Tài liệu Luận văn Tìm hiểu công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN:
Công ty cổ phần và vai trò của
nó trong phát triển kinh tế ở
nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của
nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển
mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối
thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp .
Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách
mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế
kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ khi đất nước được
thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác do cơ chế
kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính...
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Công ty cổ phần và vai trò của
nó trong phát triển kinh tế ở
nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của
nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển
mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối
thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp .
Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách
mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế
kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ khi đất nước được
thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác do cơ chế
kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền kinh
tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội
Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt nam. Đó là
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị
trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh
tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh
tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992
đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định
giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng
trước pháp luật
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới.
Trước đây chưa có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật
doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ và
rõ ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh
nghiệp. Cũng chính từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày càng phát
huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình doanh nghiệp
khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong
công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta thì công
ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động của thị trường này.
Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Với vai trò và tầm quan trọng của công ty cổ phần ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay, em mạnh dạn chọn đề tài "Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển
kinh tế ở nước ta hiện nay".
Chương I
Lý luận CHUNG Về CÔNG TY cổ phần
I. Khái niệm, sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần
1. Khái niệm
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và
chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận
2. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở các nước tư bản phát triển như một
nhu cầu khách quan của lịch sử. Trong suốt mấy trăm năm qua các công ty cổ phần đã
chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Quá trình lịch sử
hình thành và phát triển của hình thức công ty cổ phần trên thế giới có thể được mô tả
theo sơ đồ sau:
Các giai đoạn hình
thành CTCP trên thế giới
Giai đoạn
mầm mống
- Góp vốn
theo nhóm
bạn
- Hoạt động
liên kết
lỏng lẻo
Giai đoạn
hình thành
- Bắt đầu
phát hành
cổ phiếu
- Bước đầu
xuất hiện
giao dịch
chứng
khoán
- Hoạt động
có tổ chức
lớn hơn
Giai doạn
phát triển
- Công ty cổ
phần phổ
biến ở các
nước tư bản
chủ nghĩa
-Các hình
thức đa quốc
gia
- Hình thành
trung tâm tài
chính quốc tế
-Giao dịch
chứng khoán
sôi động
Giai đoạn
trưởng thành
- Hình thức
công ty xuyên
quốc gia, đa
quốc gia
- Thu hút công
nhân mua cổ
phiếu
- Cơ cấu công
ty cổ phần
hoàn thiện,
pháp luật hoàn
thiện
2.1. Giai đoạn mầm mống
Trong những năm đầu của phuơng thức sản xuất TBCN các nhà tư bản lập ra
các xí nghiệp TBCN riêng lẻ, hoạt động độc lập thuê mướn công nhân và bóc lột lao
động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng họ
đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân (gia đình) và chữ tín góp vốn kinh
doanh nhằm mục đích sinh lợi. Từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát triển thành
doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553 công ty cổ phần đầu tiên ở Anh thành lập với số vôn
6000 bảng Anh phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng Anh để tổ chức đội
buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang ấn Độ theo hướng Đông Bắc.
Năm 1801 tại Luân Đôn sở giao dịch chứng khoán chính thức ra đời tạo ra thị
trường chứng khoán. Thị truờng chứng khoán liên quan tới doanh nghiệp cổ phần bao
gồm cả cổ phần tư nhân và doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước đứng ra thành lập.
Theo Các Mác "Trong bước đầu của nền sản xuất TBCN một số ngành sản xuất đòi
hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc đó từng cá nhân riêng lẻ chưa thực hiện được. Tình
hình đó dẫn đến Nhà nước phải trợ cấp... Mặt khác điều đó cũng dẫn đến việc thành
lập những nơi nắm giữ độc quyền do pháp luật thừa nhận để kinh doanh trong những
ngành công nghiệp và thương nghiệp nhất định". Như vậy trong giai đoạn này công ty
cổ phần có hai loại:
+ Doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn
+ Doanh nghiệp do Nhà nước lập bằng hình thức phát hành trái khoán (ở Mỹ gọi
là cổ phần công cộng) hoặc doanh nghiệp Nhà nước góp vốn.
2.2. Giai đoạn hình thành
Trong nửa đầu thé kỷ XIX các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với
hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Những quy định cơ bản về
công ty cổ phần đã ra đời (ở Pháp vào những năm 1806). Công ty cổ phần được thành
lập rộng khắp trong các ngành nghề không chỉ trong thương nghiệp mà trong giai đoạn
trước ở các ngành chế tạo, các lĩnh vực giao thông vận tải đường sông, đưòng sắt.
Cổ phiếu phát hành có thể bán trao tay, loại giao dịch chứng khoán này có lúc
vượt ra ngoài biên giới quốc gia thu lợi nhuận theo hình thức lợi tức định kỳ. Một số
doanh nghiệp lớn của tư bản tư nhân bắt đầu phát hành cổ phần, tách người đại biểu
quyền sở hữu (hội đồng quản trị) và người kinh doanh (giám đốc) ra làm hai. Các sở
giao dịch chứng khoán cũng hình thành phổ biến ở các nước Phương Tây tuy nhiên
trước những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít và hình thức chưa đa dạng,
quy mô còn nhỏ.
2.3. Giai đoạn phát triển
Sau những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần phát triển rất nhanh phổ
biến ở tất cả các nước tư bản, các ngành có quy mô sản xuất mở rộng, tập trung tư bản
diễn ra với tốc độ chưa từng có, ra đời các tổ chức độc quyền như Các ten – Xanh đê
ca – Cơ vốt. Các công ty nắm giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết cấu chuỗi.
Công ty mẹ công - ty con – công ty cháu hình thành một tập đoàn doanh nghiệp xuyên
quốc gia.
Đến năm 1930 số công ty cổ phần của Anh là 86000, 90% tư bản chịu sự khống
chế của công ty cổ phần. ở Mỹ 1909 có tổng số 262000 công ty cổ phần. Đến năm
1939 số công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% trong tổng số các xí nghiệp nông nghiệp
và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
2.4. Giai đoạn hình thành
Sau chiến tranh thế giớ thứ hai công ty cổ phần có những đặc điểm mới:
- Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để liên
hợp kinh tế và quốc tế hoá cổ phần hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc tế
- Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần thực hiện " chủ nghĩa tư bản nhân dân"
để làm dịu mâu thuẫn giữa lao động và tư bản đồng thời thu hút vốn một cách thuận
lợi
- Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật
ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng
3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần
Muốn hình thành công ty cổ phần phải có một số điều kiện nhất định trong đó
những điều kiện sau là thiết yếu :
3.1. Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn
Công ty cổ phần là công ty có nhiều người đứng sở hữu. Nếu công ty chỉ thuộc
một chủ sở hữu thì dù chủ sở hữu đó là một cá nhân hay một tổ chức thì đó không
phải là công ty cổ phần mà thuộc một loại hình công ty khác có thể là công ty tư nhân,
công ty TNHH một thành viên hay Công ty liên doanh ( nếu chủ sở hữu là Nhà nước)
3.2. Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận
Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với các hình thức đầu tư khác như
mua công trái, trái phiếu, gửi ngân hàng... Trong kinh doanh có khả năng bị phá sản
nhưng bù lại là hình thức đầu tư có hứa hẹn nhất và không bị lạm phát với món tiền
lớn
3.3. Lợi nhuận thu được phải có đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh doanh
Nếu lợi nhuận trong kinh doanh mang lại lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức
do đầu tư vào các lĩnh vực khác và lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn
sàng góp vốn vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh
3.4. Phải có sự nhất trí thành lập công ty
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với nhau
để cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy định của
pháp luật. Nếu không thoả thuận được thì công ty cổ phần không thể thành lập được
4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần
4.1. Cổ phần, cổ phiếu và cổ đông
Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ
phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở
hữu một hoặc một số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc
không ghi tên. Giá trị của mỗi cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu bảo đảm
cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng với số
tiền ghi trên cổ phiếu
Một công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành hình thành nên vốn cổ phần của
công ty. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn vào công
ty cổ phần, những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc
nhiều cổ phiếu. Quyền và trách nhiệm, lợi ích của mỗi cổ đông phụ thuộc vào số lượng
cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có
thể nắm được quyền chi phối mọi hoạt động cuả công ty.Theo điều 51 và 53 của Luật
doanh nghiệp Việt Nam thì :
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác trừ cổ đông sở
hữu cổ phần ưu đãi. Và trong ba năm đầu từ khi thành lập công ty cổ đông sáng lập chỉ
được chuyển nhượng cổ phần nếu được sự đồng ý của Đại hội Đồng cổ đông
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn
chế số lượng tối đa
- Cổ đông có hai loại là cổ đông ưu đãi và cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông có
các quyền cơ bản như : tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của
Đại hội đồng cổ đông ( mỗi cổ phần có một phiếu biểu quyết), được nhân cổ tức với
mức theo quy định của Đại hội đồng cổ đông... Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu
trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng hoặc tỷ lệ khác
nhỏ hơn theo quy định của điều lệ công ty có quyền đề cử người vào Hội đồng Quản
trị và Ban kiểm soát, yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông ....
