Tài liệu Luận văn Tiểu thuyết Dương hướng (Từ Bến Không Chồng đến Dưới Chín Tầng Trời): ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------
TRẦN THỊ PHƯƠNG THẢO
TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG
(Từ BẾN KHÔNG CHỒNG đến DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 602234
Người hướng dẫn khoa học:
GS. PHONG LÊ
THÁI NGUYÊN - 2008
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu...................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 6
7. Cấu trúc luận văn .........................................
101 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1909 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tiểu thuyết Dương hướng (Từ Bến Không Chồng đến Dưới Chín Tầng Trời), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------
TRẦN THỊ PHƯƠNG THẢO
TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG
(Từ BẾN KHÔNG CHỒNG đến DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 602234
Người hướng dẫn khoa học:
GS. PHONG LÊ
THÁI NGUYÊN - 2008
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu...................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 6
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I
BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất yếu của
công cuộc đổi mới .......................................................................................
7
1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trước và sau 1986, trước
yêu cầu đổi mới............................................................................................
9
1.3. Những người viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi mới . 15
1.4. Về Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng.
Về Dương Hướng và quá trình sáng tác......................................................
30
Chƣơng II
TỪ "BẾN KHÔNG CHỒNG", MỘT KHỞI ĐỘNG QUAN TRỌNG
TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA DƢƠNG HƢỚNG...
2.1. Chiến tranh trong nhận thức của Dương Hướng .................................... 32
2.1.1. Qua hình ảnh người lính thời hậu chiến............................................... 32
2.1.2. Qua số phận người phụ nữ.................................................................... 41
2.2. Nông thôn qua các bước ngoặt cách mạng ............................................. 44
2.2.1. Bi kịch Cải cách ruộng đất .................................................................. 45
2.2.2. Bi kịch gia tộc, dòng họ . ........................................................................ 50
2.3. Nghệ thuật tự sự trong Bến không chồng................................................ 53
2.3.1. Cốt truyện. ........................................................................................... 53
2.3.2. Nhân vật ............................................................................................... 57
2.3.2.1. Tập trung vào số phận con người...................................................... 58
2.3.2.2. Nhân vật có số phận bất hạnh ........................................................... 59
2.3.2.3. Nhân vật vừa là nạn nhân vừa là tội nhân......................................... 62
Chƣơng III
.... ĐẾN "DƢỚI CHÍN TẦNG TRỜI", BƢỚC BỨT PHÁ NGOẠN MỤC
CỦA DƢƠNG HƢỚNG TRÊN CON ĐƢỜNG ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT
3.1. Biên độ phản ánh rộng, với xuất phát từ làng Đoài ............................... 66
3.2. Sự mở rộng của các kiểu dạng nhân vật ................................................. 68
3.2.1. Hệ nhân vật trong gia tộc Hoàng Kỳ ................................................... 70
3.2.2. Nhân vật ở phía bên kia........................................................................ 74
3.2.3. Nhân vật "lên voi xuống chó" với số phận thay đổi theo sự thay đổi
của thời cuộc..................................................................................................
75
3.2.4. Nhân vật là sản phẩm của thời đại, vừa là nạn nhân vừa là tội nhân............. 80
3.2.5. Nhân vật thánh thiện ........................................................................... 82
3.3. Sự tiếp cận đa chiều về các sự kiện và thái độ khách quan của người
trần thuật............................................................................................................
83
3.4. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................. 86
KẾT LUẬN................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Dương Hướng là một trong những cây bút tên tuổi của văn xuôi
đương đại Việt Nam. Cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn
Khắc Trường, và Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Bến không chồng của
Dương Hướng là một trong ba tác phẩm nhận Giải thưởng Hội Nhà văn năm
1991, một giải thưởng sáng giá, ghi nhận thành tựu văn học Việt Nam sau 5
năm đổi mới.
1.2. Không thuộc đội ngũ "tiền trạm" xuất hiện từ đầu những năm 80
như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh
Tuấn (sinh năm 1948) người cùng thế hệ với mình, Dương Hướng vào nghề
viết ở tuổi 40, bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà
chỉ 2 năm sau, với Bến không chồng (in 1990), nhận Giải thưởng Hội nhà văn
(1991), Dương Hướng bỗng trở thành một "tên tuổi" và quan trọng hơn, trở
thành một gương mặt tiêu biểu trong công cuộc đổi mới văn học vào nửa đầu
những năm 90 của thế kỷ XX... Tác phẩm Bến không chồng đã đánh dấu một
bước "khởi động" quan trọng trong sự nghiệp sáng tác và là tác phẩm khẳng
định thành tựu mở đầu, đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao của văn
học thời kỳ đổi mới.
1.3. Trong khi Nguyễn Khắc Trường và Bảo Ninh, sau những thành
công rực rỡ được ghi nhận chưa có thêm tác phẩm nào lớn hơn, thì 15 năm
sau, Dương Hướng tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình bằng sự trở lại bởi
một tác phẩm bề thế hơn, như một sự tiếp nối và mở rộng Bến không chồng,
có tên Dưới chín tầng trời với quy mô về số trang, phạm vi bao quát đề tài, số
lượng nhân vật đông đảo... Điều đó là minh chứng cho một sức viết dồi dào,
bền bỉ và còn nhiều hứa hẹn .
1.4. Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời trong khoảng cách
15 năm, ghi nhận những thành công vượt bậc trên con đường nghệ thuật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Dương Hướng. Tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là bước đột phá so với thành
công ở Bến không chồng, không chỉ ở độ lớn về quy mô số trang, đề tài, nhân
vật mà còn cho thấy sự thay đổi lớn về tư duy nghệ thuật. Vẫn trung thành với
cấu trúc truyền thống nhưng không nô lệ vào truyền thống mà đã có sự cách
tân nhất định, Dưới chín tầng trời chắc chắn sẽ có sức thu hút trong tầm đón
đợi của độc giả.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Văn học Việt Nam từ sau đổi mới 1986 đến nay là thời kỳ văn học
có nhiều biến động, chưa hoàn tất, do đó không dễ đưa ra một cái nhìn bao
quát, tổng hợp, toàn diện hệ thống về nó.
Xét trên phương diện đổi mới trong văn xuôi, nhất là ở lĩnh vực tiểu
thuyết đã có rất nhiều bài viết, với các khía cạnh cụ thể như:
- Nguyên Ngọc: Văn xuôi Việt Nam, lôgic quanh co của các thể loại...
- Bùi Việt Thắng: Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, nhìn từ góc độ thể loại.
- Nguyễn Phượng: Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau 1975.
- Nguyễn Thị Thu Nguyên: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết...
- Nguyễn Bích Thu: Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam...
Mỗi tác giả có góc nhìn khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở mục
tiêu chỉ ra sự đổi mới trong cách tân tiểu thuyết, những nỗ lực đáng kể trong
sáng tạo của các cây bút văn xuôi Việt Nam, nhằm biểu đạt tư duy và
tâm hồn con người thời đại.
2.2. Những bài bình luận, đánh giá xung quanh tiểu thuyết Bến
không chồng.
* Những bài đánh giá, bình luận xung quanh tiểu thuyết Bến không chồng.
- Nhà văn Nguyên Ngọc đã có những nhận xét về tiểu thuyết Bến không
chồng như sau:
"Đến Bến không chồng của Dương Hướng thì tiếng kêu thét của cá
nhân bị vùi lấp càng mạnh mẽ, thống thiết hơn".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
* Viết về vai trò của cá nhân, lại đụng đến nhiều vấn đề của làng quê
Việt Nam, Bến không chồng đặt ra rất nhiều vấn đề, nhưng nhà văn chỉ xoáy
sâu vào số phận của những nhân vật gắn với thời đoạn đó, trong hoàn cảnh
đó.
* "Dương Hướng là ngòi bút có tình khi nói về nỗi đau của con người".
2.3. Tiểu thuyết Bến không chồng đã được Lưu Trọng Văn chuyển thể
khá nhuần nhuyễn thành kịch bản phim vẫn dưới cái tên Bến không chồng.
Hầu như toàn bộ cốt truyện, nhân vật, tình huống, chi tiết, cả những lời thoại
mộc mạc, dân dã trong tiểu thuyết đều được tác giả khai thác triệt để. Song
đạo diễn Lưu Trọng Ninh đã có sự phát triển theo hướng sáng tạo riêng:
không dụng công lý giải nhân vật, phát triển tuyến truyện theo lôgíc thông
thường, mà dồn đẩy nhân vật vào những tình huống đầy tính đột biến, để nhân
vật tự bộc lộ tính cách. Bộ phim thực sự lôi cuốn người xem bởi toàn cảnh
bức tranh làng Đông được tái hiện lại một cách sinh động. Đặc biệt tác giả
khai thác triệt để dấu ấn văn hoá dân gian làng quê. Cách kết thúc truyện và
số phận các nhân vật trong phim cũng có khác đi ít nhiều, như cảnh con trai
chị Hơn hy sinh ngoài chiến trường, gây sự xúc động đạt tính nghệ thuật. Thế
nhưng cái chết của nhân vật Nguyễn Vạn trong phim lại chưa có sức thu hút
lớn so với tiểu thuyết, bởi kết thúc không đúng như dụng ý nhà văn muốn
truyền đạt. Kết thúc cuộc đời Nguyễn Vạn trong tiểu thuyết là sự đổ vỡ, vì hối
hận với tội lỗi gây ra cho Hạnh và vì cả hạnh phúc của Hạnh và Nghĩa nữa;
còn kịch bản phim lại hướng vào nguyên nhân cái chết của Vạn là do áp lực
của tập tục và dư luận.
Xuất phát từ nội dung sâu sắc trong cốt truyện được đạo diễn Lưu Trọng
Ninh chuyển thể thành phim truyện nhựa mà sau đó tác phẩm Bến không chồng
đã hai lần được dịch sang tiếng Italia và Pháp. Điều đó càng khẳng định chỗ
đứng của tác phẩm trong lòng độc giả trong nước và ngoài nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
2.4. Sau Bến không chồng Dương Hướng còn viết thêm một cuốn tiểu
thuyết có tên: Trần gian đời người sau đổi là Bóng đêm và mặt trời, và một
số truyện ngắn, truyện vừa, nhưng không được sự tiếp đón nồng nhiệt, bởi nó
bị "cái bóng" của Bến không chồng che khuất. Điều đó có nghĩa là tên tuổi tác
giả xem như bị lãng quên đi một thời gian. Dương Hướng trăn trở trong im
lặng suốt 15 năm rồi trở lại với công chúng bằng một tiểu thuyết bề thế, với
cái tên đầy vĩ mô: Dưới chín tầng trời. Và với tác phẩm này tên tuổi Dương
Hướng một lần nữa được khẳng định lại.
2.5. Về các ý kiến xung quanh Dưới chín tầng trời, đáng chú ý hơn cả
là lời bạt của nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến in vào cuối truyện có tên: Cách
nhìn của Dương Hướng trong tiểu thuyết "Dưới chín tầng trời", trong đó tác
giả khẳng định giá trị cuốn sách ở những điểm sau:
- Cốt truyện li kì, hấp dẫn, nhiều tuyến nhân vật có quan hệ éo le, số
phận ba chìm bảy nổi ...
- Nhiều tuyến hành động diễn ra khắp các miền Bắc, Trung, Nam, có
làng xóm và thành phố, có chiến trường ác liệt ở Miền Nam và sinh hoạt nhộn
nhạo, rối ren vùng biên giới phía Bắc ...
- Những câu triết lí vặt được xen lẫn giữa những lời bình nhằm giảm
bớt sự đơn điệu nhưng đôi khi đặt ra được những vấn đề có chiều sâu tư
tưởng.
- Là cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi tư
tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước.
Có thể dự đoán đây là cuốn sách "ăn khách" nhất trong năm 2007.
Thế nhưng từ lúc ra mắt, tuy dư luận có xôn xao bàn tán, có người "dãy
nảy" lên như phải bỏng, có người lại "xì xầm" về những vấn đề nhạy cảm,
nhưng tới nay chưa có một ý kiến nào đánh giá nó một cách chính thống. Có
chăng cũng chỉ là những lời bình hời hợt, "điểm xuyết". Song vấn đề cốt lõi là
tầm tư tưởng chưa được ai nói rõ ràng bởi:
- Tác phẩm đặt ra những vấn đề gai góc xưa nay chưa ai dám nói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Ví dụ: Bùi Việt Thắng trên trang net: Trannhuong.com (14/2/2008) cho
rằng: Dưới chín tầng trời, là cuốn tiểu thuyết xây cất được những tư tưởng thời
đại, thể hiện sinh động trong những số phận bi kịch, nhưng là những bi kịch lạc
quan.
- Đưa ra những phán quyết táo bạo, những vấn đề thời sự, đẩy nhân vật
đến những cực đối lập: từ lưu manh, cùng đinh, mạt hạng trở thành đại gia,
nhà tỉ phú đáng trọng (Đào Kinh); từ một đại gia trở thành trắng tay (gia đình
thương gia Đức Cường); từ một con người phản diện trở thành con người
chính diện, có tâm, có công (Đỗ Hiền).
- Và không né tránh những mặt khuất tối, ê chề của con người, của lịch
sử, có thể do vậy dư luận còn dè dặt trong cách đánh giá (thời kì quá độ là sự
lần tìm, những sai lầm, tội lỗi của con người do hạn chế của thời đại tạo nên,
song bên cạnh bộ mặt "ác quỷ" trong mỗi con người có một phần "người" để
trở về với chính nó. Đó là kiểu nhân vật "lưỡng phân" có sự dung hoà những
mặt xấu và tốt, từ đó tìm đến sự cảm thông cho mỗi nhân vật).
Riêng ý kiến của người làm luận văn: Tác phẩm là một thành công vượt
bậc của Dương Hướng. Ông đã hoá giải mọi sự kiện, hiện tượng qua cách
nghĩ suy sắc sảo, thấu tình, đạt lý của từng nhân vật. Để rồi khi gấp trang sách
ta thấy lòng dịu lại giống như bản thân mình được hoá giải trong đó.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu.
3.1. Khẳng định Dương Hướng với tư cách là một tác giả tiêu biểu
trong hai mươi năm văn học đổi mới.
3.2. Qua sáng tác của Dương Hướng giúp ta nhận ra diện mạo và sự
phát triển của tiểu thuyết thời kì đổi mới. Ông là người đóng vai trò trung
chuyển giữa thế hệ nhà văn tiền trạm như: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu... với thế hệ nhà văn mới như: Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Có thể xem, Dương Hướng là gạch nối,
thuộc thế hệ chuyển giao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
4.1. Toàn bộ tác phẩm của Dương Hướng, trong đó trọng tâm là hai
tiểu thuyết Bến không chồng và Dưới chín tầng trời.
