Luận văn Tìm hiểu cấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay

Tài liệu Luận văn Tìm hiểu cấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay: LUẬN VĂN: Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi nói đến những thảm họa khốc liệt người ta thường nghĩ ngay đến "thiên tai, địch họa". Nhưng có lẽ không có một cuộc chiến tranh tàn khốc, một thảm họa thiên nhiên dữ dội nào lại gây ra cho con người một nỗi đau dai dẳng, một sự tàn phá to lớn như nạn nghèo khổ đang diễn ra một cách thầm lặng trên thế giới. Ngày nay có khoảng 1/4 dân số thế giới (tương đương 1,5 tỷ người) đang sống trong điều kiện cùng cực của nghèo khổ, không đủ khả năng đáp ứng được những nhu cầu cơ bản. Hàng trăm triệu người đang sống quanh giới tuyến nghèo khổ. Một nửa số dân trên thế giới đang bị phân biệt đối xử, khước từ các cơ hội chỉ vì khác màu da. Thiệt thòi lớn nhất là trẻ em, hàng triệu trẻ em không được đến trường, trong đó có 130 triệu trẻ em ở độ tuổi tiểu học và 175 triệu trẻ em ở độ tuổi trung học cơ sở, hơn 1/3 số trẻ em trên thế giới bị suy dinh dưỡng. Có thể nói, nghèo ...

pdf101 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu cấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi nói đến những thảm họa khốc liệt người ta thường nghĩ ngay đến "thiên tai, địch họa". Nhưng có lẽ không có một cuộc chiến tranh tàn khốc, một thảm họa thiên nhiên dữ dội nào lại gây ra cho con người một nỗi đau dai dẳng, một sự tàn phá to lớn như nạn nghèo khổ đang diễn ra một cách thầm lặng trên thế giới. Ngày nay có khoảng 1/4 dân số thế giới (tương đương 1,5 tỷ người) đang sống trong điều kiện cùng cực của nghèo khổ, không đủ khả năng đáp ứng được những nhu cầu cơ bản. Hàng trăm triệu người đang sống quanh giới tuyến nghèo khổ. Một nửa số dân trên thế giới đang bị phân biệt đối xử, khước từ các cơ hội chỉ vì khác màu da. Thiệt thòi lớn nhất là trẻ em, hàng triệu trẻ em không được đến trường, trong đó có 130 triệu trẻ em ở độ tuổi tiểu học và 175 triệu trẻ em ở độ tuổi trung học cơ sở, hơn 1/3 số trẻ em trên thế giới bị suy dinh dưỡng. Có thể nói, nghèo đói đã diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ khác nhau. Đặc biệt là ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, nghèo đói đang là một vấn đề nhức nhối, một thách thức đối với sự phát triển, hay tụt hậu của một quốc gia. ở nước ta sau gần 15 năm đổi mới, nền kinh tế đang từng bước khởi sắc và đã đạt được những thành tựu to lớn, đời sống của nhân dân đã được cải thiện và nâng cao một bước (kể cả thành thị, nông thôn và miền núi vùng sâu, vùng xa). Tuy nhiên cùng với xu thế phát triển đi lên của xã hội, đã hình thành một bộ phận dân cư giàu lên và một bộ phận không nhỏ rơi vào cảnh đói nghèo với khoảng cách ngày càng xa. Đối với Việt Nam, mức độ nghèo khổ là khá cao, đặc biệt là các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo. Theo đánh giá của nhóm công tác các chuyên gia Chính phủ cho thấy, 70% người nghèo của Việt Nam sống tập trung tại 3 khu vực: Miền núi phía Bắc: 28%; đồng bằng sông Cửu Long: 21% và miền Bắc Trung Bộ là 18%. Phú Thọ là một tỉnh thuộc miền núi phía Bắc mới được tái lập với diện tích tự nhiên 3.506km2, dân số 1.290.000 người, mật độ dân số 370,6 người/km2. Hiện nay Phú Thọ vẫn là một tỉnh nghèo, có diện tích rộng, người đông, dân cư phân bố không đều, trình độ dân trí hạn chế, kết cấu hạ tầng thấp kém, kinh tế phát triển chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo của tỉnh còn cao. Vì vậy thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo (XĐGN) đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho tỉnh trong tiến trình hội nhập và phát triển. Chính điều này đã làm cho việc nghiên cứu vấn đề XĐGN trở nên cấp thiết và tác giả đã chọn " Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay " làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề XĐGN đã được nghiên cứu trên phạm vi cả nước, cũng như ở một số tỉnh. ở tỉnh Phú Thọ hiện cũng đã có hai đề tài: Đề tài thứ nhất: "Những giải pháp về quản lý nhằm xóa đói giảm nghèo ở nông thôn Phú Thọ hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Hải. Đề tài thứ hai: "Phát triển kinh tế với việc xóa đói giảm nghèo ở huyện Thanh Sơn - Phú Thọ" của tác giả Sa Thị Quyết. ở đề tài thứ nhất, tác giả nghiên cứu vấn đề dưới giác độ quản lý kinh tế để từ đó đưa ra những giải pháp về quản lý nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo ở khu vực nông thôn của tỉnh. Còn ở đề tài thứ hai, chủ yếu tác giả đề cập vấn đề XĐGN kết hợp với phát triển kinh tế trên phạm vi một huyện. Việc đề cập vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị, chỉ ra được những đặc trưng nghèo đói của Phú Thọ, và từ đó nêu lên những giải pháp kinh tế xã hội để giải quyết vấn đề đói nghèo thì chưa được đề cập đến. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích: Luận văn làm rõ thực trạng và nguyên nhân của tình trạng đói nghèo của tỉnh Phú Thọ, đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu XĐGN của tỉnh hiện nay. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Trình bày một số những quan niệm về nghèo đói một cách có hệ thống và phân tích sự cần thiết khách quan phải thực hiện việc XĐGN, đồng thời nêu ra một số kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về giải quyết vấn đề đói nghèo. - Phân tích thực trạng tình hình đói nghèo của tỉnh Phú Thọ, chỉ ra những nguyên nhân trực tiếp gây nên đói nghèo ở địa bàn tỉnh. - Đưa ra những giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề XĐGN ở tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn - Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế - chính trị. - Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng tình hình nghèo đói của tỉnh Phú Thọ trong thời gian từ năm 1997 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng. - Trong quá trình phân tích, luận văn vận dụng phương pháp phân tích - so sánh, phương pháp hệ thống cấu trúc, kết hợp với phương pháp điều tra và nghiên cứu báo cáo tổng kết công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ. 6. Những đóng góp của luận văn - Khái quát được những nhóm nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo của tỉnh Phú Thọ. - Đưa ra được một số giải pháp có tính khả thi nhằm giải quyết từng bước vấn đề đói nghèo của tỉnh Phú Thọ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Quan niệm về đói nghèo và sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội 1.1. Quan niệm về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo 1.1.1. Quan niệm về đói nghèo Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều nấc thang của lịch sử, tương ứng với mỗi nấc thang đó là một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bằng hoạt động lao động sáng tạo, con người - chủ thể của lịch sử xã hội - đã sử dụng lực lượng sản xuất hiện có để tác động vào giới tự nhiên nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Trình độ lực lượng sản xuất càng phát triển, năng suất lao động xã hội càng cao thì nhu cầu đáp ứng ngày càng nhiều, càng phong phú. Ngược lại, năng suất lao động xã hội thấp kém, trình độ lực lượng sản xuất lạc hậu, thì con người không thể đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của mình như: ăn, mặc, ở, đi lại... và bị rơi vào tình trạng đói nghèo. 1.1.1.1. Bản chất của đói nghèo Trong các xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, đói nghèo có nguyên nhân chủ yếu và trước hết là do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, sản phẩm thặng dư trong xã hội không nhiều. Dưới xã hội phân chia giai cấp thì còn thêm vào đó là tình trạng áp bức giai cấp, nên quyền phân phối sản phẩm lao động làm ra thuộc về một số ít người - về tay giai cấp thống trị. Xã hội phân chia thành hai cực đối lập, trong đó "kẻ ăn chẳng hết, người lần không ra". Bước sang xã hội tư bản chủ nghĩa gắn liền với nền sản xuất lớn và nền đại công nghiệp hiện đại, đã tạo ra một năng suất lao động cao hơn hẳn các xã hội trước và với một lực lượng sản xuất khổng lồ "bằng tất cả các thế hệ trước cộng lại", đã mở ra khả năng to lớn để con người có thể đáp ứng được các nhu cầu phát triển của mình. Tuy nhiên, do sự phân hóa và áp bức giai cấp, do sự khác biệt về năng lực và cơ hội của các cá nhân, trong xã hội này nghèo đói vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nghiên cứu, phân tích xã hội tư bản để chỉ ra những qui luật vận động và phát triển của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập một cách khá toàn diện và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của giai cấp vô sản và những người lao động làm thuê trong chủ nghĩa tư bản. Tiêu biểu là các tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" (1844), "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh" và sau này là trong bộ "Tư bản". ở đây, hai ông đã mô tả cặn kẽ, tỷ mỷ tình cảnh của những người nông dân bị mất hết tư liệu sản xuất, bị xua ra thành phố, những người phụ nữ và trẻ em bị vắt kiệt sức lao động trong các xưởng thợ... Họ góp phần trở thành đội quân những người vô sản, là nạn nhân của sự bóc lột giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối của các ông chủ tư bản. "Những người công nhân đó bản thân không có chút tài sản gì đáng kể và chỉ sống bằng tiền lương và hầu hết là luôn luôn chỉ vừa đủ ăn, cái xã hội gồm những nguyên tử rời rạc ấy hoàn toàn không quan tâm đến họ, để mặc cho họ tự lo lấy việc nuôi mình và nuôi gia đình nhưng lại không cấp cho họ phương tiện để có thể thường xuyên và thật sự giải quyết những nhu cầu ấy, cho nên mỗi người công nhân, thậm chí là công nhân giỏi nhất cũng luôn luôn có thể bị mất việc, và do đó cũng sẽ không có ăn,..." [23, 418-419]. Sự bóc lột tàn bạo đó đã dẫn đến sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập. Một cực tích lũy sự giàu có đến tột độ và một cực tích lũy sự bần cùng nghèo khổ, bệnh tật, thất học... "...Quy luật đó quyết định một sự tích lũy nghèo khổ tương ứng với sự tích lũy tư bản. Như vậy tích lũy của cải ở một cực này đồng thời cũng có nghĩa là tích lũy sự nghèo khổ, sự đau khổ của lao động, sự nô lệ, sự dốt nát, sự cục cằn và sự truỵ lạc tinh thần ở cực đối lập, tức là ở phía giai cấp sản xuất ra bản thân sản phẩm của mình với tư cách là tư bản" [24, 909]. Sự phân hóa giàu nghèo ấy ngày càng sâu sắc và đã trở thành sự phân hóa giai cấp không thể điều hòa được. Để làm rõ nguyên nhân của hiện tượng nghèo đói và sự bần cùng của giai cấp vô sản, Mác và Ăngghen đã đi vào lý giải vấn đề tiền công trong xã hội tư bản. Theo Mác, tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, tiền công gồm có tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, do đó tiền công danh nghĩa phải được chuyển thành tiền công thực tế. Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hóa sức lao động, nó có thể tăng lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động trong quan hệ cung cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực tế giảm xuống hay tăng lên. Mác còn chỉ rõ: tính qui luật của sự vận động của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, khi đó tiền công thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bần cùng của giai cấp vô sản. Như vậy, theo Mác và Ăngghen, nghèo đói của giai cấp vô sản trong xã hội tư bản có nguyên nhân trực tiếp từ sự phân phối thu nhập của sản xuất xã hội qua tiền công và phân phối giá trị thặng dư trên thị trường. Trong các chế độ tư hữu và bóc lột thống trị, nghèo khổ, đối kháng giai cấp và phân cực xã hội là những hiện tượng luôn đi liền nhau trong một tất yếu nhân quả hữu cơ không thể tách rời. Nó thuộc về bản chất kinh tế chính trị - xã hội của phương thức sản xuất đó. Chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay nhờ lợi dụng được những thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ, sớm áp dụng những biện pháp điều chỉnh và cải cách trong quản lý nên đã đạt được những bước tiến lớn trong sản xuất, tăng trưởng kinh tế, trở nên giàu có phồn vinh. Song một bộ phận nhỏ bé thuộc các thế lực tư sản nắm quyền lực đã chiếm đoạt hầu hết mọi của cải xã hội, và một bộ phận dân cư không nhỏ sống trong thất nghiệp và nghèo đói. "... Trong sáu người trên thế giới thì có một người sống nghèo khổ, tức là cả hành tinh có một tỷ người nghèo đói, 800 triệu trẻ em bị đói; riêng EU có 18 triệu người thất nghiệp và 50 - 70 triệu người sống bấp bênh. Những tình trạng được coi như đã bị loại trừ hay ít nhiều bị hạn chế cách đây 20 năm ở châu Âu hiện nay lại trở nên phổ biến. Đầu tiên là mất việc làm, rồi không có tiền để lo cho cuộc sống, bị mất chỗ ở hoặc phải sống chung trong những nơi chật chội v.v..." [9]. Các chính sách mà nhà nước tư sản đưa ra chỉ có thể làm dịu bớt mức độ gay gắt của những xung đột, đối kháng, nghèo khổ chứ không thể xóa bỏ tận gốc của chúng được. Chủ nghĩa tư bản từ trong bản chất của nó không thể tự giải quyết được nghèo đói. Phân cực xã hội ngày càng gay gắt là nghịch lý của phát triển với hệ thống các quan hệ tư bản chủ nghĩa. Trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây với quan niệm cho rằng, nghèo khó là hậu quả của sự bóc lột trong tăng trưởng kinh tế. Để giải quyết nghèo đói, chúng ta đã quá thiên về chủ nghĩa bình quân trong phân phối, chia đều sự nghèo khổ cho tất cả mọi người mà không tính đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và điều đó đã dẫn đến việc xem nhẹ lợi ích kinh tế của cá nhân, hạn chế cá nhân làm giàu và triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh quan điểm trên, lại có quan niệm cho rằng chỉ cần xác lập quyền sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động thì nghèo đói sẽ tự động biến mất, xã hội sẽ ngay lập tức đạt tới sự phồn thịnh, mọi người ai cũng giàu có như nhau. Song thực tế lại không phải như vậy, mặc dù trong chủ nghĩa xã hội, đối kháng giai cấp mất đi, nhưng những sự khác biệt của những người lao động vẫn luôn tồn tại. Sự khác biệt về phẩm chất, năng lực, trí tuệ, thể lực, cơ hội của những người lao động đã dẫn đến sự khác nhau về kết quả lao động có ích mà họ cống hiến cho xã hội, và do đó khác nhau về thu nhập do kết quả lao động đó mang lại. Trong chủ nghĩa xã hội, giàu, nghèo vẫn còn tồn tại, nhất là trong cơ chế thị trường, bình đẳng và công bằng xã hội là tương đối chứ không phải là tuyệt đối, là hướng tới ngày một thụ hưởng đầy đủ hơn những giá trị ấy, chứ không phải đã có ngay những giá trị ấy ngay một lúc, nhất là khi chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chứ chưa ở trình độ thành thục, phát triển. Như vậy, nghèo đói là một vấn đề kinh tế - xã hội chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, các thước đo để đánh giá ai nghèo, ai giàu lại chủ yếu và trước hết dựa trên thước đo về kinh tế. 1.1.1.2. Những chỉ tiêu được lượng hóa để xác định đói nghèo của các tổ chức quốc tế Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra chỉ tiêu đánh giá độ giàu, nghèo bằng mức thu nhập quốc gia (GDP) tính theo đầu người, và chia thế giới làm 6 loại nước giàu nghèo khác nhau (theo mức thu nhập 1990). Trên 25.000 USD/năm là nước cực giàu; Từ 20.000 USD đến dưới 25.000 USD/năm là nước giàu; Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/năm là nước khá giàu; Từ 2.500 USD đến dưới 10.000 USD/năm là nước trung bình; Từ 500 USD đến dưới 2.500 USD/năm là nước nghèo; Dưới 500 USD/năm là nước cực nghèo. Tại Đại hội lần thứ hai của ủy ban giảm nghèo khổ khu vực ESCAP họp tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9 năm 1995, Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370 USD/người/năm. Dựa vào phương pháp sử dụng rộng rãi tại các nước phát triển trong khu vực, căn cứ vào mức thu nhập tối thiểu là 2100 calo/ngày/người trong đó 70% chi cho ăn, còn lại 30% chi cho các nhu cầu khác ngoài lương thực thực phẩm như mặc, ở, chữa bệnh, văn hóa, đi lại... Dựa vào chuẩn mực này và căn cứ vào số liệu điều tra mức sống dân cư 1992 - 1993 của 4.800 hộ đại diện các vùng trong nước Ngân hàng thế giới đã đưa ra con số Việt Nam có khoảng 51% dân số thuộc diện đói nghèo, trong đó 25% số hộ thuộc diện đói về lương thực, thực phẩm. Nếu theo khu vực thì nông thôn có 57% và thành thị có 27% dân số thuộc diện đói nghèo. Theo cách đánh giá trên của Ngân hàng thế giới, đối với Việt Nam, ngưỡng nghèo được xác định tương đối cao so với thực tế. Trong khi nền kinh tế còn chậm phát triển, nhu cầu ăn uống thường chiếm từ 80 - 90% thu nhập của dân nghèo, các nhu cầu khác còn ở mức hạn chế, hơn nữa giá cả sinh hoạt ở các vùng, miền cũng rất khác nhau, do đó nếu xác định như vậy Việt Nam rất khó khăn trong việc tìm giải pháp để XĐGN hiện nay. Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc tháng 9-1993 đã đưa ra khái niệm và định nghĩa nghèo đói như sau: "Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các địa phương". Có thể xem đây là một quan niệm, một định nghĩa chung nhất về nghèo đói, tuy nhiên, những tiêu chí về nghèo đói còn để ngỏ về mặt lượng vì ở đây còn phải tính đến yếu tố lịch sử, đến trình độ phát triển kinh tế, phong tục tập quán của mỗi địa phương. Song có thể nói, định nghĩa đã đề cập được đến nội dung cơ bản của vấn đề nghèo đói đó là nhu cầu cơ bản của con người. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, cái tối thiểu để duy trì sự tồn tại sinh học của con người. Theo ý đó, đói là tình trạng nghèo khổ cùng cực, là trạng thái con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng để duy trì sự sống bình thường và không đủ sức để lao động, tái sản xuất sức lao động. Đói là sự nghèo nàn hiển nhiên và nghèo là một sự đói tiềm tàng và luôn đứng trước khả năng bị đói, trong thực tế nhất là khi lâm vào tình trạng thiên tai, rủi ro, hoạn nạn thì trạng thái nghèo khổ sẽ trở thành đói. Nghèo có hai dạng, là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư thường trực không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống. Trên thực tế một bộ phận lớn dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng đói và thiếu đói. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương. Như thế, sự thiếu thốn "của cải" trong mối quan hệ với nhu cầu thiết yếu của con người được xem là nghèo khổ tuyệt đối. Còn khi xem xét thực trạng mức sống và vị trí (về kinh tế và xã hội) các nhóm hoặc các các nhân khác ở phương diện mức độ tiêu thụ và thu nhập của họ về cơ hội tiếp cận các nguồn lực... sẽ cho ta quan niệm về nghèo tương đối. Ngoài ra, Liên Hợp quốc cũng đưa ra chỉ tiêu để đánh giá mức sống của con người bao gồm cả thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người, thành tựu y tế - xã hội và trình độ văn hóa giáo dục, tổng hợp lại là chỉ số phát triển con người - Human Development Index (gọi tắt là HDI). HDI bao gồm ba yếu tố cơ bản của sự phát triển con người: tuổi thọ, trình độ và mức sống. Tuổi thọ được phản ánh bằng số năm sống trung bình của người dân. Trình độ được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (với trọng số là 2/3 của chỉ số trình độ) với số năm đi học trung bình của mỗi người (với trọng số tương ứng là 1/3). Mức sống được đo lường theo mức GDP thực tế bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương (PPP) của mỗi quốc gia. Theo số liệu của UNDP, HDI của nước ta năm 1998 là 0,671 đứng thứ 108; các nước có chỉ số phát triển con người cao là từ 0,801 trở lên, còn mức trung bình là từ 0,506 đến 0,797; dưới 0,506 là các nước có chỉ số phát triển con người thấp. Chỉ số này cao nhất là 1. Năm 1989 nước có chỉ số cao nhất là Canađa đạt 0,935. Sự kết hợp giữa chỉ tiêu HDI và chỉ tiêu GDP/ người như đã nêu ở trên cho phép chúng ta đánh giá, nhận diện nghèo đói một cách khách quan và chính xác hơn. Đói nghèo còn được nhận diện ở bốn khía cạnh là thời gian, không gian, môi trường và giới. Về thời gian: Phần lớn người nghèo có mức sống dưới mức được xác định như một chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận được trong một thời gian dài (tuy nhiên cũng cần phải bổ sung vào số người này những người nghèo tình thế do thất nghiệp, do thiên tai, rủi ro hay do con người gây ra). Về giới: Phần lớn người nghèo ở các nước đều là phụ nữ. Mặc dù trong gia đình, nam giới là chủ gia đình, nhưng phụ nữ vẫn phải gánh chịu nhiều hơn gánh nặng của nghèo đói. Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa... dù nền kinh tế có phát triển đến thế nào chăng nữa dân cư ở các vùng kể trên vẫn dễ bị rơi vào nghèo đói. Về môi trường: Hầu hết những người nghèo đói đều phải sống trong môi trường khắc nghiệt và xuống cấp nghiêm trọng, bởi vì những người nghèo đói không đủ khả năng và điều kiện để gìn giữ, đảm bảo và cải thiện môi trường sống. Tóm lại: những quan niệm về nghèo đói do cách tiếp cận khác nhau nên có những kiến giải khác nhau, sự nghèo khổ là một khái niệm tương đối và có tính biến đổi. Các chỉ số xác định giới hạn nghèo khổ không phải là cứng nhắc và bất biến. Nó biến đổi tùy theo sự chênh lệch, sự khác biệt giữa các vùng, miền, quốc gia. 1.1.1.3. Những chỉ tiêu được lượng hóa để xác định đói nghèo của Việt Nam Đối với Việt Nam, dù là trong ký ức của người dân hay trong các tài liệu của chính phủ trước đây, quan niệm về cái nghèo chưa bao giờ được coi đơn thuần là vấn đề thu nhập vật chất. Cái nghèo ở đây luôn hàm chứa cả sự nghèo nàn về đạo đức, học vấn, truyền thống. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường với sự gia tăng các nguồn viện trợ từ các tổ chức nước ngoài (kể cả chính phủ và phi chính phủ) thì những khái niệm về giàu nghèo dựa trên thu nhập hiện đang được chính phủ và nhân dân sử dụng ngày càng nhiều, để xác định ai "giàu" và ai "nghèo". Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình của phổ biến dân cự hiện nay, có thể xác lập chỉ tiêu đánh giá đói nghèo theo những tiêu thức chính sau đây: Thu nhập; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu sản xuất; vốn để dành. Trong bốn chỉ tiêu này, thì chỉ tiêu thu nhập và nhà ở phản ánh trực tiếp mức sống hay mức độ thực hiện các nhu cầu cơ bản tối thiểu của đời sống. Hai chỉ tiêu sau: tư liệu sản xuất và vốn để dành cho thấy rõ thêm tình cảnh thật sự của người nghèo và các hộ đói nghèo. ở đây chúng ta sẽ đi vào nội dung cụ thể của các chỉ tiêu. Chỉ tiêu về thu nhập: Căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập, coi đó là chỉ tiêu cơ bản để phản ánh mức sống của người dân, có thể chia đói nghèo thành hai ngưỡng cụ thể là đói và nghèo. Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu và thu nhập không đảm bảo về nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm đứt bữa, thiếu ăn từ 1 đến 3 tháng, phải đi vay nợ và thiếu khả năng trả nợ. Đói được chia làm hai loại, là thiếu đói và đói gay gắt. Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư không có điều kiện thỏa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng địa phương đang xét trên mọi phương diện, nghèo được chia làm hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: ba nhu cầu thiết yếu là ăn, mặc, ở; năm nhu cầu sinh hoạt hàng ngày là văn hóa, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp. Nhu cầu tối thiểu: là những đảm bảo tối thiểu của cuộc sống con người bao gồm ăn, mặc, ở và những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Thu nhập của người dân trước hết sẽ được dành cho các nhu cầu cơ bản tối thiểu. Và theo đời sống trung bình của dân cư trước năm 1995, cơ cấu sử dụng các nguồn thu nhập cho các nhu cầu tối thiểu cho 1 người 1 tháng là từ 15,1 đến 16,2 kg gạo tẻ thường/người/tháng, bao gồm: Ăn: 13 kg gạo tẻ/người/tháng Mặc + ở: 2,1 kg Văn hóa + y tế + giáo dục + đi lại: 1,1 kg Theo bảng cơ cấu này thì: Nghèo tuyệt đối là tình trạng dân cư chỉ có thu nhập đảm bảo mức sống dưới mức tối thiểu, tức dưới 15 kg gạo/người/tháng. Người nghèo tuyệt đối và hộ nghèo tuyệt đối đương nhiên là không có điều kiện để thực hiện các nhu cầu về văn hóa, y tế, giáo dục và đời sống tinh thần nói chung. Đói: là thu nhập ở dưới ngưỡng của nghèo, dưới ngưỡng càng xa thì mức độ đói càng gay gắt. Có thể phân biệt được hai mức độ của đói là thiếu đói và đói gay gắt. Thiếu đói là tình trạng dân cư có mức thu nhập dưới 8 kg gạo/người/tháng. Theo giới hạn trên, so với mức tiêu thụ calo của người/ngày thì quá thấp, hơn nữa so sánh với giới hạn đói nghèo của ngân hàng thế giới thì giới hạn nghèo đói ở nước ta còn thấp hơn nhiều. Chỉ tiêu về nhà ở và tiện nghi sinh hoạt: Những người nghèo đói thường sống trong những căn hộ tồi tàn, nhà tranh vách đất (miền Bắc), nhà lá dừa nước, lợp tôn (miền Nam). Đồ dùng trong nhà không có gì ngoài giường gỗ, tre, phản chõng và vài thứ khác, tất cả đều tồi tàn và cũ nát. Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất: Những người nghèo đói ít có tư liệu sản xuất, phần lớn thô sơ, đất đai vườn ao hầu như không có, một bộ phận là nông dân thiếu hoặc mất ruộng đất để sản xuất. Chỉ tiêu về vốn: Những người nghèo đói không có vốn để dành, họ thường phải vay nợ. Những người đói gay gắt lại thường phải vay nợ để ăn. Khi ốm đau họ phải vay nợ để chữa trị, chi trả, ở một số nơi do người nghèo phải vay nặng lãi, nên nợ nần của họ ngày càng cao. Đã không ít trường hợp phải gán ruộng vườn, bán sản phẩm chưa thu hoạch, đi làm thuê hoặc bỏ quê ra thành phố kiếm kế sinh nhai. Đó là bốn chỉ tiêu căn bản để xác định giới hạn nghèo đói ở Việt Nam. Tuy nhiên, để phù hợp với mức sống, tập quán và thực trạng đói nghèo ở nước ta hiện nay, đồng thời vẫn dựa trên cách tính về cơ cấu sử dụng nêu trên, từ năm 1995 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra chuẩn mực giới hạn nghèo đói ở Việt Nam như sau: Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà ở rách nát,... nếu theo thu nhập thì các hộ này có thu nhập qui đổi ra gạo bình quân đầu người dưới 13 kg/tháng. Hộ nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành và không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất... thu nhập bình quân dầu người của loại hộ này qui ra gạo dưới 25kg/tháng ở thành thị, 20kg/tháng ở nông thôn đồng bằng và trung du, và dưới 15 kg/tháng ở nông thôn miền núi. Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. Vùng (vệt) nghèo là chỉ những địa bàn tương đối rộng, nằm ở trong những khu vực khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi, có tỷ trọng xã nghèo, hộ nghèo cao. Từ năm 1997, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra chuẩn mực đói nghèo được xác định theo mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ/ tháng được quy ra gạo và tiền tương ứng cụ thể là: Hộ đói: có thu nhập dưới 13 kg gạo, tương ứng với 45.000 đ (cho tất cả các vùng). Hộ nghèo theo ba vùng, có mức thu nhập như sau: - Dưới 15 kg gạo, tương ứng với 70.000 đồng ở vùng nông thôn, đồng bằng, trung du. - Dưới 25 kg gạo, tương ứng với 90.000 đồng ở vùng thành thị. Trong thực tế, ở Việt Nam vẫn tồn tại một bộ phận dân cư ở tình trạng thiếu ăn, đói về lương thực. Do đó khi đánh giá nghèo ở Việt Nam nên phân thành hai cấp độ nghèo và đói, vì nó phản ánh đúng thực tế. Việc phân chia cụ thể từng loại nghèo đói của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có tính chất xác định tỷ lệ nghèo, đói của từng tỉnh, từng vùng và cả nước từ đó giúp cho việc trợ cấp, đầu tư, hỗ trợ giúp người nghèo thoát nghèo, thoát đói. Về hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức nghèo của hộ gia đình có thể tham khảo theo các tiêu thức ở bảng 1 sau: Bảng 1: Chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp hộ gia đình Lĩnh vực Chỉ tiêu I. Nhu cầu ăn 1. Số lượng gạo tối thiểu (12 kg/người/tháng) 2. Giá trị khẩu phần ăn tối thiểu một ngày II. Nhu cầu mặc 3. Không đủ quần áo, chăn ấm trong mùa rét 4. Không đủ màn chống muỗi III. Nhà ở 5. Hộ gia đình ở lều, lán và nhà tạm bợ IV. Việc làm 6. Thiếu việc làm (thiếu trên 3 tháng /năm) V. Sức khỏe 7. Trẻ em từ 1-5 tuổi suy dinh dương thể thiếu ăn (dưới 80% trọng lượng cần có của độ tuổi) 8. Người lớn 15 - 60 tuổi ốm đau kinh niên (trên 30 ngày/năm). 9. Không có khả năng chữa bệnh khi ốm đau VI. Giáo dục 10. Người lớn trong độ tuổi lao động (15 - 60) mù chữ 11. Trẻ em 6-11 tuổi không đi học 12. Hộ gia đình không có đài hoặc ti vi để nghe. Nguồn: Vũ Tuấn Anh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 227, 4/1997, tr. 36. Dựa vào 12 chỉ tiêu xác định ở từng mặt nói trên có thể phân loại các hộ nghèo như sau: Hộ nghèo: có 5 chỉ tiêu về ăn, mặc, ở dưới chuẩn mực Hộ rất nghèo: có trên 5 chỉ tiêu dưới chuẩn mực. Những chỉ tiêu này là sự lượng hóa cụ thể từ chỉ tiêu chung về hộ nghèo đã được phân tích ở trên. 1.1.2. Nguyên nhân của đói nghèo Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế - xã hội, nó vừa là vấn đề lịch sử để lại, vừa là vấn đề phát triển mà hầu hết các quốc gia đều vấp phải. Nó đụng chạm trực tiếp đến cuộc sống của con người, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng xã hội. Mỗi quốc gia, ở các mức độ phát triển khác nhau, đều phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những trở ngại của sự phát triển nhằm tới sự phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới công bằng xã hội. Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân gây ra đói nghèo, song tựu trung lại, nghèo đói ở các nước đang phát triển chủ yếu là do các nguyên nhân cơ bản sau đây: Thứ nhất, do người nghèo không có khả năng và cơ hội để tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực sản xuất. Các nguồn lực sản xuất chủ yếu hiện nay có thể kể đến như vốn, đất đai, khoa học công nghệ... song tất cả những thứ đó người nghèo đều không có hoặc rất hạn chế về khả năng tiếp cận. Một số người trong số họ có thể có sức lao động, nhưng họ sẽ không thể biến sức lao động đó thành nguồn lực, nếu không tiếp cận được với các nguồn lực khác như vốn, đất đai, khoa học công nghệ, tức là họ không có việc làm. ở một phạm vi nào đó, theo quan sát thực tiễn của các nhóm chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, đói nghèo do thiếu tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực là khá phổ biến. Theo Công ty ADUKI - "Vấn đề nghèo ở Việt Nam", thì người nghèo ở Việt Nam là: "Những người không có khả năng tiếp cận hoặc kiểm soát các nguồn lực xã hội, kinh tế và chính trị, và do đó không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người một cách có phẩm giá" [10, 26-27]. Việt Nam với một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và 90% dân số sống ở những vùng nông thôn, thì việc tiếp cận và kiểm soát đất đai là một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống. Trong mấy năm trở lại đây, tuy các hộ nông dân đã được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài nhờ thực hiện Luật đất đai, nhưng trên thực tế các hộ được giao đất lại thiếu các điều kiện sản xuất (vốn, lao động, khoa học công nghệ...), nên một số hộ đã không giữ được đất, phải nhượng lại cho các hộ khác. Mặt khác, sản xuất trên đất không mang lại hiệu quả kinh tế cao vì thiếu kiến thức và công nghệ, nên có rất nhiều trường hợp, sau khi nhận được quyền sử dụng đất đã bán đi để lấy tiền, trong đó chỉ có một số rất ít hộ dùng số tiền có được để chuyển hướng sản xuất. Một trong những nguồn lực nữa cần được chú ý hiện nay là vấn đề tín dụng. Trong thực tế, xét về nhu cầu vốn, thì hầu hết số hộ đói nghèo ở nông thôn đều cần vốn. Do thiếu nguồn vốn đủ lớn nên không tiếp cận được với công nghệ hiện đại, do đó không tăng được năng suất lao động, đặc biệt là thiếu vốn để mở mang ngành nghề cũng như mở mang chăn nuôi, vì vậy họ khó có thể thoát khỏi đói nghèo trong khi tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai lại đang bị thu hẹp dần. Do tất cả những nguyên nhân đó mà thu nhập của người lao động ở nông thôn trở nên quá thấp, phần lớn không có tích lũy. Tính đến năm 1997, mặc dù hầu hết các địa phương đã thành lập quỹ XĐGN, nhưng trên thực tế cũng chỉ đáp ứng được một phần số hộ nghèo vay vốn. Thứ hai, do dân số tăng nhanh. Hiện các nước đang phát triển đang đóng góp lớn nhất vào phần tăng thêm của dân số thế giới. Trong suốt thập kỷ 90, phần đóng góp của các nước đang phát triển vào số lượng người tăng thêm chiếm tới 93 - 95%. Nói cách khác, dân số thế giới tăng lên nhanh là do các nước đang phát triển quyết định. Hiện tại châu á chiếm 60% số dân cả thế giới, châu Phi là 12% [35, 55]. Sự tăng dân số rất khác nhau ở các khu vực trên thế giới đã làm thay đổi cơ cấu tuổi của dân số. Một bộ phận dân số quá trẻ, trong đó một bộ phận tại các nước công nghiệp già đi nhanh chóng. Dân số tăng nhanh ở các nước đang phát triển dẫn đến thu nhập bình quân đầu người giảm, đồng thời tạo ra áp lực rất gay gắt về việc làm và làm nhức nhối những vấn đề xã hội. Nghèo đói ở các nước công nghiệp phát triển chủ yếu do thất nghiệp gây ra. Còn nghèo đói ở các nước đang phát triển do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân trực tiếp là dân số tăng nhanh. Trên thế giới không có nơi đâu có tỷ lệ tăng dân số cao mà vẫn giảm được tỷ lệ nghèo đói. Do đó, các nước đang phát triển chỉ có thể giảm nghèo đói bằng cách giảm tỷ lệ sinh. Rơnê Đuy Mông trong "Một thế giới không thể chấp nhận được" đã cảnh báo các nước đang phát triển về sự bùng nổ dân số, về sự luẩn quẩn giữa đói nghèo - lạc hậu - dân số tăng nhanh. Theo ông thì: "...Chính nhà nước phải có trách nhiệm đối với cộng đồng là đánh giá tài nguyên của mình về đất, nước, rừng, về khoáng sản, về khoảng không gian còn rỗi rãi, những hy vọng tiến bộ thật sự và từ đó định ra những tỷ lệ hợp lý về tăng số dân để bảo đảm cho mỗi người một cuộc sống kha khá hơn là để một ngày nào đó lại phải dùng những biện pháp cưỡng bức" [25, 104]. Thứ ba, do trình độ giáo dục thấp. Số dân đông, lại nghèo đói, do đó ngân sách chi cho giáo dục và y tế thấp đó là lôgíc vận động của hiện thực. Khi mức chi cho giáo dục và y tế thấp cộng thêm thu nhập thấp tại các nước nghèo thì chỉ số phát triển nhân lực luôn ở cuối bảng xếp hạng của UNDP. Cố nhiên, những tiêu thức về lượng không thể phản ánh đầy đủ cả về chất của sự vật, song trên giác độ của vấn đề nghèo, đói thì lượng lại phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Vì ở các nước này luôn diễn ra tình trạng thiếu các chuyên gia đầu ngành, thiếu lao động lành nghề có kỹ thuật, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, do đó sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp và cứ như vậy cái vòng luẩn quẩn của đói, nghèo sẽ kìm hãm sự mở rộng phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và do đó kìm hãm sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Do đó, tạo ra được đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao là mục tiêu quan trọng của các nước nghèo. Thế nhưng tình trạng di chuyển lao động lành nghề, lao động có học vấn từ các nước đang phát triển sang các nước công nghiệp phát triển lại là dòng chảy không dứt. Vấn đề này đã gây thiệt hại rất lớn cho các nước đang phát triển. Hiện nay Hoa Kỳ đang là nước hiện được hưởng lợi nhiều nhất, vì họ không mất đi một khoản chi phí đào tạo mà họ lại đang thu hút được đội ngũ công nhân lành nghề từ châu á, châu Phi và Mỹ la tinh chuyển đến. Đó là một nghịch lý của sự phát triển của thế giới hiện đại, song nó lại tuân thủ đúng các quy luật của thị trường lao động. Thứ tư, do viện trợ không đến tay người nghèo và sử dụng không đúng mục đích. Trong thực tế, ở các nước đang phát triển hiện nay có nhiều khoản viện trợ cho phát triển mà chủ yếu là đầu tư phát triển nhân lực đã không đến được tay người nghèo. Một phần bị rơi rụng dần và phần còn lại rất lớn lại được sử dụng không đúng mục đích, nên hiệu quả của những nguồn viện trợ rất thấp. Qua những nguyên nhân gây nên đói nghèo ở các nước đang phát triển vừa nêu, ta thấy nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân kinh tế. Do đó, việc xóa đói ở đây trước hết được hiểu như là sự hỗ trợ phát triển của nhà nước và cộng đồng để nâng cao đời sống dân cư, xóa bỏ tình trạng còn tồn tại các hộ không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu như cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà ở bằng tranh tre vách đất, nhằm duy trì cuộc sống bình thường. Từ đó giúp họ vượt qua tình trạng đói khổ triền miên để đi tới sự phát triển. Giảm nghèo tức là tạo điều kiện cho bộ phận dân cư nghèo tiếp cận được với các nguồn lực cần thiết để họ tự nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống làm cho mức sống chung của toàn bộ cộng đồng được nâng lên. Giảm nghèo còn được hiểu là quá trình chuyển một bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn nhờ sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng và sự nỗ lực vươn lên của bản thân các hộ nghèo. ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng người nghèo có ít sự lựa chọn sang tình trạng có nhiều sự lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người. Như vậy, có thể nói một cách khái quát, xóa đói, giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ các hộ đói nghèo có khả năng và cơ hội để tiếp cận với các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh chóng, trên cơ sở đó họ có nhiều sự lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát ra khỏi cảnh nghèo đói. XĐGN còn gắn với trung lưu hóa một bộ phận dân cư, khuyến khích và tạo điều kiện cho một bộ phận dân cư biết vươn lên làm giàu chính đáng trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Trước đây, ở thời kỳ chưa đổi mới, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, nghèo đói đã dường như không được nhìn nhận như một thực tế xã hội, bởi quan niệm cho rằng: Trong chủ nghĩa xã hội không thể có nghèo đói. Nó chỉ có trong chủ nghĩa tư bản, do sự phân phối bất hợp lý thu nhập của xã hội tạo ra. Do đó, cách nhìn nhận, đánh giá nghèo đói ở đây có phần méo mó thiếu khách quan và không khoa học. Với một nền kinh tế còn kém phát triển, chưa ra khỏi ngưỡng của sinh tồn thì nghèo đói là một vấn đề đương nhiên, tuy nhiên trước đây chúng ta đã không nhìn nhận đúng như nó vốn có, do đó đã để lại hậu quả xã hội không nhỏ mà không được cảnh báo. Vì ở nền kinh tế hiện vật, bao cấp bình quân không có cạnh tranh kinh tế; không mở rộng thị trường; không làm nảy nở nhu cầu kinh tế; không hối thúc sự cần thiết phải tháo vát, năng động, đổi mới cách nghĩ, cách làm, không thúc đẩy phát huy tài năng cá nhân. Nó chỉ thúc đẩy con người tìm cách làm sao cho mình ở vào một vị trí xã hội thuận lợi, có điều kiện thụ hưởng được nhiều sự bao cấp, sự ưu đãi của nhà nước. Giàu có trong xã hội này không phải là kết quả của sự nỗ lực sản xuất kinh doanh, của năng lực sáng tạo, của sự kịp thời nắm bắt yêu cầu của thị trường. Nghèo đói cũng không phải do lười biếng hoặc bị thua lỗ phá sản trong sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu là do không có "đất dụng võ", không có điều kiện và môi trường để thể hiện năng lực, tài năng. Bước sang nền kinh tế thị trường, con người buộc phải tính toán bằng giá trị và tính đủ giá trị cho mọi kết quả lao động, do đó lợi ích được chú trọng trước hết là lợi ích cá nhân. Nó khách quan hóa và nâng cao một cách đáng kể vai trò của năng lực cá nhân, thúc đẩy tính tự giác và ý thức trách nhiệm đối với công việc và sản phẩm lao động. Giá trị lợi ích đã thúc đẩy cạnh tranh, làm nẩy nở tài năng, kích thích con người về tính chủ động, óc sáng kiến, tính linh hoạt trong các phản ứng và các hành vi đáp ứng cạnh tranh. Kinh tế thị trường mở ra nhiều khả năng và cơ hội cho con người phát triển đồng thời cũng phơi bày những yếu kém bất cập của con người trong sản xuất - kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường xóa đói, giảm nghèo luôn gắn liền với khuyến khích một bộ phận dân cư có điều kiện, khả năng vươn lên làm giàu chính đáng. Đó cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu ngăn cản hiện tượng nghèo tái sinh. Những người vừa thoát nghèo rất có khả năng bị rơi vào nghèo đói trở lại khi những giải pháp giảm nghèo không bền vững hoặc chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Giảm nghèo còn là vấn đề mang tính lịch sử. Bởi nghèo vẫn tồn tại khi nền kinh tế thị trường vẫn còn chi phối và vẫn còn tồn tại sự khác biệt về năng lực thể chất, địa vị xã hội... giữa các cá nhân. Do đó, để giải quyết vấn đề giảm nghèo chỉ có thể từng bước giảm nghèo chứ chưa thể tiến tới xóa được nghèo. Chỉ đến khi xã hội loài người đạt tới trình độ xã hội cộng sản chủ nghĩa như Mác và Ăngghen dự báo, khi đó cơ sở kinh tế xã hội của đói nghèo mới không còn tồn tại. 1.2. Sự cần thiết khách quan phải xóa đói giảm nghèo trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta 1.2.1. Xóa đói, giảm nghèo không chỉ là mục tiêu mà còn là tiền đề giúp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Hiện nay, chúng ta đang phấn đấu xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng XHCN. Nhiều nhà nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới đã khẳng định, sự phân hóa giàu nghèo là tất yếu, gắn liền với sự phát triển của kinh tế thị trường. Điều đó do chính những qui luật của thị trường chi phối. Nếu xem xét trên một giác độ khác, thì sự phân hóa giàu nghèo là một hệ quả của quá trình tăng trưởng kinh tế, nó có tác dụng như một động lực thúc đẩy các thành viên trong xã hội khai thác, sử dụng tốt hơn mọi nguồn lực, phát huy mọi tài năng sáng tạo cho tăng trưởng kinh tế. Do đó, với một nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng nhanh trong quá trình đẩy mạnh tăng trưởng là một khách quan kinh tế. Trong khi đó, ngân sách chính phủ của các nước nghèo thường khó khăn, thâm hụt, chưa thể hỗ trợ mạnh cho đối tượng đói nghèo. Đến một trình độ phát triển nhất định, sự phân hóa giàu nghèo sẽ giảm dần do ngân sách của chính phủ đã đủ mạnh và có thể can thiệp có hiệu quả nhằm hạn chế tình trạng đói, nghèo. Sự phân tích về lý thuyết cũng như thực tế đều cho thấy vai trò quyết định của chính phủ trong việc hạn chế phân hóa giàu nghèo và khắc phục đói nghèo. Tuy nhiên, sự trợ giúp của chính phủ cho sự đói, nghèo của một bộ phận cộng đồng có mang tính triệt để hay không còn tùy thuộc vào bản chất xã hội mà nhà nước đó đại diện và theo đuổi. Trong chế độ TBCN, tất cả mọi người đều hoạt động theo mục đích tối đa hóa lợi ích, đặc biệt là các nhà tư bản bằng mọi cách tối đa hóa lợi nhuận thì không thể thiếu một đội quân thường xuyên sống trong trình trạng nghèo đói như một "đội hậu bị công nghiệp" cho dù đó là nhà nước phúc lợi. Nước ta có điểm xuất phát thấp, lại đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, quá trình này đã mang lại những kết quả rất quan trọng, khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng ta, nhưng cũng cho thấy tình trạng phân hóa giàu nghèo đang gia tăng như một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển. Đi liền với quá trình tăng trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước đã thực hiện những biện pháp nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo và XĐGN. Tuy nhiên do quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường mới chỉ ở giai đoạn đầu, kinh tế thị trường còn rất sơ khai, non yếu, cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường là quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên tình trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam tiếp tục gia tăng trái với bản chất của nhà nước và mục tiêu của nhà nước theo đuổi. Điều đó đặt ra cho chúng ta những thách thức rất lớn, tuy nhiên sự thách thức có nguyên nhân chủ yếu từ những nhân tố và giải pháp cho sự phát triển. Một mặt, nếu không tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì không thể tồn tại và phát triển được; mặt khác nếu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường thì tất sẽ có sự phân hóa giàu nghèo. Nhưng chúng ta không được phép dừng lại, "công cuộc đổi mới không thể nửa vời" (Tô Duy Hợp). Thực tế sau gần 15 năm đổi mới cho thấy, chúng ta vừa có thể hạn chế phân hóa giàu nghèo, thực hiện XĐGN vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường nếu đặt tiến trình này dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhìn từ góc độ kinh tế, XĐGN là tiền đề của phát triển, đến lượt nó, sự phát triển kinh tế - xã hội vững chắc lại tạo tiền đề vật chất cho tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội là nhân tố bảo đảm thành công cho XĐGN. Mức độ, tỷ lệ dân cư đói, nghèo là rất khác nhau giữa các nước, các khu vực, nó phản ánh sự khác nhau về bản chất xã hội, về trình độ phát triển, trước hết là phát triển kinh tế. Song nét chung, phổ biến là ở chỗ, đói nghèo gắn liền với sự chậm phát triển của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu của kỹ thuật, công nghệ, trình độ thấp kém của phân công lao động xã hội và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Nó dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức tăng trưởng kinh tế xã hội luôn ở những chỉ số thấp. Thất nghiệp, thu nhập không đủ cho chi dùng tối thiểu, do đó càng không thể có điều kiện chi dùng cho những nhu cầu văn hóa, tinh thần để vượt qua ngưỡng tồn tại sinh học, vươn tới việc thỏa mãn nhu cầu phát triển chất lượng con người. Trong tiến trình phát triển, đói nghèo của dân cư (nhất là ở các tầng lớp cơ bản của xã hội) đang là lực cản kinh tế - xã hội lớn nhất đối với các nước nghèo hiện nay. Xã hội phát triển được là nhờ hoạt động của con người, trong đó căn bản và quan trọng nhất là lao động để tạo ra của cải vật chất lẫn tinh thần. Không có hoạt động này, hoạt động mang bản chất con người, biểu hiện những sức mạnh bản chất của con người, thì không thể duy trì được sự tồn tại và phát triển của từng cá thể lẫn cộng đồng. Trong lao động, con người tìm kiếm những điều kiện và phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu đầu tiên của sự tồn tại. Xã hội muốn phát triển và hướng sự phát triển ấy vào mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, làm cho con người bộc lộ ngày càng nhiều hơn những năng lực sáng tạo và sự hoàn thiện nhân tính của nó cần phải được thỏa mãn những nhu cầu tồn tại ấy đồng thời tổ chức hợp lý đời sống xã hội sao cho hoạt động của con người thực sự trở thành hoạt động sáng tạo và phát triển. Không phải là không có lý do khi xem xét tiến bộ xã hội người ta ngày càng chú trọng nhiều hơn tới những chỉ số phát triển nhân văn của con người. Điều ấy càng cho thấy đói nghèo lạc hậu, là xa lạ, đối lập đối với phát triển, nhất là đối với mục tiêu phát triển của CNXH. Nguồn nhân lực không có một chất lượng tốt thì không thể khai thác và sử dụng các nguồn lực khác, do đó cũng không thể thực hiện được các mục tiêu phát triển. Sự suy giảm nguồn nhân lực là mối lo ngại lớn nhất đối với tiền đồ triển vọng của một dân tộc, là nguy cơ đe dọa lớn nhất đối với mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa của một nước. Trong thời kỳ mọi quốc gia đang hướng tới nền kinh tế tri thức và phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế nếu không có nguồn nhân lực tốt, có trí tuệ thì không đủ sức bứt lên phía trước, đứng vững được để phát triển và sẽ bị lu mờ dần, bị vượt qua bởi xu thế phát triển không ngừng. Nhìn về góc độ xã hội, đói nghèo về kinh tế sẽ dẫn tới những sức ép căng thẳng về xã hội, vấp phải những chồng chất khó khăn và mâu thuẫn, đặc biệt đối với các quốc gia, dân tộc mới giành được độc lập để tiến lên trên con đường phát triển. Sự lệ thuộc của các quốc gia đó vào những nước giàu, bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập vào văn hóa, hệ tư tưởng và chính trị là khó tránh khỏi. Thực tế đã cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quốc tế hóa như ngày nay, mỗi quốc gia - dân tộc chỉ có thể giữ vững chế độ chính trị, độc lập tự do và chủ quyền của mình với một tiềm lực kinh tế mạnh. Một quốc gia như vậy không thể là một quốc gia có tỷ lệ dân cư nghèo đói cao. Đói nghèo và lạc hậu sóng đôi với nhau, là xiềng xích trói buộc các nước nghèo, là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay mà mỗi quốc gia dân tộc cùng với cộng đồng quốc tế phải cùng hợp sức để giải quyết. Xóa đói, giảm nghèo, do đó không phải chỉ là một giải pháp tình thế, không phải là một vấn đề kinh tế xã hội thuần túy, mà là một chương trình trong toàn bộ chiến lược phát triển của mọi quốc gia, nhất là các nước chậm và đang phát triển. Thực hiện XĐGN không chỉ bằng cách tăng trưởng kinh tế, mà còn phải thực hiện công bằng xã hội. Về thực chất, nó nằm trong tiến trình cải tạo sâu sắc về mọi mặt đối với toàn bộ xã hội. "Nếu đói nghèo là lực cản của phát triển; thì XĐGN là con đường phá vỡ lực cản đó, tạo tiền đề cho phát triển" [5, 58] Như vậy, xóa đói, giảm nghèo trở thành tiền đề của ổn định và phát triển, ở đây đã bao hàm cả nội dung kinh tế và mục tiêu chính trị để Việt Nam định hướng XHCN thành công. 1.2.2. Mô hình phát triển và vấn đề xóa đói, giảm nghèo Muốn xóa đói, giảm nghèo trước tiên phải phát triển kinh tế, từ đó để loại bỏ cơ sở kinh tế của vấn đề đói, nghèo. Để phát triển, tùy theo điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội cụ thể để xây dựng thành các mô hình với các cấu trúc phương pháp và tiêu thức xác định. Hiện nay trên thế giới có ba mô hình phát triển sau: Mô hình thứ nhất: Thực hiện tăng trưởng kinh tế với bất cứ giá nào, không chú ý đến các vấn đề xã hội. Các lý thuyết của mô hình phát triển này cho rằng: Nếu đạt được tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo tiền đề để giải quyết các vấn đề khác, trong đó có nghèo, đói, chính vì thế họ nhấn mạnh đến nhân tố kinh tế, kỹ thuật. Đây là mô hình đã được áp dụng ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Tiêu biểu là lý thuyết cất cánh của W Rostow, nhà kinh tế học Mỹ với lý thuyết "Cái vòng luẩn quẩn" và "Cú huých từ bên ngoài" dành cho các nước đang phát triển của P.A. Samuelson. Mô hình thứ hai: Thực hiện tăng trưởng kinh tế trước sau đó giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là mô hình được áp dụng ở nhiều nước TBCN vùng Bắc Âu. Mô hình phát triển này tiến bộ hơn mô hình trước bởi các lý thuyết không chỉ tập trung vào mục đích tăng trưởng kinh tế, mà còn quan tâm mặt xã hội. Hình ảnh họ thường dùng là hãy để cho chiếc bánh to lên rồi sau đó phân chia công bằng cho mọi người. Tiêu biểu là lý thuyết "Chữ U ngược" của nhà kinh tế học S.Kuznets. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng với bất bình đẳng về thu nhập của các tầng lớp dân cư ở một số nước phát triển và đang phát triển, Kuznets đã đưa ra dự báo về xu hướng chữ U ngược. Nghĩa là, khi thu nhập tính theo đầu người tăng lên, thì sự bất bình đẳng có thể lúc đầu tăng lên đạt tới mức cực đại ở mức thu nhập trung bình và sau đó nó giảm xuống, khi thu nhập đạt tới mức đặc trưng của một nước công nghiệp.. Mô hình thứ ba: Thực hiện tăng trưởng kinh tế đồng thời với giải quyết các vấn đề xã hội. Các lý thuyết đi theo hướng này chủ trương đề cập đến vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình thứ ba này là lý thuyết "Nền kinh tế thị trường - xã hội" của cộng hòa Liên bang Đức. Lý thuyết này đặc biệt quan tâm đến yếu tố xã hội nhằm nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất đồng thời bảo vệ tất cả các thành viên xã hội, khắc phục những khó khăn về kinh tế, đau khổ về xã hội do gặp phải những rủi ro trong cộng đồng. Để đáp ứng mục tiêu đó cần phải tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập công bằng theo quan điểm tư sản và trên cơ sở thị trường, xây dựng một màng lưới an sinh xã hội qua hệ thống bảo hiểm như: bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tuổi già, sức khỏe, tai nạn..., xây dựng chế độ phúc lợi xã hội, đặc biệt là trợ cấp cho những người nghèo, cô đơn không nơi nương tựa. Đối với nước ta hiện nay vẫn đang được đánh giá là một trong những nước nghèo, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình phát triển mà chúng ta lựa chọn là: Thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với XĐGN. Hay diễn đạt một cách hình ảnh như Hồ Chí Minh là "nước dâng, thuyền lên", nghĩa là phải tăng gia sản xuất trước, phải tăng năng suất lao động trước, nhưng đồng thời phải gắn liền với cải thiện dần đời sống của nhân dân, sản xuất tăng đến đâu, mức sống được nâng cao đến đó, nước càng cao thì thuyền càng nổi. Điều đó sẽ cổ vũ nhiệt tình cho lao động của mọi người, tạo đà cho phát triển bền vững lâu dài. Tình hình nghèo đói ở nước ta hiện nay được đánh giá theo chuẩn của chương trình quốc gia về xóa đói, giảm nghèo; thì hộ nghèo đói, xã nghèo hiện đang còn khoảng 2,65 triệu hộ sống dưới mức nghèo đói, chiếm tỷ lệ 17,7% tổng số hộ cả nước và 1498 xã thuộc diện xã nghèo, chiếm 15% (năm 1997). Về đặc trưng nghèo ở Việt Nam có thể nói rằng: người nghèo chủ yếu là nông dân, ở nông thôn, vì 95% số người nghèo đói là nông dân và chỉ có khoảng 5% sống ở vùng đô thị. Nghèo đói ở Việt Nam cũng phân bố không đều giữa các vùng kinh tế, nơi nghèo đói cao vẫn là các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ; Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Có thể minh chứng qua số liệu thống kê về nghèo đói năm 1997 ở các vùng kinh tế như sau: Bảng 2: Phân bố số hộ nghèo đói qua các vùng năm 1997 [33, 63] Vùng Hộ nghèo đói Tỷ lệ (%) - Trung du và miền núi phía Bắc 641.400 25,42 - Đồng bằng sông Hồng - Bắc Trung bộ - Duyên hải miền Trung - Tây Nguyên - Đông Nam bộ - Đồng bằng sông Cửu Long Cả nước 302.460 554.926 358.260 180.400 103.700 493.750 2.635.096 9,8 27,84 22,44 27,84 5,50 15,65 17,70 Từ năm 1992, Đảng và Nhà nước chủ trương phát động cuộc vận động "xóa đói, giảm nghèo" bắt đầu từ thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương, rồi nhanh chóng lan rộng, trở thành phong trào của cả nước. Dựa trên tính hiệu quả và thiết thực của cuộc vận động XĐGN, cuối năm 1998, Đảng và Nhà nước ta quyết định nâng tầm cuộc vận động một phong trào quần chúng rộng lớn trở thành chương trình mục tiêu quốc gia với chủ trương, biện pháp và mục tiêu thực hiện nhất định. Các chính sách XĐGN mà nhà nước ta đang thực hiện là: - Chính sách về ruộng đất và việc làm cho người nghèo; - Chính sách đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn; - Chính sách tạo thêm việc làm, tăng thu nhập; - Chính sách phát triển kinh tế cho vùng có nhiều khó khăn; - Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn... Tính đến nay, tỷ lệ hộ đói nghèo trên tổng số hộ trên cả nước (theo tiêu chuẩn hiện nay) đã từ 30% năm 1992 giảm xuống còn 20% năm 1995, 13% năm 1999 và 11% năm 2000, đạt được mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, nước ta là nước được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo nhanh và có hiệu quả. Mục tiêu phấn đấu trong kế hoạch 5 năm và chiến lược phát triển kinh tế 10 năm tới là: Phấn đấu giảm hộ nghèo theo chuẩn của nước ta còn khoảng 5% vào năm 2005, đến 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Tuy nhiên cần phải thường xuyên củng cố thành quả XĐGN mà chúng ta đã đạt được. Để xác định cụ thể về lượng tỷ lệ đói, nghèo, trong những năm tới cần vận dụng tiêu chuẩn quốc tế để quy định hợp lý chuẩn xác định hộ nghèo và mục tiêu giảm nghèo ở nước ta (theo tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc mức nghèo khó được qui định là mức thu nhập của một người dân dưới 1USD/1 ngày) cho phù hợp với điều kiện cụ thể để có kế hoạch tiếp tục thực hiện chủ trương XĐGN của Đảng. 1.2.3. Những kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước trong khu vực Để phân tích cả về lý luận và thực tiễn vấn đề đói, nghèo, chúng ta cần khảo sát và học hỏi kinh nghiệm của một số quốc gia trong vùng, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội gần tương đồng với Việt Nam như: Trung Quốc, Inđônêxia, Singapo, Thái Lan. - Trung Quốc: Trung Quốc là một quốc gia có số dân đông nhất thế giới, do đó giải quyết đói nghèo ở Trung Quốc là vấn đề to lớn, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Suốt khoảng 45 năm liên tục, kể từ năm 1949, Trung Quốc tiến bộ rõ rệt trong quá trình xóa đói, giảm nghèo, cả về vật chất và tinh thần. Từ năm 1949 đến năm 1995, tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm từ 200/1000 xuống còn 42/1000 và tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 39 tuổi lên 69 tuổi. Ngày nay hầu hết trẻ em Trung Quốc đều được đi học, tỷ lệ mù chữ ở người lớn giảm xuống chỉ còn 19% (trong những năm 50, tỷ lệ này là 80%) [27, 16]. Có được kết quả trên là do, từ năm 1978, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các biện pháp tấn công vào nghèo đói ở vùng nông thôn như: + Cải cách ruộng đất và cải tạo nâng cao độ màu mỡ của đất đai, nhờ đó mà sản lượng và năng suất trong nông nghiệp tăng khoảng 40%. + Hướng tới thị trường là một cải cách quan trọng trong nền kinh tế nói chung và giảm bớt đói nghèo cho khu vực nông thôn nói riêng. + Cải cách giá cả, đặc biệt là giá nông sản phẩm để cánh kéo giá thu hẹp lại tạo điều kiện để nông dân cải thiện đời sống, từ đó tạo ra sức cầu cho phát triển kinh tế lâu dài. Giai đoạn đầu cải cách, giá sản phẩm chủ yếu tăng bình quân 22%, giá thực phẩm chủ yếu và một số sản phẩm khác tăng 33%. Sự tăng giá này đã góp phần cải thiện khoảng 20% thu nhập tính theo đầu người ở nông thôn trong khoảng 6 năm liền (1978 - 1984). Giai đoạn tiếp theo, chính phủ đã đưa ra "chương trình giảm đói nghèo 8-7", Chính phủ trung ương tăng đầu tư và hỗ trợ tài chính ở địa bàn nghèo, mở rộng khả năng cho phép tỉnh nghèo hợp tác với các tỉnh, vùng đã phát triển để hỗ trợ lẫn nhau trong tiến trình cải cách kinh tế. Những cố gắng liên tục của Trung Quốc đã đem lại những kết quả to lớn. Từ năm 1991 đến giữa năm 1995, số người nghèo ở nông thôn đã giảm từ 95 triệu người, xuống còn 65 triệu người, ngân sách cho giáo dục cơ bản và chăm sóc sức khỏe tăng từ 18% (năm 1992) lên 22% (năm 1994). - Inđônêxia: Từ những năm 1960, ở Inđônêxia nhà nước đã quan tâm tới việc xóa bớt đói nghèo. Trong các biện pháp xóa đói, giảm nghèo có hai biện pháp được quan tâm và đầu tư nhiều nhất là tạo việc làm và giáo dục, đào tạo. Chương trình việc làm được tập trung vào khu vực nông thôn nơi có số người nghèo tập trung đông nhất. Nhà nước thực hiện "cách mạng xanh" trong nông nghiệp, thành lập chương trình "BISMAS" và "INMAS"- các tổ chức cấp phát tín dụng cho nông dân. Chương trình phát triển nông thôn được nhà nước đặc biệt quan tâm bằng cách tăng cường chi phí cho phát triển nông thôn, mức đầu tư tăng trung bình hàng năm là 3%. Nhờ chính sách tạo việc làm ở nông thôn nên tỷ lệ nghèo khổ ở nông thôn giảm nhanh hơn so với ở thành thị. Trong lĩnh vực giáo dục, chính phủ một mặt tăng cường giáo dục phổ thông, mặt khác đưa ra chương trình quốc gia về đào tạo kỹ năng hướng nghiệp cho thế hệ thanh niên bước vào tuổi lao động. Nhờ kết quả của các chương trình XĐGN nên trong giai đoạn từ 1976 đến 1987, số dân sống dưới mức nghèo khổ giảm từ 54 triệu người xuống còn 30 triệu người, và theo kết quả cuộc điều tra dân số mới đây, số người nghèo từ 25,9 triệu người, chiếm 13,6% dân số năm 1993 giảm xuống còn 22,5 triệu người, chiếm11% dân số năm 1996. - Singapo: Singapo là nước có số dân ít, thu nhập cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp, do đó chương trình giảm nghèo đói ở Singapo có khác với các nước khác trong vùng: đó là sự trợ giúp của nhà nước cho tầng lớp nghèo không tác động trực tiếp mà gián tiếp qua phát triển ngành sử dụng nhiều lao động và đào tạo, nâng cao khả năng thích ứng của con người trước sự thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động thế giới. Do đó, để giảm nghèo đói, chính phủ Xingapo tập trung vào hai chiến lược: Thứ nhất, phát triển kinh tế gắn với sử dụng nhiều lao động được đề ra cho giai đoạn 1966 - 1979 bằng việc định hướng ưu tiên sản xuất công nghiệp dành cho xuất khẩu và nhanh chóng tham gia vào phân công lao động quốc tế. Với chiến lược này, Singapo chủ trương thu hút đầu tư vào những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nhanh tạo ra sản phẩm xuất khẩu như ngành dệt, may mặc xuất khẩu, lắp ráp thiết bị điện tử và các phương tiện giao thông vận tải. Đồng thời với phát triển các ngành trên, chính phủ còn xúc tiến xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là ngành xây dựng cơ bản, với mục tiêu là tạo được nhiều việc làm cho dân chúng và tạo tiền đề cho sự phát triển lâu dài. Khi đã đạt được mục tiêu chính là tạo đủ công ăn việc làm cho dân chúng vào cuối năm 1973, chính phủ mới chuyển hướng đổi mới công nghệ và sử dụng nhiều chất xám, công nhân kỹ thuật cao. Thứ hai, đầu tư vào con người. Nhà nước đã chi một khoản tiền rất lớn khoảng 6% tổng thu nhập quốc dân, cho phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế và từ thiện. Trong những năm 60 - 70, riêng chi phí cho giáo dục bình quân hàng năm chiếm khoảng 16% trong ngân sách của nhà nước. Đây là những nỗ lực lớn của Nhà nước trong việc nâng cao mức sống vật chất và dân trí cho dân chúng. Kết quả của chính sách trên là đã đưa tới tỷ lệ dân cư biết đọc biết viết từ 72% năm 1970, lên 88% năm 1990. Thêm vào đó, chính phủ đề ra chính sách điều chỉnh mức lương có lợi cho người trực tiếp sản xuất nên chênh lệch giữa mức lương của những người làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân ngày càng thu hẹp. Đó là một thành tích có ý nghĩa xã hội, chính trị sâu sắc. Nó đã làm cho sự chênh lệch mức sống và thu nhập giữa các nhóm dân tộc và những người có nghề nghiệp khác nhau ngày càng thu hẹp. Các nỗ lực xóa đói, giảm nghèo của chính phủ Singapo đã làm cho tỷ lệ nghèo, ngày càng giảm. Nếu vào cuối thời kỳ thuộc địa Anh có tới 40% hộ ở Singapo thuộc diện nghèo, thì đến giữa những năm 70 đã giảm còn 17% và năm 1982 con số đó là 8%. Đến cuối năm 1988, số gia đình nghèo chỉ còn chiếm khoảng 3,5% dân số cả nước. - Thái Lan: Với hơn hai thập niên thực hiện XĐGN, Thái Lan đã đạt được kết quả đáng kể về giảm nghèo đói từ 59% năm 1962 đã giảm xuống còn 22% vào năm 1988. Chương trình XĐGN của Thái Lan những năm gần đây bao gồm việc cung cấp dịch vụ xã hội dưới nhiều hình thức phong phú hướng tới mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống cho tầng lớp nghèo. Các hình thức dịch vụ đã được áp dụng bao gồm: - Phúc lợi cho những người khốn cùng trong xã hội, hình thức này dành cho những người rơi vào hoàn cảnh nan giải không tự chủ được trong cuộc sống. - Trợ giúp gia đình nhằm mục đích xây dựng và củng cố gia đình như một đơn vị cơ bản của xã hội. Đối tượng của các hình thức này là các gia đình thiếu kỹ năng tự đảm bảo cuộc sống tối thiểu. - Phúc lợi cho người có tuổi, bao gồm nhà cửa và các dịch vụ xã hội khác. - Trợ giúp việc làm và cho vay vốn... Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều nhà kinh tế, các hình thức nêu trên có ý nghĩa và thành tựu nhất định, nhưng việc xem xét đánh giá kết quả của từng hình thức chưa được xem xét một cách thỏa đáng. Mặt khác, xu hướng nghèo khổ ở Thái Lan còn khá rõ nét, sự bất bình đẳng và chênh lệch về thu nhập có xu hướng gia tăng. Người ta đã lớn tiếng báo động về tình trạng chưa có sự quan tâm thỏa đáng về chăm sóc, giáo dục và đi liền với nó là năng lực của thị trường lao động. Gần đây, chính phủ Thái Lan đang có những thay đổi tích cực trong việc giải quyết các vấn đề trên. Tóm lại, nghèo đói là một vấn đề đang đặt ra cho tất cả các nước, trong đó bức xúc và nhức nhối hơn cả là ở các nước đang phát triển, những nước mà ta quen gọi là thế giới thứ ba. ở đây vừa phải giải quyết mục tiêu công bằng xã hội, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, vừa phải tham gia vào cuộc tranh đua hội nhập vào kinh tế quốc tế và khu vực. Trong cuộc tranh đua đó thì vấn đề XĐGN là một vấn đề cần thiết để đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và bền vững. Đối với nước ta là một nước lựa chọn con đường XHCN thì vấn đề XĐGN phải được tiến hành ngay đồng thời với tiến trình CNH, HĐH để tạo lập cơ sở vật chất cho CNXH và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chương 2 Thực trạng đói nghèo và xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay 2.1. Thực trạng và nguyên nhân gây đói nghèo ở Phú Thọ 2.1.1. Những điều kiện và lợi thế về kinh tế - xã hội và truyền thống của Phú Thọ trong sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo Phú Thọ là một tỉnh miền núi phía Bắc với diện tích tự nhiên 3.506km2 gồm: 12 huyện, thành thị với 270 xã phường, thị trấn, trong đó có 9/12 huyện thị và 214/270 xã, thị trấn là miền núi. Dân số hiện nay là 1.290.000 người bao gồm 21 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh là chủ yếu. Trong tổng dân số, nữ chiếm 51,4%; dân cư đô thị chiếm 14% dân cư sống ở nông thôn chiếm 86%. Mật độ dân số 370,6 người/km2, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm (1995 - 1998) khoảng 1,77%. Dự báo đến hết năm 2000, Phú Thọ sẽ có số dân khoảng 1.347.000 người. Cư dân đô thị sẽ có xu hướng tăng cả tương đối lẫn tuyệt đối, nhưng tốc độ tăng không lớn. 2.1.1.1. Phú Thọ là một tỉnh miền núi có điều kiện tự nhiên nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế để xóa đói giảm nghèo Về vị trí địa lý: Phú Thọ nằm tiếp giáp giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, có vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâm của vùng Tây - Đông Bắc, đó là yếu tố phát triển quan trọng và là một trong những lợi thế tiềm ẩn chưa được khai thác đủ mức cần thiết cho tăng trưởng và phát triển, cần phải được phát huy hơn nữa trong tiến trình CNH, HĐH nền kinh tế của địa phương hiện nay. Với vị trí "Ngã ba sông", cửa ngõ phía Tây nối với Thủ đô Hà Nội, Phú Thọ là cầu nối giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật... giữa các tỉnh đồng bằng Bắc bộ với các tỉnh miền núi phía Tây Bắc và Đông Bắc như Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai... Phú Thọ vừa có thể đáp ứng được nhu cầu vừa thu hút nguyên liệu, nông lâm khoáng sản từ các tỉnh trên. Tất cả các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông từ các tỉnh phía Tây - Đông Bắc đều qui tụ về Phú Thọ rồi mới về Hà Nội, Hải Phòng và các nơi khác. Về địa hình, khí hậu: Có thể chia thành hai vùng chủ yếu: - Tiểu vùng núi cao ở phía Nam tỉnh, chủ yếu là các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, phía Tây Sông Thao, đây là vùng khó khăn trong việc đi lại giao lưu với nơi khác. - Tiểu vùng đồi gò bát úp, xen kẽ đồng ruộng và dải đồng bằng ven các con sông lớn như sông Hồng, Hữu Lô, Tả Đà hình thành các vùng đồng bằng tương đối tập trung ở Phong Châu. Đây là vùng đã được khai thác lâu đời, đồi bị xói mòn, rửa trôi, đồng ruộng lầy thụt, chua úng. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các loại nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả, phát triển lương thực chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Về tiềm năng đất đai: Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ gần đây thì có nhiều đặc trưng rất đáng chú ý: Đất Peralit đỏ vàng phát triển trên phiến thạch sét, diện tích tới 116.266,27 ha (chiếm 66,79% diện tích điều tra) phân bố chủ yếu ở Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hòa, Sông Thao, Đoan Hùng... Đây là loại đất đồi núi. Đất thường có độ cao trên 100m, độ dốc lớn, tầng phong hóa dày, thành phần cơ giới nặng, mùn khá dày. Loại đất này thường sử dụng trồng rừng, một số nơi có thể sử dụng trồng cây công nghiệp. Đất đai Phú Thọ đang còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác và khai thác chưa hợp lý. Đây vừa là hạn chế nhưng cũng là một lợi thế trong phát triển kinh tế của Phú Thọ trong những năm tới. Hiện nay Phú Thọ mới sử dụng được khoảng 67,8% tiềm năng quỹ đất lâm nghiệp. Đặc biệt Phú Thọ còn khoảng 126 nghìn ha đất trống - đồi núi, phần lớn số diện tích này có thể trồng cây nguyên liệu giấy. Hệ số sử dụng ruộng đất hiện mới đạt khoảng 1,8 - 2,0 lần, có thể đưa lên khoảng 2,5 lần. Nếu có đầu tư và tổ chức sản xuất tốt có thể tăng năng suất ở nhiều nơi. 2.1.1.2. Phú Thọ là tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo Về dân số năm 1997, toàn tỉnh Phú Thọ có 1.288 nghìn người, chiếm khoảng 1,7% dân số của cả nước. Trên lãnh thổ Phú Thọ có 21 dân tộc cùng sinh sống (trong đó đông nhất là người Kinh, người Mường). Trong giai đoạn 1991 - 1997, quy mô dân số của Phú Thọ tăng với nhịp độ trung bình năm khoảng 2,1% bằng mức tăng trung bình của cả nước. Sau 7 năm (1991 - 1997), dân số toàn tỉnh tăng khoảng 17,0 vạn người, trung bình mỗi năm tăng khoảng 2,4 vạn người. Dân số thành thị tăng nhanh hơn dân số nông thôn. Đây là chiều hướng tiến triển phù hợp với quá trình đô thị hóa đang phát triển. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của Phú Thọ năm 1997 là 1,698%. Đó là nhờ kết quả của công tác kế hoạch hóa gia đình, là một yếu tố thuận lợi cho công tác XĐGN của tỉnh. Xu thế phát triển dân số về lượng được phán ánh cụ thể hơn nữa qua bảng 3 dưới đây: Bảng 3: Thực trạng tăng (giảm) dân số 1991 - 1997 Đơn vị: 1.000 người 1990 1997 Tăng(+) giảm (-) Nhịp độ tăng A B C (7 năm) C =B-A D Bình quân năm D=C/7 E E = B/A Dân số toàn tỉnh 1119 1288,7 169,7 24,24 115,2 Phân theo giới tính + Nam 533,5 639,3 92,8 13,3 117,4 % so với tổng số 47,7 48,6 + Nữ 585,5 662,4 76,9 11,0 113,1 % so với tổng số 52,3 51,4 Phân theo thành thị - nông thôn + Thành thị 104,5 181,5 77,0 11,0 173,7 % so với tổng số 9,3 14,1 + Nông thôn 1014,5 1107,2 92,7 13,2 109,1 % so với tổng số 90,7 85,9 (Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ 1997) Về phân bố dân cư: Do Phú Thọ là tỉnh miền núi, tỉ lệ dân cư đô thị thấp. Năm 1998 có 14,1% dân số sống ở đô thị và 85,9% dân số ở nông thôn, điều đó chứng tỏ, mức đô thị hóa của Phú Thọ còn rất thấp, thấp hơn nhiều so với bình quân của cả nước (gần bằng 20,8%). Sự phân bố dân cư theo lãnh thổ không đều trong tỉnh là do có sự chênh lệch về mật độ dân số giữa các huyện, thị, thành, đông nhất là thành phố Việt Trì, tiếp đến là thị xã Phú Thọ, thưa nhất là hai huyện: Thanh Sơn, Yên Lập. Số thống kê tại bảng 4 cho thấy rõ tình trạng đó. Bảng 4: Hiện trạng phân bố dân cư theo huyện thị năm 1998 [29, 32] Đơn vị tính: người/km2 Mật độ dân số (người/km2) Hệ số so với trung bình toàn tỉnh (toàn tỉnh =1) Toàn tỉnh 368 1 Trong đó: Thành phố Việt Trì Thị xã Phú Thọ 1.822 1.342,7 4,95 3,64 Huyện Phong Châu Huyện Thanh Ba Huyện Yên Lập Huyện Thanh Sơn 799,2 652,1 179,5 136,9 2,17 1,77 0,49 0,37 Tuy nhiên, nguồn lao động hiện vẫn đang là một áp lực lớn cho vấn đề giải quyết việc làm - XĐGN, nhất là trong điều kiện nền kinh tế còn yếu kém, thiếu vốn và công nghệ, nhất là trong thời kỳ đầu CNH,HĐH (1998 - 2005). Trong giai đoạn 1998 - 2000 số lao động cần việc làm tăng thêm khoảng 28 nghìn người, bình quân hàng năm nền kinh tế của tỉnh phải thu hút thêm khoảng 13,5 nghìn lao động. 2.1.1.3. Từng bước xây dựng kinh tế vững mạnh, tạo lập các cơ sở kinh tế - xã hội để thực hiện sự nghiệp xóa đói giảm nghèo Về kinh tế - xã hội: Nền kinh tế của Phú Thọ giai đoạn từ 1991 đến nay, nhìn chung ổn định, có mức tăng trưởng khá. GDP bình quân tăng 8,3%, các ngành kinh tế đều có mức tăng trưởng cao: Công nghiệp xây dựng 11,6%; nông lâm nghiệp 4,23%; dịch vụ 10%. Hệ số tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế gần tương đương với xu hướng phát triển chung của cả nước. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 11,6%. Một số sản phẩm công nghiệp có mức tăng trưởng nhanh như: cao lanh, rượu, bia, thịt đông lạnh, giấy, phân hóa học... Xuất hiện một số sản phẩm mới chiếm lĩnh được thị trường như mì chính, gạch men, kính... Đặc biệt gần đây, Phú Thọ đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp chủ công có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế trên toàn địa bàn. Sản xuất công nghiệp ở Phú Thọ đang là những điều kiện ban đầu hết sức quan trọng để giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống dân cư nói chung và dân cư nghèo nói riêng. Sản xuất nông nghiệp có nhịp độ tăng trưởng bình quân năm trong thời kỳ 1991 - 1997 vào khoảng 4,2% và đã chuyển dần sang sản xuất hàng hóa: Sản lượng lương thực có bước phát triển khá, bình quân mỗi năm tăng 11,8 nghìn tấn; sản lượng chè (búp tươi) năm 1997 đạt 23 nghìn tấn, tăng 6 nghìn tấn so với năm 1990 nhờ tăng diện tích trồng chè lên gần 5,1 nghìn ha vào năm 1997. Trồng rừng và chăm sóc rừng có nhiều tiến bộ, đã có những mô hình sản xuất kinh doanh khẳng định có thể làm giàu trên đất đồi rừng; đã hình thành khu vực khá ổn định và tập quán trồng cây nguyên liệu giấy. Tuy nhiên, trong sản xuất nông nghiệp, lương thực bình quân đầu người/năm còn thấp, năm 1997 đạt 213 kg, năng suất cây công nghiệp dài ngày còn chưa cao, chưa hình thành được các vùng cây ăn quả hàng hóa, chăn nuôi tuy phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Đây không chỉ là một nhược điểm, mà còn là một lợi thế phát triển, cần tận dụng để XĐGN. Các ngành dịch vụ có mức tăng trưởng khá, đạt khoảng 12,4% năm. Thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch và các ngành dịch vụ khác đều có bước cải tiến, đổi mới nghiệp vụ, trình độ quản lý, kinh doanh góp phần tích cực vào sự ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh. Nền kinh tế có sự tăng trưởng khá nên đời sống của các tầng lớp dân cư của tỉnh ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống. Có thể thấy điều đó qua bảng tổng hợp một số chỉ tiêu kinh tế sau đây. Bảng 5: Tổng hợp một số chỉ tiêu bình quân về kinh tế [3, 1], [29] T T Chỉ tiêu Đ/V tính 1995 1996 1997 1998 1999 1 Tổng sản phẩm theo giá trị thực tế Triệu đồng 2.249.30 6 2.554.33 1 2.831.32 5 3.132.09 3 3.360.73 5 2 Sản lượng lương thực Tấn 248.425 244.374 275.172 280.378 320.700 3 Thu ngân sách Tỷ đồng 211,6 223,1 232,6 248,014 4 Thu nhập bình quân đầu người/ năm Đồng/ người 1.756.17 4 1.994.32 6 2.193.95 1 2.427.01 2 2.447.48 5 5 Lương thực bình quân đầu người/ năm kg/ngườ i 199 190 213,5 217 252 Về xã hội: Thứ nhất: Về giáo dục. Tỉnh Phú Thọ thường xuyên coi trọng phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực có trình độ chuyên môn cao, đạo đức tốt nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng giáo dục, đào tạo trong những năm qua có nhiều tiến bộ, nhiều môn học được cải tiến về nội dung chương trình. Hệ thống trường lớp được củng cố. Tuy nhiên, giáo dục đào tạo của Phú Thọ vẫn còn một số điểm cần khắc phục: số học sinh giỏi đạt thứ bậc cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế còn ít, số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật chiếm tỷ lệ chưa cao. Chưa chú trọng đúng mức đào tạo nghề cho người lao động. Trình độ dân trí còn thấp, văn hóa tuy đã được công nhận là một tỉnh có kết quả phổ cập tiểu học đạt khá, nhưng chưa đồng đều. Phú Thọ còn thiếu các nhà doanh nghiệp giỏi, thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề. Trình độ chuyên môn, ngoại ngữ tin học của đội ngũ cán bộ và lao động đang còn thấp. Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều điểm bất cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới. Đây là một hạn chế lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và cũng là một hạn chế cho tiến trình giảm nghèo của tỉnh. Thứ hai: Về y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Trong thời gian qua, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng của Phú Thọ đã có nhiều cố gắng vươn lên đạt được những thành tựu nhất định góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh cũng như cho chương trình XĐGN. Các chương trình tiêm chủng mở rộng, dân số kế hoạch hóa gia đình, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường... đều được tỉnh quan tâm tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt, có những điển hình tiên tiến. Đáp ứng phần lớn việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân. Thứ ba: Về văn hóa và truyền thống. Từ ngàn xưa, Phú Thọ đã là đất đế đô, nơi khai sinh ra nhà nước Việt cổ. Trải qua 4000 năm văn hiến, Phú Thọ là tỉnh có truyền thống văn hóa lâu đời của cả nước, nơi có đền thờ các vua Hùng, là kinh đô của nước Văn Lang xưa. Người dân Phú Thọ không chỉ tự hào với truyền thống dựng nước, giữ nước đã lưu truyền từ thời Hùng Vương, mà còn phát huy bồi đắp cho truyền thống đó ngày càng phong phú hơn trong thời kỳ đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, người dân Phú Thọ có cuộc sống chan hòa và thân ái, trong nhân dân luôn lưu giữ những phong tục, tập quán tốt đẹp mang đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Vốn có đời sống tinh thần phong phú, yêu chuộng học hành và có truyền thống tôn sư trọng đạo, trọng nhân tài, người Phú Thọ tích cực tiếp thu cái mới, tiếp thu nếp sống văn minh cao, văn hóa nhân loại. Từ bao đời nay đời sống tinh thần của làng quê đã hình thành nên văn hóa làng xã với nếp sống truyền thống luôn tôn vinh những giá trị đạo đức, đạo lý làm người, xây dựng và thực hiện kỷ cương gia đình và mối liên hệ với xã hội, dân cư sống cùng làng xã thương cảm đùm bọc lấy nhau như "lá lành đùm lá rách". Cơ sở, đạo lý nhân văn này đã tạo nên động lực và sợi dây liên kết ý chí, sức mạnh của cả một cộng đồng giúp nhau vượt qua nghèo, đói. Do đó, bản thân truyền thống của dân tộc đã là cơ sở để có thể thực hiện thành công sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo. Truyền thống này đã xuất hiện ngay trong truyền thuyết từ thời Hùng Vương và được phát triển qua nhiều thời kỳ trong tiến trình phát triển của đất nước. Đó là những truyền thống cực kỳ quý báu, là những chân giá trị có thể phát huy trong việc động viên sức lực của toàn xã hội và sự tự nỗ lực vươn lên của những người nghèo, hộ nghèo để xóa đói, giảm nghèo. 2.1.2. Thực trạng đói nghèo ở Phú Thọ hiện nay Đói nghèo và sự phân hóa giàu nghèo hiện đang là một vấn đề kinh tế bức xúc hiện nay. Đó là một lực cản to lớn trên con đường xây dựng một đất nước theo định hướng XHCN. Nhận thức một cách đầy đủ tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của vấn đề này, trong những năm qua Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ đã nỗ lực trên mọi lĩnh vực để thực hiện xóa đói, giảm nghèo, xây dựng một tỉnh Phú Thọ giàu đẹp xứng đáng là miền đất Tổ thiêng liêng của Tổ quốc. So với cả nước, hiện nay Phú Thọ vẫn là một tỉnh nghèo, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thuần nông, độc canh cây lúa (điều này thể hiện rất rõ trong cơ cấu GDP của tỉnh) công nghiệp và dịch vụ còn kém phát triển, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao. Căn cứ vào tiêu chí phân loại đói nghèo quốc gia, ban chỉ đạo XĐGN của tỉnh đã mở cuộc điều tra toàn diện về thực trạng đói nghèo trên phạm vi toàn tỉnh. Kết quả điều tra tại thời điểm tháng 6 năm 1999 như sau: - Tổng số hộ đói nghèo toàn tỉnh: 52.716 hộ, chiếm tỷ lệ 18,16% Trong đó: + Hộ đói: 16.756 hộ, chiếm tỷ lệ 5,78% + Hộ nghèo: 35.960 hộ, chiếm tỷ lệ 12,38% - Trong tổng số 270 xã phường có:  113 xã phường có tỷ lệ đói nghèo dưới 15% (dưới 10%: 52 xã)  46 xã phường có tỷ lệ đói nghèo từ 15% đến dưới 20%  66 xã có tỷ lệ đói nghèo từ 20 đến 40%  45 xã có tỷ lệ đói nghèo từ 40% trở lên (Theo tiêu chuẩn quốc gia 45 xã này thuộc diện xã nghèo) - Toàn tỉnh còn 147 xã thiếu hoặc yếu về hạ tầng cơ sở Trong đó:  2 xã chưa có đường giao thông ô tô tới trung tâm xã  86 xã chưa có điện lưới quốc gia  42 xã có tỷ lệ hộ dùng nước sạch sinh hoạt đạt dưới 50%  92 xã chưa có chợ - Tình trạng của các hộ đói nghèo 100% số hộ đói nghèo thường xuyên thiếu tiền chữa bệnh 63,3% số hộ đói nghèo nhà ở bằng tranh tre nứa lá Gần 10% số trẻ em trong độ tuổi đi học bỏ học là con em của các hộ đói nghèo. - Sự phân bố các hộ đói nghèo trên phạm vi toàn tỉnh tính đến tháng 6 năm 2000 như sau: Qua số liệu đã nêu trên và nhìn vào bảng số 6 ta thấy: Tỷ lệ đói nghèo của tỉnh cũng như sự phân bố trên các huyện thị thành có những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, đói nghèo ở Phú Thọ tập trung cao ở các huyện miền núi vùng sâu, vùng xa. Do tác động của các yếu tố khí hậu, đất đai, thời tiết cùng các yếu tố có tính chất lịch sử xã hội, đói nghèo ở Phú Thọ tập trung chủ yếu vào các huyện miền núi như Thanh Sơn, Yên Lập, Sông Thao, Tam Thanh. Huyện có tỷ lệ đói nghèo rất cao như Thanh Sơn 20,79%, Yên Lập 31% (số liệu đến tháng 6 - 2000). Các xã đói cũng tập trung ở các vùng núi cao Thanh Sơn: 19 xã, Yên lập 12 xã, ở các xã này thường đi lại khó khăn (chủ yếu là đường đất như Yên Lập) thiếu điện, thiếu nước sạch sinh hoạt, nhiều xã chưa có chợ, vài xã chung nhau 1 chợ và họp theo phiên hàng tháng vài lần. Kinh tế chủ yếu còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, các công trình thủy lợi yếu kém hoặc chưa có, chế độ canh tác còn lạc hậu, có trường hợp còn đốt phá rừng bừa bãi hoặc có nơi còn di cư tự do. Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế đều gặp khó khăn, sốt rét, bướu cổ là các bệnh thường gặp. Thứ hai, khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị khá cách xa nhau: Sau gần 15 năm đổi mới, tốc độ đô thị hóa diễn ra khá nhanh. ở thành phố, thị xã, thị trấn được đầu tư mở mang và nâng cấp cơ sở hạ tầng lên rất nhanh. Quá trình đô thị hóa đã góp phần quan trọng vào việc đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nó cũng làm cho khoảng cách đời sống giữa đô thị và nông thôn ngày càng xa. Khu vực đô thị có thu nhập cao hơn, được hưởng thụ rất nhiều điều kiện ưu đãi về cơ sở hạ tầng như điện, nước sạch, giao thông, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, báo chí, v.v... Trái lại, người dân nông thôn và nhất là nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng cao thì thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, đời sống văn hóa nghèo nàn. Điều đó đang tạo ra sự bất bình đẳng rất lớn về tiếp cận với cơ hội phát triển và thụ hưởng thành quả của sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay Theo tính toán bước đầu, GDP bình quân đầu người của khu vực nông thôn so với khu vực thành thị ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong đó có Phú Thọ như sau: 1991 = 25% 1995 = 17% 1993 = 21% 1996 = 16% 1994 = 19% Như vậy, thu nhập của khu vực nông thôn chẳng những thấp rất xa so với khu vực thành thị, mà còn có xu hướng giảm qua các năm. Điều này chứng tỏ, khoảng cách về thu nhập và mức sống giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Có thể thấy rõ qua con số tổng hợp ở bảng 7 dưới đây. Bảng 7: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của 1% số hộ thu nhập cao nhất so với 1% số hộ có thu nhập thấp nhất [30, 153] Nhóm hộ 1994 1995 1996 1. Nhóm thu nhập cao nhất (1000đ) 2. Nhóm thu nhập thấp nhất 3. Chênh lệch giữa cao nhất và thấp nhất 869,8 35,44 24,54 1015,17 43,59 23,29 1160,94 41,68 27,85 Về tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn và thành thị cũng khác xa nhau. Nếu ở Việt Trì số hộ đói là 0,55% hộ nghèo là 4,25% ở Phú Thọ số hộ đói là 3,1% hộ nghèo là 6,3% Thì ở Sông Thao số hộ đói là 5,9% hộ nghèo là 12,68% ở Thanh Thủy số hộ đói là 6,1% hộ nghèo là 13,1% Nếu so sánh một cách đơn giản thì có thể thấy: Tỷ lệ hộ đói nghèo ở huyện Sông Thao cao gấp 2 lần thị xã Phú Thọ (18,58/ 9,4) và gấp 3,87 lần so với thành phố Việt Trì (18,58/ 4,8). Về trình độ phát triển kinh tế - văn hóa xã hội của các dân tộc trong tỉnh cũng khác rất xa nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, trong khi các dân tộc đông người sống ở vùng thấp, có trình độ dân trí cao hơn, khả năng tiếp thu công nghệ tốt hơn, có điều kiện tiếp cận thị trường hơn thì kinh tế phát triển, đời sống được cải thiện. Ngược lại, các dân tộc ít người sống ở vùng sâu, vùng xa do trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, đời sống mọi mặt rất khó khăn. Đó cũng là một thách thức và mâu thuẫn lớn trong tiến trình XĐGN của tỉnh. Thứ ba, đói nghèo ở nông thôn Phú Thọ tập trung ở nhóm hộ thuần nông. Một đặc trưng của đói nghèo ở Phú Thọ tập trung ở khu vực nông thôn miền núi, trong đó thường xuyên rơi vào nhóm hộ thuần nông, không có nghề phụ, thiếu việc làm hoặc việc làm đạt hiệu quả thấp, không có thu nhập, không có tích lũy. Ngay cả tái sản xuất giản đơn các hộ này cũng khó thực hiện được, vì vậy đời sống của các hộ này gặp rất nhiều khó khăn, do đó đã nảy sinh dòng dân di cư tự phát ra thành phố kiếm việc làm. Việc di chuyển này là nguyên nhân gây mất an ninh và gây ra các tệ nạn xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đói nghèo làm gia tăng các tệ nạn xã hội và ngược lại, chính các tệ nạn xã hội lại đẩy đói nghèo đến mức độ gay gắt hơn. Hậu quả dẫn tới là phân hóa về thu nhập, mức sống, phân tầng xã hội mạnh mẽ. Do đó các chính sách XĐGN đòi hỏi phải có sự phối hợp và lồng ghép các chính sách kinh tế với các chính sách xã hội. Mặc dù số hộ đói nghèo của Phú Thọ hiện còn lớn, song về cơ bản các hộ này vẫn còn tư liệu sản xuất (trước hết là đất đai canh tác). Điều đó cho thấy người nghèo đói ở đây không phải là người dân bị bần cùng hóa, bị mất hết tư liệu sản xuất. Đây là điều kiện rất quan trọng trong việc hoạch định các chính sách XĐGN. Bởi vì còn tư liệu sản xuất chủ yếu, nếu được nhà nước và cộng đồng hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm làm ăn thì chính những người nghèo, hộ nghèo có thể vươn lên tự cởi trói cho mình để hòa nhập vào sự phát triển chung của xã hội. ở Phú Thọ, một nghịch lý đang tồn tại: Trong lúc 30% lao động ở nông thôn không có việc làm hoặc việc làm thu nhập quá thấp và ở thành thị 4,58% lao động bị thất nghiệp, thì toàn tỉnh còn 150 ngàn ha đất chưa sử dụng, trong đó có 120.000 ha là đất trống, đồi núi trọc, vì thiếu vốn và chưa có phương thức canh tác phù hợp. Người thiếu việc làm, nghèo đói, đất đai hoang hóa là tồn tại nghiêm trọng hiện nay ở Phú Thọ. 2.1.3. Những nguyên nhân trực tiếp gây ra đói nghèo của Phú Thọ Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, nó có nguyên nhân từ kinh tế nhưng cũng có cả nguyên nhân xã hội. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan còn có những nguyên nhân khách quan, bên cạnh những nguyên nhân chung của một vùng còn có những nguyên nhân đặc thù của từng tỉnh. Nguyên nhân đói nghèo của Phú Thọ thể hiện ở các nhóm đặc thù sau: Nhóm 1: Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên không thuận lợi. Do điều kiện khí hậu, Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc và Đông Bắc, có địa hình đồi núi khá phức tạp và bị chia cắt, độ cao khoảng dưới 1000 m (so với mức nước biển) nên diễn biến thời tiết khắc nghiệt và bất thường. Tỉnh thường xuyên chịu thiên tai lớn và các mùa mưa lũ do ba con sông lớn là sông Hồng, sông Đà, sông Lô gây ra. Tổng lượng mưa hàng năm là 1.600 đến 2.000mm, thường tập trung vào các tháng 6, 7, 8. Điều đó làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và hệ thống đường sá giao thông trong tỉnh. Nhiều nghiên cứu đã lượng hóa sự nghèo đói do thiên nhiên khắc nghiệt như hạn hán, bão lốc, lũ lụt chiếm 10%. Thiên nhiên bất thường còn có thể biến một bộ phận các hộ vừa thoát nghèo trở lại cảnh nghèo. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên còn thể hiện ở điều kiện về đất đai, mặc dù Phú Thọ là tỉnh có qui mô diện tích đất và dân cư vào loại trung bình so với cả nước (370,6 người/km2), song hiệu quả sử dụng đất của Phú Thọ còn thấp. Thể hiện trong cơ cấu sử dụng đất như sau: Bảng 8: Hiện trạng sử dụng đất Phú Thọ 1997 TT Hiện trạng sử dụng Ha Tỉ trọng % 1 2 3 Tổng diện tích Đất nông nghiệp Đất lâm nghiệp 347.000 89.612 91.160 100 25,6 23,2 4 5 6 Đất chuyên dùng Đất thổ cư Đất chưa sử dụng 20.141 6.377 152.390 5,76 1,82 43,6 (Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ 1997) Như vậy diện tích đất được sử dụng trong nông nghiệp là rất ít, hơn nữa đất nông nghiệp ở đây chủ yếu là đất bạc màu, đất lầy thụt, độ chua trong đất cao làm cho năng suất lúa của Phú Thọ đạt thấp, chỉ khoảng 2/3 năng suất lúa trung bình của cả nước. Có thể dẫn ra một vài con số như sau: 1995 1996 1997 Năng suất lúa của Phú Thọ: 27,56 tạ/ha 28,05 tạ/ha 29,62 tạ/ha Năng suất lúa TB của cả nước: 36,9 tạ/ha 37,7 tạ/ha 39,0 tạ/ha Do đó, để giải quyết đói nghèo của Phú Thọ nên tập trung vào khai thác thế mạnh về lâm nghiệp và có phương hướng cho việc sử dụng phần lớn số đất đai chưa được sử dụng (có thể trồng cây nguyên liệu giấy, làm nguyên liệu cho nhà máy giấy Bãi Bằng). Cũng do địa hình đồi núi, có độ dốc lớn, nhiều vùng bị sông ngăn cách nên những vùng xa xôi hẻo lánh còn rất thiếu thốn về cơ sở hạ tầng đã làm cho người dân khó tiếp cận được với thị trường, nên kinh tế hàng hóa chậm phát triển. Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ đói nghèo ở các vùng sâu, vùng xa cao hơn trong tỉnh và Phú Thọ cao hơn cả nước. Kết quả điều tra cơ sở hạ tầng cho thấy: 147 xã thiếu hoặc kém cơ sở hạ tầng 86 xã chưa có điện lưới quốc gia 92 xã chưa có chợ Đặc biệt là ở 31 xã đặc biệt khó khăn thuộc địa bàn hai huyện Thanh Sơn - Yên Lập đã phản ánh rõ nét hơn tình hình này. Trên địa bàn 31 xã đó có 766,5 km đường, trong đó có 549 km đường giao thông nông thôn là vùng thường xuyên có mưa lớn và bão lớn nên thường xuyên đường bị sạt lở, cầu cống bị hư hỏng, chất lượng đường giao thông xuống cấp nhanh gây khó khăn cho việc đi lại và lưu thông hàng hóa của đồng bào các dân tộc. Hiện nay còn 2 xã chưa có đường ô tô vào trung tâm xã là Trung Sơn (Yên Lập) và Xuân Sơn (Thanh Sơn). Ngoài ra, vào mùa mưa lũ xe cơ giới không vào được trung tâm nhiều xã [14, 3]. Nhóm 2: Nhóm nguyên nhân bắt nguồn từ bản thân người nghèo. Hầu hết người nghèo là do thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức làm ăn, thiếu hoặc không có vốn; đông con, neo đơn, rủi ro, ốm đau, thiếu sức lao động, thiếu tư liệu sản xuất, không có kế hoạch chi tiêu hợp lý trong gia đình, mắc vào các tệ nạn xã hội. - Đói nghèo do thiếu hoặc không có vốn Đây là nguyên nhân quan trọng nhất, qua điều tra thực trạng ở Phú Thọ cho thấy: 38% số hộ nghèo đói là do thiếu vốn. Vì thiếu hoặc không có vốn sẽ là trở ngại rất lớn đối với người lao động khi tham gia vào kinh tế thị trường. Ta biết rằng, vốn là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Ông cha ta đã từng nói "buôn tài không bằng dài vốn", điều đó càng khẳng định một lần nữa vai trò của vốn trong phát triển kinh tế là vô cùng quan trọng. Nên dùng vốn của mình hoặc đi vay dưới hình thức nào, của cá nhân hay tổ chức nhà nước là vấn đề lựa chọn, cần có kinh nghiệm và tri thức, song do ít học nên người nghèo, đói khó lựa chọn tối ưu. Chính vì vậy, vốn dưới dạng tiền mặt, bất động sản, nguyên vật liệu, giống... có ý nghĩa rất lớn đối với người nghèo. Song ở đây có một nghịch lý là những người nghèo thường là những người không có vốn để làm ăn, song chính họ lại là những người không biết cách bảo quản đồng vốn và làm cho nó sinh sôi nảy nở, do họ thiếu kinh nghiệm làm ăn, thiếu thông tin, thiếu thị trường. Do đó nhiều khi họ cũng không dám vay vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh vì lo không trả được nợ. Mặt khác, cũng không loại trừ một số người nghèo vay vốn, tìm kiếm tín dụng còn là vì để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu như ăn, sửa nhà, ốm đau bệnh tật... Vì vậy, những người nghèo cũng là những người dễ mắc nợ, khó trả được nợ, cho nên họ rất cần sự giúp đỡ hỗ trợ và tư vấn của cộng đồng. - Nghèo đói do không có kinh nghiệm làm ăn, không biết cách sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân này là phổ biến. ở Phú Thọ, 25,7% số hộ nghèo đói là do thiếu kiến thức và thiếu kinh nghiệm làm ăn, không am hiểu thị trường, không biết hạch toán lỗ, lãi. Nguyên nhân này khá quan trọng, nó quyết định khả năng có thể vượt qua cửa ải nghèo đói của cá nhân, do đó cộng đồng và xã hội cần phải giúp đỡ và hỗ trợ họ. Nếu không biết cách làm ăn kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hóa, không có năng lực hiểu biết về thị trường, kết quả sản xuất kinh doanh dù đạt ở mức cao nhất cũng chỉ đủ ăn. Do đó, người nghèo luôn ở vào thế bấp bênh, dễ rơi vào cảnh nghèo đói khi có những biến cố xảy ra như thiên tai, rủi ro, đau ốm... - 14,5% số hộ nghèo đói ở Phú Thọ là do thiếu lao động, đông người ăn theo. Thiếu lao động do hoàn cảnh gia đình neo đơn thường rơi vào những gia đình thuộc diện chính sách như gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có người tàn tật, phụ nữ góa bụa... Thiếu lao động cũng còn do đông con, và con còn nhỏ tuổi lại cách nhau rất gần nên thiếu lao động. Đây là nguyên nhân thường rơi vào những hộ gia đình đông con và ở trong tình trạng "người làm thì ít, người ăn thì nhiều". Do thiếu lao động, nguồn thu nhập không đáp ứng được nhu cầu của số đông người trong gia đình nên họ bị rơi vào cảnh nghèo đói. - 10% số hộ nghèo đói là do thiếu tư liệu sản xuất ở nông thôn, đây là các hộ thiếu đất canh tác, hoặc thu nhập từ đất không mang lại hiệu quả do thiếu sự đầu tư như phân bón, giống, kỹ thuật... ở thành thị thường là rơi vào các hộ thiếu việc làm, hoặc việc làm có thu nhập thấp, việc làm không thường xuyên. - 9% số hộ nghèo đói do bệnh tật, rủi ro. Rủi ro trong kinh tế thị trường thường gặp là các trường hợp bị phá sản do làm ăn thua lỗ, bị lừa đảo, do không may bị bệnh nặng... Đây là nguyên nhân thường gặp trong xã hội nhưng nó chỉ tác động đến cá nhân, gia đình hay một nhóm nhỏ trong xã hội bị rơi vào nghèo đói. - Ngoài ra, còn 3,15% số hộ nghèo đói là do các nguyên nhân khác. Nhóm 3: Nhóm nguyên nhân thuộc trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Do điểm xuất phát thấp, tập quán canh tác lạc hậu, nhiều năm ảnh hưởng của chiến tranh, cơ chế bao cấp kéo dài, nên hiện nay trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Phú Thọ còn ở mức thấp. Hệ thống hạ tầng cơ sở yếu kém, trình độ dân trí chưa cao, cơ chế chính sách, nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội còn nhiều bất cập. Đây là nhóm nguyên nhân liên quan đến một số giải pháp bền vững, giải quyết tận gốc vấn đề XĐGN. Cụ thể: Thứ nhất, do tác động lâu dài của chiến tranh, một số gia đình chính sách thiếu sức lao động, ốm đau, có người tàn tật. Điều đó đã gây nên những khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Thứ hai, cơ cấu lao động của tỉnh chưa phù hợp cả về phân bố theo ngành và theo lãnh thổ. Chúng ta có thể theo dõi điều đó qua bảng sau: Bảng 9: Dân số - nguồn lao động của tỉnh Phú Thọ [12] Đơn vị tính: 1000 người TT Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1 Dân số trung bình 1.249, 1 1.271, 6 1.288,7 2 Tổng nguồn lao động 633,1 645,7 658,1 3 Số người trong độ tuổi có khả năng lao động 586,4 589,1 610,0 4 Số lao động trong: nông - lâm - thủy sản 464,0 471,4 478,7 5 Số lao động trong công nghiệp - xây dựng 58,4 60,9 62,0 6 Số lao động dịch vụ 48,7 50,2 51,7 7 Số người nội trợ + chưa có việc làm 33,5 34,0 36,2 Lao động còn tập trung quá nhiều trong nông- lâm - ngư nghiệp, gần bằng 80% lao động, ở những lĩnh vực này do chưa gắn được với thị trường cho nên năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động không cao, do đó chưa tạo nên được sự bứt phá để giải quyết vấn đề đói nghèo. Hơn nữa, chất lượng lao động thấp: Tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật của tỉnh hiện nay là 16% (cả nước là 16,7%). Lực lượng lao động lành nghề, công nhân kỹ thuật đang thiếu hụt một cách nghiêm trọng. Cơ cấu lao động hiện tại: 1 đại học - 1,8 trung học - 3 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó cơ cấu hợp lý hiện nay là: 1 đại học - 4 trung học - 10 công nhân kỹ thuật. Thứ ba, đói nghèo còn do thiếu thị trường: Chúng ta biết rằng đối với người nghèo thì tất cả các biện pháp cứu trợ chỉ các tác dụng nhất thời, về lâu dài phải giúp họ tự vươn lên đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập bình ổn cuộc sống. Muốn vậy, phải tạo ra thị trường để cung cấp cho họ các yếu tố "đầu vào" của sản xuất, đồng thời giúp họ trong tiêu thụ sản phẩm. Vì khi có thị trường, họ sẽ tiếp cận được với những thông tin, những yêu cầu về sản phẩm, làm cho sản xuất gắn với tiêu dùng, nhờ đó nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm. Chính do thiếu thị trường đã dẫn đến tình trạng người nghèo không xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh, không dám mạnh dạn sản xuất hàng hóa, tạo nên tâm lý e ngại, mất khả năng linh hoạt, sáng tạo. Từ đó dẫn đến tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự trợ cấp của nhà nước. Thứ tư, đói nghèo còn gắn liền với đời sống dân trí thấp. Không phải ngẫu nhiên ngay từ những năm 1945 - 1946, khi nước nhà vừa mới giành được độc lập, lại phải đối chọi với thù trong giặc ngoài. Bác Hồ đã từng nhấn mạnh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và Người đã xem giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm là ba kẻ thù trước mắt của dân tộc [26, 7-8]. Người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin. Theo kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên và gần 90% số người nghèo là những người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Những người thậm chí còn chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học có tỷ lệ nghèo cao nhất (57%). Ngược lại, rất hiếm có trường hợp đã tốt nghiệp đại học lại thuộc diện nghèo đói (chỉ chiếm 4%). Bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khoá quan trọng để thoát nghèo đói. Tuy nhiên chi phí cho giáo dục cũng là một vấn đề lớn đối với người nghèo, đó thực sự là một trở ngại trong quá trình vươn lên để thoát nghèo của họ. Với tỉnh Phú Thọ hiện nay, tuy là một trong 6 tỉnh đầu tiên đã thực hiện được việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học nhưng trong năm học 1998 - 1999, Phú Thọ vẫn còn 17,7% số học sinh thuộc diện nghèo đói, vẫn còn 5.420 em phải bỏ học. Số học sinh thuộc các gia đình nghèo gặp khó khăn rất lớn trong quá trình học tập và phải bỏ qua những cơ hội học tập cao hơn. Tỉnh hiện còn đang thiếu một đội ngũ công nhân lành nghề, một đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. Đội ngũ cán bộ quản lý cũng còn nhiều bất cập trong quá trình đổi mới. Đối với các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, trình độ của các cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế... Đây thực sự là một vấn đề đang đặt ra trong tiến trình XĐGN của tỉnh. Từ sự phân tích các nhóm nguyên nhân đã nêu trên, có thể rút ra mấy kết luận sau đây: - Đói nghèo có nhiều nguyên nhân trong đó trực tiếp và trước hết là nguyên nhân kinh tế vì thế các giải pháp để XĐGN phải bắt đầu từ vấn đề phát triển kinh tế, giúp người nghèo, hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập. - Các nguyên nhân gây nên đói nghèo ở Phú Thọ không tách rời nhau, mà đói nghèo có khi là kết quả của cả 3 nhóm nguyên nhân 1, 2 và 3. - Các nguyên nhân gây nên đói nghèo, có một số nguyên nhân khá ổn định và có ý nghĩa phổ biến, thay đổi không lớn như thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm ăn là những nguyên nhân có tác động mạnh mẽ nhất, phổ biến nhất. - Các nguyên nhân về điều kiện tự nhiên, có sự thay đổi theo địa phương ở những vùng khắc nghiệt thì tỷ lệ đói nghèo cao, có khi biết làm ăn mà vẫn nghèo đói. Trong trường hợp này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn của Nhà nước để cải tạo và làm chuyển biến căn bản cơ cấu kinh tế. - Nguyên nhân về thiếu cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc,... có tính đặc thù rõ nét của từng vùng miền núi, địa hình hiểm trở, bị chia cắt. ở đây có khi nó lại mang ý nghĩa chủ yếu chi phối các nguyên nhân còn lại. Vì thế càng cần sự hỗ trợ và đầu tư lớn của nhà nước cũng như của các tổ chức quốc tế. 2.2. nhìn lại sự nghiệp xóa đói giảm nghèo của tỉnh trong thời gian qua và những vấn đề đặt ra 2.2.1. Sự nghiệp xóa đói giảm nghèo và những thành tựu bước đầu XĐGN là vấn đề kinh tế, xã hội, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, của mọi người dân và của chính người nghèo. Đây còn là một vấn đề chiến lược, một chương trình kinh tế - xã hội của quốc gia nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; xây dựng một xã hội có đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tiến bộ, dân tộc được tự do phồn thịnh, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành và tiến bộ như Bác Hồ từng mong ước. Tại Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta đã nhấn mạnh: "Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân" [17, 73]. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, chủ trương này lại được tiếp tục l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan