Tài liệu Luận văn Tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì: LUẬN VĂN:
Tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối
tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì
Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một
hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch trở thành một nhu cầu
không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội của các đất nước. Thông qua các hoạt
động du lịch con người thoả mãn nhu cầu hài hoà cả về vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh đó
du lịch cũng đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế.
Hoạt động du lịch Việt Nam ngày càng phát triển nhờ những chính sách đổi mới và
sự quan tâm trợ giúp của quốc tế tạo nên sự phát triển vượt bậc.
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam không ngừng tăng trưởng thúc đẩy sự
phát triển của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Quá trình này một mặ đã làm cho
đời sống của người dân được cải thiện, nhưng mặt khác lại ảnh hưởng không nhỏ đến điều
kiện sống của con người...
67 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối
tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì
Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một
hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch trở thành một nhu cầu
không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội của các đất nước. Thông qua các hoạt
động du lịch con người thoả mãn nhu cầu hài hoà cả về vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh đó
du lịch cũng đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế.
Hoạt động du lịch Việt Nam ngày càng phát triển nhờ những chính sách đổi mới và
sự quan tâm trợ giúp của quốc tế tạo nên sự phát triển vượt bậc.
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam không ngừng tăng trưởng thúc đẩy sự
phát triển của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Quá trình này một mặ đã làm cho
đời sống của người dân được cải thiện, nhưng mặt khác lại ảnh hưởng không nhỏ đến điều
kiện sống của con người, ô nhiễm môi trương, sức ép từ công việc, điều kiện sống. Người
dân có xu hướng tìm đến những nơi có môi trường tự nhiên trong lành, có cảnh quan yên
tĩnh để nghỉ ngơi, vui chơi giải trí vào những ngày nghỉ, lễ, Tết, nhất là những ngày nghỉ
cuối tuần.
Khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì là khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi về tài
nguyên và nguồn khách để phát triển du lịch cuối tuần của người dân Hà Nội và các khu
lân cận. Các khu du lịch tiêu biểu là: Vườn Quốc gia Ba Vì, hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô,
Khoang Xanh - Suối Tiên, Ao Vua... nơi có sự kết hợp của khí hậu trong lành, mát mẻ,
cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thảm động thực vật phong phú và các yếu tố nhân văn
khác tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động nghỉ ngơi du lịch cuối tuần.
Tuy nhiên, trong thời gian qua lượng khách đến khu Sơn Tây - Ba Vì còn hạn chế,
chưa xứng với tiềm năng du lịch của vùng. Để có thể tăng cường thu hút khách tới Sơn
Tây - Ba Vì, đề tài đã tập trung vào nghiên cứu một số giải pháp Marketing - Mix.
II. Mục đích của đề tài
- Phân tích đánh giá tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối tuần ở khu vực
thị xã Sơn Tây - Ba Vì.
- Bước đầu đưa ra các giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch cuối
tuần ở khu vực này.
III. Bố cục của khoá luận
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm ba chương:
Chương I: Khái quát về du lịch cuối tuần và các yếu tố Marketing - Mix.
Chương II: Tiềm năng phát triển du lịch cuối tuần thực trạng chính sách Marketing
- Mix nhằm thu hút khách đến.
Chương III: Một số giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách ở thị xã Sơn
Tây - Ba Vì.
Chương I
Khái quát vài nét về du lịch cuối tuần
Và CáC YếU Tố MARKETING - MIX
1.1 Khái quát về tài nguyên du lịch
1.1.1 Khái niệm
Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ sở để tạo nên vùng du lịch. Số
lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài nguyên
trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát triển du lịch một vùng hay
quốc gia. Một lãnh thổ có nhiều tài nguyên du lịch sẽ có sức hấp dẫn khách du lịch lớn
và mức độ kết hợp các loại tài nguyên phong phú thì sức thu hút khách du lịch càng
mạnh. Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên
du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến lãnh thổ của ngành du lịch, đến việc hình thành, chuyên
môn hóa các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của các hoạt động dịch vụ.
Tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của cảnh
quan thiên nhiên cùng cảnh quan nhân văn, có thể được sử dụng cho dịch vụ du lịch và
thoả mãn nhu cầu về chữa bệnh, nghỉ ngơi, tham quan hay du lịch.
Ta có thể rút ra khái niệm về tài nguyên du lịch như sau: “Tài nguyên du lịch là
tổng thể tự nhiên và văn hóa - lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục
và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ thoả
mãn các nhu cầu theo mục đích chuyến đi, những tài nguyên này được sử dụng cho nhu
cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch“.
Tài nguyên đối với mỗi loại hình du lịch có đặc trưng riêng. Đối với du lịch chữa
bệnh, người ta thường quan tâm tới nguồn nước khoáng và bùn chữa bệnh, thời tiết và khí
hậu tốt có tác dụng cho việc chữa bệnh. Du lịch bồi dưỡng sức khỏe được phát triển trên
cơ sở những thời kỳ khí hậu thích hợp, nguồn nước thực vật, địa hình thuận lợi và các
thành phần khác của cảnh quan góp phần bồi bổ sức khỏe. Có ý nghĩa quan trọng trong du
lịch thể thao và theo lộ trình là đặc điểm của lãnh thổ như khả năng vượt chướng ngại và
sự tồn tại của các vật chướng ngại (ghềnh, đèo, sông, suối), vùng có ít dân và cách xa
nhau. Đối tượng của du lịch tham quan lại là những danh lam thắng cảnh văn hóa - lịch sử
và tự nhiên, các mục tiêu kinh tế độc đáo, lễ hội và các thành phần của văn hóa dân tộc (trò
chơi dân tộc, thủ công mỹ nghệ truyền thống).
1.1.2 Phân loại tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch được phân ra làm hai loại:
+ Tài nguyên nhân văn
+ Tài nguyên tự nhiên
* Tài nguyên nhân văn: Là tất cả các giá trị vật chất, giá trị tinh thần mà con người
sáng tạo ra trong lịch sử và trong thời kỳ hiện tại được khai thác phục vụ mục đích du lịch.
Có rất nhiều loại tài nguyên nhân văn:
- Di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh.
- Các lễ hội.
- Các bảo tàng.
- Nghệ thuật truyền thống.
- Các làng nghề, phố nghề.
- Các làng cổ truyền thống.
- Các món ăn truyền thống.
Tài nguyên nhân văn cũng là một món ăn tinh thần mang đến cho ta sự nghỉ ngơi,
thư giãn với những lễ hội hay di tích lịch sử quan trọng.
* Tài nguyên tự nhiên: Là toàn bộ những nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin có ở
trong môi trường mà con người có thể vận dụng vào thực tế để phục vụ cho con người.
Tài nguyên tự nhiên được chia theo:
- Địa hình
- Khí hậu
- Nguồn nước
- Sinh vật
1.2 Du lịch cuối tuần
1.2.1. Khái niệm
ở Việt Nam trước đây, khi người lao động vẫn làm việc sáu ngày một tuần thì thời
gian dành cho nghỉ cuối tuần chỉ giới hạn cho một ngày chủ nhật. Nhưng đến nay, chế độ
làm việc năm ngày một tuần đã được thực hiện, người lao động có nhiều thời gian nghỉ
ngơi cuối tuần hơn (ngày thứ bảy và chủ nhật). Hiện nay, du lịch nghỉ ngơi cuối tuần đã trở
thành một nhu cầu bức thiết, một hiện tượng xã hội khá phổ biến đối với các thành phố
lớn, các khu công nghiệp và tập trung dân cư. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn
đến môi trường bị ô nhiễm, gây ra tình trạng căng thẳng thần kinh, xuất hiện nhu cầu du
lịch. Việc nghỉ ngơi tích cực sẽ đem lại sức khỏe cho con người, giải thoát họ khỏi những
bế tắc, căng thẳng.
Việc lựa chọn nơi nghỉ ngơi thích hợp cũng là vấn đề quan tâm. Một trong những
đặc điểm quan trọng của du lịch hiện đại là tính chất giải trí du lịch đối lập nhau. Tức là
người đi du lịch thường tìm đến môi trường đối lập với nơi họ vẫn thường sinh sống. Đối
với du lịch cuối tuần, điều này càng thể hiện rõ rệt. Do người dân thành phố bị tách khỏi
môi trường tự nhiên nên họ vẫn thường chọn những nơi có điều kiện dễ hòa nhập với thiên
nhiên để du lịch, nghỉ ngơi. Thiên nhiên thực sự đem lại những điều thú vị đối với người
dân thành phố vốn phải sống trong những điều kiện chưa thật thoải mái về chỗ ở, đường
phố tắc nghẽn, ồn ào, môi trường xung quanh đã có dấu hiệu hoặc đã bị ô nhiễm thực sự.
Thường thường, đối với những thành phố lớn châu âu, các hoạt động này tổ chức ở các
vùng ngoại ô, trong những khu rừng trồng hoặc các công viên nhân tạo, các công viên
chuyên đề. Còn ở nước ta, do diện tích các thành phố chưa lớn nên địa bàn có thể phát
triển ra các tỉnh phụ cận, nơi có những điều kiện tài nguyên phù hợp.
Tóm lại, du lịch cuối tuần là một dạng hoạt động của dân cư các đô thị thành phố,
khu công nghiệp hoặc nơi tập trung dân cư, vào những ngày nghỉ cuối tuần, ở vùng ngoại ô
hoặc phụ cận, có điều kiện dễ hoà nhập nhất với thiên nhiên, nhằm nghỉ ngơi, giải trí, phục
hồi sức khoẻ, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa.
1.2.2 Phân loại
Hoạt động du lịch từ khi xuất hiện đến nay không ngừng phát triển về mọi mặt, đặc
biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại hình du lịch. Có thể nói hoạt động du lịch là
một dạng hoạt động rất phong phú và đa dạng. Để phân loại các loại hình du lịch người ta
đã đưa vào các tiêu chí như sau:
- Mục đích du lịch
- Phương tiện đi du lịch
- Vị trí địa lý của nơi du lịch
- Thời gian đi du lịch
- Hình thức tổ chức chuyến đi
Trong đó, khi dựa vào thời gian kéo dài của chuyến đi người ta lại chia thành:
- Du lịch ngắn ngày
- Du lịch dài ngày
Loại hình du lịch ngắn ngày thường được tổ chức vào cuối tuần thì được gọi là loại
hình cuối tuần. Như vậy du lịch cuối tuần là một dạng của du lịch ngắn ngày.
1.2.3 Vai trò, ý nghĩa của du lịch cuối tuần
Cũng như nhiều loại hình du lịch khác, du lịch cuối tuần cũng đóng một vai trò
quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội của từng cá nhân, từng địa phương hay của
toàn xã hội.
Chức năng xã hội của du lịch cuối tuần biểu hiện ở việc bảo vệ và tăng cường sức
khoẻ của con người. Du lịch và nghỉ ngơi tích cực đóng một vai trò quan trọng trong việc
tăng cường sức khoẻ, tuổi thọ, khả năng lao động cho con người một cách hợp lý nhất.
Việc nghiên cứu y - sinh học cho thấy rằng các chế độ nghỉ ngơi và du lịch hợp lý có thể
giảm trung bình 30% các bệnh tật của nhân dân. Còn những bệnh phổ biến về tim mạch thì
giảm gần 50% còn những bệnh về đường hô hấp giảm 40%, các bệnh về thần kinh, xương
bắp giảm 30%, bệnh về các cơ quan tiêu hóa giảm 20%.
Du lịch tạo điều kiện cho những nhóm người khác nhau được tiếp xúc gần gũi hiểu
biết lẫn nhau, hình thành nên những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, tạo nên sự phát triển hài
hòa của con người. Du lịch còn kết hợp với giáo dục tư tưởng, chính trị cho thanh thiếu
niên, thu hút họ vào những hình thức hoạt động văn hóa - xã hội bổ ích. Những hoạt động
này giúp họ sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách hợp lý hơn. Từ đó giảm đi những tệ nạn
xấu, giảm đi cả những thanh niên hư. Việc làm tăng sức khoẻ cho nhân dân, làm tăng hiệu
xuất lao động của họ cũng chính là ý nghĩa kinh tế của du lịch. Việc nghỉ ngơi tích cực và
du lịch hợp lý tạo điều kiện phục hồi và tăng cường sức khỏe, tăng cường khả năng lao
động, tái sản xuất mở rộng sức lao động và cũng làm tăng hiệu quả kinh tế cho đất nước.
Hiệu quả này là do việc giảm tiêu hao thời gian lao động vì ốm đau, giảm thời gian chữa
bệnh và giảm thời gian đi khám bệnh. Mặt khác, phát triển du lịch cuối tuần sẽ tạo ra nhiều
việc làm cho người lao động do ngành du lịch chủ yếu là đáp ứng dịch vụ, đòi hỏi nhiều
lao động sống và trong nhiều trường hợp không thể cơ giới hóa được. Du lịch phát triển là
tạo ra nhiều việc làm và tạo điều kiện tăng thu nhập cho nhân dân địa phương. Điều đó
thực sự có ý nghĩa quan trọng, nhất là ở những nước đông dân, thiếu việc làm như nước ta
hiện nay. Du lịch cuối tuần có khả năng phân phối lại thu nhập giữa người dân nông thôn
và thành thị.
Nó cũng là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao đời sống kinh tế xã hội của người
dân địa phương. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp liên quan mật thiết tới nhiều nghành
kinh tế: từ sản xuất lương thực - thực phẩm đến các hàng thủ công mỹ nghệ. Việc tiêu thụ
trong du lịch là tiêu thụ tại chỗ vì vậy nó giảm chi phí đóng gói, lưu thông cho người sản
xuất.
Du lịch cuối tuần còn có một chức năng quan trọng, đó là chức năng sinh thái. Du
lịch cuối tuần của người dân thành phố thường đòi hỏi môi trường gần gũi với thiên nhiên.
Vì vậy, muốn phát triển các điểm du lịch cuối tuần cần bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa
môi trường tự nhiên. Để thoả mãn nhu cầu du lịch, nghỉ ngơi, cần dành lại những lãnh thổ
có thiên nhiên còn ít biến đổi ở những vùng ngoại ô thành phố và tiến hành các biện pháp
cải tạo chẳng hạn như cải tạo và trồng rừng, bảo vệ các nguồn nước và các lưu vực nước,
xây dựng các công viên... tất cả những việc đó đều góp phần bảo vệ môi trường, tạo nên
một môi trường sinh thái lâu bền cho sự sống.
1.2.4 Đặc điểm của du lịch cuối tuần
Nhìn chung, du lịch ngắn ngày bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với du
lịch dài ngày. Ngày nay thị trường về du khách đa phần là thích nghỉ ngơi nhiều lần trong
năm hơn là chỉ nghỉ ngơi một vài lần trong những kỳ nghỉ phép. Theo Mc. Intosh, ở Hoa
Kỳ vào những năm 90 thu nhập từ du lịch cuối tuần của họ đã đạt được 68% với số lượng
người tham gia lớn hơn 83%. Đối với nước ta thì du lịch có những đặc điểm sau:
- Du lịch cuối tuần ở nước ta diễn ra trong phạm vi ngắn khoảng 150 km đối với
những phương tiện như ô tô, xe máy. Còn đối với những phương tiện bằng xe đạp thì
khoảng 10 đến 40 km. Thời gian tiêu phí cho mỗi lượt đi hoặc về cho du khách nhỏ hơn
hoặc bằng ba giờ đồng hồ. Du lịch loại này chỉ diễn ra từ một đến hai ngày.
- Đối tượng tham quan du lịch cuối tuần phần lớn là dân cư đô thị đủ mọi tầng lớp,
lứa tuổi, nghề nghiệp. Nhưng nhiều nhất vẫn là giới trẻ, người lao động và một lực lượng
khách nước ngoài có mặt tại đây.
- Địa bàn du lịch và nghỉ ngơi cuối tuần có tổ chức rõ rệt là một sinh hoạt định kỳ
của xã hội đô thị. Những chuyến du lịch ngắn ngày đã trở thành thông lệ của xã hội công
nghệ hóa cao và phát triển. Du lịch cuối tuần là một dạng hoạt động đa dạng về loại hình,
có thể kể đến một số loại như: tắm biển, du lịch thể thao, tham quan di tích lịch sử, danh
lam thắng cảnh, vui chơi, giải trí...
- Du lịch cuối tuần chính là sản phẩm của nền văn minh công nghiệp. Bởi vì, công
nghiệp hóa làm cho cuộc sống của con người được cải thiện nhưng cũng chính nó làm cho
con người cảm thấy ngạt thở và căng thằng.
1.2.5 Các nhân tố làm nảy sinh nhu cầu du lịch cuối tuần
* Thời gian rỗi và nhu cầu vui chơi giải trí cuối tuần:
Một trong các tiêu chí được xác định trong định nghĩa du lịch là chuyến đi thực hiện
trong thời gian rảnh rỗi của con người (ngày nghỉ cuối tuần, kỳ nghỉ phép, thời gian rỗi có
được trong chuyến công tác...) không trong thời gian rỗi, chuyến đi của con người không
thể được gọi là du lịch.
Có thể nói, thời gian rỗi là điều kiện cần thiết để con người tham gia vào các hoạt
động du lịch. Hoạt động du lịch định hướng con người sử dụng rảnh rỗi vào các hoạt động
mang lại lợi ích, nâng cao hiểu biết hoặc nâng cao thể lực.
Thời gian rỗi có thể tăng lên nếu con người được sử dụng hợp lý quỹ thời gian và
có chế độ lao động đúng đắn. Với chế độ làm việc năm ngày một tuần đã được áp dụng ở
nước ta, làm cho số thời rỗi tăng lên và đó là điều kiện thực tế để tổ chức hợp lý du lịch và
nghỉ ngơi cuối tuần cho người dân lao động.
Du lịch muốn phát triển tốt phải nghiên cứu đầy đủ cơ cấu của thời gian ngoài giờ
làm việc. Cơ cấu của thời gian rảnh rỗi phải được xác lập được ảnh hưởng của các thành
phần thời gian khác lên thời gian rảnh rỗi. Việc áp dụng phương pháp hệ thống và dự đoán
khi nghiên cứu quỹ thời gian cho phép tìm ra phương hướng phát triển và phục vụ thích
hợp cho thể thao, du lịch và nghỉ ngơi.
Nhu cầu vui chơi giải trí là một nhu cầu được phát triển cùng với sự phát triển công
nghiệp hóa, sự gia tăng thời gian rỗi và sự tập trung dân cư đông đúc. Do thu nhập của
người dân ngày càng được nâng cao, vì vậy mà họ thường dành thời gian rỗi vào các hoạt
động vui chơi, giải trí, du lịch, thể thao để phục hồi sức khỏe sau những ngày làm việc vất
vả.
* Sự phát triển của nền kinh tế
- Sự phát triển của nền kinh tế và điều kiện kinh tế của dân cư:
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện nhu
cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Không thể nói tới nhu cầu hoặc
hoạt động du lịch của xã hội nếu như lực lượng sản xuất xã hội còn ở trong tình trạng thấp
kém.
ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu nghỉ ngơi du lịch
còn hạn chế. Ngược lại, nhu cầu nghỉ ngơi du lịch ở các nước kinh tế phát triển rất đa
dạng. Bên cạnh nhu cầu giải trí cuối tuần, hằng năm nhân dân còn đòi hỏi những đợt nghỉ
dài ngày ở vùng biển (vào mùa hè), trên núi (vào mùa đông), trong nước hoặc ở nước
ngoài. Rõ ràng những nhu cầu này dựa trên cơ sở vững chắc của nền sản xuất xã hội.
Sự phát triển của du lịch cũng bị chi phối bởi nền sản xuất xã hội. Để giải quyết nhu
cầu ăn ở, đi lại, nghỉ ngơi, du lịch của con người, tất yếu phải có cơ cấu hạ tầng tương ứng.
Những cái thiết yếu nhất đối với khách du lịch như mạng lưới đường sá, phương tiện giao
thông, khách sạn, nhà hàng... khó có thể trồng cây vào một nền kinh tế ốm yếu. Điều kiện
sống của nhân dân là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ
việc tăng thu nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống,
phát triển đầy đủ mạng lưới y tế, văn hóa, giáo dục... Nếu thu nhập của người dân tăng lên
chi phí cho du lịch cũng được tăng lên. Để có thể phát triển du lịch đòi hỏi mức sống (vật
chất, tinh thần) của con người đạt đến trình độ nhất định.
- Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa và sức ép từ môi trường sống: Đây cũng
là yếu tố làm tăng nhu cầu du lịch, đặc biệt là du lịch cuối tuần. Quá trình công nghiệp hoá
- hiện đại hóa đã góp phần cải thiện đời sống cho người dân cả về phương diện vật chất lẫn
tinh thần. Tuy nhiên công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng dẫn tới sự thay đổi về điều kiện
tự nhiên, khí hậu, bầu khí quyển... Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe
của con người.
Sự tập trung dân cư quá đông tại các đô thị và các thành phố lớn đã làm cho môi
trường bị ô nhiễm, đường xá ồn ào, náo nhiệt, phương tiện đi lại đông đúc... Từ những mặt
trái nêu trên, ta có thể nhận thấy rằng nhu cầu vui chơi giải trí là một nhu cầu không thể
thiếu của người dân ở các thành phố và những nơi tập trung đông dân cư. Những chuyến
du lịch cuối tuần chính là cơ hội để người dân tạm quên đi cái không khí ồn ào, náo nhiệt
và ô nhiễm hàng ngày để bắt đầu một tuần mới làm việc hiệu quả.
1.2.6 Các loại hình hoạt động
- Nghỉ dưỡng: Đây là một trong những mục đích quan trọng của du lịch cuối tuần.
Do công việc thường ngày căng thẳng, môi trường ô nhiễm, các mối quan hệ xã hội phức
tạp. Những người đi nghỉ muốn tìm đến một nơi có phong cảnh ngoạn mục, với những
ngọn núi cao, những con thác lớn, những khu rừng nguyên sinh và hang động kì bí. Hoặc
cũng có thể là một di tích lịch sử, lễ hội, làng nghề, một công trình đương đại tầm cỡ... Tuy
nhiên, do thời gian hạn chế nên số lượng đối tượng không nhiều và phụ thuộc vào những
nguồn tài nguyên trong khu vực.
- Vui chơi giải trí: Mục đích chuyến đi là thư giãn, bứt ra khỏi công việc thường
nhật căng thẳng để phục hồi sức khoẻ. Trong chuyến đi có thể kết hợp tham quan nhưng
không phải là cơ bản. Các hoạt động chủ yếu là vui chơi giải trí như ở công viên chuyên
đề, các khu vui chơi giải trí, trên bãi biển, ven sông hồ, các khu rừng thưa, rừng trồng...
- Thể thao: Mục đích của chuyến đi là tham gia chơi các môn thể thao, để nâng cao
thể chất, phục hồi sức khỏe và thể hiện mình. Đây là hoạt động làm đáp ứng lòng ham mê
thể thao của mọi người, nhưng chỉ đơn thuần là để giải trí chứ không phải là tham gia thi
đấu chính thức. Các hoạt động thể thao như chơi golf, bơi thuyền, bơi lặn, lướt ván, leo
núi, đua xe... là những thể loại ưu thích hiện nay. Để phù hợp với các loại hình này yêu cầu
có điều kiện tự nhiên thích hợp và có cơ sở trang thiết bị cần thiết. Mặt khác, nhân viên
cũng cần được huấn luyện để có thể hướng dẫn và giúp du khách chơi đúng quy cách.
- Tâm linh tôn giáo: Loại hình này thoả mãn nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng, đặc
biệt là đối với người cao tuổi. Vào những ngày nghỉ, người dân thường hay đến các đền,
chùa để đi lễ, vãn cảnh. Các đền chùa ở nước ta thường được xây dựng ở những ngơi có
phong cảnh thiên nhiên đẹp. Ngoài ra các loại hình trên còn có nhiều loại hình khác. Tuy
nhiên việc phân chia chỉ mang tính tương đối vì nó sẽ đan xen nhau trong chuyến đi.
1.3 Các yếu tố Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch.
1.3.1 Khái niệm:
Marketing - Mix là những biến (variables) có thể kiểm soát mà các tổ chức du lịch
nhà nước hay tư nhân sử dụng để đạt được những mục tiêu du lịch của điểm đến với mỗi
thị trường mục tiêu.
Có hàng loạt các công cụ Marketing - Mix, Mc. Canthy đã phổ biến 4 yếu tố để
phân loại các công cụ này gọi là 4P (hình I-1): Sản phẩm (product), giá cả (price), phân
phối (place), xúc tiến hàng (promotion).
Marketing - Mix
P1- Product P4- Promotion
Sản phẩm Xúc tiến bán
P2- Price P3- Place
Giá cả Phân phối
Sơ đồ 1: Quản trị Marketing
Thị trường mục
tiêu
Marketing - Mix là sự tập hợp các phương thức tiếp thị có thể kiểm soát được mà
doanh nghiệp du lịch phối sử dụng để tác động đến khách hàng tạo nên sự đáp ứng cần
thiết trong thị trường mục tiêu.
Có 4 yếu tố cơ bản tạo nên phối thức Marketing - Mix, đó la sản phẩm, giá cả, giao
tiếp khuyếch trương, phân phối. Trong đó sản phẩm mà doanh nghiệp du lịch cống hiến
cho thị trường mục tiêu được đánh giá cao theo các đặc trưng về phẩm chất, hình thức,
dịch vụ... Giá cả là số tiền mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm, nó tương xứng
với giá trị được cảm nhận của sản phẩm và được xem xét theo mức giá gốc triết khấu, bù
lỗ, thời hạn thanh toán. Phân phối là những hoạt động nhằm đưa sản phẩm đến tận tay
khách hàng mục tiêu, như chọn kênh phân phối, các trung gian đại lý du lịch, vận chuyển...
giao tiếp khuyếch trương là những hoạt động đạt giá trị của sản phẩm du lịch và thuyết
phục khách hàng mục tiêu sản phẩm đó gồm có các công cụ, cụ thể như: tuyên truyền,
quảng cáo, bán hàng trực tiếp.
1.3.2. Các yếu tố Marketing - Mix nhằm thu hút khách
* Sản phẩm
- Khái niệm sản phẩm
Theo quan điểm của Philip Kotler thì “Sản phẩm là bất cứ cái gì có thể đưa vào thị
trường để tạo ra sự chú ý, mua sắm hay tiêu thụ nhằm thoả mãn một nhu cầu hay ý muốn”.
Nó có thể là những vật thể, dịch vụ của con người, địa điểm, những tổ chức và những ý
nghĩa sản phẩm đem lại lợi ích cho con người. Người mua hàng hóa hay dịch vụ chính là
người đem lại giá tri, lợi ích của sản phẩm cho họ. Sản phẩm du lịch là toàn bộ những hàng
hóa và dịch vụ cung ứng cho khách du lịch trong quá trình du lịch nằm thoả mãn nhu cầu
của họ. Sản phẩm của doanh nghiệp lữ hành là những chương trình du lịch (tuor) cung cấp
cho khách du lịch. Chương trình này bao gồm nhiều loại hàng hóa và dịch vụ du lịch như:
Khách sạn, nhà hàng...
Đối với người làm Marketing thì giá trị sản phẩm la giá trị những nhân tố đầu vào
cho việc sản xuất sản phẩm. Nhưng đối với khách hàng thì giá trị sản phẩm là sự cảm nhận
của khách sau khi tiêu dùng.
- Nội dung của sản phẩm
Nội dung quan trọng nhất là xác định chủng loại, cơ cấu dịch vụ hàng hóa cung cấp
cho khách du lịch, từ đó xác định chiến lược sản phẩm của Công ty là “duy nhất” hay “dị
biệt hóa”.
Nếu sử dụng chiến lược duy nhất có nghĩa là sản phẩm của công ty mình cũng
giống sản phẩm của công ty khác. ưu điểm là: độ mạo hiểm ít, chi phí Marketing trên một
sản phẩm không cao. Thông thường các công ty lữ hành không áp dụng chiến lược này vì
khi có quá nhiều Công ty áp dụng chiến lược trên thì sẽ gây ra cạnh tranh gay gắt trên thị
trường. Chiến lược phân biệt sản phẩm hay dị biệt hóa sản phẩm tức là làm cho sản phẩm
của Công ty mình đặc biệt lên, độc đáo hơn so với đối thủ cạnh tranh nhằm hướng nhu cầu
của người tiêu dùng vào sản phẩm của Công ty hiện hữu trên thị trường. Để thực hiện
chiến lược này, các Công ty phải áp dụng chính sách quảng cáo và tuyên truyền rộng rãi.
Thông thường các Công ty lữ hành có quy mô lớn, có vị thế trên thị trường du lịch sử dụng
chính sách phân biệt sản phẩm.
Tuy nhiên chính sách này cũng có nhược điểm là làm cho kinh phí Marketing trên 1
đơn vị sản phẩm cao, từ đó làm cho giá cao và cũng có thể mất thị trường nếu các doanh
nghiệp khách cũng dị biệt hóa.
* Chính sách giá
- Định nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách giá
+ Định nghĩa
Giá cả của một sản phẩm hoặc dịch vụ là khoản tiền mà người mua phải trả cho
người bán để được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó (người mua định
nghĩa).
Giá cả của một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là khoản thu nhập người bán nhận được
nhờ việc tiêu thụ sản phẩm đó (người bán định nghĩa).
+ Mục tiêu của chính sách giá
Có 5 mục tiêu chính là:
Mục tiêu tồn tại: Giá cả là điều kiện duy trì sự tồn tại và đem lại mức lợi
nhuận trong tương lai.
Mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận: Việc định giá đảm bảo tối đa hóa lợi nhuận
trong một thời kỳ nhất định.
Tối đa hóa doanh số: Tạo ra phần xuất thị phần (giá thấp) với hy vọng doanh
số tương lai sẽ tăng và dần đạt đến doanh số mong muốn.
Tạo uy tín: Sử dụng giá về tự định vị như một sự độc quyền.
Mục tiêu thu hồi vốn đầu tư: Đặt ra trên cơ sở thu hồi vốn nhanh (chậm) như
thế nào.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách giá
Quyết định về chính sách giá của Công ty chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nội tại của
Công ty bao gồm: Các mục tiêu Marketing bao gồm: Mục tiêu nội tại, mục tiêu tối đa hóa
lợi nhuận, mục tiêu thị trường, mục tiêu về chất lượng, các mục tiêu khác.
