Tài liệu Luận văn Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty da giầy Hà Nội: 1
Luận văn
Tiêu thụ sản phẩm và các
phương hướng biện pháp
thúc đẩy khả năng tiêu thụ
sản phẩm của Công ty Da
giầy Hà nội
2
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta bước sang thế kỷ 21- thế kỷ của sự phát triển tột bậc khoa
học, công nghệ và thông tin. Mọi thành tựu khoa học được ứng dụng
nhanh chóng vào mọi lĩnh vực nhưng nhạy cảm nhất là lĩnh vực kinh tế.
Sự cạnh tranh để tồn tại và độc quyền là động lực thúc đẩy các doanh
nghiệp nỗ lực tìm kiếm, phát minh, sáng kiến về máy móc và quản lý.
Trong các hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp
hiện nay cùng với quá trình mở cửa, sự cạnh tranh trên thị trường ngày
càng gay gắt, quyết liệt của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các
nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề
tiêu thụ sản phẩm. Chức năng cơ bản của doanh nghiệp sản xuất là sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm là kết qủa cuối cùng của qúa trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng trong toàn ...
48 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 984 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty da giầy Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Tiêu thụ sản phẩm và các
phương hướng biện pháp
thúc đẩy khả năng tiêu thụ
sản phẩm của Công ty Da
giầy Hà nội
2
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta bước sang thế kỷ 21- thế kỷ của sự phát triển tột bậc khoa
học, công nghệ và thông tin. Mọi thành tựu khoa học được ứng dụng
nhanh chóng vào mọi lĩnh vực nhưng nhạy cảm nhất là lĩnh vực kinh tế.
Sự cạnh tranh để tồn tại và độc quyền là động lực thúc đẩy các doanh
nghiệp nỗ lực tìm kiếm, phát minh, sáng kiến về máy móc và quản lý.
Trong các hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp
hiện nay cùng với quá trình mở cửa, sự cạnh tranh trên thị trường ngày
càng gay gắt, quyết liệt của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các
nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề
tiêu thụ sản phẩm. Chức năng cơ bản của doanh nghiệp sản xuất là sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm là kết qủa cuối cùng của qúa trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của một chu kỳ nhưng đây lại là khâu quan
trọng nhất vì tiêu thụ sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp thu hồi vốn,
tìm kiếm lợi nhuận. Khi quá trình tiêu thụ được thực hiện trôi chảy tức là
doanh nghiệp đang thực hiện tái sản xuất một cách thường xuyên liên tục
nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể làm tốt công tác tiêu thụ
sản phẩm. Nếu sản phẩm sản xuất ra không được thị trường thì dần dần
doanh nghiệp sẽ đi đến phá sản, đó là điều tất yếu mà không một doanh
nghiệp nào muốn. Chính vì vậy các nhà sản xuất kinh doanh không
ngừng hoàn thiện việc quản lý công tác tiêu thụ sao cho có thể đứng vững
trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ? Đó là cả một quá
trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình mọi mặt của doanh nghiệp
mình. Trên cơ sở đó các nhà doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp
quản lý sáng suốt, linh hoạt, nhậy bén để có hướng đi đúng đắn, phù hợp
3
với tình hình hiện nay. Làm tốt được điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đã
khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình, ngược lại nếu không
có những giải pháp đúng đắn, kịp thời cho công tác tiêu thụ sản phẩm
doanh nghiệp sẽ tự đào thải mình ra khỏi thị trường.
Xuất phát từ đó, trong thời gian thực tập tại Công ty Da giầy Hà nội,
em đã quan tâm đi sâu nghiên cứu tình hình quản lý về tiêu thụ sản phẩm
của Công ty, cùng với những kiến thức đã được học ở nhà trường và sự
định hướng nghiên cứu của giáo viên hướng dẫn, em chọn đề tài: “ Tiêu
thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu
thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội “ nhằm một mặt đối chiếu
giữa lý luận với thực tiễn đang diễn ra giúp bản thân đúc kết, củng cố
kiến thức. Mặt khác nhằm tham kiến góp phần đẩy mạnh hơn công tác
quản lý tiêu thụ sản phẩm trong quá trình tổ chức sản xuất, góp phần đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của Công ty trong cơ chế kinh tế mới.
Bố cục chuyên đề gồm các nội dung sau:
Chương 1: Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết phải đẩy mạnh
tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp.
Chương 2: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà
nội.
Chương 3: Những phương hướng, biện pháp chủ yếu nhằm đẩy
mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà nội.
CHƯƠNG 1:
TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY
MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÁC DOANH NGHIỆP.
I/ Những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm ở các
doanh nghiệp:
1/ Khái niệm và nội dung của tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu
thụ sản phẩm:
1.1/ Khái niệm và nội dung của tiêu thụ sản phẩm:
Cùng với việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế, ngày càng xuất
hiện nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các
4
doanh nghiệp này cùng sản xuất hàng hoá, cùng tồn tại, cạnh tranh lẫn
nhau và bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh trên
thị trường và phát triển thì hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp phải đạt hiệu quả. Do đó, thay cho việc trước đây các doanh
nghiệp chỉ lo sản xuất đủ kế hoạch giao nộp cho nhà nước là việc ngày
nay các doanh nghiệp không chỉ sản xuất sản phẩm mà còn phải tìm cách
tiêu thụ số sản phẩm đó. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với
doanh nghiệp bởi vì nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao hàng hoá, sản
phẩm cho đơn vị mua và đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận
việc thanh toán tiền hàng theo giá thoả thuận giữa đơn vị bán và đơn vị
mua về số lượng hàng hoá, sản phẩm đã xuất giao.
Đứng trên giác độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là một quá
trình chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ hình thái là sản phẩm hàng
hoá sang hình thái tiền tệ. Đây cũng là giai đoạn kết thúc quá trình luân
chuyển của vốn, làm cho vốn trở lại hình thái ban đầu khi nó bước vào
mỗi chu kỳ sản xuất. Thật vậy, quá trình tái sản xuất được bắt đầu từ
những đồng vốn mà nhà sản xuất bỏ ra để mua các yếu tố “đầu vào “ của
sản xuất như : công cụ lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Lúc
này vốn bằng tiền được chuyển hoá thành vốn dưới hình thái vật chất.
Vốn dưới hình thái vật chất được đưa vào quá trình sản xuất để tạo ra các
sản phẩm. Sản phẩm hàng hoá đã tạo ra được đem đi tiêu thụ. Kết thúc
quá trình tiêu thụ thì kết quả là doanh nghiệp thu được tiền về. Lúc này
đồng vốn của doanh nghiệp lại từ hình thái vật chất quay trở lại hình thái
ban đầu của nó là hình thái tiền tệ. Đến đây một chu kỳ sản xuất kết thúc
và vốn tiền tệ lại được sử dụng lặp lại theo đúng chu kỳ mà nó đã trải qua.
Quá trình tái sản xuất đó có thể mô tả qua sơ đồ sau:
TLSX( CCLĐ + ĐTLĐ )
T - H ... sản xuất ... H' -T'
SLĐ tiêu thụ
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất
là một trong những vấn đề rất quan trọng đối với công tác quản lý tài
chính của doanh nghiệp. Thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá
thông qua 2 hành vi: doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hàng hoá cho
doanh nghiệp khác và được doanh nghiệp đó thanh toán hoặc chấp nhận
thanh toán cho doanh nghiệp.
5
Khi tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp sẽ đạt được số doanh yhu
bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu tiêu thụ
sản phẩm là các khoản thu nhập có được chủ yếu do tiêu thụ sản phẩm và
cung cấp dịch vụ bên ngoài từ các hoạt động sản xuất kinh doanh chính
và phủ trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, bởi vị
có doanh thu tiêu thụ sản phẩm thì mới có thể bù đắp được mọi chi phí đã
bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh, thu được lợi nhuận và như vậy quá
trình tái sản xuất mới được thực hiện thường xuyên, liên tục. Doanh thu
tiêu thụ sản phẩm có thể được xác định trong các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Doanh nghiệp bán hàng được khách hàng thanh toán
ngay. Khi đó lượng hàng hoá xuất giao được xác định ngay là tiêu thụ,
đồng thời doanh thu bán hàng và tiền bán hàng cũng được xác định.
Trường hợp này doanh thu tiêu thụ sản phẩm và tiền bán hàng trùng nhau
về thời điểm thực hiện.
Trường hợp 2: Doanh nghiệp xuất giao hàng hoá đươc khách hàng
chấp nhận thanh toán nhưng chưa trả tiền ngay. Lúc này doanh thu tiêu
thụ được xác định nhưng tiền bán hàng chưa thu được về.
Trường hợp 3: Doanh nghiệp đã xuất giao đủ hàng cho khách hàng
theo số tiền mà khách hàng trả trước. Khi đó tiền ứng trước trở thành tiền
thu bán hàng của doanh nghiệp và doanh thu tiêu thụ cũng được xác định
ở thời điểm này.
Trường hợp 4: Doanh nghiệp thu được tiền hoặc được chấp nhận
thanh toán về số hàng đã gửi bán hoặc giao cho đại lý. Trường hợp này
tiền thu bán hàng được xác định nhưng do việc giao hàng và thanh toán
cách nhau khá xa nên hay có sự nhầm lẫn trong việc xác định doanh thu
tiêu thụ kỳ hạch toán này và kỳ hạch toán khác.
Trường hợp 5: Doanh nghiệp bán hàng với phương thức trả góp thid
doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định ngay nhưng tiền bán
hàng chỉ thu được một phần, phần còn lại sẽ được trả dần vào các kỳ sau.
1.2/ Nội dung doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất
là quá trình doanh nghiệp dùng tiền để mua sắm nguyên vật liệu và những
yêú tố đầu vào khác cần thiết cho sản xuất, tiến hành sản xuất sản phẩm,
tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền về là tạo nên doanh thu tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm gồm hai nhóm:
- Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Doanh thu từ các hoạt động khác.
*Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Doanh thu bán
hàng là các khoản thu nhập có được chủ yếu do tiêu thụ sản phẩm và
cung cấp dịch vụ cho bên ngoài từ các hoạt động sản xuất kinh doanh
chính và phụ trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm).
6
+ Doanh thu bán các sản phẩm hàng hoá thuộc sản xuất kinh doanh
chính như doanh thu về bán các thành phẩm, nửa thành phẩm bao gồm cả
doanh thu do tiêu thụ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu của doanh
nghiệp và của người đặt hàng, doanh thu về bàn giao khối lượng công
trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành, công tác thiết kế...
+ Doanh thu về tiêu thụ khác như: cung cấp lao vụ, dịch vụ cho bên
ngoài, bán các bản quyền phát minh, sáng chế, tiêu thụ những sản phẩm
chế biến từ phế liệu, phế phẩm...Ngoài ra, doanh thu của doanh nghiệp
còn bao gồm: các khoản trợ giá theo quy định của nhà nước đối với
những sản phẩm hàng hoá được nhà nước trợ giá ( do chính sách kinh tế)
như khuyến khích xuất khẩu: mỗi một sản phẩm sẽ được nhà nước trợ giá
cho sản phẩm đó nếu bị thua lỗ; giá trị của các sản phẩm hàng hoá được
sử dụng để biếu tặng hoặc tiêu dùng trong doanh nghiệp.
* Doanh thu từ hoạt động khác gồm hai loại:
+ Doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính: là các khoản thu từ việc
đầu tư tài chính và kinh doanh về vốn đưa lại cho doanh nghiệp. Bao
gồm: các khoản thu từ hoạt động góp vốn liên doanh; các khoản thu từ
hoạt động đầu tư chứng khoán; các khoản thu về lãi tiền gửi ngân hàng,
về tiền lãi do doanh nghiệp cho các đơn vị, tổ chức khác vay vốn...
+ Doanh thu từ các hoạt động bất thường: là những khoản thu mà
doanh nghiệp không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng
thực hiện và không xảy ra thường xuyên. Bao gồm: các khoản thu từ việc
bán vật liệu, tài sản thừa trong sản xuất; thu từ nhượng bán hoặc thanh lý
TSCĐ; thu từ các khoản nợ khó đòi mà trước đó đã xoá sổ; thu nhập kinh
doanh từ những năm trước( quên chưa vào sổ).
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc thực hiện doanh thu của doanh
nghiệp một cách kịp thời sẽ thúc đẩy tốc độ chu chuyển vốn, do đó ảnh
hưởng lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể làm cho
doanh nghiệp hoặc phát triển mạnh lên hoặc khiến doanh nghiệp không
đủ sức cạnh tranh trên thị trường và đi dần đến sự phá sản.
2/ Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và
doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
Việc tiêu thụ sản phẩm và có doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng của một số nhân tố chủ yếu đó là: đặc điểm sản xuất kinh
doanh của từng ngành nghề, khối lượng sản phẩm sản xuất đưa ra tiêu
thụ, kết cấu sản phẩm hàng hoá đưa ra tiêu thụ, chất lượng sản phẩm hàng
hoá sản xuất, giá bán sản phẩm, công tác tổ chức bán hàng và thị trường
tiêu thụ sản phẩm.
2.1/ Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề:
Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành có khác nhau nên
việc tiêu thụ sản phẩm có những đặc trưng riêng, do đó doanh thu cũng
phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất. Trong ngành công nghiệp, do sản phẩm
sản xuất đa dạng, nhất là những sản phẩm tiêu dùng, dựa trên trình độ kỹ
7
thuật cao, việc sản xuất ít bị lệ thuộc vào thiên nhiên và thời vụ, sản phẩm
tiêu thụ nhanh do đó tiền thu bán hàng cũng nhanh hơn và thường xuyên
hơn. Trong ngành nông nghiệp, sản xuất lại phụ thuộc nhiều vào điều
kiện tự nhiên và sản xuất mang tính thời vụ cho nên việc tiêu thụ sản
phẩm cũng theo thời vụ tập trung chủ yếu vào mùa thu hoạch. Do đó
doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong năm của doanh nghiệp thường tập
trung vào vụ thu hoạch còn ngành xây dựng cơ bản thì khác biệt rõ rệt so
với hai ngành trên. Đó là sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng, thời gian
thi công kéo dài, nên việc tiêu thụ cũng chỉ là những sản phẩm cá thể, tuỳ
thuộc vào từng công trình cụ thể. Do đó, doanh thu cũng phụ thuộc vào
thời gian và tiến độ hoàn thành công việc.
2.2/ Khối lượng sản phẩm sản xuất và đưa ra tiêu thụ:
Khối lượng sản phẩm sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối
lượng sản phẩm tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ cũng là
nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tiêu thụ. Nếu khối lượng sản phẩm đưa ra
càng nhiều thì khả năng về doanh thu càng lớn, với điều kiện khối lượng
sản phẩm đó phải phù hợp với nhu cầu thị trường. Trong trường hợp khối
lượng sản phẩm đưa ra quá lớn, vượt quá nhu cầu thị trường, thì cho dù
sản phẩm có hấp dẫn người tiêu dùng, giá cả có hợp lý, nhưng sức mua
lại có hạn nên việc tiêu thụ cũng bị hạn chế. Còn nếu doanh nghiệp đưa ra
thị trường khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu thị trường thì doanh thu
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bị giảm đi, ảnh hưởng lớn đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác, do không đáp ứng đủ nhu cầu nên sẽ
dẫn đến việc có những khách hàng của doanh nghiệp sẽ tìm đến với
doanh nghiệp khác có cùng loại sản phẩm. Như vậy, doanh nghiệp sẽ mất
đi một bộ phận khách hàng tức là doanh nghiệp đã kàm giảm thị phần của
mình trong điều kiện việc tìm kiếm thị phần là vô cùng khó khăn. Chính
vì vậy, trong công tác tiêu thụ sản phẩm các nhà quản lý doanh nghiệp
cần nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng để đánh giá chính xác nhu
cầu và năng lực sản xuất của mình nhằm chuẩn bị một khối lượng sản
phẩm hợp lý để đưa ra tiêu thụ trên thị trường.
2.3/ Kết cấu sản phẩm hàng hoá đưa ra tiêu thụ:
Trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp muốn đạt được hiệu
quả kinh tế cao thì luôn phải đổi mới và đưa ra thị trường nhiều loại sản
phẩm khác nhau, giá cả của chúng cũng khác nhau. Trong mỗi loại sản
phẩm đó lại phải đưa ra nhiều chủng loại, kích cỡ, mầu sắc, phẩm cấp,
mẫu mã khác nhau để đáp ứng mọi nhu cầu cao thấp khác nhau cua người
tiêu dùng. Khi đưa sản phẩm ra tiêu thụ không phải mặt hàng nào cũng
như nhau mà có mặt hàng tiêu thụ được nhiều do phù hợp với nhu cầu
tiêu dùng, giá cao, chất lượng thấp, tiêu thụ không đúng thị
trường...Thêm vào đó, khi sản xuất có thể có những mặt hàng chỉ phải bỏ
ra chi phí tương đói thấp nhưng giá bán lại tương đối cao, song cũng có
những mặt hàng chi phí sản xuất tương đối nhiều mà giá bán lại thấp. Đôi
8
khi không tránh khỏi mặt hàng có chất lượng cao nhưng không còn được
ưa chuộng, trong khi có những mặt hàng chất lượng vừa phải, giá bán cao
nhưng tiêu thụ vẫn mạnh vì nó còn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Do đó, việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất cũng ảnh hưởng nhiều đến
doanh thu. Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng, mỗi loại sản phẩm đều có tác
dụng nhất định trong việc thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, cho nên
doanh nghiệp cũng không thể tự thay đổi kết cấu sản phẩm sản xuất đưa
ra tiêu thụ được. Vì vậy, việc nắm vững nhu cầu thị trường đối với mỗi
doanh nghiệp là một việc hết sức cần thiết, nó làm căn cứ để đưa ra kết
cấu sản phẩm hợp lý nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm nếu
không hàng hoá sẽ bị ế ẩm, tồn đọng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải
không ngừng nghiên cứu tìm tòi, cho ra đời những sản phẩm mới ưu việt
hơn, thay thế cho những sản phẩm đã bị lỗi thời để đối phó với sự biến
động của thị trường.
2.4/ Chất lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất:
Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng
trong cạnh tranh. Việc sản xuất gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao
chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được nâng cao không những
có ảnh hưởng tới giá bán sản phẩm mà còn ảnh hưởng tới khối lượng tiêu
thụ, do đó nó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu. Có thể nói chất lượng
sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh sắc bén có thể đè bẹp các đối thủ trên
thị trường. Chính vì vậy, các doanh nghiệp muốn quảng cáo cho sản
phẩm của mình thì luôn phải đưa quảng cáo về chất lượng lên hàng đầu.
Chất lượng sản phẩm tốt không chỉ thu hút khách hàng, làm tăng
khối lượng sản phẩm tiêu thụ mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp
nâng cao giá bán sản phẩm một cách hợp lý mà vẫn tiêu thụ được. Nếu
tiêu thụ được dễ dàng thì doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu được tiền bán
hàng. Ngược lại, nếu chất lượng sản phẩm kém thì việc tiêu thụ sẽ gặp
khó khăn, cả khi giá bán rẻ vẫn không được người tiêu dùng chấp nhận.
Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
uy tín của doanh nghiệp với khách hàng. nó là sợi dây vô hình thắt chặt
khách hàng với doanh nghiệp và tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm dễ
dàng, nhanh chóng và thuận lợi, làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp.
2.5/ Giá bán sản phẩm:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và giá cả xoay
quanh giá trị, giá cả sản phẩm tác động rất lớn tới quá trình tiêu thụ sản
phẩm. Với cơ chế thị trường hiện nay, giá cả được hình thành tự phát trên
thị trường theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán,do đó doanh
nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp đưa ra một mức giá bán phù
hợp với chất lượng sản phẩm sẽ được đông đảo người tiêu dùng chấp
nhận, doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Còn nếu khi
giá quá cao thì người tiêu dùng sẽ không chấp nhận, lúc đó sản phẩm của
9
doanh nghiệp không tiêu thụ được sẽ bị ứ đọng. Một cách làm khác cho
doanh nghiệp là doanh nghiệp có thể dùng giá bán để cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác bằng cách nghiên cưú phương pháp làm cho giá bán
sản phẩm của mình hạ hơn so với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp
khác. Làm như vậy, doanh nghiệp có thể thu hút được khách hàng của các
đối thủ cạnh tranh và có thể thành công trên thị trường.
Đối với thị trường nông thôn, miền núi, nơi có thu nhập thấp kà
những thị trường sức mua có hạn. Do việc tiêu thụ sản phẩm ở mức độ
thấp nên giá cả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với mức giá thấp hơn có
thể tạo ra sức tiêu thụ lớn hơn và ngược lại, giá cao hơn một chút là có
thể làm giảm sức tiêu thụ đi rất nhiều, thậm chí không tiêu thụ được.
Tóm lại, các quyết định về giá bán sản phẩm sản xuất ra của doanh
nghiệp ngoài một số loại sản phẩm có tính chất chiến lược được nhà nước
bảo hộ và định giá, còn lại hoàn toàn phụ thuộc vào cơ chế thị trường và
quan hệ cung cầu. Doanh nghiệp phải tự tính toán, cân nhắc và định đoạt
sao cho giá bán của sản phẩm phải bù đắp được phần tư liệu, vật chất đưa
vào sản xuất, trả lương hay tiền công cho người lao động và có lợi nhuận
để thực hiện tái sản xuất giản đơn và mở rộng.
2.6/ Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp: Bao gồm
nhiều mặt:
*Về hình thức bán hàng: Một doanh nghiệp nếu áp dụng tổng hợp
các hình thức bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán hàng tại kho của doanh
nghiệp, tại kho của khách hàng, bán tại cửa hàng...tất nhiên sẽ tiêu thụ
được nhiều sản phẩm hơn một doanh nghiệp khác chỉ áp dụng một hình
thức bán hàng.
Để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, các doanh nghiệp còn có thể tổ
chức mạng lưới các đại lý phân phối sản phẩm. Khi các đại lý này được
mở rộng và hoạt động có hiệu quả sẽ nâng cao doanh thu cho doanh
nghiệp và tăng thị phần của doanh nghiệp. Ngược lại, khi các đại lý hoạt
động kém hiệu quả sẽ dẫn tới việc giảm sút doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
* Về mặt tổ chức thanh toán: Doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều
phương thức thanh toán khác nhau như: thanh toán bằng tiền mặt, chuyển
khoản, thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán ngay...Với các hình thức
thanh toán đa dạng đó sẽ làm cho khách hàng cảm thấy thoải mái và có
thể lựa chọn cho mình phương thức thanh toán thuận lợi nhất do đó có thể
thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp, khi đó sản
phẩm của doanh nghiệp sẽ tiêu thụ được nhiều hơn. Nếu doanh nghiệp
chỉ áp dụng một phương thức thanh toán nào đó thì sẽ dẫn đến khả năng
phương thức đó chỉ phù hợp với khách hàng này nhưng lại không phù
hợp với khách hàng khác.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp có những hình thức khuyến khích
khách hàng thanh toán nhanh, thanh toán ngay bằng việc chiết khấu bán
hàng thì cũng sẽ thu hút được khách hàng nhiều hơn, đẩy mạnh được tốc
10
độ tiêu thụ sản phẩm và đó chính là đòn bẩy kích thích việc tiêu thụ sản
phẩm.
* Về các dịch vụ kèm theo trong công tác tiêu thụ sản phẩm: Để tăng
sức cạnh tranh trong công tác tiêu thụ, doanh nghiệp phỉa luôn tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng bằng cách tổ chức các dịch vụ vận chuyển,
bảo hành sản phẩm, lắp ráp sản phẩm...Điều này sẽ làm cho khách hàng
cảm thấy thoải mái, yên tâm và tin tưởng hơn khi dùng sản phẩm của
doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp làm không tốt khâu này sẽ
gây mất uy tín, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ yếu đi và như
vậy công tác tiêu thụ sẽ gặp khó khăn.
* Về quảng cáo và giới thiệu sản phẩm: Hiện nay, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, thì quảng cáo chiếm một vị trí
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
quảng cáo giới thiệu sản phẩm đem đến cho khách hàng những thông tin
cô đọng, đặc trưng nhất về sản phẩm một cách nhanh nhất và rộng khắp..
Trên cơ sở biết đến sản phẩm của doanh nghiệp, khách hàng sẽ có sự so
sánh và đi đến lựa chọn sản phẩm cho chính họ trước khi quyết định mua
sản phẩm nào. Quảng cáo là một trong những vấn đề có tính chất chiến
lược của sản xuất- tiêu thụ. Mục tiêu của quảng cáo là phải đưa thông tin
đến người tiêu dùng về mặt hàng nào đó một cách thật ấn tượng để thu
hút sự chú ý của người tiêu dùng.
2.7/ Thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Nói đến sản xuất hàng hoá là phải nói đến thị trường tiêu thụ vì thị
trường là nơi tiêu thụ sản phẩm và cũng là nơi cung cấp cho doanh nghiệp
những thông tin quan trọng để đề xuất và xây dựng các kế hoạch sản xuất,
chiến lược đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thị trường là một thực thể tồn
tại khách quan còn kế hoạch thuộc về chủ quan của con người, bởi vậy thị
trường phải được nghiên cứu trước khi đề ra kế hoạch sản xuất. Những
kết quả nghiên cứu thị trường sẽ cung cấp cho doanh nghiệp những thông
tin cần thiết về danh mục của những sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, về
sự phù hợp của chủng loại hàng hoá. Làm tốt công tác nghiên cứu thị
trường, doanh nghiệp có thể nắm bắt đượct nào chủ yếu, thị trường nào là
thứ yếu để phân phối lượng sản phẩm hợp lý cho từng thị trường. Từ đó
doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ và tránh tình trạng
nơi thừa, nơi thiếu. Qua nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp có thể nắm
bắt được nhu cầu,thị hiếu của từng bộ phận thị trường để bố trí kết cấu
sản phẩm tiêu thụ phù hợp với từng bộ phận đó.
Những nhân tố chủ yếu trên đây có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình
tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ
lưỡng những nhân tố này để từ đó tìm ra những biện pháp cần thiết để
đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay.
3/ Lập kế hoạch doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp:
11
Đối mặt với tình hình thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, các
doanh nghiệp đều phải lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Chỉ tiêu kế hoạch
doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng là một chỉ tiêu tài chính, nó cho biết
khả năng của việc tiếp tục quá trình tái sản xuất của một doanh nghiệp..
Kế hoạch này lập có chính xác hay không cũng ảnh hưởng tới kế hoạch
lợi nhuận và các bộ phận kế hoạch khác. Chính vì vậy, cần phải quan tâm
và không nhgừng cải tiến việc lập chỉ tiêu kế hoạch này.
- Căn cứ lập kế hoạch doanh thu: Để lập kế hoạch doanh thu bán
hàng là dựa vào các đơn đặt hàng và các hợp đồng kinh tế đã được ký kết
với các đơn vị khác. Doanh nghiệp có thể lập kế hoạch doanh thu bán
hàng dựa trên các kết quả nghiên cứu thị trường đối với từng loại sản
phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp có thể căn cứ
vào tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá thực tế của một vài năm trước,
căn cứ vào khả năng sản xuất của doanh nghiệp trong năm kế hoạch để
lập kế hoạch doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
- Nội dung của kế hoạch doanh thu: doanh thu tiêu thụ sản phẩm
phụ thuộc vào số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán đơn vị sản phẩm kỳ
kế hoạch. Công thức:
Trong đó: T =
n
i
GiSti
1
)*(
T : doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Sti : số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại trong kỳ kế hoạch.
Gi : giá bán đơn vị sản phẩm của từng loại sản phẩm i.
i =1,n :loại sản phẩm dự tính tiêu thụ kỳ kế hoạch.
Bộ phận sản phẩm trong năm kế hoạch có thể không tiêu thụ hết mà
để bán ở năm sau, đồng thời trong năm kế hoạch có thể bán những sản
phẩm đã sản xuất ở năm trước. Vì vậy, số lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ kế
hoạch phụ thuộc vào số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch, số
lượng sản phẩm kế dư dự tính đầu kỳ kế hoạch và số lượng sản phẩm kế
dư dự tính cuối kỳ kế hoạch. Công thức xác định số lượng sản phẩm tiêu
thụ kỳ kế hoạch như sau:
Sti = Sdi + Sxi - Sci.
Trong đó:
Sdi: số lượng sản phẩm kết dư đầu kỳ kế hoạch của sản phẩm thứ i.
Sxi: số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch.
Sci: số lượng sản phẩm kết dư dự tính cuối kỳ kế hoạch.
i : loại sản phẩm.
Số lượng sản phẩm kết dư dự tính đầu kỳ kế hoạch bao gồm hai bộ
phận: số lượng sản phẩm tồn kho đến 31/12 năm trước(năm báo cáo) và
số lượng sản phẩm đã xuất giao cho khách hàng nhưng chưa thanh toán
xong. Vì kế hoạch năm thường lập vào quý IV năm báo cáo nên số lượng
sản phẩm kết dư đầu kỳ phải dự tính theo công thức sau:
Sd = S3 + Sx4 - St4
12
Trong đó:
S3: số lượng sản phẩm kết dư thực tế cuối quý III kỳ báo cáo.
Sx4: số lượng sản phẩm dự tính sản xuất trong quý IV kỳ báo cáo.
St4: số lượng sản phẩm dự tính tiêu thụ trong quý IV kỳ báo cáo.
Đối với việc xác định số lượng sản phẩm kết dư cuối kỳ kế
hoạch(Sci), để cho đơn giản và nhanh chóng doanh nghiệp có thể căn cứ
vào tình hình sản xuất, tiêu thụ, tình hình thị trường hoặc căn cứ vào số
kết dư thực tế của những năm trước để tính ra số kết dư cuối kỳ bình quân
của từng loại sản phẩm.
4/ Một số biện pháp được sử dụng trong công tác tiêu thụ để đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm hiện nay:
4.1/ Đẩy mạnh sản xuất sản phẩm, nâng cao chất lượng, hình
thức, mẫu mã sản phẩm:
Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp luôn chú trọng đến việc
đẩy mạnh tốc độ sản xuất sản phẩm. Việc đẩy mạnh tốc độ sản xuất sản
phẩm là để tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm hơn nhằm đáp ứng đầy đủ
nhu cầu của thị trường. Các doanh nghiệp làm như vậy, một mặt để tăng
doanh thu mặt khác để tránh tình trạng sản phẩm sản xuất ra không đủ
cung ứng cho nhu cầu thị trường và dẫn đến việc khách hàng sẽ tìm đến
sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác.
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất sản phẩm, các doanh nghiệp cũng
không ngừng nâng cao chất lượng, hình thức, mẫu mã sản phẩm vì đây là
một yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh, nó ảnh hưởng lớn tới việc thị
trường có chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp hay không. Để thực hiện
được những vấn đề này, các doanh nghiệp đã chú trọng đến công tác đại
tu, bảo dưỡng máy móc thiết bị, áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ
vào sản xuất. Bên cạnh đó, doanh nghiệp rất quan tâm đến việc nâng cao
năng suất lao động của công nhân sản xuất, bồi dưỡng trình độ tay nghề
cho công nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho họ. Doanh nghiệp cũng thường
xuyên nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu thị trường từ đó đưa ra
những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
4.2/ Phấn đấu hạ thấp giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến giá bán sản phẩm của
doanh nghiệp và do vậy nó là một trong những nhân tố kích thích hoặc
kìm hãm tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Chính vì lý do này,
các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để hạ thấp giá thành sản phẩm.
Doanh nghiệp rất chú trọng đến việc áp dụng những thành tựu vầ khoa
học và công nghệ vào sản xuất vì đây là nhân tố cực kỳ quan trọng cho
phép doanh nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng
luôn cố gắng hạ thấp chi phí nguyên vật liệu, tổ chức quản lý, phân công
lao động hợp lý nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao tay nghề
cho công nhân. ngoài ra doanh nghiệp còn phấn đấu để giảm chi phí quản
13
lý doanh nghiệp, áp dụng các hình thức trả lương, thưởng phạt hợp lý đ[í
với cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
4.3/ Chính sách giá cả hàng hoá:
Trước sự ảnh hưởng to lớn của giá bán sản phẩm đến việc tiêu thụ
sản phẩm, các doanh nghiệp đã sử dụng giá cả hàng hoá rất linh hoạt. Mỗi
doanh nghiệp có thể định giá theo cách riêng của mình. Khi một mặt hàng
mới được đưa ra thị trường mà doanh nghiệp chưa có đối thủ cạnh tranh
thì doanh nghiệp có thể bán với giá cao nhưng đến khi trên thị trường
xuất hiện sản phẩm cùng loại thì doanh nghiệp lại hạ thấp giá bán để đẩy
nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn. Nhiều khi sản
phẩm đưa ra thị trường không còn mới lạ nhưng vì lý do nào đó khiến
nhu cầu tăng vọt lên, lúc đó doanh nghiệp có thể tăng giá bán rất cao mà
vẫn tiêu thụ được sản phẩm một cách mạnh mẽ. Ngược lại, do cung lớn
hơn cầu hoặc vì lý do nào đó khiến việc tiêu thụ tạm thời chậm lại vì vậy
doanh nghiệp cũng lại nhanh chóng hạ thấp giá bán.
Việc giảm giá trong tiêu thụ sản phẩm cũng được các doanh nghiệp
rất chú trọng, có nhiều hình thức giảm giá: giảm giá trong trường hợp
khách hàng mua một khối lượng sản phẩm hoặc với khách hàng mua
thường xuyên; giảm giá theo khối lượng sản phẩm; giảm giá nhằm thu
hồi vốn đối với những sản phẩm đã tồn kho chưa tiêu thụ được; giảm giá
trong kỳ ngắn hạn.
Ngoài hình thức giảm giá hàng bán, doanh nghiệp còn áp dụng
phương thức chiết khấu bán hàng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Chiết
khấu bán hàng là việc doanh nghiệp khấu trừ cho khách hàng một số tiền
tương ứng với một tỷ lệ phần trăm nhất định tính trên trị giá số hàng hoá
đã mua của doanh nghiệp nhằm khuyến khích những khách hàng thanh
toán nhanh trước thời hạn. Làm như vậy doanh nghiệp có thể thu hồi vốn
nhanh đưa vào tái sản xuất.
Việc sử dụng chiết khấu bán hàng cũng là một biện pháp quan trọng
nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Có những tỷ lệ chiết khấu
thích hợp sẽ hấp dẫn được khách hàng đến với sản phẩm của doanh
nghiệp như vậy tiêu thụ mới thuận lợi và nhanh chóng thu hồi đồng vốn
đã bỏ vào sản xuất.
4.4/ Mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm:
Để tiêu thụ được nhiều sản phẩm, các doanh nghiệp luôn chú trọng
đến công tác mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm. Các doanh nghiệp
không chỉ bán hàng tại kho của mình, tại cửa hàng của doanh nghiệp mà
còn phải tìm cách mở rộng thị trường. Để thực hiện được mục tiêu này,
các doanh nghiệp đã thiết lập các chi nhánh bán hàng ở các tỉnh, thành
phố khác nhau. Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu thị trường doanh
nghiệp đã thiết lập một mạng lưới đại lý tiêu thụ rộng khắp nhằm đưa
được sản phẩm tới tay người tiêu dùng ở mọi tỉnh, thành phố...Ngoài ra
nhiều doanh nghiệp còn tiến hành ký gửi sản phẩm tại nhiều cửa hàng
14
khác nhau. Do vậy nhờ áp dụng hình thức bán hàng thông qua đại lý và
các cửa hàng ký gửi, doanh nghiệp không những mở rộng thị trường tiêu
thụ mà còn có thể tiết kiệm được nhiều chi phí khác mà vẫn chiếm lĩnh
thị trường.
4.5/ Quảng cáo:
Doanh nghiệp nào cũng nhận thấy trong cơ chế thị trường hiện nay,
việc quảng cáo bán hàng có ý nghĩa rất lớn. Do vậy, quảng cáo bán hàng
đã trở thành một hoạt động quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện quảng cáo để đưa
tin tức đến người tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp, giải thích lợi
ích của mặt hàng này và so sánh ưu thế của nó với những mặt hàng tương
tự. Các quảng cáo bán hàng mà doanh nghiệp sử dụng thường cô đọng, dễ
nhớ đặc biệt là phải gây được ấn tượng cho người tiêu dùng. Thông qua
đó người tiêu dùng sẽ chú ý đến sản phẩm của doanh nghiệp và như vậy
doanh nghiệp sẽ có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn.
4.6/ Một số biện pháp Marketing khác:
Hiện nay trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt các doanh
nghiệp rất chú trọng đến việc tiến hành các biện pháp marketing khác
nhau để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của mình. Chẳng hạn việc bán
sản phẩm cho khách hàng thì phải đảm nhận dịch vụ vận tải, vận chuyển
cho khách hàng với một khối lượng sản phẩm lớn, hoặc trong trường hợp
mua ít thì chỉ được giảm giá cước phí hoặc phải chịu tiền cước phí. Ngoài
ra doanh nghiệp còn áp dụng các hình thức khuyến mại bán hàng vào các
dịp khai trương, ngày lễ, tết...hoặc các hình thức tặng quà kèm theo khi
mua sản phẩm của doanh nghiệp.
Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp còn thực hiện việc quay sổ xố, vé
tham gia dự thưởng và các hình thức tài trợ giải thưởng cho các cuộc thi
lớn, thu hút nhiều khán giả trong và ngoài nước tham dự nhằm mục đích
quảng cáo cho hãng và sản phẩm của hãng. Điều này hoàn toàn hấp dẫn
khách hàng và với khách hàng có nhu cầu nhưng chưa có ý định mua thì
sẽ cố gắng mua vào dịp này để có được cơ may và lúc đó doanh nghiệp
đã thành công trong tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn sử dụng phương pháp phát sản phẩm
dùng thử, biếu tặng sản phẩm như các hãng mỹ phẩm và các hãng sản
xuất hàng tiêu dùng nhỏ khác.
Tuy nhiên, việc sử dụng biện pháp nào cho có hiệu quả và phù hợp
thì doanh nghiệp phải phân tích, đánh giá đúng tình hình sản xuất kinh
doanh của đơn vị mình, nghiên cứu kỹ tình hình thị trường, các đối thủ
cạnh tranh trên cơ sở đó đề ra những giải pháp tối ưu cho việc đẩy mạnh
tiêu thụ sản phẩm.
II/ Sự cần thiết và vai trò của công tác tài chính đối với việc đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm:
1/ Sự cần thiết của hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
15
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối của quá trình sản xuất nhưng
nhiều khi là khâu quyết định. Các doanh nghiệp chỉ sau khi tiêu thụ được
sản phẩm mới có thể thu hồi được vốn để tiếp tục quá trình tái sản xuất
kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm bảo đảm quá trình sản xuất được liên tục
là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội.
Sản phẩm được tiêu thụ tức là được người tiêu dùng chấp nhận. Sức
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện chất lượng sản phẩm, uy tín
doanh nghiệp, sự hợp lý hoá các dây chuyền công nghệ, sự thích ứng với
nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện các hoạt động dịch vụ...Nói
cách khác tiêu thụ sản phẩm phản ánh khá đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu
của doanh nghiệp.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu
dùng, giúp người sản xuất hiểu thêm về sản phẩm của mình và các thông
tin về nhu cầu thị trường, khách hàng, từ đó có biện pháp làm cho sản
phẩm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Tiêu thụ sản phẩm trở thành căn cứ quan trọng để doanh nghiệp lập
kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý về thời gian, số lượng, chất lượng,
tìm cách phát huy thế mạnh và hạn chế những điểm yếu của mình. Với
người tiêu dùng, tiêu thụ sản phẩm giúp cho họ thoả mãn về nhu cầu hàng
hoá vì sản phẩm hàng hoá có đến tay người tiêu dùng hay không là tuỳ
thuộc vào hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Xét trên giác độ vĩ mô, nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất
với những cân bằng, những quan hệ tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra
được tiêu thụ tức là sản xuất xã hội được diễn ra một cách bình thường,
trôi chẩy, tránh được những mất cân đối, đảm bảo ổn định xã hội.
Trong điều kiện nên kinh tế thị trường, cạnh tranh ngày càng khốc
liệt, việc tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự sống còn
của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm - đó là sự cần thiết
hết sức khách quan.
2/ Vai trò của công tác tài chính đối với việc đẩy mạnh tiêu thụ
sản phẩm:
Tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường hiện nay có vai trò to
lớn, mang tính chất sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Do vậy, mỗi
doanh nghiệp đều không ngừng tìm mọi biện pháp để đẩy nhanh tiêu thụ
sản phẩm. Mọi nỗ lực cố gắng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đều
được đánh giá, thể hiện qua khả năng và hiệu quả của hoạt động tiêu thụ
sản phẩm. Công tác tiêu thụ sản phẩm có những vai trò rất quan trọng, đó
là:
- Làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất phát triển cân đối, đáp ứng nhu cầu xã hội. Ngược lại sản phẩm
không tiêu thụ được sẽ làm cho sản xuất ngừng trệ, sản phẩm không có
giá trị sử dụng.
16
- Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, giá cả hợp lý của sản phẩm là
những vấn đề vô cùng quan trọng quyết định đến công tác tiêu thụ sản
phẩm nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Vì vậy
doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường về cung cầu hàng hoá,
giá cả, đối thủ cạnh tranh...đồng thời không ngừng cải tiến công nghệ sản
xuất, đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá bán.
Trên ý nghĩa đó, tiêu thụ sản phẩm được coi là một biện pháp để điều tiết
sản xuất, định hướng cho sản xuất, là tiêu chuẩn để đánh giá quá trình tổ
chức sản xuất, cải tiến công nghệ.
- Việc tổ chức hợp lý hoá khoa học quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ
giảm tới mức thấp nhất các loại chi phí, góp phần làm giảm giá thành tới
tay người tiêu dùng, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thương trường.
- Tiêu thụ sản phẩm góp phần củng cố vị trí, thế lực của doanh
nghiệp, nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng thông qua
sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả phải chăng, phương thức giao dịch
mua bán thuận tiện, dịch vụ bán hàng tốt...giúp doanh nghiệp thành công
trên thương trường. Thực hiện tốt các khâu của quá trình tiêu thụ giúp
cho doanh nghiệp có thể tiêu thụ được khối lượng sản phẩm lớn và lôi
cuốn thêm khách hàng, không ngừng mở rộng thị trường.
- Làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm là động lực thúc đẩy sản xuất
và là yếu tố tăng nhanh vòng vốn sản xuất kinh doanh.
- Thông qua tiêu thụ sản phẩm, ta thấy rằng trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ thực hiện
tái sản xuất giản đơn mà còn phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện qui
trình công nghệ sản xuất của mình, tăng cường đầu tư theo chiều sâu, mở
rộng quy mô theo hướng đi mới...muốn có được điều đó doanh nghiệp
phải làm thế nào để thu được nhiều lợi nhuận. Vậy phải làm để thu được
nhiều lợi nhuận? Vấn đề này chỉ có thể được giải đáp khi doanh nghiệp
tìm mọi cách để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và có lãi vì hoạt động này
góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm đã góp phần vào việc thực hiện tái sản xuất
mở rộng.
- Tăng tiêu thụ sản phẩm có lãi sẽ làm tăng lợi nhuận, do đó doanh
nghiệp sẽ có nguồn tài chính để thiết lập các quĩ của doanh nghiệp. Như
vậy, đây là điều kiện để tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, tăng
thêm các hoạt động phúc lợi của doanh nghiệp nhằm cải thiện và nâng
cao điều kiện làm việc, sinh hoạt cho cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp.
Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường nói chung và nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nói riêng, các doanh nghiệp luôn có sự
cạnh tranh gay gắt với nhau để có khả năng tồn tại và phát triển. Chính vì
vậy, việc làm thế nào để tiêu thụ được số sản phẩm đã sản xuất ra là một
17
vấn đề hết sức bức xúc, nó mang tính chất sống còn đối với mỗi doanh
nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm tốt sẽ mang lại hiệu quả to lớn và ngược lại
doanh nghiệp sẽ không tồn tại được. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích
để nhận thức đúng đắn vấn đề tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp nói
chung và trong thời gian thực tập tại Công ty Da giầy Hà nội, em xin
trình bày một số nét về tình hình tiêu thụ giầy và một số giải pháp chủ
yếu để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở Công ty.
CHƯƠNG 2:
TÌNH HÌNH TIÊU THỤ Ở CÔNG TY DA GIẦY HÀ NỘI.
I/ Tình hình và đặc điểm hoạt động kinh doanh ở Công ty Da
giầy Hà nội:
1/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Da giầy Hà nội:
1.1/ Lịch sử hình thành phát triển:
Công ty Da giầy Hà nội ngày nay tiền thân là nhà máy da Thụy
Khuê do một nhà tư bản Pháp đầu tư xây dựng năm 1912 theo thiết kế
của Pháp với nhiệm vụ sản xuất da thuộc, các sản phẩm chế biến từ da
phục vụ cho các ngành công nghiệp đặc biệt là phục vụ cho cuộc chiến
tranh của thực dân Pháp.
Từ khi thành lập cho đến nay nhà máy đã trải qua quá trình hình
thành phát triển khá dài có một số thay đổi trong nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh cũng như tên gọi và cơ quan chủ quản.
-Từ năm 1912-1954, một tư bản đã đầu tư vào ngành thuộc da và
thành lập công ty thuộc da Đông Dương- một công ty thuộc da lớn nhất
Đông Dương thời đó. Nhiệm vụ sản xuất thời kỳ này là sản xuất ra sản
phẩm phục vụ cho chiến tranh như bao súng, bao đạn, thắt lưng...Lúc này
quy mô hoạt động của công ty còn nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu.
Máy móc được đưa từ Pháp sang, điều kiện lao động thì ẩm ướt, độc
hạị...Sản lượng đạt khoảng 5000 -> 6000 da /1năm.
-Giai đoạn từ 1954 ->1960, Công ty thuộc da Đông dương nhượng lại
cho tư sản Việt Nam. Sau đó Nhà nước quốc hữu hoá một phần chuyển
thành xí nghiệp công ty hợp doanh lấy tên là “ Công ty thuộc da VN “.
-Giai đoạn từ 1960 -> 1987, Công ty thuộc da Việt Nam từ một công
ty hợp doanh mang tên mới “ Nhà máy da Thụy Khuê “ trực thuộc công
ty tạp phẩm của Bộ công nghiệp nhẹ. Trong giai đoạn này Công ty đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp da công nghiệp phục vụ các
ngành công nghiệp trong nước. Đây là giai đoạn phát triển nhất của công
ty. Số lượng công nhân lúc này lên tới 600 người, sản lượng tăng vọt từ
5,3 tỷ năm 1986 lên tới 6,7 tỷ năm 1987, tỷ lệ tăng trung bình 25%. Công
ty luôn hoàn thành kế hoạch từ 5%- 31% /năm.
- Giai đoạn từ 1989 -> 1990, khi nhận thấy ngành da giầy có những
nét đặc trưng riêng và có triển vọng, Nhà nước đã cho phép nhà máy da
Thụy Khuê được tách khỏi công ty tạp phẩm và thành lập liên hiệp da
18
giầy với nhiệm vụ tập trung vào công nghiệp da giầy, cung cấp đầy đủ
NVL cho các công ty giầy, sản xuất thêm các mặt hàng tiêu dùng bán ra
thị trường.
- Giai đoạn từ 1990-> 1992, cùng với sự thay đổi của cơ chế quản lý
Nhà nước mô hình liên hiệp không còn thích hợp nữa, Nhà nước cho
phép tất cả các doanh nghiệp thuộc liên hiệp tách ra hoạt động độc lập.
Nhà máy da Thụy Khuê tách ra khỏi Liên hiệp da giầy trực thuộc Bộ
công nghiệp nhẹ và xuất nhập khẩu trực tiếp.
- Đến tháng 12 /1992 Nhà máy da Thuỵ Khuê được đổi tên thành
Công ty da giầy Hà nội theo QĐ số 1310 /CNN- TC ngày 17/12/1992 của
Bộ trưởng Bộ công nghiệp nhẹ kèm theo điều lệ của Công ty.
- Giai đoạn 1993 -> nay: theo quyết định số 338 /CNN – TC ngày
29/4 1993 Bộ trưởng Bộ công nghiệp nhẹ ra quyết định thành lập lại
Công ty lấy tên:
Tên doanh nghiệp: “ Công ty da giầy Hà Nội “.
Tên giao dịch quốc tế: HALEXIM (viết tắt của Ha Noi Leather
products and foot wear production and export import company.)
Từ tháng 6/1996 Công ty trở thành thành viên của Tổng Công ty da
giầy Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất cũng như tăng sản lượng
năm 1997 công ty đã đưa vào một dây chuyền thuộc da hoàn chỉnh và
một số thiết bị nhập từ Italia vào lắp đặt. Lúc này sản lượng của công ty
đã tăng lên: - Sản lượng da cứng 25-> 32 tấn/năm.
- Sản lượng da mềm 450.000 ha/năm.
- Keo CN 25 tấn /năm.
Một số chỉ tiêu công ty đã đạt được trong những năm gần đây:
STT CHỈ TIÊU ĐVT 1999 2000 2001
1
2
3
4
5
6
Giá trị tổng sản lượng
Doanh thu
Nộp ngân sách
Lợi nhuận thực hiện
Vốn kinh doanh :
Vốn cố định
Vốn lưu động
Thu nhập bình quân
CNV
tỷ
-
-
-
-
-
-
1000đ
9,2
8,76
0,788
2,012
15,324
11,035
4,289
500
11,9
10,1235
0,912499
2,105
19,005
12,018
6,987
550
15,3
11,019
0,93758
3,623
21,712071
14,320
7,39
580
1.2 / Đặc điểm tổ chức quản lý, quy trình công nghệ của Công ty
a/ Đặc điểm quy trình công nghệ:
Hiện nay công ty đang tập trung vào 2 mặt hàng truyền thống đó là da
cứng, da mềm và sản phẩm mới, sản phẩm giầy vải. Mỗi một loại sản
phẩm đều có một quy trình công nghệ riêng. Quy trình công nghệ giầy vải
ở Công ty Da giầy Hà Nội là một quy trình công nghệ sản xuất kiểu đơn
19
giản. Sản phẩm giầy vải là kết quả của nhiều công đoạn. Nguyên vật liệu
chính để sản xuất giầy vải là vải và cao su. Thời gian đưa nguyên vật liệu
vào sản xuất nhanh hơn, nhập kho hàng ngày.
CÁC BƯỚC QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ GIẦY VẢI
b/ Đặc điểm tổ chức sản xuất:
Để phù hợp với quy trình công nghệ sản xuất 3 loại sản phẩm Công ty
tổ chức 4 phân xưởng và 1 xưởng giầy vải với những nhiệm vụ cụ thể:
Vải Cao su
Cách luyện
May Chuẩn bị gò
Gò ráp
Hấp
Cắt riềm,
dán kín, sỏ
Hoàn tất sản
phẩm
Sản phẩm
giầy
Kiểm
nghiệm
Nhập
kho
Chặt mảnh
20
- Phân xưởng da keo: Đây là phân xưởng sản xuất chính. Nguyên
vật liệu chính đưa vào sản xuất là các loại da trâu, bò tươi hoặc da muối,
vật liệu sử dụng là các hoá chất. Sản phẩm của phân xưởng là các loại da
cứng, da mềm, keo công nghiệp.
- Phân xưởng chế biến I: Chế biến các mặt hàng đồ da phục vụ công
nghiệp dệt như gông, takê, dây cu roa...và một số khác phục vụ cho quốc
phòng như dây đeo, bao súng, bao đạn... Nguyên vật liệu chính của phân
xưởng này là da cứng, da mềm lấy từ phân xưởng da keo.
- Phân xưởng chế biến II: Từ nguyên liệu là da mềm, da cứng do
phân xưởng da keo cung cấp.Phân xưởng chế biến ra các sản phẩm phục
vụ cho tiêu dùng dân dụng và quốc phòng: đóng giầy, máy găng.
-Phân xưởng cơ khí: Đây là phân xưởng sản xuất phụ có nhiệm vụ
cung cấp lao vụ cho các phân xưởng chính đồng thời tận dụng các loại
phế liệu phế phẩm để sản xuất ra các sản phẩm cung cấp cho thị trường.
Có 3 bộ phận: Bộ phận cơ khí, bộ phận mộc nề, tổ nồi hơi.
- Xưởng giầy: Bao gồm các bộ phận cắt may, gò ráp và hoàn thiện.
Nguyên vật liệu chủ yếu của xưởng giầy là vải và cao su.
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHÂN XƯỞNG THEO SƠ ĐỒ SAU:
Bộ phận cơ khí
Cơ khí Mộc nề Nồi hơi
c/ Đặc điểm tổ chức quản lý của doanh nghiệp:
Là một đơn vị hạch toán độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân trực
thuộc Tổng công ty Da giầy Việt Nam, Công ty Da giầy Hà Nội tổ chức
theo quy mô hình trực tuyến chức năng. Ban giám đốc trực tiếp điều hành
quản lý, bên cạnh đó công ty còn thực hiện cơ chế khoán đến từng phân
xưởng để giải quyết công ăn việc làm cho công nhân, các quản đốc phân
xưởng phải tự đôn đốc công nhân trong quá trình sản xuất.
Phân xưởng da
PX chế
biến I
PX chế
biến II
Xưởng
cắt may
Xưởng gò
ráp, hoàn
thiện
21
Với 523 lao động ngoài ban giám đốc hiện nay, công ty có 7 phòng
ban và 5 phân xưởng. Mỗi phòng ban có những chức năng nhiệm vụ sau:
- Ban giám đốc: gồm 1 đồng chí giám đốc và 2 đồng chí phó giám
đốc. Giám đốc điều hành chung cả công ty đặc biệt là về mặt kinh tế. Một
phó giám đốc thường trực quản lý về mặt đời sống, đầu tư XDCB. Một
phó giám đốc phụ trách kỹ thuật.
-Văn phòng: gồm 4 bộ phận: Phòng tổ chức, phòng hành chính,
phòng bảo vệ, phòng y tế. Mỗi phòng có nhiệm vụ và chức năng riêng
của mình như tổ chức bộ máy, quản lý lao động, ban hành một số quy chế
về công tác tiền lương của cán bộ công nhân viên trong công ty, công tác
bảo vệ an ninh, chăm lo sức khoẻ đời sống công nhân viên...
- Phòng kế hoạch vật tư: có chức năng xây dựng kế hoạch tháng,
quý, năm, điều hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ của
khách hàng.
- Phòng tài chính kế toán: Giúp lãnh đạo trong công ty hạch toán chi
phí sản xuất kinh doanh của công ty và xác định nhu câù về vốn, tình hình
hiện có và sự biến động của các loại tài sản trong công ty.
- Phòng kinh doanh -XNK: Giúp giám đốc trong việc tìm thị trường
trong nước, nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm, thực thi kế hoạch bán hàng.
- Phòng kỹ thuật: Có nhiệm vụ xây dựng các quy phạm trong quá
trình sản xuất và xây dựng kế hoạch trung đại tu và sửa chữa máy móc
thiết bị đồng thời xây dựng quy trình sử dụng và quản lý máy móc thiết
bị.
- Phòng XDCB: Có nhiệm vụ quản lý, đề nghị và tham mưu do lãnh
đạo xây dựng đề ra kế hoạch và các hạng mục đầu tư, gọi vốn đầu tư.
Giám sát quá trình xây dựng chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về chất
lượng công trình.
Giám đốc công ty đứng đầu bộ máy quản lý trực tiếp điều hành sản
xuất kinh doanh hoặc gián tiếp thông qua các phó giám đốc. Các phòng
ban có một sự độc lập tương đối nhưng cũng có mối quan hệ gần gũi
tương tác, phối hợp nhịp nhàng để bộ máy của công ty vận hành trôi
chảy.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY
Giám đốc
PGĐ phụ trách
đời sống,XDCB
PGĐ phụ
trách kỹ
Phòng
tổ
chức
Văn
phòng
Phòng
kế
hoạch
vật tư
Phòng
TCKT
Phòng
kinh
doanh
XNK
Phòng
kỹ
thuật
Phòng
XDCB
22
1.3/ Đặc điểm sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội:
Sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội là giầy vải các loại. Sản phẩm
được sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của nước ngoài như Đài Loan,
Hồng Kông, Đức, Ý...và sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước nên đòi
hỏi tiêu chuẩn khá cao, chất lượng phải đảm bảo, mẫu mã đẹp, sản xuất
phải theo đúng yêu cầu của khách hàng. Đặc điểm của loại sản phẩm tiêu
dùng này là có thể để lâu, không bị hao hụt nên cũng dễ dàng trong việc
quản lý. Đơn vị tính thường là đôi. Do yêu cầu của quản lý và theo đơn
đặt hàng của khàch hàng nên khi sản xuất xong sản phẩm thường được
đóng thành kiện. Số đôi giầy trong một kiện và kích cỡ giầy, mầu sắc
giầy đóng vào kiện hoàn toàn theo yêu cầu của khách hàng.
Về số lượng: Hàng tháng số lượng sản phẩm sản xuất nhiều hay ít
căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết với khách
hàng và tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, từ đó bộ phận kế
hoạch sẽ lên kế hoạch sản xuất giầy trong tháng. Quá trình vận động của
thành phẩm rất ngắn và nhanh kết thúc để có thể kịp thời gian giao hàng
cho khách như hợp đồng đã ký kết.
Về chất lượng: Do Công ty có dây chuyền sản xuất giầy tiên tiến,
tương đối hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế nên sản phẩm sản xuất ra đạt
chất lượng khá cao. Ngoài ra, nhiều loại nguyên vật liệu nhập về từ nước
ngoài để phục vụ cho sản xuất sản phẩm cũng góp phần nâng cao chất
lượng sản phẩm. Công ty đã sản xuất được rất nhiều loại giầy vải khác
nhau. Mỗi loại giầy chia thành nhiều loại giầy khác nhau. Giầy của Công
ty có mẫu mã, hình thức khá đẹp và rất đa dạng. Chính vì vậy, nhiều loại
giầy đã chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước. Sản phẩm của
Công ty được bạn hàng tín nhiệm nên số lượng đơn đặt hàng ngày càng
nhiều.
Với đặc điểm sản phẩm của Công ty như vậy nên để thực hiện tốt
công tác tiêu thụ sản phẩm thì nhất thiết cần phải tổ chức công tác tiêu
thụ sản phẩm một cách khoa học, hợp lý, phải có các biện pháp thích hợp,
23
kịp thời đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo thu hồi vốn
nhanh và thu được nhiều lợi nhuận.
2/ Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của Công ty:
Việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội có đặc điểm rất
riêng biệt, khác với nhiều Công ty trong nước. Sản phẩm sản xuất ra chủ
yếu để xuất khẩu sang các nước khác theo các đơn đặt hàng của khách
hàng. Và trong một vài năm gần đây, sản phẩm của Công ty cũng đã được
tiêu thụ rộng rãi ở thị trường trong nước.
- Đối với xuất khẩu: Việc xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài do
phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phụ trách. Công ty sẽ xuất giao hàng
dựa trên các hợp đồng ký kết với nước ngoài. Công ty có quan hệ hợp
đồng với một số Công ty khác ở các nước như: Đài loan, hồng kông,
trung quốc. Những Công ty này đóng vai trò trung gian và Da giầy Hà nội
nhận được các đơn đặt hàng của nước ngoài chủ yếu thông qua các Công
ty này. Theo như hợp đồng, Công ty sẽ xuất hàng cho bên trung gian và
bên trung gian sẽ thanh toán tiền hàng cho Công ty sau khi đã nhận được
hàng. Nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm do Công ty mua trong nước
nhưng cũng có trường hợp không mua được trong nước vì không có nên
Công ty phải nhập nguyên liệu từ phía các Công ty trung gian. Có khi
nguyên vật liệu dùng cho sản xuất phải nhập 70% từ phía nước ngoài.
Như vậy khi thanh toán tiền hàng, khách hàng sẽ bù trừ tiền nguyên vật
liệu vào tiền hàng của Công ty theo định mức đã tính. Trong trường hợp
Công ty không phải xuất hàng sang các Công ty trung gian mà xuất thẳng
sang nước có đơn đặt hàng thì sau khi đã nhận được tiền hàng từ phía
nước có đơn đặt hàng, Công ty sẽ thanh toán hoa hồng cho bên trung gian
theo phần trăm đã thoả thuận trong hợp đồng. Ngoài ra, Công ty cũng có
đơn đặt hàng trực tiếp từ phía các nước có nhu cầu mà không phải qua
trung gian nhưng trường hợp này không nhiều.
- Đối với thị trường trong nước: Việc sản xuất sản phẩm chủ yếu
dựa vào tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty trên thị trường và các
hợp đồng với khách hàng. Việc tiêu thụ sản phẩm trong nước do phòng
tiêu thụ phụ trách. Công ty có các chi nhánh bán hàng, các cửa hàng bán
và giới thiệu sản phẩm tại Hà nội và nhiều tỉnh, thành phố trong nước.
Đặc biệt mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Công ty đã có mặt ở hầu khắp
các tỉnh, thành phố, trung du, miền núi đặc biệt là ở những nơi dân cư
đông đúc và lực lượng công nhân lao động nhiều. Việc thanh toán tiền
hàng giữa các đại lý, chi nhánh, khách hàng với Công ty được thực hiện
theo từng tháng. Riêng đối với các đại lý, khi thanh toán sẽ được tính trừ
luôn phần trăm tiền hoa hồng.
- Việc thanh toán, biên bản thanh toán, hoá đơn bán hàng...giữa
Công ty với khách hàng, nếu là khách hàng hàng nước ngoài sẽ do phòng
kinh doanh xuất nhập khẩu tính trên từng lô hàng xuất đi, nếu là khách
hàng trong nước hay chi nhánh bán hàng, đại lý sẽ do phòng tiêu thụ đảm
24
nhiệm theo từng tháng. Cuối cùng tất cả các chứng từ biên bản sẽ được
chuyển sang phòng Kế toán. Kế toán tiêu thụ và Kế toán thanh toán sẽ tập
hợp các chứng từ, biên bản đó và theo dõi việc thanh toán giữa khách
hàng với Công ty hoặc việc thanh toán của Công ty với khách hàng theo
từng biên bản.
- Thông thường việc thanh toán tiền hàng giữa Công ty với khách
thường theo phương thức giao hàng trước và thanh toán tiền hàng sau.
Tất cả các chi phí bán hàng quy định trong hợp đồng do Công ty chịu
trách nhiệm. Khi bán hàng ra nước ngoài thì tiền hàng của Công ty
thường được thanh toán bằng ngoại tệ. Do vậy, khi khách hàng thanh toán
Công ty phải quy đổi ra đồng Việt nam.
- Ta thấy rằng, việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty phần lớn là ở thị
trường nước ngoài. Thị trường sản phẩm của Công ty ở trong nước tuy
vài năm trở lại đây đã phát triển khá mạnh nhưng trong điều kiện nền
kinh tế thị trường trong nước ngày càng phát triển thì việc mở rộng thị
trường trong nước để tăng khối lượng tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề rất
đáng quan tâm đối với Công ty.
3/ Những thuận lợi và khó khăn trong công tác tiêu thụ sản phẩm
ở Công ty Da giầy Hà nội:
3.1/ Thuận lợi:
Những năm qua thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty đã không
ngừng được mở rộng, sản phẩm của Công ty xuất hiện nhiều trên thị
trường. Thông qua chất lượng sản phẩm Công ty đã duy trì được thị
trường truyền thống của mình, sản lượng sản phẩm xuất khẩu ngày càng
tăng, đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống cho cán bộ công nhân viên.
- Về lực lượng lao động: Công ty có đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo
nhiệt tình, giầu kinh nghiệm đã được tôi luyện, thử thách qua nhiều năm
đầy khó khăn trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, sẵn sàng đồng cam
cộng khổ cùng Công ty, tìm ra hướng giải quyết, khắc phục mọi khó khăn
để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Đây
là một thuận lợi lớn cho Công ty.
- Về vị trí địa lý: Do vị trí của Công ty nằm ở gần các tuyến đường
giao thông nên giúp cho vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá dễ dàng
thuận lợi, đẩy mạnh sản xuất tiêu thụ sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển,
việc ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng và thanh toán qua ngân
hàng cũng thuận lợi hơn.
Công ty có một mạng lưới các cửa hàng bán buôn và bán lẻ hàng
hoá nằm ở những vị trí trung tâm, hết sức thuận lợi cho công tác tiêu thụ
nhờ đó khách hàng có rất nhiều điều kiện để tham quan hàng của Công ty
khi tiến hành mua bán các sản phẩm từ đó kích thích khách hàng nảy sinh
nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
3.2/ Khó khăn :
25
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên Công ty còn gặp phải một số
khó khăn sau.
Bởi địa lí nước ta nằm trong vùng nhiệt đới vì vậy thời tiết được
phân theo mùa, do vậy đã tạo nên tính đặc thù của ngành sản xuất da
giầy. Điều này đã tạo ra nhu cầu sử dụng sản phẩm cũng theo mùa của
khách hàng, gây nên sự khó khăn đối với Công ty trong việc đảm bảo kế
hoạch sản xuất liên tục trong năm.
Tình hình trang thiết bị công nghệ lạc hậu không đủ khả năng đáp
ứng yêu cầu của khách hàng, các sản phẩm không phù hợp với tiêu chuẩn
quốc tế.
Khó khăn trong công tác tiêu thụ sản phẩm mà Công ty đang gặp
phải đó là số vốn dành cho hoạt động sản xuất quá ít. Vì vậy việc đầu tư
chiều sâu nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm bị hạn chế.
Cũng như đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước khác,
Công ty Da giầy Hà nội cũng chịu sự cạnh tranh của thị trường. Sản phẩm
của Công ty khi sản xuất ra phải chịu sự cạnh tranh của nhiều loại giầy
trong và ngoài nước cả về chất lượng lẫn giá cả. Vì vậy đòi hỏi ở Công ty
có sự nỗ lực cố gắng cao để giữ vững và không ngừng mở rộng thị trường
tiêu thụ.
Ngoài những khó khăn nêu trên Công ty còn gặp một số trở ngại từ
đội ngũ công nhân sản xuất tay nghề không đồng bộ, chưa theo kịp với sự
chuyển đổi thay thế của dây chuyền công nghệ mới gây ra nhiều ảnh
hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm.
II/ Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà nội:
1/ Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm :
1.1/ Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm:
Để chuẩn bị cho sản xuất kinh doanh một năm mỗi doanh nghiệp
phải lập cho mình rất nhiều kế hoạch như kế hoạch vật tư, kế hoạch lao
động tiền lương, kế hoạch đầu tư và xây dựng cơ bản, kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm... tất cả tập hợp thành kế hoạch sản xuất , tài chính kỹ thuật của
doanh nghiệp. Trong bài viết về công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty
thì vấn đề được đưa ra xem xét và nghiên cứu là công tác lập kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thực chất là việc dự đoán trước số liệu
sản phẩm sẽ được tiêu thụ trong kỳ kế hoạch đơn giá bán sản phẩm kỳ kế
hoạch, doanh thu tiêu thụ sản phẩm sẽ đạt được trong kỳ kế hoạch để có
thể chủ động tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm một cách linh hoạt,
đem lại hiệu quả cao.
Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được
dễ dàng thuận lợi thì điều nhất thiết là doanh nghiệp đó phải lập kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm một cách chính xác và cụ thể. Thông qua kế hoạch đã
lập, doanh nghiệp mới có thể tổ chức kinh doanh nói chung và tổ chức
26
tiêu thụ sản phẩm đi đúng hướng đã định. Nếu công tác tiêu thụ sản phẩm
không được kế hoạch chặt chẽ thì quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ bị động,
tiêu thụ sẽ không phù hợp với sản xuất, cung không phù hợp với cầu do
đó hiệu quả do sản xuất kinh doanh đem lại sẽ thấp. Không những thế,
nếu thiếu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hoặc việc lập kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm không chính xác cũng sẽ ảnh hưởng đến hàng loạt các kế hoạch
khác và điều này sẽ làm cho sản xuất mất cân đối gây khó khăn cho
doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Như vậy công tác lập kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm là điều cần thiết cho mọi doanh nghiệp sản xuất trước
khi bước vào sản xuất kinh doanh, khẳng định vai trò của Công ty đối với
nền kinh tế, thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về sản phẩm
của doanh nghiệp.
* Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm :
Dựa vào đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của mình Công ty Da giầy Hà
nội đã lựa chọn phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm tương đối
thích hợp. Hàng năm kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty được lập
cho cả năm và theo từng quý. Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm có
phân chia số lượng sản phẩm theo từng quý, trong kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm quý lại phân chia số lượng sản phẩm theo từng tháng.
* Căn cứ lập kế hoạch :
Việc lập kế hoạch tiêu thụ năm của Công ty được căn cứ vào các
đơn đặt hàng, các hợp đồng đã được ký kết giữa Công ty và khách hàng
suốt thời điểm lập kế hoạch, căn cứ vào khả năng sản xuất sản phẩm
trong năm của Công ty. Còn đối với mặt hàng tiêu thụ nội địa, việc lập kế
hoạch thường căn cứ vào tình hình tiêu thụ sản phẩm thực tế của năm
trước và kết quả dự đoán nhu cầu thị trường năm kế hoạch.
*Thời điểm lập kế hoạch :
Thời điểm Công ty lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho năm sau là
vào tháng 11 năm trước - năm báo cáo. Đây cũng là thời điểm để Công ty
tiến hành lập các kế hoạch khác nhằm mục đích chuẩn bị đầy đủ các yếu
tố đầu vào cho sản xuất ở năm sau.
Đối với kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng quý, Công ty dựa vào kế
hoạch đã lập cho cả năm và chia ra các quý. Kế hoạch tiêu thụ quý
thường được lập vào cuối tháng thứ 3 của quý trước. Đây cũng là thời
gian tổng hợp kết quả kinh doanh trong quý. Hàng tháng Công ty lại dựa
vào kế hoạch tiêu thụ quý để lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của tháng.
Tuy nhiên để cho việc lập kế hoạch được sát với tình hình tiêu thụ thực
tế, khi lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm theo tháng, Công ty cũng có những
điều chỉnh nhất định cho phù hợp với thực tế hơn so với kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm theo quý.
1.2/ Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2002 của Công ty :
Trong năm 2002, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm giầy các loại được lập
như sau : (Biểu số 1)
27
- Tại cột “Tên sản phẩm “ cho thấy kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của
Công ty trong năm 2002 được lập chi tiết cho mặt hàng giầy tiêu thụ nội
địa và mặt hàng giầy xuất khẩu bao gồm nhiều loại :
Giầy nội địa : Giầy bata
Giầy xuất khẩu : CVO, JTS, VEMA.
- Hai cột số lượng “Tiêu thụ 2001 “ và “Doanh thu tiêu thụ 2001 “
được tổng hợp từ các sổ sách, chứng từ báo cáo tình hình sản xuất kinh
doanh và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của Công ty trong năm 2001.
- Cột số lượng “Kế hoạch 2002 “ dự kiến số sản phẩm tiêu thụ trong
năm 2002 được lập trên cơ sở căn cứ vào đơn đặt hàng, hợp đồng tiêu thụ
sản phẩm đã ký kết, kết hợp với việc dự đoán nhu cầu thị trường năm kế
hoạch và kết quả công tác tiêu thụ sản phẩm năm 2001.
- Cột “ Đơn giá bình quân kế hoạch “ là giá bình quân của từng loại
sản phẩm được Công ty căn cứ vào giá năm trước và kết quả của việc
nghiên cứu thị trường như tình hình biến động của nguyên vật liệu, tình
hình cung cầu...để tính cho năm sau.
- Cột “ Doanh thu dự kiến 2002 “ được xác định bằng cách nhân số
lượng sản phẩm kế hoạch năm 2002 với đơn giá bình quân kế hoạch của
từng loại.
- Số “ Doanh thu tiêu thụ 2001 “ và “ Doanh thu dự kiến 2002 “
không phản ánh toàn bộ số doanh thu của Công ty đã đạt trong năm 2001
cũng như dự kiến sẽ đạt trong năm 2002, mà chỉ phản ánh một phần của
doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Ngoài kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập chung cho cả năm, Công
ty còn tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho từng quý để cụ thể
hoá hơn nữa hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở Công ty nhằm
đêm lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập
khá chi tiết. Ta lấy đơn cử kế hoạch tiêu thụ quý IV năm 2002-đây là quý
dự kiến có tốc độ tiêu thụ sản phẩm khá mạnh trong năm.
Ta thấy rằng, từ số lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ trong quý IV
của năm 2002, Công ty sẽ chia ra số lượng sản phẩm tiêu thụ hàng tháng.
Nhưng không phải tháng nào Công ty cũng dự kiến tiêu thụ được tất cả
các mặt hàng mà có tháng sẽ không có một hoặc một vài sản phẩm nào đó
dược tiêu thụ đặc biệt đối với giầy xuất khẩu. Bởi vì khi Công ty lập kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm là dựa trên các đơn đặt hàng của nước ngoài, do
vậy sẽ có những mặt hàng phía nước ngoài sẽ không đặt trong một vài
tháng. Công ty phải lập kế hoạch sát như vậy nhằm phục vụ cho việc lập
kế hoạch sản xuất thật chính xác, phù hợp với tình hình tiêu thụ thực tế,
tránh tình trạng sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được. Và cũng chính
dựa trên các đơn đặt hàng và dự kiến tiêu thụ từng loại giầy tại các thời
điểm khác nhau trong quý thông qua tình hình thực tế năm trước, nghiên
cứu và dự đoán tình hình tiêu thụ cho năm tới. Công ty đã lập kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm cho các tháng trong quý là không đều nhau.
28
Qua công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy
Hà nội ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Nét đặc biệt trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty là không
tính đến số sản phẩm kết dư đầu kỳ và cuối kỳ. Nghiên cứu bở do đặc
điểm tiêu thụ sản phẩm của Công ty chủ yếu là theo đơn đặt hàng của
khách, số lượng khách mua lẻ sản phẩm không lớn lắm cho nên số sản
phẩm tồn kho hầu như chiếm một tỷ trọng nhỏ, không đáng kể so với
khối lượng sản xuất.
Phương pháp lập kế hoạch của Công ty rất cụ thể, chi tiết cho từng
tháng, từng quý phù hợp với đặc điểm của Công ty, thuận lợi cho công
tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Công ty đã lập kế hoạch tiêu thụ dựa
trên tình hình tiêu thụ thực tế năm trước và dự đoán nhu cầu năm nay và
nhu cầu tại thời điểm trong năm nhằm đạt tới sự trùng khớp giữa sản xuất
và tiêu thụ, giữa kế hoạch tiêu thụ với tình hình thực tế.
Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm 2002 của Công ty, doanh thu dự
kiến sẽ đạt 14.312.000.000đ tăng 7.127.099.000đ so với năm 2001. Tỷ lệ
tăng là 199,19%.
Ta thấy doanh thu dự kiến năm 2002 tăng lên so với năm 2001 chủ
yếu là do một số nguyên nhân cơ bản sau:
* Đơn đặt hàng tăng lên làm cho số lượng sản phẩm tiêu thụ tăng lên
dẫn đến tăng doanh thu tiêu thụ các loại sản phẩm. Hơn nữa, số lượng sản
phẩm dự kiến tiêu thụ trong năm 2002 tại thị trường nội địa tăng lên fn so
với năm 2001 cũng làm cho doanh thu tiêu thụ tăng lên.
Cụ thể:
Loại giầy bata tăng từ 25.800 đôi (năm 2001) lên 35.000 đôi(năm
2002), tức là tăng tiêu thụ 9.200 đôi.
Loại giầy CVO tăng từ 143.200 đôi (năm 2001) lên 200.000
đôi(năm 2002), tức là tăng tiêu thụ 56.800 đôi.
Loại giầy VEMA tăng từ 137.673 đôi (năm 2001) lên 190.000 đôi
(năm 2002), tức là tăng tiêu thụ 52.327 đôi.
Và ta thấy lượng tiêu thụ năm 2002 của Công ty tăng cũng bắt
nguồn từ một loại sản phẩm mới được đưa vào sản xuất theo đơn đặt hàng
của nước ngoài, đó là loại giầy JTS dự kiến năm 2002, Công ty sẽ tiêu thụ
được hơn 100.000 đôi.
* Về giá cả tính cho một đơn vị sản phẩm tiêu thụ: Nhìn chung, giá
cả của sản phẩm giầy các loại có biến động so với thực tế năm 2001
nhưng sự biến động là không đáng kể. Công ty đã dự kiến giá bán sản
phẩm các loại có tăng hơn năm 2001 một chút. Công ty đã dự trên giá bán
của năm trước và dự đoán tình hình biến động của thị trường năm nay để
đặt giá sản phẩm kỳ kế hoạch. Việc dự kiến giá bán sản phẩm tăng cũng
góp phần làm cho doanh thu tiêu thụ kỳ kế hoạch tăng lên.
* Về kết cấu sản phẩm tiêu thụ: ( Biểu số 3)
Biểu 3 : So sánh kết cấu tiêu thụ giầy kế hoạch 2002
29
so với thực tế 2001
TÊN
SẢN PHẨM
THỰC TẾ 2001 KẾ HOẠCH 2002
Số lượng
(đôi)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(đôi)
Tỷ lệ
(%)
- Giầy nội địa
Giầy bata 25.800 8,4 35.000 6,67
- Giầy xuất khẩu
CVO 143.200 46,7 200.000 38,09
JTS 100.000 19,04
VEMA 137.673 44,9 190.000 36,2
Tổng cộng 306.673 100,0 525.000 100,0
Công ty vẫn tập trung vào việc sản xuất và tiêu thụ các loại sản
phẩm giầy đang được ưa chuộng trong và ngoài nước. Thêm vào đó,
Công ty có đưa ra thị trường ngoài nước một loại sản phẩm mới theo đơn
đặt hàng và loại sản phẩm này cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong
tổng số sản phẩm tiêu thụ năm 2002.
Chính vì vậy, kết cấu sản phẩm tiêu thụ năm 2002 không giống năm
2001. Điều này cũng tác động làm cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm của
Công ty thay đổi so với năm 2001.
Dưới sự tác động tổng hợp ba nhân tố: số lượng, kết cấu, giá cả sản
phẩm kỳ kế hoạch 2002 so với kỳ thực tế 2001 đẫ dẫn đến kết quả doanh
thu tiêu thụ dự kiến trong năm 2002 tăng lên. Công tác lập kế hoạch của
Công ty nhìn chung mang tính khả thi cao tuy nhiên vẫn còn một số
nhược điểm sau: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm mới chỉ dựa vào các hợp
đồng được ký kết, chưa quan tâm đến việc mở rộng thị trường tiêu thụ
nên mặc dù kế hoạch sản xuất và tiêu thụ là rất sát nhau, nhưng chưa phát
huy được vai trò của mình, kém sáng tạo nhiều khi không nghiên cứu các
yếu tố cạnh tranh dẫn đến tình trạng nắm bắt thông tin về “cung “ của thị
trường không được chính xác. Đó là một vài yếu điểm trong công tác lập
kế hoạch ở Công ty. Muốn đi tìm hiểu rõ hơn về công tác thực hiện kế
hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như thế nào cần nghiên cứu tình hình
tt của Công ty trong năm 2002.
2/ Tình hình tiêu thụ sản phẩm và nhiều biện pháp đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà nội trong năm 2002:
2.1/ Các biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, Công ty
Da giầy Hà nội đã từng bước đi lên để khẳng định vị trí và uy tín của
mình. Xuất phát từ tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
sản xuất giầy trên thị trường, Công ty Da giầy Hà nội đã nhận thức được
rằng, cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là vấn đề cần quan tâm hàng
đầu. Do đó, Công ty luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản
phẩm từ khâu nhập nguyên vật liệu chất lượng cao để ddưa vào sản xuất
30
cho đến khâu sản xuất luôn cố gắng đảm bảo đúng kỹ thuật. Bên cạnh đó,
Công ty đã áp dụng một số biện pháp khác để giúp cho việc tiêu thụ sản
phẩm được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn. Do nhân thức được hiệu
quả của những biện pháp tài chính và một số biện pháp khác, Công ty đã
nghiên cứu và phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ của mình để từ đó đưa
ra những biện pháp thích hợp nhất đối với tình hình tiêu thụ hiện tại. Cụ
thể là các biện pháp:
Thứ nhất: Các biện pháp tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, uy tín và chất lượng sản phẩm luôn là
những yếu tố quan trọng chinh phục khách hàng. Công ty Da giầy Hà nội
với bề dầy năng lực kinh nghiệm sản xuất đã sử dụng một số biện pháp
tài chính kinh tế khá linh hoạt và hiệu quả nhằm đẩy mạnh công tác tiêu
thụ sản phẩm trong năm 2002.
Giá cả hàng hoá: Như nhiều doanh nghiệp sản xuất khác, Công ty
áp dụng hình thức giảm giá đối với những khách hàng tiêu thụ khối lượng
sản phẩm lớn, do đó từ trước đến nay số lượng khách hàng mua buôn của
Công ty chiếm tỷ lề rất cao, là nguồn tiêu thụ quan trọng giúp Công ty
đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, tuỳ thuộc vào thị
trường tiêu thụ mà doanh nghiệp có thể tăng giá bán khi thấy “ cầu “ về
tiêu thụ sản phẩm của Công ty tăng lên. Qua đó có thể thấy việc tăng
giảm giá bán sản phẩm của Công ty là rất hợp lý biểu hiện sự năng động,
sáng tạo, linh hoạt trong công tác sản xuất kinh doanh của Công ty góp
phần nâng cao doanh thu, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Chiết khấu bán hàng: Cùng với mục tiêu đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ
sản phẩm, Công ty đã sử dụng chiết khấu bán hàng để khuyến khích
khách hàng rút ngắn thời gian thanh toán tiền hàng, giúp Công ty nâng
cao tỷ lệ doanh thu trả tiền ngay, hạ thấp doanh thu trả tiền chậm, hạn chế
được số khách hàng nợ nần làm cho quá trình tiêu thụ sản phẩm diễn ra
nhanh hơn.
Đa dạng hoá các hình thức thanh toán: Nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho khách hàng, Công ty vận dụng nhiều hình thức thanh toán khác
nhau như thanh toán bằng tiền mặt, séc...Trường hợp khách hàng thanh
toán ngay bằng tiền mặt thì kế toán lập chứng từ ban đầu là phiếu thu
tiền. Phiếu thu tiền còn gọi là chứng từ chứng minh cho việc thanh toán
bằng ngân phiếu. Phiếu thu tiền được lập thành ba liên: một liên giao cho
khách, một liên nộp cho phòng Tài vụ và một liên lưu. Còn nếu khách
hàng thanh toán bằng séc( thường là séc bảo chi hoặc séc chuyển khoản)
thì số séc đó được phòng Tài vụ nộp vào tài khoản của Công ty ở ngân
hàng ngoại thương thành phố HN.
Hàng tháng, quý phòng kế toán đối chiếu công nợ, gửi giấy báo đòi
nợ đến khách hàng. Mọi số nợ quá hạn đều phải chịu lãi suất theo lãi suất
vay vốn ngân hàng. Những quy định và phương pháp thực hiện trren vừa
31
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quan hệ mua bán với Công
ty, vừa đảm bảo an toàn cho tài sản, tiền vốn.
Bên cạnh những biện pháp tài chính nêu trên, Công ty còn sử dụng
một số chính sách khác như: hoa hồng cho đại lý ký gửi, giảm giá...nhằm
đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên muốn phát huy đầy đủ
tác dụng của các đòn bẩy đó, Công ty còn phải khắc phục những tồn tại,
chấn chỉnh đổi mới kịp thời mới đảm bảo duy trì tốc độ tiêu thụ sản
phẩm.
Ngoài những biện pháp trên, Công ty còn tiến hành cải tiến phương
thức bán hàng nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty
nói chung và trong năm 2002 nói riêng.
Thứ hai: Hoàn thiện phương thức bán hàng
Nhằm hoàn thiện và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm cũng như
đáp ứng được tối đa nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường cho mọi
khách hàng thuộc mọi đối tượng với số lượng không hạn chế, Công ty
tiến hành mở rộng, đa dạng hoá các phương thức bán hàng.
Để có thể tiêu thụ một số lượng sản phẩm lớn, Công ty phải có các
hợp đồng được ký kết, các đơn đặt hàng. Do Công ty luôn có các khách
hàng thường xuyên và lâu dài nên hàng năm Công ty đều có thời điểm
thoả thuận công việc một cách thích hợp vì hợp đồng phải được ký kết
theo quy định của Công ty.
Tiêu thụ hàng hoá ở Công ty được tiến hành theo ba phương thức
bán hàng đó là bán buôn, bán lẻ và bán đại lý. Nghiệp vụ bán lẻ thực hiện
tại cửa hàng, đại lý của Công ty. Với hàng hoá bán buôn, Công ty chỉ
thực hiện phương thức bán buôn qua kho với chứng từ ban đầu kiêm
phiếu xuất kho là chứng từ bán hàng duy nhất có giá trị làm căn cứ cho
việc hạch toán nghiệp vụ bán buôn. Công tác bán buôn do phòng nghiệp
vụ đảm nhận, cuối tháng gửi chứng từ lên phòng Tài vụ Công ty để phòng
lên nhật ký chứng từ.
Việc theo dõi công tác tiêu thụ sản phẩm: Phòng kinh doanh xuất
nhập khẩu theo dõi việc tiêu thụ sản phẩm ra nước ngoài, phòng tiêu thụ
theo dõi việc tiêu thụ sản phẩm trong nước và phòng Tài vụ theo dõi
chung dựa trên các chứng từ do hai phòng kia chuyển sang. Từng loại sản
phẩm được theo dõi trên sổ chi tiết riêng, kế toán tiêu thụ sản phẩm căn
cứ vào các hoá đơn phiếu xuất kho phát sinh trong tháng để lập sổ. Công
ty cũng thực hiện việc theo dõi tổng hợp tình hình tiêu thụ sản phẩm theo
từng tháng, từng quý. Cuối mỗi quý, phòng Tài vụ lại tập hợp các kết quả
tiêu thụ theo các chỉ tiêu số lượng, số tiền chi tiết cho từng loại sản phẩm.
Hiện nay, Công ty có một mạng lưới các cửa hàng giới thiệu, bán
sản phẩm giầy và kinh doanh tổng hợp. Hàng tháng các cửa hàng chỉ cần
báo cáo doanh thu lên Công ty và thực hiện các nghĩa vụ giao nộp theo
định mức Công ty quy định. Tuy tổ chức hạch toán kinh doanh nội bộ
nhưng các cửa hàng này vẫn là các đơn vị thuộc khối thương nghiệp của
32
Công ty. Tận dụng lợi thế về địa điểm các cửa hàng đã phát huy tối đa
khả năng kinh doanh của mình, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, vừa
là nơi quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và nắm bắt nhu cầu thị trường một
cáhc nhanh chóng, chính xác, từ đó định hướng sản xuất kinh doanh có
hiệu quả hơn.
