Tài liệu Luận văn Tìm giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Liêm: LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong tiến trình phát triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất,
nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh nghiệp Nhà nước và các
HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các
doanh nghiệp và chính sách giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị
trường hoạt động cũ bị thu hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu
thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện chuyển hướng
trong ...
90 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1059 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Liêm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong tiến trình phát triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất,
nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh nghiệp Nhà nước và các
HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các
doanh nghiệp và chính sách giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị
trường hoạt động cũ bị thu hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu
thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện chuyển hướng
trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là "nông nghiệp, nông thôn và nông
dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có
mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn.
Vốn tín dụng Ngân hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản
xuất kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu
nhập cho người nông dân.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH - HĐH nông
nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách để phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có
chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc
mở rộng cho vay hộ sản xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động
này, món vay nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ
trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn
mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng nhất là trong môi trường
kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ sản xuất và vai trò của TDNH đối với
việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao
chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo
& PTNT huyện Từ Liêm. Từ đó, tìm ra những mặt còn tồn tại, trên cơ sở đó có những
giải pháp tháo gỡ khó khăn và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất, mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị để thực hiện giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Với tính đa dạng, phức tạp của đề tài, cho nên chỉ tập trung nghiên cứu những vấn
đề thực tiễn cụ thể trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
trong năm 1998 - 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá, phân tích tổng hợp, diễn giải, quy
nạp, phân tích thống kê, so sánh.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn vận dụng vào
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
5. Kết cấu khoá luận :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương.
Chương I : Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện
Từ Liêm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh
tế hộ sản xuất.
Chương I
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với
hộ sản xuất.
I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường :
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác
định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà
kinh tế bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô hình
kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã
đánh dấu thời kỳ thay đổi, thái độ đối với hộ sản xuất trong hệ thống lý thuyết chính
thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời.
1. Khái niệm hộ sản xuất :
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy
rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xất nông
nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục
phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số khái niệm khác nhau về hộ sản xuất , trong
một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người
cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó cùng hộ sản xuất là hộ, hộ gia đình.
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng sự nghiệp CNH -
HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong qúa trình xây dựng một nền kinh tế đa thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp
với chủ trương của Đảng và Nhà nước , NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1
kèm theo quyết định 499A ngày 2/ 9/ 1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được hiểu
như sau : "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh,
là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất của mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm : hộ nông dân, hộ
tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất
hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp và PTNT, các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng
trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều
ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta
trong thời gian qua.
2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường:
Từ khi NQ 10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị
kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông
thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm
canh, tăng vụ, vừa đổi mới cơ cấu sản xuất, việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã
khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất
để có hiệu quả kinh tế lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ
sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế , là đơn vị tích tụ vốn, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
a. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh
tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp theo là giai đoạn chuyển
biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt
động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ
gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất
hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển.
b. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn.
Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất , lao động là
nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc
gia. Việt Nam có 80 % dân số sống ở nông thôn, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn
nhân lực này còn đang ở mức thấp do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 13
triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng
chưa được sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân
đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Như vậy, để sử dụng hợp lý nguồn lao
động, giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra
bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
c. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất
hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh
tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải
quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế
nào để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải
không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số
biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả
kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng
đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến tốn
kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến
khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu
cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị
trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất :
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn, chúng ta tiến
lên CHXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp
trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương
chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát
triển kinh tế nông thôn.
Tháng 1/ 1981 Ban bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán cho nông
nghiệp, thực chất là giải phóng "tự do hoá" sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân
thoát khỏi sự giàng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác
định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng
nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí của nó.
Tháng 4/ 1988 - Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước
quan điểm đổi mới của Đại hội 6 đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho
việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây nộ nông dân được thừa
nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở
nông thôn.
Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 của HĐBT ngày 2/ 3/ 1992
cùng luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 ngày 29/ 3/ 1998, luật công ty. .. thì hộ sản
xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.
Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 :
"kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ 7 của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Chủ trương đúng đắn của Đại hội 7 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
nước ta nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/ 1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá 7) Đảng đã ban hành nghị quyết TW 5,
tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn
được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản
phẩm.
Nghị quyết TW 5 cùng các văn bản luật, NĐ của Chính phủ đã tạo hành lang pháp
lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển mạnh
nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp nông
thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí
quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Nghị quyết TW 6 lần 1 với
chủ trương "tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhất là CNH -
HĐH nông nghiệp nông thôn " đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai
trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh
tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế , kinh tế hộ được khuyến khích
phát triển : "kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan
trọng".
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất:
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ
vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong
nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : Tín dụng thương mại, tín dụng
Ngân hàng , tín dụng Nhà nước , tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung.
Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ chức tín
dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo
nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn
huy động để cấp tín dụng"
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác"
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình thức tín
dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền,
vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình
thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ sản
xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng
với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ
xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có
tài sản thể chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín
dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng điều kiện
vay vốn Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, hạch toán kinh
tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn
và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/ CP ngày 2/ 3/ 1993 của thủ tướng Chính phủ,
thông tư 01/ TD - NH ngày 26/ 3/ 1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn
thực hiện nghị định 14 CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm
ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ- TTG của Thủ tướng chính phủ,
văn bản số 320/ CV- NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện quy định
trên, văn bản số 791/ NHNN - 06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
thực hiện một số chính sách Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp
sau đó một loạt các thông tư, văn bản của Ngân hàng Nhà nước ra đời như văn bản số
283/ QĐ - NHNN14 ngày 25/ 8/ 2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân hàng, văn
bản 284 QĐ - NHNN1 ngày 25/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban
hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ.
Thông tư số 10 NHNN1 ngày 31/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng
dẫn thực hiện giải pháp về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo QĐ số 11/
2000/ NQ- CP của Chính phủ ngày 31/ 7/ 2000. Quyết định số 06/ HĐQT - NHNo &
PTNT Việt Nam về việc quy định cho vay đối với khách hàng mới gần đây nhất ngày 18/
1/ 2001 thay cho quyết định 180 cũ. Từ đó đã giải quyết cơ bản những khó khăn thắc
mắc về cơ chế thủ tục tạo môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển. Với các
văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng.
Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở
rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức
tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên thị
trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh
doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra
đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân
hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của
nền kinh tế hàng hoá.
Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh
bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo
thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá
trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hoá
sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu
hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ
vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị
và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp
của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về
vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài
nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất , hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho
mọi người.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng
trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu
cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành
một thị trường to lớn của tín dụng Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất
trong dư nợ của NHNo ngày càng tăng.
b. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của tín dụng Ngân
hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả hoạt động kinh
doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi
nhuận, tránh rủi ro trong cho vay.
Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả,
giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy
quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời Ngân hàng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro
tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng phải quan
tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc
đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn
cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào
để sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
c. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống,
ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan
tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy sự chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH chúng ta cũng phải quan tâm đến ngành nghề truyền
thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế , đặc biệt trong quá trình thực hiện CNH - HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy
được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành
nghề mới thu hút được số lao động nhàn dỗi, giải quyết việc làm cho người lao động. Từ
đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
nông - lâm - thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng
thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh
tế đối ngoại.
Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế
trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghề này phát triển một cách nhịp
nhàng và đồng bộ.
d. Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị, xã hội :
Tín dụng Ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện
nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế được những tiêu cực
xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho
lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được
vấn đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống
văn hoá, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại
gần nhau hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội , giữ vững an ninh chính trị.
Ngoài ra tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng Ngân hàng
thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo
trở lên khá hơn, hộ khá trở lên giầu hơn. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được
xoá bỏ như : rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan... nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên
môn của lực lượng lao động. Qua đây chúng ta thấy được vai trò của tín dụng Ngân hàng
trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ sản xuất nói riêng vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất :
Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng giống như các
quan hệ tín dụng khác trong cơ chế thị trường, nhưng mặt khác đó còn là chính sách của
Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quan hệ
tín dụng này.
- Chính sách của chính phủ : trên 80% dân số ở nước ta sống ở nông thôn, hình
thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy sự phát triển của kinh tế
hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Vì vậy, chính sách
đối với hộ sản xuất có vị trí quan trọng trong chính sách kinh tế quốc gia, trong đó chính
sách về đầu tư vốn có ý nghĩa quan trọng nhằm giải quyết khó khăn về vốn sản xuất kinh
doanh của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ sở để vốn tín
dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất.
- Chính sách của Ngân hàng : Trong sản xuất kinh doanh , mục tiêu hàng đầu là
đạt được lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro đầu tư trong nông nghiệp,
nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không cao vì chi phí lớn, do đó hạn chế nhiều
trong công việc mở rộng cho vay và giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất. Đối với NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ
chính, do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng tới quy định đến khối
lượng cho vay các hộ sản xuất.
- Sự phát triển của hộ sản xuất : Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay
vốn là quan hệ 2 chiều, vì vậy khả năng sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất có ảnh
hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất. Hiện nay
phần lớn hộ gia đình năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn
hạn chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung, tự cấp, sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất
hàng hoá còn chưa phát triển , người nông dân còn chưa thực sự đặt quá trình sản xuất
của mình trong nền kinh tế hàng hoá và đối với các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế
đó, tìm phương hướng tự sử lý để phát triển. Cho nên, việc cho vay của Ngân hàng đối
với hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn.
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng :
Trong nền kinh tế thị trường., bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra cũng phải
là những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản xuất ra
đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng : "Chất lượng phù hợp với mục
đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng
là một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng".
Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản
phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng
đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy, có thể quan niệm chất
lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát
triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện qua các điểm sau :
- Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của
khách hàng về lãi xuất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức
thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện nhưng luôn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Ngân hàng : Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với phạm
vi mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an
toàn, sinh lời theo nguyên tắc trả đầy đủ và có lợi nhuận.
2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được
xác định là khách hàng chính của NHNo Việt Nam. Trong quá trình cung ứng sản phẩm
của mình cho hộ sản xuất, một việc làm quan trọng và cần thiết là đánh giá được chất
lượng của sản phẩm cung ứng, cụ thể là chất lượng tín dụng hộ sản xuất , nhằm mục tiêu
tối đa hoá lợi ích của Ngân hàng và khách hàng. Việc đánh giá này phải thông qua các
chỉ tiêu đánh giá chất lượng cụ thể.
2.1. Chỉ tiêu định tính :
a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay :
Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đề được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân
hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình
kinh tế , chính trị, xã hội của đất nước, do vậy các nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng
rất chặt chẽ. Với mỗi Ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay
là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản
cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay
hay không.
Ba nguyên tắc cơ bản của cho vay là :
- Thứ nhất : Cho vay có mục đích kế hoạch.
- Thứ hai : Cho vay có đảm bảo
- Thứ ba : Cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay
có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
b. Cho vay bảo đảm có điều kiện :
Chi tiêu định tính thứ 2 để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đó là cho vay
đảm bảo có điều kiện. Các điều kiện để một khách hàng được vay tại NHNo & PTNT
Việt Nam.
- Một là : Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa
bàn nơi chi nhánh NHNo & PTNT đóng trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có
xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hai là : Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất
vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn tren 6 tháng với Ngân hàng.
- Ba là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp : Không vi phạm pháp luật phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là : Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi
có hiệu quả.
- Năm là : Hộ sản xuất thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay.
+ Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản
+ Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản,
quyền sử dụng đất (bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm, thủy hải sản nuôi trồng đã
đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất).
Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến 5 điều kiện cho
vay trên để đánh giá chất lượng khoản vay.
c. Quá trình thẩm định.
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng
khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về
khách hàng, về năng lực pháp luật đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách
hàng, khả năng trả nợ của khách hàng... Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình
quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy
định về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng. Một
khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước
của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức
tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc
tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản
cho vay đạt chất lượng.
2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương đối. Bên cạnh
mặt trừu tượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính thì mặt cụ thể của nó có
thể đánh giá qua các chỉ tiêu định lượng.
a. Doanh số cho vay hộ sản xuất :
Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân
hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một năm.
Ngoài ra, Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản
xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm.
D. số cho vay HSX
Tỷ trọng cho vay HSX = ------------------------------------ x 100 (%)
Tổng D. số cho vay
b. Doanh số thu nợ sản xuất :
Doanh số thu nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng
thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ.
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương
đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của ngân
hàng trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức :
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
--------------------------------------------- x 100 (%)
Doanh số cho vay hộ sản xuất
c. Dư nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng
chưa thu hồi được sau một thời hạn nhất định kể từ ngày khoản cho vay đến hạn thanh toán
tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá
hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn HSX
Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = ---------------------------------- x 100 (%)
Tổng dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng
Ngân hàng nói tiêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn
kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể
hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan
đến sự sống còn của Ngân hàng.
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu
tỷ lệ nợ khó đòi.
Tổng nợ khó đòi
Tỷ lệ khó đòi = ---------------------------------- x 100 (%)
Tổng nợ quá hạn
Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy
nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
d. Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất :
D. số thu nợ HSX
Vòng quay vốn tín dụng HSX = -----------------------------
Dư nợ bình quân HSX
Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân hộ sản xuất được tính bằng cách lấy
trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét
chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần xuất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với
số dư nợ luôn tăng chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có
hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
e. Lợi nhuận của Ngân hàng :
Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế
Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với NHNo hộ sản xuất
là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận Ngân hàng là thước đo hiệu quả
sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất lượng cho vay hộ sản xuất.
f. Một số chỉ tiêu khác.
D. số cho vay HSX
Chỉ tiêu 1 = -----------------------------------------
Tổng số lượt HSX vay vốn
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền vay càng cao
chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên. Điều đó thể hiện sức sản xuất
cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên. Đồng thời thể
hiện chất lượng cho vay có xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất
cho vay nhiều hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi.
Chỉ tiêu 2:
Tỷ lệ cho vay trung -
dài hạn HSX
=
Dư nợ cho vay trung dài hạn HSX
x 100 %
Tổng dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn trung, dài hạn
của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng
dư nợ (mục tiêu của NHNo & PTNT Việt Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ
thuộc vào nhu cầu vốn trung dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của
từng Ngân hàng thương mại.
Hai chỉ tiêu 1 và 2 phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển
kinh tế hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu 3 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm
Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu
tỷ lệ nợ quá hạn có thể biết được chất lượng cũng như hiệu quả của tín dụng Ngân hàng
đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai
đoạn cho đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất :
Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất
lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng
tín dụng chất lượng hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Muốn
làm tốt điều này, trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ
sản xuất.
3.1. Yếu tố môi trường :
Môi trường là một nhóm yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn.
- Môi trường kinh tế xã hội :
Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng hộ sản
xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho hộ sản xuất làm ăn có
hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng
đúng mục đích mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời
hạn cả tiền gốc và lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên.
- Môi trường chính trị pháp lý :
Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động
tín dụng Ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tiến hành
thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên
quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy các tranh chấp tín dụng.
Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng
hộ sản xuất.
- Môi trường tự nhiên : Tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của
hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự
nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất kinh doanh xuôn xẻ thì hộ sản xuất có
khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản
xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế , việc trả nợ Ngân hàng sẽ gặp nhất nhiều khó khă. Diễn
biến của tự nhiên là không thể đoán trước và khó có thể tránh được khi thiên tai xảy ra.
Cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng hộ sản
xuất.
3.2. Yếu tố thuộc về khách hàng :
Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng hộ sản xuất thì có rất nhiều
yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Trình độ của khách hàng : Bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của
khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khách hàng có thể
đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy
nhiên, nếu khách hàng không có khả năng quản lý, đồng thời trình độ sản xuất kém thì
việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Vì vậy, trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích : Đây là yếu tố thuộc về chủ quan của
khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục
đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ đầu khi vay hoặc sau
khi đã vay được. Tuy nhiên, việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm
nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Lừa đảo Ngân hàng : Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách hàng cố ý lừa
đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không,
khoản vay có được hoàn trả lại hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách
hàng.
3.3. Yếu tố thuộc về Ngân hàng :
Bên cạnh yếu tố môi trường và yếu tố thuộc về khách hàng mà Ngân hàng khó có
thể kiểm soát được thì có rất nhiều yếu tố thuộc về bản thân Ngân hàng có ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Những yếu tố này bản thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng : Là một trong những chính sách sản phẩm
quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình
thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng, đồng thời khuyến khích
khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng tín dụng.
- Chấp hành quy định thể chế tín dụng : Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng
của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh
giá chất lượng Ngân hàng có được thực hiện hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho
vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của
từng Ngân hàng.
- Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả
năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều kiện về đảm bảo tiền vay,
làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng.
- Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay.
Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi khoản cho vay được quyết
định thông qua các chỉ tiêu định tính.
- Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời nắm bắt
được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được yếu tố ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho chất
lượng tín dụng giảm sút.
- Hệ thống thông tin ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các
thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định một khoản cho vay. Yếu tố này rất quan
trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ khi
chưa xảy ra.
Tóm lại : Tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ sản xuất cả về
mặt kinh tế , chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của Nhà nước , là đòn
bẩy kinh tế , là động lực thúc đẩy hộ sản xuất phát triển một cách toàn diện, từ đó phát
huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông
thôn cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó việc
nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất quan trọng đối với
Ngân hàng nói chung và NHNo Huyện Từ Liêm nói riêng.
Chương II.
thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến hoạt động kinh doanh của NHNo
Huyện Từ Liêm :
Huyện Từ Liêm là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ có diện tích tự nhiên là 219.214
ha, dân số 2,3 triệu người, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, 80 % dân số sống ở
nông thôn, tổng số khoảng 53 vạn hộ, trong đó hộ nghèo là 12 %. Địa bàn hành chính
gồm 2 thị xã, 12 huyện, 15 xã trong đó 1/ 4 số xã có làng nghề Tiểu thủ công nghiệp với
130 nghìn lao động có tay nghề.
Năm 2000 kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cụ thể là
:
- Sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 1.027.000 tấn tăng 10,3% so với năm 1999.
- Tổng sản phẩm trong tình (GDP) tăng 7,2 % so với năm 1999.
- Giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng 4,6 % so với năm 1999.
- Cơ cấu kinh tế : nông nghiệp 44 %, công nghiệp 31,65 %, dịch vụ 24,35 %.
Đặc điểm kinh tế xã hội có nhiều ảnh hưởng thuận lợi cũng như khó khăn đối với
hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm nói chung và hoạt động tín dụng nói
riêng.
a. Thuận lợi :
Huyện Từ Liêm là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng có lợi thế về cơ sở hạ
tầng: điện, đường, trường, trạm. Tỉnh có hệ thống đường liên huyện, liên xã, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa, tỉnh tập trung nhiều làng
nghề với nhiều ngành nghề tiểu thủ công nổi tiếng đang được khôi phục và phát triển.
Đây là những điều kiện thuận lợi để Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách
có hiệu quả.
Nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng
tích cực, cơ cấu trong nông nghiệp có su hướng tăng, tỷ trọng ngành chăn nuôi. Công tác
chuyển đổi HTX nông nghiệp theo mô hình kiểu mới thực hiện tốt, đã xây dựng được
494/ 533 HTX nông nghiệp đạt 96 %. Bước đầu thực hiện chuyển đổi kinh tế từ ô thửa
nhỏ sang ô thửa lớn đạt 112/ 315 xã. Đây là yếu tố cơ bản tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay của
Ngân hàng.
Một số ngành có điều kiện phát huy tiềm năng đã mạnh dạnh áp dụng tiến bộ
KHKT vào sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhận thức của người nông
dân về sự cần thiết đưa các giống mới năng suất cao vào trồng trọt, chăn nuôi ngày càng
cao tạo điều kiện đầu tư vốn có hiệu quả.
Ngành Ngân hàng dần dần hoàn thiện cơ chế tín dụng phù hợp với thực tế địa bàn
nông thôn, cũng như việc ban hành một số văn bản, chính sách của tỉnh cụ thể hoá các
chính sách kinh tế xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước , từ đó
hoạt động của Ngân hàng được thuận lợi hơn trước.
b. Khó khăn :
Nền kinh tế của cả nước nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng phát triển chưa ổn
định gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Công cuộc phục vụ nông nghiệp như cơ khí, chế biến trên địa bàn tỉnh chưa phát
triển đã hạn chế rất lớn đến sức sản xuất của các hộ gia đình. Giá cả sản phẩm nông
nghiệp so với giá hàng công nghiệp, dịch vụ có sự chênh lệch khá lớn theo hướng thiệt
hại cho người nông dân. Vì vậy không khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và
ảnh hưởng lớn đến đời sống các hộ nông dân. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu của tỉnh
chưa tìm lại được hướng đi sau sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu.
Do đó không tạo được động lực phát triển sản xuất nông nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp hiệu
quả theo hướng có lợi cho nông dân.
Từ Liêm là một huyện tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, do đó rất nhiều những người
có trình độ KHKT cao sau khi được đào tạo đã ở lại Hà Nội làm việc. Vì vậy, nguồn nhân
lực của Huyện Từ Liêm đã mất đi rất nhiều lợi thế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế -
xã hội Huyện Từ Liêm trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Huyện Từ
Liêm nói riêng. Từ đó tạo một lực cản hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm.
Bên cạnh những đặc điểm kinh tế xã hội là những khó khăn tác động đến hoạt
động của NHNo Huyện Từ Liêm ở trên thì sức cạnh tranh của các chi nhánh NHTM khác
và các quỹ tín dụng nhân dân ngày càng tăng đã gây trở ngại không nhỏ trong NHNo.
Mặc dù NHNo Huyện Từ Liêm chiếm ưu thế hơn hẳn về thị trường hoạt động nguồn vốn
kinh doanh cũng như dư nợ cho vay các thành phần kinh tế, chuyên môn của đội ngũ lãnh
đạo , cán bộ nhưng sức ép cạnh tranh của các tổ chức trên qua những chính sách lãi xuất
huy động tiền gửi, chính sách thu hút khách hàng vay vốn. .. cũng ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh mà trực tiếp là lợi nhuận NHNo. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi Ngân
hàng phải nỗ lực phấn đấu bền bỉ, kiên quyết tự đổi mới hoạt động kinh doanh từng bước
vượt qua những khó khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh năm 2000.
2. Quá trình hình thành, phát triển và chức năng của NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm :
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,
các loại hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển , Ngân hàng
đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
NHNo & PTNT Việt Nam thành lập ngày 26/ 3/ 1988 theo NĐ 53/ HĐBT của
Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ) NHNo & PTNT Việt Nam là
doanh nghiệp Nhà nước dạng đặc biệt tổ chức theo mô hình tổng công ty Nhà nước , tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn đầu tư.
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm là thành viên của NHNo & PTNT Việt Nam,
được thành lập và đi vào hoạt động từ thágn 7/ 1988 trên cơ sở sát nhập 8 đơn vị thuộc
NHNo Hà Sơn Bình và 6 đơn vị thuộc NHNo thành phố Hà Nội. Về mô hình tổ chức
toàn tỉnh có 14 chi nhánh NHNo huyện, thị xã, 45 Ngân hàng loại 4 và 8 Ngân hàng lưu
động thực hiện việc giao dịch trực tiếp với khách hàng trên mạng lưới máy vi tính.
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm thực hiện chức năng kinh doanh đa năng, chủ yếu
là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng đối với khách hàng trong và
ngoài nước, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội; uỷ thác tín dụng đầu tư cho
chính phủ, các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước trong các ngành kinh tế , trước hết
trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong kinh tế đối ngoại
NHNo Huyện Từ Liêm cung ứng các dịch vụ : thanh toán quốc tế, tài trợ XNK, bảo lãnh
và tái bảo lãnh, mua bán ngoại tệ, thanh toán biên giới. NHNo Huyện Từ Liêm chịu sự
quản lý của NHNo Việt Nam, NHNN huyện Từ Liêm.
NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển sang Ngân hàng thương
mại quốc doanh, đối tượng đầu tư chủ yếu phục vụ nông nghiệp - nông thôn và nông dân,
do đó chịu ảnh hưởng rất lớn vào thiên nhiên, nên hoạt động kinh doanh NHNo huyện
Từ Liêm gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy NHNo huyện Từ Liêm đã kiên trì và kiết
quyết tập trung chỉ đạo trong nhiều năm qua theo hướng hoạt động kinh doanh theo cơ
chế thị trường, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với những định hướng lớn , đó là :
- Có nguồn vốn lớn
- Có mạng lưới rộng khắp chất lượng
- Có đội ngũ cán bộ tốt.
- Có công nghệ và công cụ điều hành hiện đại.
- Có nguồn tài chính thường xuyên có lãi.
3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
Đối tượng phục vụ chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm là các hộ nông dân. Toàn
tỉnh có 53 vạn hộ gia đình, trong đó hộ sản xuất nông nghiệp hơn 49 vạn hộ. Trong đó, số
hộ giầu là 4,7 vạn hộ chiếm tỷ trọng 85%, hộ khá có 95,6 vạn hộ, chiếm tỷ trọng 21,6 %,
số hộ trung bình 28,1 vạn hộ chiếm tỷ trọng 53,0 %, hộ nghèo 6,4 vạn hộ tỷ trọng chiếm
12 % chủ yếu là hộ sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh có 112 làng nghề thủ công, mỹ nghệ,
chế biến... đang được khôi phục và phát triển , 403 hộ gia đình làm kinh tế trang trại đang
đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả.
Với những đặc điểm về tự nhiên - kinh tế - xã hội riêng có của Hà Tây đã tác động
đến đặc điểm của khách hàng chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm.
Người nông dân là người bạn đáng tin cậy của NHNo huyện Từ Liêm, họ có sức
lao động cần cù, chịu khó và sòng phẳng trong quan hệ vay trả. Đây là một trong những
lý do của NHNo thực hiện chủ trương cho các HSX vay dưới 5 triệu đồng không cần tài
sản thế chấp trước khi chính phủ ban hành quyết định 67/ 1999/ QĐ - TTg. Hiện nay theo
quyết định 67, Chính phủ quyết định cho phép NHNo cho vay hộ nông dân dưới 10 triệu
đồng không phải thế chấp.
Tuy nhiên, hộ nông dân có thu nhập rất thấp, công cụ sản xuất thủ công, kỹ thuật
lạc hậu, hoạt động sản xuất chịu nhiều ảnh hưởng lớn của thời tiết, môi trường tự nhiên,
trình độ KHKT, trình độ quản lý của hộ rất thấp. Do đó khả năng mở rộng cho vay của
NHNo huyện Từ Liêm cũng bị hạn chế.
Với đặc điểm sản xuất kinh doanh nhỏ trong quy mô hộ gia đình, chưa hướng tới
xuất khẩu, do đó thường những món vay có giá trị nhỏ, nhưng số lượng món vay rất lớn,
địa bàn rộng nên chi phí cho một món vay còn cao.
Mặc dù, hộ sản xuất còn một số hạn chế trong quá trình sản xuất kinh doanh của
mình nhưng hộ có nhu cầu vay vốn rất lớn để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh.
Do đó, hộ sản xuất rất cần tới sự giúp đỡ về vốn của NHNo huyện Từ Liêm.
II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển hẳn sang NHTM gặp
không ít những khó khăn, nhưng NHNo huyện Từ Liêm vẫn kiên trì và kiên quyết đi theo
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và
NHNo Việt Nam, sự ủng hộ của các cấp, các ngành, cùng sự cố gắng nỗ lực của tập thể
từ lãnh đạo đến CBNV, NHNo huyện Từ Liêm đã từng bước khắc phục được khó khăn.
NHNo huyện Từ Liêm đã phát triển kinh doanh đa năng, đổi mới công cụ điều hành, tổ
chức khoán tài chính đến nhóm và người lao động, lấy kết quả kinh tế và mục tiêu sinh
lời làm thước đo chính trong kinh doanh. Vì vậy, NHNo huyện Từ Liêm đã trở thành
một trong những Ngân hàng đứng đầu trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam.
1. Huy động vốn: Nguồn vốn chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm bao gồm : vốn
huy động (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi trung, dài hạn và vay các
TCTD khác) và vốn tự có. Tổng nguồn vốn của NHNo huyện Từ Liêm tính đến ngày 31/
12/ 2000 là 1.735 tỷ đồng gấp 10 lần so với mức ban đầu thành lập. Tốc độ tăng trưởng
nguồn vốn bình quân giai đoạn 1995 - 2000 ở mức cao, xấp xỉ 50 %/ năm. Bình quân vốn
đạt 1.740 triệu đồng/ cán bộ.
Nguồn vốn huy động của NHNo huyện Từ Liêm chiếm khoảng 80% tổng nguồn
vốn bao gồm : tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi trung dài hạn và vay các
TCTD khác. Kết quả huy động vốn của NHNo huyện Từ Liêm được phản ánh trong bảng
số 1, không kỳ hạn là chủ yếu là tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế (TCKT). Tỷ
trọng trung bình của loại vốn này là 16 % trong tổng nguồn vốn huy động, với tốc độ
tăng trưởng hàng năm khá cao, trung bình 38 %. Ưu điểm lớn của nguồn vốn này là chi
phí thấp (lãi xuất không đáng kể) nên được các Ngân hàng rất trú trọng phát triển. Với
phương án quản lý hợp lý có tính đến sự an toàn chi trả (tính thanh khoản) sẽ phát huy
được hiệu quả của nguồn vốn này.
Tiền gửi ngắn hạn tăng khá, mức tăng trung bình là 25 % trong đó tiền gửi kỳ
phiếu nhỏ hơn 1 năm tăng rất mạnh chứng tỏ phương thức huy động này phù hợp với nhu
cầu của người gửi tiền về kỳ hạn cũng như lãi suất tương ứng. Hiện nay kỳ phiếu nhỏ hơn
1 năm có các hình thức gửi 3 tháng, 6 tháng, trả lãi sau, 12 tháng tra lãi trước, lãi suất
điều chỉnh theo tín hiệu thị trường. Tiền gửi ký phiếu năm 2000 đạt 611.315 tỷ đồng tăng
71 % so với năm 1999 chiếm tỷ trọng 49,4 % tổng nguồn vốn huy động. Đây là một kết
quả đáng mừng vì trong khu vực thị trường này sự cạnh tranh đặc biệt là vấn đề lãi suất
tiền gửi rất lớn. Hầu hết người gửi tiền đều mong muốn đầu tư an toàn và nhận được lãi
suất cao do vậy một sự thay đổi nhỏ trong lãi suất tiền gửi sẽ có sự dịch chuyển vốn từ
Ngân hàng này sang Ngân hàng khác, một phần, lãi suất tiền gửi thực tế (trừ tốc độ lạm phát)
là rất nhỏ.
Huy động tiết kiệm là chiến lược chính của mỗi Ngân hàng nhằm mục tiêu tăng
trưởng nguồn vốn và tự lực về nguồn vốn. Đối với NHNo huyện Từ Liêm có địa bàn
hoạt động rộng và chủ yếu ở nông thôn và phục vụ nông dân nên huy động tiết kiệm có
những đặc điểm khác so với các Ngân hàng trên địa bàn.
So sánh huy động tiết kiệm ở thành thị và nông thôn.
Tại sở giao dịch của NHNo huyện Từ Liêm có thể huy động được 38,6 % tổng
tiền gửi toàn tỉnh. Trong khi đó, tỷ trọng tiền gửi huy động được tại một chi nhánh huyện
chiếm khoảng 4,2 - 7,6 %. Tại tất cả các chi nhánh huyện và liên xã của NHNo huyện Từ
Liêm , vốn huy động chỉ có thể thoả mãn 20 - 25 % tổng nhu cầu về vốn của chi nhánh
đó
Bảng 1 : Huy động tiết kiệm tại NHNo huyện Từ Liêm (tính đến tháng 12/
2000).
Đơn vị : triệu đồng
Số huyện : 13
1. Tổng số hộ trong khu vực 552.825
2. Tổng số người gửi tiền : 69.721
Tỷ trọng những người gửi tiền/ tổng số hộ (%) 12,6
3. Tổng số tiền gửi tại chi nhánh tỉnh : 714.652
4. Tổng số tiền gửi tại sở giao dịch : 256.956
Tỷ trọng tổng số tiêng gửi (%) : 35,9
5. Số tiền gửi trung bình : 97
Trong năm 2000 cả 14/ 14 NHNo huyện, thị đều có số dư nguồn vốn tăng, tuy
nhiên có sự chênh lệch rất lớn giữa các địa bàn. Hai thị xã (Hà Đông, Sơn Tây) có mức
huy động cao nhất, tương ứng là 370 tỷ và 209 tỷ trong khi trung bình huyện chỉ đạt trên
dưới 56 tỷ đồng. Điều này tạo ra sự bất hợp lý giữa cân đối nguồn vốn huy động cho vay
tại từng địa bàn, các chi huyện phụ thuộc vào vốn vay từ NHNo tỉnh. Do vậy, luôn phải
có sự điều chỉnh vốn giữa các chi nhánh gây khó khưan cho công tác kế hoạch cũng như
hoạt động kinh doanh của từng đơn vị và NHNo tỉnh
Tóm lại , nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm luôn có mức
tăng trưởng khá, ổn định và vững chắc, do vậy Ngân hàng luôn có đủ vốn đáp ứng cho
nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế trong tỉnh.