4.2. Một số tiểu thuyết về nông thôn và chiến tranh được viết cùng thời
với Dương Hướng như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều
ma của Nguyễn Khắc Trường.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp phân tích văn học sử:
Từ việc trình bày khái quát sự đổi mới trên phương diện lý thuyết, luận
văn đi sâu vào phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương Hướng,
nằm trong tiến trình đổi mới văn học từ sau 1986.
5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Cùng với việc phân tích những nét mới trong tiểu thuyết của Dương
Hướng, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm tiểu
thuyết cùng giai đoạn và trước nó, nhằm khẳng định vị trí và giá trị của tác phẩm.
5.3. Phương pháp khảo sát, thống kê:
Trong khi phân tích tác phẩm luận văn sử dụng các phương pháp khảo
sát, thống kê để tăng thêm độ tin cậy và sức thuyết phục, giúp cho việc triển
khai các luận điểm, luận cứ được sáng tỏ.
6. Đóng góp của luận văn.
Từ việc khẳng định Dương Hướng qua hai tác phẩm, và bước tiến từ
Bến không chồng ... đến Dưới chín tầng trời, trong khoảng cách 15 năm, để chỉ
ra thành tựu của tiểu thuyết trong thời kì đổi mới.
7. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung Luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương I: Bối cảnh chung của đời sống văn học và diện mạo mới của
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Chương II: Từ Bến không chồng, một khởi động quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của Dương Hướng...
Chương III: ... Đến Dưới chín tầng trời, bước bứt phá ngoạn mục của
Dương Hướng trên con đường đổi mới tiểu thuyết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
NỘI DUNG
Chƣơng I
BỐI CẢNH CHUNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO MỚI
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và sự tất
yếu của công cuộc đổi mới.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình hoạt động nghệ
thuật đặc thù lấy con người làm đối tượng trung tâm, phản ánh và nhận thức
hiện thực đời sống thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như một
lẽ tự nhiên, không một nhà văn nào tồn tại trong lịch sử mà lại không phải là
con người sống giữa muôn vàn những diễn biến phức tạp, những vận động đổi
thay của thời đại mình. Những vận động, đổi thay ấy là hệ quả tất yếu của lịch
sử trong quá trình vật lộn, kiếm tìm một hướng đi mới.
Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng chống đế quốc Mỹ với biết bao
đau thương, quật cường đã khép lại trang sử hào hùng của dân tộc, một hiện
thực xã hội đầy vẻ vang, oanh liệt mà sử sách không thể nào nói khác đi được;
giờ đây khi chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ nhưng hậu quả của nó vẫn còn
đó với những khó khăn chất chồng, những con người - chủ nhân của thời đại
lịch sử mới lại bộn bề với những lo toan, phải đối mặt với một hiện thực xã hội
mới đầy biến động, xáo trộn, phức tạp. Dường như những cái được xem là chân
lý của thời kỳ trước lại là cái có vấn đề của thời kỳ sau. Ngay cả chiến tranh
cũng vậy. Hàng loạt các vấn đề của cuộc sống thời hậu chiến lại được đặt ra, đòi
hỏi một cách nhìn mới, và những nhận thức mới, những cách thể hiện mới...
Cuộc sống sau chiến tranh vận hành một cách khó nhọc, đầy rẫy những
lo toan, phức tạp. Những tổn thất, đau thương trong chiến tranh dần dần tỏa
sức nặng. Đó là thời kỳ nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp tỏ ra bất lực và ngày càng bộc lộ
thêm những khuyết tật. Do đó, cùng với sự đổi thay mọi mặt trong đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
xã hội từ sau 1975 đã kéo theo sự thay đổi không chỉ ở bề mặt mà cả bề sâu
trong tâm lý và nhận thức ở mỗi con người. Nếu như trước kia tất cả mọi
người đồng lòng đồng sức cho chiến thắng dân tộc, thì ngày nay trong thời kỳ
hậu chiến con người phải đối mặt với bao nỗi lo toan cá nhân, cho cuộc sống
đời thường. Trong cuộc chiến không tiếng súng tưởng như yên ả ấy lại chất
chứa những biến động dữ dội, tác động sâu sắc đến tâm thức cá nhân mỗi
người.
Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét: “Chiến tranh ồn ào, náo động mà
lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa
chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không thể
chết trong nhà tù, trên trận địa, trong chiến tranh mà lại chết trong “ao tù
trưởng giả” khi cả nước đã dành được tự do và độc lập” [36].
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - đó là sự nghiệp vô cùng vinh
quang nhưng không ít những khó khăn thử thách. Hiện thực xã hội đó đòi hỏi
mỗi người cầm bút phải có một cách nhìn, một cách nghĩ mới, với trách
nhiệm và niềm tin. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nói về vấn đề này như sau:
“Trong chiến tranh, chúng ta như đi giữa cơn bão lửa thổi trên mặt đất.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, không thấy có bão lửa, vậy mà
hình như mỗi người thấy đất động dưới chân mình”. [57].
Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, để giải quyết những khó khăn thử thách
trước mắt, nhằm xây dựng và phát triển đất nước thì đổi mới là một lựa chọn
khẩn thiết, dứt khoát, có ý nghĩa sống còn. Đổi mới là con đường tất yếu, duy
nhất đảm bảo cho sự phát triển đất nước và cũng là nỗi khát khao cháy bỏng,
là nguyện vọng của toàn dân tộc nhằm thoát khỏi những khó khăn, thách thức
của một đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã diễn ra với hai khẩu
hiệu:“Lấy dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật’’. Hai khẩu hiệu đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
hội, đặc biệt là đời sống văn học nghệ thuật, mở ra một thời kỳ đổi mới cho
văn học Việt Nam, vì thế mà văn học sau 1986 thực sự đã có một khởi sắc
mới trên các phương diện. Song có thể thấy, một trong những điều cốt tử của
công cuộc đổi mới này chính là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, cách nghĩ
sao cho đúng quy luật khách quan vốn có của nó. Nói về vấn đề này, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ đã đưa ra một quan niệm mới có cơ sở lý luận và ý
nghĩa thực tiễn như sau: “Đổi mới tư duy là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt
nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành một cách khoa
học, nghiêm túc… Trong quá trình đổi mới tư duy, tất nhiên không chỉ có phê
phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá nhân và tập thể
cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI”.
(Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học- Văn nghệ quân đội.
Tháng 12/1987. Tr 108 - 114).
Như vậy, cùng với những ý kiến nhận xét, đánh giá, nhằm minh chứng
cho những luận điểm lớn trên cho thấy những chuyển động trong đời sống xã hội
sau 1975 nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI/1986 là sự đổi mới mang tính
tất yếu của đời sống xã hội Việt Nam, nó là cơ sở, là tiền đề đổi mới trong đời
sống văn học nghệ thuật.
1.2. Những chuyển động trong đời sống văn học trƣớc và sau 1986,
trƣớc yêu cầu đổi mới.
Mốc lịch sử 1975 là gạch nối quan trọng đánh dấu sự chuyển hướng mang
tính chất bước ngoặt của cách mạng Việt Nam và những xáo động trong xã hội
sau giải phóng kéo theo sự xáo động của văn học với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh đã có những suy nghĩ khá xác đáng
khi cho rằng “Bối cảnh mới đã tạo nên những chấn động sâu xa trong ý thức
nghệ thuật” [1].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Như thế, những tác nhân trong đời sống xã hội đã gây nên những “chấn
động” mạnh trong đời sống văn học, tạo cho văn học một bước chuyển mới
phù hợp với xu thế chung có tính quy luật của cuộc sống.
Nền tảng của sự đổi mới văn học thời kỳ này bắt nguồn từ sự tự ý thức
của văn học, tức là văn học đã giác ngộ được về vai trò của nó trong xã hội,
trong mối quan hệ giữa văn học và chính trị. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam (1987) tạo điều kiện cho văn học phát triển và mang
theo những tố chất mới so với thời kỳ trước đó, mà do yêu cầu của lịch sử,
văn học phục vụ chính trị trở thành nhu cầu cấp bách hợp với quy luật thời
chiến. Thậm chí, có những lúc người ta còn đồng nhất văn nghệ với chính trị,
xem văn nghệ phục vụ chính trị một cách giản đơn, máy móc. Cho đến thời
điểm này, văn học nghệ thuật không chỉ còn được hiểu một cách giản đơn,
máy móc như là công cụ chính trị, là vũ khí tư tưởng, mà là một bộ phận quan
trọng của cách mạng tư tưởng văn hóa, có tác dụng bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh các thế hệ công dân, xây dựng môi trường
đạo đức trong sáng, lành mạnh... Đặc biệt vào thời điểm đổi mới của đất
nước, thì mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị đã được giới nghiên cứu
đánh giá, nhìn nhận lại một cách cụ thể hơn, thực tế hơn và sâu sắc hơn.
Không những thế vấn đề này còn được đưa ra thảo luận công khai trên các
báo chí, tạo không khí dân chủ, khiến cho người cầm bút yên tâm và tự tin
hơn trong sáng tác, mạnh dạn đưa ra những kiến giải của mình về các vấn đề
phức tạp, tiêu cực của cuộc sống.
Như chúng ta đã biết, xã hội và con người Việt Nam đã vượt qua nhiều
khó khăn chồng chất với không ít thử thách hiểm nghèo của thời chiến và hậu
chiến, để đứng vững, hơn thế, có được những biến đổi to lớn, toàn diện, nhất là
từ khi công cuộc đổi mới được mở ra cho đến nay. Nền văn học cùng chung
vận mệnh và đồng hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử. Từ sau
1975 dù phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt song đã có nhiều biến đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
sâu rộng trên mọi mặt của quá trình văn học. Nhìn một cách tổng thể, văn học
Việt Nam từ sau năm 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở lại đây đã bước
những bước xa hơn trên con đường hiện đại hóa, để hòa nhập vào tiến trình văn
học thế giới. Tựu trung, tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX bao gồm 3 xu
hướng vận động chính, tương ứng với 3 thời kỳ phát triển của nền văn học.
- Từ đầu thế kỷ XX - 1945, văn học vận động theo hướng hiện đại hóa,
đó là đặc điểm bao trùm, làm nên sự thay đổi trong văn học để chuyển văn
học từ mô hình trung đại sang mô hình hiện đại.
- Trong 30 năm tiếp theo, từ 1945 - 1975 văn học phát triển trong hoàn
cảnh của chiến tranh và phục vụ cho yêu cầu của đời sống chính trị.
- Từ sau 1975, nhất là từ sau đổi mới năm 1986, dân chủ hóa là xu thế
lớn của xã hội và cả trong đời sống tinh thần của con người. Và cũng là xu
hướng vận động bao trùm của nền văn học. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)
với khẩu hiệu: “ Lấy dân làm gốc ”, “Nhìn thẳng vào sự thật”, đã tạo cơ sở
tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát
triển mạnh mẽ.
Dân chủ hóa đã thấm nhuần và được thể hiện ở nhiều cấp độ, trên nhiều
bình diện của đời sống văn học. Trên bình diện ý thức nghệ thuật, xu hướng
dân chủ hóa đã đem lại những biến đổi quan trọng trong cách quan niệm về
vai trò, vị trí và chức năng của văn học, về nhà văn và quan niệm về hiện
thực. Văn học giai đoạn trước, chủ yếu được nhìn nhận như là vũ khí tư tưởng
của cách mạng, có nhiệm vụ phục vụ và đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ
trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh). Đó là chân lí hiển nhiên không một nghệ sĩ
chân chính nào không thừa nhận. Đến lúc này văn học đứng trước nhu cầu
phải đổi mới, tuy vậy nó vẫn không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần, tư tưởng
của nó, nhưng nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và
thức tỉnh ý thức về cá nhân, và về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm. Bởi hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
nữa, trong xu hướng dân chủ hóa xã hội, văn học được xem là một phương
tiện cần thiết để tự biểu hiện, trong đó bao gồm cả việc thể hiện tư tưởng,
quan niệm, chính kiến của mỗi người nghệ sĩ về xã hội và con người. Văn học
lúc này không chỉ được xem là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại, cộng
đồng, mà nó còn là phát ngôn cho tư tưởng riêng của mỗi cá nhân, phải chăng
đó cũng chính là lý do cho những đòi hỏi của cá nhân trước cuộc sống, cho
những khát vọng “rất người”, rất đời thường, và vấn đề nóng hổi, bức xúc,
được thường xuyên đề cập trong các trang viết giai đoạn mới này chính là
khát vọng dân chủ, nó là cơ sở tạo niềm tin cho việc khám phá bản chất
“người” trong bức tranh cuộc sống mới của người nghệ sĩ.
Gắn chặt với hiện thực trong bước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình,
với đầy những phức tạp và những biến đổi bất ngờ, văn học những năm 80 đã
có những trăn trở cho một cuộc chuyển mình để theo kịp những vấn đề nóng
bỏng của hiện thực. Hiện thực lúc này không chỉ là hiện thực cách mạng với
các biến cố lịch sử và số phận cộng đồng, mà còn là hiện thực của đời sống
hàng ngày, với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, phức tạp, chằng chịt, đan
dệt nên những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn là đời
sống cá nhân mỗi con người với những vấn đề riêng tư trong số phận cá nhân,
với khát vọng mọi mặt gồm cả hạnh phúc và khổ đau. Hiện thực mới đó trong
tính chỉnh thể toàn diện của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn
học thỏa sức chiếm lĩnh, khám phá.
Nói đến cảm hứng mới về sự thật là nói đến không chỉ những mặt tích
cực mà còn là những mặt trái của cuộc sống, những vấn đề mà văn học giai
đoạn trước không có điều kiện đề cập hay không dám đề cập đến.
Thời gian trôi qua, con người không còn bận rộn với sự sống và cái
chết của một thời bom đạn, để chuyển sang những vấn đề của thời bình, với
những nghiền ngẫm của được - mất, của cộng đồng và cá nhân... Con người
dám đối mặt, sòng phẳng với quá khứ để đón nhận kịp hơi thở của thời đại.
Cảm hứng sự thật đó không chỉ là của riêng ai trong cộng đồng này mà nó còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
là vấn đề của cả một thời đại. Ngay khi nói về chiến tranh cũng vậy. Mặc dù
tiếng súng đã ngừng nổ trên mảnh đất quê hương, nhưng mọi đau thương mất
mát ở con người đâu đã thành dĩ vãng! Nhà văn Chu Lai từng nói: “Chiến
tranh không phải là ngày hội lớn của dân tộc” mà là “luật chơi tàn bạo”; và
Chiến tranh không phải là cái gì khác là chuyện ngày nào cũng phải chôn
nhau mà chưa đến lượt chôn mình”. Bởi quả thực, chiến tranh tự bản thân nó
đã mang tính tàn bạo và bất thường rồi. Ở đó, tính người không có cơ hội
ươm mầm và phát triển. Trong “luật chơi tàn bạo” đó cánh cửa của sự sống
là rất hẹp. Bởi người lính dù ở chiến tuyến nào cũng đều “tồn tại trên bản
năng tự vệ quật cường. Mình không giết nó thì nó giết mình”. Nạn nhân của
chiến tranh không phải là cái gì khác mà chính là con người và môi trường
sống của con người. Cái chết không loại trừ ai, nó đến bất kỳ lúc nào không ai
định trước được. Chỉ có vậy, “chết là nhẹ nhất, là thoát hết tất cả …” (Nắng
đồng bằng - Chu Lai). Tuy nhiên, dù miêu tả nó dưới hình hài như thế nào, dù
nói bằng cách nào thì các tác giả khi viết về nó, về chiến tranh đều khẳng
định: “bên cạnh sự tàn sát bạo lực, guồng máy chiến tranh không thể nào phá
hủy hoàn toàn những giá trị tốt đẹp đã thấm sâu thành bản chất tiềm tàng
trong con người. Thực tế cho thấy, những giá trị cao đẹp lại nảy nở từ chính
nơi xông pha trận mạc, ngay trên mảnh đất bom đạn, và từ cõi chết trở về”
(Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai).
Trong môi trường sống khắc nghiệt đó, nỗi ám ảnh về cái chết, về bệnh
tật, sự thiếu thốn về vật chất, cái đói, cái khát ập tới, song người ta không chỉ
nhìn thấy khả năng, sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh của con người mà còn nhận
ra sự bất lực của con người trước sức mạnh chi phối nghiệt ngã của hoàn cảnh.
Một hiện thực lớn nữa cũng bị kéo theo guồng máy tàn bạo của chiến
tranh là bên cạnh người đàn ông trên các tuyến lửa còn có sự góp mặt của
những người đàn bà ở hậu phương. Dù trực tiếp hay gián tiếp tham gia song
không thể phủ nhận hết được ý chí và nghị lực ngoan cường của họ.
Vì thế, vấn đề “hậu chiến tranh” là một vấn đề khá nhạy cảm và phức
tạp, lại càng phức tạp hơn khi công cuộc dựng xây, đổi mới đất nước đang mở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
ra, con người ta có điều kiện hơn, có thời gian hơn để suy nghĩ về những gì họ
đã bước qua. Hiện thực đời sống với nhiều biến động phức tạp của thời kỳ
hậu chiến thực sự là mảnh đất màu mỡ cho văn học, đặc biệt ở thể loại tiểu
thuyết, nơi có khả năng cất giữ, lưu lại được nhiều dữ kiện nhất trên phương diện
thể loại.
Đề cập vấn đề này, hầu hết các nhà văn viết về chiến tranh đều thừa
nhận: Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả của nó vẫn còn ám ảnh, trở thành
nỗi bức xúc trong cuộc sống thời bình.
Trước hết đó là những “di họa của chiến tranh” không ai khác - con
người phải gánh chịu. Một thực tế đau lòng là phần lớn những người lính sau
chiến tranh trở về với cuộc sống áo cơm đời thường, họ đều là những con
người mang đầy “vết dập xóa trên thân thể và trong tâm hồn” (Vạn, Nghĩa
trong Bến không chồng). Họ trở nên lạc lõng, xa lạ với những vấn đề “đa
đoan, đa sự” của ngày hôm nay. Chiến tranh đã thành quá vãng nhưng dư âm
của nó vẫn luôn đeo đẳng, bám riết lấy, trở thành một nỗi ám ảnh, thành “hội
chứng chiến tranh” trong tâm khảm của họ. Họ luôn khát khao “đi tìm thời
gian đã mất” để nhận lại hình ảnh của chính mình (Mảnh đất lắm người nhiều
ma, Bến không chồng)… Tất cả điều đó trở thành sự dày vò luôn thường trực.
Bởi hầu hết, họ - những người lính bước ra từ bom đạn, khói lửa mịt mùng
của cuộc chiến đều mang trong mình niềm tin, khoác lên mình màu áo của
người chiến thắng, họ thực sự là người chiến thắng trước mặt quân thù song
lại là kẻ chiến bại giữa cuộc sống đời thường, giữa cuộc sống không tiếng
bom, không mũi tên, hòn đạn. Họ trở nên lạc lõng, khắc khổ, cô đơn, bất lực
trước hoàn cảnh mới. Phần lớn họ không còn khả năng yêu và đem lại hạnh
phúc cho người mình yêu; họ bị chối từ thiên chức làm cha, làm chồng, bởi
chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, lấy đi sinh lực của họ, khiến cho ngày hòa
bình trở lại cũng là lúc cánh cửa hạnh phúc sập xuống trước mắt họ một cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
nghiệt ngã Bến không chồng; Bóng đêm và mặt trời (Dương Hướng), Ăn mày
dĩ vãng (Chu Lai), Thân phận tình yêu (Bảo Ninh) .
Như vậy, những bi kịch đời tư bỗng được đặt ra trong hành trình con
người kiếm tìm hạnh phúc; con người đã kịp thời nhận ra “khối cô đơn khổng
lồ” đang chụp xuống thân phận họ, đang “đè bẹp” cuộc đời họ. Mở ra trước
mắt họ sự “tù túng” “chật chội” của không gian; len lỏi vào từng số phận
đáng thương của họ, là những “thước phim lộn trái cuộc đời”.
Hiện thực cuộc sống thay đổi, cũng là lúc tư duy nghệ thuật có sự
chuyển đổi. Khuynh hướng sử thi giai đoạn sau 1975 vẫn tiếp tục dòng chảy
của thời kỳ trước đó, tiếp tục mạch đi trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc
biệt là các nhà văn quân đội. Tuy nhiên, càng về sau khuynh hướng sử thi
càng có xu hướng thu hẹp lại, khuynh hướng thế sự dần dần trở thành khuynh
hướng chính trong văn xuôi đầu những năm 80. Lúc này văn xuôi đã thực sự
chuyển sang những vấn đề thế sự, những vấn đề của đời sống hàng ngày.
Xuất phát từ yêu cầu của hiện thực mới, đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi
cách nhìn nhận, cách tiếp cận đời sống. Những chuẩn mực cũ trong chiến
tranh nay không còn áp dụng được nữa. Giờ đây, khi chiến tranh đã qua đi,
con người trở lại với đời sống thường nhật với biết bao những vấn đề mới nảy
sinh. Sự trở về với con người của đời sống hàng ngày, với những số phận cá
nhân riêng biệt, đã làm thu hẹp dần khuynh hướng sử thi và khuynh hướng
thế sự đã trở thành khuynh hướng chính ở giai đoạn này.
1.3. Những ngƣời viết đóng vai trò tiền trạm trong công cuộc đổi
mới.
Văn học Việt Nam 1945-1975 tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh. Đó là một nền văn học chủ yếu hướng về đại chúng nhân
dân lao động, tập trung cổ vũ cho hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Vì thế, đề tài chiến tranh là đề tài chủ yếu, hình ảnh con người lý tưởng là
con người công dân, người chiến sĩ được miêu tả với cảm hứng trữ tình cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
mạng và cảm hứng sử thi. Từ sau 1975, nền văn học Việt Nam nhìn chung
được tồn tại và phát triển trong điều kiện đất nước hòa bình, thống nhất. Vì
thế, nội dung, mục đích văn học không còn giữ nguyên như cũ. Nó đòi hỏi
phải có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và công chúng độc
giả. Tư duy văn học cũ không còn phù hợp với văn học mới, đòi hỏi một tiến
trình đổi mới toàn diện và sâu sắc nền văn học từ quan niệm nghệ thuật về
hiện thực và con người, đến các thủ pháp nghệ thuật; từ đội ngũ nhà văn đến
công chúng độc giả; từ chủ đề, đề tài đến cảm hứng sáng tác và đối tượng
phản ánh...
Trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, trước
sự chuyển động của môi trường, văn học không thể là sự thờ ơ mà phải là sự
kiếm tìm ráo riết những cách thức tiếp cận hiện thực mới sao cho phù hợp.
Hòa bình lập lại, hiện thực cuộc sống thời bình không cho phép các nhà
văn sáng tác theo lối cũ; với tình hình mới của cách mạng, đặt nhà văn trong
sự lựa chọn đầy tinh thần trách nhiệm, là phải sáng tác những tác phẩm chứa
đựng được hơi thở của thời đại, phản ánh chân thực những gì vốn có trong đời
sống của con người. Phải chăng vì thế mà các nhà văn đã chủ động, trăn trở,
tìm tòi cho mình một con đường, một hướng đi mới thích hợp. Ý thức được
điều này, văn học những năm đầu đổi mới, đặc biệt từ sau 1975 đã có sự
chuyển đổi mới trong tư duy sáng tác. Trong đó, phải kể đến các nhà văn
thuộc thế hệ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới như: Nguyễn Mạnh Tuấn,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Huy
Thiệp.... Nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã khẳng định: “Trước khi làn sóng đổi
mới dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc, trong những
điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn… đã đốt lên nhiệt tình kiếm tìm chân
lý, hứa hẹn khả năng tự đổi mới của nền văn học, khi nó dám sòng phẳng với
quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản” [50].
Cần gắn các tác giả này với bối cảnh chung để cho thấy sự nghiệp đổi
mới văn học là cả một quá trình; và thành tựu đổi mới mở ra trong giao điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
cuối những năm 80, đầu những năm 90 (thế kỉ xx) trong đó có Dương Hướng,
Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường là có được sự chuẩn bị tích cực liên tục của
một thế hệ tiền trạm .
1.3.1. Nguyễn Mạnh Tuấn.
Xã hội Việt Nam từ sau 1975 đứng trước một sự chuyển giao lịch sử từ
chiến tranh sang hòa bình. Trước hiện thực ngổn ngang, bề bộn, phong phú
nhưng có phần phức tạp đó đòi hỏi cần có sự phát triển của một thể loại văn
học vừa gần gũi với đời sống, vừa uyển chuyển, không bị đóng khung trong
những quy phạm phản ánh chật hẹp. Do vậy mà sự ra đời của thể loại tiểu
thuyết thế sự đời tư như đã tìm được mảnh đất màu mỡ cho sự khám phá và
sáng tạo. Nguyễn Mạnh Tuấn xuất hiện đem theo cả bầu nhiệt huyết sôi sục,
không né tránh sự thật với khả năng gây dư luận và làm sôi động đời sống văn
học đã góp phần đáng kể trong công tác chuẩn bị cho sự ra đời của một giai
đoạn văn học mới.
Là một cây bút năng động, một nhà văn trẻ, thuộc thế hệ ngoài 30,
Nguyễn Mạnh Tuấn sớm quan tâm đến yêu cầu rút ngắn khoảng cách giữa
văn chương và cuộc đời. Anh luôn tìm cho mình một cách tiếp cận mới, phấn
đấu sao cho tác phẩm của mình gắn bó trực tiếp với những vấn đề nóng bỏng
của cuộc sống. Đặc biệt, Nguyễn Mạnh Tuấn luôn nhấn mạnh đến sự “tỉnh
táo”, “bình tĩnh” của người cầm bút trước hiện thực của đất nước. Với hàng
loạt các tiểu thuyết - phóng sự ra đời đầu những năm 80 như: Những khoảng
cách còn lại (1980), Đứng trước biển (1983), Cù lao Tràm (1985), có thể xem
Nguyễn Mạnh Tuấn là người khởi xướng cho trào lưu văn học “chống tiêu
cực” phát triển rầm rộ vào mở đầu những năm 1980.
Bằng năng lực nắm bắt thực tế nhanh nhạy, ở Những khoảng cách còn
lại Nguyễn Mạnh Tuấn đã đề cập một cách trực diện vấn đề đấu tranh giai
cấp, đấu tranh ý thức hệ, một vấn đề phức tạp đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt
là ở các đô thị Miền Nam ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Khoảng thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
điểm một năm sau ngày giải phóng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã khéo léo xâu
chuỗi các tình tiết kịch tính với nhau, khai thác sâu vào những mâu thuẫn
xung đột trong gia đình. Mâu thuẫn nhỏ này lại được đặt trong mâu thuẫn lớn
đó là cơn lốc xoáy của lịch sử cách mạng, được thể hiện trong các mối quan
hệ chồng chéo vừa có nét riêng lại vừa có nét chung. Đó là cuộc đấu tranh vô
cùng phức tạp, quyết liệt, không tránh khỏi đau xót giữa những con người
ruột thịt trong gia đình sau 20 năm xa cách. Kết thúc tác phẩm là màn bi kịch
hợp - tan do chiến tranh đem lại những tưởng sẽ kết thúc khi chấm dứt chiến
tranh, nhưng nó lại hiện ra ở một khía cạnh mới. Đó là sự khác nhau về ý thức
hệ, về quan niệm sống, về tình cảm... khiến cho các thành viên trong gia đình
mỗi người đều phải trải qua “cơn lốc” của “những con đường đau khổ” theo
cách riêng của mình để xóa bỏ "những khoảng cách còn lại".
Bằng lối viết trung thực, thẳn thắn, đặt kinh nghiệm cá nhân ngang
bằng kinh nghiệm cộng đồng, Nguyễn Mạnh Tuấn đã trình bày tư tưởng riêng
của mình một cách trực diện thông qua những kiến nghị trực tiếp trước những
vấn đề đấu tranh nóng bỏng trong mâu thuẫn nội bộ các cấp lãnh đạo. Đứng
trước biển đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất trong thực trạng làm ăn của
xí nghiệp Sao Mai. Đó là cơ chế quản lý kinh tế đã lạc hậu, với những người
phụ trách có tâm huyết nhưng lại thiếu năng động linh hoạt, thiếu trình độ và
tư duy lãnh đạo. Qua đó, tác phẩm Đứng trước biển đã mạnh dạn đề nghị đưa
ra một phương thức làm ăn mới, bắt đầu bằng sự nhận diện đích thực năng lực
của mỗi con người, trước hết là người lãnh đạo. Đây cũng chính là sự vươn
lên để thực hiện một cách tổ chức quản lý xí nghiệp trong thời kỳ mới sao cho
phù hợp. Tác phẩm đã góp một tiếng nói khẳng khái vào cuộc đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực và khẳng định sự tồn tại của cái mới.
Mang trong mình khát vọng lý giải, thẩm định các vấn đề nóng bỏng
của đời sống, từ góc độ phản ánh hiện thực cải tạo và xây dựng nông thôn
Nam Bộ, tiểu thuyết Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn đã nhấn mạnh đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
vấn đề phẩm chất và năng lực của người cán bộ nông thôn và vấn đề xác định
một đường lối, chính sách thích hợp trong cải tạo, xây dựng nông thôn Nam
Bộ. Với Cù lao Tràm Nguyễn Mạnh Tuấn đã “bước đầu chạm đúng vào điểm
nóng nhất của hiện thực, của mọi mối quan tâm”. Nó“đã thở được hơi thở
nóng hổi của nông thôn Nam Bộ” [39].
Nguyễn Mạnh Tuấn luôn cân nhắc trong cách viết, với mục đích là
phục vụ độc giả nên anh chỉ viết cho người đọc những điều mình tâm đắc,
nhằm truyền đủ lượng thông tin cần thiết. Vì lẽ đó mà tác phẩm của anh trước
hết nhằm thỏa mãn niềm mong đợi của người đọc, sau đó đồng thời nhằm
thỏa mãn nhu cầu tự thân với niềm khát khao được bộc lộ mình. Những tác
phẩm của anh ở buổi đầu những năm 80 đã tạo nguồn sinh khí mới cho đời
sống văn học đang có bề tĩnh lặng, xóa bỏ được “những khoảng cách còn lại”
với bạn đọc, cái “khoảng chân không văn học” giữa nhà văn với công chúng.
Từ những thay đổi về tư duy nghệ thuật, về quan niệm chung đã đem đến hệ
quả tất yếu, sự thúc đẩy nhà văn chú ý phản ánh những vấn đề phức tạp và
bức xúc của hiện thực, đáp ứng lại mong mỏi của người đọc, nhưng mặt khác
cũng cho ta thấy ít nhiều nhà văn chưa thực sự đặt yêu cầu cao trong trau dồi
nghệ thuật. Trong ý thức nghệ thuật, quan niệm riêng của Nguyễn Mạnh Tuấn
dường như ẩn chứa một sự “hy sinh” nghệ thuật, một sự hy sinh thành tâm tự
nguyện. Nói như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến: “Nguyễn Mạnh Tuấn chỉ
quan tâm đến việc “kể lại nội dung” chứ chưa quan tâm đến “viết lại nội
dung”, tức là hình thức thể hiện của nội dung, hình thức mang tính quan
niệm.
Nhìn chung, Nguyễn Mạnh Tuấn là một trong số ít nhà văn nhận thức
rõ sức mạnh và sứ mệnh của nội dung, nhưng viết ra trước hết phải phục vụ
trực tiếp cho đời sống, cố gắng rút ngắn khoảng cách từ nội dung đến cuộc
đời, lấy tiêu chí chân thực làm mục đích, đối tượng. Tư tưởng, quan niệm ấy
đã chi phối phần lớn sáng tác của anh, từ quan niệm về hiện thực và con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
người đến việc xây dựng nhân vật, lựa chọn thể loại... để trở thành một dòng
chảy xuyên suốt sáng tác của anh trong mở đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
1.3.2. Nguyễn Minh Châu.
Vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, giới văn nghệ sỹ và bạn
đọc thực sự ngỡ ngàng trước một lối viết mới: thẳng thắn, mạnh dạn của nhà
văn Nguyễn Minh Châu. Hai tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành (1983) và Bến quê (1985) như tiến kèn xung trận, đánh thức các tiềm
năng của nhà văn bấy lâu nay dường như bị ngủ quên. Ngay khi hai tập truyện
ngắn này ra đời công chúng lập tức nhận ra được bước chuyển quyết định
trong lộ trình nghệ thuật của ông. Bước đột phá này khiến độc giả không khỏi
ngạc nhiên trước Nguyễn Minh Châu.
Một con người mang trong mình một dòng cảm xúc của hai thời kỳ.
Nếu đến với văn học thời chiến thì dường như độc giả chỉ biết ông qua những
trang văn xuôi đậm chất thơ đầy màu sắc trữ tình lãng mạn, ngợi ca vẻ đẹp
hào hùng của cuộc sống và con người thời chiến. Thế nhưng vào thời bình,
nếp sống và nếp nghĩ thay đổi đã làm cho ngòi bút của Nguyễn Minh Châu
chuyển hẳn sang một lối đi mới - một Nguyễn Minh Châu của những nỗi trăn
trở, day dứt khôn nguôi về số phận cá nhân con người và sự tồn tại, phát triển
của đất nước sau chiến tranh. Với ông, viết về chiến tranh không có nghĩa là
thi vị hóa những sự kiện hay con người vĩ đại, và mô phỏng nó theo một công
thức nhất định, mà ở chỗ chính con người là “Mảnh đất khám phá những quy
luật vĩnh hằng của các giá trị nhân bản” [48], là hạt nhân của tư duy nghệ
thuật, là hình thức bên trong của mọi sự chiếm lĩnh đời sống, là sự phân tích,
cắt nghĩa và lý giải về thế giới và con người. Điểm nhìn nghệ thuật mới này
về con người đã mở ra cho ngòi bút Nguyễn Minh Châu nhiều hướng tiếp cận
khác nhau về hiện thực, chống lại lối viết chạy theo đề tài.
Đi sâu khám phá chiều sâu của tính cách, khái quát bản chất trong tính
cách của mỗi con người chính là một hướng tìm tòi đổi mới tư duy nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật Quang trong Cơn giông chính là sự thể
hiện thành công theo hướng đó. Qua nhân vật Quang, nhà văn muốn phơi bày
bản chất ích kỷ, cơ hội của một kẻ phản bội. Nguyên nhân của sự phản bội đó
được bắt nguồn từ bản chất tráo trở, lật lọng, cơ hội đem lại và đồng thời thể
hiện quan niệm “tùy thời” của hắn khiến cho những người lương thiện phải
khổ sở, điêu đứng.
Nét độc đáo ở ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong hai tập Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê còn là khả năng tiếp cận cuộc sống của
con người trong “muôn mặt đời thường”. Tôn Phương Lan trong khi tìm hiểu
tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con
người đã đưa ra những suy nghĩ mới mẻ khi cho rằng: “Điều đáng nói là ở
chỗ Nguyễn Minh Châu là cây bút sớm có ý thức đặt con người trong “mối
tổng hòa các quan hệ xã hội”mà trong đó đời thường là một tiêu điểm đáng
chú ý” [40].
Xuất phát từ khả năng và ý thức ấy đã cho phép Nguyễn Minh Châu
“nhìn đâu cũng ra truyện ngắn” [43 . Tập hợp các truyện ngắn này cho ta cái
nhìn gần và rõ hình hài cuộc sống dưới dạng đời thường mà vẫn lấp lánh
những khoảng sáng, soi vào những mặt mà bấy lâu nay bị bỏ quên, bị mờ nhạt
đi bên sự chói ngời của những sự kiện, những tình huống lớn. Từ đó lắng
đọng, bồi đắp và làm thanh lọc tâm hồn con người, giúp con người sống với
nhau “người” hơn như nghĩa vốn có của nó. Ở những câu chuyện bình
thường, tưởng không có gì đặc biệt như trong Một lần đối chứng, Đứa ăn cắp,
Một người đàn bà tốt bụng, Mẹ con chị Hằng, Hương và Pha…. ta thấy cuộc
sống đang vận động trong trạng thái tự nhiên với đầy những ngẫu nhiên, vô
thức, có cả những tốt - xấu - hay - dở vốn đã tồn tại trong bản tính của mỗi
con người. Với cách tiếp cận hiện thực con người theo hướng này Nguyễn
Minh Châu đã đem đến cho người đọc cái nhìn toàn diện trong dạng tồn tại
vốn có của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Trên bình diện sinh hoạt thế sự, Nguyễn Minh Châu đã hướng sự chú ý
đến vấn đề đời sống cá nhân con người. Với quan niệm con người là một cá
thể độc lập, một thế giới riêng biệt đầy bí ẩn, mỗi cá nhân tự xác định cho
mình thông qua mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội bằng một cuộc hành
trình tư tưởng từ bên trong hai tập truyện kể trên. Bên cạnh đó, hình ảnh
người nông dân và bức tranh nông thôn cũng được Nguyễn Minh Châu phát
hiện ra nhiều nét đặc sắc, độc đáo, mới mẻ, khác hẳn với cái nhìn về nông
thôn và người nông dân trong các sáng tác trước 1975. Với biên độ phản ánh
rộng, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã“thâu tóm” được hầu khắp những vấn
đề nhạy cảm của cuộc sống người nông dân, khiến cho bức chân dung của họ
trong văn xuôi đầu những năm 80 mang một vóc dáng khác trước rất nhiều,
góp phần làm phong phú thêm cho hình tượng nhân vật trong văn học Việt
Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét: “Trong văn học hiếm
có những biểu tượng về người nông dân cao cả, hào hùng mang ý nghĩa lịch
sử nhân loại lớn lao đến như vậy” 12 .
Cuộc sống vốn “đa sự”, con người vốn “đa đoan” - đó là cách nói của
Nguyễn Minh Châu, điều tâm niệm này đã đi vào sáng tác của ông. Cuộc
sống vốn thuận theo chiều đồng đại của thời gian, ấy vậy mà con người luôn
phải sống trong sự phức hợp của hai chiều thời gian đồng đại và lịch đại với
những buồn, vui, khổ đau, bất hạnh. Phải chăng vì thế mà trong sáng tác của
mình Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra những vấn đề tồn tại cốt lõi của cuộc sống
không chỉ là: tốt - xấu, đúng - sai, thiện - ác, mà văn học phải làm cho con
người đa dạng, phong phú, từng trải hơn và hiểu biết hơn để con người có thể
sống, “lăn xả” với hiện thực vốn đã đầy rẫy những phức tạp này. Song mục
tiêu của văn học có tính “hướng nội”, con người luôn đặt trong tư thế đối
diện với chính mình để chất vấn chính mình, đó là qúa trình phát triển tâm lý
phức tạp, là chiều sâu và sự phong phú của quá trình ý thức và vô thức - đó là
điểm mới trong tinh thần của con người hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Nguyễn Minh Châu quan niệm “chiến đấu cho quyền sống của từng
con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp hơn”. Chính vì vậy, với
hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê,
Nguyễn Minh Châu đã dũng cảm nhìn về con người và cuộc đời trên nền tảng
của những nghiền ngẫm, suy tư có chiều sâu triết học. Nguyễn Minh Châu
xứng đáng là cây bút tiên phong và sự thực đã trở thành một trong số nhà văn
mở đường đáng kính của văn học Việt Nam thời đại mới, của công cuộc đổi
mới văn học.
1.3.3. Nguyễn Khải.
Trong chặng đường đổi mới văn học, Nguyễn Khải cũng như bao nhà
văn khác tự tìm cho mình một hướng đi riêng. Lấy con người làm đối tượng
phản ánh trung tâm Nguyễn Khải xác lập nhân cách con người trong khả năng
biết vượt lên số phận, vượt lên chính mình.
Tác phẩm ghi lại dấu ấn đổi mới quan niệm về hiện thực và con người
trong sáng tác Nguyễn Khải đầu tiên phải kể đến tiểu thuyết Cha và con, và …
(1979). Sự ra đời của tác phẩm đã khiến dư luận nhận ra một hướng đi mới,
một sự tìm tòi khám phá mới của Nguyễn Khải về tôn giáo. Xuất phát từ quan
niệm: Tôn giáo chính là sự hướng thiện trong tâm hồn con người, Nguyễn
Khải đã phân tích khá sâu sắc sự khủng hoảng niềm tin tôn giáo; sự khủng
hoảng này không chỉ xảy ra ở những giáo dân bình thường mà cả ở những
linh mục nhiệt thành, tâm huyết với lý tưởng tôn giáo, gánh vác trên vai sứ
mệnh cao cả của đấng bề trên dẫn dắt các con chiên. Cha Thư đã sống trong
nỗi phân vân với những dòng suy nghĩ giằng xé, xáo trộn, day dứt tâm hồn.
Những khoảnh khắc độc thoại đưa cha Thư đối diện với hàng loạt câu hỏi liên
tiếp, dồn dập, nhưng việc tìm ra lời giải đáp vẫn là ẩn số. Cha và con, và…. là
tiếng nói đối thoại vừa tự do, cởi mở, vừa nghiêm túc, chân thành giữa đức tin
tôn giáo và chủ nghĩa xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Tiếp mạch nguồn viết về tôn giáo, Thời gian của Người là một phát
hiện mới về tôn giáo, và con người, đó là sự gặp gỡ giữa niềm tin cách mạng
và niềm tin tôn giáo. Tôn giáo không chỉ đơn thuần có giá trị về mặt đạo đức
mà xét từ nhu cầu tự nhiên của đời sống tinh thần, tôn giáo đã và sẽ là một giá
trị văn hóa khi nó là bạn đồng hành của con người trên hành trình vươn tới
nấc thang cao nhất chân - thiện - mỹ. Nó trở thành niềm tin và cao hơn là đức
tin thiêng liêng, điểm tựa nâng đỡ tâm hồn con người trên đường đời, nguồn
mạch nuôi dưỡng, gìn giữ cho mảnh đất tâm hồn con người biết rung động,
nhạy cảm trước những ấm lạnh thăng trầm của cuộc đời, những vui buồn của
số phận đồng loại.
