Tài liệu Luận văn Tìm giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương II Hai Bà Trưng: Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn
hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
2
Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công
nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ
thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó
khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện
rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu
quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả
nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của
ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động ngân hà...
94 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1133 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương II Hai Bà Trưng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn
hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
2
Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công
nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ
thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó
khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện
rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu
quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả
nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của
ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ
thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do nợ tồn đọng
từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm
2001 , theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt
Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để
phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp
tục đổi mới hơn nữa.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh
NHCTII-HBT cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả
hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải
khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ
trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng
lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã
tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình
trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với
sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-
HBT là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát triển vững chắc.
Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động
tín dụng của chi nhánh NHCT-HBT, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình
hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
3
HBT”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín
dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng
ngắn hạn tại NHCTII-HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3
phần:
ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn.
ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-
HBT.
ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn
của NHCTII-HBT.
Em xin chân thành cảm ơn GS – Tiến sĩ Cao Cự Bội đã tận tình giúp
đỡ em hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại
NHCTII-HBT đã tạo mọi đIều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em
thực tập và hoàn thành bài viết này.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
4
Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng
tín dụng ngắn hạn
1. Tổng quan về Ngân Hàng Thương Mại.
1.1 Khái niệm về NHTM.
Thuật ngữ Ngân hàng có từ rất lâu, trước khi nền sản xuất hàng hoá ra
đời. Tuy nhiên, ngay từ đầu nó không mang cái tên Ngân hàng. Xuất phát từ
nhu cầu của cuộc sống và công việc buôn bán mà các thương gia đã lập ra
những nơi để đổi tiền, nhận tiền gửi và thu phí của người gửi, họ giúp chi trả
và thanh toán hộ người gửi và ba nghiệp vụ đầu tiên hình thành, đó là: đổi
tiền, nhận tiền gửi và thanh toán hộ. Lúc đầu người gửi tiền phải trả một
khoản tiền phí cho các thương nhân này, nhưng về sau do áp lực cạnh tranh
và do các khoản tiền gửi này sinh lợi nên các thương nhân này đã trả phí cho
người gửi để tăng khả năng huy động. Qua một thời gian các thương gia này
thấy rằng: luôn có một lượng tiền mặt ổn định đọng trong két họ. Trong khi
đó một số thương gia buôn bán lại có nhu cầu vay. Vì vậy họ cho vay để kiếm
thêm lợi nhuận, chính là mầm mống xuất hiện những nghiệp vụ nền tảng của
NHTM.
Hoạt động và vai trò của ngân hàng không phải là bất biến, mà liên tục
phát triển theo các điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân
hàng càng ngày càng phát triển, đã tạo một nghành công nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ, đó là NHTM. Nền kinh tế càng ngày càng phát triển, nhu
cầu ngày càng phong phú và được nâng cao, chính vì vậy bên cạnh những
nghiệp vụ cơ bản, NHTM đã cho ra đời nhiều dịch vụ mới như: Dịch vụ bảo
lãnh L/C, nghiệp vụ thuê mua, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, chiết khấu
hối phiếu…
Hai ngân hàng thương mại đầu tiên trên thế giới đó là Banca di
Baralone(1401) và Banca di Valencia(1409) cả hai đều ở Tây Ban Nha.
Mặc dù NHTM ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà kinh
tế vẫn chưa nhất trí với nhau về dịnh nghĩa ngân hàng bởi do sự khác biệt về
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
5
luật pháp, số lượng các nghiệp vụ, bối cảnh kinh tế, xã hội của các vùng khác
nhau…
Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của
ngân hàng. Cùng với các ngân hàng, kinh doanh và làm dịch vụ còn có những
tổ chức tài chính kinh doanh những loại hình tương tự như công ty bảo hiểm
các loại, các hiệp hội tiết kiệm cho vay , các quỹ hưu trí, các tổ chức tín dụng
tiêu dùng, các quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng… Tuy nhiên trong bất cứ
nước nào trên thế giới, thì ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức tài chính lớn
nhất, quan trọng nhất trong giới kinh doanh tiền tệ.
Việt Nam, theo pháp lệnh “ NH, HTX tín dụng và công ty tài chính” ban
hành ngày24/05/1990 thì “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán”. Còn theo luật các tổ chức tín dụng ban
hành26/12/1997 NHTM là một doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng đó là “ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng ra đời ở nước ta năm1951 với tên gọi “Ngân hàng quốc gia
Việt Nam”. Sự ra đời ngân hàng Việt Nam mang nét đặc trưng riêng biệt:
Ngân hàng nhà nước ra đời vừa làm chức năng quản lý tiền tệ vừa làm chức
năng của NHTM( ngân hàng một cấp). Cho đến 26/03/1988, nghị định
53/HĐBT quyết định chia hệ thống ngân hàng Việt Nam thành 2 cấp, tách
bạch chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ(Ngân hàng nhà nước) và chức
năng kinh doanh tiền tệ(Ngân hàng thương mại). Trong những năm qua cùng
với sự phát triển của đất nước, nghành ngân hàng đã có những phát triển vượt
bậc góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành ngân hàng ngày càng
hiện đại về công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng, tham gia rộng rãi
vào thị trương tiền tệ trong khu vực và quốc tế.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
6
1.2 Chức năng của NHTM.
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó.
Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác
nhau, nhưng nhìn chung có các chức năng sau:
1.2.1 Chức năng tạo tiền.
Để phục vụ cho lưu thông, giúp cho nền kinh tế phát triển, NHNN đưa
một khối lượng tiền nhất định vào trong lưu thông. Lượng tiền đó phải đảm
bảo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, nhưng lượng tiền cung ứng vượt quá
nhu cầu của nền kinh tế sẽ gây ra lạm phát có hại cho nền kinh tế. Với một
lượng tiền cung ứng ban đầu, thông qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay
của hệ thống NHTM đã làm tăng lượng tiền cung ứng so với ban đầu. Đây là
chức năng chủ yếu của NHTM, chức năng tạo tiền. Và thông qua chức năng
này của NHTM mà NHNN với những công cụ của mình như dự trữ bắt buộc,
lãi suất chiết khấu… có thể thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia nhằm
đưa ra một khối lượng tiền phù hợp, ổn định được giá trị đồng tiền.
1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Với hoạt động này của mình, NHTM đã tạo điều kiện cho việc thanh
toán giữa các tổ chức cá nhân… được thuận tiện và đặc biệt là tiết kiệm được
chi phí cho họ cũng như tiết kiệm chi phí cho xã hội. Bởi vì việc thanh toán
qua ngân hàng được thực hiện tập trung, chuyên nghiệp và có công nghệ cao.
Và cũng qua hoạt động thanh toán NHTM thu được những lợi ích nhất định.
Ngày nay hoạt động thanh toán ngày càng phát triển tại các NHTM. Việc
thanh toán không dùng tiền mặt được các ngân hàng khuyến khích.
1.2.3 Hoạt động huy động tiền gửi.
Để có được nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư tín dụng, NHTM đã tiến
hành đã tiến hành huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Việc huy
động vốn này giúp cho NHTM có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu của nền
kinh tế. Tạo ra thu nhập cho người gửi tiền là một lợi ích mà hoạt động huy
động vốn của ngân hàng mang lại. Những người gửi tiền vào NHTM sẽ được
nhận tiền lãi, tạo thu nhập cho những khoản tiền nhàn rỗi của họ. Ngày nay để
huy động được nhiều tiền gửi, NHTM đã phát triển rất nhiều loại tiền gửi
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
7
khác nhau: Có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi
tiết kiệm…
1.2.4 Hoạt động tín dụng.
Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi nó tạo ra thu nhập chính cho
NHTM, duy trì sự tồn tại của NHTM. Đây cũng là hoạt động cơ bản và lâu
dài của NHTM. NHTM dùng những khoản vốn huy động được để cho vay đối
với nền kinh tế, nhằm giúp những người có nhu cầu có được vốn để thực hiện
quá trình sản xuất kinh doanh của mình hoặc đảm bảo các nhu cầu khác. Với
việc cho vay này NHTM đã tạo cho sự phát triển kinh tế được thông suốt và
hiệu quả. Bởi nếu không có nguồn vốn vay từ ngân hàng thì rất nhiều doanh
nghiệp không thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh được. Hầu như mọi
doanh nghiệp hiện nay đều vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động cho
vay mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng lãi vay. Càng cho vay được
nhiều thì lãi thu được càng lớn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều
rủi ro, vì vậy việc nâng cao các khoản tín dụng là mục tiêu hàng đầu, sống
còn trong hoạt động kinh doanh của mình để vừa đảm bảo có thu nhập cao
vừa an toàn, hiệu quả.
1.2.5 Tài trợ hoạt động ngoại thương
ngày nay khi mà hoạt động thương mại quốc tế ngày một phát triển, xuất
nhập khẩu giữa các nước đã diễn ra mạnh mẽ thì đòi hỏi việc thanh toán quốc
tế cũng như những hộ trợ khác cho thanh toán ngày càng nhiều. Việc đảm bảo
thanh toán cho các doanh nghiệp giữa các nước đòi hỏi một tổ chức đứng ra
phải có đủ khả năng và uy tín như NHTM mới đảm trách được. Các NHTM
giúp cho các doanh nghiệp có hoạt động đối ngoại thực hiện việc thanh toán
được hiệu quả, an toàn và đặc biệt là giảm được chi phí cho họ. Ngoài ra
NHTM còn có hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ giúp cho các doanh nghiệp có thể
thực hiện một cách thuận lợi và an toàn các hoạt động ngoại thương. Cụ thể
ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ mở L/C, séc chuyển tiền, hối phiếu…
1.2.6 Hoạt động bảo lãnh.
Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn mà đòi hỏi về vốn và
uy tín vượt qua khả năng tài chính của mình, nhưng dự án đó là có hiệu quả.
Vì vậy các doanh nghiệp này rất cần một tổ chức đứng ra bảo lãnh cho họ để
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
8
họ ký kết hoạt động thực hiện dự án. Ngân hàng chính là người bảo lãnh tốt
cho các doanh nghiệp bởi NHTM có tiềm lực về vốn và uy tín. Mặt khác,
NHTM có thể tư vấn cung cấp tiền tệ, nghiệp vụ giúp cho doanh nghiệp quản
lý tốt dự án. Hiện nay, việc NHTM bảo lãnh cho các doanh nghiệp là khách
hàng của mình ngày càng phổ biến, điều đó mang lại lợi ích cho cả hai bên:
NHTM và doanh nghiệp.
Ngoài ra NHTM còn có nhiều chức năng khác như: Dịch vụ uỷ thác, bảo
đảm an toàn vật có giá…
1.3 Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại.
1.3.1 Nghiệp vụ nợ
hoạt động của NHTM dựa chủ yếu trên nguồn vốn huy động còn nguồn
vốn tự có của NHTM là rất nhỏ, nó chỉ là tấm đệm để hạn chế những rủi ro.
Số vốn huy động tại các NHTM chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác
nhau như: lãi suất, tình hình kinh tế xã hội, cách thức gửi tiền và trả lãi, phong
tục tập quán, địa điểm và thái độ phục vụ của ngân hàng..