2. Hoạt động cho vay :
Hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM là hoạt động cấp tín dụng cho các khách
hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý Ngân hàng là lợi nhuận
trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Việc không đáp ứng các đòi hỏi
hợp pháp của khách hàng về tín dụng sẽ dẫn đến thiệt hại trước mắt của kinh doanh và
kết quả cuối cùng là vấn đề tồn tại của Ngân hàng. Vì vậy, xét về khía cạnh nào đó,
khách hàng vay vốn chính là ân nhân của Ngân hàng.
Có thể thấy qua số liệu báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã đạt
được kế quả khá nổi bật. Dư nợ cho vay năm sau luôn cao hơn năm trước, tốc độ tăng
trưởng khá cao, bình quân giai đoạn 1995 - 2000 là 26 %. Đến cuối năm 2000 tổng mức
dư nợ đạt hơn 1.031 tỷ đồng là một trong những chi nhánh có dư nợ cao toàn ngành. Tuy
nhiên, mấy năm gần đây tốc độ tăng trưởng dư nợ có dấu hiệu chứng lại, năm 2000 tăng
27,3 % so với năm 1999. Kết quả này phản ánh chủ trương của NHNo Việt Nam đối với
các Ngân hàng chi nhánh trong năm 2000 là phải tập trung củng cố chất lượng tín dụng
và xử lý nợ quá hạn.
2.1. Cơ cấu cho vay :
Có nhiều cách phân loại cơ cấu cho vay. Với mỗi cách phân loại có thể thấy mặt
cụ thể của thực trạng cho vay.
a. Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn cho vay :
Bảng 2 : Phân loại dư nợ cho vay của NHNo huyện Từ Liêm theo kỳ hạn
N
ăm
Ngắn hạn
(%)
Trung, dài hạn (%) Tổng cộng
1
995
63,4 36,6 100
1
996
68 32 100
1
997
63,6 36,4 100
1
998
51,8 48,2 100
1
999
51,5 48,5 100
2 48,8 51,2 100
000
Xét về kỳ hạn cho vay, hoạt động tín dụng có nhiều biến đổi theo hướng tích cực,
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế. Nhìn vào bảng tổng
hợp kết quả hoạt động tín dụng giai đoạn 95 - 2000 có thể thấy rõ tỷ trọng cho vay trung,
dài hạn có xu hướng tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu cho vay của
Ngân hàng. Nếu so mức phấn đấu toàn ngành đề ra là tỷ trọng vốn trung - dài hạn đạt 35
% tổng dư n ợ thì NHNo huyện Từ Liêm đã đạt mức kế hoạch đề ra ngay từ năm 1995
(hơn 36%) và đến cuối năm 2000 tỷ lệ này là 51,2 %, nếu tính số tuyệt đối thì con số đạt
được khá ấn tượng là hơn 528 % tỷ đồng.
Mặt khác, dễ thấy tỷ lệ này chưa phải là mức ổn định. Năm 1995 tỷ trọng là 36 %,
năm 96 đạt 32 % năm 97 lên 36 %, năm 98 lên hơn 48 %, năm 99 đạt 49 % và năm 2000
đạt 51,2 %. Tuy nhiên với tỷ lệ cao hơn 30 % liên tục như vậy chứng tỏ hoạt động Ngân
hàng đang dần dần phát triển theo chiều sâu đã đáp ứng được nhu cầu vốn trung - dài hạn
của các thành phần kinh tế trên địa bàn, vốn này thường là vốn đầu tư mở rộng sản xuất,
tăng cường trang thiết bị... thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ và vững chắc , do vậy
nâng cao hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng , tạo ra nguồn thu ổn định cho Ngân hàng.
b. Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế :
Xét về cơ cấu dư nợ đối với các khu vực kinh tế cũng phản ánh sự chuyển hướng
rõ n ét trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hướng về khách hàng đông đảo là các
hộ nông dân và địa bàn nông thôn là chủ yếu. Điều hành thể hiện qua tỷ trọng vốn cho
vay đối với hộ sản xuất rất cao.
Bảng 3 : Phân loại dư nợ cho vay theo khu vực kinh doanh của NHNo Hà
Tây.
Năm
Chỉ tiêu
9
5
9
6
9
7
9
8
9
9
2
000
Tổng dư nợ 4
57.467
5
66.144
6
79.409
7
26.625
8
09.812
1
.031.06
9
- Doanh nghiệp
Nhà nước
3
8.524
2
9.664
4
3.677
5
6.634
4
6.626
1
06.921
Tỷ trọng % 7
,1
5
,6
6
,4
7
,7
5
,8
6
,3
- Hợp tác xã 5
.051
4
.434
2
.060
3
.347
2
.961
3
.000
Tỷ trọng % 1
,1
0
,7
0
,4
0
,4
0
,35
0
,30
- Hộ sản xuất 4
13.892
5
17.346
5
72.849
5
72.505
6
43.131
7
83.093
Tỷ trọng % 9
1,8
9
1,2
8
4,4
8
2,1
7
9,4
8
1,0
- Hộ nghèo 1
4.700
5
8.763
9
4.139
1
17.094
1
38.055
Tỷ trọng % 2
,5
8
,8
9
,8
1
4,5
1
2,4
- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Nhìn chung khối lượng cho vay các DNNN rất nhỏ, ở khu vực này chỉ đạt dưới 14
% tổng dư nợ giai đoạn 95 - 2000. Một phần phản ánh sự chuyển hướng kinh doanh trong
hệ thống NHNo, lấy hộ nông dân làm đối tượng phục vụ chủ yếu. Tính từ năm 1995 đến
nay, lượng vốn đầu tư có tăng nhưng tốc độ tăng không đáng kể. Đây là điều Ngân hàng
không mong muốn song nó phản ánh một thực tế là số DNNN trên địa bàn vẫn đang
trong tình trạng khó khăn, quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có rất thấp, trang thiết bị công
nghệ lạc hậu, quản lý kém dẫn đến sự cạnh tranh kém. Mặc dù các doanh nghiệp đã được
sắp xếp cho phù hợp theo quy định của Chính phủ nhưng đến nay trong số 163 DNNN
(có 76 DNNN Trung ương) toàn tỉnh chỉ có 139 đơn vị có quan hệ tín dụng vói Ngân
hàng, trong đó khoảng 73 đơn vị có quan hệ thường xuyên.
Trong giai đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới, những DNNN sẽ có vai trò hết
sức quan trọng. Thực tế trong số 462 doanh nghiệp hoạt động trong tỉnh số DNNN chiếm
45 % nhưng vốn kinh doanh chiếm tới 86 % , doanh thu bình quân chiếm 90 %, nộp
ngân sách chiếm 92 %. Như vậy tiềm năng của khu vực này còn rất lớn, không tương
xứng với khối lượng cho vay hiện tại
- Cho vay hợp tác xã :
Dư nợ cho vay giảm liên tục về khối lượng cũng như tỷ trọng trong tổng dư nợ và
số hợp tác xã có quan hệ tín dụng với Ngân hàng rất nhỏ (26/ 176 hợp tác xã). Nguyên do
chủ yếu là các HTX nông nghiệp đã bị thu hẹp vai trò, chức năng hoạt động sản xuất kinh
doanh từ khi Nhà nước giao sử dụng đất lâu dài và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho
các hộ nông dân. Mô hình HTX kiểu mới theo luật HTX trong giai đoạn thử nghiệm chưa
phát huy được vai trò mới của mình do đó không đáp ứng được các đòi hỏi của điều kiện
vay vốn và trình độ cán bộ quản lý của HTX còn quá yếu.
- Cho vay hộ sản xuất :
Ngược lại với các khu vực trên, cho vay đối với hộ sản xuất phát triển mạnh mẽ,
thu được kết quả to lớn chứng minh sự đúng đắn trong xác định đối tượng khách hàng
chính của Ngân hàng. Chiến lược kinh doanh hướng về các hộ gia đình thể hiện qua mức
tăng dư nợ hộ sản xuất trong nhiều năm. Trong giai đoạn 1995 - 2000 tỷ trọng bình quân
dư nợ hộ sản xuất / tổng dư nợ xấp xỉ 88%, tạo ra nguồn thu vững chắc quyết định kết
quả tài chính luôn luôn có lãi của Ngân hàng.
- Cho vay hộ nghèo :
Thực hiện chủ trương "xóa đói giảm nghèo" của Đảng và Nhà nước , Ngân hàng
đã thực hiện đầu tư cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất với mức lãi suất ưu đãi đạt kết
quả khả quan. Đến năm 2000, dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 138 tỷ. Hình thức cho vay đối
với hộ nghèo thực hiện qua tổ nhóm (5.500 tổ) rất có hiệu quả, tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp
0,11 % chứng tỏ công tác xã hội hoá hoạt động kinh doanh Ngân hàng đạt được rất tốt,
giúp nhiều hộ gia đình thoát khỏi đói nghèo, vươn lên trong cuộc sống.
2.2. Chất lượng tín dụng Ngân hàng :
Chất lượng tín dụng được xem là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả
hoạt động tín dụng trong một giai đoạn của Ngân hàng thương mại.
Bảng 4 : Nợ quá hạn tại NHNo huyện Từ Liêm giai đoạn 1995 - 2000
Chỉ tiêu Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn
(%)
1995 8.098 1,72
1996 6.554 1,12
1997 6.943 1,03
1998 7.006 0,96
1999 8.646 1,06
2000 10.200 1,10
Qua con số nợ quá hạn hàng năm có thể thấy chất lượng tín dụng của Ngân hàng
là tốt. Thể hiện tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ chỉ tiêu 1% năm. Phần lớn nợ quá hạn nằm
trong cho vay ngắn hạn, tậpt rung vào khu vực hộ sản xuất. Nếu xét số tuyệt đối thì nợ
quá hạn có chiều hướng tăng song không có nghĩa chất lượng cho vay giảm sút bởi vì
doanh số cho vay và dư nợ năm sau cao hơn năm trước. Ngoài ra, do số lượt hộ vay càng
nhiều, tất yếu rủi ro tín dụng xảy ra sẽ lớn hơn. Con số tương đối sẽ phản ánh chính xác
hơn chất lượng tín dụng Ngân hàng. Năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn là 1,1 % đạt mức kế
hoạch đề ra và là mức rất thấp so với mức trung bình ngành (khoảng 5%). Từ năm 1995
đến nay số liệu được kiểm tón quốc tế hàng năm thực kiểm và đều đánh giá Ngân hàng
hoạt động tốt, có chất lượng qua đó nâng cao uy tín của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, số khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng ngày càng tăng.
