Luận văn Tìm các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay

Tài liệu Luận văn Tìm các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay: LUẬN VĂN: Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là một công cụ quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn bộc lộ những tồn tại yếu kém, chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành v...

pdf98 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là một công cụ quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn bộc lộ những tồn tại yếu kém, chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế thực hiện tốt các chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp của Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5]. Từ thực tế những mặt tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua và phương hướng, mục tiêu đổi mới phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Do vậy việc chọn đề tài: "Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay" là một vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa về lý luận đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, sự cần thiết phải đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng như các hình thức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Phân tích, đánh giá thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình trong những năm vừa qua. Xác định phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn không đề cập toàn bộ những vấn đề về sắp xếp, đổi mới trong các doanh nghiệp nói chung mà chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sắp xếp, đổi mới đối với doanh nghiệp nhà nước. Với thực tiễn quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 1998 - 2003 để minh họa cho những vấn đề lý luận được đề cập trong luận văn. 4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu thế tất yếu của việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và sắp xếp đổi mới của doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua. Từ đó, rút ra ưu điểm tồn tại, chỉ rõ nguyên nhân của các tồn tại đó. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế. Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua. Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để góp phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình hiện nay. Chương 1 Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế Nhiều thành phần và hội nhập Quốc tế 1.1. Lý luận chung về Doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế nhà nước, quan trọng nhất nhưng không phải đồng nhất và đồng nghĩa với kinh tế nhà nước. Do vậy phải điểm lại các quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Trên thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách doanh nghiệp nhà nước, các học giả có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước, các định nghĩa pháp lý và học thuật về doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. ở nước ta quan niệm về doanh nghiệp nhà nước qua các thời kỳ đổi mới quản lý cũng đã thay đổi rất nhiều và rất nhiều học giả, nhà quản lý đôi khi lẫn lộn giữa khái niệm doanh nghiệp nhà nước với các khái niệm gần nghĩa khác dẫn đến hiểu sai lệch về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước và cuối cùng dẫn đến cách thức tổ chức quản lý, đổi mới doanh nghiệp nhà nước có sự khác nhau giữa các ngành, các địa phương. Trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà nước (trước đây gọi là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế, đó là những doanh nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ, bao cấp (Trung Quốc gọi là cơ chế ăn nồi cơm chung, Liên Xô cũ gọi là cơ chế chi phí). Về mặt sở hữu, đó là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn 100%, trực tiếp quản lý. Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc chuyển đổi (cải cách, đổi mới) cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước luôn là vấn đề trung tâm. Kết quả là các doanh nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển một số hình thức đan xen sở hữu hoàn toàn mới. Chính vì vậy, Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 20/4/1995 (lần đầu tiên ở Việt Nam) đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về doanh nghiệp nhà nước như sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý [1]. Qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã có một vai trò rất quan trọng trong việc củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước, góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua còn nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như những yếu kém về trình độ quản lý, công nghệ thiết bị lạc hậu... trong đó, có một nguyên nhân quan trọng là những vướng mắc về thể chế, chính sách tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước làm cho khu vực doanh nghiệp này thiếu tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, sau khi Luật doanh nghiệp nhà nước có hiệu lực thi hành, đã có nhiều văn bản liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung được ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật thương mại... Trong đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp được đổi mới hơn so với doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và tiến tới hình thành một mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà nước đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004, khẳng định: "Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn" [15]. 1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu: Xét theo mức độ sở hữu, doanh nghiệp nhà nước có hai loại: Loại doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước; loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước nắm giữ một phần sở hữu nhất định. Xét theo mục tiêu kinh tế - xã hội, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích); doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (hoạt động kinh doanh) [8], [7]. Căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, doanh nghiệp nhà nước có thể chia thành ba loại: - Doanh nghiệp nhà nước do chính phủ trực tiếp quản lý, không có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập: loại doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn từ ngân sách của các cơ quan chủ quản thuộc chính phủ và các đại biểu chính phủ tham gia vận hành kinh tế mà chủ yếu là các xí nghiệp liên quan đến quốc kế dân sinh như y tế, giao thông công cộng, điện nước, bưu chính, đường sắt, sản xuất vũ khí... Hiện nay, loại doanh nghiệp nhà nước này không còn thấy nhiều ở các nước. - Doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ pháp nhân và toàn bộ tài sản thuộc về nhà nước: Đây là các doanh nghiệp nhà mà toàn bộ tài sản do nhà nước đầu tư và có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập. ở các nước trên thế giới loại hình doanh nghiệp này thường thuộc các lĩnh vực công cộng, lấy việc phục vụ xã hội làm mục tiêu cơ bản, như: đường sắt, bưu chính, điện, khí, ga, nước sạch... Loại doanh nghiệp nhà nước này là những thực thể kinh tế được lập ra và kinh doanh dựa vào một pháp quy cụ thể nào đó của nhà nước, đồng thời lệ thuộc vào cơ quan quản lý của nhà nước, tuy có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập, đồng thời có quyền tự chủ kinh doanh nhất định trong phạm vi đã xác định nhưng các doanh nghiệp này đều phải lấy một mục tiêu nào đó của Nhà nước làm tôn chỉ hoạt động kinh doanh và chấp hành sự điều tiết kinh tế và quản lý nhất định của Chính phủ. - Doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước nắm quyền sở hữu một phần tài sản: phần lớn ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp là hình thức chủ yếu nhất trong mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm lớn nhất của loại doanh nghiệp nhà nước này là nhà nước tham dự cổ phần, nhờ đó có thể khống chế chúng. Nhưng doanh nghiệp nhà nước loại này hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc của doanh nghiệp tư nhân, thu lợi nhuận kinh doanh qua cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, đồng thời, bằng chế độ tham dự, nhà nước có thể triển khai các hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước bao gồm những công trình cơ sở hạ tầng như ngân hàng, đường sắt, đường bộ, vận tải biển và cũng có thể triển khai mở rộng vào các ngành công nghiệp mới. Doanh nghiệp nhà nước theo chế độ nhà nước tham dự ngày càng tỏ ra là loại hình doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả nhất [9], [10]. Dựa theo cấp độ quản lý, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: - Doanh nghiệp nhà nước địa phương (doanh nghiệp địa phương): là những doanh nghiệp chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh. - Doanh nghiệp nhà nước Trung ương (doanh nghiệp Trung ương): là những doanh nghiệp vừa chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh cũng đồng thời chịu sự quản lý và chi phối trực tiếp trực tiếp của các cơ quan quản lý cấp trên theo ngành dọc như các Tổng công ty (Tổng công ty Điện lực), các liên hiệp xí nghiệp (liên hiệp xí nghiệp đường sắt), các Cục, Tổng cục… 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước và hệ thống thể chế kinh tế vĩ mô luôn được xác định là hai công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân, dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế văn hóa, đô thị mới, trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng để phát triển đất nước. Nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng và kinh tế nhà nước nói chung, đã bước đầu hình thành đòn bẩy thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, như điện, xi măng, sắt thép, phân bón, xăng dầu, giấy viết... là lực lượng chủ yếu thực hiện các chính sách xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích, nhờ có doanh nghiệp nhà nước và lực lượng vũ trang mà chúng ta có khả năng ứng phó có kết quả trong việc khắc phục ảnh hưởng và hậu quả của thiên tai. Doanh nghiệp nhà nước góp phần điều tiết cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển mạnh của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành công nghiệp, dịch vụ góp phần tăng nhanh tỷ trọng GDP của các ngành này trong nền kinh tế; các ngành thuộc cơ sở hạ tầng như: giao thông. năng lượng, bưu chính viễn thông đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được thành lập ở vùng núi, vùng có nhiều khó khăn góp phần thay đổi kinh tế vùng lãnh thổ. Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hóa cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn định kinh tế - xã hội, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới. Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn giữ được vai trò quan trọng trong nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Là một loại hình trong cộng đồng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước có các đặc trưng chung như mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: - Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định nhằm thực hiện các mục đích hoạt động kinh doanh. - Chức năng của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ sản phẩm. - Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi ích kinh tế, trước hết là mục đích sinh lợi. - Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài những đặc điểm chung kể trên, các doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc điểm riêng, đó là: - Chủ sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhà nước là Nhà nước dưới hình thức sở hữu toàn dân. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước thường phải chịu áp lực quản lý hoặc điều tiết của Chính phủ như giá bán, nguồn cung cấp nguyên liệu, họ không được chủ động hoàn toàn trong việc lựa chọn các mặt hàng kinh doanh và phương án đầu tư. Hơn thế, các doanh nghiệp nhà nước thường chịu sự chi phối của không chỉ một cơ quan chủ quản, mỗi cơ quan lại có một yêu cầu riêng về quản lý, vì vậy một quyết định có tính chiến lược kinh doanh thường được triển khai chậm, có khi còn mất cả cơ hội do phải trình duyệt qua nhiều cửa, nhiều cấp quản lý. - Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vẫn có một số trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cơ bản quan trọng nhất (như đối với doanh nghiệp hoạt động công ích). Vì ngoài việc đầu tư phát triển để thu được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp nhà nước đôi khi còn phải đầu tư vào các chương trình phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo và ổn định nền kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò tích cực như cung cấp những dịch vụ, cơ sở vật chất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, gánh lấy những rủi ro trong sự phát triển kinh tế; giải quyết một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời tiến hành các chức năng đặc biệt như an ninh, quốc phòng… Các đặc điểm nêu trên không những có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến công tác hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước. 1.2. Sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được khắc phục Thực hiện đường lối đổi mới, hơn 10 năm qua khu vực doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ những yếu kém, tồn tại, chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: - Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước có biểu hiện giảm dần, nợ khó đòi ngày càng lớn. Về hiệu quả kinh doanh, mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ được hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước dành cho. Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do Bộ Tài chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi và trích lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu báo cáo năm 2003 của Bộ Tài chính, trong tổng số 4.800 doanh nghiệp nhà nước thì số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 77,2% (nếu tính theo chỉ tiêu hiệu quả chỉ chiếm 56%); số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 13,5% (nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn), số còn lại là những doanh nghiệp nhà nước chưa có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ, khi lãi và nếu có lãi cũng chỉ là tượng trưng. Về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước rất yếu kém, biểu hiện rõ nhất là chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh yếu kém ngay tại thị trường nội địa, có nhiều ngành, sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyết đối (ưu đãi, độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế…) nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo số liệu nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ... đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế từ 10-50% tùy mặt hàng. Khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh, khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện Việt Nam đã và đang thực hiện cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình Nhà nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng công nợ của doanh nghiệp nhà nước hiện nay là khá nghiêm trọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Trong số 15,1% nợ quá hạn ngân hàng thương mại thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 64,8%, gây khó khăn lớn đến hoạt động của ngân hàng. Theo Báo cáo của Bộ Tài chính đến hết năm 2003, tổng số nợ phải trả lên tới 207.778 tỷ đồng (tăng 10% so với năm 2002), trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó đòi là 2.748 tỷ đồng, tỷ lệ nợ này không phải là cao so với các nước trên thế giới nhưng khả năng thanh toán lại rất thấp. Thêm vào đó theo thống kê của Bộ Tài chính, ước tính lượng hàng hóa tồn kho tại các doanh nghiệp nhà nước hiện lên tới 45.600 tỷ đồng, bằng 12,7% tổng giá trị tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước và 26,2% tổng giá trị tài sản lưu động, trong số hàng tồn kho trên có khoảng 1.155 tỷ đồng hàng hóa thuộc diện ứ đọng không cần dùng. Ngoài ra, lượng hàng hóa tồn kho lâu ngày bị kém, bị mất phẩm chất cũng lên tới 445 tỷ đồng. Do hầu hết hàng hóa tồn kho là vật tư, nguyên liệu có từ thời bao cấp, lỗi thời, không tiêu thụ được và để lâu, chất lượng giảm, kỹ thuật lạc hậu nên các doanh nghiệp cứ để treo chờ Nhà nước có biện pháp xử lý, điều này làm tăng gánh nặng cho chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn. Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước còn nhiều về số lượng, nhưng lại nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và lãnh thổ, địa phương nên dẫn đến tình trạng manh mún, hạn chế sự tích tụ, tập trung sản xuất. Đến tháng 12/2003 cả nước có 4.800 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước 139.293 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 29 tỷ đồng. Số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tới 42,45%, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 29,89%; số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp tại 51 tỉnh, trong đó tại 14 tỉnh số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm trên 75%, cũng tại các địa phương này, hơn 30% số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng. Đặc biệt có 6 tỉnh con số này là hơn 50% (Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà Nam) [2]. Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong khu vực doanh nghiệp nhà nước với nhau. Hiện nay trên một sân bay có đến 4 - 5 doanh nghiệp của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Cục Hàng không cùng kinh doanh, vừa chồng chéo vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau, điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng; sự kết hợp, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn lỏng lẻo và chưa thành nề nếp. Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong khi thị trường còn chưa được phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Đầu tư dàn trải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối. Thứ ba, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, đầu tư đổi mới công nghệ chậm đã hạn chế khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh nghiệp. Theo thống kê của Bộ Công nghiệp thì các doanh nghiệp nhà nước được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau (26% của Liên Xô cũ, 25% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%) và thuộc các thế hệ khác nhau. Theo kết quả khảo sát 727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện Khoa học Bảo hộ lao động thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến hành gần đây thì đến 76% thiết bị máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50 - 60, trên 70% đã hết khấu hao, gần 50% được tân trang lại. Theo tài liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường qua khảo sát nhiều doanh nghiệp thuộc 7 ngành thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 20 đến 30 năm, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50%; có 38% tài sản cố định ở dạng thanh lý; 52% qua bảo dưỡng, sửa chữa, hậu quả là chưa tạo ra được các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Một số mặt hàng như cơ khí, sắt thép, xi măng, phân bón, kính xây dựng... có mức giá cao hơn hàng nhập cùng loại từ 20 đến 40% [6], [3]. Thứ tư, tình trạng thiếu việc làm và lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước đang là một khó khăn lớn, ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì hiện nay số lao động không có việc làm trong doanh nghiệp nhà nước khoảng 6% nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp nhà nước có số lao động quá lớn so với yêu cầu như ở Tổng Công ty Than Việt Nam, Công ty Gang Thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương… Số lao động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn, tiếp đến là ở các Bộ, ngành trung ương. Các địa phương có số lao động không có việc làm đặc biệt cao là Hải Dương (33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An (16%), Hải Phòng (15%). Tổng Công ty Than dôi dư lao động 30%, Tổng Công ty Lương thực miền Bắc dôi dư lao động 28%. Tổng Công ty Thép Việt Nam dôi dư lao động 12%. Bên cạnh đó phần lớn người lao động không qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của doanh nghiệp thì Nhà nước chưa có cơ chế giám sát về tuyển dụng lao động, trả công lao động và gắn với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn rất tùy tiện. Mặt khác, cơ chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi dư. Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp nhà nước ở ta đều được hình thành từ cơ chế tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh của chế độ cũ. Trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới đã cho phép các cơ quan, trường học, quận huyện được thành lập doanh nghiệp nhà nước để "tự cứu" nên hầu hết không đủ những điều kiện tối thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng, trang bị quá đơn sơ, đội ngũ giám đốc và công nhân không được đào tạo có hệ thống, phương hướng sản xuất kinh doanh không gắn với yêu cầu lâu dài của thị trường. Mặt khác, kinh tế tư nhân còn quá non yếu nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể điều chỉnh cơ cấu thật mạnh theo hướng tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Thứ năm, tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp khá phổ biến. Các doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn Nhà nước cấp không đủ ở mức tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Có gần 60% số doanh nghiệp nhà nước không có đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP của Chính phủ. Vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh, trong đó các Tổng Công ty là 75%, các doanh nghiệp do Bộ, ngành quản lý là 45%; các doanh nghiệp do địa phương quản lý là gần 50%. Trên 50% doanh nghiệp chưa có đủ vốn lưu động cần thiết. Trong số vốn lưu động hiện có cũng chỉ huy động được cho kinh doanh khoảng 50%, còn lại dưới dạng vật tư mất phẩm chất, kém phẩm chất hoặc các khoản công nợ không có khả năng thu hồi, khoản lỗ chưa được bù đắp… Những mặt hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể khái quát một số nguyên nhân chủ yếu sau: * Nguyên nhân khách quan Những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được xóa bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại nặng nề không thể giải quyết được trong một sớm một chiều. Trừ một phần nhỏ số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn đổi mới, còn đa phần các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam là kế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu, không có nguồn thay thế. Nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách nhà nước những năm trước đây. Lao động vừa thiếu (thiếu lao động lành nghề), vừa thừa (thừa lao động không đáp ứng yêu cầu công việc) song chưa có cơ chế giải quyết. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề... Để thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trông cậy vào đây mà chỉ có thể dùng biện pháp gỡ rối dần dần, vừa cải tổ, vừa ổn định kinh tế và xã hội, chính vì thế hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp nhà nước chưa thể cải thiện nhanh. * Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, chưa nhận thức thống nhất và đầy đủ nội dung đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; trong tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết, không triệt để và chưa có giải pháp, chính sách cụ thể phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vị trí quan trọng của doanh nghiệp nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ và thống nhất đã gây khó khăn lúng túng khi định hướng và thực hiện các biện pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhất là các biện pháp về sắp xếp, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Quá trình sắp xếp vẫn còn mang tính chất hành chính, chưa gắn với cơ chế điều chỉnh của thị trường, với Luật phá sản, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn nhiều hạn chế. Ttrong khi không đủ khả năng bảo đảm vốn tối thiểu cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động nhưng nhiều ngành, địa phương cho rằng vị trí của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng cao nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước dẫn đến đầu tư quá phân tán và còn thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước, trong cổ phần hóa vẫn muốn Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần chi phối… Một hiện tượng không bình thường là gần đây trong khi việc sắp xếp doanh nghiệp, thu gọn đầu mối, giải quyết những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, khắc phục tình trạng thiếu vốn còn đang phải đẩy mạnh thì một số doanh nghiệp nhà nước lại được thành lập chỉ dựa vào các dự án vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan sáng lập doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn tối thiểu ban đầu cho doanh nghiệp nhà nước và không nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó nhiều doanh nghiệp vừa mới bắt đầu hoạt động đã lâm vào tình trạng nợ nần, sản phẩm không tiêu thụ được, năng suất lao động thấp, nổi bật là trong các lĩnh vực xi măng lò đứng, mía đường, gạch Tuy-nen. Thứ hai, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ. Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn cho đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Đặc biệt vốn ban đầu, doanh nghiệp nhà nước nói chung không được Nhà nước đầu tư đầy đủ mà chỉ đầu tư vào tài sản cố định. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp không đảm bảo được vốn lưu động tối thiểu. Nguyên nhân là Nhà nước thiếu vốn nhưng lại đầu tư dàn trải, đồng thời pháp luật cũng không quy định rõ mức vốn Nhà nước phải đầu tư vào doanh nghiệp, không phân biệt rõ tính chất vốn điều lệ, vốn đầu tư dẫn đến trách nhiệm về đầu tư vốn của chủ sở hữu nhà nước không rõ ràng và đầy đủ. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và bắt buộc doanh nghiệp nhà nước hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động; chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như: quỹ dự phòng rủi ro, quỹ dự phòng thất nghiệp… Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như: quyền quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, cơ chế thực thi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do một mặt, chúng ta thừa nhận quyền tự chủ khá rộng rãi của doanh nghiệp, nhưng mặt khác vẫn còn tồn tại chế độ chủ quản hành chính trước kia như: duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ quan chủ quản… đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp quá nhiều vào công việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn hạn chế, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường. Thứ ba, sự chậm trễ trong việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa sở hữu và cổ phần hóa, chưa tạo được cơ chế quản lý năng động có hiệu quả và đã làm hạn chế các kênh huy động vốn của xã hội cho yêu cầu bù đắp phần thiếu hụt vốn đầu tư của Nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước và chậm khắc phục có hiệu quả tình trạng trì trệ và thiếu trách nhiệm trong lao động, quản lý sử dụng vốn của nhà nước. Thứ tư, trình độ năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhất là đội ngũ giám đốc doanh nghiệp và cán bộ chủ chốt có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động doanh nghiệp nhưng do cơ chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo còn nhiều yếu kém, bất cập do đó một bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, kém năng lực phẩm chất và thiếu trách nhiệm, trong khi đó việc bãi nhiệm, thay thế lại hết sức khó khăn. Từ những phân tích trên cho thấy, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vừa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, vừa là một tất yếu khách quan để các doanh nghiệp có thể giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế và chuẩn bị cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. 1.2.2. Phương hướng và mục tiêu sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII và các Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương về đổi mới và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn 10 năm qua Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những tồn tại, yếu kém và cũng còn nhiều vướng mắc cần được tiếp tục xử lý, tháo gỡ để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ các vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5]. Mục tiêu của việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới là: - Xây dựng doanh nghiệp nhà nước đủ mạnh góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt hơn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. - Làm cho doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn trong các ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt để Nhà nước chi phối, điều khiển được nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. - Làm nòng cốt đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và xây dựng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Bảo đảm được nhu cầu cần thiết cho an ninh, quốc phòng và các sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội. Từ những mặt tồn tại, yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua và những phương hướng mục tiêu đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới để doanh nghiệp nhà nước khắc phục được tình trạng phân tán, manh mún, kinh doanh kém hiệu quả, thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tổ chức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc đẩy mạnh các giải pháp cổ phần hóa và chuyển đổi sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ hình thức sở hữu nhà nước là vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với việc đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước. 1.3. Các hình thức sắp xếp, chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước Để giải quyết tình hình khu vực doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh về mặt số lượng, yếu kém về mặt chất lượng, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước thông qua việc chuyển đổi và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước theo các hình thức cụ thể sau: 1.3.1. Sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước Sáp nhập doanh nghiệp là loại giao dịch trong đó một hay một số doanh nghiệp từ bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp khác và sử dụng pháp nhân của doanh nghiệp này để hoạt động. Thông thường doanh nghiệp nhận sáp nhập phải có tiềm lực tài chính, kinh doanh lớn hơn doanh nghiệp bị sáp nhập, doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập. Sau khi việc sáp nhập được hoàn thành doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình, còn doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ được hưởng các quyền lợi và lợi ích hợp pháp, đồng thời cũng chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị sáp nhập. Khác với hình thức sáp nhập, việc hợp nhất các doanh nghiệp là giao dịch trong đó hai hoặc một số doanh nghiệp thỏa thuận với nhau hợp nhất lại để hình thành một pháp nhân mới. Nói một cách đơn giản đó là sự ra đời của một doanh nghiệp mới từ sự kết hợp một số doanh nghiệp cũ. Các doanh nghiệp tham gia hợp nhất đều từ bỏ pháp nhân của mình để hình thành một pháp nhân mới. Doanh nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng lao động và và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị hợp nhất. Kết quả của việc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp là việc hình thành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn trước, nhờ tập trung sản xuất bằng con đường sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp mà các doanh nghiệp mới đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn, sự tiết kiệm nhiều hơn trong hoạt động kinh doanh. Hơn thế nữa việc mở rộng quy mô kinh doanh bằng việc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp còn đem lại nhiều lợi thế so sánh hơn so với việc tăng quy mô bằng tăng trưởng nội lực (tái đầu tư lợi nhuận sau thuế), đó là thời gian đạt được sự tăng trưởng nhanh hơn; khả năng tiết kiệm các chi phí trong đào tạo nguồn nhân lực; tiết kiệm các chi phí cố định; rút ngắn thời gian kiểm soát và chiếm lĩnh thị trường... chính vì vậy, sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp cũng là một con đường có thể lựa chọn để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước là giải pháp chấm dứt sự tồn tại của một doanh nghiệp, song nguyên nhân và cách thức thực hiện giữa chúng lại có sự khác biệt nhất định. Một doanh nghiệp nhà nước có thể bị giải thể và chấm dứt sự tồn tại pháp nhân của mình trong các trường hợp sau đây: - Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập doanh nghiệp mà doanh nghiệp không xin gia hạn. - Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài song chưa lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. - Doanh nghiệp không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước quy định sau khi đã thực hiện các biện pháp cần thiết. - Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp nhà nước là không cần thiết. Khác với giải thể doanh nghiệp, việc phá sản doanh nghiệp là việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và thực hiện theo luật về phá sản doanh nghiệp. Một doanh nghiệp bị phá sản nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết để khôi phục doanh nghiệp mà vẫn hoàn toàn mất khả năng thanh toán các khản nợ đến hạn, tổng số nợ lớn hơn tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. 1.3.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu) đồng thời chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu thế khách quan, một biện pháp quan trọng để tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Có thể nêu ra một số căn cứ sau đây: - Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm qua theo đường lối của Đảng và Chính phủ. - Tạo điều kiện để các doanh nghiệp thu hút vốn kinh doanh trên thị trường, giải quyết khó khăn về vốn của các doanh nghiệp - Giảm nhẹ gánh nặng chi tiêu ngân sách cho các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần duy trì hình thức doanh nghiệp nhà nước. - Thúc đẩy và tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển thị trường vốn, tạo thêm kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mục tiêu cơ bản của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xác định là: - Huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. - Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. Đối tượng cổ phần hóa là doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện cần duy trì hình thức doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên trong số các doanh nghiệp nhà nước có thể cổ phần hóa cũng cần phân biệt loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc loại doanh nghiệp nhà nước có thể hoặc không cần nắm cổ phần hoặc thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu khác. Việc phân loại trên đây tạo điều kiện vừa thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, vừa tạo điều kiện phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Về hình thức cổ phần hóa, các doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức được quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, đó là: - Giữ nguyên giá trị thuộc phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. - Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. - Bán toàn bộ phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. 1.3.3. Giao doanh nghiệp nhà nước Giao doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp thành sở hữu của tập thể người lao động có điều kiện ràng buộc [12]. Đối tượng được giao doanh nghiệp là tập thể người lao động trong doanh nghiệp do Ban chấp hành Công đoàn đại diện hoặc người được đại hội toàn thể công nhân viên chức trong doanh nghiệp bầu làm đại diện tự nguyện đăng ký nhận giao. 1.3.4. Bán doanh nghiệp nhà nước Bán doanh nghiệp nhà nước là sự chuyển đổi sở hữu toàn bộ giá trị tài sản của một doanh nghiệp nhà nước sang cho các pháp nhân hoặc thể nhân khác [12]. Căn cứ vào quyết định phê duyệt bán doanh nghiệp của cấp có thẩm quyền, giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo cho toàn thể người lao động trong doanh nghiệp và trên các phương tiện thông tin đại chúng để đăng ký danh sách người mua doanh nghiệp. Đối tượng được mua doanh nghiệp có thể là tập thể, cá nhân hoặc các pháp nhân kinh tế có nhu cầu mua doanh nghiệp. Nếu chỉ có một người đăng ký mua thì doanh nghiệp được bán theo phương thức trực tiếp. Trường hợp có từ hai người đăng ký mua trở lên thì phải bán doanh nghiệp theo phương thức đấu thầu, giá bán doanh nghiệp được căn cứ vào giá trị thực tế của doanh nghiệp được người mua và người bán doanh nghiệp chấp nhận, các vướng mắc về tài sản, tài chính của doanh nghiệp được bên bán xử lý trước khi bán doanh nghiệp. 1.3.5. Khoán kinh doanh doanh nghiệp nhà nước Khoán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước là phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước mà bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh nghiệp, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán [12]. Nội dung, các chỉ tiêu và điều kiện khoán kinh doanh được bên giao khoán quy định và được bên nhận khoán chấp nhận căn cứ vào đặc điểm của từng ngành và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở xem xét các yêu cầu về bảo toàn vốn nhà nước; giải quyết việc làm và đóng đủ bảo hiểm cho người lao động; tăng lợi nhuận (hoặc giảm lỗ) của doanh nghiệp; thực hiện các chính sách của Nhà nước và các hợp đồng đã ký kết. Bên giao khoán có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng nhận khoán, xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng, song không can thiệp vào việc điều hành hoạt động của người nhận giao khoán và tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện các cam kết đã ghi trong hợp đồng. 1.3.6. Cho thuê doanh nghiệp nhà nước Cho thuê doanh nghiệp nhà nước là hình thức tạm thời chuyển quyền khai thác, sử dụng tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho các tổ chức, cá nhân khác mà vẫn giữ nguyên tên gọi, sử dụng các thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước mà người nhận thuê phải trả một khoản bồi hoàn cho Nhà nước dưới dạng tiền thuê [12]. Tùy theo đặc điểm kế thừa hoặc không kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cho thuê mà thuê doanh nghiệp nhà nước được chia thành hai loại: - Thuê tài sản của doanh nghiệp: người thuê nhận thuê toàn bộ các tài sản hợp thành cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có kèm theo thuê lao động của doanh nghiệp, nhưng không kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thuê. - Thuê doanh nghiệp hoạt động: người thuê nhận toàn bộ tài sản hợp thành cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có kèm theo thuê lao động của doanh nghiệp, đồng thời có kế thừa các khoản vay, nợ, các hợp đồng kinh tế, các quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp theo thỏa thuận của các bên có liên quan. Cũng giống như hình thức bán doanh nghiệp, nếu chỉ có một người đăng ký thuê doanh nghiệp thì cho thuê doanh nghiệp được thực hiện theo phương pháp trực tiếp. Ngược lại nếu có nhiều người đăng ký thuê doanh nghiệp thi việc cho thuê doanh nghiệp được thực hiện theo phương thức đấu thầu. Giá cho thuê doanh nghiệp được xác định căn cứ vào hình thức thuê, giá cho thuê tối thiểu do người cho thuê quy định, giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá thỏa thuận giữa người cho thuê và người nhận thuê hoặc giá thắng thầu (trường hợp đấu thầu), nhưng không thấp hơn mức giá tối thiểu của người cho thuê quy định Tóm lại, quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước thông qua việc chuyển đổi hình thức sở hữu, thay đổi phương thức quản lý và cơ cấu, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước có thể được thực hiện theo nhiều hình thức và phương thức khác nhau. Việc xem xét một cách toàn diện các hình thức này cho phép Nhà nước, doanh nghiệp lựa chọn hình thức và phương pháp thực hiện cụ thể phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, ngành hoặc địa phương mình, góp phần thúc đẩy quá trình cơ cấu và tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Chương 2 Thực trạng sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Quảng bình trong thời gian qua 2.1. tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong những năm qua 2.1.1. Điều kiện về vị trí địa lý và tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình Quảng Bình là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt. Trước hết, Quảng Bình án ngữ con đường thông thương đôi miền Nam Bắc của đất nước, Phía bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, ngăn cách bởi dãy Hoành Sơn chạy theo hướng Tây sang Đông. Phía nam giáp tỉnh Quảng Trị, có chung địa giới dài 75 km. Phía tây giáp tỉnh Khăm Muộn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, với đường biên dài 201,87 km. Phía đông là biển Đông với đường bờ biển dài 116,04 km. Quảng Bình là một trong những tỉnh có diện tích vào loại nhỏ của miền Trung, có diện tích tự nhiên phần đất liền là 8.037,6 km2. Với đặc điểm địa hình đa dạng, Quảng Bình được đánh giá là vùng đất có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và du lịch. Về tài nguyên đất, Quảng Bình có nhiều loại, bao gồm: nhóm đất cát phân bố chủ yếu dọc bờ biển có diện tích 77.490 ha, thuận lợi phát triển các cây lâm nghiệp, các loại hoa màu, cây thực phẩm, nhóm đất mặn có diện tích 93.328 ha phân bố chủ yếu ở cửa sông cho phép phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ, trồng cây lương thực và cây công nghiệp chịu mặn. Nhóm đất phù sa - đây là loại đất chính được sử dụng phát triển cây lương thực, cây thực phẩm và chăn nuôi. Nhóm đất lầy và than bùn với đặc điểm giàu hữu cơ, mùn cao rất phù hợp với việc phát triển các loại cây nông nghiệp trên phạm vi toàn tỉnh. Về rừng tự nhiên, Quảng Bình có 230.142 ha, trong đó rừng giàu có 81.800 ha, rừng trung bình có 67.800 ha, rừng nghèo 59.300 ha, rừng phục hồi 21.200 ha, tổng trữ lượng gỗ: 28.248 triệu m3 với nhiều giống loài quý hiếm như: gỗ mun, trầm hương, huỳnh nghiến… Tài nguyên biển, Quảng Bình tương đối lớn về trữ lượng và rất phong phú về loài, với trữ lượng trên dưới 20 vạn tấn hải sản và có hầu hết các loại hải sản có mặt ở Việt Nam: 1.605 loài. Biển Quảng Bình có những loài thủy sản mà các tỉnh khác có ít hoặc không có như: tôm hùm, tôm sú, san hô, mực ống, mực nang... Trong đó mực ống, mực nang chiếm trữ lượng lớn và có chất lượng cao là một trong những nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các đơn vị chế biến thủy - hải sản xuất khẩu trên phạm vi toàn tỉnh. Khoáng sản Quảng Bình phong phú về chủng loại (gần 40 loại khác nhau), trong đó đáng chú ý là khoáng sản phi kim loại có trữ lượng lớn cho phép phát triển các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, hóa chất, phân bón. Khoáng sản dùng làm nhiên liệu có than đá, khai thác phục vụ tại chỗ, khoáng sản kim loại có kim loại đen, màu, kim loại quý: sắt, mang gan, chì, kẽm có trữ lượng cho phép khai thác quy mô nhỏ, phục vụ tại chỗ, riêng vàng có trữ lượng lớn đang được thăm dò trên quy mô lớn. Khoáng sản phi kim loại có phốt pho rít, phi rít, than bùn có chất lượng cao, thành phần quặng đơn giản, trữ lượng đáng kể có thể khai thác làm nguyên liệu phân bón và hóa chất. Tài nguyên dùng làm nguyên liệu gốm, sứ, phục vụ công nghiệp dân dụng có cao lanh trữ lượng 36 triệu tấn, cát trắng thạch anh có chất lượng cao, dễ khai thác phục vụ sản xuất kính dân dụng cao cấp, thủy tinh... có trữ lượng lớn trên 35 triệu tấn [4]. Nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng khá phổ biến và phân bố rộng khắp như: đá vôi, đá sét xi măng, sét gạch ngói; mạch nước khoáng có độ khoáng hóa cao, có khả năng dùng trong y học… Về tiềm năng du lịch, Quảng Bình là vùng đất tiếp biến văn hóa trên cả hai chiều Bắc - Nam và Đông - Tây, đồng thời cũng là nơi tạo hóa của thiên nhiên để lại nhiều cảnh quan kỳ vĩ. Đặc biệt là khu danh thắng Phong Nha - Kẻ Bàng vừa qua được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới đã thu hút được rất nhiều du khách tham quan, mở ra tiềm năng phong phú cho việc phát triển các loại hình