Về cơ bản phương thức bán hàng của Công ty tạo điều kiện cho
khách tham quan và tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Việc tiêu thụ sản
phẩm của Công ty còn phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ bán hàng của các
đại lý và người bán lẻ sản phẩm của Công ty. Nếu họ tiêu thụ nahnh sẽ
sớm tiêu thụ đợt hàng mới cho Công ty còn nếu tiêu thụ chậm thì khó có
thể xác định họ sẽ đến tiêu thụ đợt tiếp vào lúc nào nên nhiều khi Công ty
rất khó khăn trong việc xác định và kiểm soát tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Khó khăn hạn chế còn nhiều, để đánh giá chính xác hoạt động tiêu
thụ sản phẩm của Công ty phải đi vào phân tích cụ thể tình hình tiêu thụ
sản phẩm trong năm 2002 so với kế hoạch đặt ra để thấy rõ tác động tích
cực của các biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm mà Công ty áp dụng
và rút ra những kết luận chính xác.
2.2/ Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm:
a/ Ýnghĩa của phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm:
Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm là quá trình nghiên cứu để
đánh giá toàn bộ quá trình và kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở Công
ty nhằm làm rõ chất lượng hoạt động và các nguồn tiềm năng cần được
khai thác trên cơ sở đó đề ra các phương án, giái pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở Công ty.
Phân tích tình hình tiêu thụ là công cụ để phát hiện những khả năng
tiềm tàng trong hoạt động tiêu thụ mà còn là công cụ cải tiến cơ chế quản
lý công tác tiêu thụ bởi thông qua phân tích Công ty mới thấy rõ nguyên
nhân cùng nguồn gốc của vấn đề phát sinh và có giải pháp cụ thể để cải
tiến quản lý. Do vậy, phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm này là cơ sở
quan trọng để ra các quyết định tiêu thụ và cũng là biện pháp quan trọng
để phòng ngừa rủi ro.
Với tầm quan trọng to lớn như vậy, để hiểu rõ về công tác tiêu thụ
sản phẩm ở Công ty và đề ra hướng giải quyết kịp thời những tồn tại hãy
đi vào nghiên cưú tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong năm
2002 qua việc phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ở
biểu số 4.
Trong biểu này số lượng giầy tiêu thụ kỳ kế hoạch là 525.000 đôi
nhưng thực tế đã tiêu thụ được 534.331 đôi, tăng 9.331 đôi so với kế
hoạch và bằng 101,78% kế hoạch.
Tình hình cụ thể như sau:
- Giầy nội địa:
Giầy bata: lượng tiêu thụ tăng 27.510 đôi so với kế hoạch và bằng
178,6% kế hoạch.
33
- Giầy xuất khẩu: lượng tiêu thụ giảm 18.179 đôi so với kế hoạch chỉ
đạt 93,83 %. Trong đó:
CVO: lượng tiêu thụ giảm so với kế hoạch là 22.500 đôi, chỉ đạt
88,75%.
JTS: lượng tiêu thụ giảm so với kế hoạch là 20.800 đôi, chỉ đạt
79,2%.
VEMA: lượng tiêu thụ tăng so với kế hoạch là 25.121 đôi, bằng
113,22%.
Mặt khác, ta thấy giá bán bình quân một đôi giầy các loại tiêu thụ
thực tế so với kế hoạch đã giảm nhưng không giảm nhiều. Cụ thể là:
+Giá bán bình quân một đôi giầy bata thực tế chỉ đạt 95,5% kế hoạch.
+Giá bán bình quân một đôi giầy CVO thực tế chỉ đạt 94,92% kế hoạch.
+Giá bán bình quân một đôi giầy JTS thực tế chỉ đạt 95,31% kế hoạch.
+ Giá bán bình quân một đôi giầy VEMA thực tế chỉ đạt 99,2% kế hoạch.
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm giầy thực tế đã giảm so với kế hoạch
là 803.774.000đ, chỉ đạt 94,38% kế hoạch. Ta thấy, tuy doanh thu tiêu thụ
giầy nội địa đã tăng so với kế hoạch là 325.626.000đ, bằng 170,48% kế
hoạch nhưng doanh thu tiêu thụ giầy xuất khẩu thực tế lại giảm so với kế
hoạch là 3.129.400.000đ chỉ đạt 91,85% kế hoạch. Vì số giảm doanh thu
do xuất khẩu giảm kỳ thực tế so với kế hoạch lớn hơn số tăng doanh thu
do tăng tiêu thụ nội địa thực tế so với kế hoạch nên tổng doanh thu tiêu
thụ thực tế đã giảm so với kế hoạch.
Qua biểu số 4 ta thấy trong năm 2002 công tác tiêu thụ sản phẩm của
Công ty đã có những bước tiến bộ vượt bậc so với năm 2001, đặc biệt là
đã tiêu thụ được số lượng giầy lớn tại thị trường nội địa, nhưng Công ty
vẫn không hoàn thành được kế hoạch đặt ra về doanh thu tiêu thụ.
Nguyên nhân là do:
Việc lập giá bán bùnh quân một sản phẩm mỗi loại kỳ kế hoạch cao
hơn sơ với thực tế đã góp phần làm giảm doanh thu tiêu thụ thực tế so với
kế hoạch. Nguyên nhân là do sự biến động mạnh về tình hình cung-cầu
trên thị trường, cầu trên thị trường có xu hướng giảm xuống. Vì vậy, giá
bán sản phẩm cần phải giảm xuống để đảm bảo tiêu thụ được sản phẩm.
Nguyên nhân khách quan này khiến Công ty khó lường trước được, nên
khi lập kế hoạch giá bán sản phẩm, Công ty đã lập theo quy luật thông
thường là giá bán năm sau cao hơn năm trước.
Đặc biệt là do thị trường năm 2002 biến động khá mạnh nên mặc
dù đã lên kế hoạch sản xuất theo số đơn đặt hàng nhưng việc xuất hàng ra
nước ngoài vẫn gặp khó khăn và không hoàn thành kế hoạch( chỉ đạt
96,83%). Ngược lại, việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm nội địa lại thấp
hơn so với thực tế, tức là tiêu thụ đã hoàn thành và vượt mức kế hoạch,
bằng 178,6% kế hoạch.
Việc lập giá bán bình quân một sản phẩm cao hơn so với thực tế,
tuy mức chênh lệch không lớn nhưng lại ảnh hưởng lớn tới tổng doanh
34
thu tiêu thụ. Điều này chứng tỏ khi lập kế hoạch về giá bán sản phẩm
Công ty chưa nắm rõ được xu hướng biến động của thị trường có chiều
hướng đi xuống nên việc lập giá bán cao hơn một chút so với giá bán thực
tế.
Kết quả trên cũng đã được chứng tỏ các chính sách, đòn bẩy kinh tế
tài chính mà Công ty áp dụng nhằm nâng cao doanh thu, đẩy mạnh tốc độ
tiêu thụ sản phẩm đã phát huy tác dụng, vai trò tích cực đòi hỏi ban lãnh
đạo Công ty trong thời gian tới cứ theo những định hướng đã đề ra trên cơ
sở củng cố, cải tiến, hoàn thiện các giải pháp để đạt tới những lợi ích kinh
tế cao hơn nữa. Muốn hiểu rõ nhân tố nào có tác dụng chính dẫn đến kết
quả trên phải phân tích nghiên cứu cụ thể từng yếu tố ảnh hưởng để giải
pháp đề ra được chính xác và có hiệu quả nhất.
b/ Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
Việc tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng rất nhiều nhân tố khác nhau.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm chủ yếu phụ thuộc vào số lượng hàng hoá
bán ra và giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm của từng mặt hàng.
Điều này được hiển thị dưới công thức sau:
DT =
n
i
GiSi
1
)*(
Trong đó: DT là doanh thu tiêu thụ các loại giầy.
Si: số lượng tiêu thụ giầy các loại.
Gi: giá bán bình quân mỗi loại giầy.
i =1,n: số các loại giầy tiêu thụ.
Qua công thức trên ta có thể thấy được doanh thu tiêu thụ sản phẩm
giầy của Công ty chịu ảnh hưởng của ba nhân tố đó là:
+ Số lượng giầy tiêu thụ.
+ Kết cấu các loại giầy tiêu thụ.
+ Giá bán bình quân một đôi giầy mỗi loại.
Nhân tố thứ nhất: Số lượng giầy tiêu thụ.
Trong năm 2002, Công ty dự kiến với mặt hàng giầy bata với khối
lượng tiêu thụ là 35.000 đôinhưng thực tế tiêu thụ tăng 27.510 đôi vượt
mức kế hoạch là 78,6%.
Nhưng ở đây ta thấy rằng số giầy tiêu thụ tăng là do năm 2002,
Công ty tiêu thụ được một số lượng giầy lớn tại thị trường trong nước,
vượt mức kế hoạch rất nhiều. Ngược lại, số giầy xuất ra nước ngoài lại
giảm hơn so với kế hoạch, nhưng số lượng giảm này không nhiều bằng số
lượng giầy tăng do tiêu thụ trong nước nên tổng hợp lại số giầy tiêu thụ
vẫn tăng so với kế hoạch.
Nguyên nhân:
- Khi lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm giầy cho năm 2002, Công ty đã
dự kiến thấp hơn so với số lượng tiêu thụ thực tế mà chủ yếu là giầy nội
35
địa. Hơn nữa, khi lập kế hoạch cho từng quý, mặc dù đã tính cho số lượng
tiêu thụ cụ thể mỗi quý là khác nhau nhưng vẫn chưa phù hợp với thực tế
vì thời điểm đó Công ty chưa nhận được đơn đặt hàng cụ thể và chưa
lường trước được sự biến động của thị trường trong năm 2002.
- Việc tiêu thụ nội địa thực tế mạnh hơn so với kế hoạch là do việc
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty đã đẩy số lượng giầy
bán ra tăng lên. Hiện nay có khá nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất
giầy các loại với số lượng, chủng loại, mẫu mã hết sức phong phú, giá cả
hợp lý. Ngoài ra trong năm, phong trào luyện tập thể dục thể thao cũng
tăng lên do đó số lượng giầy vải tiêu thụ cũng tăng.
- Và một nguyên nhân khá quan trọng khác là do sự thay đổi việc áp
dụng luật thuế, từ thuế doanh thu sang thuế giá trị gia tăng. Vì vậy, Công
ty đã cố gắng đẩy mạnh việc bán sản phẩm ra trong năm 2002. Đây là
những yếu tố mà khi lập kế hoạch Công ty chưa dự đoán trước được nên
việc lập kế hoạch về số lượng giầy tiêu thụ có thấp hơn so với thực tế.
Tóm lại, về cơ bản những mặt hàng thuộc lĩnh vực sản xuất chính
của Công ty có mức tiêu thụ thực tế vượt hơn so với kế hoạch đạt ra. Tuy
vậy, Công ty vẫn phải liên tục duy trì tiến độ chất lượng sản xuất, không
ngừng đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao tay nghề công nhân sản xuất ...để
củng cố hơn nữa hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở Công ty.
Nhân tố thứ hai: Kết cấu các loại giầy tiêu thụ.
Để thấy rõ mức độ ảnh hưởng của nhân tố kết cấu sản phẩm giầy
tiêu thụ đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ sản phẩm giầy thực tế so với
kế hoạch 2002 cần xem xét sự thay đổi kết cấu sản phẩm trong biểu số 5
áp dùng cho hai loại sản phẩm chính. Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ
đến việc giảm doanh thu tiêu thụ.
Biểu 5 : So sánh kết cấu sản phẩm giầy tiêu thụ thực tế
với kế hoạch 2002.
TÊN
SẢN PHẨM
KẾ HOẠCH 2002 THỰC TẾ 2002 Chênh
lệch
(%)
Số
lượng
(đôi)
Tỷ
trọng
(%)
Số
lượng
(đôi)
Tỷ
trọng
(%)
- Giầy nội địa
Giầy bata 35.000 6,67 62.510 11,7 5,03
- Giầy xuất khẩu
CVO 200.000 38,09 177.500 33,2 -4,89
JTS 100.000 19,04 79.200 14,8 -4,24
VEMA 190.000 36,2 215.121 40,3 4,1
Tổng cộng 525.000 100,0 534.331 100,0
Về cơ bản, kết cấu sản phẩm giầy tiêu thụ thực tế có thay đổi so với
kế hoạch đặt ra. Cụ thể là:
36
Tỷ trọng tiêu thụ giầy nội địa tăng so với kế hoạch, kế hoạch là
6,67% thực tế là 11,7% với khối lượng tăng là 27.510 đôi.
Tỷ trọng tiêu thụ giầy xuất khẩu giảm so với kế hoạch. Đó là:
Loại giầy CVO tỷ trọng tiêu thụ giảm so với kế hoạch là 4,89% với
số lượng giảm là 22.500 đôi.
Loại giầy JTS tỷ trọng tiêu thụ giảm so với kế hoạch là 4,24% với số
lượng giảm là 20.800 đôi.
Loại giầy VEMA tỷ trọng tiêu thụ tăng là 4,1% với số lượng tăng là
25.121 đôi.
Với tất cả các loại giầy này thì giá bán bình quân một đôi giầy thực
tế đều thấp hơn so với kế hoạch.
Sự thay đổi kết cấu giầy tiêu thụ năm 2002 làm giảm doanh thu tiêu
thụ là do:
- Trong năm 2002, tỷ trọng tiêu thụ những mặt hàng đêm lại doanh
thu cao cho Công ty đã giảm xuống (tỷ trọng giầy xuất khẩu giảm so với
kế hoạch ) và tỷ trọng tiêu thụ của những mặt hàng có giá bán không cao,
đêm lại doanh thu không lớn cho Công ty lại tăng lên (tỷ trọng tiêu thụ
giầy nội địa tăng lên so với kế hoạch ). Nhưng ta thấy rằng, việc thay đổi
kết cấu sản phẩm tiêu thụ làm giảm doanh thu tiêu thụ so với kế hoạch
không phải là do ý muốn chủ quan của Công ty mà trước hết là do tác
động của thị trường. Trước sự thay đổi của thị trường trong và ngoài
nước, Công ty đã có sự điều chỉnh kết cấu tiêu thụ giầy so với kế hoạch
để cho phù hợp với tình hình tiêu thụ thực tế.
- Việc thay đổi kết cấu tiêu thụ sản phẩm này chủ yếu là do nguyên
nhân khách quan nhưng nếu Công ty có sự nghiên cứu kỹ hơn về tình
hình tiêu thụ giầy ở thị trường nước ngoài để có thể có những phương
pháp điều chỉnh nhu cầu tiêu dùng theo hướng có lợi hơn cho Công ty từ
đó sẽ điều chỉnh được kết cấu có hiệu quả hơn. Như vậy doanh thu tiêu
thụ sẽ không bị giảm sút nhiều như kết quả đã có trong thực tế.
Nhân tố thứ ba: Giá bán bình quân một đôi giầy.
Đây là nhân tố chủ yếu tác động làm cho doanh thu tiêu thụ các loại
giầy thực tế giảm so với kế hoạch. Giá bán bình quân một sản phẩm hàng
quý thực tế đều ổn định và chỉ giảm so với kế hoạch năm cụ thể: (ở biểu
số 4 )
+ Giá một đôi giầy bata thực tế giảm 600đ/ đôi so với kế hoạch.