Xét riêng hộ sản xuất năm 1999 có hơn 18,4 ngàn hộ còn dư nợ chiếm 36 % số hộ toàn
tỉnh, với tổng số lượt vay 101.063 lượt. Đến 31/ 12/ 2000 có 194 ngàn hộ có dư nợ
chiếm 39 % số hộ toàn tỉnh, với tổng số lượt hộ vay là 102.269 lượt giúp cho các hộ có
đủ vốn sản xuất kinh doanh , khơi dậy tiềm năng lao động, đất đai khôi phục và phát triển
các ngành nghề TTCN truyền thống, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, chuyển
đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Như vậy, sau khi xem xét một vài nét cơ bản về hoạt động kinh doanh của NHNo
huyện Từ Liêm , có thể đánh giá sơ bộ hoạt động Ngân hàng là chất lượng, hiệu quả có
sự phát triển ổn định và vững chắc đã dần chiếm được lòng tin của khách hàng. Đây là cơ
sở thuận lợi cho Ngân hàng tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm tiếp
theo, khi hoàn cảnh kinh tế xã hội đang nảy sinh nhiều khó khăn cho hoạt động Ngân
hàng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài nghiên cứu sẽ đi sâu vào nghiên cứu về chất
lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất, bởi vì vấn đề này có ý nghĩa quyết định
đến sự an toàn cũng như lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Nhà nước thương mại
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn với tren 90 % khách hàng là
nông dân.
III. thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm :
Trong vòng 2 - 3 năm trở lại đây, NHNo Việt Nam thường xuyên có những thay
đổi về cơ cấu, chính sách nhằm thu hút và phục vụ tốt hơn khách hàng của mình. Đồng
thời nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cũng như phù hợp với nhu cầu đặc điểm kinh tế -
xã hội từng thời kỳ. Để phù hợp hơn với xu thế cho vay hộ Dân số - KHHGĐ , NHNo
Việt Nam ban hành quyết định 180 HĐQT- QĐ có hiệu lực từ 1/ 1/ 1999 để thay thế QĐ
499A - TDNT NHNo về quy định cho vay đối với khách hàng là hộ sản xuất. Theo QĐ
180 HĐQT thì hộ sản xuất không phân chia thành hai loại như trong QĐ 499A nhưng
gần đây nhất có QĐ 06/ HĐQT thay thế cho QĐ 180 trước đây về việc ban hành QĐ cho
vay đối với khách hàng. Tuy nhiên do ở Hà Tây HTX hoạt động hiệu quả thấp, các công
ty TNHH và DNTN hoạt động quy mô nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn hạn chế
nên quan hệ tín dụng với NHNo chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với các thành phần kinh tế
khác. Thành phần này chiếm 1 - 2 % tổng dư nợ, 2 - 3 % tổng dư nợ hộ sản xuất. Vì vậy,
sử dụng cách phân chia như quyết định 180 - HĐQT ở NHNo huyện Từ Liêm cho giai
đoạn phân tích vẫn phản ánh đúng thực trạng cho vay hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ
Liêm. Để đánh giá thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm nói
chung và chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm nói riêng thì
trước hết phải phân tích các chỉ tiêu chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo
huyện Từ Liêm.
1. Tình hình thực hiện quy trình tín dụng tại NHNo huyện Từ Liêm :
Để đảm bảo chất lượng tín dụng phần lớn cán bộ tín dụng tại NHNo huyện Từ
Liêm đã thực hiện các quy trình sau :
- Về hồ sơ vay vốn : Cán bộ tín dụng trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng,
đối chiếu danh mục hồ sơ như quy định của NHNo Việt Nam , kiểm tra tính hợp lệ, hợp
pháp của từng loại hồ sơ, báo cáo trưởng phòng tín dụng.
- Quá trình thẩm định món vay được NHNo Việt Nam quy định hướng dẫn cụ thể.
Tại NHNo huyện Từ Liêm khi khách hàng vay những món vay đến 5 triệu đồng (trước
khi có quyết định 67/ QĐ - TTg) và hiện nay là đến 10 triệu đồng thì cán bộ tín dụng
hướng dẫn khách hàng lập kế hoạch theo yêu cầu trong đơn xin vay vốn. Trong nhiều
trường hợp, cán bộ tín dụng đã thay khách hàng làm điều này. Bởi vậy trên thực tế đã có
nhiều trường hợp cán bộ tín dụng không thực hiện bất kỳ một hoạt động phân tích nào
khi thẩm định các dự án mà khách hàng "lập" với khoản vay đến 10 triệu đồng. Trên thực
tế nhiều khách hàng đã sử dụng vốn vay không đúng mục đích như trong đơn xin vay. Cả
cán bộ tín dụng và người vay vốn đều không biết chắc chắn về khả năng sinh lời của dự
án. Các biện pháp thẩm định vốn vay hiện thời không thề đánh giá hoặc kiểm soát được
hiệu quả sử dụng vốn vay của người vay vốn.
Như vậy quá trình thẩm định nếu không được thực hiện tốt tại NHNo huyện Từ
Liêm thì sẽ làm ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất.
- Sau khi thẩm định xong nếu không cho vay thì thông báo cho khách hàng biết
bằng văn bản.
- Nếu cho vay thì cùng khách hàng lập hồ sơ vay vốn, hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm tiền vay, chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán, thanh toán, cán bộ tín dụng
vào sổ theo dõi cho vay thu nợ.
- Sau khi thực hiện giải ngân, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra tình hình sử
dụng vốn vay của khách hàng.
- Căn cứ vào kết quả kiểm tra tuỳ theo mức độ vi phạm của khách hàng có thể xử
lý tạm ngừng cho vay, chuyển nợ qúa hạn, chấm dứt cho vay, khởi kiện trước pháp luật.
- Khi món vay của khách hàng đến hạn thì cán bộ tín dụng phải thông báo cho
khách hàng biết số tiền, ngày đến hạn trả trước khi đến hạn 10 ngày.
- Trường hợp nợ đến hạn nhưng khách hàng chưa trả được nợ do nguyên nhân
khách quan và khách hàng có giấy đề nghị gia hạn nợ thì cán bộ tín dụng kiểm tra xác
minh trình trưởng phòng tín dụng và giám đốc.
- Đôn đốc khách hàng trả nợ đúng kỳ hạn và đề xuất các biện pháp khi cần thiết, lưu
giữ hồ sơ theo quy định của NHNo Việt Nam
- Về xử lý rủi ro:
Vốn trong trường hợp bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan bất khả kháng như
bão, lụt, hạn hán, dịch bệnh Nhà nước có chính sách xử lý thiệt hại cho người vay và
Ngân hàng cho (xoá, miễn, khoanh, dãn nợ) tuỳ theo mức độ thiệt hại. Các tổ chức tín
dụng phải lập hồ sơ đầy đủ như đã hướng dẫn tại thông tư liên tịch 03/ 1997 ngày 22/ 11/
1997 của Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính và các văn bản hướng dẫn của NHNo Việt
Nam
2. Kết quả cho vay thu nợ đối với kinh tế hộ tại NHNo huyện Từ Liêm trong
thời gian qua :
2.1. Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất :
Với tính chất sản xuất ở quy mô gia đình nhỏ bé, việc mở rộng tín dụng đối với
khu vực hộ sản xuất rất khó khăn, thể hiện ở doanh số cho vay không tăng trong 3 năm
liền (98 - 2000) và thấp hơn năm 95. Năm 95 doanh số cho vay có mức tăng đột biến (dư
nợ rất cao so với năm 94) Sau đó giảm xuống mức trung bình là khoảng 620 tỷ dồng/
năm.
Doanh số cho vay giai đoạn sau không tăng, phản ánh một điều là Ngân hàng càng
chú trọng đến vấn đề chất lượng tín dụng khi mà môi trường kinh doanh còn chưa ổn
định. Nhưng đây là điều không mong muốn của Ngân hàng bởi vì thu hẹp doanh số cho
vay đồng nghĩa với giảm nguồn thu chính của Ngân hàng.
Xét về kỳ hạn cho vay, xu hướng dễ nhận thấy là doanh số cho vay ngắn hạn (<1
năm) giảm dân trong khi doanh số cho vay trung - dài hạn lại tăng dần.
Bảng số 5 : Doanh số cho vay hộ sản xuất phân theo loại cho vay
N
ăm
Ngắn hạn
(%)
Trung, dài hạn
(%)
Tổng cộng
1
995
74,5 25,5 100
1
996
82,4 17,6 100
1
997
73,3 36,7 100
1
998
67,8 32,2 100
1
999
65,7 34,3 100
2
000
48,8 51,2 100
Doanh số cho vay trung - dài hạn có xu hướng gia tăng, trừ năm 1996 có giảm so
với năm 1995. Năm 1996 doanh số cho vay trung - dài hạn chỉ chiếm 17,6 % tổng doanh
số cho vay hộ sản xuất. Tuy nhiên, trong 4 năm sau đó (từ 1997 đến 200), doanh số cho
vay trung - dài hạn liên tục tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối. Đến năm 2000 doanh
số cho vay hộ sản xuất trung - dài hạn đã đạt được 51,2% tổng doanh số cho vay hộ sản
xuất. Như vậy tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
những hộ nông dân nhỏ, thông qua vốn đầu tư dài hạn, tuy tỷ trọng dư nợ cũng như tốc
độ tăng rất nhanh so với 1999.
Những kết quả trên đây đã phần nào cho thấy chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với hộ sản xuất trong những năm qua. Để phân tích chính xác hơn ta xem xét số tiền vay
mỗi lượt hộ của từng hộ.
Bảng số 6 : Số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất
Đơn vị tính : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Doanh
số cho vay
Ngắn
hạn
Tru
ng - dài
hạn
DS cho
vay/ số lượt
hộ vay
1995 564.94
4
4,00 8,89 4,5
1996 479.16
7
4,42 7,18 4,97
1997 546.42
8
4,97 6,12 5,06
1998 530.82
6
6,77 3,71 5,26
1999 521.91
3
6,05 3,93 5,16
2000 657.10
0
4,28 5,12 6,42
Nguồn : báo cáo kết quả hoạt động tín dụng HSX năm 96, 97, 98, 99, 2000.
Số tiền trung bình mỗi lượt vay của hộ sản xuất có xu hướng tăng nhưng không
đáng kể, với mức trung bình là 6 triệu đồng. Với số tiền vay khá nhỏ như vậy chỉ đảm
bảo sản xuất ở quy mô như trước, khó tăng thu nhập cho hộ sản xuất.
Số tiền trung bình mỗi lượt vay trung - dài hạn của hộ sản xuất có xu hướng tăng
lớn : Năm 1999 là 3,93 triệu/ lượt, năm 2000 là 5,12 triệu/ lượt; trong khi đó năm 1995 là
8,89 triệu đồng/ lượt. Điều này chứng tỏ hộ sản xuất nhỏ, manh mún, kỹ thuật lạc hậu ít
quan tâm tới đầu tư thiết bị, kỹ thuật mới vào sản xuất , do đó sản xuất kém hiệu quả.
Trong quá trình đầu tư tín dụng hộ sản xuất NHNo huyện Từ Liêm luôn quan tâm đến
việc mở rộng quy mô đầu tư tín dụng HSX đồng thời trú trọng đến việc nâng cao chất
lượng các khoản vay.