Phương pháp hoạt động Marketing.
Vai trò, khả năng của Công ty trên thị trường.
Chi phí (Cố định, biến đổi...) giá thành của chương trình.
Những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới việc định gía bao gồm:
Thị trường và nhu cầu (áp lực của thị trường, sự cảm nhận của khách hàng
về giá cả, cung cầu, độ co giãn của cầu theo giá).
Giá phổ biến trên thị trường.
Giá của đối thủ cạnh tranh.
Các yếu tố khác (pháp luật, chính sách...)
* Chính sách phân phối
- Định nghĩa, vị trí và mục tiêu của chính sách giá
+ Định nghĩa
Phân phối trong Marketing không chỉ tìm ra phương hướng mục tiêu của lưu thông
mà nó còn bao gồm cả nội dung thay đổi về không gian và thời gian mặt hàng và số lượng
hàng hóa cùng các biện pháp thủ thuật để đưa hàng hóa từ tay người sản xuất đến tay
người tiêu dùng.
+ Vị trí
Chính sách phân phối sản phẩm là phương hướng thể hiện cách mà các doanh
nghiệp cung ứng các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng của mình. Nó là tổng hợp các biện
pháp, thủ thuật nhằm đưa sản phẩm và dịch vụ đến tay khách hàng cuối cùng với số lượng
hàng hóa hợp lý, mặt hàng phù hợp và đảm bảo các yếu tố của văn minh phục vụ.
Chính sách phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Một chiếnlược phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh
an toàn, hàng hóa sản xuất ra không bị tồn đọng phải giảm được sự cạnh tranh và làm cho
quá trình lưu thông hàng hóa diễn ra nhanh chóng. Do đặc điểm riêng của sản hẩm du lịch
nếu doanh nghiệp không có chính sách phân phối hợp lý thì sản phẩm sẵn có không thể
bán hết được, điều đó sẽ là cho các doanh nghiệp thua lỗ.
+ Mục tiêu
Bán được nhiều hàng hóa dịch vụ nhất, doanh thu cao nhất, phải có được lợi nhuận
như mong muốn và an toàn trong kinh doanh.
- Các kênh phân phối
Kênh phân phối chỉ ra mối quan hệ giữa Công ty kinh doanh lữ hành với kênh trung
gian trên thị trường được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Công
ty
lữ
hành
Công Ty
gửi
khách
Đại
lý
bán
buôn
Đại
lý
bán
lẻ
Khách
du
lịch
(1
)
(2
)
(3
)
Sơ đồ 2: Kênh phân phối trong kinh doanh lữ hành
Kênh 1: Kênh ngắn trực tiếp: Đây là kênh phân phối trực tiếp giữa các Công
ty lữ hành với khách. Thông thường tỷ trọng của kênh này thường ít trong
kinh doanh du lịch quốc tế do khả năng hạn chế của các Công ty về vị trí, tài
chính, kinh nghiệm để tiếp xúc với khách du lịch.
Kênh 2: Kênh ngắn gián tiếp: Đặc điểm của kênh này chỉ có một trung gian
là đại lý bán lẻ hoặc là đại diện của Công ty. Kênh này có tỷ trọng nhỏ trong
kinh doanh lữ hành quốc tế nhưng trong kênh nội địa là kênh chủ yếu.
Kênh 3, 4: Kênh dài gián tiếp: Đặc điểm của kênh này là các chương trình
của Công ty có thể bán nguyên chương trình hoặc ghép nối chương trình đó
thành một bộ phận của chương trình của họ. Đây là kênh phân phối phổ biến
trong kinh doanh lữ hành quốc tế nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong kinh
doanh lữ hành nội địa.
Kênh 5: Đây là kênh dài, nhưng trong hệ thống không có sự tham gia của
một Công ty lữ hành nào khác. Các đại diện du lịch bán buôn đôi khi còn là
người.
* Chính sách xúc tiến quảng bá
- Vị trí, bản chất, mục tiêu của chính sách xúc tiến
+ Vị trí
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi người bán hàng pahỉ
đon đả mời chào, còn người mua có quyền đòi hỏi người bán thoả mãn những mặt hàng
mà họ cần chứ không tự động tiêu dùng cái mà người sản xuất làm ra. Và người sản xuất
chính là phải sản xuất cái mà thị trường cần chứ không phải sản xuất ra cái mà mình muốn
có.
(4
)
(5
)
Xúc tiến bán hàng là nhằm tác động vào tâm lý của người mua, nó có tác dụng lớn
đối với doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể nắm bắt nhu cầu của khách hàng cụ thể hơn.
Xúc tiến bán hàng trước hết phải đạt được mục tiêu liên hệ với khách hàng làm cho họ có
lòng tin đối với sản phẩm của doanh nghiệp, tranh thủ sự ủng hộ và tạo ra bằng sự ràng
buộc của họ với sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp.
Quảng cáo là sử dụng các phương tiện thông tin để truyền tin về sản phẩm hoặc cho
trung gian, hoặc cho người tiêu thụ cuối cùng trong một thời gian và không gian nhất định.
+ Bản chất
Xúc tiến quảng cáo hay còn gọi là khuyếch trương là tập hợp các công cụ được sử
dụng để lôi kéo cầu. Thực chất của xúc tiến quảng cáo là giải quyết các vấn đề truyền
thông và tạo ra mức tiêu thụ như mong muốn.
+ Mục tiêu
Quảng cáo không chỉ cung cấp một cách đơn giản những thông tin về sản phẩm,
dịch vụ mà còn tác động tích cực tìm cách gây ảnh hưởng đến hành động mọi người bằng
cách trưng bày hình ảnh gợi cảm làm kích thích nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Mục tiêu của quảng cáo bao gồm:
Tăng sự nhận biết về mẫu nhìn sản phẩm
Tăng sự hồi tưởng về nhãn hàng sản phẩm
Tăng sự ưa thích sản phẩm dịch vụ
Một điểm quan trọng là mục tiêu quảng cáo phải mang tính đặc biệt, có thể đo
lường được và có khả năng thực hiện. Trước khi mục tiêu của quảng cáo được chấp nhận
thì phải đặt câu hỏi “liệu ta có khả năng đảm bảo thực thi thành công mục tiêu này
không?”
Chương II
Tiềm năng phát triển du lịch cuối tuần
và thực trạng chính sách marketing - mix nhằm thu hút khách đến Sơn Tây - Ba Vì
2.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch
2.1.1. Vị trí địa lý:
Sơn Tây - Ba Vì là một trong ba cụm di tích chính của Hà Tây được xác định
trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Tây thời kỳ 1995 - 2010. Ngoài quy
hoạch tổng thể phát triển trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận đã xác định Sơn Tây -
Ba Vì là khu vực có nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển du lịch văn hoá, sinh thái, nghỉ
dưỡng, vui chơi giải trí cuối tuần quan trọng. Quy hoạch phát triển du lịch bền vững
của Tổng cục Du lịch cũng xác định trong 49 danh mục ưu tiên phát triển du lịch trên
toàn quốc có Suối Hai - Ba Vì và vùng phụ cận tỉnh Hà Tây.
Khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì là vùng bán sơn địa nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hà
Tây - Thị xã Sơn Tây chỉ cách thủ đô Hà Nội 40 km về phía Tây. Từ Hà Nội có thể đến
Sơn Tây theo quốc lộ 32 hoặc theo đường quốc lộ 6 hay theo đường cao tốc Láng - Hoà
Lạc. Sơn Tây là vùng đất xứ Đoài năm xưa có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh
nổi tiếng như: thành cổ Sơn Tây, Đền Và, làng cổ Đường Lâm, chùa Mía, khu du lịch
Đồng Mô...
Tiếp giáp với thị xã Sơn Tây là huyện Ba Vì nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tây có 3 dân
tộc là Kinh, Mường, Dao, cách Hà Nội khoảng 60 km về phía Tây. Ba Vì cũng là vùng đất
cổ xứ Đoài với truyền thống văn hoá, lịch sử lâu đời. Nơi đây còn bảo lưu được các di tích
lịch sử có giá trị như: đình Chu Quyết, đình Tây Đằng... cũng như các danh lam thắng
cảnh nổi tiếng: Ao Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Vườn quốc gia Ba Vì, hồ Suối Hai, khu
du lịch sinh thái Thác Đa...
Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, lại nằm ở vị trí thuận lợi: tiếp giáp với khu
công nghiệp Việt Trì, thuỷ điện Hoà Bình, tiếp giáp với trung tâm văn hoá lớn trong tương
lai như; làng văn hoá các dân tộc Việt Nam, chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hoà Lạc
- Sơn Tây, trường Đại học Quốc Gia... Khu vực thị xã Sơn Tây và Ba Vì có đủ điều kiện
để trở thành một trung tâm du lịch, nghỉ ngơi của toàn vùng. Trong những năm gần đây
hoạt động du lịch ở khu vực thị xã Sơn Tây và Ba Vì đã có sự phát triển nhanh chóng, thu
hút khách đến nghỉ ngơi, thăm quan, nghiên cứu. Khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì đặc biệt
lí tưởng cho loại hình du lịch cuối tuần của thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận.
2.1.2 Đặc điểm về địa hình
Thị xã Sơn Tây và Ba Vì là vùng đất có địa hình tương đối đa dạng: địa hình đồng
bằng, gò đồi (Sơn Tây) và địa hình miền núi (Ba Vì). Địa hình Sơn Tây và Ba Vì có độ
nghiêng dần từ Tây Bắc xuống ĐôngNam với độ dốc trung bình là 25o, càng lên cao độ
dốc càng lớn. Có thể coi địa hình nơi đây là yếu tố nổi bật có tác động đến tâm lý du
khách.
Do cấu hình của địa hình, vùng đồi núi trong vùng bị chia cắt thành nhiều khe núi
khoét sâu tạo ra những cảnh quan tự nhiên đẹp như: thác nước (Ao Vua, thác Hương), các
dòng suối, đồng thời tạo nên điều kiện thuậnlợi xây dựng các hồ nước nhân tạo như: hồ
Suối Hai, hồ Đồng Mô, phục vụ mục đích thuỷ lợi và du lịch.
Khu vực Sơn Tây - Ba Vì có độ cao trung bình từ 400 - 600m, trong đó có
một số đỉnh cao như Đỉnh Vua (1296m), Tản Viên (1226m), Ngọc Hoa (1120m), Hang
Hùm (776m), Da Dê (714m)... đã tạo cho khu vực những cảnh đẹp hùng vĩ và càng hấp
dẫn hơn bởi nhiều địa danh gắn liền với các truyền thuyết lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc như truyền thuyết vua Hùng, Tản Viên, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh...
2.1.3. Một số điểm và khu vực tài nguyên tiêu biểu
* Khu vực Vườn quốc gia Ba Vì
Vườn quốc gia Ba Vì là một lá phổi lớn của thủ đô, cách Hà nội gần 60 km (theo
đường 32 và đường 87 hoặc theo đường Láng - Hoà Lạc, đường 21A và đường 87).
Vườn quốc gia Ba Vì có diện tích quản lý 7.377 ha, phân bố rải rác ở độ cao từ
200m đến 1300m so với mặt nước biển. Khí hậu ở đây rất ôn hoà. Đây chính là điểm du
lịch lý tưởng cho những du khách muốn khám phá và trở về với thiên nhiên.
Ba Vì gồm 3 đỉnh hợp thành: Đỉnh cao nhất là đỉnh Vua có độ cao 1276m, đỉnh
Tản Viên có độ cao 1226m, đỉnh Ngọc Hoa có độ cao 1120m. Ba đỉn núi trên gắn bó với
truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh. Khi Thuỷ Tinh dâng nước lên đánh Sơn Tinh, một
hòn núi đã bật ra nay là Hòn Chẹ. Để chốnglại Sơn Tinh đã dùng gậy thần xẻ ngọn núi
thành ba tầng, từ đó sóng nước đánh vào đá không bị đổ nữa. Sau này người ta gọi ngọn
núi ba tầng này là Ba Vì.
Những ngày trời nắng xe ô tô có thể đưa du khách tới độ cao 800m so với mặt nước
biển qua những con đường quanh co, uốn khúc. ở độ cao này đã thấy vùng khí hậu á nhiệt
đới, nhiệt đới thấp hơn bình thường khoảng 4 - 5oC nên xưa người Pháp đã xây dựng gần
200 biệt thự làm nơi nghỉ mát tại đây. Thời kỳ sau chiến tranh giải phóng công trình đã trở
thành phế tích, giờ đây chỉ còn lại nền móng và những bức tường rêu phong.
Từ mặt bằng ở độ cao 800m du khách leo chếch sang phải 600m sẽ lên tới đền
Thượng nơi thờ thánh Tản Viên. Còn leo chếch sang trái 1500m tới đỉnh cao nhất 1296m
là đỉnh Vua có bàn cờ. Vào dịp kỉ niệm 30 năm ngày Bác Hồ đi xa và 30 năm thực hiện di
chúc của Bác, đền thờ và tượng Bác tren đỉnh Vua đã được khánh thành. Đứng ở đây du
khách có thể nhìn thấy các xóm làng của người Mường, người Dao thấp thoáng bên các
sườn đồi và cảm thấy mình như được giao hoà với trời đất.
* Khu vực du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên
Khoang Xanh - Suối Tiên là điểm du lịch có môi trường sinh thái còn tương đối
nguyên vẹn, nơi có nhiều người Mường sinh sống, cách thị xã Sơn Tây khoảng 20 km.
Từ Hà Nội theo đường 32 đi Sơn Tây qua xã Vân Hoà, huyện Ba Vì, Hà Tây là đến
khu du lịch này. Từ bãi xa, du khách đã có thể nghe thấy tiếng thác nước ào ào, cùng với
cảnh núi rừng hùng vĩ xung quanh khiến phong cảnh nơi đây càng thêm ngoạn mục. Đi
khoảng 500m, du khách sẽ được đắm mình trong một thung lũng xanh mơ mộng bên núi
Tản Viên, có dòng Suối Tiên vắt mình từ trên cao, len lỏi qua các sườn đá chảy xuống
trông như một dải lụa bạc khổng lồ. Thác nước từ trên cao đổ xuống tung bọt trắng xoá.
Có đoạn suối, nước chảy róc rách, dòng nước trong vắt, mát lạnh. Từ thác Tràn ngược lên
đến Hòn Chồng khoảng 1km, có nhiều thác đẹp với các tên gọi như thác Mâm Xôi, thác
Hoà Lan...Trên đường đi nếu du khách có thể dừng an nghỉ trên những phiến đá to nằm rải
rác dọc theo bờ suối. Sau khi tắm thác, lội suối thoả thuê, du khách có thể leo lên đỉnh núi
Vua, nơi có khu rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú và các loài cây cổ thụ
quý hiếm. Ngoài ra quý khách có thể chơi thể thao dưới nước, tắm mát, trượt nước ở khu
vực hồ tạo sóng và các máng trượt.
Khu du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên rất thích hợp cho các loại hình du lịch cuối
tuần, leo núi, tắm suối, thăm bản dân tộc Mường... Khu du lịch này hiện đang thu hút rất
nhiều khách du lịch, để lại cho du khách những ấn tượng khó quên.
* Khu du lịch Đồng Mô - Ngải Sơn
Từ Hà Nội đến khu du lịch Đồng Mô - Ngải Sơn là 50km, theo đường 32 lên thị xã
Sơn Tây rồi đi tiếp khoảng 10 km là tới. Đây là công trình thuỷ lợi mới xây dựng trong
những năm 1966 - 1967. Hồ mang tên gọi của hai làng đầu hồ là Đồng Mô thuộc xã Yên
Bái, huyện Ba Vì và Ngải Sơn thuộc xã Kim Sơn, nay thuộc thị xã Sơn Tây.
Trước đây là một vùng đồi núi thấp, sau đó đắp các con đập nối đồi Kiến (133m) và
đồi Con Ma (102m) mà tạo thành hồ. Nước nguồn của sông Hang từ đó giữ lại trong các
hồ dài 17km, rộng trung bình 4km, diện tích mặt nước 1300ha, chống úng và hạn cho đồng
ruộng bốn huyện Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ (Hà Tây).
Trong lòng hồ còn trên 60ha đất đồi chưa ngập, trở thành những hòn đảo nhấp nhô
với một thảm thực vật xanh dịu đẹp và mát mắt. Khách có thể bằng canô đi du ngoạn trên
mặt hồ hoặc ghé vào đảo để nghỉ ngơi (trên đảo có những lều tre, gỗ cho khách thuê). Trên
bờ có nhà nghỉ đầy tiện nghi để du khách tránh cái nóng gay gắt của Hà Nội trong những
ngày hè nóng nực. Đặc biệt là có sân golf 18 lỗ dành cho những khách yêu môn thể thao
này trong các ngày nghỉ lễ.
Khu vực Đồng Mô - Ngải Sơn đang trên đường trở thành khu nghỉ cuối tuần sáng
giá tại cửa ngõ phía Tây của Hà Nội.
*Hồ Suối Hai
Hồ Suối Hai là hồ nhân tạo được khởi công xây dựng từ tháng 12 năm 1958 với hệ
thống đập chính và phụ dài 4km để giữ nước từ hai suối chính Yên Cư và Cầu Rồng từ núi
Ba Vì chảy xuống làm nguồn cung cấp nước tưới cho trên 7000ha đất canh tác. Hồ Suối
Hai có diện tích mặt nước gần 1000ha, dài 7km, rộng 4km, chu vi hồ tới 36km với lượng
nước chứa trong hồ khoảng trên 46m3. Trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ, diện tích
khoảng 90ha. Trên các đảo và ven hồ đã được trồng cây gây rừng, xây các vườn ăn quả,
các trại chăn nuôi. Hồ rộng, nước sạch, có nhiều bãi tắm đẹp nên đượckhách du lịch rất ưa
thích. Hồ còn có khả năng cung cấp mỗi năm hàng chục tấn cá. Đặc biệt hệ sinh thái vùng
hồ còn được bổ sung thêm các đàn chim trời như le le, mòng, vịt trời, sâm cầm, giang,
sếu... đông đến hàng vạn con làm cảnh thiên nhiên thêm phong phú, sinh động và hấp dẫn.
Suối Hai đã trở thành một thắng cảnh và nơi nghỉ mát tốt. Nhà nghỉ bên bờ phía
Bắc đã đón nhiều du khách. Có thể nói mỗi mùa, Suối Hai cũng thay đổi. Cho nên đến đây vào
bất cứ lúc nào cũng thấy hồ đẹp.
* Khu du lịch sinh thái Thác Đa
Thác Đa thuộc Mường Châu, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 60km về
phía Tây, là một khu sinh thái hấp dẫn. Từ Hà Nội theo đường Láng - Hoà Lạc đến
điểm du lịch Khoang Xanh, rẽ phải đi khoảng 11km nữa là tới khu du lịch Thác Đa.
Đến đây du khách sẽ được hưởng bầu không khí trong lành của vùng núi cao Ba Vì,
được vùng vẫy trong làn nước xanh của thác nước đổ từ trên cao xuống. Du khách sẽ
được nghỉ ngơi trong những căn phòng xinh xắn được xây dựng lưng chừng núi rất nên
thơ. Du khách có thể tắm ở bể bơi, hoặc dạo chơi trong vườn cây ăn quả, thăm khu
tượng người Việt cổ bên dòng suối Trúc. Ngoài ra khách có thể thăm Khe Cạn, thác
Dốc Mông, khuôn viên Tình Yêu, vườn Địa Đàng hoặc leo núi, câu cá, thưởng thức các
món thịt rừng nướng hay múa sạp cùng các cô gái bên trong lửa trại...
Khu du lịch sinh thái Thác Đa mới được khai thác, môi trường sinh thái rất trong
lành đang hấp dẫnkhách du lịch, nhất là tour nghỉ cuối tuần.