Các hình thức huy động bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán: Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn, có hoặc
không có lãi suất. Mục đích của người gửi tiền là để hưởng các dịch vụ của
ngân hàng phục vụ cho quá trình thanh toán của mình. Loại tiền gửi này tuy
có chi phí thấp nhưng chứa đựng rủi ro cao, do người gửi có thể rút bất kỳ lúc
nào. Tỉ lệ tiền gửi thanh toán ở Việt Nam còn thấp rất nhiều so với tỷ lệ chung
trên thế giới vì người dân nước ta vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt trong
lưu thông.
- Tiền gửi tiết kiệm: Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng lãi
suất. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không
có kỳ hạn. Các kỳ hạn do sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng.
Ngoài hai loại tiền gửi chủ yếu trên ngân hàng còn thực hiện một số hình
thức tiền gửi khác và ngân hàng không chỉ huy động vốn bằng tiền gửi mà
còn có nhiều hình thức huy động vốn khác như phát hành chứng khoán, vay
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
9
trên thị trường tiền tệ, vay từ tổ chức tín dụng khác, vay từ NHTW… Tuy
nhiên, các hình thức này không thường xuyên mà chỉ thực hiện trong những
trường hợp nhất định, bởi chứa đựng trong đó ràng buộc và điều kiện.
1.3.2 Nghiệp vụ có.
Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng dùng vốn huy
động được cùng với vốn tự có để thực hiện các hoạt động kinh doanh của
mình nhằm tạo ra nguồn thu nhập. Nghiệp vụ có của ngân hàng thể hiện ở các
hoạt động sau:
- Hoạt động ngân quỹ: Mỗi ngân hàng đều phải giữ lại một khoản
tiền tại két của Ngân hàng để phòng những trường hợp rút tiền của người gửi,
tránh được những rủi ro về thanh toán. Nên có thể nói hoạt động này đảm bảo
cho khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng. Khoản tiền bảo đảm
khả năng thanh toán của ngân hàng có thể là tiền tại két, tiền gửi NHTW,
chứng khoán, tiền mặt trong quá trình thu. Đó là những tài sản có tính thanh
khoản cao. Những tài sản này không sinh lời hoặc sinh lời thấp. Vì vậy, ngân
hàng phải điều chỉnh lượng dự trữ này sao cho hợp lý để đảm bảo khả năng
sinh lời cao, vừa đảm bảo khả năng thanh toán tốt.
- Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của ngân hàng, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao tới 60 –
70%. Mặt khác, đây cũng là hoạt động nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có thể
nói hoạt động tín dụng có mức độ rủi ro cao nhất, do đó để thực hiện có hiệu
quả hoạt động này các ngân hàng phải có những biện pháp để hạn chế những
rủi ro bằng cách quản lý chặt chẽ các khoản cho vay.
- Hoạt động thuê mua: Đây là hoạt động còn khá mới mẽ ở Việt
Nam. Đây là hình thức cung cấp tài chính cho khách hàng dưới hình thức
thuê. Hoạt động này cũng là một hình thức cấp tín dụng, nhưng nó có điểm
khác biệt là quyền sở hữu vẫn thuộc về bên cho thuê. Chỉ đến khi kết thúc hợp
đồng. Người thuê có quyền mua lại tài sản có ở mức giá thoả thuận giữa hai
bên, ấn định từ khi hợp đồng này.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp: Bên cạnh các hình thức đầu tư gián
tiếp bằng cách cấp tín dụng ở trên, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
10
vào một công trình…Hoạt động này một mặt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng,
mặt khác giúp bổ trợ cho các hoạt động khác bởi đa dạng hoá giảm rủi ro.
Cùng với việc nắm giữ chứng khoán, ngân hàng có thể đảm bảo cho khả năng
thanh toán của tài sản có sinh lời.
1.3.3 Nghiệp vụ trung gian.
Ngoài 2 nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện cung cấp các dịch vụ
khác cho khách hàng nhằm thu phí và khuyến khích khách hàng đến với ngân
hàng. Ngày nay, hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân
hàng. Các hoạt động trung gian bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán và cung cấp phương tiện thanh toán:
Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán hộ cho khách hàng và phát hành
các phương tiện nhằm phục vụ cho thanh toán như: UNC, UNT, Sec, L/C…
- Dịch vụ môi giới: Ngân hàng tổ chức mua bán, lưu ký, bảo quản
chứng khoán cho ngân hàng. Tại Việt Nam, các ngân hàng thành lập ra các
công ty chứng khoán để thực hiện hoạt động này.
- Dịch vụ ngân quỹ: Ngày nay, khi mà thị trường không dùng tiền
mặt thì hoạt động này ngày càng phát triển rộng. Ngân hàng đứng ra thu hộ và
phát tiền mặt cho khách hàng.
- Dịch vụ chuyển tiền: Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật thì dịch
vụ này ngày càng được nhiều người sử dụng.
- Dịch vụ bảo lãnh: Bằng uy tín và khả năng tổ chức của mình, ngân
hàng đứng ra bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay
vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
- Dịch vụ tư vấn: Cung cấp thông tin và hỗ trợ về mặt chuyên môn
cho khách hàng.
- Dịch vụ bảo quản.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
11
2. Lý luận chung về tín dụng
2.1. Khái niệm tín dụng
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán
chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc.
Trong mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với
nhau như sau:
- Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc;
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong
một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó.
Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung:
Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái
hay còn ngọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể
dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc,
thiết bị bất động sản.
Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời
gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoã thuận, người đi vay
phải hoàn trả cho người cho vay.
Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người
đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị tài hoá
hoặc tiền tệ và lãi suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay phải tuân thủ
nguyên tắc : Lãi suất cho vay phải chứa đựng các yếu tố như lạm phát, rủi ro
và chi phí cơ hội. Người cho vay phải chú ý đến giá trị thời gian của tiền.
Như vậy: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó
một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời
gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần
tài sản đã mượn cộng thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh -credittum- có nghĩa là sự tín
nhiệm. Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác
tin tưởng và sẳn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự
cho vay có hứa hẹn thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
12
nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động
tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín
dụng đã hình thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín
dụng nặng lãi, quan hệ tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm
chí còn tồn tại đến ngày nay. Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp
tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn,
tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng
phát triển hết sức đa dạng và phức tạp bắt đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản
ra đời. Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng đã phát triển toàn diện. Trong
thực tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng cụ thể, ví dụ:
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng
thể hiện dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái
phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng
thương mại thể hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình
thức các công ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp.
Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền
gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua...
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, chính
phủ các nước thể hiện dưới hình thức vay nợ.
Với chức năng kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại tham gia
vào quan hệ tín dụng với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành
vi này được gọi là đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành
trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các
ngân hàng khác. Ngân hàng đóng vai trò trái chủ, hành vi này được gọi là cho
vay. Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay vì thế khi nói đến tín dụng
người ta thường đề cập đến hoạt động cho vay mà bỏ quên mặt thứ hai đó là
đi vay.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
13
Quan hệ tín dụng mà ngân hàng đóng vai trò trái chủ gọi là tín dụng
ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản khi hình
thành nên các ngân hàng thương mại và đây cũng là nguồn thu chủ yếu của
các ngân hàng. Sự phù hợp về nhu cầu của hai nhà tư bản ngân hàng và nhà tư
bản sản xuất kinh doanh hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời mối quan hệ tín dụng
này. Do chuyên môn hoá trong kinh doanh và do đặc điểm của hàng hoá tiền
tệ mà hình thức tín dụng này ngày càng phát triển và trở thành hình thức tín
dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ngân hàng đã khắc phục
được những hình thức tín dụng trước đó và thực sự trở thành một yếu tố quan
trọng thúc đẩy sản xuất phát triển.
Như vậy:Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về vốn tiền tệ giữa
ngân hàng và các đơn vị kinh tế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và
các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc có hoàn trả.
2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
2.2.1. Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các
khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đơì sống thông qua
phát hành thẻ tín dụng.
Thuê mua và các loại khác.
2.2.2 . Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
14
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng
ngân hàng chiếm tỉ trọng cao nhất.
Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước
Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các
ngân hàng thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc
đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn
trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm.Tín
dụng dài hạn là loại tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây
dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dung các xí
nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho
vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại
đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó
là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài .
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng
có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có
tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với
khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có
bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu
thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế
chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
15
2.2.4 . Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng
được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và
việc thực hiện bằng các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi,
tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và
đa dạng, riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ
biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc
các công ty thuê mua( công ty con của ngân hàng)cung cấp trực tiếp tài sản
cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn
trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
2.2.5. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có
nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán. Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau:
Chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của
doanh nghiệp.. Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các
nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ
này ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người bảo lãnh không
thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để
thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên đây, mà người ta gọi hành
vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng
chữ ký bao gồm các loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng..
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
16
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm.
Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một
năm. NHTM là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các
doanh nghiệp. Các khoản vay này ít rủi ro về khả năng thanh toán cũng như
về lãi suất so với vay trung và dài hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn
thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân
chuyển và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản xuất.
3.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn.
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài
trợ vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp
không đủ trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng
ngân hàng. Nhu cầu về vốn lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản
xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng
dù nhu cầu cao hay thấp, doanh nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động
với tư cách là các khoản vay ít hay nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính
của doanh nghiệp.
Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay
ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây:
3.2.1. Tín dụng ứng trước.
Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi
của chúng thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản,
thấu chi, tín dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân chuyển)..Nhìn chung,
các khoản tín dụng ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động,
nghĩa là không thực hiện một tài sản xác định nào. Nói chung không có một
đảm bảo riêng.
Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
17
3.2.1.1. Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản.
Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng tín dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một
thời hạn nhất định.
Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho
họ một tín dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ
tiền vào đấy, mà trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân
hàng vì vậy nghiệp vụ này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể
sử dụng tài khoản này để phát hành séc chi trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều
mục đích khác.
Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của
ngân hàng đối với khách hàng mà có thể ngân hang đưa ra một trong hai hình
thức sau:
Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng.
Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh
giá khách hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm,
uy tín của sản phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản
lý.
Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ
sở có tài sản thế chấp(do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo
lãnh của một hay nhiều người khác.
3.2.1.2 . Thấu chi.
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp
đồng tín dụng hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho
phép khách hàng được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn nhất
định. Thấu chi là kỹ thuật cho vay đặc biềt mà trong đó xí nghiệp được sử
dụng vốn một cách linh hoạt, các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ
thường xuyên biến động không thể thực hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi
được xem là loại tín dụng không bảo chứng.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
18
Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu
cầu về vốn lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín
dụng thấu chi ngân hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên nhân rất
chính xác về sự phát sinh và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của
doanh nghiệp.
3.2.1.3. Tín dụng vãng lai.
Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt Nam.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do vậy việc
quy tụ những thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín dụng vãng
lai, để hiểu thêm những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị trường. Từ đó
rút ra những thích ứng với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình đổi mới
và phát triển đa dạng các loại tín dụng của NHTM.
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng
vãng lai là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của
mình : bằng bản tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử
dụng với số lượng khác nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong
hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của
khách hàng được tiến hành sau những khoảng thời gian quy định trong hợp
đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản
thống nhất của khách hàng .