+ Giá một đôi giầy CVO thực tế giảm 1.500đ/ đôi so với kế hoạch.
+ Giá một đôi giầy JTS thực tế giảm 1.500đ/ đôi so với kế hoạch.
+ Giá một đôi giầy VEMA thực tế giảm 200đ/ đôi so với kế hoạch.
Ta thấy rằng, giá bán một đôi giầy bình quân mỗi loại thực tế so với
kế hoạch giảm là do: Khi xây dựng giá bán cho năm kế hoạch, Công ty đã
dựa vào giá bán thực tế năm 2001 và dự tính giá bán năm 2002 sẽ cao giá
bán thực tế năm 2001 vì có khả năng giá đầu vào của nguyên vật liệu cao
hơn. Thêm vào đó giá bán sản phẩm cao hơn thực tế cũng có thể do Công
37
ty dự tính chi phí bán hàng và chi phí quản ký doanh nghiệp tăng lên...Do
đó có thể tiêu thụ được sản phẩm thì giá bán sản phẩm phải thấp hơn so
với kế hoạch.
Ngoài ra, ta cũng thấy rằng việc giảm giá bán bình quân một sản
phẩm mỗi loại làm giảm doanh thu chủ yếu là do nguyên nhân khách
quan nhưng cũng một phần là do nguyên nhân chủ quan của Công ty đem
lại. Do đó Công ty cần khắc phục hạn chế này.
Tóm lại, trong năm 2002 Công ty Da giầy Hà nội đã có rất nhiều cố
gắng trong công tác tiêu thụ sản phẩm để hoàn thành tốt kế hoạch đề ra,
tuy nhiên công tác tiêu thụ sản phẩm ở Công ty vẫn còn nhiều tồn tại cần
khắc phục.
3/ Những vấn đề đặt ra đối với công tác tiêu thụ sản phẩm của
Công ty Da giầy Hà nội:
Trong năm 2002, Công ty Da giầy Hà nội dã không hoàn thành tốt
kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, do vậy muốn biết tình hình tiêu thụ sản phẩm
của Công ty có phát triển hay không cần nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản
phẩm của Công ty trong hai năm 2001-2002( Biểu số 6 )
Biểu 6 : So sánh tình tiêu thụ sản phẩm năm 2001 -2002.
TÊN
SẢN PHẨM
Số lượng
thực tế
2001
Số lượng
thực tế
2002
SO SÁNH 2001
Chênh
lệch
Tỷ lệ
(%)
- Giầy nội địa
Giầy bata 25.800 62.510 36.710 142,3
- Giầy xuất khẩu
CVO 143.200 177.500 34.300 23,6
JTS 79.200 79.200
VEMA 137.673 215.121 77.448 56,3
Tổng cộng 306.673 534.331 227.678 74,2
Nhìn chung, số lượng sản phẩm tiêu thụ trong năm 2002 giảm so với
năm 2001, chỉ có loại sản phẩm giầy nội địa có số lượng tiêu thụ là tăng.
Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm và tình hình tiêu thụ sản phẩm trong năm 2002 so với năm 2001 có
thể thấy hiện nay, ngoài những vấn đề đã làm được Công ty vẫn còn một
số điểm cần phải khắc phục.
Công ty đã sử dụng một hệ thống các biện pháp kinh tế, tài chính...
nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả của các giải pháp
này thể hiện qua việc tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ và tăng doanh thu
tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên có một biện pháp sẽ mang lại hiệu quả kinh
tế là quảng cáo sẽ mang lại hiệu quả kinh tế là quảng cáo thì Công ty
hoàn toàn chưa sử dụng, đã làm cho sản phẩm của Công ty giảm sức cạnh
tranh so với rất nhiều các doanh nghiệp cùng ngành. Đó cũng là một
trong những nguyên nhan gây nên tình trạng không hoàn thành kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm của các sản phẩm giầy.
38
Giá cả sản phẩm của Công ty nhìn chung khá thấp so với mặt hàng
giá bán sản phẩm hiện nay. Việc giảm giá bán sản phẩm của Công ty
trong năm 2002 là nhân tố chính góp phần làm giảm doanh thu tiêu thụ.
Tuy nhiên việc giảm giá này cũng một phần do giá các yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất giảm xuống. Để tránh sự tác động của việc tăng, giảm
giá nguyên vật liệu trên thị trường ảnh hưởng đến giá bán sản phẩm,
Công ty cần có kế hoạch và phương pháp dự trữ nguyên vật liệu thích
hợp. Hệ thống kho tàng, bến bãi của Công ty hiện nay phần lớn chưa đủ
tiêu chuẩn an toàn và kỹ thuật cho phép để bảo quản nguyên vật liệu nên
kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu không đảm bảo, Công ty sản xuất đến
đâu thì ra thị trường mua nguyên vật liệu đến đấy nên giá bán sản phẩm
của Công ty chịu sự chi phối rất lớn của nguyên liệu trên thị trường.
Để cho ra đời một sản phẩm giầy hoàn chỉnh thông thường phải có
sự góp mặt của nhiều loại nguyên phụ liệu với những định mức tiêu hao
rất khác nhau. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu
định mức này, tuy nhiên ngoài những sản phẩm giầy theo yêu cầu của
khách thì những sản phẩm do Công ty sản xuất được tiến hành sản xuất
theo những định mức được thiết lập từ rất lâu, khó lòng đáp ứng mỗi yêu
cầu của thị trường hiện đại. Nên chăng, trong thời gian tới Công ty cần có
sự quan tâm hơn nữa đến việc lập và quản lý định mức tiêu hao nguyên
vật liệu để vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm, vừa đảm bảo tiết kiệm.
Như đã đề cập ở phần trên, Công ty luôn tìm cách đa dạng hoá các
hình thức thanh toán tiền hàng để giảm tối đa tình trạng vốn bị chiếm
dụng. Tuy vậy số tiền bán hàng mà Công ty bị chiếm dụng trong năm
2002 vẫn rất cao, sở dĩ là do với một số lượng lớn khách mua buôn hoặc
đại lý thường khi tiêu thụ hết hàng mới gửi tiền cho doanh nghiệp nên
tránh tình trạng ứ đọng sản phẩm Công ty vẫn giao hàng dù chưa được
thanh toán tiền. Trong thời gian tới, Công ty cần cải tiến phương thức bán
hàng hơn nữa để tăng số doanh thu trả tiền ngay, giảm số doanh thu chậm
trả.
Tóm lại, trong năm 2002 Công ty Da giầy Hà nội đã có nhiều cố
gắng trong công tác tiêu thụ sản phẩm và được những kết quả khả quan
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Dù vậy, Công ty cũng
không tránh khỏi một số tồn tại, hạn chế trong công tác tiêu thụ sản
phẩm.Để có thể phát huy hơn nữa thế mạnh của mình và đẩy mạnh hơn
tốc độ tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao lợi nhuận, thì trong thời gian tới,
Công ty cần nghiên cứu thật kỹ lưỡng tình hình sản xuất kinh doanh của
Công ty,tình hình thị trường và đưa ra nhiều giải pháp khác nhau cho
công tác tiêu thụ sản phẩm như các giải pháp về kinh tế, tài chính, quản
lý, marketing...Qua thời gian thực tập ngắn ngủi tại Công ty với tư cách là
một sinh viên, em cũng xin đóng góp một vài ý kiến nhằm góp phần vào
việc tìm kiếm các giải pháp cho công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty
ngày càng mạnh.
39
CHƯƠNG 3 :
NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY DA GIẦY HÀ NỘI
I/ Phương hướng phát triển :
Cùng với sự phát triển của xã hội nhu cầu tiêu dùng đòi hỏi ngày
một nâng cao. Xu hướng tiêu dùng nhằm vào các chủng loại giầy dép
phong phú về mẫu mã, chất lượng bảo đảm, giá cả phù hợp. Để định
hướng phát triển thị trường tiêu thụ cần căn cứ vào mục tiêu chiến lược
của toàn ngành và của Tổng công ty da giầy Việt nam, căn cứ vào thực
trạng tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty trong những
năm gần đây cũng như căn cứ vào kết quả bước đầu nghiên cứu thị
40
trường, Công ty Da giầy Hà nội đã xác định các định hướng kế hoạch cho
những năm tới. Cụ thể như sau :
- Khẳng định quan điểm hướng ra xuất khẩu với phương hướng
chuyển mạnh từ gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm, đảm bảo
nâng cao thành quả tăng nhanh tích luỹ, nâng cao chất lượng và đa dạng
hoá các mặt hàng xuất khẩu.
- Coi trọng thị trường nội địa, tự từ kiếm nguồn cung cấp nguyên vật
liệu với giá rẻ ổn định, đáp ứng yêu cầu chất lượng. Khai thác tối đa năng
lực nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng phát triển của tiêu dùng trong nước
về các mặt hàng thông dụng, trang phục, nhu cầu bảo hộ lao động và đáp
ứng các nhu cầu sản xuất công nghiệp khác.
- Hình thành mạng lưới tiêu thụ xuyên suốt trên phạm vi cả nước, tổ
chức các đại lý, các cửa hàng bán lẻ để dần thoả mãn thị hiếu và nhu cầu
tiêu dùng, tổ chức nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường chú trọng mẫu mốt
thời trang để vươn tới chiếm lĩnh thị trường. đồng thời tổ chức mạng lưới
tiêu thụ tại các thành phố lớn, khu công nghiệp trọng tâm, khu dân cư và
vùng nông thôn ...để đáp ứng yêu cầu của đông đảo người tiêu dùng, tạo
thế cạnh tranh với hàng nhập từ Trung quốc và các nước trong khu vực.
- Chú trọng đào tạo thiết kế mẫu mốt thời trang, đào tạo đội ngũ tiếp
thị trẻ có năng lực để giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng giúp Công
ty chuyển đổi phương thức nhanh chóng đồng thời đáp ứng yêu cầu phát
triển của Công ty cũng như mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước sau năm 2010.
- Bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công
nhân lành nghề của Công ty đảm bảo tiếp thu nhanh chóng sự chuyển
dịch sản xuất từ các nước đã phát triển phấn đấu làm chủ trong sản xuất.
- Tìm kiếm và phát triển nguồn lực tài chính lâu dài ưu tiên các dự
án đầu tư mở rộng và đầu tư mới nhằm gia tăng năng suất, đảm bảo đạt
trình độ công nghệ.
II/ Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công
ty Da giầy Hà nội :
Sau thời gian thực tập tại Công ty Da giầy Hà nội qua việc phân tích
những lý luận chung nhất về công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp sản xuất, qua việc phân tích tình hình chung về kết quả sản
xuất kinh doanh, em nhận thấy công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm đối với
doanh nghiệp là rất cần thiết. Vì vậy em mạnh dạn xin đề đạt một số ý
kiến nhằm góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty
như sau :
1/ Nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến mẫu mã sản phẩm :
Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng của sản phẩm là nội dung
quan trọng và luôn được các doanh nghiệp quan tâm. Một sản phẩm được
41
đưa ra thị trường, được thị trường chấp nhận nhưng không có gì để đảm
bảo dám chắc rằng sản phẩm đó sẽ tiếp tục thành công hay không . Nếu
như doanh nghiệp không duy trì cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng
sản phẩm. Do đó để có thể cạnh tranh mạnh mẽ với các sản phẩm cùng
loại trên thị trường thì việc nâng cao chất lượng và cải tiến, đổi mới mẫu
mã sản phẩm hơn nữa là không thể thiếu được. Hiện nay, sản phẩm của
Công ty đã đạt tiêu chuẩn chất lượng khá cao, không thua kém gì so với
hàng ngoại.
Chính vì vậy, năm 2002 vừa qua, số lượng sản phẩm tiêu thụ đã đạt
534.331đôi, tăng 74% so với số lượng tiêu thụ năm 2001. Song ta cũng
thấy rằng, số lượng tiêu thụ tăng này chủ yếu là do tăng tiêu thụ trong
nước còn số lượng hàng xuất khẩu đã giảm xuống và không đạt kế hoachj
đề ra là 3,71%. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là
do sản phẩm của Công ty chưa cạnh tranh được mạnh mẽ với những đôi
giầy ngoại có độ tinh xảo và độ bền rất cao do được sản xuất từ những
dây chuyền công nghệ hết sức hiện đại. Vì vậy, để cạnh tranh được với
giầy ngoại thì Công ty cần phải có sự chuẩn bị đầy đủ về mặt kỹ thuật và
trang thiết bị hiện đại.
- Việc nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh
đối với các sản phẩm cùng loại có chất lượng cao thì không chỉ dựa vào
dây chuyền sản xuất hiện đại mà còn phải dựa vào trình độ tay nghề và
năng lực của công nhân sản xuất.
Ngoài ra, Công ty còn có thể sử dụng các đòn bẩy tiền lương, tiền
thưởng để khuyến khích công nhân sản xuất làm việc có hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Công ty cũng cần cải thiện điều kiện làm việc cho công
nhân như điều kiện về nhà xưởng, ánh sáng, độ thông gió, không gian sản
xuất...để công nhân có khả năng phát huy và nâng cao tay nghề.
- Đa dạng hoá mẫu mã, mầu sắc, kiểu dáng sản phẩm:
Hiện nay, sản phẩm của Công ty về mẫu mã, kiểu dáng là khá phong
phú nên đã được ưa chuộng ở thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt
năm 2002 vừa qua lượng tiêu thụ trên thị trường nội địa tăng khá rõ rệt.
Tuy nhiên, ta thấy rằng lượng tiêu thụ này tăng chủ yếu là do tăng sản
phẩm giầy dùng trong lao động sản xuất và luyện tập thể dục thể thao,
còn các loại giầy khác lượng tiêu thụ tăng hoặc không tăng không nhiều.
Thêm vào đó, số lượng giầy xuất khẩu cũng giảm. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do mẫu mã, kiểu dáng giầy của
Công ty còn chưa thực sực thu hút được nhu cầu về giầy dép của mọi đối
tượng tiêu dùng.Do vậy Công ty có thể thực hiện những biện pháp như:
- Tiến hành nghiên cứu thị trường thật kỹ lưỡng.
- Công ty nên thiết lập riêng phòng Marketing để chuyên làm các
công việc tìm hiểu thị trường.
- Công ty có thể tạo ra một sản phẩm “ mới “ thông qua việc cải tiến
sản phẩm.
42
- Công ty có thể tiến hành thiết kễ biểu tượng sản phẩm của Công ty.
- Công ty cần có ngân sách chi tiêu ổn định cho công tác nghiên cứu
tìm hiểu và phát triển thị trường, công tác thiết kế mẫu sản phẩm.
- Ngoài ra, để đảm bảo chất lư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội.pdf