2.2. tài nguyên du lịch nhân văn
2.2.1. Các di tích lịch sử, văn hoá
Ba Vì là vùng đất cổ, là trung tâm của 15 bộ lạc thời Hùng Vương, là nơi ngự trị
của Thánh Tản Viên. Nói đến Sơn Tây - Ba Vì, vùng đất thuộc xứ Đoài xưa là nói đến nơi
sinh của người Việt cổ. Chính bề dày lịch sử lâu dài nên vùng đất này đã có nhiều di tích
lịch sử văn hoá đặc sắc. Theo thống kê toàn tỉnh Hà Tây có 2.388 di tích trong đó có trên 800
di tích nhà nước xếp hạng di tích quốc gia.
Trong số các di tích ở Sơn Tây - Ba Vì đáng chú ý là những di tích gắn với lịch sử
dựng nước và giữ nước, với những nhân vật lịch sử đã trở thành biểu tượng của dân tộc,
trong đó có một trong tứ bất tử của người Việt là Thánh Tản Viên. Các di tích như đền Và,
đền Phùng Hưng, chùa Mía, đền và lăng Ngô Quyền, thành cổ Sơn Tây, đình Tây Đằng,
đình Chu Quyến... đã nổi tiếng từ lâu và được du khách đặc biệt quan tâm. Các di tích lịch
sử văn hoá của khu vực Sơn Tây - Ba Vì đều có giá trị rất cao về mặt lịch sử và kiến trúc
mỹ thuật. Gần đây, các di tích này đã được quan tâm bảo vệ tu tạo khá tốt.
* Thành cổ Sơn Tây.
Nằm ở khu trung tâm thị xã, là điểm khởi đầu của các đường phố chạy toả ra bốn
phía ngoại vi thị xã Sơn Tây là một công trình kiến trúc cổ - Thành cổ Sơn Tây.
Thành cổ Sơn Tây được xây dựng vào năm 1822 ở thời vua Minh Mệnh triều
Nguyễn. Thành đợc xây dựng hình tứ giác theo kiểu Vô Băng (một nhà kiến trúc sư người
Pháp sống thế kỷ XVII). Bốn mặt thành có bốn cổng ra vào. Cửa tiền trông ra phố Ba Vì
(nay là phố Quang Trung). Cửa hậu trông ra phố Hậu An (nay là phố Lê Lợi). Tường thành
Sơn Tây được xây bằng đá ong, cao 5m phía bên trong tường đắp đầy đất. Quanh thành có
hào sâu 3m, rộng 20m. Trong thành có xây dựng vọng lâu cao 18m có cột cờ, có điện kính
thiên, giếng nước và trại lính... cùng với chiến luỹ Phù Sa thành Sơn Tây là một căn cứ
kháng Pháp xâm lược nước ta. Sau này trong thành Sơn Tây được xây dựng dinh làm việc
của quan Tổng đốc, án sát, Đốc học và Đề đốc...
Qua thời gian, thành Sơn Tây đã bị hư hại nhiều. Cổng thành phía Đông đã mất, các
cổng khác bị cây cối xâm thực hư hỏng nặng. Thành đá ong nay chỉ còn nền móng. Hiện
nay thành Sơn Tây đã có quy hoạch nhằm từng bước khôi phục các cổng, trong thành, khôi
phục các công trình kiến trúc trong thành như điện kính thiên, cột cờ... và trở thành một
khu du lịch văn hoá của quê hương xứ Đoài.
* Làng cổ Đường Lâm
Làng Đường Lâm cách thị xã Sơn Tây khoảng 4km, là một làng Việt cổ ở trung du.
Đây là quê hương của Phùng Hưng và Ngô Quyền, hai vị anh hùng dân tộc đã có công dánh
đuổi quân xâm lược phương Bắc vào thế kỷ 8 và thứ 10.
Làng Đường Lâm có tới 21 gò đồi, 18 rộc sâu và có con sông Tích nước xanh trong
uốn lượn quanh làng. Tại đây có đền thờ Phùng Hưng, đình thờ và lăng Ngô Quyền với
các chuông đồng, khánh đá, đồ gốm sứ, các bức chạm và các bia đá cổ lớn, xung quanh nơi
đây có đồi Hùm, giếng Ngọc, rặng suối buộc voi.
Tại nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như rìu đá, di
chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng, gần đó còn có những rộc sâu, tương truyền xưa kia là hồ
sen, nơi Ngô Quyền thường cùng bạn bè thửơ nhỏ chơi trò thuỷ chiến.
Đường Lâm là một vùng đất địa linh nhân kiệt - hội tụ tinh anh của cộng đồng
người Việt cổ, thật xứng đáng với tên “Hoa thiên cảnh” (cõi trời hoa) mà người xưa đặt tên
cho vùng Kẻ Mía.
* Chùa Mía
Làng Giếng với làng Cam Lâm là làng Đông Sàng cũng thuộc xã Đường Lâm.
Tại đây có ngôi chùa đẹp, tục gọi là chùa Mía. Chùa có tên chữ là Sùng Nguyên Tự,
được dựng năm 1632 do bà Ngọc Dung vợ chúa Trịnh Tráng (1632 - 1657) đứng ra
hưng công. Chùa nằm trên một ngọn đồi đá ong, quy mô lớn, chia ra 3 khoảng tách
bạch. Ngoài cùng là gác chuông, tiếp đó là mảnh sân. ở bên góc phải có một cây đa vài
trăm tuổi. Qua một cổng gạch thì vào khoảng thứ hai. Một sân gạch ở giữa có bồn hoa,
một bên là dãy nhà tổ, một bên là nơi ở của các nhà sư. Tiếp đó là khu chùa chính gồm
nhà Bái Đường, chùa Hạ, chùa Trong và Thượng Điện. Tiếp đó là khu chùa chính làm
chùa (1632) cao trên 1.6m là một trong số ít tấm bia to và đẹp còn lại tới nay.
Toàn bộ kiến trúc của chùa đều được xây dựng bằng nhiều loại gỗ quý. Nhiều bức
được chạm khắc công phu, như hình tứ linh, hình hoa lá... Bức nào cũng tinh tế, gợi cảm,
huyền diệu vô cùng.
Tượng Phật ở chùa Mía không chỉ đặc sắc về hình dáng mà còn phong phú về số
lượng. Trong chùa hiện thờ 287 pho tượng lớn nhỏ gồm 6 tượng đồng, 107 tượng mộc và
174 tượng thổ. Các pho tượng này dù là được đúc, được nặn hay chạm khắc cũng đều thể
hiện tính nghệ thuật cao siêu của các nghệ nhân bậc thầy lúc bấy giờ. Trăm pho trăm vẻ
nhưng pho nào cũng tạo ra một kiểu dáng sống động, màu sắc, chế phổ hài hoà. Từ cử chỉ
ngón tay, cách nhìn, khoé mắt đều cho khách viếng thăm thấy được nét vẽ độc đáo phi phàm
mà lại đầy vẻ từ bi hỉ xả.
Đáng lưu ý nhất là một pho như tượng Tuyết Sơn, tượng Bá Đại hoà thượng, tượng
Quan Âm Nam Hải, tượng Bát Bộ Kim Cương, tượng Từ Bồ Tát, tượng hai Thái Tử hiện
hữu, ác hữu, tượng Bà Chúa Mía.
Pho tượng Tuyết Sơn thể hiện Đức Phật tu khổ hạnh ở khổ hạnh lâm, vừa có cái gì
gần gũi với chúng sinh lại vừa có cái gì rất cao siêumà muôn kiếp người không thể đạt tới
được.
Pho tượng Bá Đại Hoà Thượng (tức Đức Di Lặc) đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật
điêu khắc. Nét mặt tươi cười hoan hỉ của Đức Di Lặc đủ làm tiêu tan mọi nỗi u sầu của
kiếp phù sinh hoặc chí ít cũng làm thư giãn một phần nét mặt khắc khổ của người phàm
trong cõi đời.
2.2.2 Các lễ hội truyền thống
Hà Tây là tỉnh có nhiều lễ hội, trong đó có những lễ hội tiêu biểu cho lễ hội dân
gian Việt Nam với những nghi thức cổ truyền vẫn được duy trì. Chỉ riêng khu vực Sơn Tây
- Ba Vì đã có tới 4 lễ hội lớn mang tính đại diện cho người Việt (Bảng 3).
Bảng 3: Các lễ hội lớn ở khu vực Sơn Tây - Ba Vì
STT
Tên lễ hội
và thời gian
Địa điểm lễ hội Nội dung
1
Hội làng Khê
Thượng
Các ngày 2 - 7/1
Xã Sơn Đà huyện
Ba Vì
Thờ: Thánh Tản Viên: 2/1
rước đón ngài về (nửa đêm
chèo thuyền từ bến Bộ về
Khê Thượng) 3/1 đấu vật thờ
Thánh; 7/1: Hộichém chén
cầu may.
2
Hội đền Và 15/1
(3 năm/1 lần)
Thị xã Sơn Tây
Thờ Tản Viên; lễ rước kiệu
Thánh Tản Đông cung lên
đền thờ thánh trên núi Ba Vì,
tắm tượng thánh, đánh cá
dâng cúng 99 đuôi cá chép.
3
Hội Cẩm Đai và
Tòng Lệnh (12/1)
Xã Tòng Bạt,
huyện Ba Vì, xã
Cẩm Lĩnh, Ba Vì
Thờ Tản Việt: Tế thần, thi
đánh cá, tiệc cá gỏi
4
Hội Miếu Mèn
(10 - 13/3)
Xã Cam Thượng,
Ba Vì
Thờ Bà ManThiên (mẹ 2 nữ
anh hùng Trưng Trắc, Trưng
Nhị), rước bài vị từ Miếu
Mèn về đình Nam An. Toàn
nữ đứng chân kiệu, chân cờ,
tế tại đình. Leo cây, bơi
thuyền, múa rối.
Những lễ hội dân gian diễn ra ở khu vực Sơn Tây - Ba Vì đều gắn với các
truyền thuyết lịch sử, nhiều huyền thoại thể hiện đời sống tâm linh của người Việt.
Ngày nay những lễ hội đang được khôi phục và phát triển. Đây là một đặc điểm
quan trọng có thể nghiên cứu khai thác phục vụ phát triển du lịch.
Như vậy, bên cạnh những lợi thế về vị trí, nằm trong không gian du lịch
quan trọng với các điểm du lịch cấp quốc giavà quốc tế, thuận lợi về mặt giao
thông, du lịch Sơn Tây - Ba Vì lại mang trong mình những thế mạnh quan trọng về
nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú, là điềukiện tốt để phát triển
các hoạt động du lịch.