du lịch như tham quan, thám hiểm, nghỉ ngơi, nghiên cứu, du lịch sinh thái. Xuất phát từ những điều kiện trên mà doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như: Quản lý, bảo vệ phát triển tài nguyên rừng, khai thác chế biến, kinh doanh các loại lâm sản và tài nguyên khác; sản xuất chế biến hải sản và nuôi trồng thủy sản xuất khẩu; sản xuất khai thác vật liệu xây dựng: xi măng, khai thác đá, sản xuất gốm sứ; kinh doanh thương mại, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Ngoài ra Quảng Bình còn có các xí nghiệp khai thác công trình thủy lợi, Công ty sản xuất giống cây trồng, giống gia súc, sản xuất phân bón phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh. 2.1.2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong những năm qua Đến hết năm 2002, ở Quảng Bình có 49 doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý (gồm 37 doanh nghiệp kinh doanh và 12 doanh nghiệp công ích), phần lớn các doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như nông, lâm nghiệp có 13 doanh nghiệp chiếm 27%, với tổng số vốn Nhà nước hiện có là 68,9 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 5,3 tỷ đồng); lĩnh vực công nghiệp chế biến có 8 doanh nghiệp chiếm 16%, với tổng vốn nhà nước là 33,3 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 4,2 tỷ đồng); lĩnh vực xây dựng và vật liệu xây dựng có 5 doanh nghiệp chiếm 10%, với tổng vốn nhà nước là 15,5 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 3,1 tỷ đồng); lĩnh vực thương mại, du lịch - khách sạn - nhà hàng có 8 doanh nghiệp chiếm 16%, với tổng vốn nhà nước là 24,7 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 5,2 tỷ đồng); còn lại là 15 doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác như giao thông vận tải, dịch vụ tư vấn, văn hóa - thể thao, dịch vụ công cộng chiếm 31%, với tổng số vốn nhà nước là 55.053 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng (xem phụ lục 01). Qua đó có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đó là: Số lượng doanh nghiệp không nhiều, kinh doanh ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đa số có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sản lượng hàng hóa thấp, chủng loại ít, chất lượng sản phẩm chưa cao,thị trường tiêu thụ hẹp, chủ yếu là nội tỉnh, chưa có các loại hàng hóa chủ lực; năng lực, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nhiều doanh nghiệp còn yếu, khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế chưa đáp ứng được so với yêu cầu đổi mới. Có thể đánh giá cụ thể tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý qua bảng số liệu dưới đây: Biểu 2.1: Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Bình (2000-2002) ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng cộng D.N K.d D.N C.ích Tổng cộng D.N K.d D.N C.ích Tổng cộng D.N K.d D.N C.ích - Số lượng D.nghiệp 58 46 12 53 41 12 49 37 12 - Vốn kinh doanh: + Vốn Nhà nước + Vốn vay + Vốn khác 531,6 212,0 308,6 11,0 503,8 188,7 304,4 10,7 27,8 23,3 4,2 0,26 556,4 206,3 334,1 16,0 520,8 176,3 329 15,5 35,6 30,0 5,1 0,5 693,2 214,0 464,2 15,0 656,2 183,9 457,8 14,5 37 30,1 6,4 0,5 - Tổng doanh thu 920,9 872,9 48,0 1131 1071 60,0 953,7 895,6 58.1 - Nộp ngân sách: Nộp ở địa phương 122,9 36,6 121,9 35,3 1 1 116,3 37,1 115,4 36,2 0,9 0,9 118,7 37,8 117,8 36,9 0,9 0,9 - Lao động (người) 10.66 9 9585 1.084 10.85 5 9481 1.374 11.07 6 9.702 1.374 - Lãi (+); Lỗ (-) 6,6 5,2 1,4 5,9 4,8 1,1 5,1 3,9 1,2 Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (2000-2002), Báo cáo tổng hợp tài chính doanh nghiệp nhà nước Quảng Bình, Quảng Bình [19]. Biểu 2.1 cho thấy, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp tăng nhanh trong năm 2002, chủ yếu do tăng cường năng lực sản xuất mới từ các dự án đầu tư được đưa vào sử dụng: so với năm 2000 tổng vốn trong năm 2002 tăng 30,4%, trong đó vốn của doanh nghiệp công ích tăng 37%; trong cơ cấu, vốn Nhà nước có tỷ trọng giảm dần từ 40% năm 2000 còn 31% năm 2002, vốn vay ngân hàng có xu hướng tăng từ 58% lên 68%, nguồn vốn khác cũng tăng đáng kể. Trong tổng số 214 tỷ vốn Nhà nước, có khoảng 60 tỷ là vốn lưu động thì đến 31/12/2002 các khoản vốn không có khả năng thu hồi vào khoảng 30,4 tỷ đồng, tập trung ở một số doanh nghiệp như Công ty Xây dựng và vật liệu xây dựng, Công ty Hóa chất, Công ty Sông Gianh. Số nộp ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước năm 2001 giảm 3%, năm 2002 giảm 5% so với năm 2000, chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu giảm. Riêng nộp ngân sách tại địa phương có tăng nhưng không đáng kể từ 36,6 tỷ đồng năm 2000, lên 37,1 tỷ đồng năm 2001 và 37,8 tỷ đồng năm 2002; các doanh nghiệp công ích nộp ngân sách ổn định khoảng 1 tỷ đồng. Một trong những lý do, đầu tư tăng nhanh trong khi phần thu tại địa phương chưa cao là do các dự án mới đưa vào sản xuất trong giai đoạn đầu chưa có lãi hoặc đang bị lỗ và đang được hưởng các ưu đãi về đầu tư. Lợi nhuận thực hiện của các doanh nghiệp có xu hướng giảm, riêng năm 2002 lợi nhuận thực hiện là 5,1 tỷ đồng có mức thấp nhất trong 3 năm liên tiếp. Trong năm 2002, một số doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc đẩy mạnh sản xuất, tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ, hoạt động sản xuất kinh doanh bước đầu đã có lãi, nhưng do lỗ lũy kế từ những năm trước lớn đã làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh trong năm như Công ty Xây dựng và Vật liệu xây dựng, Công ty Gốm sứ, Công ty nước Khoáng Bang... Một số doanh nghiệp khác có lợi nhuận tương đối cao và ổn định như Công ty sông Gianh, Công ty Cao su Việt Trung, Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, Công ty cấp thoát nước… Tổng hợp kết quả phân loại doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh theo kết quả kinh doanh trong 3 năm (2000-2002) được thể hiện cụ thể trong biểu sau: Biểu 2.2: Phân loại doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (2000-2002) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng cộng D.N K.d D.N C.íc h Tổng cộng D.N K.d D.N C.íc h Tổng cộng D.N K.d D.N C.íc h - Tổng số doanh nghiệp: 58 46 12 53 41 12 49 37 12 + Doanh nghiệp có lãi 36 28 8 34 25 9 30 22 8 + Doanh nghiệp hòa vốn 15 12 3 13 10 3 14 10 4 + D. nghiệp không có lãi 7 6 1 6 6 - 5 5 - Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (2000-2002), Báo cáo tổng hợp tài chính doanh nghiệp nhà nước Quảng Bình, Quảng Bình [19]. Kết quả xếp loại ở biểu 2.2 cho thấy doanh nghiệp công ích trong hai năm 2001 và 2002 không có đơn vị bị thua lỗ do doanh nghiệp đã chủ động đẩy mạnh phần hoạt động kinh doanh để hỗ trợ cho phần công ích. Riêng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vẫn chưa khẳng định được chỗ đứng của mình trong nền kinh tế thị trường, chưa có doanh nghiệp nào có sự tăng trưởng vượt bậc, thậm chí còn có xu hướng sụt giảm. Năm 2002 số doanh nghiệp kinh doanh có lãi là 30 doanh nghiệp, nếu so sánh về số lượng giảm 16,7%, còn xét về tỷ trọng cơ cấu doanh nghiệp có lãi giảm 1% so với năm 2000; số doanh nghiệp thuộc diện kinh doanh thua lỗ giảm không đáng kể, nguyên nhân trong số 5 doanh nghiệp bị lỗ năm 2002 đã có đến 3 doanh nghiệp bị lỗ từ năm trước chuyển sang do đang trong thời kỳ đầu thực hiện các dự án đầu tư đây chuyền sản xuất gồm có: dự án dây chuyền sản xuất gạch tráng men của Công ty Gốm sứ, dây chuyền sản xuất nước khoáng đóng chai theo công nghệ mới của Công ty nước khoáng Bang và dây chuyền sản xuất nhôm thanh của Nhà máy thanh nhôm định hình. 2.1.2.1. Những mặt đạt được của các doanh nghiệp nhà ở Quảng Bình trong những năm qua Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý đã có nhiều đóng góp hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cụ thể là: - Doanh nghiệp nhà nước tỉnh đã đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách tỉnh, chiếm tỷ lệ thu cao nhất trong lĩnh vực sản xuất vật chất (bình quân hàng năm chiếm 20% đến 30% tổng số thu của ngân sách tại địa phương). - Doanh nghiệp nhà nước tỉnh đã góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tạo việc làm cho người lao động cũng như tích lũy và tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà. - Trong những năm gần đây, qua sắp xếp và đổi mới một số doanh nghiệp nhà nước đã có sự chuyển biến tích cực trong cách nghĩ và hành động - từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ngày càng quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế, lấy đó làm thước đo kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, kinh doanh theo lối bao cấp, thiếu trách nhiệm dần dần được khắc phục. Các doanh nghiệp dần dần thực sự đi vào hạch toán kinh doanh, chủ động xây dựng kế hoạch và phương án sản xuất kinh doanh, tìm mọi biện pháp sử dụng có hiệu quả hơn về lao động, tiền vốn, tài sản của doanh nghiệp, bước đầu kinh doanh có lãi, thu nhập của người lao động ngày càng tăng, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Một số doanh nghiệp đã phát huy được tính năng động, sáng tạo trong kinh doanh, chủ động trong việc khai thác tiềm năng và thế mạnh của mình, mạnh dạn đầu tư vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm điển hình như: Công ty Phân bón sông Gianh, Xí nghiệp cơ khí tàu thuyền Nhật Lệ... Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản các doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng được nhiều công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho tỉnh; các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đã cố gắng duy trì và có sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu, khai thác thế mạnh của các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như: nông, lâm, thủy, hải sản... góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng nguồn thu thuế xuất khẩu cho ngân sách Trung ương và tỉnh. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích góp phần thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng cũng phải nhìn nhận rằng các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh hiện nay chưa tương xứng với vai trò, tiềm năng và sự quan tâm đầu tư của tỉnh, còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém mà nếu không được khắc phục sẽ không thể đứng vững trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay. 2.1.2.2. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình Sự yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình thể hiện trên các mặt sau đây: Một là, Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế hiện có, tốc độ tăng trưởng có biểu hiện giảm dần, không ít các doanh nghiệp nhà nước còn ỷ lại sự bao cấp của Nhà nước. Theo Báo cáo tổng hợp về tài chính của doanh nghiệp nhà nước và kết quả xếp loại trong năm 2002, trong tổng số 49 doanh nghiệp nhà nước có 61% số doanh nghiệp kinh doanh có lãi, số vốn nhà nước có tại các doanh nghiệp này là 155,6 tỷ đồng chiếm 73%, doanh thu chiếm 74,5%, số lao động chiếm 78% và thu nộp ngân sách chiếm 79,9%. Số doanh nghiệp kinh doanh chưa có hiệu quả (hòa vốn) chiếm 29% trong tổng số doanh nghiệp, có số vốn nhà nước là 35,3 tỷ đồng chiếm 16%, doanh thu chiếm 18,5%, lao động chiếm 15,2% và thu nộp ngân sách chiếm 15,1%; số doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả (thua lỗ) chiếm 4% trong tổng số doanh nghiệp, có số vốn chiếm 11%, doanh thu chiếm 6,7%, lao động chiếm 7,3% toàn bộ doanh nghiệp nhà nước trên toàn tỉnh (xem phụ lục 02). Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước của doanh nghiệp nhà nước nhìn chung là thấp và có xu hướng giảm dần, nếu như năm 2000 là 3,5%, năm 2001 là 2,9% thì năm 2002 là 2,4%. Tình trạng công nợ ở các doanh nghiệp nhà nước tỉnh hiện nay là khá nghiêm trọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Theo Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2002, tổng số nợ phải trả của các doanh nghiệp là 748 tỷ đồng (vay dài hạn chiếm 30%, nợ khác 2% còn lại là nợ ngắn hạn và nợ ngân sách), gấp 1,5 lần nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước, trong đó nợ quá hạn 7 tỷ đồng; tổng số nợ khó đòi của các doanh nghiệp vẫn ở mức cao 10,2 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp nhà nước hoạt động gần như hoàn toàn bằng vốn vay và khả năng thanh toán nợ thấp. Tình trạng đầu tư, mua sắm tài sản cố định bằng vốn vay là khá phổ biến tại các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh, do phải chịu chi phí trả lãi vay lớn nên giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh luôn cao hơn so với giá thành của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dẫn đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém, hiệu quả kinh doanh thấp (xem phụ lục 04). Hai là, các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh tuy đã được sắp xếp lại nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn, số lượng doanh nghiệp còn nhiều, nhưng lại nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề kinh doanh. Việc sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước của tỉnh trong thời gian qua đã làm thay đổi một bước cơ cấu vốn và lao động tại các doanh nghiệp, có tác động nhất định tới quá trình tập trung và tích tụ sản xuất. Tuy vậy, hiện nay quy mô của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh vẫn còn rất nhỏ, lẻ, trong số 214 tỷ đồng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thì bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ có 4,3 tỷ đồng vốn, trong đó: có 5 doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 1 tỷ đồng, chiếm 10,2%, 21 doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 1 - 3 tỷ đồng chiếm 42,8%; 11 doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 3 - 5 tỷ đồng chiếm 22,5%; 7 doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ trên 5 - 10 tỷ đồng chiếm 14,3%, 3 doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ trên 10 - 20 tỷ đồng chiếm 6,1% và 2 doanh nghiệp có vốn trên 20 tỷ đồng chiếm 4% (xem phụ lục 03). Trong tổng số 49 doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn tỉnh thì có đến 6 lâm trường, thực hiện nhiệm vụ quản lý và khai thác tài nguyên rừng, 6 doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ thi công xây lắp các công trình dân dụng, giao thông thủy lợi, 3 Công ty tư vấn thiết kế, 2 doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ duy tu, sửa chữa các công trình giao thông đường bộ từ đó đã tạo ra sự chồng chéo về ngành nghề kinh doanh cũng như cơ quan quản lý trên cùng một địa bàn. Ba là, trình độ kỹ thuật và công nghệ thiết bị sản xuất cũ kỹ, lạc hậu, đầu tư chắp vá, thiếu đồng bộ, công suất huy động thấp, không ổn định, đặc biệt chưa đáp ứng các yêu cầu chế biến nông lâm hải sản và phát huy thế mạnh của tỉnh. Theo Báo cáo tổng hợp tài chính doanh nghiệp nhà nước năm 2002, trong tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước có 46% là tài sản cố định, nhưng chỉ có 65% tài sản cố định hiện đang sử dụng được coi là có hiệu quả, số tài sản cố định còn lại hoặc là không sử dụng được, hoặc vẫn sử dụng nhưng do công nghệ quá lạc hậu và cũ nên giá thành sản phẩm thường cao hơn rất nhiều so với giá thành chung của sản phẩm cùng loại. Theo đánh giá của Ban đổi mới doanh nghiệp, đa số máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất tại các doanh nghiệp tỉnh đều lạc hậu so với thế giới từ 15 đến 20 năm, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa rất thấp. Tình hình đó dẫn đến hậu quả là chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh của sản phẩm bị hạn chế mà điển hình nhất là sản phẩm đường kính của Nhà máy đường Quảng Bình. Bốn là, tình trạng lao động thiếu việc làm và dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh là một trở ngại lớn làm chậm tiến trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Lao động dôi dư đến nay vẫn là vấn đề nan giải ngay cả với các doanh nghiệp đã hoặc đang thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu như cổ phần hóa hay bán, khoán, cho thuê... lý do chủ yếu là từ thời bao cấp, trong các doanh nghiệp nhà nước giám đốc doanh nghiệp được tự chủ trong tuyển dụng lao động, không có quy định khống chế định mức, dẫn đến tình trạng giám đốc tuyển chọn quá nhiều lao động so với nhu cầu sản xuất. Hậu quả là khi các doanh nghiệp tiến hành sắp xếp lại đều có một bộ phận người lao động không đáp ứng được yêu cầu và trở thành lao động dôi dư. Trong khi theo quy định hiện hành trường hợp doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu, thì người sử dụng lao động kế tiếp vẫn phải thực hiện hợp đồng lao động với tất cả lao động của doanh nghiệp, điều này đã trở thành vật cản của quá trình cải cách đổi mới doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh. Theo báo cáo của Ban đổi mới doanh nghiệp, tính đến ngày 31/12/2002 tại các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh có khoảng 12% số lao động thiếu việc làm, cá biệt ở một số doanh nghiệp con số này còn lên đến 40%. Điều đáng quan tâm là trong cơ cấu lao động dôi dư của doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh thì chiếm đại đa số là lao động có trình độ thấp, chưa qua đào tạo hoặc đào tạo hạn chế, trừ một số dự án, nhà máy, xí nghiệp mới đầu tư có kỹ sư, công nhân được đi đào tạo, bồi dưỡng cả trong và ngoài nước theo chương trình dự án, các doanh nghiệp còn lại đều có trình độ tay nghề công nhân thấp. Ngay cả một số dự án mới đầu tư nhưng do thiếu công nhân có tay nghề, thiếu thợ kỹ thuật bậc cao và chuyên gia, kỹ sư giỏi nên chất lượng sản phẩm kém như: Gạch CERAMIC; nhôm thanh định hình; nước khoáng… Năm là, trình độ quản lý của các doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn yếu, thiếu năng động, chưa đáp ứng với cơ chế thị trường. Một số cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo của các doanh nghiệp vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp, bảo hộ từ phía Nhà nước. Trong hoạt động kinh doanh vẫn chưa có sự gắn kết, ràng buộc trách nhiệm giữa người giám đốc với hiệu quả sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nếu làm ăn thua lỗ, nợ nần thì Nhà nước gánh chịu, trong khi đó trách nhiệm về vật chất của người giám đốc doanh nghiệp lại không được quy định rõ. Từ những phân tích trên cho thấy, mặc dù trong những năm qua doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đã có nhiều đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện và cơ hội cho kinh tế của tỉnh hội nhập với kinh tế cả nước và khu vực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém. Do vậy, để phát huy những ưu điểm và vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện phát triển mới, cần phải tiếp tục tổ chức sắp xếp lại và đổi mới các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 của Đảng và chương trình hành động của Chính phủ. 2.2. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quá trình sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Chính phủ đã ban hành hàng loạt quyết định về đổi mới doanh nghiệp nhà nước và trên thực tế đã tổ chức thực hiện nhiều biện pháp rất mạnh trên cả hai mảng: sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. 2.2.1. Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước - Theo Quyết định 315/HĐBT các doanh nghiệp phải rà soát lại chức năng hoạt động kinh doanh, rà soát lại các yếu tố sản xuất kinh doanh như: Thị trường, công nghệ, vốn, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy và cán bộ, soát xét lại tình hình tài chính doanh nghiệp, chấp hành kỷ luật tài chính, kế toán, thống kê... - Theo Nghị định 388/HĐBT, các doanh nghiệp nhà nước phải được thành lập lại, đăng ký lại để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Như vậy Nghị định 388 như một giải pháp hợp pháp hóa để công nhận những doanh nghiệp nhà nước tồn tại được trong cơ chế thị trường; đồng thời loại bỏ được những doanh nghiệp chỉ tồn tại trên danh nghĩa. - Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành tháng 4-1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra cơ sở pháp lý tổng quát trong quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước với Nhà nước. - Về các nội dung cụ thể của cơ chế, đáng chú ý là hai mảng: tài chính và lao động. Nghị định 27/NĐ-CP (1999) bổ sung, sửa đổi Nghị định 59/NĐ-CP (1996) nhằm xác lập cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Theo các nghị định này, một loạt cơ chế tài chính được áp dụng như: Nhà nước giao quyền quản lý và sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp. Nhà nước hạn chế dần và tiến đến chấm dứt sự can thiệp vào công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách tái cấp vốn cho những doanh nghiệp vay vốn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh tăng thu nhập cho ngân sách. Các vấn đề quản lý, sử dụng vốn, tài sản, quản lý doanh thu, chi phí được giao đầy đủ cho doanh nghiệp, Nhà nước chỉ thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh, công tác quản lý của doanh nghiệp chứ không can thiệp, không làm thay cho doanh nghiệp. Chính sách phân phối lợi nhuận cũng tập trung vào việc bảo toàn vốn, mở rộng kinh doanh cho doanh nghiệp nhờ vậy mà hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không ngừng được mở rộng, hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp được nâng lên. Về cơ chế sử dụng lao động, theo tinh thần Bộ Luật lao động (12-1994) đã có một loạt quyết định cho phép doanh nghiệp nhà nước tăng quyền tự chủ trong sử dụng lao động và trả lương… 2.2.2. Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước Các biện pháp sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn từ 1990 đến nay được chia thành 3 đợt sau: - Đợt thứ nhất, thực hiện trong giai đoạn 1991-1993 theo Quyết định 315/HĐBT (9-1990) về giải thể và tổ chức lại những doanh nghiệp nhà nước yếu kém, Nghị định 388/HĐBT (11-1991) về nguyên tắc, điều kiện thành lập doanh nghiệp nhà nước, Quyết định số 202 (6-1992) thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. - Đợt thứ hai, thực hiện trong giai đoạn 1994-1997 theo Quyết định số 90/TTg và 91/TTg (3-1994) và Chỉ thị 500/TTg (5-1995) về sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước giải thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty trước đây, hình thành những tổng công ty có quy mô lớn (Tổng Công ty 91) và quy mô vừa (Tổng Công ty 90) Nghị định 28/NĐ-CP (5- 1996) về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. - Đợt thứ ba, thực hiện từ giữa năm 1998 đến nay, theo Chỉ thị 20/CT-TTg (4-1998), Chỉ thị 15/CT-TTg (5-1999), Nghị định 44/NĐ-CP (6-1998) và Nghị định 64/NĐ-CP (19/6/2002) về cổ phần hóa kết hợp sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Có ba nội dung cơ bản về sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước được nhấn mạnh là: Sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo phương án tổng thể từng vùng, ngành, tổ chức lại tổng công ty theo hướng thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; Nghị định số 103/1999/NĐ-CP, Nghị định 49/NĐ-CP bổ sung, sửa đổi Nghị định 103/NĐ-CP về giao, bán khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, kinh doanh thua lỗ kéo dài hoặc thuộc ngành nhà nước không năm giữ cổ phần đã được ban hành để có cơ sở sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước nhỏ, yếu kém. 2.3. Thực trạng về quá trình sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Quảng bình trong thời gian qua 2.3.1. Tình hình và kết quả thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong những năm qua Khi tách tỉnh, Quảng Bình có 176 doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên nhiều lĩnh vực, thuộc sự quản lý của tỉnh và huyện thị, nhìn chung các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, kinh doanh đơn điệu, hiệu quả kinh tế xã hội hạn chế, gắn liền với thời kỳ bao cấp toàn diện. Thực hiện Nghị định 388/HĐBT, năm 1991 - 1992 tỉnh đã tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp, chủ yếu là thu gọn đầu mối, tăng cường quy mô và địa bàn hoạt động bằng việc sát nhập các doanh nghiệp từ huyện thị vào doanh nghiệp chuyên ngành trực thuộc tỉnh quản lý, toàn tỉnh có 72 doanh nghiệp nhà nước. Năm 1995 - 1997, thực hiện Chỉ thị 500/TTg (25/081995) của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã tổ chức sắp xếp còn lại 66 doanh nghiệp nhà nước. Năm 1998, trên cơ sở tăng cường năng lực của doanh nghiệp nhà nước, tỉnh đã tiến hành sắp xếp bằng việc sáp nhập một số doanh nghiệp có tính chất sản xuất - kinh doanh tương tự; đồng thời giải thể hai doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ trong nhiều năm thuộc ngành văn hóa - thương mại, toàn tỉnh còn lại 61 doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt từ năm 1999 đến nay, thực hiện phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý theo Chỉ thị 20/TTg (21-4-1998) về đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, tỉnh đã tập trung chỉ đạo và có các chính sách tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực và chất lượng kinh doanh - dịch vụ, ngày càng làm ăn có hiệu quả [21]. Tổng hợp kết quả và các hình thức sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn của tỉnh được thể hiện ở bảng dưới đây: Biểu 2.3: Kết quả sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh (1998 - 2002) Hình thức Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng số Sáp nhập 3 1 1 2 0 7 Hợp nhất 0 0 0 0 2 2 Cổ phần hóa 0 0 1 3 3 7 Giao, bán khoán KD, cho thuê 0 0 0 0 0 0 Giải thể 2 0 0 0 0 2 Tổng số 5 1 2 5 5 18 Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (1998-2002), Báo cáo tiến độ cổ phần hóa, giao, bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp nhà nước, Quảng Bình [18]. - Về tổ chức sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước Đã tiến hành tổ chức sáp nhập doanh nghiệp nhỏ có nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trong tổ chức điều hành và thị trường tiêu thụ sản phẩm vào các doanh nghiệp lớn hơn, cụ thể là: Xí nghiệp Gạch ngói 1-5, Công ty Xây lắp 1, công ty xây lắp 2 Quảng Bình được sáp nhập vào công ty Xi Măng áng Sơn và đổi tên thành Công ty Xây dựng và vật liệu xây dựng Quảng Bình; Nhà máy Đông lạnh Đồng Hới được sáp nhập vào Công ty xuất nhập khẩu Quảng Bình; Xí nghiệp cơ khí Thủy Lợi được sáp nhập vào công ty Cơ Điện Nông nghiệp Quảng Bình; Công ty Thương mại Nam Quảng Bình được sáp nhập vào Công ty Thương mại miền núi Quảng Bình; xí nghiệp súc sản Quảng Bình được sáp nhập vào công ty kinh doanh tổng hợp Quảng Bình. Sau khi sáp nhập, nhìn chung các doanh nghiệp đã có xây dựng phương án sản xuất kinh doanh thích hợp, tổ chức bố trí cán bộ hợp lý, đã giải quyết công ăn việc làm và thực hiện các chính sách cho người lao động, tích cực giải quyết các tồn tại về tài chính, công nợ…Một số đã có dự án đầu tư để mở rộng và phát triển sản xuất, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong sản xuất kinh doanh và đóng góp ngân sách cho tỉnh. - Về hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước Như đã trình bày ở trên, đối với Quảng Bình du lịch là một tiềm năng lớn và đa dạng, bao gồm du lịch sinh thái, du lịch hang động, du lịch lịch sử, du lịch tắm biển, điều dưỡng và du lịch lữ hành... nhưng chưa được khai thác đầy đủ, chất lượng còn hạn chế. Do vậy, việc tổ chức mới Công ty Du lịch Quảng Bình từ hai đơn vị là Công ty Khách sạn - Du lịch Đồng Hới, Khách sạn Phương Đông và bộ phận quản lý du lịch Phong Nha (Sở Văn hóa) là bước đi đúng hướng, làm nòng cốt cơ bản để khai thác tiềm năng du lịch hiện tại và những năm tiếp theo một cách đồng bộ và vững chắc. Qua quá trình hoạt động, Công ty đã có nhiều chuyển biến tích cực trong các lĩnh vực tổ chức bộ máy, mở rộng hoạt động kinh doanh - dịch vụ, bước đầu nâng cao được chất lượng phục vụ ở một số khâu quan trọng, xây dựng các dự án nâng cấp, mở rộng, đầu tư mới để tăng thêm sản phẩm du lịch và thu hút ngày càng nhiều du khách đến tham quan du lịch. Theo ước tính trong năm 2003 số lượng du khách đến với Quảng Bình vào khoảng 65-70 ngàn người, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Việc hình thành tổ chức mới, trên cơ sở hợp nhất những doanh nghiệp đã có để tập trung đầu mối, tăng cường năng lực, kinh doanh đa ngành, đa sản phẩm, kết hợp với quản lý những vùng lãnh thổ nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh… cần thiết được xây dựng để thực hiện ở một số lĩnh vực trong thời gian tới. - Về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước Tính đến 31/12/2002 tỉnh đã tiến hành cổ phần hóa được 7 doanh nghiệp nhà nước là Công ty Vận tải ô tô, Công ty Vận tải thủy Đồng Hới, Xí nghiệp Vận tải Lâm sản, Công ty Điện tử tổng hợp, Xí nghiệp Gạch ngói 1-5, Công ty Cơ điện Nông nghiệp và Công ty Cơ khí xây dựng công trình, các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần tuy số lượng ít, quy mô còn nhỏ, hình thức tổ chức không phức tạp, trong sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn nhưng là kết quả bước đầu hết sức quan trọng và đáng khích lệ. Điều đáng nói là quy trình cổ phần hóa đã được triển khai thực hiện một cách đầy đủ và triệt để từ khâu chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp hỗ trợ của các ban ngành và tính chủ động của ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên các doanh nghiệp trong xây dựng phương án sản xuất, điều lệ công ty, thực hiện các chế độ đối với người lao động; việc đánh giá tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và xử lý các ưu đãi cho doanh nghiệp một cách linh hoạt, đồng bộ đã giúp cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa có nhiều thuận lợi. Về mặt tư tưởng, mặc dù ban đầu còn có những vướng mắc nhưng khi đã được phổ biến chính sách của Nhà nước một cách đầy đủ và nhất là quá trình xây dựng phương án đã thực sự dân chủ bàn bạc… vì vậy cán bộ công nhân viên đã đồng tình với chủ trương và cách làm. Mặt khác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị cũng như quyền lợi của người lao động được giải quyết thỏa đáng, đã thực sự làm cho cán bộ công nhân viên vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm, vừa an tâm hơn trong môi trường kinh doanh mới. Trong từng doanh nghiệp, sau khi cổ phần đã có phương án kinh doanh đổi mới vừa củng cố, tăng cường mở rộng ngành nghề cũ, vừa đăng ký kinh doanh thêm những ngành nghề mới phù hợp với năng lực hiện có, nhờ vậy chỉ trong một khoảng thời gian ngắn các doanh nghiệp cổ phần đã đạt được những tín hiệu đáng mừng, doanh thu tăng từ 1,5 đến 2 lần, nộp ngân sách tăng, cụ thể là, Công ty cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng 1-5, Công ty cổ phần Ôtô đã có những kết quả đáng khích lệ. Sản lượng và giá trị sản xuất tăng trên 50%, các khoản nợ được thanh toán sòng phẳng; nộp ngân sách vượt kế hoạch tỉnh giao từ 20-30%, thu nhập của người lao động tăng ổn định (Lương bình quân của công ty cổ sản xuất vật liệu xây dựng 1-5 là 1,5 triệu đồng/người tăng 90% so với thời điểm trước cổ phần hóa doanh nghiệp; lợi tức cổ phiếu đã đạt mức cao 4,5%/tháng). Công ty cổ phần Vận tải thủy Đồng Hới, Công ty cổ phần hóa vận tải và kinh doanh tổng hợp Quảng Bình... cũng đang triển khai các dự án cải tạo phương tiện, thiết bị; tổ chức thêm ngành nghề kinh doanh mới, bước đầu đã thu được kết quả khả quan, các doanh nghiệp đều có lãi cao hơn trước nhiều lần, các tồn đọng về tài chính từng bước được giải quyết, các phát sinh mới về công nợ ít; việc trích lập các quỹ đã được chú ý, nhất là quỹ phúc lợi là quỹ khuyến khích sản xuất. Đến hết năm 2002 tình hình hoạt động của các công ty cổ phần thể hiện như sau: Biểu 2.4: Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trước và sau cổ phần hóa đến 31/12/ 2002 ĐVT: triệu đồng Tên Công ty cổ phần Doanh thu Lợi nhuận Nộp N.Sách Lao động Thu nhập Trư ớc CPH Sau CPH Trư ớc CPH Sau CPH Trư ớc CPH Sau CPH Trư ớc CPH Sau CPH Trư ớc CPH Sau CPH Cty CP Vận tải Ôtô 1.45 0 1.95 0 1 14.6 30 42 27 20 312 390 Cty CP vận tải Thủy 2.43 5 2699 0 13,2 25 45 20 15 330 415 Cty CP vận tải KDTH 2.69 9 3.93 5 -2 16 45 57 40 31 310 355 Cty CP Điện tử Tin học 3.35 0 4.57 0 5 14,3 110 150 21 20 415 490 Cty CP S/xuất VLXD 1.5 5.45 0 8.35 5 76,5 150, 9 350 853 215 237 780 1.50 0 Cty CP Cơ Điện NN 6.93 7 7.74 8 183 234 93 134 150 140 358 610 Cty CP Cơ khí và XDCT 4.30 8 5.32 4 19 52 180 221 123 115 530 670 Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (2002), Báo cáo tổng hợp tài chính doanh nghiệp cổ phần Quảng Bình, Quảng Bình [20]. Bên cạnh những kết quả đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động của tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên vẫn được coi trọng và có tác dụng tích cực trong lãnh đạo, trong thực hiện các nghị quyết, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong vai trò làm chủ tập thể của các doanh nghiệp, nhất là vai trò tự giám sát và chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao. - Về giải thể các doanh nghiệp Song song với việc sắp xếp, chuyển đổi các doanh nghiệp, trong thời gian qua tỉnh đã thực hiện giải thể 2 Công ty Vận tải và Dịch vụ thương mại và Công ty nhiếp ảnh Quảng Bình. Đây là 2 công ty làm ăn thua lỗ trong nhiều năm, lại không có phương án thay đổi hướng sản xuất kinh doanh cũng như phương án chuyển đổi hình thức sở hữu. - Về chuyển đổi quản lý Trong những năm qua, tỉnh đã chuyển 3 doanh nghiệp thuộc ủy