Tại NHNo huyện Từ Liêm có sự khác biệt rất lớn về doanh số cho vay giữa các
huyện thị. Doanh số cho vay hộ sản xuất cao chủ yếu tập trung ở một số huyện Phú
Xuyên, Mỹ Đức, Sơn Tây, Hà Đông. Năm 2000 NHNo huyện Phú Xuyên đạt doanh số
rất cao là 121 tỷ đồng so với mức trung bình 14 Ngân hàng huyện thị là 48 tỷ cho thấy
đây là một thị trường rất hấp dẫn và có hiệu quả (doanh số thu nợ năm 2000 trên 69 tỷ,
bình quân dư nợ một hộ sản xuất đạt khoảng 6,5 triệu đồng). Trái lại một số Ngân hàng
huyện khác doanh số đạt thấp, như NHNo Quốc Oai chỉ đạt 51 tỷ, Đan Phượng 48 tỷ mặc
dù tiềm năng trên địa bàn rất lớn.
2.2. Doanh số thu nợ.
Đối với một Ngân hàng kết quả thu nợ có ý nghĩa rất quan trọng phản ánh chất
lượng tín dụng Ngân hàng , bảo đảm kinh doanh Ngân hàng an toàn và có lãi.
Các số liệu thu được cho thấy doanh số thu nợ của Ngân hàng tăng liên tiếp trong
4 năm từ 1995 đến 1998, (năm 1999 có sụt giảm so với năm 1998) cho đến năm 2000
doanh số cho vay tăng lên doanh số thu nợ chứng tỏ Ngân hàng đều coi trọng 2 mục tiêu
(cho vay - thu nợ).
Bảng số 7 : Tỷ lệ (%) doanh số thu nợ HSX/ DS cho vay HSX tại NHNo
huyện Từ Liêm.
Đơn vị : triệu đồng
Doanh số cho vay Doanh số thu nợ %
DSTN/ DSCV
N
ăm
D
S cho
vay
N
gắn
hạn
T
- D
hạn
D
S thu
nợ
N
gẵn
hạn
T
- D
hạn
N
gắn
hạn
T
- D
hạn
1
995
5
57.697
4
15.358
1
42.339
3
94.812
3
68.272
2
6.540
8
9
1
9
1
996
4
74.456
3
90.797
8
3.659
4
12.223
3
38.132
7
4.091
8
0
7
1
1
997
4
91.673
3
59.286
1
32.387
4
47.097
3
48.410
9
8.687
9
6
7
3
1
998
5
22.145
3
51.963
1
70.182
5
20.069
3
84.794
1
35.272
1
08
8
4
1
999
5
34.467
3
55.920
1
78.547
5
10.928
3
47.015
1
63.913
9
1
7
8
2
000
8
10.786
5
10.700
3
00.086
6
66.968
4
80.058
1
86.910
9
4
8
2
Năm 2000 doanh số thu nợ tăng, tuy nhiên tỷ lệ doanh số thu nợ/ doanh số cho vay
vẫn đạt được 89 %. Trong 6 năm, tỷ lệ doanh số thu nợ/ doanh số cho vay liên tục tăng và
đạt trung bình là 88 %. Đây là dấu hiệu đáng mừng về chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
Đặc biệt tỷ lệ doanh số thu nợ/ doanh số cho vay trung - dài hạn tăng từ 19 % năm 1995,
năm 2000 đạt 82 %.
Từ doanh số thu nợ hộ sản xuất tính chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng một năm. Chỉ
tiêu này đo lường hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng. Vòng quay vốn tín dụng cao cho
thấy tốc độ thu nợ cũng như hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng cao.
Bảng số 8 : Vòng quay vốn tín dụng HSX giai đoạn 95 - 2000.
Chỉ tiêu Vòng quay VTD Ngắn hạn
1995 0.97 1.2
1996 0.83 1.12
1997 0.91 1.15
1998 0.94 1.18
1999 0.8 0.98
2000 0.86 0.96
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là chu kỳ sản xuất kinh doanh kéo dài, thường
các món vay ngắn hạn từ 6 tháng đến 1 năm. Do đó, vốn tín dụng có tốc độ quay vòng
thấp. Kết quả cho thấy vòng quay vốn ngắn hạn luôn đạt trên 1 lần, chỉ riêng năm 1999 :
0,98 %, năm 2000 đạt 0,96 lần. Như vậy là đạt yêu cầu, tuy nhiên, Ngân hàng phải tập
trung nâng cao chất lượng tín dụng trong những năm tới để vòng quay vốn tín dụng ngắn
hạn luôn đạt trên 1 lần.
2.3. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất :
Dư nợ là thước đo tầm vóc của một ngân hàng nên bất kỳ NHTM nào cũng chú
trọng tăng trưởng dư nợ. Do xác định kháchh hàng phục vụ chính là các hộ nông dân,
NHNo huyện Từ Liêm luôn phấn đấu tăng dư nợ cho vay hộ sản xuất. Đến cuối năm
2000, dư nợ cho vay hộ sản xuất đạt trên 857,1 tỉ đồng, gấp gần 25 lần năm 1995, là mức
cao trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam. Trong 3 năm 1997 đến 1999 dư nợ cho vay hộ
sản xuất tăng không đáng kể, tốc độ tăng trưởng thấp (năm 1998 là 15 %).
Năm 2000, dư nợ cho vay hộ sản xuất tăng đáng kể so với năm 1999 tốc độ tăng
trưởng là 27 %. Tuy nhiên, dư nợ cho vay hộ sản xuất năm 2000 tăng không phải là do
doanh số cho vay tăng mà do doanh số thu nợ giảm đáng kể.
Số hộ còn dư nợ cuối năm 2000 , 19,4 vạn hộ tăng hơn so với năm 1999 (10.825
hộ), phản ánh xu hướng ngân hàng mở rộng cho vay hộ sản xuất, đặc biệt là hộ nghèo
nhằm thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn có khuynh
hướng cho vay trung - dài hạn với số khách hàng còn dư nợ trung - dài hạn là 85.205 hộ,
tăng 32,2 % so với năm 99, chiếm tỷ trọng xấp xỉ 675 tổng số dư nợ. Dư nợ bình quân 1
hộ sản xuất tăng dần qua các năm nhưng số tiền còn ở mức thấp.
Bảng số 9 : Dư nợ bình quân một hộ sản xuất :
Đơn vị : triệu đồng :
Chỉ tiêu Dư nợ BQ/ hộ
1995 3,69
1996 3,7
1997 4,6
1998 4,9
1999 5,1
2000 5,9
Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng HSX năm 95 đến 2000
Dư nợ bình quân 1 hộ sản xuất đến năm 2000 mới đạt 5,9 triệu đồng. Dư nợ bình
quân 1 hộ sản xuất trung bình trong 5 năm từ 1995 - 2000 mới đạt được khoảng 4,7 triệu,
tức là dưới 5 triệu đồng. Như vậy là dư nợ bình quân 1 hộ sản xuất còn rất thấp. Tăng
được dư nợ bình quân một hộ là một cố gắng rất lớn của Ngân hàng, song muốn nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng đối với sự phát triển kinh tế Ngân hàng thì phải tăng hơn nữa
dư nợ bình quân một hộ sản xuất cũng như quy mô vay của hộ sản xuất.
Cơ cấu dư nợ cho vay hộ sản xuất cũng có sự thay đổi xét theo nhiều khía cạnh
đánh giá. Để thấy rõ điều này phải phântích thực trạng dư nợ cho vay hộ sản xuất theo kỳ
hạn cho vay, ngành nghề cho vay, thu nhập của hộ vay và phương thức cho vay.
a. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ.
Bảng số 10 : Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất theo kỳ hạn
C
hỉ tiêu
Ngắn hạn (%) Trung - dài hạn
(%)
Tổng
số
1
995
60 40 10
0
1
996
63,2 26,8 10
0
1 60 40 10
997 0
1
998
55 45 10
0
1
999
54 46 10
0
2
000
53 47,6 10
0
Các khoản cho vay ngắn hạn dùng để tài trợ cho các chi phí theo thời vụ để sản
xuất mùa màng và chăn nuôi gia súc như mua hạt giống, phân bón, thức ăn gia súc gia
cầm. Dư nợ ngắn hạn tăng liên tục trong nhiều năm. Tính trung bình cả giai đoạn 95 -
2000 đạt hơn 528 tỷ đồng với số hộ dư nợ tính đến 31/ 12/ 99 là 102.269 hộ góp phần
tăng trưởng kinh tế địa phương giai đoạn này đạt trung bình 10 %. Tiền trả nợ vay ngắn
hạn Ngân hàng thường lấy từ tiền bán sản phẩm hàng hoá (doanh thu bán hàng) sau kỳ
thu hoạch nhưng giá cả hàng hoá nông nghiệp vẫn ở mức thấp và luôn biến động, do đó
làm tăng trưởng khả năng không trả được vốn và lãi vay ngắn hạn của hộ sản xuất. Mức
giảm dư nợ ngắn hạn trong năm 1999 là dấu hiệu cho thấy còn những khó khưan trong
hoạt động tín dụng ở khu vực này. Mặc dù dư nợ ngắn hạn năm 2000 tăng so với năm
1999 nhưng doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2000 lại sụt giảm nhiều so với năm 1000,
điều này càng chứng tỏ sự khó khăn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Do đó,
Ngân hàng phải tập trung hơn nữa để nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất
nói chung và chất lượng cho vay ngắn hạn nói riêng. Giải quyết mâu thuẫn giữa mục tiêu
lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh là vấn đề rất phức tạp.
Ngược lại với tình hình cho vay ngắn hạn, dư nợ trung - dài hạn tăng trưởng một
cách vững chắc, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong dư nợ cho vay hộ sản xuất : năm
1996 là 36,8 %, năm 1997 là 40 %, năm 1998 là 45 % và năm 1999 đạt được 46 %, năm
2000 đạt 47%. Đây là kết quả đáng mừng vì doanh số thu nợ trung - dài hạn cũng liên tục
tăng qua các năm, tỷ lệ doanh số thu nợ trên doanh số cho vay trung - dài hạn cũng liên
tục tăng. Các khoản cho vay trung - dài hạn được dùng để mua các tài sản có tính lâu dài
như gia súc, máy móc và đầu tư chiều sâu. Một điều đáng lưu tâm là hầu hết số tiền vay
là của những hộ sản xuất nhỏ bó hẹp ở quy mô gia đình nhỏ, chứng tỏ nhiều hộ đang
vươn lên vượt ra khỏi mức sản xuất thấp. Tuy nhiên, nếu tính số tiền vay trung - dài hạn
lại rất thấp, trung bình 1 lần vay chỉ có 4,6 triệu đồng và cũng tương tự với dư nợ trung -
dài hạn bình quân giai đoạn này chưa đến 5 triệu đồng (năm 2000).
Về lý thuyết, tiền trả nợ trung - dài hạn ngân hàng lấy từ lợi tức kinh doanh ở
người sản xuất. Điều này rõ ràng chỉ thực hiện được với những nhu cầu vay hàng chục
triệu đồng, mỗi lần trong khi số khách hàng như vậy ở NHNo huyện Từ Liêm là không
nhiều. Số tiền bình quân thấp như vậy bảo đảm nguy cơ thất th oát vốn do không trả được
nợ là nhỏ nhưng không kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ
sản xuất.
b. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo chi nhánh trực thuộc.