Lấy tôn giáo làm đối tượng quan sát, Nguyễn Khải đặt con người trên
cái phông ấy để tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, lý giải những lời nói, suy nghĩ
và hành động của con người. Dưới con mắt của Nguyễn Khải, con người
được khám phá từ góc độ tâm linh, góp phần bù đắp cái nhìn phiến diện, hạn
hẹp và ít nhiều cứng nhắc trong quan niệm về con người trong văn xuôi trước
1975, hướng tới xác lập mối quan hệ linh hoạt, mềm dẻo, chân thực hơn về
con người. Hơn nữa, các khía cạnh mới về hiện thực và con người được
Nguyễn Khải khai thác như một thế mạnh: cái vô hạn và cái hữu hạn, cái
được và cái mất, cái vận động và đứng yên, cái quá khứ và tương lai, đặc biệt
nhìn con người trong mối tương quan giữa các thế hệ lịch sử là một hướng
đào sâu trong cách tiếp cận hiện thực mới của Nguyễn Khải Gặp gỡ cuối năm
cho thấy sự hụt hẫng ngăn cách giữa các thế hệ là rất lớn, ở đó có những tiêu
chí, giá trị riêng cho những quan niệm khác nhau, những niềm tin và nguyện
vọng khác nhau, mặc dù họ đều có chung một mục đích, nhưng cách ứng xử
và thái độ, hành động trong cuộc sống thì trái ngược nhau, thậm chí đối lập
nhau như: Việt, Bình... Bên cạnh đó, lịch sử bên trong con người được
Nguyễn Khải quan sát, nghiên cứu và khám phá ở chiều sâu, linh hoạt, nhuần
nhị bởi nhà văn không đồng nhất con người với lịch sử, cuộc đời với chính trị,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
bởi lịch sử ôm trọn nhiều mảnh đời và cuộc đời bao giờ cũng rộng lớn hơn
chính trị. Thế giới tinh thần vô cùng phong phú và đầy bí ẩn, ý thức giai cấp
của con người không phải bao giờ cũng là một. Cùng với việc nghiên cứu con
người dưới góc nhìn lịch sử, Nguyễn Khải còn khám phá con người ở tư cách
cá nhân. Từ đó tác giả nhấn mạnh vai trò cá nhân nhưng không hòa tan cá
nhân vào cộng đồng; cái riêng và cái chung vừa là mối quan tâm hàng đầu,
vừa là nỗi ám ảnh, trăn trở trên những trang viết về con người, mà ở đó thước
đo giá trị của mỗi con người chính là nhân cách, với sự tự ý thức về nhân
cách, giá trị của mình, có đầy đủ bản lĩnh để “là mình” chứ không chịu “đánh
mất mình”. Con người của Nguyễn Khải luôn được đặt trong tình thế phải lựa
chọn, bởi qua mỗi lần lựa chọn là thể hiện khả năng sống của con người. Nếu
sự lựa chọn của họ đúng đắn thì con đường đi của họ sẽ hòa vào dòng chảy
chung của cộng đồng, nhưng một khi sự lựa chọn của họ vì lòng tham lam, vị
kỷ, vì những cám dỗ, những thú vui dung tục làm mờ lý trí thì kết cục họ sẽ bị
đào thải theo thời gian. Ngòi bút Nguyễn Khải còn đi sâu cắt nghĩa, lý giải
con người trong hiện thực là “tổng hóa các mối quan hệ xã hội” từ đó tránh
được cái nhìn phiến diện, méo mó khi miêu tả.
Như vậy, bằng các sáng tác đầu những năm 80 Nguyễn Khải cũng đã
góp được cái nhìn mới trong việc đánh giá con người và hiện thực ở nhiều
góc độ khác nhau. Qua đó thể hiện quan niệm, thái độ, cách nhìn nhận đánh giá
về con người và hiện thực trở nên sâu sắc, tỉnh táo và mang tính phổ quát sâu
rộng, đó là những dấu hiệu cơ bản cho quá trình tiền đổi mới văn học nước nhà.
1.3.4. Ma Văn Kháng.
Trước những năm 80 của thế kỷ XX, người đọc biết đến một Ma Văn
Kháng thấm đượm cái nhìn “sử thi” trong các sáng tác viết về đề tài miền
núi. Thế nhưng bước sang những năm đầu của thập kỷ 80 bằng sự ra đời của
hàng loạt các tác phẩm đậm chất đời thường dung dị là đặc điểm nổi bật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
nghệ thuật tự sự trong các sáng tác về thế sự, đời tư của Ma Văn Kháng, đánh
dấu những đổi mới trong tư duy nghệ thuật về cuộc sống và con người.
Là người nhạy cảm trước những buồn vui, âu lo của cuộc sống, biết
đón đợi nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật từ những hanh phúc, khổ đau,
những thắng thua, được, mất của đời người, ngòi bút Ma Văn Kháng như gần
hơn với các giá trị tinh thần đã nâng đỡ con người vượt lên những lam lũ
khốn khó của cuộc đời.
Tìm cho mình điểm tựa là giá trị nhân văn chân chính cổ truyền, Ma
Văn Kháng không ngừng sáng tạo, không ngừng tự đổi mới ngòi bút. Khi
Mưa mùa hạ xuất hiện, làng văn đã ngỡ ngàng, sửng sốt trước một Ma Văn
Kháng rất lạ. Vì thế tác phẩm có không ít những lời bình phẩm khen, chê, trái
ngược nhau, tồn tại trong dư luận, song Ma Văn Kháng vẫn vững tin vào
bước chuyển mới mẻ của mình, bởi đó là nỗi niềm âu lo được toát ra từ lời
kêu cứu của tác phẩm. Tại sao những người tốt như bố con Trọng lại phải
chịu cảnh khổ cực, bất hạnh, còn những kẻ độc ác, đầy dã tâm như Hưng,
Hảo, Thưởng, mẹ Nhuần lại sống phè phỡn, sung túc? Những tiêu cực, bất
công này xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, nó trở thành hiểm họa khôn
lường nếu trong mỗi người chúng ta không tự ý thức được. Với Ma Văn
Kháng cuộc sống đô thị cùng với quá trình hiện đại hóa đang diễn ra gấp gáp,
đã tạo ra một dòng xoáy dữ dội cuốn hút mọi tầng lớp cư dân. Sự phong phú,
ngổn ngang, bề bộn, trắng đen, phải trái lẫn lộn đan xen biết bao biến động
khiến con người bị chi phối bởi lối sống xô bồ, chạy theo đồng tiền mà quên
đi đạo lý trên đời. Đắm chìm trong môi trường ấy, con người không thể thuần
nhất trong tính cách của mình. Từ Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, đến
Ngày đẹp trời, Đám cưới không có giấy giá thú… là hàng loạt kiểu loại nhân
vật phong phú, đa dạng, trong các trạng thái phức thể của tâm hồn. Vì thế, các
sáng tác cuối thập kỷ 80, nhân vật trí thức như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sáng
tác của Ma Văn Kháng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Trong tác phẩm Mưa mùa hạ Ma Văn Kháng đã dành nhiều tâm sức,
tình cảm để xây dựng nhân vật Trọng. Trọng là hiện thân cho mơ ước, hoài
bão mà tác giả muốn gửi gắm về một mẫu người trí thức tài năng, trong sáng,
đức độ, đối lập hoàn toàn với thói xấu xa, dung tục. Một trí thức trẻ, tài năng,
say sưa cống hiến sức mình cho công việc cùng đồng đội vượt qua mọi cám
dỗ về vật chất để giữ gìn những giá trị tinh thần cao quý của con người. Tiếp nối
mẫu người trí thức đích thực như: ông Bằng, Luận trong Mùa lá rụng trong
vườn, là thầy giáo Đặng Trần Tư, thầy giáo Thuật trong tác phẩm Đám cưới
không có giấy giá thú. Đó là những trí thức chân chính, tài năng, suốt đời theo
đuổi lý tưởng nhưng lại bị ném chìm vào một xã hội thực dụng, băng hoại về đạo
đức, nhân cách, sa sút về niềm tin và lẽ sống, kết cục cuộc đời là một tấm bi
kịch.
Ngòi bút Ma Văn Kháng dường như từng trải hơn, kinh nghiệm hơn
trong việc nghiên cứu, phát hiện ra con người phức tạp, con người lưỡng diện,
và không nhất quán với chính mình. Khả năng khám phá con người nhiều
chiều, ở nhiều bình diện, xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về con người mong
kiếm tìm những điều kiện tốt đẹp cho sự phát triển nhân cách con người. Con
người vốn phức tạp nên không thể dùng một tiêu chí để đánh giá mà phải nhìn
nó trong thế uyển chuyển, linh hoạt mới có cái nhìn xác đáng, Ma Văn Kháng
đã cố gắng cắt nghĩa điều đó qua lời của nhân vật Luận: “Chị Lý không khác
chúng ta đâu. Trong chúng ta cũng vậy: Có xái xấu, có cái tốt. Cái xấu nói
chung mọi người đều biết nó là xấu. Vậy mà cuối cùng vẫn không tránh
được” 36 . Nó giống như nghệ thuật muốn trở thành một thứ “khoa học về
lòng người ” (Nguyễn Khải), khi nó khao khát “phát giác sự vật ở bề chưa
thấy. Ở cái bề sâu, ở cái bề xa”(Chế Lan Viên) thì nó phải tìm đến một quan
niệm đầy đủ, biện chứng hơn về con người. Ma Văn Kháng muốn qua đó
hướng con người tìm đến mối quan hệ với tự nhiên. Trong Ngày đẹp trời ông
nói: Con người phải sống hòa bình với thiên nhiên, núi rừng, tìm thấy trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
thế giới tĩnh tại của đất trời cảm giác được che chở, an ủi, vỗ về, để con người
sống thuần khiết hơn với ngay chính bản thân mình.
Với một chuỗi tác phẩm: Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám
cưới không có giấy giá thú, Ngày đẹp trời ra đời vào những năm 80, Ma Văn
Kháng cho chúng ta nhận thấy đã xuất hiện một cách nhìn mới trong quan
niệm về hiện thực và con người. Hiện thực vốn dĩ là phức tạp, không thể biết
trước và không thể biết hết được, con người vốn là thế giới bí ẩn, cần phải
khám phá, tìm tòi. Nhà báo Luận trong Mùa lá rụng trong vườn đã nhận xét
rằng: “Đời phức tạp là do nó vốn thế chứ ai bịa ra được”. Nhà giáo Cừ khi
nói về vấn đề này cũng phải thốt lên một cách chua chát: “Cuộc sống là sự
phát hiện liên tục”; còn Đông - trung tá về hưu, quen nhìn đời bằng ánh mắt
đơn giản, cuối cùng thì cũng cay đắng nhận ra rằng: “Cuộc sống phức tạp lắm
chứ không đơn giản đâu”.
Như thế, cách nhìn cuộc sống và con người trong sáng tác văn xuôi của
Ma Văn Kháng nửa đầu những năm 80 đã đạt tới sự sâu sắc, chín muồi, đầy
những chiêm nghiệm và được đúc kết bằng sự từng trải của một nhà văn luôn
băn khoăn cho số phận con người. Tập truyện ngắn Ngày đẹp trời là tiếng kêu
cứu khẩn thiết của nhà văn trước sự nguội lạnh của tâm hồn con người đối với
đồng loại.
Tiếp cận hiện thực, nghiên cứu khám phá hiện thực đời thường của con
người qua nhiều tầng bậc, nhiều góc độ khác nhau, ngòi bút Ma Văn Kháng
phát hiện ra vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền thống nằm ở cội nguồn
thiêng liêng, của những giá trị văn học, nền tảng của mọi nền văn hóa.
Ma Văn Kháng đã tìm được những thành công đột phá ở thể loại truyện
ngắn vào những năm 80 và 90 của thế kỉ XX.
Những đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã được ghi nhận trong sự
chuyển đổi từ đề tài miền núi sang đề tài miền xuôi gắn với quá trình đô thị
hóa đang phát triển rầm rộ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
1.3.5. Lê Lựu.
Lê Lựu thuộc lớp nhà văn quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước và thực sự thành công trên lộ trình nghệ thuật gắn
với tiếng nói văn chương thời bình. Sau 1975 đất nước thống nhất, hiện thực
đời sống với nhiều biến động phức tạp, từ sự thay đổi về hiện thực đời sống
đến nhu cầu đổi mới tư duy nghệ thuật được đặt ra cấp bách, Lê Lựu cũng
như các nhà văn khác, tâm huyết với duyên nợ văn chương đang trăn trở kiếm
tìm một hướng đi mới, làm sao cho tác phẩm văn chương phải bắt mạch sâu
vào dòng đời sâu thẳm, phải chứa đựng cả nước mắt và nụ cười của nhân
quần.
Với cái nhìn trực diện, mạnh dạn về chiến tranh, trong tiểu thuyết đầu
tay Mở rừng ra đời 1977 - Lê Lựu đề cập đến số phận của một lớp người đã
có mặt trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, bên cạnh nét hào hùng còn mang cả
dấu ấn bi tráng ở những khía cạnh rất đời thường. Lê Lựu không lý tưởng
hóa, cũng không bi kịch hóa nhân vật, bởi đó là cái được của cuộc chiến tranh
vệ quốc chính nghĩa, song đồng thời nó cũng chứa đựng những mất mát trong
chiến tranh. Tiếp đến, năm 1979, cuốn tiểu thuyết thứ hai ra đời với tựa đề
Ranh giới, viết về sự lựa chọn của con người trước sự kiện đất nước thống
nhất, song Ranh giới đã không vượt qua cuốn tiểu thuyết đầu tay.
Trước bối cảnh thời kỳ hậu chiến, con người không chỉ làm quen mà
phải đối mặt, cọ xát với những vấn đề đang nảy sinh và đầy bức xúc của cuộc
sống đời thường. Lê Lựu đã cảm nhận được sự thay đổi của thời cuộc và con
người bằng cái tôi của chính mình. Năm 1984 tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời
đã làm khuấy động cả bầu không khí văn chương, không chỉ được sự đón
nhận nồng nhiệt của bạn đọc gần xa mà còn thu hút được sự quan tâm đặc biệt
của giới nghiên cứu phê bình văn học. Bằng bút lực khỏe khoắn, mạnh mẽ mà
chân thành, viết về những gì chân thật nhất đang diễn ra trong đời sống hàng
ngày Thời xa vắng thực sự là lời ký gửi tâm sự của Lê Lựu về một hiện thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
xã hội tiền đổi mới, với những khoảng sáng tối khác nhau, với những thực hư
lẫn lộn, có cả chiến tranh và hòa bình, cả cái hào hùng và bi tráng, tất cả tạo
nên một bức tranh sinh động về xã hội Việt Nam những năm đầu thập kỷ 80.
Đặt con người hôm nay trong sự gắn kết, giữa hiện tại và quá khứ, Lê Lựu
muốn tìm đến một sợi dây xuyên suốt, kết nối số phận mỗi người. Quá khứ
vinh quang của cuộc chiến tranh thần thánh đã trở thành một thứ chuẩn mực,
một điểm tựa tinh thần cho con người. Song cũng còn tồn tại một quá khứ
máy móc giáo điều cũ kỹ khiến cho con người trở nên méo mó, vênh lệch đi
trong cuộc sống thực tại.
Đến với con người trong nhu cầu tự nhận thức, Lê Lựu đã biết khám
phá những miền sâu thẳm trong tâm hồn. Con người luôn khát khao, mong
đợi, kiếm tìm, cho dù có khi họ biết cái đã qua sẽ không bao giờ trở lại, cũng
như điều mong ước chắc gì đã có được trong đời.
Thời xa vắng là một trong nhiều tác phẩm đánh dấu thành công trên con
đường nghệ thuật của Lê Lựu, một bước đổi mới trong tư duy nghệ thuật của
nhà văn. Tác phẩm gợi lại không khí một thời khi mà ý thức làm chủ trong
cuộc sống của mỗi cá nhân trong quan hệ gia đình, xã hội bị xâm phạm.