4.2. Cơ cấu tổ chức và điều hành hoạt động của công ty cổ phần
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần nên các cổ đông không
thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện
làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị,
Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty, là Đại hội của những cổ đông sở hữu đối với công ty cổ phần. Đại hội cổ
đông có 3 hình thức là: Đại hội hội đồng cổ đông thành lập, Đại hội đồng cổ đông bất
thường và Đại hội hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty
cổ phần bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi để có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đại hội hội đồng cổ đông giao phó. Số thành viên do
Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào điều lệ của công ty. Hội đồng quản trị có
toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích,
quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội
đồng Quản trị tự bầu chủ tịch Hội đồng và chủ tịch Hội đồng Quản trị có thể kiêm
Tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không có qui định khác.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và
chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn
được giao. Về thực chất giám đốc điều hành là người làm thuê cho chủ tịch Hội đồng
Quản trị. Giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà theo thời hạn hợp đồng ký kết
với chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Ban kiểm soát có vai trò giám sát các hoạt động của công ty. Số lượng uỷ viên
kiểm soát theo qui định trong điều lệ của công ty. Những người này không phải là
thành viên của Hội đồng Quản trị và giám đốc.
Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Trong công ty cổ phần quan hệ phân
phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và phụ thuộc vào lợi
nhuận của công ty. Lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết,
phần còn lại được chia đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần vốn góp của họ và gọi là cổ
tức.
5. Các loại công ty cổ phần trên thế giới.
ở các nước khác nhau công ty cổ phần có thể khác nhau về tên gọi. ở Pháp là
công ty vô danh, ở Anh là công ty TNHH ( company Ltd ). ở Mỹ nó được gọi là công
ty kinh doanh ( comercial – coorporation). ở Nhật Bản là công ty chung cổ phần (
Habusiki Haishu) ... Tuy nhiên xét về bản chất chung không có gì khác nhau lớn.
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc dân
1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan
Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào
mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau:
1.1. Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày càng
cao
Trong nền sản xuất hàng hoá quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh tranh
khốc liệt giữa các nhà tư bản buộc họ phải tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo cho giá trị hàng hoá cá
biệt của mình thấp hơn giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát
triển. Điều này thường chỉ những nhà tư bản lớn, có quy mô sản xuất ở mức độ nhất
định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại làm cho năng suất lao động tăng
lên do đó mới có thể thắng được trong cạnh tranh. Còn nhứng nhà tư bản nào có giá trị
hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và phá sản. Để
tránh điều này các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để mở rộng quy mô sản
xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động hạ giá
thành sản phẩm. Song đây là một biện pháp rất khó thực hiện do việc tích tụ vốn phải
mất một thời gian khá dài, vì thế các nhà tư bản vừavà nhỏ phải thoả hiệp liên minh
với nhau để tập trung tư bản cá biệt của họ lại thành một tư bản lớn đủ sức cạnh tranh
và dành ưu thế với các nhà tư bản khác. Chính từ hình thức tập trung vốn này các công
ty cổ phần dần dần hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ
1.2. Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ kỹ thuật tạo
động lực thúc đẩy công ty cổ phần hình thành và phảt triển
Công ty cổ phần ra đời rất sớm ( thế kỷ 16) nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ 19
mới phát triển một cách rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản. Công ty
cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng phát
triển cao đòi hỏi tư bản cố định tăng lên và vì thế quy mô tối thiếu mà một nhà tư bản
phải có để có thể kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng như ngày càng lớn hơn.
Một nhà tư bản cá biệt không thể đáp ứng được số vốn đó phải có sự liên minh tập
trung nhiều tư bản cá biệt còn đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách góp vốn để
cùng kinh doanh. Với sự tập trung vốn như vậy đã hình thành công ty cổ phần. Mặt
khác do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn đã thu hút được các nhà tư
bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này bằng cách di chuyển tư
bản từ các ngành, lĩnh vực và các ngành kinh doanh kém hiệu quả. Điều này càng gây
ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di chuyển vốn bởi vì họ không thể
bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp đang có để thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng
ngay một doanh nghiệp mới mà chỉ có thể rút bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi.
Quy luật đó có thể kéo dài và do vậy họ có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn đó chỉ được
giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để
xây dựng các doanh nghiệp lớn, cùng chung mục tiêu đi tìm lợi nhuận siêu ngạch họ
đã gặp nhau và nhanh chóng thoả thuận cùng nhau góp vốn để thành lập công ty cổ
phần để cùng kinh doanh
1.3. Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý
Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật ngày càng cao, cạnh tranh càng khốc
liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các doanh nghiệp ngày càng
lớn. Để tránh những rủi ro này các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình tham
gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Điều này có thể làm
cho họ chia sể sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Mặt khác do cùng được một
số đông người quản lý nên tập trung phát huy được sức mạnh trí tuệ của nhiều người
trách được rủi ro và thành công hơn trong kinh doanh
1.4. Sự phát triển của tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phảt
triển
Kinh tế hàng hoá phát triển dẫn tới sự ra đời và phát triển của nhiều loại thị
trường trong đó có thị trường vốn . Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ
tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất định
để thu hồi một món lời gọi đó là lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có một vai trò to lớn trong quá trình cạnh
tranh làm giam chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.Tín dụng còn có
vai trò, động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần bởi vì:
-Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu không
có thị trường tiền tệ phát phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có
nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
-Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều
chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi
còn do bản thân ngân hàng tiến hành.
Tóm lại, công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình
thành và phát triển kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư
bản. nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nền đại công nghiệp cơ khí
và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
2.Vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc điểm rất riêng của mình công ty cổ phần có vai trò quan trong
đối với việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Công ty cổ phần có khả năng tập trung vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh khổng lồ mà không nhà tư bản riêng biệt nào
có thể tự mình làm nổi. Các Mác đã đánh giá vai trò nàycủa công ty cổ phần như sau:
"Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng lẻ lớn lên đến
mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn
không có đường sắt. Ngược lại qua công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện được
việc đó chỉ trong nháy mắt"
- Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn bởi vì : Thứ
nhất, do hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động vốn đã đề cao trách nhiệm của
doanh nghiệp nâng cao sự quan tâm đến sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Mặt khác do sức
ép của cổ đông do việc đòi chia lãi cổ phần và muốn duy trì giá cổ phiếu cao trên thị
trường chứng khoán khiến doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiêụ quả sử dụng
đồng vốn. Thứ hai, là do lợi nhuận của các công ty cổ phần là khác nhau trong các
lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn rỗi từ nhiều kênh khác
nhau trong xã hội vào các ngành, các lĩnh vực có năng suất lao động và tỷ suất lợi
nhuận cao làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu quả trong nền kinh tế
- Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù đã hạn chế được những
tác động tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng
hoảng. Chế độ đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của rủi ro thua lỗ. Vốn tự
có của công ty huy động thông qua việc phát hành cổ phiếu là vốn của nhiều cổ đông
do đó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông. Nhờ vậy khi công ty cổ phần phá sản hậu quả
về mặt kinh tế xã hội được hạn chế ở mức thấp nhất. Cách thức huy động vốn của
công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phiếu,
trái phiếu ở các công ty ở nhiều ngành khác nhau nên giảm bớt được tổn thất khi công
ty bị phá sản so với việc đầu tư vào một công ty. Cơ chế phân bổ rủi ro này đã tạo điều
kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư vào một công ty làm cho nền kinh tế
phát triển và có xu hướng ổn định hơn.
- Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng
mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của thị
trường chứng khoán – trái tim của thị trường vốn. ý nghĩa căn bản của thị trường
chứng khoán là ở chỗ : Đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được nguồn tài
trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm
của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư, là cơ chế phân bổ các nguồn vốn đầu tư
phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, và còn là cơ sở quan trọng để Nhà
nước qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế
nhằm đạt được mục tiêu lựa chọn
- Công ty cổ phần đảm bảo sự tham gia của đông đảo của công chúng, lại có cơ cấu
tổ chức quản lý chắt chẽ, phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh
nên đã tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý công ty một cách thực sự, sử
dụng được những giám đốc tài năng, đảm bảo được quyền lợi, lợi ích và trách nhiêm
của chủ sở hữu, đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, thực hiện tốt nguyên
tắc " ai giỏi nghề gì làm nghề ấy " giúp mọi người được làm việc ở vị trí thích hợp để
có thể phát huy hết tài năng sáng tạo vốn có của mình
- Công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư
của nước ngoài. Với một nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển thì việc đó
thu hút nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên doanh liên kết
với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước
Chương II
Vai trò của công ty cổ phần
đối với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
I. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam
1. Quá trình hình thành là tất yếu khách quan.
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần. Sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế
khách quan, một xu hướng tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước la phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy nước ta
cần phải hình thành công ty cổ phần dựa trên một số căn cứ sau :
1.1. Sự hạn chế và kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của một số doanh
nghiệp Nhà nước.
Trong thời gian 10 năm đổi mới một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không
hiệu quả còn nhiều hạn chế. Nằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doang nghiệp
trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Động lực lợi ích là mục tiêu cao
nhất của doanh nghiệp, của người có vốn cũng như người lao động. Nó là cơ sở bên
trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đòi
hỏi phải tìm đến một hình thức kinh tế thích hợp là công ty cổ phần bởi trong công ty
cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản được phân tách rõ ràng nên cơ chế
phân phối lợi ích được giải quyết tương đối ổn thoả.
1.2 Nhu cầu cải cách hệ thống DNNN để nâng cao vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà
nước.
Hiện nay khu vực DNNN kinh doanh với hiệu quả rất kém ( Chiếm 70% tổng
số vốn của nền kinh tế xong chỉ tạo ra 40% GDP ). Vì vậy việc cải cách hệ thống
DNNN theo hướng đa dạng hoá sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả là cấp
bách hơn bao giờ hết, bởi có như thế DNNN mới vươn lên giữ vai trò chủ đạo, đảm
bảo cho các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo XHCN, ổn định chính trị – xã hội
và vững bước đi lên XHCN. Một trong những biện pháp cải cách DNNN hiện nay ở
Việt nam là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy quá trình hình thành công
ty cổ phần từ cổ phần hoá DNNN là xu hướng tất yếu hiện nay.
1.3. Nhu cầu huy động vốn của các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước để
phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH Đất nước.
Đặc biệt của cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần là có thể thu hút các
nguồn vốn quy mô lớn của các ngân hàng đến các nguồn vốn vô cùng nhỏ của các tầng
lớp dân cư. Cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất cao so
với huy động vốn của ngân hàng, đây là cách huy động vốn tiên tiến nhất phù hợp với
xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại.
1.4. Sự hình thành công ty cổ phần là sự phát triển hợp với xu thế thời đại
Hiện nay xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước đã diễn ra ở mọi nước trên thế giới . Trong bối cảnh đó, sự giao lưu, hoà
nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan. Một trong các hình thức
liên kết kinh tế giữa các quốc gia dưới hình thức góp vốn kinh doanh là công ty cổ
phần vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hoá rất cao, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều quốc gia.
2. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam
Trong lịch sử hình thành và phát triển có hai phương pháp để thành lập các
công ty cổ phần đó là thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nước đã có.
Do nền kinh tế Việt nam hiện nay có những đặc điểm cụ thể, riêng biệt so với
các các nước khác trên thế giới nên việc thành lập mới các công ty cổ phần không
được chú trọng phát triển. Hiện nay ở Việt nam, kinh tế quốc doanh đang nắm vai trò
chủ đạo, hiện có 7500 doanh nghiệp nhà nước, nắm giữ khoảng 80% tài sản quốc gia,
90% lao động lành nghề và cán bộ khoa học kỹ thuật, 95% tín dụng nhà nước. Nhưng
có đến 20% -30% doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, ngoài ra đây còn là khu vực có
rất nnhiều tiêu cực như lãng phí , quân liêu làm thất thoát tài sản ... Mục tiêu cải cách
hệ thống DNNN đẻ nâng cao vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế quốc dân đã và
đang được đề ra một cách bức bách. Chính việc cải cách hệ thống DNNN bằng cách cổ
phần hoá là con đường khả thi và có hiệu quả nhất đang được Đảng và Nhà nước ta
quán triệt nên chúng ta chỉ tập chung đi sâu vào việc hình thành các công ty cổ phần
bằng cách cổ hoá các DNNN.
Việc cổ phần hoá các DNNN được tiến hành theo ba phương thức sau: một là
giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy định
nhằm thu hút vốn để phát triển , hai là bán một phần hiện có của doanh nghiệp, ba là
tách một bộ phận của doanh nghiệp đã đủ điều kiện cổ phần hoá.
Từ tháng 11năm 1987 trong Quyết định 217 của HĐBT Chính phủ đã xác định
chủ trương thí điểm bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên các DNNN. Song phải
sang đầu những năm 1990 , chủ trương này mới thực sự được triển khai trong thực tế.
Có thể chia quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta thành ba giai đoạn sau đây:
Giai đoạn thí điểm (1992-1995) : Thực hiện chỉ thị 202/ CT ngày 8/6/1992 của chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ
phần và chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá
doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN. Trong
bước đầu hoạt động , các công ty cổ phần mới thành lập này đều thu được những kết
quả sản xuất kinh doanh khả quan .
Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998): Từ kết quả thí
điểm của giai đoạn trước, ngày7/5/1996 Chính phủ đã ban hành nghị định 28/CP về
chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định này đã tạo nên khuôn khổ
pháp lý đầy đủ để tiến hành cổ phần hoá DNNN , công tác cổ phần hoá được các cấp
các ngành quan tâm hơn .
Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá (từ tháng6\1998): Nghị định 44/CP ngày
29/06/1998 đã thay thế nghị định 28/CP với tinh thần tạo đông lực mạnh mẽ hơn cho
doanh nghiệp và người lao đọng làm ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, đơn
giản hoá các thủ tục chuyển sang công ty cổ phần. Trong bước đầu hoạt động , các
công ty cổ phần đều phát triển được sản xuất kinh doanh , không những đảm bao được
việc làm mà còn thu hút thêm lao động, thu nhập của người lao động được nâng cao .