Tính đến năm 2000, NHNo huyện thị trên địa bàn tỉnh đều tăng dư nợ cho vay hộ
sản xuất qua từng năm nhưng có sự chênh lệch khá lớn giữa các Ngân hàng, phản ánh
đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của từng khu vực cũng như chất lượng kinh doanh của các
Ngân hàng cơ sở. Một số khu vực tập trung nhiều làng nghề thủ công truyền thống như
huyện Thường Tín, CHương Mỹ, Hà Đông; hay sản xuất nông sản như rau quả xanh
chung cấp cho Hà Nội ở Hoài Đức. Số tiền mỗi lần vay của các hộ này khá cao, có hộ
đến hàng chục triệu đồng để mua nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Do vậy, dư nợ
cho vay hộ sản xuất ở các Ngân hàng này khá cao. bình quân dư nợ / cán bộ trên 1,2 tỷ
đồng cao hơn nhiều so với mức trung bình của cả chi nhánh. Các Ngân hàng khác có dư
nợ cho vay hộ sản xuất không lớn. Hai năm 95, 96 có 9 Ngân hàng và 2 năm 97, 98 có 8
ngân hàng, năm 2000 có 6 Ngân hàng, có dư nợ cho vay hộ sản xuất thấp hơn mức trung
bình cộng của 14 Ngân hàng huyện thị, trong đó có một số Ngân hàng như Ngân hàng thị
xã Hà Đông , Mỹ Đức, Đan Phượng đạt thấp.
Với phương châm đề ra hiện tại là "An toàn - Chất lượng - Hiệu quả" rõ ràng là
các Ngân hàng huyện thị đã cho vay có phần chặt chẽ hơn, năm 2000 số lượt hộ được vay
vốn Ngân hàng tăng đáng kể, chủ yếu là hộ nghèo, do vậy hạn chế sức sản xuất của nhiều
hộ cần nhưng không được vay. Điều này dễ dẫn đến tình trạng vay mượn lẫn nhau, vay
hộ, cho vay lại vốn Ngân hàng với lãi suất cao kiếm chênh lệch (tín dụng ngầm), vì vậy
chỉ tiêu định tính "bảo đảm nguyên tắc cho vay" không được thực hiện tốt. Điều đáng lo
hơn là những khách hàng tiềm năng có thể chuyển sang vay ở những tổ chức tín dụng
khác như quỹ tín dụng nhân dân, mặc dù NHNo vẫn có uy tín và là chỗ dựa chủ yếu của
người nông dân trên địa bàn nông thôn.
c. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo thu nhập hộ vay.
Bảng số 11 : Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất theo thu nhập hộ vay.
C
hỉ tiêu
Hộ nghèo (%) Hộ khác (%) Tổng
số
1
995
2,5 97,5 10
0
1
996
9,9 90,1 10
0
1
997
12,0 88,0 10
0
1
998
14,6 83,6 10
0
1
999
18,25 81,8 10
0
2
000
21,30 78,7 10
0
Nhằm thực hiện chính sách "Xóa đói giảm nghèo" của Đảng và Nhà nước , NHNo
Việt Nam phát triển , mở rộng cho hộ nghèo vay vốn với những ưu đãi về lãi suất, thời
hạn cho vay, tài sản thế chấp... NHNo huyện Từ Liêm trong 6 năm qua đã mở rộng số hộ
nghèo được vay vốn trên địa bàn tỉnh giúp nhiều hộ thoát khỏi đói nghèo, vươn lên. Dư
nợ hộ nghèo liên tục tăng qua các năm. Từ chỗ năm 1995 dư nợ hộ nghèo là 10.542 triệu
đồng, chiếm tỷ trọng 2,5 % trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất , thì năm 2000 dư nợ hộ
nghèo đã là 138.055 triệu đồng (gấp hơn 12 lần năm 1995), chiếm tỷ trọng 21,3 % trong
tổng dư nợ hộ sản xuất. Năm 2000, NHNo huyện Từ Liêm đã cho 42,620 lượt hộ nghèo
vay với số tiền 21 tỷ, đưa số hộ còn dư nợ lên 106.866 hộ với số tiền là 138.055 tỉ đồng,
nhiều hộ vay sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thực hiện trả nợ Ngân hàng đúng hạn vốn
vay và lãi. Tín dụng Ngân hàng đã giúp 14.217 hộ phát triển sản xuất ổn định đời sống,
vượt qua ngưỡng đói nghèo, thực hiện xây dựng nông thôn mới.
d. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo hình thức chuyển tải vốn.
Theo quyết định 499A, NHNo thực hiện 2 hình thức chuyển tải vốn là cho vay
trực tiếp hộ sản xuất và cho vay thông qua tổ vay tốn (tổ, nhóm). Theo quyết định 180-
HĐQT, NHNo có thêm hình thức chuyển tải vốn thứ 3 là cho vay thông qua doanh
nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp Nhà nước. Do QĐ 180 - HĐQT có hiệu lực từ 01/ 01/
1999 và sau đó có QĐ 06 của HĐQT trừ việc ban hành quy định cho vay đối với khách
hàng do đặc điểm kinh tế xã hội riêng của Hà Tây , NHNo huyện Từ Liêm mới chỉ thực
hiện 2 hình thức chuyển tải vốn là cho vay trực tiếp và cho vay thông qua tổ vay vốn.
Bảng 12 : Dư nợ vay đối với hộ sản xuất theo hình thức chuyển tải vốn.
C
hỉ tiêu
Cho vay trực tiếp Cho vay qua
“nhóm”
Tổng
số
1
995
84,67 15,33 10
0
1
996
80,52 19,48 10
0
1
997
78,35 21,7 10
0
1
998
72,2 27,8 10
0
1
999
69,6 30,4 10
0
2
000
57,2 32,8 10
0
Trên 80 % doanh số cho vay năm 1999, 2000 được thực hiện bằng hình thức vay
trực tiếp, cho vay thông qua các tổ tín chấp đạt kết quả khả quan. Dư nợ cho vay qua
nhóm ngày càng tăng, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ trọng 30 % trong tổng dư nợ hộ sản xuất.
Đến năm 2000 dư nợ cho vay qua nhóm đã đạt được 299.757 triệu đồng, chiếm tỷ trọng
32,8 % tổng dư nợ. Đây là dấu hiệu tốt vì hình thức cho vay qua nhóm đang được đánh
giá là hình thức có hiệu quả cao thông qua kinh nghiệm của các nước đang phát triển.
Mặc dù vậy, số khách hàng vay vốn qua nhóm chỉ chiếm 23 % tổng số hộ gia đình. Tính
trung bình mỗi nhóm có khoảng 15 thành viên và món vay trung bình chỉ khoảng xấp xỉ
2 triệu (bảng số 14). Trong khi đó món vay trung bình vay trực tiếp xấp xỉ 6 triệu. Vì vậy,
Ngân hàng cần tăng hơn nữa hình thức cho vay qua nhóm và quy mô 1 món vay để giảm
nhẹ công việc cho cán bộ tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với
hộ sản xuất.
Bảng số 13 : Dư nợ cho vay qua "nhóm" tại NHNo huyện Từ Liêm.
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu : 1998
1999
2000
Tổng số hộ : 515.114
537.875
644.741
Tổng số nhóm : 4.647
4.959
6.212
Tổng số thành viên :
Tỷ trọng trong tổng số hộ gia đình :
1998 1999 2000
80.873 88.249 106.866
15,7 % 16,4 % 23 %
Tổng số thành viên 1 nhóm : 17
18
19
Tổng dư nợ : 159.090
195.474
299.757
Dư nợ / 1 thành viên : 1,97
2,2
2,8
Ngân hàng đã hợp tác với rất nhiều các tổ chức xã hội khác như Hội Phụ nữ, Hội
nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội làm vườn, Đoàn thanh niên... để tổ chức cho vay qua
tổ nhóm. Số nhóm được vay năm 2000 đã lên tới gần 5.500 nhóm trong đó cho vay hộ
nghèo 100 % thông qua nhóm. Đây là một hướng đi mới đúng đắn thể hiện công tác xã
hội hoá hoạt động cho vay, nâng cao sức tương trợ lẫn nhau giữa các hộ nông dân, nhất là
giúp hộ nghèo có được vốn để sản xuất, thoát khỏi đói nghèo.
2.4. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất :
Để đánh giá tình hình dư nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất Ngân hàng thường sử
dụng chỉ tiêu : Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ hộ sản xuất.
Bảng 14 : Tỷ lệ dư nợ quá hạn/ Tổng dư nợ hộ sản xuất giai đoạn 95 - 2000
Đơn vị : triệu đồng
C
hỉ tiêu
Tổng dư nợ HSX Dư nợ quá hạn
HSX
NQH/
Tổng
1
995
413.892 4.508 1,1
1
996
517.346 6.554 1,2
7
1
997
572.899 6.801 1,1
9
1
998
572.505 6.530 1,1
4
1
999
643.131 8.039 1,2
5
2
000
857.100 10.200 1,1
0
Kết quả trên cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất của Ngân hàng ở mức thấp. So
với tỷ lệ nợ quá hạn chung (năm 2000 là 1,10%). Dư nợ quá hạn hộ sản xuất thường
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ quá hạn. Trong 2 năm 99 và 2000 dư nợ quá hạn hộ
sản xuất chiếm tới 94 % tổng dư nợ quá hạn. Đây là kết quả tất yếu vì với hàng ngàn hộ
vay vốn và hàng vạn lượt vay, đồng thời các hộ sản xuất vay vốn đều sản xuất , kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó, mức độ rủi ro tín dụng trong khu vực này sẽ
cao hơn nhiều những khu vực khác. Mặt khác, hộ sản xuất thường có dư nợ chiếm tới
trên 80 % tổng dư nợ cho nên tỷ trọng dư nợ quá hạn hộ sản xuất trong tổng dư nợ luôn ở
mức cao.
Kết quả nổi bật của Ngân hàng trong hoạt động cho vay hộ sản xuất những năm
qua là tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm rất thấp, nhỏ hơn rất nhiều mức trung bình của NHNo
Việt Nam (hơn 5% năm) và nhỏ hơn mục tiêu phấn đấu của NHNo Việt Nam là tỷ lệ nợ
quá hạn xuống còn 3% năm. Xét riêng khu vực đồng bằng sông Hồng gồm những tỉnh
có điều kiện sản xuất tương đối gần gũi với tỷ lệ nợ quá hạn tới 10 % (98, 99) thì có thể
thấy chất lượng tín dụng NHNo huyện Từ Liêm là cao. Tuy nhiên, nợ quá hạn hộ sản
xuất cũng như nợ quá hạn chung năm 2000 của Ngân hàng bắt đầu giảm hơn so với 2
năm 98, 99 cả về số tuyệt đối và số tương đối, cùng với dư nợ hộ sản xuất tăng không
đáng kể, doanh số thu nợ tụt xuống, thì đó là dấu hiệu để Ngân hàng quan tâm hơn nữa
tới chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Mặc dù vậy, nhìn vào khối lượng cho vay hộ
sản xuất mà Ngân hàng đang quản lý là mức cao trong hệ t hống NHNo thì đây là sự cố
gắng lớn của NHNo huyện Từ Liêm.
Để đánh giá đầy đủ hơn về dư nợ quá hạn hộ sản xuất phải phân loại nợ quá hạn
theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi cách phân loại nợ quá hạn giúp Ngân hàng tìm ra các
biện pháp để hạn chế tới mức thấp nhất dư nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất.
a. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo thời gian.
Cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian giúp Ngân hàng tính toán được khả năng
thất thoát vốn (nợ khó đòi) trên cơ sở đó lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đồng thời hỗ
trợ công tác chỉ đạo điều hành trong Ngân hàng.
Trong tổng số nợ quá hạn, thông thường nợ quá hạn > 360 ngày chiếm tỷ trọng
khá cao, năm 1997 là 50 %, năm 1998 là 35 %, năm 1999 là 25 %, năm 2000 là 15 %.
Đây được coi là những khoản nợ không thu hồi được, do đó làm ảnh hưởng tới vốn kinh
doanh của Ngân hàng. Trên thực tế số này còn cao hơn vì xác suất không đòi được nợ từ
những khoản nợ dưới 1 năm hoàn toàn có thể xảy ra. Mặc dù nợ quá hạn > 360 ngày năm
2000 giảm xuống chỉ còn chiếm 15 % nhưng đây vẫn là một con số mà không một Ngân
hàng nào mong muốn và cần phải tiếp tục giảm xuóng.
Theo quy định trích phòng xử lý rủi ro, tỷ lệ trích dự phòng nợ quá hạn < 1 năm là
13 %, trên 1 năm là 100 %. Từ đó có thể tính được số nợ khó đòi của Ngân hàng qua các
năm. Qua kết quả tính toán thì khả năng thất thoát vốn của Ngân hàng còn cao. Năm
1996 là 2.300 triệu, chiếm 35 % tổng nợ quá hạn, năm 1997 là 4.462 triệu chiếm 65,6 ^,
năm 1998 là 3.389 triệu chiếm 51,9 % và năm 1999 là 3.420 triệu chiếm 42,5 %, năm
2000 là 3.638 triệu chiếm 36 %. Mặc dù nợ khó đòi năm 2000 tăng không đáng kể so với
năm 1999 về số tuyệt đối và chiếm tỷ trọng thấp hơn năm 1999, mà chủ yếu tập trung vào
nợ quá hạn < 180 ngày, đó là một dấu hiệu đáng mừng cho Ngân hàng nhưng Ngân hàng
vẫn phải củng cố, tập trung giảm đến tối thiểu khả năng thất thoát vốn và những khoản nợ
quá hạn < 180 ngày khả năng không đòi được vẫn có thể xảy ra. Tỷ lệ nợ khó đòi cao
luôn là thách thức với Ngân hàng cần phải tháo gỡ.
b. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ
Bảng 15 :
Đơn vị : %
C
hỉ tiêu
Ngắn hạn Trung - dài hạn
1
997
1,65 0,5
83 27
1
998
1,46 0,75
71 29
1
999
1,39 0,73
68 32
2
000
1,32 0,7
66 30
Nợ quá hạn cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, năm 97 là 83 % năm 98 là 71 %,
năm 99 là 68 %, năm 2000 là 66 %. Đồng thời tỷ lệ nợ quá hạn cho vay ngắn hạn lớn hơn
rất nhiều so với tỷ lệ nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất trung bình là 1,5 %. Trong khi đó,
nợ quá hạn cho vay trung - dài hạn có tỷ lệ rất thấp, nhỏ hơn 1 % năm, đồng thời dư nợ
trung - dài hạn liên tục tăng qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1999
và năm 2000 dư nợ trung - dài hạn chiếm tỷ trọng 51 % tổng dư nợ hộ sản xuất. Như vậy,
cho vay trung - dài hạn ngày càng có chất lượng cao hơn cho vay ngắn hạn.
Nợ quá hạn chủ yếu nằm trong cho vay ngắn hạn (xấp xỉ 70%) trong đó tập trung
vào hộ sản xuất nông nghiệp hay chính xác hơn là ngành chăn nuôi. Ngành này cần vốn
đầu tư mua giống khá lớn (năm 2000 bình quân 1 hộ chăn nuôi vay ngắn hạn số tiền xấp
xỉ 10 triệu đồng) và phải phòng dịch cẩn thận. Do vậy nên có khó khăn trong kinh doanh
sẽ khó trả đủ vốn vay Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận thu được cao nên là ngành
hấp dẫn đầu tư và do vậy Ngân hàng chấp nhận rủi ro khi cho vay.
Hoạt động Ngân hàng luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro làm giảm sút lợi nhuận cũng
như sau an toàn của Ngân hàng , cho nên các Ngân hàng luôn phải dự đoán được tình
hình hoạt động của mình. Đối với nợ quá hạn, Ngân hàng phải có những biện pháp xử lý
kịp thời và ngăn chặn nợ quá hạn mới phát sinh trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân dẫn
đến nợ quá hạn một cách đầy đủ và chính xác.
c. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo nguyên nhân
Dựa vào bảng phân tích các nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn giai đoạn 1996 - 2000
(bảng 15) có thể rút ra một số nguyên nhân sau :
a. Về nguyên nhân khách quan :
Tổn thất do thiên tai bất khả kháng chiếm tỷ trọng cao, trung bình gần 45 % tổng
số nợ quá hạn. Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường xung quanh
như thời tiết không thuận lợi, sâu bệnh ở cây trồng, vật nuôi ảnh hưởng xấu đến thu nhập
của hộ sản xuất và giảm khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng. Năm 2000, thường xuyên
xảy ra lũ lụt, thời tiết xấu đã làm cho nợ quá hạn do thiên tai bất khả kháng gây ra chiếm
tới 48,4 % tổng dư nợ quá hạn.
Một nguyên nhân cũng chiếm tỷ trọng cao là do khách hàng kinh doanh thua lỗ :
năm 1998 là 44,9 % , năm 1999 là 43,8 %. Tuy nhiên nợ quá hạn do nguyên nhân này
gây ra chỉ còn chiếm 37,2 % mặc dù con số này vẫn còn là quá cao. Điều này xuất phát từ
năng lực sản xuất kinh doanh của nhiều hộ còn kém, thiếu thông tin về thị trường nhất là
vấn đề giá cả hàng hoá. Tình trạng ép giá nông sản lúc thu hoạch xảy ra thường xuyên
làm giảm thu nhập người lao động. Nhiều hộ do không tính toán được nhu cầu thị trường
nên đầu tư cho sản xuất lớn, đến khi bán sản phẩm lại vượt quá nhu cầu thị trường dẫn
đến thu lỗ, không trả được nợ ngân hàng. Đây là nguyên nhân khách quan, nhưng cũng
có nhiều trường hợp do việc xác định kỳ hạn nợ không hợp lý nên dù chưa ra sản phẩm
mà khách hàng đã đến hạn trả lãi, khách hàng phải dùng vốn lưu động hoặc vay nóng với
lãi suất cao để trả nợ cho Ngân hàng. Kết quả là gây khó khăn cho hoạt động sản xuất và
có thể dẫn đến thua lỗ. Nguyên nhân này thường xuyên chiếm tỷ trọng xấp xỉ 50 % nợ quá hạn.
Một nguyên nhân khác cũng xuất hiện thường xuyên là khách hàng dùng sai mục
đích số tiền vay hay còn gọi là "rủi ro đạo đức". Do tâm lý muốn giàu nhanh chóng, một
số người vay đã dùng tiền Ngân hàng để kiếm lợi bất hợp pháp như chơi đề, cờ bạc, hụi
(họ) hay buôn bán... Do số lượng khách hàng quá đông mà số lượng cán bộ tín dụng quá
nhỏ dẫn đến việc kiểm tra sau khi cho vay lơi lỏng, tạo điều kiện cho khách hàng có
những hành vi sử dụng vốn sai mục đích ban đầu.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan như môi trường kinh tế - xã hội, sự
thay đổi chính sách, trình độ của khách hàng, khách hàng lừa đảo Ngân hàng , tuy nhiên
ảnh hưởng của những nguyên nhân này không đáng kể. Mặc dù vậy, Ngân hàng vẫn phải
có những biện pháp đề phòng, ngăn chặn và hạn chế tới mức tối thiểu.
b. Nguyên nhân chủ quan :
Nguyên nhân về phía Ngân hàng không nhiều, chỉ chiếm khoảng 1,5 % nợ quá hạn
nhưng hàng năm vẫn có thể xảy ra mà chủ yếu là do cán bộ tín dụng làm sai quy trình
cho vay. Ngoài ra, do có buông lỏng kiểm tra món vay, xử lý gia hạn nợ không kịp thời,
định kỳ hạn nợ cho khách hàng không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Việc
phân tích nợ chưa được tiến hành thường xuyên, đúng quy cách nên phát sinh nợ quá hạn là
tất yếu.
Những nguyên nhân gây nợ qúa hạn hộ sản xuất phân tích ở trên cũng đồng thời là
nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất bị tụt giảm.
IV. Đánh giá về hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT
huyện Từ Liêm :
1. Kết quả đạt được :
a. Kết quả :
Kết quả nổi bật nhất là dư nợ cho vay hộ sản xuất ngày càng tăng và duy trì ở mức
cao. Dư nợ hộ sản xuất hàng năm hơn 857,1 tỷ đồng, giúp trên 194 ngàn hộ sản xuất có
đủ vốn đáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh (chiếm 39% tổng số hộ trên địa bàn),
giải quyết việc làm góp phần thực hiện quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn,
thực hiện chính sách "xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới".
Khối lượng vốn tín dụng khá lớn, thực hiện đầu tư có trọng điểm đã góp phần
quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của tỉnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp nông thôn. Doanh số cho vay hàng năm bình quân khoảng 620 tỷ
đồng, riêng cho vay ngành nông nghiệp xấp xỉ 260 tỷ đồng mỗi năm trong đó chú trọng
đầu tư tập trung vào các chương trình kinh tế , đặc biệt là ngành chăn nuôi hướng đến
năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Hoạt động trên địa bàn tập trung nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) ,
Ngân hàng đã đầu tư thích đáng cho khu vực này, chủ yếu là cho vay để mở rộng sản
xuất mua máy móc, thiết bị, nguyên liệu. Ngân hàng có quan hệ thường xuyên với hơn
5.500 hộ sản xuất CN - TTCN ở nông thôn với mức dư nợ tăng liên tục qua các năm. Do
đó đã giúp cho các hộ này phát huy được năng lực sản xuất , khôi phục và phát triển các
làng nghề truyền thống, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao như hàng thêu, ren, mây tre đan, sơn
khảm.
Tỷ trọng dư nợ trung - dài hạn trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất cao, trung
bình gần 46 % một năm : đây là một tỷ lệ cao mà không phải một chi nhánh Ngân hàng
nào cũng đạt được, đặc biệt là Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiêp với đặc
trưng sản xuất nông nghiệp là theo mùa vụ. Vốn đầu tư trung - dài hạn đã đáp ứng nhu
cầu vốn của các hộ sản xuất về máy móc, thiết bị công tác phục vụ sản xuất , đầu tư chiều
sâu như cải tạo đất vườn, mua giống cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. .. góp phần nâng
cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của hộ sản xuất.
Phát huy tính cộng đồng trách nhiệm bằng hình thức cho vay qua nhóm như hội
phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh đã tập trung đầu mối khách hàng, nâng cao
hiệu quả quản lý, giảm khối
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.pdf