3.2.1.4. Tín dụng thời vụ.
Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm
nào đó trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm
khác hoặc ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để tránh chi phí
đột biến và dàn đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành
trong một thời gian rất ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp
có nhu cầu thời vụ về tài trợ vốn lưu động và nó được thoả mản bằng tín dụng
thời vụ.
Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các
thời vụ. Dựa vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài
trợ thời vụ cụ thể của tong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
19
khác, khi có nhu cầu vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta
đưa ra nhu cầu đặc biệt về thời vụ mà nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ
được san bằng ở thời kỳ bán hàng. Vốn lưu động phải bù đắp một phần nhu
cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng suốt năm đương đầu với thời kỳ mùa
vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì chắc chắn là một doanh nghiệp
quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc không tận dụng số tư bản
thường có trong một thời kỳ của năm và mức sinh lợi của vốn này do đó cũng
phải gánh chịu những hậu quả.
3.2.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
3.2.2.1. Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong
quan hệ thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với người thụ trái
khi giấy nợ đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại.
Từ thời Trung cổ các thương phiếu đã trở thành phương tiện quan trong
trong kinh doanh ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng
được thực hiện thông qua việc chiết khấu thương phiếu:
-Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi các
thương phiếu đó được chiết khấu tại ngân hàng của họ.
-Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp khách
hàng.
Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có thể
giữ các phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân hàng
chiết khấu thương các phiếu.
-Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất
sớm và mãi đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ
biến. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân
hàng. Thời hạn cho vay ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh
khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản
của thương phiếu là hối phiếu và lệnh phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã
được chuyển giao cho người mua. Đây chính là tiền đề để người mua thực
hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Lại nữa
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
20
nghiệp vụ chiết khấu lại ở NHTW khi ngân hàng ngặp khó khăn về thanh
khoản. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho khách
hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương
phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kỷ các
hối phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.
Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn,
được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu thương
phiếu để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết khấu và
hoa hồng phí.
Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các
loại: Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua
uỷ nhiệm thu..
3.2.3. Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng.
Loại tín dụng này thực chất là một cam kết lãnh nợ do ngân hàng đưa ra
bằng việc phát hành các chứng thư bảo lãnh hoặc bảo chứng, cam kết trả thay
cho người đi vay nếu người đi vay không trả được nợ. Có trường hợp đó là
sự xác nhận khoản tín dụng đã cấp cho một thời hạn nhất định. Khi thực hiện
cho vay qua cam kết bằng chữ ký, ngân hàng không phải xuất quỹ đễ cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định, mà chỉ đưa ra một cam kết bảo
lãnh cho con nợ đối với chủ nợ. Như vậy, chỉ khi nào con nợ không trả được
nợ thì ngân hàng mới trả nợ hộ. Thông thường để thực hiện nghiệp vụ này thì
ngân hàng phải lập một quỹ bảo lãnh theo một tỷ lệ so với vốn pháp định.
Hiện nay ở Việt Nam số tiền bảo lãnh tín theo tỷ lệ phần trăm trên tổng giá trị
bảo lãnh.
3.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi
chúng ta. Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền
kinh tế, các tổ chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín
dụng ngắn hạn có vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt
Nam là một nước trong giai đoạn đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng
có vai trò quan trọng. Nó thể hiện:
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
21
3.3.1. Đối với nền kinh tến
Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh
chuyển vốn từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu
quả trong nền kinh tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài
chính đó là các nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh
tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị
trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài chính.. Hoặc là
thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những ngồn vốn và các giấy tờ có
giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và cung cấp một nguồn
một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn hạn ngày càng
phát triển mạnh mẽ.
3.3.2. Đối với các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt
động kinh doanh được liên tục
Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản
chi của một doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế
có những thời điểm trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm
thời và cần bổ sung ngay để đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối với các
doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế
biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây
lắp..hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản tín
dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản
xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn đối với
các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh
nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả.
Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau
một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
22
lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải
hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của
doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có
thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ
đứng trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì
phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp
đồng ứng trước để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội
kinh doanh. Do tính chất của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi
kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh
nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho ngân hàng.
Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được
nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển
doanh nghiệp.
3.3.3. Đối với ngân hàng.
Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo
nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để
tạo nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt
động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các
vấn đề : Phải tạo được nguồn thu bù đắp được các chi phí( chi phí huy động
vốn, chi phí trả lương, chi phí quản lý... Mặt khác phải đảm bảo khả năng
thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị
giải quyết vấn đề này.
3.4. Các quy định trong hoạt động tín dụng ngắn hạn.
3.4.1. Nguyên tắc tín dụng:
Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc
sau:
-Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
23
-Phải hoàn trả nơ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
-Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện đúng quy định của chính phủ và
ngân hàng nhà nước.
3.4.2. Điều kiện vay vốn.
Ngân hàng sẽ xem xét và quyết định cho khách hàng vay khi khách hàng
có đủ các điều kiện:
*Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu quy định
của pháp luật.
*Có khả năng đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Cụ thể :
-Đối với pháp nhân phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, cá
nhân, công ty hợp danh, mức vốn tự có tham gia trực tiếp vào phương án sản
xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống tối thiểu bằng 20% nhu cầu vốn thực hiện
phương án.
-Sản xuất kinh doanh có lãi hoặc không bị lỗ, nếu bị lỗ thì phải có dự án
khả thi khắc phục hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận bù lỗ.
-Có tình hình tài chính lành mạnh.
-Khách hàng phải mua bảo hiểm tài sản là đối tượng vay vốn.
*Mục đích sử dụng vốn hợp pháp.
*Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi.
*Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay của NHNN.
3.4.3. Đối tượng cho vay.
*Giá trị vầt tư hàng hoá trong các khâu dự trữ, lưu thông và các chi phí
cấu thành giá mua hoặc giá thành sản phẩm, các khoản chi phí khác để doanh
nghiệp tiến hành phương án sản xuất kinh doanh.
*Số tiền thuế xuất nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất
khẩu mà giá trị lô hàng xuất khẩu đó tổ chức tín dụng có tham gia cho vay.
Ngân hàng không cho vay ngắn hạn để nộp khấu khao, nộp thuế và phần lãi
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
24
định mức(đối với các xí nghiệp xây lắp). Những vầt tư hàng hoá là những đối
tượng vay vốn có khả năng luân chuyển. Ngân hàng không cho vay vốn để
mua vật tư, hàng hoá ứ đọng hoặc để thực hiện những khối lượng thi công
ngoài kế hoạch vốn đầu tư của Nhà Nước đã ghi, ngoài thiết kế dự án hoặc
nguồn vốn chưa rõ nguồn vốn đầu tư.
3.4.4. Thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với các chu kỳ sản xuất kinh
doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, nhưng tối đa không quá 12 tháng.
3.4.5. Lãi suất cho vay.
Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù
hợp với quy định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp
đồng tín dụng. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm công bố công khai các mức
lãi suất cho vay cho khách hàng biết. Tuỳ các mức độ quan hệ của ngân hàng
và khách hàng mà có các mức độ ưu tiên về lãi suất khác nhau. Nếu khoản
vay quá hạn trả nợ thì phải áp dụng lãi suất quá hạn.
Phương pháp xác định lãi suất cho vay được xác định trước khi cho vay
dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản.
Tại Việt Nam lãi suất cho vay ngắn hạn do tổng giám đốc tổ chức tín
dụng ấn định trong phạm vi khung lãi suất do NHNN ấn định trong từng thời
kỳ.
3.4.6. Mức cho vay:
Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho
vay tối đa so với giá trị tài sản làm bảo đảm tiền vay, khả năng trả nợ của
khách hàng và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay
nhưng không được vượt quá mức quy định tại điều 79 của Luật các tổ chức
tín dụng.
Ngân hàng xây dựng mức cho vay đối với tong doanh nghiệp trên cơ sở
vốn vay chỉ bổ sung cho vốn lưu động thiếu, sau khi doanh nghiệp đã tận
dụng hết vốn tự có. Các nguồn vốn khác bao gồm cả vốn được các chủ đầu tư
ứng trước khi doanh nghiệp trúng thầu.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
25
Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có nguồn thu ổn định,
tình hình tài chính lành mạnh, có quan hệ vay vốn thường xuyên và có tín
nhiệm đối với khách hàng, ngân hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là giới hạn dư nợ tối đa mà ngân hàng cam kết cho khách
hàng vay trong một thời hạn nhất định và được xác định như sau:
Chi phí cần thiết cho
quá trình hoạt động
kinh doanh quý kế
hoạch.
Mức vốn
vay quý
=
Vòng quay VLĐ quý
-
Vốn tự có
và coi
như tự có
-
Các
khoản
Huy động
khác.
-
Vốn ứng
trước của
chủ đầu
tư
1. Chi phí cần thiết để sản xuất kinh doanh quý, kỳ hoặc thời vụ kế
hoạch là giá trị sản lượng thực hiện trong quý, kỳ hoặc thời vụ chuẩn bị làm
loại trừ đi các khoản khấu hao, thuế, lãi định mức và các khoản không thuộc
đối tượng cho vay khác.
2. Là vốn lưu động tự có của khách hàng.
Ngoài ra hạn mức tín dụng dựa trên cơ sở:
-mức dư nợ cao nhất
-mức cho vay tối đa theo quy định của pháp luật
-mức cho vay tối đa theo quyết định của chính sách tín dụng mỗi ngân
hàng thương mại.
-Đảm bảo tiền vay.
Đối với những doanh nghiệp có nguồn thu không thay đổi, các doanh
nghiệp doanh nghiệp có quan hệ không thường xuyên với ngân hàng, các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình.. .ngân hàng thường áp dụng cho
vay từng món trên cơ sở thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, ngân hàng
xác định được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và quyết định mức cho vay,
thời hạn, phương thức trả nợ đối với từng doanh nghiệp cụ thể. Mức cho vay
được xác định:
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
26
Mức vốn
vay
=
Tổng nhu
cầu vốn vay
-
Vốn tự
huy động
-
Vốn tự có và coi
như tự có.
3.4.7. Giải ngân và thu nợ.
Tuỳ theo nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong từng thời điểm và những
điều kiện cụ thể khác mà ngân hàng thực hiện giải ngân theo đúng kế hoạch
thoả thuận.
Khi đến hạn ngân hàng tiến hành thu nợ đối với các khoản cho vay.
Doanh nghiệp có trách nhiệm trả nợ theo phương thức thoả thuận và đúng
hạn.
Nếu doanh nghiệp không tự động trả nợ khi đến hạn thì ngân hàng tự
động trích tiền gửi của khách hàng hoặc gửi giấy báo nhờ ngân hàng mà
khách hàng có tài khoản thu hộ. Trong trường hợp đến hạn mà doanh nghiệp
không trả được nợ và không được gia hạn nợ thì ngân hàng chuyển sang nợ
quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn.
3.4.8. Quy trình cho vay ngắn hạn.
Cũng như các loại hình cho vay khác, cho vay ngắn hạn tuân theo một
quy trình nhất định từ khâu thẩm định khách hàng, xét duyệt cho vay, ký kết
hợp đồng cho đến giải ngân và thu nợ.
Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay
vốn.
Khi khách hàng đến đề xuất yêu cầu vay vốn, cán bộ tín dụng hướng dẫn
khách hàng cụ thể và đầy đủ về các điều kiện vay vốn. Nếu khách hàng đồng
ý thì hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.
Hồ sơ vay vốn gồm :
-giấy tờ chứng nhận về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân.
-giấy đề nghị vay vốn
-phương án sản xuất kinh doanh và phương án trả nợ.
-các báo cáo tài chính thời điểm gần nhất(bảng tổng kết tài sản và bảng
quyết toán lỗ lãi). Nếu là doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi phải có kiểm toán.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
27
-hợp đồng thế chấp, bảo đảm, cầm cố tài sản và các giấy tờ gốc chứng
nhận sở hữu đối với tài sản thế chấp, bảo đảm, cầm cố, bảo lãnh.
-các giấy tờ khác liên quan đến việc vay vốn: Hợp đồng mua bán hàng
hàng hoá dịch vụ; giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc cota nhập khẩu.
Bước 2: Điều tra, tổng hợp, thu thập các thông tinvề khách hàng và
phương án vay vốn.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ, để quyết định cho vay hay từ chối khoản vay
cán bộ tín dụng phải điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông
tin về khách hàng bao gồm: Thông tin do khách hàng cung cấp(qua phỏng
vấn, từ hồ sơ vay vốn và sổ sách kế toán, báo cáo tài chính) và thông tin do
cán bộ tín dụng tự điều tra.
Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
Nội dung cơ bản của bước này tập trung vào hai vấn đề chủ yếu:
-phương án vay vốn phải đầy đủ các điều kiện cho vay, đảm bảo khả
năng cho vay thu được gốc và lãi đúng hạn.
-hồ sơ, thủ tục vay vốn phải đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp, nếu xảy ra tranh
chấp, tố tụng thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng.
*Các vấn đề thẩm định bao gồm:
-năng lực pháp lý của khách hàng.
-tính cách và uy tín của khách hàng
-năng lực tài chính của khách hàng: Đánh giá chính xác năng lực tài
chính của khách hàng nhằm xác định sức mạnh tài chính, khả năng độc lập tài
chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng trả nợ của khách
hàng. Ngoài ra, xác định nhu cầu thực sự vay của khách. Dựa vào báo cáo tài
chính, cán bộ tín dụng tính các chỉ tiêu để đánh giá tình hình tài chính của
khách hàng.
-phương án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng: Đánh giá mức
độ khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và tính toán chính xác nguồn
trả nợ cuả khách hàng.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
28
-đánh giá các bảo đảm tiền vay của khách hàng(tài sản thế chấp, cầm cố,
bảo lãnh);kiểm tra tính pháp lý, quyền sở hữu của khách hàng đối với những
tài sản này.
-phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương
án vay vốn trả nợ vốn của khách hàng.
Bước 4: Quyết định cho vay.
Sau khi xem xét, thẩm định hồ sơ vay vốn thấy thoả mản các điều kiện
và nguyên tắc, ngân hàng quyết định cho vay đối với ngân hàng.
Bước 5: Kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp
cầm cố.
Bước 6: Phát tiền vay(giải ngân): Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng
vay vốn, tuỳ theo mục đích sử dụng tiền vay; phương thức thanh toán có liên
quan đến tiền vay để ra quyết định hình thức phát tiền phù hợp.
Cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng lập chứng từ gồm bảng kê(như hợp
đồng mua bán hàng hoá, hoá đơn) uỷ nhiệm chi, séc chuyển tiền. Tiền vay
được chuyển trả trực tiếp cho đơn vị cung cấp vật tư, hàng hoá và chỉ phát
tiền mặt hoặc phát ngân phiếu thanh toán cho đơn vay khi người cung cấp
không có tài khoản tại ngân hàng.
Bước 7: Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro.
- Giám sát và theo dõi nhằm kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch trả nợ
và khả năng trả nợ và khả năng thực hiện, phát hiện dự báo những rủi ro có
thể phát sinh; phát hiện sớm những khoản vay có vấn đề trước khi trở nên
nghiêm trọng nhằm đề xuất giải quyết xử lý kịp thời.
- Cán bộ tín dụng mở sổ theo dõi doanh nghiệp đến tong khế vay, diễn
biến dư có trên tài khoản tiền gửi để thu nợ đúng hạn.
- Phân tích các báo cáo tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh mới
nhất của khách hàng. Đối với khách hàng có dư nợ lớn, định kỳ 6 tháng và 1
năm, cán bộ tín dụng phải phân tích toàn diện hoạt đồng sản xuất kinh doanh,
tài chính của doanh để áp dụng các biện pháp cho vay, thu nợ, quản lý tín
dụng theo các loại doanh nghiệp phù hợp.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
29
- Phân tích, đánh giá, xếp loại các danh mục nợ quá hạn, khó đòi, nợ có
vấn đề để có biện pháp xử lý.
Bước 8: Thu hồi nợ, gia hạn nợ.
- Căn cứ vào khế ước nhận nợ, trước kỳ hạn thu nợ 5 ngày, cán bộ tín
dụng lập phiếu báo thu nợ trình giám đốc gửi cho doanh nghiệp vay vốn.
- Các khoản nợ có vấn đề, khách hàng có đơn đề nghị được gia hạn nợ,
giãn nợ, cán bộ tín dụng them định, kiểm tra rồi lập tờ trình cho giám đốc
xem xét và quyết định.
- Các khoản nợ đến hạn mà không trả được, không được gia hạn, giãn
nợ, khoanh nợ.. thì áp dụng các biện pháp kiên quyết đê thu hồi nợ.
Bước 9 : Xử lý rủi ro.
Những khoản nợ đã dùng mọi biến pháp giải quyết nhưng không thu hồi
được thì phải tiến hành xử lý rủi ro theo quyết định bằng quỹ dự phòng rủi ro
tín dụng của ngân hàng.
Bước 10: Thanh lý hợp đồng vốn.
Sau khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi hoặc dư nợ vay đã được xử lý
bằng quỹ rủi ro hoặc xoá nợ, cán bộ tín dụng và cán bộ kế toán đối chiếu, tất
toán tài khoản cho vay của món nợ đó. Chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan đến
khoản vay vào kho lưu trữ tài liệu.
4. Chất lượng tín dụng và tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng ngắn
hạn của NHTM.
4.1.Khái niệm.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân
ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái của nền kinh tế. Bởi vì
ngân hàng giống như một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó là
một lĩnh vực rất nhạy cảm và rủi ro rất cao. Trong các nghiệp vụ của ngân
hàng thì có lẽ tín dụng là một nghiệp mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân
hàng nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Ngay cả khi khoản vay có
tài sản thế chấp, cầm cố thì rủi ro vẫn xảy ra với tỷ lệ cao khoảng 50%(theo
uỷ ban Bale quốc tế). Sẽ là sai lầm nếu quan niệm cho vay có tài cầm cố thế
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
30
chấp, nhưng không quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất, trong khi đó kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng mới là
quan trọng nhất đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng.
Chất lượng tín dụng được nhìn nhận từ các giác độ:
Chất lượng tín dụng được xét dưới giác độ doanh nghiệp: Do nhu cầu
vốn vay được đáp ứng để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh bù đắp được chi phí sản xuất, trả nợ ngân hàng và có lãi nên chất lượng
tín dụng ngân hàng đứng trên góc độ doanh nghiệp chỉ đơn giản là thoả mãn
nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và làm cho đồng vốn sử dụng có hiệu quả.
Xét dưới giác độ ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi,
mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng
tích cực của bản thân ngân hàng và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị
trường đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Khi cho vay ngân
hàng phải thực hiện theo pháp lệnh ngân hàng và các văn bản chế độ hiện
hành của nghành. Xác định đối tượng cho vay và them định kỹ khách hàng
trước khi cho vay, nắm bắt thông tin và hiểu được tình hình sản xuất kinh
doanh, khả năng tài chính và mục đích sử dụng vốn vay, cơ sở hoàn trả vốn
vay để đảm bảo món vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế
mức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra, đây là nguyên tắc cơ bản nhất đối
với ngân hàng.
Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế -xã hội: Tín dụng ngân
hàng trong những năm gần đây phản ánh rỏ rệt sự năng động của nền kinh tế
khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng phải huy động
mức tối đa vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội để cung ứng
cho các doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Tín dụng đầu tư
cho nền kinh tế tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ làm tăng thêm
sản phẩm cho xã hội, tạo thêm việc làm cho người cho người lao động, góp
phần tăng trưởng kinh tế và khai thác mọi khả năng tiềm tàng, tích tụ vốn
nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho kinh tế phát
triển.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng đảm bảo được chất lượng thì khả năng thanh toán chi trả
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
31
cao, tránh được rủi ro hệ thống. Nâng cao chất lượng tín dụng làm cho hệ
thống ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh
tế phát triển hoà nhập với thế giới.
Qua đó ta có thể rút ra rằng:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể(thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán được), vừa trìu tượng(thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng,
tác động đến nền kinh tế..). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân
tố chủ quan(khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp
vụ..)và khách quan(sự thay đổi của môi trường kinh tế, do chủ quan của
khách hàng..)
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
cạnh tranh của một ngân hàng trong môi trường hoạt động.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: Thu hút được
nhiều khách hàng tốt, cho vay được nhiều, thủ tục đơn giản, mức độ an toàn
của vốn tín dụng..
Chất lượng tín dụng không phải tự nhiên mà có, nó là kết quả của một
quy trình kết hợp giữa các con người trong một tổ chức; giữa các tổ chức với
nhau vì một mục đích chung: An toàn, hiệu quả và khả năng cạnh tranh với
các khoản tín dụng.
Như vậy, chất lượng tín được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân
hàng và yếu tố bên ngoài. Để tránh rủi ro và thu được lợi nhuận trong hoạt
động tín dụng, không có cách nào khác là ngân hàng phải nâng cao chất lượng
tín dụng của mình.
4.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
Xu hướng cho vay cho thấy rằng cơ hội cho vay của các ngân hàng đối
với các khách hàng có rủi ro thấp đã giảm. Các giấy tờ thương mại, chứng
khoán và cạnh tranh phi ngân hàng đã đẩy ngân hàng sang các loại khách
hàng có độ rủi ro cao hơn thay thế những khách hàng truyền thống. Ví dụ:
những người vay là doanh nghiệp lớn và ổn định đã từng có quan hệ trong
danh mục cho vay của ngân hàng đã chuyển sang các nguồn thị trường mở
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
32
như thị trường như thị giấy tờ thương mại và trái phiếu nhằm giảm chi phí
giao dịch của họ. Các ngân hàng đã tìm cách thay thế đối tượng khách hàng
này bằng những khách hàng vay nhỏ và kém ổn định hơn. Như vậy, do các
khoản mục cho vay ngày càng ngày càng có độ rủi ro cao hơn và không ổn
định do tính chất cạnh cao và không ổn định của nền kinh tế. Do vậy việc
đánh giá chất lượng tín dụng đối với một ngân hàng là hết sức quan trọng. Bởi
chất lượng tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động của ngân hàng tốt hay xấu,
làm cơ sở để để đánh giá ngân hàng. Mặt khác, việc đánh giá chất lượng tín
dụng cũng giúp cho ngân hàng có những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt
động để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Việc nâng cao chất lượng tín
dụng không những làm cho ngân hàng tăng thu nhập mà còn giúp ngân hàng
được an toàn. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng mang tính khoa học,
nó vừa cụ thể vừa trừu tượng nên để đánh giá chất lượng tín dụng người ta
dựa vào 2 hệ thống chỉ tiêu: Chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
4.2.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà
khách hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số
tiền đó và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển
thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này(cao
hơn lãi suất thông thường). Đây là những khoản những khoản nợ có độ rủi ro
cao và ngân hàng có khả mất vốn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở
nợ quá hạn, người ta người ta thường thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ đầu
tư rủi ro:
Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn Tỷ lệ nợ quá hạn
ngắn hạn
=
Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn
X 100%
Tổng dư nợ món vay có phát sinh nợ quá hạn Tỷ lệ đầu tư rủi
ro
=
Tổng dư nợ cho vay
Hai chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
33
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng là tất nhiên. Do đó nợ quá hạn của ngân hàng là tất yếu. Tuy nhiên, để
đảm bảo an toàn, sinh lời và tăng khả năng cạnh tranh ngân hàng phải cố gắng
giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu trên rất quan trọng để đánh giá chất
lượng tín dụng ngắn hạn.
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị
khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét món vay mà phát
sinh nợ quá hạn.
Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân
hàng, một ngân hàng có chính sách tốt là phải thiết lập quỹ dự phòng rủi ro đủ
mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không đủ khả năng thu hồi, để
tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có
khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm
trọng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thực hiện xoá nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này
sẽ ở mức thấp nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn. Thông thường khi lập
bảng theo dõi nợ quá hạn ngân hàng thường phân nợ quá hạn theo thời gian:
30, 60, 90, 120 ngày. Sự phân loại phân loại này có ý nghĩa đối với việc quản
lý chất lượng tín dụng và đánh giá để thiết lập dự phòng mất vốn.
Tổng dư nợ quá hạn được xoá nợ
Tỷ lệ mất vốn =
Dư nợ bình bình quân
Tỷ lệ này lệ này càng nhỏ càng tốt.
Những khoản nợ quá hạn, nếu khách hàng tiếp tục không trả được nợ thì
ngân hàng thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro. Khi món
nợ được xoá thì các nỗ lực thu hồi vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế.
Xoá nợ đơn giản là một phương pháp quản lý tài chính của ngân hàng chứ
không phải là sự thừa nhận về mặt pháp lý rằng người vay không còn nợ ngân
hàng nữa.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
34
Dự phòng mất vốn
Tỷ lệ dự phòng =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt
Tỷ lệ này được hình thành dựa trên tỷ lệ vỡ nợ trước đây, tỷ lệ chỉ ra %
dư nợ được dự đoán là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ dự phòng mất vốn
liên quan đến tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định và tỷ lệ mất vốn.
Tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định đại diện cho khoản trích lập
mất vốn được xoá nợ một thời kỳ. Tỷ lệ mất vốn tính trên tổng giá trị các
khoản nợ quá hạn được xoá trong một thời kỳ.
-Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua lợi nhuận thu
được từ cho vay ngắn hạn. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả của hoạt động tín
dụng ngắn hạn.
Lợi nhuận tín dụng ngắn hạn
Tỷ lệ sinh lời ngắn hạn =
Dư nợ tín dụng ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay ngắn hạn.
Tỷ lệ sinh lời cao chứng tỏ khoản cho vay đó có hiệu quả, có chất lượng cao.
Để đạt tỷ lệ sinh lời cao thì việc thu nợ và giải quyết nợ quá hạn tốt. Tỷ lệ này
cao một phần nói lên kết quả kinh doanh tốt của ngân hàng, điều này rất quan
trọng vì doanh thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng.
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn.
Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng ngân hàng càng
nhanh, điều này cũng chứng tỏ việc thu hồi nợ nhanh và đúng hạn do đó tỷ lệ
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
35
này cao cũng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt. Mặt khác
vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền
kinh tế nhanh, ngân hàng đã tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Với một lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín
dụng nhanh nên ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của doanh
nghiệp trong phát triển kinh doanh.
Chi phí cho vay ngắn hạn:
Chi phí cho vay ngắn hạn Chi phí cho một đồng
vốn cho vay ngắn hạn
=
Tổng doanh số cho vay ngắn hạn
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Tỷ lệ này phản ánh hiệu quả của việc giải
ngân vốn. Chi phí cho vay ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm chi
phí đầu vào như chi phí trả lãi huy động vốn, chi phí bảo hiểm.. Chi đầu ra
bao gồm chi phí để trả lương công nhân, chi phí quản lý.. Tuy nhiên trong
một số trường hợp chỉ số này không phản ánh đúng thực tế: nếu chi phí cho
vay tăng trong khi đó danh mục đầu tư không tăng thì tỷ lệ này sẽ lớn, ngược
lại nếu có nhiều món vay ngắn hạn được thực hiện trong một thời kỳ( dẫn đến
doanh thu cho vay và doanh số cho vay tăng một kỳ) thì chi phí cho một đồng
vốn sẽ giảm.
Hiệu suất sử dụng nguồn vốn ngắn hạn:
Dư nợ ngắn hạn Hiệu suất sử dụng
nguồn vốn ngắn hạn
=
Nguồn vốn ngắn hạn
Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân
hàng, liệu ngân hàng đã sử dụng hết khả năng của mình trong cho vay ngắn
hạn hay chưa?
- Chỉ tiêu dư nợ, doanh số cho vay:
Dư nợ ngắn hạn Tỷ lệ dư nợ tín dụng
ngắn hạn
=
Tổng dư nợ
(%)
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
36
Doanh số cho vay Tỷ lệ doanh số cho
vay ngắn hạn
=
Tổng doanh số cho vay
(%)
Hai chỉ tiêu này cho biết cơ cấu dư nợ và cơ cấu doanh số cho vay của
tín dụng ngắn hạn trong tổng dư nợ và tổng doanh số cho vay. Từ đó có thể so
sánh hiệu quả hoạt động tín dụng ngắn hạn với các loại tín dụng trung và dài
hạn
- Chỉ tiêu xử lý nợ:
Số tiền thu nợ do bán tài sản của KH Tỷ lệ thanh toán nợ do
bán tài sản của KH
=
Tổng doanh số thu nợ
Để thu hồi nguồn vốn của mình ngân hàng có hai nguồn để thu đó là, từ
hoạt động kinh doanh của ngân hàng nếu khách hàng làm ăn thua lỗ thì ngân
hàng có nguồn thu thứ hai đó là tài sản thế chấp, cầm cố và bảo hiểm. Khi đến
hạn nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng có thể phát mãi tài sản.
Như vậy nếu tỷ lệ này lớn thì không thể đánh giá chất lượng tín dụng của
ngân hàng cao được, kể cả trường hợp số tiền bán tài sản thu được nợ.
4.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính.
Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ tiêu có thể
lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được. Các
chỉ tiêu định tính được qua quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, qua độ thoả mãn
của khách hàng đối với sản phẩm của khách hàng, độ tín nhiệm của khách
hàng đối với ngân hàng.
4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của
NHTM.
NHTM là một chủ thể trong nền kinh tế và có quan hệ mật thiết với sự
phát triển của nền kinh tế. NHTM có quan hệ rất rộng với nền kinh tế, do đó
để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thì chúng ta phải hiểu biết về
những nhân tố tác động đến nó. Những nhân tố tác động đến chất lượng tín
dụng ngân hàng bao gồm những nhân tố chủ quan và những nhân tố khách
quan. Các nhân tố này được chia thành 3 nhóm:
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
37
4.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng.
Khả năng thẩm định cho vay:
Thẩm định cho vay là khâu quan trong hoạt động tín dụng và ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng tín dụng. Thẩm định đó là khâu đánh giá, dự đoán,
thẩm tra về độ chính xác, an toàn và hiệu quả của một hợp đồng tín dụng. Mặt
dù không chính xác tuyệt đối nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc
thu hồi cả vốn và lãi đầy đủ khi khoản vay đến hạn thanh toán. trong quá trình
them định yêu cầu phải có trình độ chuyên môn và sự phán đoán linh hoạt,
tuy nhiên phải tuân thủ nghiêm ngặt về hồ sơ và an toàn thông tin.
Đặc biệt đối với những khoản vay ngắn hạn, do tính đặc thù của hoạt
động này là cho vay thường xuyên nhằm đáp ứng kịp thời vốn lưu động cho
các doanh nghiệp do đó them định phải nhanh chóng kịp thời nhưng phải
chính xác bảo đảm an toàn cho đồng vốn bỏ ra.
Chất lượng cán bộ tín dụng:
Để đảm bảo chất lượng tín dụng được nâng cao thì đòi hỏi nhiều yếu tố,
trong đó con người là nhân tố trung tâm, là yếu tố quyết định sự thành bại
trong quản lý vốn, tài sản của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thì hoạt động của ngân hàng cũng càng ngày càng tinh vi và phức tạp đòi
hỏi cán bộ ngân hàng có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn để lĩnh
hội và ứng dụng khoa học tiên tiến. Trình độ cán bộ quản lý điều hành và cán
bộ tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Khách hàng của
ngân hàng rất đa dạng do đó trình độ cán bộ tín dụng phải cao và hiểu biết
phong phú để đánh giá được một khoản cho vay.
Vấn đề thông tin tín dụng:
Trong nền kinh tế mở thì thông tin là một yếu tố rất quan trọng, là một
kho tàng quý báu cho những ai biết cập nhật và sử dụng hiệu quả thông tin.
NHTM hoạt động trong một lĩnh vực rất nhạy cảm đối với nền kinh tế và đầy
tính rủi ro do đó thông tin càng cực kỳ quan trọng. Đối với nghiệp vụ tín
dụng, ngân hang thường không đủ về thông tin về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro
kèm theo với dự án mà người vay định tiến hành. Việc thiếu thông tin tạo ra
sự lựa chọn đối nghịch, đó là hiện tượng người vay tạo ra một kết cục không
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
38
mong muốn – rủi ro không trả được nợ. Do vậy nắm bắt không đầy đủ chính
xác về thông tin sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Kiểm soát nội bộ:
Các quy chế, thể lệ cho vay và các nguyên tắc cho vay nếu cán bộ ngân
hàng không nắm vững sẽ gây nên tổn thất, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Do đó, công tác kiểm soát nội bộ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo
đúng cơ chế, đúng pháp luật, mặt khác nắm được sai sót lệch lạc trong hoạt
động tín dụng có biện pháp khắc phục kịp thời.
4.3.2. Các nhân tố thuộc về khách hàng.
Khách hàng người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc có nhiều khách
hàng đủ điều kiện vay, sử dụng vốn vay hợp lý, hiệu quả, thanh toán nợ và lãi
đúng hạn sẽ làm cho chất lượng tín dụng được nâng cao. Những yếu tố từ
ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là :
Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong sản xuất kinh doanh phải có mọi phương án và tính đến mọi yếu
tố có liên quan như vật liệu được cung cấp từ đâu, điều kiện giao thông vận
tải có thuận lợi không, cơ sở hạ tầng như thế nào, hàng làm ra có tiêu thụ và
cạnh tranh được không vv... Những điều đó cán bộ kinh doanh không hiểu
biết sẽ dẫn tới làm ăn thua lỗ. Như vậy khi năng lực quản lý kinh doanh bị
hạn chế thì các phương án sản xuất kinh doanh là không phù hợp với thực tế
do đó khả năng trả nợ của doanh nghiệp kém ảnh hưởng xấu tới chất lượng
tín dụng.
Khả năng điều kiện hiện tại của các doanh nghiệp:
Hiện nay hầu hết các khách hàng thiếu các điều kiện cần và đủ để thực
hiện các nguyên tắc và quy định cho vay thế chấp của ngân hàng. Theo pháp
lệnh thì khi khách hàng vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và
thực hiện đúng chế độ hạch toán kinh tế. Trên thực tế 80% các pháp nhân và
thể nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và 100% tài sản của doanh nghiệp
nhà nước không có chứng nhận sở hữu. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước vốn
tự có rất bé. Trong khi đó chức năng nhiệm vụ trong giấy phép kinh doanh là
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
39
rất lớn, yêu cầu vay vốn gấp 20-50 lần vốn tự có. Thực tế nhiều bộ phận
khách hàng khi vay không thực hiện đúng pháp lệnh về cho vay. Điều đó làm
cho không có một ràng buộc pháp lý nào giữa ngân hàng và khách hàng và
làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Tuy nhiên xem xét từ khía cạnh trả nợ của khách hàng thì hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới là quan trọng. Khả năng trả nợ của
ngân hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngắn hạn,
bởi vì đặc trưng của tín dụng ngắn hạn là thời gian khoản vay ngắn, do đó
việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng là rất quan trọng. Do đó để đảm
bảo chất lượng tín dụng, ngân hàng chỉ bỏ vốn vào những dự án khả thi, phù
hợp với tình hình tài chính, điều kiện thực tế của doanh nghiệp để có thể thu
được lợi nhuận.
Đạo đức của người vay:
Các ngân hàng sẽ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thậnyếu tố
liên quan đến tính chân thật của người vay trong việc trả nợ. Tuy nhiên tính
chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi mon cho
vay đã được thực hiện. Rủi ro đạo đức xảy ra khi khách hàng sử dụng món
vay vào mục đích khác nhiều rủi ro hơn. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng
tín dụng.
4.3.3. Các nhân tố thuộc về môi trường.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền
kinh tế. Từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt
động ngân hàng. Lạm phát, suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, thuế... đều ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Nền kinh
tế nước ta đang trong giai đoạn đổi mới và đạt được nhiều kết quả khích lệ.
Tuy nhiên còn một số những khó khăn doanh nghiệp chuyển hướng và điều
chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp hoặc không phù hợp với
sự thay đổi của chính sách, cơ chế vĩ mô. Do vậy doanh nghiệp gặp những
khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hàng hoá tồn đọng, thua lỗ kéo dài, mất
khả năng thanh toán làm phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi điều này ảnh hưởng
xấu đến chất lượng tín dụng.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
40
Cùng với sự thay đổi của môi trường kinh tế thì môi trường pháp lý thay
đổi cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng.
4.4. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân
hàng.
Trên thế giới có nhiều cách đánh giá khác nhau về chất lượng tín dụng
ngân hàng. Nhưng tại Việt Nam hiện việc quy định tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu
định lượng như đã trình bày rất khó, do đó chỉ mang tính tương đối. Các
phương pháp sử dụng:
Phương pháp định lượng:
Đây là phương pháp sử dụng các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày ở
mục 3.2.1 như tỷ lệ nợ quá hạn, cơ cấu vốn đầu tư, tỷ lệ thanh toán nợ do bán
tài sản của người vay, chỉ tiêu quay vòng vốn tín dụng... Nghiên cứu cụ thể và
đem ra được một tiêu chuẩn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay là một điều cần thiết. Hiện tại sử dụng các chỉ tiêu này mới chỉ
phần nào đánh giá chất lượng tín dụng trên những con số. Do đó ta cần đánh
giá chất lượng tín dụng trên phương pháp khác.
Phương pháp chuyên gia:
Đây là phương pháp nhằm đánh giá những yếu tố trừu tượng như: trình
độ cán bộ tín dụng, nghiệp vụ tín dụng, việc đánh giá này phải được căn cứ
trên tiêu chuẩn nhất định để có được tính đồng nhất trong toàn hệ thống,
thuận lợi khi so sánh chất lượng tín dụng các kỳ.
Thông thường để đánh giá đúng đắn chất lượng tín dụng của một ngân
hàng người ta sử dụng thang điểm cho từng chỉ tiêu đánh giá. Nếu sử dụng
thang điểm 100 căn cứ vào mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu. cuối cùng ta
tính tổng điểm cho chất lượng tín dụng như sau:
CLTD = Dct1 + Dct2 + Dct3 + .. ..Dctn
Trong đó Dct1,2,3.. điểm cho chỉ tiêu 1,2,3...
Nếu tổng điểm CLTD <= 35 điểm đạt loại C.
Nếu tổng điểm CLTD từ 36 đến 65 điểm đạt loại B.
Nếu tổng điểm CLTD từ 66 điểm trở lên đạt loại A.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
41
Rỏ ràng dùng hai phương pháp trên vẫn chưa đánh giá chính xác chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Do đó cần nghiên cứu ra những phương pháp
đánh giá chất lượng tín dụng hiệu quả hơn để đảm bảo đảm an toàn, hiệu quả
cho ngân hàng cũng như nền kinh tế.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
42
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn
hạn tại ngân hàng công thương chi nhánh hai bà
trưng.
1. Khái quát về ngân hàng công thương chi nhánh Hai Bà Trưng.
1.1. Nhiệm vụ, chức năng và bộ máy tổ chức.
Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng là một chi nhánh của
NHCT Việt Nam.Sau khi thực hiện nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988
của hội đồng bộ trưởng về tổ chức bộ máy NHNN Việt Nam chuyển sang cơ
chế ngân hàng hai cấp,từ một chi nhánh NHNN cấp quận và một chi nhánh
ngân hàng kinh tế cấp quận thuộc địa bàn quận Hai Bà Trưng,trực thuộc
NHNN thành phố Hà Nội chuyển thành các chi nhánh NHCT khu vực I và II
quận Hai Bà Trưng trực thuộc chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thuộc
NHCT Việt Nam. Tại quyết định số 93/NHCT-TCCB ngày 1/4/1993 của
tổng giám đốc NHCT Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHCT trên địa
bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của NHCT Việt Nam, bỏ cấp thành
phố, hai chi nhánh NHCT khu vực I và II Hai Bà Trưng là những chi nhánh
trực thuộc NHCT Việt Nam được tổ chức hạch toán kinh tế và hoạt động như
các chi nhánh NHCT cấp tỉnh, thành phố.Kể từ ngày 1/9/1993,theo quyết định
của tổng giám đốc NHCT Việt Nam, sáp nhập chi nhánh NHCT khu vựcI vào
chi nhánh NHCT khu vực II Hai Bà Trưng. Như vậy kể từ ngày 1/9/1993 trên
địa bàn quận Hai Bà Trưng(Hà Nội) chỉ còn duy nhất một chi nhánh NHCT.
Nhiệm vụ chủ yếu của chi nhánh công thương II- Hai Bà Trưng là hoạt động
trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng.
Hiện nay: Chi nhánh có trụ sở chính tại 285 Trần Khát Chân và 2 phòng
giao dịch đặt tại chợ Hôm và chợ Trương Định, bên cạnh đó chi nhánh còn có
12 quỹ tiết kiệm và một cửa hàng vàng bạc nằm rải rác trên khắp điạ bàn.
Bộ máy tổ chức của chi nhánh như sau:
- Phòng kinh doanh.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
43
- Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
- Phòng kế toán.
- Phòng nguồn vốn.
- Phòng thông tin điện toán.
- Phòng hành chính tổ chức.
- Phòng kho quỹ.
- Phòng kiểm soát.
- 2 phòng giao dịch.
- Cửa hàng kinh doanh vàng bạc.
- 12 quỹ tiết kiệm.
Với đội ngủ trên 334 cán bộ và trên 60% có trình độ đại học và trên đại
học.
Nằm trên địa bàn quận HBT là một quận tương đối rộng, đông dân cư và
tập trung khối sản xuất công nghiệp Trung ương và địa phương nhất là khu
công nghiệp Sợi – Dệt –May và công nghiệp cơ khí, công ty thương nghiệp
và nhiều loại hình kinh doanh khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và các loại hình hợp tác xã cùng các hộ tư
thương buôn bán nhỏ. Nhưng trên địa bàn này tỷ lệ các doanh nghiệp kinh
doanh thương nghiệp,XNK, dịch vụ du lịch và khách sạn không nhiều. Đây
chính là điều kiện thuận lợi về mặt thị trường cho ngân hàng, với những đặc
điểm trên địa bàn như vậy NHCT II- HBT có nhiều thuận lợi về huy động vốn
chủ yếu là huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu và nguồn gửi của các tổ
chức doanh nghiệp. Song cũng có những yếu tố không thuận lợi như khả năng
tăng trưởng đầu tư tín dụng là rất khó khăn vì tốc độ chững lại trong những
năm gần đây của khu vực sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp dệt may
và cơ khí.
Cùng với sự thăng trầm của kinh tế nước ta NHCT KVII-HBT nhiều lúc
cũng phải đối mặt với những khó khăn nhất định, hạn chế khả năng huy động
tiền vốn cũng như cho vay đối với các tô chức kinh doanh ở một số lĩnh vực
như khách sạn, cơ khí... với sự cố gắng không ngừng đến nay NHCT KVII-
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
44
HBT đã khẳng định được vị trí và vai trò của mình đối với kinh tế thủ đô,
đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao
dịch, đa dạng các mặt kinh doanh dịch vụ tiền tệ –ngân hàng, thường xuyên
tăng cường nguồn vốn một cách có hiệu quả, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ
phát triển kinh tế nhiều thành phần, tăng cường vật chất kỹ thuật để từng bước
đổi mới công nghệ, góp phần vào quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất
nước.
Không dừng lại ở đó, hoạt động cuả ngân hàng không chỉ bó hẹp trong
địa bàn quận HBT mà còn vươn ra bình đẳng kinh doanh với các ngân hàng
khác trên địa bàn Hà Nội, hoà nhập với sự nghiệp đổi mới kinh tế, đổi mới
hoạt động của nghành. Tập thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên chi nhánh NHCT
KVII-HBT đã phấn đấu thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ do cấp
trên giao phó với mục tiêu:vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi
doanh nghiệp, sự thành đạt trong doanh nghiệp cũng chính là sự thành đạt của
ngân hàng.
1.2. Khái quát tình hình hoạt động của NHCT II- HBT trong những
năm qua.
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước ta, trong hơn 10 năm
qua NHCT II –HBT đã vượt qua những khó khăn trở ngại bằng ý chí vươn
lên, phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo sát
sao của NHCT Việt Nam, NHNN Hà Nội. Phương châm phát triển là an toàn-
hiệu quả - cạnh tranh. Chi nhánh đã đạt được những thành công nhất định
cũng như mở rộng được các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng.