3. Các loại công ty cổ phần ở Việt Nam
Loại công ty cổ phần đầu tiên chúng ta đề cập đến đó là công ty cổ phần quốc
doanh . Đây là một giải pháp để khắc phục khuyết tật của hình thức sở hữu nhà nước
và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong khu vực quốc doanh. Công ty cổ phần quốc
doanh gồm nhiều chủ sở hữu : Nhà nước, những người lao động trực tiếp trong công ty
cổ phần , các cá nhân và các tổ chức khác Một đặc điểm quan trọng là nhà nước nắm
giữ cổ phần khống chế để chi phối các hoạt động của các công ty cổ phần do đó được
gọi là các công ty cổ phần quốc doanh. Người thay mặt nhà nước với tư cách là một
cổ đông trong Hội đồng quản trị có vai trò, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng hơn so với
vai trò chủ sở hữu gắn với bộ máy Nhà nước và viên chức Nhà nước. Ngoài ra do cũng
là công ty cổ phần nên nó có đầy đủ các vai trò , đặc điểm của công ty cổ phần đã nêu .
Loại công ty cổ phần thứ hai là công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài.
Chúng ta đều biết rằng công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ
đầu tư của nước ngoài. Do đó với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện
nay, sự ra đời của công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài đặc biệt quan trọng.
Điểm khác cơ bản của loại hình công ty cổ phần này sovới công ty cổ phần quốc
doanh đó là sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào mọi bộ phận của
công ty. Mặc dù vậy. do nước ta dịnh hướng phát triển một nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết của Nhà nước nên trong các công ty cổ phần loại này chủ yếu vẫn là Nhà
nước nắm cổ phiếu khống chế.
Loại công ty cổ phần thứ ba : là công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài. Đó là
những công ty cổ phần do các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài lập nên ở Việt nam.
Cũng có thể là một công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài nhưng sau một thời
gian làm ăn, các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài dần dần nắm được toàn bộ
số cổ phiếu của công ty .
Ta cũng cần phân biệt được công ty cổ phần với công ty hợp doanh và công ty
trách nhiệm hữu hạn – hai loại công ty này đang tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam.
Điểm khác nhau cơ bản nhất giữa chúng đó là công ty hợp danh và công ty TNHH
nhiêù thành viên không được phát hành cổ phiếu và trái phiếu trong quá trình kinh
doanh. Trong trường hợp thiếu vốn thì công ty chỉ có thể huy động các cổ đông góp
thêm mà thôi . Việc đóng góp này do Đại hội cổ đông quyết định.
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay
Công ty cổ phần ra đời và phát triển khá sớm ở các nước tư bản chủ nghĩa, đối
với nước ta công ty cổ phần xuất hiện muộn hơn nhiều. Chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI với việc thực hiện chủ trương đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và
Nhà nước là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta mới bắt đầu xuất
hiện một số công ty cổ phần với quy mô nhỏ bé, trình độ thấp và đang trong giai đoạn
sơ khai. Từ đó đến nay công ty cổ phần phát triển tương đối mạnh mẽ và đã khẳng
định được vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế Việt Nam
ở nước ta điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh
tế là cần phải huy động được nguồn vốn lớn. Huy động vốn trong nhân dân vừa là giải
pháp cấp bách vừa là giải pháp cơ bản trong chiến lược tạo vốn cho từng doanh nghiệp
hiện nay. Điều này chỉ thực hiện được thông qua công ty cổ phần. Bởi vì so với công
ty cổ phần thì hai hình thức huy động vốn chủ yếu ở nước ta hiện nay là hệ thống quỹ
tiết kiệm và tín phiếu kho bạc còn nhiều nhược điểm ( cả với người gửi và người đi
vay ). Thứ nhất, nếu huy động vốn qua hệ thống tiết kiệm, tín dụng thì chi phí và lãi
suất cao gây khó khăn cho người sử dụng vốn vì phải thông qua nhiều khâu chi phí
nghiệp vụ và lợi tức tăng lên. Huy động vốn thông qua công ty cổ phần giảm được chi
phí không cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng vốn cũng như bảo vệ
quyền lợi người có vốn. Thứ hai, gửi tiền vào quỹ tiết kiệm hoặc mua tín phiếu tuy có
lãi suất ổn định, hạn chế phần nào rủi ro nhưng người có vốn hoàn toàn mất khả năng
chi phối việc sử dụng vốn, không được hưởng những may mắn của việc sử dụng đồng
vốn đó. Khi mua cổ phiếu, tuy phải chịu sự rủi ro ở mức độ nhất định nhưng lại được
hưởng may mắn mà lúc nào cũng có trong thương trường. Hơn nữa các cổ đông lại có
quyền lực trong Đại hội cổ đông và khi điều kiện cùng khả năng cho phép họ có thể
được bầu vào các cơ quan lãnh đạo của công ty. Do đó việc mua cổ phiếu hấp dẫn hơn
Ngoài ra công ty cổ phần còn là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự
đầu tư của nước ngoài. Nước ta hiện nay đang cần thiết thu hút vốn đầu tư nước ngoài
cho sự nghiệp phát triển kinh tế, hình thức liên doanh góp vốn cổ phần với nước ngoài
sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có đủ sức mạnh về mọi mặt vốn, tiềm lực vật chất kỹ
thuật, năng lực quản lý
Hệ thống DNNN ở nước ta hiện nay đang hoạt động kém hiệu quả một phần vì
không xác định rõ ai là chủ sở hữu đích thực. Đây là nguyên nhân gây ra sự lãnh đạm,
thiếu trách nhiệm ,thiếu kỷ cương, kỷ luật của người lao động, sự giảm sút về năng
suất, chất lượng và hiệu quả, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập. Còn trong
công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng được xác định rõ ràng nên cơ chế
phân phối lợi ích được giải quyết thoả đáng. Lợi ích của người lao động và người có
vốn gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của công ty nên trở thành động lực cơ sở
bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty
Hiện nay quá trình cổ phần hoá ở nước ta đang được triển khai khá mạnh mẽ.
Việc hình thành công ty cổ phần thông qua cổ phần hoá góp phần nâng cao vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước bởi chỉ có thế mới nâng cao được hiệu quả của các doanh
nghiệp Nhà nước. Hơn nữa Nhà nước với hình thức tham dự cổ phần của mình có thể
nhanh chóng can thiệp nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế thúc đẩy sự phát triển và điều
tiết thị trường một cách có hiệu quả
Công ty cổ phần ra đời còn góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển thị trường
chứng khoán ở Việt Nam. Tháng 7 năm 1998 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Đồng thời với việc ban
hành nghị định 48 /1998 /NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Chính
phủ đã ký quyết định số 127 /1998 /QĐ-TTg về thành lập hai Trung tâm Giao dịch
chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, phát đi hiệu lệnh khởi động thị
ttrường chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán, các nhà kinh doanh có thể
huy động mọi nguồn tiết kiệm trong dân cư. Nó là cơ sở quan trọng để Nhà nước
thông qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế
nhằm đạt được những mục tiêu đã lựa chọn. Thiếu thị trường chứng khoán sẽ không
có nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự ra đời của nó không phụ thuộc ý muốn
chủ quan của con người mà là kết qủa của sự phát triển chung về kinh tế xã hội, trong
đó sự ra đời và phát triển, hoạt động một cách hoàn hảo của các công ty cổ phần giữ
vai trò quyết định.
III. Thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt nam.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được bắt đầu thí điểm từ cuối
năm 1991. Quá trình cổ phần hoá ở nước ta về cơ bản có thể chia làm hai giai đoạn:
1. Thời kỳ thí điểm cổ phần hoá (6/1992 đến hết năm 1996)
Thực hiện Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, các Bộ, ngành đã hướng dẫn doanh nghiệp
nhà nước đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số
lượng doanh nghiệp nhà nước đã đăng ký, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm
chuyển thành công ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ công nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ công nghiệp)
3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Nông nghiệp).
4. Xí nghiệp Chế biến gỗ Lạng Long Bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty Vật tư Tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại).