2.3 Thực trạng về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và các nguồn
lực khác.
2.3.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật
* Cơ sở lưu trú, ăn uống
Cơ sở vật chất giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của ngành du
lịch. Số lượng khách sạn, buồn, giường của tỉnh Hà Tây còn ít, bị xuống cấp,
không đủ điều kiện cho khách lưu trú.
Các khách sạn hiện có dưới dạng từ nhà khách, nhà nghỉ chuyển sang nên
chưa đủ tiêu chuẩn của một khách sạn du lịch. Trước đây có 100 biệt thực nghỉ mát
ở Ba Vì thời Pháp thuộc nay các công trình này chỉ còn lại nền móng đổ nát.
Bảng 4: Cơ sở lưu trú của tỉnh Hà Tây
Hạng mục 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Cơ sở lưu trú 22 34 36 37 38 40
Tổng số
phòng
398 542 570 585 615 675
Tổng số
giường
692 950 1000 1030 1090 1150
Nguồn: Sở du lịch Hà Tây
Cơ sở lưu trú của vùng, ngoài các nhà sàn và nhà nghỉ mới xây dựng có kiến trúc
đẹp, phù hợp với cảnh quan, số còn lại xây dựng đã lâu phòng cũ cần cải tạo lại.
Do hệ thống cơ sở lưu trữ tăng trưởng với tốc độ thấp, quy mô kinh doanh nhỏ, chất
lượng dịch vụ chưa cao do gần thủ đô Hà Nội- Một trung tâm lớn về cơ sở lưu trú nên ở
đây còn nhiều khó khăn. Hơn nữa, dịch vụ vui chơi giải trí về đêm ở đây còn ít nên không
thu hút được khách ở lại qua đêm.
Về cơ sở phục vụ ăn uống: hầu hết các điểm du lịch ở Sơn Tây- Ba Vì đều có các
quầy bar và phòng ăn có sức chứa khoảng 100 người mỗi phòng, các phòng ăn được bố trí
gọn gàng, sạch sẽ. Có nhiều món ăn từ đặc sản núi rừng hấp dẫn, đội ngũ nhân viên có thái
độ phục vụ rất tốt.
* Hiện trạng các tiện nghi vui chơi, giải trí:
Trong thời gian qua tỉnh Hà Tây đã chú trọng đầu tư phát triển dịch vụ vui chơi giải
trí phục vụ khách du lịch, nhiều khu vui chơi giải trí được hình thành như khu thể thao
dưới nước Ao Vua, công viên nước Khoang Xanh- Suối Tiên, sân golf Đồng Mô, vườn cò
Ngọc Nhị, khu Thác Đa, Suối Mơ, Bằng Tạ gắn các hoạt động vui chơi giải trí và thể thao
dựa vào các tài nguyên du lịch sông, hồ, suối, thác... là thế mạnh tài nguyên của Sơn Tây -
Ba Vì. Tuy nhiên, các khu vui chơi của cụm này mới chỉ ở quy mô nhỏ, chất lượng phục
vụ chưa cao, chủ yếu hướng đến nhu cầu khách nội địa cso mức chi tiêu trung bình. Các
khu vui chơi giải trí chất lượng cao hiện đại thu hút khách du lịch có mức chi tiêu cao đặc
biệt là khách du lịch quốc tế hầu như chưa có, Sơn Tây - Ba Vì cũng chưa có các khu vui
chơi giải trí hoạt động ban đêm để kéo dài thời gian lưu trú của du khách.
Tính đến nay mới chỉ có sân golf Đồng Mô là khu vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế
dành cho khách du lịch quốc tế. Đặc biệt, trong 5 năm qua, phong trào đầu tư xây dựng các
khu nghỉ nhỏ, nghỉ cuối tuần kết hợp vui chơi giải trí diễn ra rầm rộ trên địa bàn các tỉnh.
Nhất là ở những vùng như: Ba Vì - Sơn Tây - Hoà Lạc... và các trục đường chính vào Ba
Vì - Suối Hai - Hoà Lạc. Các khu vui chơi giải trí này có quy mô nhỏ, nhưng dần trở thành
địa chỉ quen thuộc cho các hoạt động du lịch cuối tuần của thị trường khách Hà Nội và các
tỉnh phía Bắc.
Song phương hướng phát triển này có thể dẫn đến việc tài nguyên du lịch bị phân
tán, hoạt động du lịch manh mún và dĩ nhiên việc khai thác tài nguyên sẽ không đạt hiệu
quả. Trong thời gian tới du lịch Sơn Tây - Ba Vì cần có các biện pháp hạn chế xu hướng
phát triển này.
Với vị trí và nguồn tài nguyên như của Sơn Tây - Ba Vì nói riêng và Hà Tây nói
chung, phương hướng tập trung phát triển các dự án đầu tư xây dựng các khu vui chơi
hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế để hướng đến khách du lịch có mức chi tiêu cao là
phương hướng phù hợp để khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên, lợi thế vị
trí địa lý cũng như chiếm lĩnh thị trường Hà Nội, thị trường khách du lịch quốc tế lớn
nhất của khu vực Bắc Bộ.
2.3.2 Cơ sở hạ tầng:
* Giao thông vận tải:
Du lịch gắn liền với sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất định.
Nó phụ thuộc vào giao thông mạng lưới đường sá và phương tiện giao thông. Một đối
tượng có thể có sức hấp dẫn đối với khách du lịch nhưng vẫn không thể khai thác được khi
thiếu nhân tố giao thông. Chỉ có thông qua mạng lưới giao thông thuận tiện, nhanh chóng
thì du lịch mới trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội.
* Đường Bộ:
Các đường quốc lộ nói chung thuận lợi, nhất là những tuyến đường làm sau (Láng -
Hoà Lạc - Xuân Mai), tuyến đường quốc lộ 32 và 21A cũng đã được nâng cấp nhiều lần.
Các đường tỉnh lẻ như đường 74, 84, 87, 89, 88 cũng đóng góp vào việc giao thông
vận tải cho khu vực được thuận tiện nhưng thường bị đứt quãng, không liên tục và chất
lượng chưa đảm bảo.
Các tuyến đường đến các điểm du lịch chủ yếu là đường đất hoặc cấp phối, nhìn
chung chất lượng đường kém, mặt đường hẹp, một số đoạn còn có độ dốc tương đối lớn,
trọng tải thấp, không cho phép các phương tiện chạy với tốc độ cao.
Cụ thể như sau:
1 Đường Đông Quang- Thuỵ An- Suối Hai 5.2 km
2 Đường Trung Hà- Cống Chuốc- Suối Hai 8.0 km
3 Đường Bệnh viện Ba Vì- Cống Chuốc- Suối Hai 8.0 km
4 Đường Ba Vành- Xóm Quýt- Thác Mơ 8.0 km
5 Đường Bặn- Xoan 3.5 km
6 Đường Suối ổi- Ao Vua 10.0 km
7 Đường Tản Lĩnh- Ao Vua 5.5 km
8 Đường Ba Trại- Thuận Mỹ 7.5 km
9 Đường Quảng Oai- Yên Khoái- Suối Hai 6.6 km
10 Đường Suối Hai- Sơn Đà 8.0 km
11 Đường K9- Đá Chông- Thuần Mỹ 7.0 km
12 Đường Bằng Tạ- du lịch vườn nguyên sinh Đồi Cò. 5.5 km
13 Đường Chăm Mè- Suối Hai 5.5 km
14 Đường nối các đảo ven hồ Suối Hai 5.0 km
15
Đường Yên Bái- Xóm Quýt, Suối Mơ- Khoang
Xanh
5.5 km
Tổng Cộng 98.8 km
* Đường thuỷ:
Được bao bọc bởi các sông lớn là sông Đà và sông Hồng tuyến vận tải thuỷ ở đây
tương đối thuận tiện Cảng sông Sơn Tây có công suất 15- 20 vạn tấn/ năm và có khả năng
tiếp nhận tàu 300- 400 tấn. Trên các sông còn có một số cảng nhỏ phục vụ cho việc vận
chuyển khách và vật liệu xây dựng.
* Thông tin liên lạc:
Mạng lưới thông tin trong vùng tương đối hoàn thiện với 4 tổng đài vệ tinh Ba Vì,
Tây Đằng, Tản Lĩnh, Sơn Đà. Tại Hoà Lạc và Sơn Tây, Ba Vì có thông tin di động của
mạng Vinaphone.
* Hệ thống cung cấp nước:
Khu vực thị xã Sơn Tây và Ba Vì có trữ lượng nguồn nước ngầm không đáng kể,
dân cư và các điểm du lịch ở đây sử dụng trực tiếp hay xử lý tại chỗ nguồn nước từ hồ,
sông suối là chủ yếu. Riêng thị xã Sơn Tây có hệ thống cung cấp nước sạch cho người dân
trong khu vực nội thị và khách du lịch, số còn lại phải dùng nguồn nước giếng đào hoặc
giếng khoan. Việc cung cấp nước nhìn chung giải quyết cục bộ. Chính vì vậy, việc thoát
nước cho các khu du lịch cần lưu tâm và khắt khe để bảo vệ môi trường nước của các khu
du lịch.
Hệ thống hồ Đồng MT- Ngải Sơn và Suối Hai được xây dựng đủ cung cấp nước
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp toàn vùng thị xã Sơn Tây và Ba Vì góp phần đem lại
hiệu quả kinh tế cao, đồng thời tạo ra nhiều cảnh quan du lịch hấp dẫn.
Với mục tiêu cơ bản của quốc gia về nước sạch, thị xã Sơn Tây và Ba Vì đã và đang
cố gắng xây dựng thêm các trạm cung cấp muối sạch tại trung tâm huỵên, thị xã, đồng thời
đưa mô hình giếng khoan có bể lọc vào hầu hết các vùng ở nông thôn. Điều đó không chỉ
có ý nghĩa đối với đời sống của người dân mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du
lịch của vùng.