1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Chi nhánh đã luôn chủ động tích cực và không ngừng mở rộng mạng
lưới giao dịch thông qua các quỹ tiết kiệm, giải quyết nhanh chóng và thông
thoáng các thủ tục, thái độ phục vụ văn minh lịch sự nhằm thu hút tối đa
nguồn tiền gửi của dân cư. Công tác tiết kiệm được thực hiện đúng quy trình,
đảm bảo an toàn, đã được sự yên tâm tin tưởng của người gửi tiền.
Song song với việc huy động vốn trong dân cư, chi nhánh đã chú trọng
đến việc thu hút tiền gửi của các doanh nghiệp, thông qua việc khẳng định uy
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
45
tín của mình bằng chất lượng dịch vụ không ngừng hoàn thiện với tiêu chí là:
nhanh chóng, chính xác, thuận tiện cho khách hàng.
Trong công tác huy động vốn, mặc dù lãi suất huy động vốn không cao
so với mặt bằng chung của các ngân hàng thương mại khác hệ thống trên địa
bàn, đặc biệt là lãi suất huy động USD giảm mạnh, nhưng thường xuyên coi
trọng chất lượng dịch vụ kết hợp tốt chính sách khách hàng nên nguồn vốn
huy động của chi nhánh tăng đều, đảm bảo được cân đối vốn cung cầu và tạo
thế chủ động cho hoạt động kinh doanh. Công tác quản lý tiền gửi dân cư
được chi nhánh thực hiện nghiêm túc thông qua công tác kiểm tra với nhiều
hình thức. Qua đó đã khắc phục những sai sót, đảm bảo an toàn tuyệt đối
nguồn tiền gửi của dân cư và các giấy tờ quan trọng, nâng cao uy tín của ngân
hàng với khách hàng.
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động.
2000 2001 2002 Năm
Chỉ tiêu
Số tiền
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
1. Tiền gửi của các
TCKT.
527 33,4% 643 35% 695 34,5%
2. Tiền gửi dân cư. 1052 66,6% 1194 65% 1318 65,5%
3. Tiền gửi kỳ
phiếu.
0 - - - - -
4.Theo nội và ngoại tệ:
* Tiền gửi VNĐ
* Tiền gửi ngoại tệ
(quy đổi VNĐ)
1154
425
73,1%
26,9%
1366
471
74,4%
25,6%
1519
494
75,5%
24,5%
Tổng cộng 1579 1837 2013
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
46
1.2.2. Hoạt động cho vay và đầu tư kinh doanh khác.
Cũng như mọi ngân hàng khác, NHCT khu vực II- Hai Bà Trưng cũng
thực hiện chức năng chính của mình là đi huy động tiền gửi của nền kinh tế để
cho vay. Điều này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội đó là tái sản xuất xã hội,
còn đối với ngân hàng hoạt động cho vay có ý nghĩa sống còn vì có cho vay
thì mới tạo ra lợi nhuận đảm bảo khả năng tồn tại của ngân hàng trong nền
kinh tế. Xác định được điều quan trọng đó NHCT khu vực II Hai Bà Trưng
đang từng bước mở rộng thị phần và đối tượng cho vay, đang từng bước tăng
tổng dư nợ.
Trong công tác đầu tư cho vay, với bối cảnh môi trường đầu tư hết sức
khó khăn, chi nhánh đặt ra quyết tâm đưa dư nợ tăng trưởng một cách lành
mạnh vững chắc. Đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, chủ động bám sát
các doanh nghiệp, phân tích kỹ những khó khăn, thuận lợi, dự đoán những
vấn đề có thể nảy sinh để hạn chế rủi ro, những đồng thời tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng. Quan trọng hơn là
đồng vốn ngân hàng thực hiện đúng chức năng: Góp phần thúc đẩy nền kinh
tế thủ đô phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chất lượng được xác định là mục tiêu hàng đầu, do vậy chi nhánh đã tích
cực mở rộng thị phần, nâng cao chất lượng các khoản cho vay, không ngừng
hoạn thiện việc thực hiện quy trình tín dụng kết hợp nâng cao trình độ chuyên
môn và đề cao công tác thẩm định, bảo đảm hiệu quả các dự án cho vay nên
vốn tín dụng của dự án có hệ số an toàn cao. Bên cạnh đó theo chỉ đạo của
NHCT Việt Nam, để khắc phục những tồn tại cũ, làm lành mạnh các khoản
nợ. Ban xử lý nợ tồn đọng đã được thành lập. Dựa trên cơ chế mới như:
Thông tư liên bộ 03/2001/TTLB/NHNN-BCA-BTC-TCTD và các văn bản
quy định khác, ban xử lý tài sản nợ tồn đọng đã nghiên cứu từng khoản nợ và
đề ra những bước xử lý thích hợp, với những động thái tích cực đã tác động
đến các khách hàng có nợ khó đòi.Kết quả đã làm tốt chỉ tiêu kế hoạch NHCT
Việt Nam giao. Trong năm 2002 thu nợ được 5456 triệu đồng, trong đó xử lý
nợ tồn đọng 4923 triệu đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm 1.09% trong tổng dư
nợ và đầu tư trong năm 2002.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
47
Ngoài cho vay chính là các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc
doanh thì NHCT khu vực II Hai Bà Trưng còn thực hiện cho vay đối với sinh
viên. Việc cho vay sinh viên được triển khai thường xuyên và kịp thời hỗ trợ
sinh viên trong quá trình học tập. Tính đến 31/12/2002 đã có 2218 sinh viên
của các trường đại học :Bách Khoa, Xây Dựng, Viên Mở đã thực hiện vay
vốn với tổng dư nợ 4,6 tỷ đồng ,tăng 35,3% so với cuối năm 2001.
Cho vay cán bộ công nhân viên không có bảo đảm tài sản.
Được thực hiện bảo đảm chế độ, cán bộ công nhân viên vay vốn chủ yếu
là mua sắm phương tiện đi lại,sữa chữa nhà...đều trả nợ đúng cam kết. Đã có
470 cán bộ vay vốn với dư nợ là 3,6 tỷ đồng tăng 27% so với cuối năm 2000.
Cơ cấu dư nợ các năm qua được thực hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu dư nợ(2000-2002) tại NHCT – HBT.
Đơn vị: triệu đồng
2000 2001 2002
CHỉ TIÊU
Số tiền
(Triệu
đồng)
Tỷ
Trọng
(%)
Số tiền
(Triệu
đồng)
Tỷ
Trọng
(%)
Số tiền
(Triệu
đồng)
Tỷ
Trọng
(%)
1.Phân theo kỳ hạn
chovay:
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
Cho vay sinh viên
Cho vay đặc biệt
413019
186700
2236
645
60,5
31
0,37
0,1
517358
275430
3500
9901
64,2
34,2
0,43
1,17
569966
301742
4600
27668
63,05
33,4
0,51
3,04
2.Phân theo TPKT
Kinh tế QD
Kinh tế ngoài QD
553000
49600
91,7
9,3
749756
56433
93,1
6,9
636673
267303
70,43
29,57
3. Phân theo nội
ngoại tệ:
VNĐ
279100
323500
46,3
53,7
575738
230451
71,4
28,6
678502
225474
75,05
24,95
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
48
Ngoại tệ(quy đổi)
Tổng cộng 602600 806189 903976
1.2.3. Công tác kinh doanh đối ngoại.
Ngoài kinh doanh đối nội, hoạt động kinh doanh đối ngoại cũng đạt kết
quả đáng khích lệ, hổ trợ tích cực cho việc tăng trưởng dư nợ. Chất lượng
dịch vụ, trình độ năng lực của cán bộ nhân viên nhiều tiến bộ, đáp ứng tốt yêu
cầu trong việc thực hiện xử lý các nghiệp vụ, do vậy chi nhánh đã làm vừa
lòng khách hàng, lượng khách hàng tới giao dịch ngày càng tăng. Tuy nhiên
kết quả còn hết sức khiêm tốn:
Mua bán ngoại tệ: Doanh số mua ngoại tệ đạt 36,7 triệu USD, tăng 55%
so với năm 2001. Doanh số bán ngoại tệ đạt 38.7 triệu USD, tăng 75,7% so
với năm 2001.Năm qua nguồn ngoại tệ rất căng thẳng do tỷ giá USD tăng, áp
lực về nguồn vốn ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên chi nhánh đã cố gắng tìm mọi
biện pháp để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của doanh nghiệp.
Thanh toán quốc tế: Công tác thanh toán quốc tế không ngừng được
nâng cao, kiểm tra các bộ chứng từ nhanh chóng, chính xác, thường xuyên tư
vấn tạo điều kiện thuận cho khách hàng, phong cách giao dịch văn minh lịch
sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- L/C nhập:337 món = 20,5 triệu USD thanh toán 400 món = 24,7 triệu USD
- L/ C xuất: 311 món =9,7 triệu USD tăng 48% so với năm 2001
Dịch vụ trả kiều hối: Luôn đảm bảo cho khách hàng nhanh chóng, thuận tiện.
1.2.4. Công tác kế toán tài chính và kết quả kinh doanh.
Trong công tác tài chính kế toán, chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh và
chế độ quy định. Đảm bảo tính kịp thời, chính xác trung thực, việc ghi chép
sổ sách kế toán hợp lệ, hợp pháp. Phối hợp với nghiệp vụ tín dụng thu nợ, thu
lãi kịp thời, chính xác. Thực hiện nghiêm túc các quy chế về quỹ đảm bảo
thanh toán và ký quỹ bắt buộc, tiết kiệm chi tiêu theo kế hoạch NHCT Việt
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
49
Nam. Tuy nhiên do thực hiện cơ chế hạch toán dự thu, dự trả với đặc điểm
của chi nhánh, nguồn tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn(khoảng 70%) trong
tổng huy động vốn, nên tổng số hạch toán dự trả 21,5 tỷ đồng đã làm ảnh
hưỡng rất nhiều đến lợi nhuận năm 2002 nhưng chỉ tiêu lợi nhuận vẫn đạt
109,7% so với kế hoạch do NHCT Việt Nam giao.
Công tác quyết toán năm hoàn thành tốt, các báo biểu kế toán thực hiện
báo cáo về NHCT Việt Nam trước giờ quy định. Phong cách thái độ tiếp
khách được chú trọng và nâng lên, do lượng khách hàng mới về giao dịch với
khách hàng tăng 200 tài khoản so với năm 2000.
1.2.5. Công tác tiền tệ kho quỹ.
Đảm bảo cân đối nguồn tiền mặt để đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu
thu chi tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ. Tổ chức mạng lưới thu chi nhanh chóng
cho khách hàng với thái độ văn minh, lịch sự. Làm tốt các dịch vụ theo yêu
cầu của khách hàng như: Thu tiền lưu động, chuyển tiền nhanh đi các tỉnh
*Tổng thu tiền mặt: 3786 tỷ đồng.Tăng so cùng kỳ năm trước 41,1%.
*Tổng chi tiền mặt: 3360 tỷ đồng. Tăng so cùng kỳ năm trước 36,8%.
1.2.6 . Công tác thông tin điển toán.