6. Xí nghiệp Sản xuất Bao bì (Thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp Dệt da may Lagamex (Thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 DNNN được Chính phủ chọn làm thí điểm đều xin
rút lui, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá như Lagamex, nhà máy Xà
phòng Việt Nam... Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm thực
hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp nhà nước xin chuyển thành công ty TNHH theo
chỉ thị 84/TTg. Có 5 doanh nghiệp nhà nước được phép chuyển sang công ty cổ phần,
đó là:
1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)
3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần Chế biến hàng Xuất khẩu Long An (Tỉnh Long An)
5. Công ty cổ phần Chế biến Thức ăn Gia súc (Bộ công nghiệp).
Trong một thời gian thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy số lượng các doanh
nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần còn ít song giai đoạn thí điểm đã đem
lại một số kết quả đáng chú ý:
Quá trình thí điểm cổ phần hoá đã huy động được một lượng vốn quan trọng
trong nhân dân. Qua bán cổ phiếu, nhà nước đã thu được 14,165 tỷ đồng tiền mặt nộp
vào Ngân sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để
đầu tư vào chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
DNNN
Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 100% cán bộ công nhân viên tham gia
mua cổ phiếu. Khi người lao động có vốn trong công ty, lợi ích của họ gắn với lợi ích
công ty vì vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình. Mặt khác họ
cũng yêu cầu Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành phải chỉ đạo và tổ chức để công
ty hoạt động có hiệu quả.
Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế như doanh thu
tăng bình quân 56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%; nộp Ngân sách tăng 89%/năm; tỷ
suất lợi nhuận trên doanh thu là 14,10%.
Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình quân vốn của các
doanh nghiệp mỗi năm tăng 45%.
Người lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của người
lao động tăng 20%/năm.
Nhà nước vẫn giữ được vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ phiếu
chi phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ hoạt động phù
hợp với quy định của Nhà nước.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996) tổng số doanh nghiệp
nhà nước được chuyển sang công ty cổ phần là 12 doanh nghiệp. Dưới đây là danh
sách các doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp đó sau thời
gian cổ phần hoá.
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
Chỉ tiêu Đơn vị Trước CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.120 16.530 24.134 47.538 65.046
2. Nộp NS Tr.đồng 3.336 3.750 8.700 16.530 25.117
3. Lãi Tr. đồng 3.400 3.700 8.800 15.200 23.000
4. Thu nhập bình
quân người/tháng
1000 đồng 850 900 1.200 1.400 2.000
5. Lao động Người 56 320
(Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính.)
Công ty đại lý Liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận chuyển từ kho của
người gửi đến kho cuả người nhận bằng các phương tiện đường bộ, đường thuỷ, đường
biển tới các cảng quốc tế. Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên ở nước ta
được tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp này được chính thức chuyển sang
công ty cổ phần vào ngày 01/07/1993. Tổng số vốn điều lệ của công ty sau cổ phần
hoá là 6.207.655.000 đồng được chia thành 31.038 cổ phiếu với mệnh giá 200.000;
trong đó tỷ lệ cổ phần của nhà nước là 18%, của cán bộ công nhân viên chức trong
công ty là 77%, của cổ đông ngoài là 5%. Sau 3 năm hoạt động kể từ ngày chuyển
sang công ty cổ phần, số lao động của công ty tăng từ 56 người (năm 1993) lên 320
người (năm 1996). Doanh thu năm 1996 tăng gấp gần 4 lần so với năm 1993, nộp ngân
sách của công ty cũng tăng từ 3.750 (1993) lên 25.117 (1996) tức khoảng 6,6 lần, thu
nhập người lao động tăng từ 900.000 (năm 1993) lên 2. 000.000 (năm 1996).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) được thành lập năm 1987 trên cơ sở công ty
liên hợp Thiết bị lạnh trực thuộc Sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ khi
mới thành lập, công ty đã tổ chức lại bộ máy gọn nhẹ, hoạt động theo nguyên tắc hạch
toán duy nhất, năng động trong quản lý sản xuất kinh doanh. Công ty đã mạnh dạn
nhập các thiết bị lạnh với phương thức trả chậm, tiêu thụ nhanh hàng nhập, thanh toán
kịp thời và đầy đủ phần nợ trả chậm cho bên nước ngoài. Cũng chính từ thành công
trong hoạt động ngoại thương, tích tụ và tập trung tư bản được hình thành, công ty đã
thành lập 2 công ty liên doanh: Công ty liên doanh CERVICO (liên doanh với công ty
MEKONG - một công ty Việt kiều ở Đức) nhằm lắp ráp thiết bị lạnh trong nước, vốn
đầu tư là 820.000 USD. Công ty liên doanh REEYOUNG (liên doanh với công ty
BOUYONG của Nam Triều Tiên) chuyên sản xuất túi sách xuất khẩu, vốn đầu tư
1.600.000 USD. Trong những năm trước cổ phần hoá, công ty hoạt động thực sự có
hiệu quả. Công ty luôn dự đoán đúng nhu cầu của thị trường trong nước nên đã tạo
được một số lượng hàng hoá, thiết bị vật tư dự trữ đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách
hàng, tạo được niềm tin và giữ được uy tín với khách hàng. Tháng 11/1993 theo quyết
định số 1707/QĐ - UB của UBND TP Hồ Chí Minh, Công ty Cơ điện lạnh chính thức
được chuyển sang công ty cổ phần. Tổng số vốn điều lệ mới thành lập của công ty là
16 tỷ đồng được chia thành 160.000 cổ phần với mệnh giá một cổ phiếu là 100.000
đồng, Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần là 30% (gồm 4 đại diện cổ đông), cán bộ công
nhân viên chức trong công ty là 50% (gồm 212 cổ đông), các cổ đông ngoài công ty là
20% (gồm 238 cổ đông). Cổ đông là cán bộ công nhân công ty được mua không quá
5% tổng số cổ phiếu, cổ đông ngoài công ty không được mua quá 0,5% tổng số cổ
phiếu. Như vậy cổ đông là cán bộ công nhân viên công ty không được mua cổ phần
quá 800 triệu đồng, cổ đông ngoài công ty không được mua cổ phần quá 800 triệu.
Ngoài ra, các cổ đông là nhân viên công ty còn được vay tiền với lãi suất ưu đãi, được
chia quỹ khen thưởng và phúc lợi còn lại để có thể mua cổ phiếu. Ba năm sau khi cổ
phần hoá, tổng số vốn của công ty tăng từ 16 tỷ đồng (năm 1993) lên 30 tỷ đồng (năm
1996), doanh thu năm 1996 tăng gấp 5 lần so với năm 1993. Số lao động năm 1996
tăng hơn 3 lần so với những năm công ty chưa được cổ phần hoá. Tổng thu nhập của
người lao động đạt 1.800.000/cổ phần. Công ty đang nghiên cứu sẽ bán tiếp cổ phần
ưu đãi cho 2/3 số công nhân mới được tuyển vào làm, nhằm thu hút thêm số người có
tay nghề cao. Năm 1996, công ty được nhà nước cho phép phát hành thử trái phiếu
chuyển đổi bằng ngoại tệ và bán cho các nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị 5 triệu
USD, lãi suất 4,5%/năm. Các trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu trong quý
3/1996, trái chủ được chuyển thành cổ đông sẽ không được tham gia Hội đồng quản
trị.