ban nhân dân tỉnh (Công ty Kinh doanh tổng hợp Quảng Bình, Công ty Du lịch Quảng Bình, Công ty sông Gianh) và 2 doanh nghiệp (Công ty Khách sạn dịch vụ công đoàn, Công ty Kinh doanh tổng hợp Quảng Bình) từ quản lý sự nghiệp đoàn thể sang hoạt động kinh doanh theo Luật doanh nghiệp nhà nước, phù hợp với yêu cầu đổi mới quản lý cũng như đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất, đa dạng ngành nghề của một số doanh nghiệp lớn, bước đầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh - dịch vụ, chủ động giảm dần các khâu trung gian không cần thiết. Mặt khác đòi hỏi các ngành quản lý kinh tế, kỹ thuật, quản lý tổng hợp có những đổi mới tích cực để phù hợp với yêu cầu và quản lý doanh nghiệp nhà nước, hình thức tổ chức quản lý này cũng cần được mở rộng để áp dụng cho một số doanh nghiệp khác khi tiếp tục triển khai, thực hiện đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn tới. Bên cạnh các hình thức sắp xếp và chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi quản lý, thời gian qua các doanh nghiệp nhà nước của Quảng Bình đã thực hiện trên 10 dự án phát triển lớn, nhỏ và nhiều dự án đầu tư chiều sâu khác với tổng số vốn đầu tư khoảng 250 tỷ đồng. Phần lớn năng lực mới đã đưa vào sản xuất, thực sự đã làm thay đổi diện mạo của doanh nghiệp nhà nước Quảng Bình từ việc tăng quy mô, sử dụng công nghệ mới, tiên tiến, đa dạng sản phẩm với chất lượng đạt tiêu chuẩn trong nước và khu vực, một bộ phận đạt tiêu chuẩn Châu Âu; ngày càng thu hút nhiều hơn lực lượng lao động trẻ dẫn đến việc sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao hơn, đóng góp ngân sách tốt hơn, góp phần tích cực tăng giá trị sản xuất công nghiệp và chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một số dự án phát triển khác đang được xây dựng và triển khai, trong những năm tới sẽ làm cho vai trò của doanh nghiệp nhà nước được khẳng định hơn. Đối với Dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài để tiếp nhận công nghệ mới, mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm theo chất lượng tiêu chuẩn khu vực và thế giới là hướng ưu tiên của một số doanh nghiệp, vì vậy tỉnh cần có chính sách hỗ trợ và khuyến khích. Ngoài ra, việc đổi mới phương thức quản lý, như khoán kết quả sản xuất đến người lao động; huy động các nguồn vốn tự có, vay ưu đãi, liên doanh, liên kết mở rộng thị trường, giải quyết các loại công nợ tồn đọng, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động.v.v. cũng đã mang lại những sức sống mới cho các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh 2.3.2. Một số nhận xét, đánh giá từ kết quả thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua Mặc dù từ cuối năm 1999 đến nay tiến trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đã đạt được những thành tựu đáng kể, song so với yêu cầu và mục tiêu đặt ra thì việc tiến hành sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những hạn chế, nhiều mục tiêu chưa đạt được, nhiều vướng mắc chưa được giải quyết, đó là: - Tiến độ triển khai cũng như số lượng các doanh nghiệp của tỉnh được sắp xếp còn chậm so với kế hoạch đề ra. Theo đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh đã được Trung ương phê duyệt đến hết năm 2005, số doanh nghiệp có vốn nhà nước 100% hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối chỉ còn giữ lại 24 doanh nghiệp, trong đó: Doanh nghiệp kinh doanh là 15 doanh nghiệp và doanh nghiệp công ích là 9 doanh nghiệp, tuy vậy, đến thời điểm 31/12/2002 số doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý vẫn còn 49 doanh nghiệp. - Thời gian chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước thường kéo dài, do một số vấn đề vướng mắc phải chờ giải quyết. Một số doanh nghiệp đã có Quyết định cổ phần hóa nhưng còn một số vấn đề phải chờ trả lời của cơ quan cấp trên nên việc tiến hành diễn ra chậm, chẳng hạn vấn đề nợ thuế 4,5 tỷ đồng của Nhà máy Bia rượu Quảng Bình, nếu không xử lý đươc việc xóa nợ thuế thì không thể tiên hành cổ phần hóa được. Hoặc việc xử lý nợ phải trả cho Quỹ hỗ trợ phát triển trong việc vay vốn đầu tư 2 tàu đánh cá xa bờ mà hiện không thể trả được nợ của Xí nghiệp Thủy sản Sông Gianh. - Hình thức chuyển đổi sở hữu chủ yếu mới dừng lại ở việc áp dụng hình thức cổ phần hóa toàn bộ hoặc một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Các hình thức chuyển đổi khác như giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp chưa được áp dụng. Một điều đáng nói là thực trạng các doanh nghiệp nhà nước tỉnh thực hiện chuyển đổi đều có quy mô nhỏ, trình dộ công nghệ lạc hậu, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lỗ lũy kế và công nợ mất khả năng thanh toán lớn thì việc áp dụng hình thức cổ phần hóa sẽ mất nhiều thời gian và hiệu quả không bằng các hình thức giao, bán doanh nghiệp theo nghị định 103/NĐ-CP (10/9/1999) của Chính phủ. - Đối tượng mua cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa chủ yếu là người lao động, nhân viên, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, chưa thu hút được các cổ đông ngoài doanh nghiệp tham gia. Như vậy vốn thu hút ngoài xã hội không nhiều, việc huy động một lượng vốn cần thiết để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất không được thực hiện. Đây chính là hạn chế trong việc huy động vốn cũng như tập trung được trí tuệ của xã hội vào việc phát triển doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Kể cả cấp Trung ương cũng như cấp tỉnh đều chưa thiết lập được một cơ chế đồng bộ và có hiệu lực để thực sự tạo ra sự đột phá và có hiệu lực để thực sự tạo ra sự đột phá trong quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp như xử lý những tồn tại về lao động dôi dư, tồn tại về tài chính, cơ chế về trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp trong trường hợp kinh doanh thua lỗ kéo dài gây thất thoát vốn của nhà nước. 2.3.3. Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình - Những khó khăn, tồn tại về nhận thức tư tưởng Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương mới, tuy đã thực hiện qua một số năm, nhưng về nhận thức tư tưởng, tâm lý của một số ngành quản lý cấp tỉnh cũng như doanh nghiệp còn chưa chuyển biến kịp. Về phía cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp (Bí thư cấp ủy Đảng, giám đốc, phó giám đốc doanh nghiệp), vẫn còn tư tưởng bảo thủ, sợ mất đặc quyền, đặc lợi, sợ trách nhiệm cá nhân trong triển khai thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nên còn chần chừ, chưa quyết tâm triển khai thực hiện phương án sắp xếp doanh nghiệp đã được phê duyệt; đối với công nhân viên chức doanh nghiệp lại có tâm lý sợ mất quyền lợi nhất định của một công nhân viên chức nhà nước, sợ sẽ bị sàng lọc, đào thải nếu không đủ năng lực và trình độ quản lý, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ khi doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường mới không có sự bao cấp của nhà nước, do vậy, chủ trương sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp cũng không nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ những lực lượng này. Về phía cơ quan quản lý nhà nước, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và của các Sở chủ quản còn hạn chế chưa được coi trọng ở một số nơi, một số ngành. Không ít cán bộ lãnh đạo Sở, ban ngành, doanh nghiệp đã chưa nhận thức đầy đủ và thống nhất về vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, vẫn còn quan điểm cho rằng vai trò chủ đạo phải được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng cao mà chưa chú ý đến hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước ở tất cả các ngành, nghề khác nhau mà chưa tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, còn chần chừ thực hiện chủ trương chuyển đổi sở hữu một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sang các thành phần kinh tế khác; đặc biệt một số ngành, vẫn muốn có trong tay mình một số doanh nghiệp nhà nước đáng kể để chi phối, nếu sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp sẽ mất quyền, mất lợi ích. Vì vậy trong chỉ đạo triển khai vẫn còn nặng về hình thức và có tính chất đối phó. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc phối hợp không đồng bộ, thiếu thống nhất giữa các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, làm cho tiến trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm. Công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp chưa được quán triệt thường xuyên, sâu rộng tới lãnh đạo và đặc biệt là người lao động trong các doanh nghiệp. Vì vậy chưa tạo ra sự nhận thức sâu sắc, sự đồng tình ủng hộ đối với một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Có ý kiến cho rằng do còn nhiều khó khăn, vướng mắc khó khăn trong thực hiện nên cần tiến hành thận trọng, từng bước một cách vững chắc. - Những khó khăn, tồn tại trong công tác chỉ đạo, thực hiện Công tác phổ biến, tập huấn nghiệp vụ sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp tuy đã tiến hành ở cả cấp Trung ương và địa phương, nhưng đến nay việc thực hiện vẫn chưa có sự thống nhất đồng đều ở các địa phương, nhất là quy trình, thủ tục thực hiện, xử lý những tồn tại về tài chính, giải quyết các chính sách đối với người lao động về nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội; chưa có sự tổng kết đánh giá kịp thời để giải quyết thỏa đáng các vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn, do đó đã dẫn đến tình trạng mỗi địa phương vận dụng một cách khác nhau trong cả nước. Sự chỉ đạo, thực hiện từ Trung ương đến địa phương còn thiếu kiên quyết, có giao kế hoạch hàng năm nhưng lại không kiểm tra, đôn đốc cụ thể địa phương làm tốt cũng như địa phương làm chưa tốt, thậm chí không thực hiện cũng không sao. Trong chỉ đạo của tỉnh chưa coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, do vậy mặc dù có đề ra nhưng việc đôn đốc, nhắc nhở chưa thường xuyên nên đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp còn né tránh việc thực hiện sắp xếp, đổi mới; sự phối hợp giữa cấp ủy đảng và chính quyền còn thiếu nên kết quả chưa cao. - Những khó khăn, vướng mắc về cơ chế chính sách Cơ chế chính sách đã ban hành còn nhiều vướng mắc, chưa đồng bộ, chưa cụ thể. Đây được xem là cản trở lớn đến quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi cả nước nói chung và Quảng Bình nói riêng. Biểu hiện cụ thể là: - Về tiêu chí phân loại, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, theo Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/04/2002 của Thủ tướng Chính phủ thì Nhà nước vẫn còn nắm giữ 100% vốn đối với nhiều ngành nghề, lĩnh vực doanh nghiệp, đối với những ngành nghề lĩnh vực cổ phần hóa tỷ lệ Nhà nước chiếm giữ cổ phần chi phối còn chiếm đa số (áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn từ 5 tỷ đồng trở lên hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi - Chỉ thị 01/2003/CT-TTg). Do vậy, đã làm hạn chế phạm vi các doanh nghiệp thuộc diện được sắp xếp, chuyển đổi sở hữu theo các hình thức khác nhau. Mặt khác, do chưa có sự thốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp.pdf
Tài liệu liên quan