Nhà văn chân thành vạch ra ranh giới giữa cái riêng và cái chung và
kêu gọi sự tôn trọng cái phần riêng tư ở mỗi cuộc đời con người. Mọi thước
đo về nhân cách, đạo đức, mọi chuẩn mực của gia đình, xã hội đều bị xáo
trộn, lật lên, xới tung trước cuộc sống trong cơ chế thị trường. Đời sống thay
đổi khiến cho con người đôi khi tự đánh mất mình một cách tự nhiên mà ngay
chính bản thân họ cũng không tự ý thức được. Con người thực sự là con người của
hiện thực.
Tiểu thuyết Lê Lựu từ sau 1975 đến 1986 ẩn chứa nhiều tầng, nhiều
mảng hiện thực. Thông qua số phận của những nhân vật cụ thể, nhà văn đã
mạnh dạn chỉ ra những hạn chế về phương diện xã hội cần được khắc phục,
bởi đó là hàng rào ngăn trở việc thực hiện hoài bão, ước mơ, hạnh phúc của
mỗi con người, làm thui chột những mầm non nhân cách và gây ra những đau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
khổ mất mát khôn lường. Mặc dù viết về quá khứ, về cái tiêu cực, thậm chí là
sai lầm nhưng Lê Lựu không đem đến cho người đọc cái nhìn bi quan, yếm
thế. Trái lại, tác phẩm của ông đã đem hết cho người đọc một cảm hứng nghệ
thuật đổi mới, một hướng nghiên cứu mới trên cơ sở nhận thức mới.
Tóm lại, qua các tác giả Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu... tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, đặc
biệt là từ đầu những năm 80 đã bắt đầu xuất hiện tính đa khuynh hướng do
những tư tưởng khác nhau về hiện thực và con người. Họ là những tên tuổi
đóng vai trò tiền trạm tạo ra những bước đệm quan trọng cho giai đoạn tiền
đổi mới văn học. Sự thay đổi về hệ hình tư duy nghệ thuật của các nhà văn đã
gặt hái được những thành công ngoạn mục.
1.4. Về Giải thƣởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng.
Về Dƣơng Hƣớng và quá trình sáng tác.
1.4.1.Về Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991 cho Bến không chồng.
Cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và
Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng là
một trong ba tác phẩm nhận Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991, một giải
thưởng sáng giá, ghi nhận thành tựu văn học sau 5 năm đổi mới. Tiểu thuyết
Bến không chồng đã đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành
tựu văn học đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu
những năm 80 như: Ma Văn kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Mạnh Tuấn vào nghề ở tuổi 40, bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn
Gót son (1989), vậy mà chỉ hai năm sau Dương Hướng bỗng trở thành một
“tên tuổi”. Ngoài giải A của Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng, tác phẩm còn
được chuyển tải thành phim nhựa rồi được dịch ra nhiều thứ tiếng như: Pháp,
Ý... để đến được với bạn đọc thế giới. Bến không chồng đã góp được cái nhìn
mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến. Cho dù trong bộ ba
được Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991, Bến không chồng không có được
cái sắc sảo, riết nóng của Mảnh đất lắm người nhiều ma, không có được cái
chiều sâu thâm trầm đến ám ảnh của Nỗi buồn chiến tranh, nhưng bù lại, để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
đứng được với thời gian Bến không chồng lại có được một vẻ đẹp khác trong
khuôn hình cổ điển: mộc mạc và chân phương trong cốt truyện, trong cách
dẫn dắt và ngôn ngữ, một ngôn từ không lấp lánh tài hoa mà giản dị, tự
nhiên, và với ưu thế đó, Bến không chồng đã khẳng định ngay được vị trí của
nó trong lòng độc giả mà không hề gây tranh cãi.
1.4.2. Về Dương Hướng và quá trình sáng tác.
* Tiểu sử:
Dương Hướng sinh ngày 8-7-1949.
Quê quán: thôn An Lệnh, xã Thụỵ Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Từ 1965 tình nguyện gia nhập công nhân quốc phòng, học qua Trường kỹ thuật
tàu thuỷ.
Năm 1971 vào bộ đội, công tác và chiến đấu ở chiến trường khu V- Miền Nam
cho đến 1975.
Từ 1976 chuyển ngành, về công tác tại Cục Hải quan Quảng Ninh.
Hiện là kiểm tra viên trung cấp Hải quan, Cục Hải quan Quảng Ninh.Biên tập
viên Báo Hạ Long của Hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh.
Từ 1991, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam .
* Tác phẩm chính:
Gót son (tập truyện ngắn), 1989
Bến không chồng (tiểu thuyết), 1990
Trần gian đời người (tiểu thuyết), 1991
Người đàn bà trên bãi tắm (tập truyện), 1995
Bóng đêm và mặt trời (tiểu thuyết), 1998
Dưới chín tầng trời (tiểu thuyết), 2007
* Giải thưởng văn học:
Bến không chồng - Giải thưởng Hội nhà văn, 1991.
Người đàn bà trên bãi tắm - Giải thưởng Hội Văn nghệ Hạ Long, 1996.
1.4.3. Quan niệm nghề nghiệp.
"Viết văn vừa là niềm đam mê vừa là nỗi ám ảnh suốt đời tôi. Có một
phóng viên hỏi tôi: - Nhà văn quan tâm tới vấn đề gì nhất trong cuộc sống? ”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Tôi trả lời: “Tôi hay nghĩ đến cái chết. Phải là người dũng cảm mới dám nhìn
thẳng vào cái chết. Trong chiến trường, đồng đội tôi nói tới cái chết nhẹ tênh.
Cần phải nghiêm túc nghĩ cho thấu đáo về cái chết để mà sống. Đã từ lâu, tôi
thấy rõ mình đang từng giờ, từng ngày tự huỷ hoại cả tinh thần lẫn thể xác của
chính mình. Nhưng chính tôi lại thấy rõ hơn ai hết, trong cái chết đi của mình
có gì đó vẫn đang lấp lánh hồi sinh, mỗi ngày một sáng rõ hơn, thấu đáo hơn và
tinh tế hơn trong cuộc sống. Tôi nghĩ mình viết được có lẽ nhờ những bức xúc,
những va đập cứ lặp đi lặp lại theo chu kỳ chết dần chết mòn rồi lại tự sống lại,
tự hồi sinh, lại viết. Viết để tự giải toả cho chính mình” [Nhà văn Việt Nam
hiện đại, Hội nhà văn Việt Nam; 2007; tr 443].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Chƣơng II
TỪ “BẾN KHÔNG CHỒNG”, MỘT KHỞI ĐỘNG QUAN TRỌNG
TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA DƢƠNG HƢỚNG...
2.1. Chiến tranh trong nhận thức của Dƣơng Hƣớng.
2.1.1. Qua hình ảnh người lính thời hậu chiến.
Cũng như nhiều nhà văn khoác áo lính, trở về từ chiến trường, từng nếm
trải những tháng ngày hào hùng mà vô cùng khốc liệt của dân tộc, cuộc đời trận
mạc đã đem lại cho Dương Hướng những “Vỉa tầng màu mỡ, sống vốn, vốn
kinh nghiệm”. Như một lẽ tự nhiên, đối với Dương Hướng cũng như bao đồng
đội của mình, hiện thực thời chiến là tất cả những gì còn nằm nguyên vẹn trong
ký ức để luôn luôn trở đi trở lại, để luôn luôn là nỗi ám ảnh, thôi thúc ông viết
nên “những trang viết cuộc đời”, viết để “neo đậu tâm hồn vào cuộc đời”.
Chiến tranh những hơn 30 năm và đi qua mấy thế hệ. Nói như GS. Phong
Lê thì: “Còn lâu về sau, chiến tranh vẫn cứ là một đề tài lớn, một kho chất
liệu không thể nào vơi cạn còn nằm sâu trong kí ức của con người”. Đến nay,
dù chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả nghiệt ngã của nó vẫn còn để lại trên biết
bao số phận con người, nó vẫn là một đề tài lớn cho văn học khám phá và biểu
hiện.
Trở lại đề tài chiến tranh. Sau khi chiến tranh đã đi qua ở thời điểm 90,
người viết có một độ lùi để nhìn rõ toàn cảnh. Bối cảnh đổi mới cũng tạo điều
kiện cho nhà văn nhìn sâu hơn vào những góc khuất của đời sống mà trước
đây do yêu cầu lịch sử người viết phải lảng tránh hoặc lướt qua. Bên cạnh cái
được là thành qủa lớn lao, chiến thắng vẻ vang hào hùng của dân tộc, còn là
những tổn thất, mất mát và khổ đau của người dân như là cái giá phải trả...
Tất cả những góc cạnh, nhiều chiều của cuộc sống đó, đã tạo nên một bức
tranh mới, một chân dung đầy đặn và chân thực hơn. Ở đó ngòi bút nhà văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
như trải ra, đào sâu thêm đến tận cùng hiện thực chiến tranh, để rồi tái hiện lại
khuôn mặt chiến tranh đúng như nó vốn có.
Như thế, độ lùi thời gian cùng với cảm hứng mới trong sáng tác đã giúp
cho nhà văn có cái nhìn thấu đáo, đa dạng, và từng trải hơn.
Dương Hướng (cũng như nhiều nhà văn - người lính) đã rất “nhạy cảm
và tự thấy việc xác định cái cần và cái nên phản ảnh như là một nhu cầu của
bản thân nghệ thuật” (Nghĩ về sự biến đổi bên trong của tư tưởng sáng tạo,
của nhà văn viết về chiến tranh. Đinh Xuân Dũng, in trong “Văn học, văn hóa
tiếp nhận và suy nghĩ" - Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2004).
Như vậy, chỉ từ sau khi chiến tranh kết thúc, nhất là từ sau Đại hội Đảng
là thứ VI (1986) trên tinh thần dân chủ, với khẩu hiệu: “Nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật ...” đánh dấu sự đổi mới trong hệ hình tư duy, cũng
như bộ mặt văn học đã tạo cho người nghệ sĩ có được tâm thế thoải mái, nhẹ
nhõm “tự cởi trói” cho mình, tháo bỏ những yếu tố rào cản trong ngòi bút. Sự
chuyển biến rõ rệt trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và phản ánh hiện
thực cho thấy cái nhìn không còn đơn giản, xuôi chiều như trước nữa, mà hiện
thực được soi chiếu từ nhiều bình diện khác nhau. Nhà văn không né tránh
hiện thực, không ngần ngại phản ảnh những hy sinh, mất mát, những sai lầm,
khiếm khuyết, những ấu trĩ non nớt một thời, làm phông nền cho số phận con
người xuất hiện. Nó như một thứ đối trọng với kiểu hiện thực và con người
được bao bọc trong “không khí vô trùng” của văn học viết về chiến tranh
những năm trước đây.
Vào nghề ở tuổi 40, cái tuổi đời không phải còn quá trẻ, cũng chưa hẳn
già, song những trải nghiệm qua thời gian cũng đủ đem lại cho Dương Hướng
“độ chín” trong tác phẩm.
Sau tập truyện ngắn đầu tay Gót son (1989) thế mà chỉ hai năm sau Bến
không chồng (in 1990) được nhận giải A của Hội nhà văn Việt Nam (1991),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
có thể nói, đó là một khởi động tốt, có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp
sáng tác của Dương Hướng.
Với tiểu thuyết Bến không chồng - Dương Hướng thuộc số người soi
được một cái nhìn mới vào một đề tài vốn đã rất quen thuộc trong văn học
Việt Nam sau 1945 là nông thôn và chiến tranh. Nông thôn trong và sau 30
năm chiến tranh qua chân dung người lính và người phụ nữ. Lấy chất liệu từ
đời sống của chính người dân quê mình, các nhân vật được xây dựng trong tác
phẩm là bóng dáng những con người trong dòng tộc mình, trong quãng thời
gian gần 30 năm một nguồn chất liệu vô cùng, phong phú, đầy sức thuyết
phục. Dương Hướng đã khéo léo đưa chất hiện thực vào tác phẩm một cách
không gượng ép như khơi dậy cả một thời kỳ lịch sử bi hùng, với nhiều số
phận, nhiều mảnh đời bất hạnh, gắn với sự khốc liệt, dữ dội của cả một giai
đoạn lịch sử. Đó là những người lính từ thời chống Pháp như Vạn, đến người
lính chống Mỹ như Nghĩa với những hy sinh, tổn thất những tưởng sẽ chấm
dứt khi chiến tranh kết thúc, nhưng không, họ còn tiếp tục chịu hy sinh khi trở
về hậu phương. Trong chiến tranh sự thiệt thòi là không tránh khỏi, song
những “di họa của chiến tranh” trở thành nỗi bức xúc trong cuộc sống thời
bình, nó được tập hợp trong tổ hợp từ “hậu chiến tranh”. Vấn đề “hậu chiến
tranh” là một vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp. Nó là điểm nối giữa quá khứ
chiến tranh và hiện tại hòa bình, nói một cách khác đi nó là “minh chứng
chiến tranh trong lòng thời bình”.
Một thực tế đau lòng là phần lớn những người lính, sau khi đã làm xong
nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng “tất cả để chiến thắng”, trở về với cuộc sống
đời thường, họ không chỉ mang “vết dập xóa trên thân thể” mà “trong cả tâm
hồn”. Đó là Thành trong Bến không chồng, người lính chống Mỹ năm xưa, từ
chiến trường trở về bị bom cháy toàn thân, mặt sần sùi phồng rộp lên đỏ lừ,
đến cả bố mẹ cũng không còn nhận ra con mình. Chiến tranh đã huỷ hoại
khuôn mặt lành lặn của anh và cũng là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Thành sau này. Cái vết thương trên mặt, di chứng của chiến tranh bắt anh phải
đeo đẳng suốt cả cuộc đời khiến Cúc - người con gái anh yêu và cũng yêu
thương, quý trọng anh hơn bất cứ ai, bỗng cảm thấy “bàng hoàng”, “bỗng
thấy mọi sự đều tan biến đổ vỡ hết” mỗi khi đối mặt. Vẫn cái “giọng nói ấm
và dễ thương” nhưng “ khi nhìn lên mặt anh, em lại thấy anh hoàn toàn xa lạ, xa
lạ tới mức đáng sợ. Gương mặt anh ấy ám ảnh em cả trong gấc mơ” (Tr 442).
“Ôi giá đôi mắt em mù lòa đi không nhìn thấy mà chỉ nghe anh ấy nói... ”(Tr
442). Đó là Nghĩa, cũng lớp người lính chống Mỹ như Thành, nhưng khác với
Thành, Nghĩa được sống hạnh phúc trong niềm vui được làm chồng, và để có
được hạnh phúc ấy anh phải nếm trải biết bao lời dèm pha, dị nghị, xuất phát
từ mối thù truyền đời giữa hai dòng họ Nguyễn và Vũ từ thời ông nội. Sức
mạnh tình yêu giúp họ vượt qua lời nguyền độc và những cái nhìn dò xét của
mọi người; họ dám đấu tranh cho hạnh phúc của mình, tuy nhiên không phải
lúc nào họ cũng chiến thắng trước hoàn cảnh. Mười năm tuổi trẻ “chịu trận”
nơi chiến trường khốc liệt, chứng kiến cái chết nhiều hơn cả sự sống, được
nếm trải tận cùng nỗi đau với đồng đội, số phận Nghĩa thật may mắn, anh đã
không phải chết nơi cửa hầm, nơi bom dội, mà chết trong tâm hồn sau khi
được về với quê hương. Chiến tranh đã tước đoạt quyền làm cha của anh.
Song cánh cửa cuộc đời không hoàn toàn đóng lại. Cuộc sống nơi quê nhà
giúp anh tìm thấy niềm hạnh phúc, nguồn vui sống, anh đã tìm lại ý nghĩa
cuộc sống khi Hạnh và đứa con riêng trở về vui sống trên mảnh đất quê
hương, rồi những tháng năm bươn chải vất vả tạm quên đi những sóng gió
cuộc đời chỉ chực nhấn chìm những kiếp người bé nhỏ ở cái làng quê quen
thuộc này.
Hay đó còn là tấn bi kịch của người lính Điện Biên năm xưa - Nguyễn
Vạn ... Vẫn là con người ra đi từ làng Đông, song Nguyễn Vạn là thế hệ cha
chú của Nghĩa, một thời dọc ngang trên khắp nẻo chiến trường chống Pháp.
“Dấu tích oanh liệt trên chiến trường là vết thương trên bả vai và một ống
chân bị gãy, làm bước đi của Nguyễn Vạn cứ tập tễnh” (Tr266); cùng với “...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
những tấm huân chương rung rinh, lấp lánh trên ngực ...” (Tr265). Đã qua
những năm tháng chiến trận với biết bao nguy hiểm, vất vả, nhọc nhằn,
Nguyễn Vạn trở về làng trong niềm kiêu hãnh. Thế nhưng cuộc sống thời
bình không căng thẳng, dữ dội mà lại chứa đầy những cạm bẫy, thử thách âm
thầm cắn xé lòng người.
Trong chiến tranh, Vạn dũng cảm là thế, nhưng khi trở về với đời
thường, trước những biến động khôn lường của cuộc sống mới đã khiến cho
số phận của anh không hề yên ổn. Mải mê say đắm với quá khứ vinh quang,
tuổi trẻ vụt qua lúc nào không hay; ngày tháng trôi đi Vạn vẫn sống trong thế
giới riêng tư, cô đơn “đôi lúc Vạn quên biến mình đã từng là một quân nhân”
một thời oanh liệt trên chiến trường Điện Biên. Ngay cả cái thời đêm đêm
một mình vác súng nằm trên lò gạch săn máy bay Mỹ xa lắc xa lơ chợt loé lên
trong tâm trí như những ngôi sao trong đêm: “đến bây giờ Vạn mới thấy tiếc
không lấy vợ sớm”, “đã mấy khi Vạn nghĩ đến bản thân mình”. Vạn không
dám sống đúng mình, cho mình bởi anh đã từng là anh bộ đội cụ Hồ, vì hơn
nữa những thiên kiến, hủ tục của đời sống làng quê tồn tại ngay trong dòng
tộc mình mà anh không thể vượt qua, để đến với Nhân - người đàn bà họ Vũ
có chồng hy sinh ngoài mặt trận, hay bà Hơn, trước làm con dâu địa chủ sau
làm mẹ chiến sĩ. Cả hai đều yêu Vạn mà anh không thể đến được vì những rào
chắn “bất khả xâm phạm”. Đến đây, sự trong sáng của Vạn là điều dễ hiểu,
song sự nhu nhược bản thân lại là nguyên nhân chính ẩn chứa bi kịch của
người đàn ông này. Vạn đã sống khổ hạnh, ép xác, quên mình trong suốt 30
năm có lẻ, khiến anh không dám mơ tới tổ ấm gia đình. Cả đời anh không
dám mơ có được giây phút hạnh phúc; và nếu không có hành động bạo liệt,
dám xé bỏ mọi ranh giới và phép tắc của Hạnh, hẳn Vạn sẽ chết già giữa “Bến
không chồng”, cái bến đã có biết bao người đàn bà trẫm mình và treo cổ. Lại
thêm một người đàn ông tìm đến cái chết vì không thể sống yên lành trong cái
hạnh phúc được làm chồng, làm cha. Để thoát khỏi những thành kiến, Vạn
tìm đến cái chết để tự giải thoát cho mình, để chạy chốn khỏi sự truy đuổi của
quá khứ và hiện tại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Tập trung vào số phận con người - đặc biệt là người lính, hình ảnh Vạn
có nét gần gũi với nhân vật Sài (Thời xa vắng) của Lê Lựu và nhân vật Đông
(Mùa là rụng trong vườn) của Ma Văn Kháng.
Nét nổi trội của những con người này ở chỗ họ đều là những người lính,
với nửa cuộc đời gửi trọn nơi chiến trường. Là những người lính thành danh
bước ra từ cuộc chiến bỗng chốc trở thành kẻ chiến bại trong thời bình. Tất cả
họ đều rơi vào bi kịch, tuy vậy cuối cùng họ đều tự ý thức được về bản thân,
về thực tại môi trường và hoàn cảnh cuộc sống.
Ở Thời xa vắng, Lê Lựu có đề cập đến vấn đề chiến tranh, tuy không
xem chiến tranh là điểm tựa của ý chí, niềm tự hào hay bản hành khúc chiến
thắng. Lê Lựu trăn trở về bi kịch của con người, qua số phận một nhân vật
chính là Giang Minh Sài. Tập trung miêu tả bước ngoặt trong cuộc đời nhân
vật Giang Minh Sài, Lê Lựu đặc biệt xoáy sâu vào sự thất bại của một người
anh hùng trong chiến trận. Phần đầu câu chuyện đề cập đến những thành công
vượt bậc của Sài như: làm liên đội trưởng, đỗ cấp 3 với số điểm rất cao, đỗ
đại học, anh dũng trong chiến đấu... tất cả những thành công đó được Sài làm
nên từ những cố gắng phi thường, chứa đựng mọi khó khăn, vất vả: quên tất
cả để sống, chỉ biết có lao động và cống hiến, quên đi khát vọng yêu thương
chân chính của con người. Phần sau miêu tả những xung đột cá nhân trong
con người Sài với những môi trường và hoàn cảnh sống, tạo nên bi kịch. Sài -
một con người đáng kính, đáng thương nhưng đồng thời cũng đáng chê trách,
anh không dám sống thật với mình, không dám sống cho mình, bao giờ cũng
sợ người khác và e dè điều tiếng. Sài không yêu thương Tuyết nhưng không
dám bỏ Tuyết, yêu thương Hương, muốn gắn bó với Hương nhưng lại không
dám đấu tranh để đến với Hương. Cả Hương cũng vậy, giá như cô biết kiên
nhẫn lắng nghe và đừng quá giàu lòng tự ái. Hương mất Sài không phải lẽ
giản đơn chỉ tại Hương, tại Sài, mà sâu xa hơn đó là do nhận thức của con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
người trong xã hội ở thời điểm đó chưa đủ sâu sắc và chín chắn cho nên hạnh
phúc tuột khỏi tầm tay là lẽ đương nhiên.
Một anh hùng trong chiến đấu, có biết bao nhiêu bằng khen, bao nhiêu
bài báo ca ngợi về những chiến công hiển hách lập được nhờ vào lòng gan dạ,
dũng cảm, mưu lược tài tình của mình. Lẽ ra con người tài năng giỏi dang đó
đáng được “giang rộng vòng tay” để đón nhận và tận hưởng hạnh phúc thời
bình. Sài sẽ là con người thành đạt trong sự nghiệp, hạnh phúc trong cuộc
sống gia đình và để cho mọi người ngưỡng mộ. Nhưng tất cả dường như bị lật
nhào trong chốc lát. Ra khỏi trường, Sài được giải phóng khỏi áp lực về công
việc, về gia đình. Địa vị công tác thuận lợi, sau khi ly hôn với người vợ đầu
tiên mà anh không yêu thương; từ đây sẽ tưởng Sài lập thêm một chiến tích
của người anh hùng thời bình. Anh hăm hở, khao khát sống, được bù đắp và
lấy lại những gì đã mất. Anh đã đến với Châu bằng tấm lòng chân thành của
một người lính, bằng nếp nghĩ đơn giản của người nhà quê. Yêu đương vội
vàng, đến cả đám cưới cũng vội, tất cả như một cuộc rượt đuổi mà không có
đích đến. Nếu cuộc hôn nhân lần đầu của Sài là bi kịch của người bị ép buộc
yêu, thì cuộc hôn nhân thứ hai của Sài lại là thứ bi kịch của người không được
yêu. Châu đến với Sài không vì tình yêu chân chính, mà chỉ muốn “hợp pháp
hóa” cái thai mà cô đang mang trong mình. Hôn nhân phải dựa trên cơ sở tình
yêu, sự tôn trọng, độ lượng, vị tha giữa hai con người. Đằng này cuộc hôn
nhân của Sài xây dựng với Châu không dựa trên chuẩn mực đạo đức nào hết,
tất cả đều là cảm tính, là sự mù quáng của anh chàng nhà quê chưa học được
sự lọc lõi, ranh ma từng trải chốn tình trường. Sài đã cố gắng, nhưng càng cố
gắng càng thất bại. Rốt cuộc, Sài đã mất tất cả, và đau đớn hơn, anh còn bị
đánh cắp cả niềm tin và lẽ sống khi Châu nói sự thật đứa con trong bụng
không phải là con của anh, khi chính anh luôn tâm niệm Thuỳ là con đẻ của
mình. Anh đã sống vì con, cho con cả niềm vui, hạnh phúc, cuối cùng anh
được gì? Sài quay trở về quê hương, về cái làng Hạ Vị nghèo đói, khổ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
nhưng tình nghĩa, thuỷ chung, bởi “đó mới là chỗ của anh”. Nếu bi kịch của
Sài là bi kịch tự đánh mất mình, bi kịch của người luôn phải sống cho người
khác và vì người khác, thì bi kịch của Đông trong Mùa lá rụng trong vườn
cũng bắt đầu từ cái nhìn, sự suy nghĩ giản đơn đó. Đông cũng là người anh
hùng trong chiến tranh, bao nhiêu năm tháng xa nhà, dấn thân nơi hòn tên,
mũi đạn, sống hiên ngang kiên trung, bất khuất giữa cái nơi mà sự sống và cái
chết chỉ cách nhau gang tấc. Chiến công mà Đông lập được là niềm tự hào
cho Lý - người vợ ở chốn hậu phương, nhưng nó lại không có giá trị gì giữa
cuộc sống thời bình. Hòa bình lập lại, rời quân ngũ trở về với gia đình, cha
mẹ, vợ con, thế nhưng Đông không thể hoà nhập được với cuộc sống của
những người trong gia đình; trong mắt vợ, Đông là ông chồng vô tích sự,
trong cách nghĩ của vợ chồng Luận thì Đông là người “vô tâm”, “an phận thủ
thường” và “có phần vô trách nhiệm” với người thân... Đông đứng ngoài nhịp
sống của mọi người, tách mình ra khỏi dòng chảy của xã hội. Giữa Đông và
Lý là cả một sự “lệch pha” về nếp sống. Lý năng động, nhạy bén, đầy tham
vọng, không chấp nhận cuộc sống hiện tại. Với Lý, con người cần phải biết
vươn lên, biết chớp lấy thời cơ, phải biết tạo ra cơ hội để kiếm được nhiều
tiền, tiền sẽ giúp cho cuộc sống tươi đẹp hơn. Ấy thế mà cuộc sống với Đông
dường như là ngược lại; thú vui của Đông là đánh tổ tôm; chẳng cần gì và
muốn gì, vì Đông nghĩ “đời có gì quan trọng lắm đâu”; con người đã đi ra từ
cõi chết, từ chiến tranh, máu lửa thì cuộc sống thời bình nào có nghĩa lý gì mà
phải bận tâm. Và rồi, Đông đã dần đánh mất hình ảnh đẹp của mình trong tâm
thức người thân. Đông không còn là điểm tựa cho Lý, không còn là niềm tự
hào trong Lý, cay đắng hơn, Đông trở thành vật cản trong con mắt Lý, Lý đã
đi theo gã trưởng phòng xấu trai nhưng lắm tiền, biết yêu chiều, nịnh bợ, lấy
lòng Lý và biết làm cho Lý vui.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Tổ ấm gia đình tan vỡ, Đông như người ngủ mê bấy lâu nay choàng tỉnh
giấc. Đông cay đắng nhận ra bi kịch gia đình mình trong tâm trạng bất lực,
thất vọng, chán chường.
Như thế người anh hùng xông pha trận mạc, chiến công nối tiếp chiến
công là Đông đã từng là niềm kiêu hãnh của gia đình, dòng họ. Nhưng dưới
góc nhìn thế sự đời tư thì Đông chỉ là anh binh nhì giữa mặt trận đời thường.
Trong chiến trường, Đông là ông trung tá đáng kính nhưng trong cuộc sống
đời thường, anh chỉ là người lính bại trận. Hạnh phúc tan vỡ, Đông vừa là thủ
phạm, vừa là nạn nhân trong tấn bi kịch gia đình.