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trước CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 42.000 45.000 77.000 214.000 277.000
2. Nộp NS Tr. đồng 2.570 54.370 13.126 48.000 61.000
3. Lãi Tr. đồng 6.800 7.300 11.300 21.300 5.000
4. Thu nhập
bình quân
người/tháng
1000đồng 774 1.200 1.400 1.500 1.800
5. Lao động Người 200 800
(Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính)
Công ty cổ phần giầy Hiệp An là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại giày dép
phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Công ty được chuyển sang công ty cổ
phần tháng 8/1994 với tổng giá trị doanh nghiệp là 4,793 tỷ đồng. Trong đó Nhà nước
giữ 30% vốn cổ phần, cán bộ công nhân công ty giữ 35,5%, cổ đông ngoài doanh
nghiệp giữ 34,8%. Doanh thu năm 1996 tăng xấp xỉ gấp 2 lần với năm 1993, nộp ngân
sách năm 1996 tăng 5,3 tỷ đồng so với năm 1993. Thu nhập người lao động tăng từ
420.000đ/ người/ tháng lên 1.200.000/người/tháng. Dưới đây là một số chỉ tiêu kinh tế
- xã hội của công ty
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trước CPH Sau CPH
1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.200 13.493 18.624 25.639
2. Nộp ngân sách Tr. đồng 2.100 2.800 5.200 8.100
3. Lãi Tr. đồng 2.718 3.152 5.412 7.918
4. Thu nhập bình quân
người/tháng
1000 đồng 420 470 850 1.200
5. Lao động Người 380 400
(Nguồn: Ban cổ phần Bộ tài chính)
2. Thời kỳ sau thí điểm (từ cuối năm 1996 đến nay)
Thực hiện Nghị định 28/CP (7/5/1996) về chuyển các DNNN sang công ty cổ
phần ( CTCP), thời kỳ sau thí điểm cổ phần hoá (từ cuối năm 1996 đến tháng 2 năm
1999) đã có 134 doanh nghiệp được chuyển sang CTCP, tính chung cả thời kỳ thí
điểm hiện nay có tất cả 146 doanh nghiệp (theo báo cáo của Ban cổ phần hoá, bộ tài
chính). Từ bảng danh sách (phụ lục), chúng ta thấy tốc độ cổ phần hoá diễn ra còn
chậm, số các DNNN chuyển sang CTCP “nhỏ giọt” trong các năm 1993 - 1997, cụ thể
năm 1993: 2 donah nghiệp; năm 1994: 1 doanh nghiệp; năm 1995: 2 doanh nghiệp;
năm 1996: 7 doanh nghiệp và năm 1997: 4 doanh nghiệp. Sang năm 1998 đã có sự tiến
bộ: 102 doanh nghiệp. Như vậy số doanh nghiệp chuyển sang CTCP năm 1998 lớn
hơn nhiều so với số doanh nghiệp chuyển sang CTCP của các năm trước cộng lại.
Song kế hoạch đề ra là thực hiện cổ phần hoá thành công 150 doanh nghiệp trong năm
1998 thì con số 102 CTCP chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Bước sang năm 1999, Chính phủ đặt ra kế hoạch sẽ thực hiện cổ phần hoá thêm
khoảng 400 doanh nghiệp. Theo Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương thì từ
đầu năm đến nay đã có thêm 42 doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần
với tổng số vốn điều lệ gần 180 tỷ đồng. Trong số đó có gần 23 doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp xây dựng, 10 doanh nghiệp dịch vụ thương mại, 3 doanh nghiệp giao
thông vận tải và 5 doanh nghiệp nông - lâm - thuỷ sản. Hầu hết các doanh nghiệp có
quy mô vừa và nhỏ, chỉ có 3 doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên là công
ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn thuộc Tổng công ty xi măng (38 tỷ đồng), công ty cổ phần
điện cơ thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam (25 tỷ đồng) và công ty cổ phần xuất
nhập khẩu Tân Định thuộc thành phố Hồ Chí Minh (10 tỷ đồng). Các địa phương và
ngành triển khai cổ phần hoá tích cực nhất là tỉnh Bình Định (4 doanh nghiệp), thành
phố Hồ Chí Minh (4 doanh nghiệp), Tổng công ty cà phê (3 doanh nghiệp), Tổng công
ty xi măng Việt Nam (2 doanh nghiệp)... Trong số 34 doanh nghiệp hoàn thành thủ tục
bán cổ phiếu đã có 12 doanh nghiệp không có cổ phần của Nhà nước và 27 doanh
nghiệp có cổ phần của cổ đông ngoài doanh nghiệp. Như vậy, theo kế hoạch đặt ra cho
năm 1999 là sẽ cổ phần hoá từ 400 - 600 doanh nghiệp thì con số 42 doanh nghiệp nhà
nước mới được cổ phần hoá từ đầu năm đến nay chỉ bằng 1/10 kế hoạch. Và từ giờ đến
cuối năm, chúng ta phải cổ phần hoá thêm hơn 300 doanh nghiệp nữa.
Kết quả bước đầu.
Về phía doanh nghiệp, nhìn chung hoạt động của công ty cổ phần sau khi cổ
phần hoá đều có hiệu quả, các chỉ tiêu tăng nhiều lần so với khi còn là DNNN biểu
hiện trên cả 3 mặt lợi ích của: lao động - doanh nghiệp - Nhà nước. Việc huy động vốn
của công ty cổ phần chủ yếu đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng suất, hiệu
quả sản xuất kinh doanh cao hơn trước, đem lại lợi nhuận cao hơn. Cơ câú vốn sở hữu
trong các công ty cổ phần, tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất so với các
sở hữu khác. Nhà nước nắm từ 18% đến 51% (Bình quân 41%) cổ phần công ty; cổ
đông là người lao động từ 18% đến 50% cá biệt có doanh nghiệp trên 70% (bình quân
30%) cổ phần công ty; số cổ phần còn lại là thuộc cổ đông ngoài xã hội nắm giữ (bình
quân 29%).
Về phía Nhà nước, ngoài việc Nhà nước tăng thu các khoản thu từ doanh
nghiệp như thuế lợi tức do doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhà nước còn thu được
một lượng vốn từ các nguồn phát sinh trong quá trình cổ phần hoá như số thu về tiền
bán cổ phiếu. Ví dụ số thu về cổ phần hoá tính đến hết năm 1997 như sau:
Tiền thu về bán cổ phiếu: 30. 207 triệu đồng
Lợi tức của Nhà nước tại các công ty cổ phần: 6.995 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần Nhà nước: 522 triệu đồng.
Tổng cộng: 37. 724 triệu đồng.
Về phía người lao động: người lao động đã gắn được kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình với lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp, đồng thời được
tạo điều kiện làm chủ doanh nghiệp. Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là
DNNN từ 1,5 - 2 lần, bên cạnh đó người lao động còn nguồn thu từ lợi tức cổ phần
khoảng 22% - 24%/năm.
Việc làm của người lao động được đảm bảo, hơn thế ngoài số lao động cũ, các
công ty cổ phần còn thu hút thêm nhiều lao động ngoài xã hội vào làm việc. Trong một
số công ty cổ phần, người lao động đã đề cử đại diện của mình tham gia quản lý điều
hành doanh nghiệp. Theo kết quả khảo sát của chương trình hỗ trợ phát triển dự án
Mêkông (Mekong Project Development Facility - MPDF) năm 1998 trong 13 doanh
nghiệp được khảo sát đã thành lập Hội đồng quản trị; 3 công ty người ngoài đại diện
cho cán bộ công nhân viên đảm nhận chủ tịch Hội đồng và giám đốc điều hành, 2 công
ty khác giữ 1 trong 2 trọng trách trên.
Chương III
Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành và cổ phần hoá
doanh nghiệp.
I. Các yếu tố khó khăn và cản trở quá trình hình thành và cổ phần hoá doanh
nghiệp ở Việt nam.
Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá ở nhiều
nước đang phát triển và Đông Âu là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Đối với Việt
Nam cũng như vậy, khi hàng chục năm khu vực này được coi là đối tượng cải tạo
XHCN. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát
triển kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh
doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều
này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư
dưới hình thức cổ phiếu do đó làm cho việc tiến hành chương trình cổ phần hoá ở
nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát
triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng.
Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một
thị trường tài chính thực sự trong đó có thị trường chứng khoán. Như trên đã trình bày,
thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ
phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện vừa là tấm gương phản
chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị trường
tài chính.
