng. Bốn sông thoát nước ra ngoại thành và hơn 130 ha hồ bị bồi
lắng, không còn nhiều khả năng tải và chứa nước [52, tr.47, 48].
+ Về vệ sinh môi trường:
Môi trường nước có nguy cơ ô nhiễm vì toàn bộ nước thải của 274 xí nghiệp, 540
cơ sở dịch vụ, 450 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và 20 bệnh viện đều chảy trực tiếp ra
sông hồ. Trong nội thành còn tồn tại 11.000 hố xí 2 ngăn và xí thùng, 17 nhà vệ sinh công
cộng và 316 nhà vệ sinh liên gia đều bị xuống cấp, hư hỏng.
Hàng ngày thành phố thải ra gần 2.000 m3 rác nhưng mới thu gom được hơn 40%.
Một lượng rác rất lớn tồn đọng trong các ngõ xóm và các khu tập thể. Mới có 50% số xí
nghiệp công nghiệp ký hợp đồng thu gom rác thường xuyên, chưa có đủ phương tiện thu
gom và vận chuyển rác. Rác phải tập kết trên đường để chuyển đi. Hà Nội khi đó chưa có
công trình xử lý rác mà chủ yếu là chôn lấp.
+ Về hệ thống công viên - cây xanh:
Nội thành Hà Nội thời điểm này có gần 40.000 cây bóng mát, trong đó có khoảng
1/2 là cây xanh đường phố với 44 loại khác nhau. Từ năm 1990 số cây thân gỗ được trồng
thêm từ 10.000 đến 20.000 cây/năm. Mật độ cây xanh phân bố không đều, chủ yếu tập
trung ở khu vực Ba Đình và Hoàn Kiếm. Hà Nội nổi tiếng là thành phố có nhiều cây xanh
nhưng thực tế diện tích đất xanh bình quân chỉ đạt 2,5 m2/người và chỉ có 60% đường phố
có cây xanh tốt.
Cơ cấu cây xanh nói chung chưa phù hợp với kiến trúc đô thị. Hàng năm Công ty
Công viên phải cắt bỏ từ 150 ÷ 200 cây sâu mục. Những loại cây có tán lá rộng, rễ chùm
thường bị đổ khi có mưa bão lớn. Vườn Thú Hà Nội khi đó chỉ có 78 loài với 500 cá thể,
mỗi năm chỉ có vài chục vạn lượt người tham quan với doanh thu không đáng kể [52, tr.50,
51].
+ Về hệ thống chiếu sáng công cộng:
Nhờ sự viện trợ, giúp đỡ tích cực của Liên Xô (cũ), sự hợp tác nhiệt tình của các
chuyên gia trong và ngoài nước và tinh thần chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, kỹ sư,
công nhân chiếu sáng nên đến thời điểm này, trên hầu hết các đường phố nội thành đã
được chiếu sáng bằng đèn thủy ngân cao áp, với tổng chiều dài các tuyến đèn đường là 238
km, đạt 60% tổng sơ đồ quy hoạch. Tổng công suất thiêu thị cho chiếu sáng công cộng là
28 MW (xấp xỉ bằng 1% tổng công suất tiêu thụ điện năng của thành phố).
+ Về hệ thống giao thông vận tải:
Trên địa bàn Hà Nội thời điểm năm 1989 có 1.437 km đường quốc lộ liên tỉnh và
liên huyện với 7,65 triệu m2 mặt đường. Nội thành Hà Nội có 235 km đường với 2,11 triệu
m2. Diện tích đường chỉ chiếm 4,9% diện tích Hà Nội, nhưng có tới 48,7% đường nội
thành đã bị rạn nứt, ổ gà. Mạng lưới giao thông đường bộ nội thành còn thiếu rất nhiều so
với tiêu chuẩn quy định của thành phố ở các nước phát triển. Mạng lưới đường phân bố
không đều, chất lượng thấp, đường chật hẹp. Trong các giờ cao điểm trên các đường trục
hệ số sử dụng lòng đường đã vượt từ 1 ÷ 3 lần do lòng đường nội thành quá hẹp, 88%
đường phố có chiều rộng dưới 11m.
Các nút giao thông đều giao cắt đồng mức, lưu lượng giao thông quá lớn do đó đã
dẫn đến tình trạng mất trật tự, ùn tắc, không đảm bảo an toàn giao thông. Vào giờ cao
điểm, xe đạp xe máy chiếm 92 ÷ 94% phương tiện đi lại nên tại các nút giao thông chính
thường xuyên bị ách tắc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội.pdf