Có thể khẳng định, cái chung ở Lê Lựu, Ma Văn Kháng và Dương
Hướng là đều viết về đất nước, con người thời hậu chiến, trong đó tập trung
đề cập đến vấn đề vận mệnh và số phận của người lính sau chiến tranh. Các
nhân vật Sài, Đông, Vạn, đều là những người lính thành danh bước ra từ cuộc
chiến, song lại thất bại trong thời bình. Sài do lựa chọn con đường đi sai lầm
nên dẫn đến hệ quả tất yếu là sự thất bại trong cuộc sống. Đông, do đánh giá
sai bản chất của cuộc đời nên anh đã không đủ sức níu giữ hạnh phúc gia
đình. Còn Vạn đã không dám sống đúng với mình, dám sống cho mình, vì chỉ
mải mê, say đắm với quá khứ, chịu sự ép xác, quên mình, cộng với sức ép của
những hủ tục và lối sống làng quê nên chưa bao giờ dám mơ tới hạnh phúc
gia đình. Cả đời không có được giây phút hạnh phúc, nhưng đến khi người
khác (Hạnh) đem hạnh phúc đến cho mình, Vạn bàng hoàng, hoảng sợ, chạy
trốn số phận, từ chối chính đứa con duy nhất của mình để cuối cùng phải tìm
đến một cái chết bi thảm. Cuộc sống của người lính sau chiến tranh được các
nhà văn khai thác trên nhiều tầng vỉa, ở mọi góc độ, từ đó đi đến những nét
chung có tính chất phác họa về sự đối lập giữa hai giai đoạn của cuộc đời
người chiến sỹ gắn với hai thời kỳ đất nước. Ở giai đoạn đầu, thời kỳ đầu có
chiến tranh, hình ảnh người chiến sĩ vệ quốc như tỏa sáng trong tâm thức của
mọi người; ở giai đoạn sau thời kỳ hòa bình của đất nước, số phận người lính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
như chìm nổi trong dòng đời - gắn bó với môi trường quân ngũ suốt quãng
đời đẹp nhất, họ quá quen với cuộc sống quân lệnh bởi vậy khi trở về cuộc
sống thời bình họ không có thời gian để “diễn tập” “tập trận” thích nghi với
môi trường sống mới. Những nếp nghĩ, nếp sống của thời chiến như hằn sâu
trong tâm thức cho nên việc thay đổi cách nghĩ, cách làm ở họ là vấn đề quá
khó.
Như vậy, bằng cái nhìn đa diện Bến không chồng được Dương Hướng
viết lên từ chính cuộc đời những con người mà ông đã từng nghe, từng gặp và
từng trải; bức tranh đời sống làng quê trong Bến không chồng hiện lên thật đa
sắc với sự chìm nổi của kiếp người hiện lên thật “đa sự” “đa đoan”. Trước hết
là người lính. Trong mọi hoàn cảnh khốc liệt hiểm nghèo của cuộc chiến bao
giờ họ cũng vượt qua. Nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, trước bao biến
động khôn lường của cuộc sống phần lớn số phận của họ không hề yên ổn.
Mỗi con người mỗi hoàn cảnh, song tất thảy sự thiếu hụt trong cuộc sống của
họ đó là hạnh phúc, có người đã đánh đổi cả tuổi xuân xanh để kiếm tìm hạnh
phúc mà không thấy (như Thành, Hà, Hiệp, Nghĩa), có người mải miết sống
với quá khứ hào quang để rồi hạnh phúc đã tuột khỏi tầm tay; Thế nhưng
những người lính ấy, dù họ hy sinh hay có cơ hội trở về, bên cạnh cái được là
niềm vui chiến thắng thì ở mỗi con người đều có cái giá phải trả của nó, cái
hậu quả mà con người họ phải gánh chịu sau cuộc chiến này.
Không giống như các nhà văn trước đổi mới viết về chiến tranh thường
mang âm hưởng sử thi hào hùng, hình ảnh người lính dường như đẹp hơn
trong sự khốc liệt của chiến tranh. Trong và sau đổi mới, vấn đề chiến tranh
chỉ còn là cái nền được Dương Hướng “lướt qua” nhằm hướng tới một điểm
nhấn khác đó là số phận con người thời hậu chiến; đặc biệt là người lính, họ là
sản phẩm của xã hội, nhưng đồng thời là nạn nhân của xã hội, của cái môi
trường thực tại xã hội mà con người không thể tách rời, cho nên số phận của
họ bị chi phối hay nói khác đi nó được làm nên từ hoàn cảnh sống đó. Vì thế,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
vấn đề số phận con người thời hậu chiến vẫn mãi là vấn đề nóng bỏng không
bao giờ kể hết, không thể cạn nguồn cho sự sáng tạo của các nhà văn viết về
đề tài chiến tranh và người lính.
2.1.2. Qua số phận người phụ nữ.
Chiến tranh với nhân vật trung tâm là người lính; nhưng trong gương mặt
trọn vẹn của nó, còn là người phụ nữ ở hậu phương. Nói đến hậu phương là
nói đến nhân vật trung tâm là phụ nữ, bởi mọi gánh nặng ở hậu phương đều
dồn lên vai người phụ nữ. “Chiến tranh không có gương mặt phụ nữ” - đó là
tên một tiểu thuyết Xô Viết viết về chiến tranh sau khi chiến tranh kết thúc
nhiều chục năm. Đương nhiên là thế, bởi sao mà khác được, bất kể chiến
tranh diễn ra ở đâu và vào lúc nào thì những dấu ấn thương tích mà nó để lại
cho con người là kéo dài, và lớp chúng sinh chịu gánh nặng của nó không chỉ
là người lính ở chiến trường mà còn là người phụ nữ ở hậu phương. Chiến
tranh không nên có gương mặt của phụ nữ, bởi lẽ trong trận mạc người đàn
ông khổ mười thì họ còn khổ gấp trăm ngàn lần như thế. Soi vào đời sống hậu
phương - một vùng nông thôn có tên gọi thu gọn là làng Đông của đồng bằng
Bắc Bộ, trong bối cảnh đất nước vừa kết thúc cuộc chiến chống Pháp lại tiếp
tục cuộc chiến chống Mỹ, dưới tên truyện Bến không chồng Dương Hướng đã
đem đến cho bạn đọc những nhận thức mới và cảm xúc mới trước một lịch sử
quá nghiệt ngã đối với dân tộc vào thời điểm mở đầu những năm 90 còn chĩu
nặng bao ưu tư trong đời sống.
Bến không chồng như chính nghĩa ẩn và nghĩa đen của nó, những cái
“bến không chồng” trở thành một biểu trưng cho cuộc sống dân tộc trong cả
một thời kỳ dài khi lớp lớp đàn ông, thanh niên đều ra trận. Trong số các nhân
vật không nhiều của Bến không chồng, một tiểu thuyết cỡ vừa, chưa đầy 300
trang, người đọc khó quên chân dung nhân vật trung tâm là Hạnh. Dương
Hướng đã rất tâm huyết khi tạo dựng nên hình tượng một phụ nữ có thể nói là
“vượt trội” so với số đông những “chinh phụ” trong văn xuôi cả một thời dài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
chiến trận, thường ở họ chỉ mang khuôn mặt “ba đảm đang” gieo niềm tin cho
người lính ở chiến trường, bởi thử thách đặt ra cho Hạnh, không chỉ là những
thử thách bên ngoài, mà còn là, hoặc chính là những thử thách bên trong, để
vượt qua những rào cản ở chính mình. Bằng sức mạnh tiếng gọi nơi con tim,
lần thứ nhất Hạnh đã vượt qua mọi thành kiến của gia tộc để lấy người mình
yêu là Nghĩa, thuộc dòng họ có mối oán thù, mà cả Nghĩa và Hạnh chỉ biết qua
những câu chuyện kể “ngày xửa, ngày xưa”, và một lời nguyền độc về mối thù
họ Vũ mà cụ tổ dòng họ Nguyễn đã khắc ghi bao đời. Và thêm một lần thứ hai,
khi không có được hạnh phúc làm vợ với Nghĩa, Hạnh đã vượt qua rào cản bên
trong mà đến với chú Vạn - người bạn thân của mẹ, để có một đứa con sau bao
đổ vỡ và thất vọng với một mơ ước giản dị, chân thành: “Từ ngày đi khỏi làng
Đông, Hạnh mới nhận ra một điều con người ta sống trên đời vẫn cần có một
mái ấm gia đình. Không có lý khi ta làm cho cuộc đời này tốt đẹp hơn lại là tội
lỗi được”. "Và rồi Hạnh sẽ chăm chút cho tuổi già của chú Vạn bằng tình cảm
sâu nặng của một đứa con đối với cha, người vợ đối với chồng"(Tr567). Và
chính nơi đây, trong căn nhà nhỏ khu vườn ươm này, gần như đã tách biệt hẳn
với thế giới sôi động ngoài kia của làng Đông lại chính là nơi ươm mầm cho
những hạnh phúc dù muộn mằn nhưng đã đơm hoa kết trái: “Mấy năm xa quê
giờ đây Hạnh chỉ mơ ước được ở trong căn nhà nhỏ này. Đây mới chính là
niềm vui của đời Hạnh. Một ước mơ thật giản dị, Hạnh được cầm chiếc chổi
rơm quét nhà, tự tay nhóm lửa nấu cơm cho chú Vạn ăn ngày xưa”... “Hạnh
không thể để chú Vạn sống cô độc mãi thế này”(Tr566, 567).
Cùng với Hạnh là số phận của rất nhiều thiếu nữ khác như: Dâu, Thắm,
Hồng, Tươi, Cúc... Chiến tranh đã để lại những người phụ nữ quá lứa, lỡ thì,
cùng với nỗi cô đơn, những khát khao cháy bỏng và nỗi đau mất mát vô cùng
lớn lao của cả mấy thế hệ người phụ nữ làng Đông, vì chiến tranh mà người
thì không chồng, người thì có chồng cũng như không. Ví như Cúc ngày xưa
đùng đùng đem trả trầu cau cho Thành vì bởi không thể yêu anh lính suốt đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
phải mang khuôn mặt dị dạng đã bị tàn phá do chiến tranh. Tưởng sẽ kiếm
được đám khác khá hơn, ai ngờ vơ bèo vạt tép, Cúc làm lẽ ông Ba Chương để
rồi để lại điều tiếng trong dư luận. Còn Dâu xưa vẫn có tiếng là sống mạnh
mẽ, lem lém là vậy bây giờ phải lấy cửa Phật làm vui. Đến như cái Thắm rực
rỡ nhất nhì làng Đông buộc phải lấy anh thợ ảnh thọt chân vì trai làng không
còn ai, sau lại có tư tình với anh pháo thủ, để đến bây giờ vẫn vò võ nuôi con
một mình (Tr560).
Bằng những chi tiết miêu tả chân thực đầy xúc động, chân dung những
người phụ nữ làng Đông hiện lên với bao nỗi niềm thương xót. Dù ở họ mỗi
người là một mảnh đời, một số phận khác nhau, song đều toát lên một điểm
chung là sự chịu đựng, những hy sinh, nỗi lòng cô đơn và biết khát khao hạnh
phúc. Chiến tranh là nguyên cớ lớn nhất và trực tiếp nhất làm cho họ rơi vào
tấn bi kịch cuộc đời, đã xô đẩy số kiếp họ đến chỗ “nổi nênh”, “trôi dạt”.... Có
nhà phê bình đã nhận xét: “Dương Hướng là ngòi bút có tình nói về nỗi đau
của con người”. Phải chăng, điều đó không sai đối với trường hợp Dương
Hướng, một người luôn tâm niệm phải “viết cho thật, cho hay bởi văn chương
là niềm vui và cũng là duyên nợ”. Nhiệm vụ của nhà văn là phải “tìm kiếm cái
đẹp và chống lại cái ác, văn chương phải làm lay động lòng người. Khi viết
phải hoá thân vào nhân vật”. Chính vì lẽ đó mà bên cạnh cái ác là cái thiện,
bên cạnh sự huỷ diệt là mầm sống tương lai đang nảy trồi, bên cạnh sự tàn
bạo của chiến tranh là hạng vạn, hàng ngàn mối quan hệ tốt đẹp của con
người. Chiến tranh chỉ làm “nền” cho cái đẹp trong con người xuất hiện. Do
đó, dù viết về nỗi đau của con người nhưng những trang viết của Dương
Hướng vẫn đậm tính nhân văn sâu sắc. Con người đẹp hơn trong những khát
khao rất đời thường, biết trỗi dậy từ nỗi đau và sống lạc quan hơn (Nghĩa,
Hạnh, Nhân)...
2.2. Nông thôn qua các bƣớc ngoặt cách mạng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Sau chiến tranh là nông thôn, với các vấn đề của làng quê Việt Nam
trong lịch sử và hiện tại. Đây là một đề tài có chiều dài lịch sử ngót một thế
kỉ. Không phải đến bây giờ vấn đề nông thôn mới được đề cập một cách đầy
đủ. Nhưng để lại nhiều tác phẩm thực sự có giá trị về nông thôn phải kể đến
các nhà văn hiện thực nổi tiếng, từ thời Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn... đến
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao.... Tất cả tập hợp lại là một bức
tranh tiêu biểu, sắc nét hầu như bao quát được thực trạng nông thôn Việt Nam
trong đứng yên và khép kín trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là nông
thôn của đói nghèo và bế tắc, đầy những trớ trêu, bất công và nghịch cảnh. Đó
là nông thôn của những con người khốn khó, vất vả cực nhọc, tuy chỉ còn là
những số phận và thân phận, nhưng không để mất đi bản chất con người. Sau
năm 1945, gương mặt nông thôn Việt Nam mới bắt đầu thay đổi, với Cách
mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến, với Cải cách ruộng đất và Sửa sai
rồi phong trào hợp tác hoá... Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng nông thôn
mới vẫn còn những hạn chế và tiêu cực cản trở sự phát triển và gây ra nhiều
nhức nhối. Những cuộc “cách mạng” mà nông thôn đã trải qua sau Cách
mạng tháng Tám như Cải cách ruộng đất và Sửa sai, tiếp đến là phong trào
hợp tác hoá đã đem lại cho người nông dân những lợi ích và một gương mặt
mới, nhưng lại đi kèm với bao mất mát và thảm hoạ. Vì thế, ngay sau thời
điểm 1986, với sự xuất hiện một loạt các tác phẩm như Thời xa vắng (Lê
Lựu), Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Mảnh đất lắm người nhiều
ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng)... các tác giả
đã trở lại thực trạng nông thôn, với gương mặt đích thực của nó, mà suốt một
thời gian dài bị che khuất bởi sự tránh né hoặc bởi một cách nhìn giản đơn, sơ
lược.
Bến không chồng ra đời vào thời điểm mở đầu năm 90, quả đã góp được
một cái nhìn mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến kéo dài
những hơn 40 năm, với gánh nặng về phía khách quan không phải chỉ là chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
tranh, mà còn là những lầm lạc trong đời sống của con người, trong bối cảnh
đất nước có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai “do lịch sử
để lại” đã không đủ tầm và sức để vượt qua. Đó là thử thách của Phát động
quần chúng giảm tô và Cải cách ruộng đất; của phong trào hợp tác hoá nông
nghiệp; của phá đình, chùa và của cả những nề nếp trong tâm lý, ý thức con
người trong gia tộc, dòng họ vẫn còn nguyên sự lạc hậu, chưa thể nào thay đổi
được trong một xã hội nông nghiệp manh mún lạc hậu và tâm lý làng xã lưu
cữu ngàn đời. Tất cả gom lại, làm nên những nguyên cớ cho mọi tai họa tạo
thành những bi kịch, mà con người phải nhẫn nhịn chịu đựng trong cả mộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG (Từ BẾN KHÔNG CHỒNG đến DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI).pdf