II. Các giải pháp và kiến nghị
1. Về tư tưởng quan điểm cổ phần hoá
Đối với các doanh nghiệp: người lãnh đạo (giám đốc, phó giám đốc) hầu hết là
do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần không dễ gì giữ
được chức vụ đó trước Đại hội cổ đông. Sau khi cổ phần thì những quyền lực quan
trọng nhất thuộc về Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị công ty. Giám đốc doanh
nghiệp Nhà nước trước đây giả sử có tái cử làm giám đốc điều hành thì chỉ đóng vai
trò thực thi của hai tổ chức nói trên mà thôi. Hội đồng của giám đốc có sự giám sát
chặt chẽ của Ban kiểm soát (như đã nêu ở chương một) của Hội đồng quản trị công ty.
Lẽ đương nhiên thu nhập của giám đốc sẽ bị giảm xuống, không còn hấp dẫn, quyền
hành lại bị hạn chế. Chắc chắn trước ngưỡng cửa cổ phần hoá, các vị giám đốc quốc
doanh ít nhiều đều có tâm tư mắc mớ, ít nhiệt tình đối với phương án cổ phần hoá. Còn
với khả năng xấu hơn, vị trí công tác của giám đốc có thể bị thay đổi, thậm chí có thể
bị mất việc thì hậu quả còn tồi tệ hơn.
Chính vì lẽ đó giám đốc các DNNN thường có tâm lý không muốn cổ phần hoá,
chuyển đổi sở hữu, mặc dù đã nhận thức được khó khăn trong cạnh tranh thị trường, và
biết rằng doanh nghiệp có thể nguy cơ suy sụp trong cuộc cạnh tranh thị trường ngày
một gay gắt. Tâm lý chung của các vị giám đốc DNNN là “còn nước còn tát”, tát được
ngày nào hay ngày đó.
Còn về phía người lao động, họ sau khi cổ phần hoá có thể bị mất việc, hoặc
quyền lợi không được đảm bảo, đặc biệt là vấn đề mua, mua chịu và được cấp cổ
phiếu. Thế là từ trên xuống dưới kết thành những mảng trong nhận thức và hành động.
Để đảm bảo an toàn và giữ được “ghế”, tránh được nguy cơ “đi chệch hướng XHCH”,
thượng sách là không sắn tay vào công tác này.
Làm thế nào để giải toả những vướng mắc về tư tưởng quan điểm và nhận thức
trên đây? Trước hết, phải tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần
hoá DNNN.
Một là, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước không dẫn đến nguy cơ
chệch hướng XHCN và làm suy yếu kinh tế nhà nước, bởi lẽ: Trong cơ cấu kinh tế
quốc dân, Nhà nước vẫn nắm giữ các DNNN thuộc các ngành then chốt, trọng yếu tạo
nền tảng cho nền kinh tế quốc dân và sức mạnh của Nhà nước XHCN. Xét trên phạm
vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tài sản Nhà nước không bị suy giảm mà còn có khả
năng tăng nhờ lợi tức cổ phần của Nhà nước và sự đóng góp của các công ty cổ phần
làm ăn có hiệu quả vào ngân sách Nhà nước. Quá trình cổ phần hoá được tiến hành
dưới sự lãnh đạo tập trung của Đảng và sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước XHCN.
Hai là, cổ phần hoá không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi người
trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động
của doanh nghiệp. Đó là một trong những mục tiêu cổ phần hoá mà chúng ta thực hiện.
Để có thể đưa những nhận thức đúng đắn trên đây đến tất cả các cơ quan lãnh đạo các
ngành, các cấp, đến từng doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ công nhân viên lao động làm
việc trong doanh nghiệp, Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền rộng rãi
trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương, mục tiêu, quan điểm cũng như
lợi ích về sự cần thiết của cổ phần hoá trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường.
2. Về môi trường pháp lý cho việc cổ phần hoá.
Môi trường pháp lý của nhà nước bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật trực
tiếp và gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá. Từ khi chủ trương cổ phần hoá các DNNN
được đề cập lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị lần 2 - Ban chấp hành Trung Ương
Đảng khoá 7 (tháng 11/1991) cho đến nay đã có tổng cộng 27 văn bản pháp quy trực
tiếp liên quan đến cổ phần hoá.
Về số lượng, tuy các văn bản pháp lý trực tiếp chỉ đạo quá trình cổ phần hoá như
vậy là khá nhiều, nhưng chưa có một văn bản pháp lý nào đủ tầm quyết sách để có thể
tiến hành một quá trình cổ phần hoá trên diện rộng như luật, pháp lệnh. Đối với các
văn bản gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá thì còn thiếu mảng luật về chứng khoán,
kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Về chất lượng, một số nội dung trong các văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng, thiếu
cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát như: trách nhiệm của các Bộ,
ngành, các địa phương trong việc chỉ đạo cổ phần hoá; thẩm quyền của đại diện chủ sở
hữu với việc cổ phần hoá; cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc; việc bán cổ phần
cho người nước ngoài có quy định nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Để giải quyết những vấn đề tồn tại về chính sách pháp luật trên đây, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cần phải lắng nghe ý kiến từ phía các doanh nghiệp đã hoàn
tất và đang hoàn tất cổ phần hoá và cả những doanh nghiệp chưa tiến hành cổ phần
hoá để cụ thể hoá, chi tiết hoá những điểm còn “chung chung”, ban hành thêm những
quy định còn thiếu. Đòi hỏi sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp quy ngay trong
điều kiện hiện nay là điều không thực tế, song đã đến lúc chúng ta phải có ngay một bộ
luật cổ phần hoá hoặc luật công ty cổ phần bởi vì chưa có luật, chưa có pháp lệnh thì
chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện, chưa có căn cứ để ban hành các văn bản pháp quy
dưới luật, và như vậy việc thực hiện sẽ rất khó khăn. Bên cạnh đó, việc dự thảo và sớm
ban hành luật về chứng khoán, kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán
cũng sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và việc hình thành thị trường vốn ở
nước ta.
3. Hệ thống các cơ quan quản lý công tác cổ phần hoá.
Về tổng thể, bộ máy quản lý hành chính về cổ phần hoá tổ chức chỉ đạo chưa tập
trung, thiếu tính nhất quán giữa Trung Ương và địa phương, giữa các Bộ, Ngành. Ví
dụ có những doanh nghiệp đã làm xong thủ tục nhưng chính quyền địa phương vẫn
không cho phép hoạt động, gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp cổ phần, tạo tâm
lý chản nản trong các cổ đông vì trong vòng 2 năm đó vốn không được luân chuyển
(như công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An, công ty chế biến thức ăn gia súc
VIFOCO...)
Để giải quyết, Nhà nước phải mở rộng quyền hạn cũng như trách nhiệm của ban
chỉ đạo Trung Ương cổ phần hoá. Hoặc Nhà nước có thể thành lập một Tổng cục chủ
quản hoặc tương đương như vậy chuyên trách về cổ phần hoá để điều chỉnh quá trình
cổ phần hoá DNNN và hoạt động của công ty cổ phần. Cơ quan chuyên trách này sẽ
chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo và có đủ thẩm quyền để giải quyết các vấn đề liên
quan đến cổ phần hoá cũng như phối hợp hoạt động của các Bộ, Ngành và các cơ
quan hữu quan, đồng thời cũng phải quy định rõ quyền hạn và nhiệm vụ của các cấp
cơ quan này, tránh sự “chồng chéo, lấn sân” của nhau, tránh tình trạng cấp trên “bàn
vào”, cấp dưới “bàn ra” như trong thời gian vừa qua dẫn tới sự chán nản của các
DNNN muốn cổ phần hoá. Một yêu cầu quan trọng nữa là phải tập trung về đây các
cán bộ có năng lực chuyên môn, có trình độ, quy định rõ rằng về trách nhiệm của từng
người.