NHCT khu vựcII Hai Bà Trưng tiếp tục duy trì và phát triển công nghệ
thông tin. Hệ thống máy vi tính của chi nhánh đã thực hiện tốt việc thu nhận,
xử lý, kiểm soát thu nhận, truyền nhận và cung cấp thông tin cho quản lý
điều hành kinh doanh một cách nhanh chóng có hiệu quả.
Triển khai thực hiện tốt các chương trình quản lý Kế toán –Tín dụng, tiết
kiệm điện tử, thanh toán quốc tế, thanh toán điện tử, quản lý nguồn nhân lực,
phòng ngừa rủi ro, chuyển đổi 12 đồng tiền Châu Âu sang đồng EUR và điện
toán hệ thống thông tin báo cáo theo quyết định 516 của thống đốc NHNN
đúng yêu cầu của ngân hàng công thương Việt Nam.
Đảm bảo môi trường kỹ thuật cho các phần mềm có hoạt động thông
suốt. Bảo đảm an toàn tuyệt đối cơ sở dữ liệu trong toàn chi nhánh, vận hành
tốt hệ thống dự phòng.
1.2.7. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Để thực hiện tốt mục tiêu an toàn trong kinh doanh và phát huy tốt vai
trò kiểm soát theo tinh thần chỉ đạo của NHCT Việt Nam, công tác kiểm tra
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
50
kiểm soát nội bộ của chi nhánh được chú trọng và duy trì thường xuyên. Trên
cơ sở nhiệm vụ kinh doanh, căn cứ vào chương trình kiểm tra của NHCT Việt
Nam, đã chủ động lập chương trình và thực hiện kiểm soát trên tất cả các mặt
nghiệp vụ: Tín dụng, bảo lãnh, kế toán tài chính, tiền tệ kho quỹ, giao nhận
tiền, chấp hành chế độ tại các quỹ tiết kiệm...từ đó đôn đốc việc thực hiện chế
độ quy định đi vào nề nếp.
2. Thực trạng công tác tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng công thương chi
nhánh Hai Bà Trưng.
Kinh doanh tín dụng vẫn là nghiệp vụ chính của ngân hàng. Với quyết
tâm cao, bằng nhiều giải pháp tích cực, kịp thời cùng với chủ trương, chính
sách đúng đắn của Nhà nước, của ngành nhằm thống nhất một mục tiêu chung
là phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Trong suốt thời gian hoạt động của
mình NHCT II- HBT luôn cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ được giao đồng
thời nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Ngân hàng luôn tập trung đầu
tư cho khách hàng truyền thống, tích cực thực hiện tốt công tác tiếp thị mở
rộng thị phần, chủ động tìm kiếm thu hút khách hàng mới và tăng cường tiếp
cận các dự án khả thi, dư nợ lành mạnh tăng trưởng cao.
2.1. Tình hình huy động vốn:
Huy động vốn và cho vay luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau. Có huy động được vốn mới có nguồn để cho vay và ngược lại mở
rộng và nâng cao chất lượng sử dụng vốn thì huy động mới có hiệu quả. Trên
cơ sở đó NHCT II-HBT đã luôn chủ động tích cực quan tâm phát triển công
tác huy động vốn dưới mọi hình thức, để đảm bảo quy mô nguồn vốn tiếp tục
tăng trưởng theo kế hoạch xác định. Bằng những biện pháp đúng đắn thích
hợp như:
- Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn qua ngân hàng, thực hiện tốt những
chính sách khuyến khích lợi ích khách hàng mở tài khoản và thanh toán. Ưu
đãi lãi suất tiền gửi cho các đơn vi có số dư tài khoản tiền gửi lớn.
- Bên cạnh đó là công tác huy động vốn tiền gửi dân cư được phát triển
với mạng lưới các quỹ tiết kiệm hợp lý, thái độ phục vụ văn minh lịch sự.
Thông qua công tác tự kiểm tra kiểm soát đảm bảo an toàn tiền gửi dân cư, đã
tạo được truyền thống uy tín cao của chi nhánh NHCT II- HBT. Đặc biệt đã
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
51
triển khai thực hiện tốt quy trình giao dịch bằng máy vi tính cho 4 quỹ tiết
kiệm và hướng tới mục tiêu vi tính hoá hệ thống quỹ tiết kiệm nhằm bảo đảm
lợi ích của người gửi tiền, tạo thuận lợi cho khách hàng. Do vậy có thể thấy
mặc dù lãi suất trong các năm qua liên tục giảm nhưng chi nhánh vẫn làm tốt
công tác huy động vốn, nguồn vốn tăng liên tục và ổn định, đáp ứng thoả mãn
nhu cầu hoạt động đầu tư tín dụng của chi nhánh, ngoài ra thường xuyên thực
hiện vượt mức kế hoạch điều chuyển vốn về ngân hàng công thương Việt
Nam để điều hoà trong toàn hệ thống.
Xem xét cơ cấu nguồn vốn trong 3 năm qua từ 2000 đến năm 2002 :
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
52
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn NHCTII-HBT
2000 2001 2002
Chỉ Tiêu
Số tiền
% tỷ
trọn
g
%thay
đổi
Số tiền
% tỷ
trọng
%thay
đổi
Số tiền
% tỷ
trọng
%thay
đổi
TG các TCKT 527 33,4 +32,7 643 34,9 +22,2 695 34,5 8,2
TG tiết kiệm 1052 66,6 +9 1195 65,1 +13,8 1318 65,5 10,2
TG kỳ phiếu 0 0 -100 0 0 0 0 0
Khác 0 0 0 0 0 0 0 0
(Theo nguồn báo cáo của NHCTII -HBT)
Nhìn vào bảng ta có thể thấy rằng khu vực tiền gửi dân cư luôn tăng lên
qua các năm tuy nhiên tốc độ tăng trưởng là không đều có thể là do lãi suất
huy động tiền gửi của dân cư có xu hướng giảm dần do khách hàng muốn
dùng tiền gửi của mình để đầu tư hoặc chi tiêu nhiều hơn. Tuy nhiên nguồn
tiền gửi dân cư luôn chiếm tỷ trọng lớn 66,6%( năm 2000), 65,1%(năm 2001),
65,5%(năm 2002) của tổng nguồn huy động. điều này cho thấy ngân hàng đã
có một vị trí đáng kể trong khu vực dân cư, nguồn tiền gửi của dân cư chủ yếu
vào loại tiền gửi có kỳ hạn với tỷ trọng lên tới. Điều này giúp ngân hàng có sử
dụng một lượng vốn lớn và tương đối ổn định, ngân hàng có thể lường trước
được thời gian rút vốn của khách hàng, từ đó có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý.
Bên cạnh đó nguồn huy động từ khu vực tổ chức kinh tế ngày một tăng
cao điều này tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng vì các doanh nghiệp sử
dụng các dịch vụ của ngân hàng nhiều hơn. Hơn nữa các khoản tiền gửi của
các tổ chức này chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn với lãi suất huy động thấp,
từ đây có thể giúp ngân hàng tăng thêm lợi nhuận cũng như tăng thêm sức
cạnh tranh cho ngân hàng.
2.2. Tình hình sử dụng vốn của NHCT II- HBT.
Bảng 4: Bảng theo dõi tình hình dư nợ của NHCTII-HBT năm (1997-2002).
Năm
Chỉ tiêu
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tổng dư nợ 350248 385342 413141 602600 806189 903976
Ngắn hạn 296687 302487 322389 415900 521623 569966
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
53
Trung dài hạn 53597 82855 90725 186700 284566 334010
(nguồn: báo cáo dư nợ NHCT II- HBT 1997-2002)
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tong du no
Ngan han
Trung dai han
Theo số liệu trên ta có thể thấy dư nợ tín dụng ngắn hạn liên tục tăng lên
qua các năm với tốc độ tăng đều nhau và khá ổn định. Điều này đảm bảo
nguồn thu ổn định cho ngân hàng và giúp ngân hàng dự đoán được tốc độ
phát triển của tín dụng trong thời gian tới. Nhìn vào bảng số liệu ta có thể tính
được tỷ trọng của dư nợ ngắn hạn giảm dần qua các năm: Năm 1997 nợ ngắn
hạn chiếm 84,7% trong tổng dư nợ, năm 1998 tỷ trọng này là 78,5%, năm
1999 tỷ trọng này là 78%, năm 2000 tỷ trọng này là 68,9%, năm 2001 tỷ trọng
này là 64,7%, riêng năm 2002 tỷ trọng này là 63,05%. Mặc dù tỷ trọng trong
tổng dư nợ giảm dần qua các năm từ năm 1997 đến năm 2002 nhưng dư nợ
tín dụng ngắn hạn vẫn tăng đều qua các năm, đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động của ngân hàng. Đây cũng là một nét mới trong chiến lược kinh
doanh của NHCTII- HBT, đã có sự chuyển dịch đầu tư, khuyến khích tín
dụng trung và dài hạn phát triển. Đây là một bước tiến mới của ngân hàng.
Trong bảng cân đối kế toán của NHCTII- HBT thì hoạt động tín dụng và
đầu tư đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng. Trong tổng dư nợ tín dụng thì
tín dụng ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy tín dụng ngắn hạn có vai
trò quan trọng đối với ngân hàng. Với đặc điểm của của tín dụng ngắn hạn đó
là vòng quay của tiền nhanh, do đó trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta
đang trong giai đoạn phát triển và đang trong giai đoạn đổi mới nên có nhiều
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
54
vấn đề mâu thuẫn và chưa bắt kịp với thế giới dẫn đến nền kinh tế phát triển
chưa ổn định. Mặt khác NHCTII-HBT nằm trong một khu vực đông dân cư,
nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp sản xuất, thương mại đặc biệt các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sản xuất mang tính thời vụ. Với những đặc
điểm vĩ mô và vi mô như vậy thì tín dụng ngắn hạn không những đem lại
nguồn thu chính cho ngân hàng mà còn bảo đảm an toàn, khả năng cạnh tranh
cho ngân hàng. Đó là cơ sở để tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT phát triển.
Cơ cấu tín dụng ngắn hạn của NHCTII- HBT:
Đặc điểm chung trong cơ cấu dư nợ cho vay nói chung và cho vay ngắn
hạn nói riêng là doanh nghiệp quốc doanh hay thành phần kinh tế quốc doanh
chiếm tỷ trọng lớn hơn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. điều có thể giải
thích là do lịch sử hình thành và nhóm khách hàng truyền thống của ngân
hàng. Từ khi hình thành mục đích chính của NHCT nói chung là tài trợ vốn
tín dụng để phát triển khu vực công nghiệp và thương nghiệp của nền kinh tế
bao cấp từ đó hình thành nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng là các
doanh nghiệp nhà nước, mặt khách ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành
phần này vì đảm bảo an toàn hơn vì trong trường hợp làm ăn thua lỗ thì vẫn
được nhà nước bù lỗ. Ngoài ra, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn
làm ăn hiệu quả vẫn chưa cao, quy mô lại rất nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu
của nền kinh tế thị trường. Để thấy rõ điều này chúng ta hãy xem bảng sau:
Bảng 5: Báo cáo cho vay ngắn hạn theo khu vực kinh tế.
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
CHỉ tiêu
VNĐ USD VNĐ USD VNĐ USD
1. Doanh số cho vay 561783 364228 881178 248459 960432 181978
- Ngoài quốc doanh 13706 0 44422 0 58644 0
- Qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT.pdf