Tăng cường hơn nữa vai trò chủ đạo của Trung Ương. Chính phủ phải đẩy mạnh
việc kiện toàn tổ chức bộ máy chỉ đạo cổ phần hoá từ Trung Ương đến địa phương
theo hướng gọn nhẹ, thiết thực, đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà
nước trong quá trình cổ phần hoá để đảm bảo đúng chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
4. Chính sách đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần quy định một số ưu đãi thiết thực đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Chẳng hạn cho phép tách số tài sản không còn giá trị sử dụng và có tài sản không phù
hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh ra khỏi giá trị doanh nghiệp nhằm trợ giúp doanh
nghiệp giảm bớt gánh nặng trong quá trình hoạt động. Những tài sản này sẽ được
chuyển giao lại cho nhà nước để xử lý phù hợp với pháp luật hiện hành. Nếu doanh
nghiệp có yêu cầu đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất theo phương án được duyệt thì
cho phép doanh nghiệp sử dụng một phần số tiền bán cổ phiếu ngoài phạm vi cổ phần
giữ lại thuộc sở hữu nhà nước theo hình thức vay tín dụng của ngân sách.
4.1. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử không hợp lý giữa doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các DNNN rõ ràng là còn được hưởng ưu đãi của nhà nước nhiều hơn công ty cổ
phần nói riêng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung về XNK, về địa điểm, tín
dụng, vay vốn ngân hàng. Để có thể thực sự xoá bỏ sự phân biệt đối xử không hợp lý
giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhà nước cần phải từng bước xoá bỏ
sự bao cấp dành cho các DNNN, cần có những quy định nhằm nâng cao vai trò của
khu vực kinh tế tư nhân, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển bằng những biện pháp cụ thể như: chính sách thuế, quyền XNK, vay vốn ngân
hàng, tạo điều kiện cho khu vực này liên doanh với nước ngoài, qua đó tạo môi trường
bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài góp
phần đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.
Theo thông tư số 50 TC/TCDN, gia trị doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định
bằng công thức:
Giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp = sau khi kiểm kê + (-) giá trị lợi thế + chi phí tiến hành
CPH đánh giá lại.
Theo công thức nói trên, mọi tài sản doanh nghiệp đều được kiểm kê đánh giá lại
theo giá hiện hành. Song theo số liệu điều tra thống kê, ở hầu hết các DNNN, trình độ
máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ, thậm chí có doanh nghiệp lạc hậu
từ 4 - 5 thế hệ. Mặt khác, thông tư 50 TC/TCDN quy định “Toàn bộ tài sản cố định sau
khi đã kiểm kê và được tính trên giá sổ sách doanh nghiệp căn cứ vào chất lượng còn
lại và giá hiện hành của từng tài sản, giá trị tài sản vô hình để xác định lại giá trị tài
sản thực còn”. Vấn đề ở đây là xác định giá hiện hành. Như chúng ta đều biết, tiêu
chuẩn để đánh giá giá trị vật chất có nhiều nhưng tựu chung lại có thể sử dụng các tiêu
chuẩn sau: giá trị mua vào, giá trị thanh lý, giá trị đổi mới, giá trị nhượng bán. Chính
vì vậy, nhà nước nên quy định cụ thể “giá hiện hành” trong việc đánh giá lại giá trị tài
sản.
4.3. Thủ tục cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay, thủ tục hành chính để cổ phần hoá một DNNN còn khá rườm rà, tốn
kém. Một DNNN trị giá 2 tỷ đồng chuyển sang công ty cổ phần mà hàng chục lượt
đoàn cán bộ đến kiểm tra, kiểm toán, thẩm định kiểm toán... rồi sau đó mới trình Bộ,
Ngành , UBND tỉnh thành phố, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt... biết bao cửa ải
mà doanh nghiệp phải chịu đựng. Mỗi cửa ải kéo dài không biết bao nhiêu thời gian.
Điều này có lẽ không phải do một cơ quan hay một cá nhân nào mà do mỗi khâu chậm
một ít, do thiếu trách nhiệm, thiếu nhiệt tình và quan liêu. Việc loại bỏ những thủ tục
rườm rà, xây dựng một quy trình cổ phần hoá DNNN gọn nhẹ, quản lý chặt chẽ và
tránh được những chi phí do doanh nghiệp phải bỏ ra do làm ảnh hưởng tới túi tiền của
ngân sách là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó việc phối hợp của các cơ quan chức
năng, thống nhất quá trình chỉ đạo thực hiện từ TW tới các Bộ, ngành, địa phương, cơ
sở sẽ góp phần tích cực đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.
Kết luận
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta, yêu cầu của việc phát triển loại
hình công ty cổ phần là rất cần thiết. Để thành lập công ty cổ phần có hai cách tiến
hành đó là thành lập mới và cổ phần hoá các DNNN. Cổ phần hoá là một trong những
giải pháp quan trọng để thực sự khắc phục tình trạng kém hiệu quả của các DNNN, thu
hút vốn, cải tiến quản lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thực chất cổ phần hoá
nhằm mục tiêu chuyển hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu tập thể, các
cổ đông theo hướng đa dạng hoá xử lý, vừa đảm bảo yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh
tế nhiều thành phần, vừa đảm bảo cho các DNNN có chủ thực sự. Việc thành lập mới
công ty cổ phần là một vấn đề tương đối mới mẻ ở nước ta. Bởi vì đây là một loại hình
doanh nghiệp mới đối với nước ta. Nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển của nền kinh tế. Với những ưu điểm như đã trình bày trong đề án thì việc
hình thành các công ty cổ phần là một tất yếu khách quan do đòi hỏi của nền kinh tế.
Chính vì thế việc tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển loại hình doanh
nghiệp này cần phải được quan tâm và thúc đẩy. Điều này không chỉ là đòi hỏi về
phía Nhà nước mà còn là yêu cầu đối với chính những người làm kinh doanh là phải
có những kiến thức vững chắc về công ty cổ phần và những vấn đề liên quan trực tiếp
và gián tiếp đến công ty cổ phần.
Với nhứng lý luận, thưc trạng và đặc biệt là phần giải pháp trong đề án tuy chưa
được sâu sát và tỷ mỷ lắm vì lý do thời gian và sự hạn chế về kiến thức. Nhưng em rất
hy vọng rằng đề án này sẽ là một bài học thực tế rất bổ ích cho bản thân trong việc cập
nhật kiến thức về công ty cổ phần và vấn đề cổ phần hoá DNNN. Những giải pháp,
kiến nghị được nêu ra trong đề án sẽ phần nào tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại
trong quá trình cổ phần hoá. Hy vọng rằng với quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước,
niềm tin của nhân dân cùng với việc thực hiện đồng bộ những giải pháp và kiến nghị
nêu trên, chương trình cổ phần hoá và thành lập công ty cổ phần sẽ gặt hái được những
thành công và góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh, mạnh bền vững của nền
kinh tế đem lại sự phồn vinh cho đất nước.
mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I. Lý luận chung về công ty cổ phần
I. Khái niệm, sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần 2
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay 6
Chương II. Vai trò của công ty cổ phần đối với
phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay
I. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt Nam 9
II. Vai trò công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay 12
III. Thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam 13
Chương III. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá
trình hình thành và cổ phần hoá doanh nghiệp
I. Các yếu tố khó khăn và cản trở quá trình hình thành
và cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam 19
II. Các giải pháp và kiến nghị 19
kết luận 24
Tài liệu tham khảo
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn,
Nguyễn Ngọc Quang, NXB Khoa học xã hội.
2. Hỏi đáp về cổ phần hoá DNNN, Hoàng Công Thi, NXB Thống kê.
3. Kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế thị trường, Đào Xuân Sâm, Ngô Quang Minh,
NXB Khoa học xã hội.
4. Báo cáo tổng quát tình hình doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài chính tháng 12/1997.
5. Báo cáo về thực hiện cổ phần hoá DNNN, Bộ Tài chính tháng 12/1998.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.pdf