* Mạng lưới điện:
Khu vực thị xã Sơn Tây- Ba Vì sử dụng mạng lưới điện quốc gia do thuỷ điện Sng
Đà cung cấp. Trạm điện 110/35/10 KV- 2X16 MVA của thị xã Sơn Tây đã cung cấp điện
cho toàn bộ thị xã Sơn Tây, huyện Ba Vì và một phần của huyện Phúc Thọ. Hiện nay,
100% số xã trong khu vực đã có điện sinh hoạt và sản xuất kinh doanh. Nhìn chung cơ sở
hạ tầng về điện vẫn còn nhiều khiếm khuyết, các trạm biến thế còn ít, công suất thiết kế
thấp, đường dây truyền tải điện đã sử dụng trong thời gian dài...
Vấn đề đáng quan tâm là đảm bảo an toàn điện năng trong khu vực, đặc biệt là
trong mùa mưa bão. Vì vậy cần có những chính sách cải tạo nâng cấp và xây dựng mới
mạng điện trong vùng để có thể đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng điện của nhân dân trong vùng
và phục vụ cho mục đích phát triển du lịch.
Đối với các khu du lịch nhu cầu dùng điện đòi hỏi rất cao bởi hai lý do:
Đã đi du lịch thì nhu cầu điện nước cho người sử dụng là rất quan trọng đặc
biệt là khách quốc tế.
Khi làm du lịch nhu cầu về điện để làm cho thiên nhiên phong phú hơn, lung
linh hơn, đẹp hơn, nhất là muốn kinh doanh du lịch tốt cần kéo dài thời gian
của du khách, giữ du khách lại lưu trụ mà thời gian về đêm chiếm 50% thời
gian cả ngày. Việc làm lộng lẫy các khu du lịch về đêm là bức thiết.
* Thoát nước bẩn và vệ sinh môi trường:
Hiện nay trên tất cả các khu du lịch đều là hệ thống chảy chung. Nứơc thải ở trong
khu vực đều chảy vào các cống thoát nước mưa rồi thải ra suối, hồ, sông ở lân cận. Một số
khu du lịch có diện tích lòng hồ hẹp thì nước thải được thải ra cuối nguồn (Khoang Xanh)
nhưng đa số đều đổ vào các hồ (Suối Hai, Đồng Mô). Tại khu vực khác dường như chưa
đặt vấn đề thoát nước thải và vệ sinh môi trường một cách nghiêm túc. Tất cả còn rất tuỳ
tiện.
Vấn đề rác thải cũng luôn là một vấn đề bức bách trên tất cả các địa điểm có du lịch
tại tỉnh Hà Tây. Một số nơi có điều kiện thuận tiện thì đưa đến bãi rác chung của đô thị.
Còn nói chung đều tìm cách đổ vào những thung lũng hoặc chôn lấp tại chỗ.
Rõ ràng để phát triển du lịch trên toàn tỉnh cần phải có một buớc giải quyết cốt lõi
về những vấn đề này. Nếu không giải quyết hẳn sẽ có những trường hợp xảy ra khôn lường
và khi đó khu du lịch Hà Tây sẽ lập tức bị giảm thiểu về kinh doanh.
2.3.3. Các nguồn lực về lao động trong du lịch
Số lao động trong ngành du lịch của tỉnh rất ít. Thu nhập của người lao động trong
các công ty du lịch còn thấp, trung bình một người trong 1 tháng có thu nhập là 500 nghìn
đồng.
* Số lượng:
Số lượng đội ngũ lao động ngành du lịch tỉnh Hà Tây trong thời gian có sự gia tăng
lớn. Tuy nhiên với đặc điểm của du lịch Hà Tây lại không thu hút được khách lưu trú
nhiều, mặt khác khách đi trong ngày đông và lại tập trung vào một số thời điểm lễ hội, các
tháng hè nên số lượng lao động để phục vụ cũng khác so với các điểm du lịch khác, ít lao
động trong khách sạn nhà hàng hơn, nhiều lao động gián tiếp hơn. Số lượng tham gia phục
vụ khách, tham gia trong quá trình vận chuyển và bán hàng hoá, phục vụ khách là rất lớn
và không thống kê được.
Tổng số lao động trong ngành du lịch ở Sơn Tây- Ba Vì chiếm khoảng 37,8% so
với tổng số lao động của ngành trong tỉnh. Năm 1996 Sơn Tây- Ba Vì có 272 lao động
trong ngành du lịch. Đến năm 2000 khu vực có 480 lao động trực tiếp chiếm khoảng 40%
số lao động toàn tỉnh. Hiện nay, lao động trực tiếp ở khu vực Sơn Tây- Ba Vì là khoảng 430
lao động gián tiếp là 950 người.
* Chất lượng lao động:
Đội ngũ tham gia phục vụ khách du lịch trong quá trình tham quan tại các điểm di
lịch không chỉ có chức năng phục vụ và tạo các thuận lợi cho khách sử dụng các dịch vụ
du lịch mà còn góp phần tham gia vào các sản phẩm du lịch, góp phần tạo nên hình ảnh
của sản phẩm du lịch. Trong các sản phẩm khách sạn hoặc lữ hành nhân viên phục vụ
khách sạn hoặc hướng dẫn viên du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ khách
cũng như làm cho khách nhớ tới điểm du lịch cũng một phần là nhờ vào họ. Như vậy, đánh
gía chất lượng đội ngũ lao động là chỉ tiêu quan trọng trong việc nghiên cứu hiện trạng
phát triển du lịch của địa bàn.
Với số lượng lao động được thống kê tại Sở Du Lịch Hà Tây chủ yếu bao gồm các
lực lượng lao động thuộc các ngành, thành phần kinh tế, các công ty do Sở quản lý.
Chỉ tiêu
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
1. Tổng số lao động 1.400 1.650 1.800 2000 2.200
2 .Đại học 223 280 300 330 350
Tỷ trọng % 15.9 16.9 16.7 16.5 15.9
3. Nghiệp vụ du lịch 1089 1.232 1.250 1.350 1.500
Tỷ trọng % 77.8 74.7 69.4 67.5 68.2
4. Lao động phổ thông 88 138 250 320 350
Tỷ trọng % 6.3 8.4 13.9 16.0 15.9
5. Biết ngoại ngữ 725 907 1.200 1.950 1.500
Tỷ trọng % 51.8 54.9 66.7 67.5 68.2
Đơn vị: Người.
Đội ngũ lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tây khá đông và ngày một gia tăng số lượng.
Tuy nhiên số lượng lao động có trình độ đại học còn chiếm tỉ lệ thấp và có mức tăng
không đáng kể: Năm 2001 chiếm 15.9% đến năm số lao động trên địa bàn chủ yếu là lao
động chỉ mới qua nghiệp vụ sơ cấp về du lịch, chiếm 2/3 trong tổng số lao động của tỉnh.
Số lao động có trình độ ngoại ngữ giỏi chưa nhiều, chủ yếu là có trình độ A.
Sở du lịch đã tổ chức nhiều hình thức đào tạo tại chỗ cũng như cử đi học nhiều khoá
nghiệp vụ nên về cơ bản chất lượng đội ngũ lao động chính thức trong ngành về cơ bản là
tương đối tốt. Với tính thời vụ cao khách tập trung chủ yếu vào một số thời gian trong
năm, lao động thời vụ đựơc tăng cường tại chỗ và toàn bộ sản phẩm được hình thành ngay
trong quá trình đó, như vậy việc quản lý chất lượng lao động cũng như chất lượng sản phẩm là
rất khó khăn.
Hà Tây có vị trí tiếp giáp với Hà Nội là nơi có nhiều trường Đại học, trung cấp
nghiệp vụ du lịch nên có nhiều điều kiện trong việc tổ chức đào tạo, nâng cấp chất lượng
đội ngũ lao động. Cần có những hình thức đào tạo nhân rộng, để có cách tiếp cận cho
những đối tượng lao động gián tiếp với nghiệp vụ chuyên môn du lịch. Nhiều nơi trên thế
giới, những nơi có sự tham gia của cộng đồng địa phương và các thành phần lao động gián
tiếp vào hoạt động du lịch đã có nhiều hình thức đào tạo khác nhau, cần thiết thậm chí cả
các chương trình giáo dục cộng đồng về văn hóa ứng xử như hiệu quả từ hoạt động du lịch
trong sự cân bằng phát triển bền vững.
2.4. Thực trạng, chính sách Marketing- Mix nhằm thu hút khách đến du lịch
cuối tuần ở Sơn Tây- Ba Vì:
2.4.1. Thực trạng khai thác phát triển trong vùng du lịch cuối tuần Sơn Tây - Ba
Vì:
* Thực trạng khách du lịch:
Trong những năm gần đây, cùng với sự gia tăng nhanh của dòng khách du lịch quốc
tế đến Việt Nam, dòng khách quốc tế đến Hà Tây nói chung và cụm du lịch Sơn Tây- Ba
Vì nói riêng cũng tăng đáng kể. Theo số hiệu thống kê năm 2001 toàn tỉnh đón được
89.115 lượt khách quốc tế năm 2004 là 100.000 lượt khách. Tốc độ tăng trung bình của
khách quốc tế trong giai đoạn 2001-2004 là 5.3%. Khách nội địa cũng có sự gia tăng
nhanh chóng, năm 2001 tổng số khách nội địa của Hà Tây là 1.459.132 lượt khách, đến
năm 2004 là 2.270.000 lượt khách gấp gần 1.6 lần so với năm 2001 khách nội địa trung
bình hàng năm là 15.9% trong giai đoạn 2001-2004.
Bảng 5: Lượng khách du lịch của Hà Tây giai đoạn 2001-2004
và kế hoạch của năm tiếp theo.
Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004
Tỉ lệ tăng
BQ từ
01-04%
Mốc thực
hiện 2005
Tổng số
khách
Lựơt
khách
1.548.247 1.764.926 2.027.904 2.370.000 15.3 2.600.000
Khách
quốc tế
Lựơt
khách
89.115 98.923 81.760 100.000 5.3 130.000
Khách
nội địa
Lựơt
khách
1.459.132 1.666.003 1.945.982 2.270.000 15.9 2470.000
Nguồn: Sở Du Lịch Hà Tây.
Khách nội địa chiếm 5-6% tổng số khách đến Hà Tây. Mặc dù tỉ lệ này có tăng liên
tục trong thời gian qua, nhưng với con số thực tế này cho thấy vấn đề phát triển thị trường
khách quốc tế ở Hà Tây còn chưa tương xứng với các tiềm năng du lịch. Khách quốc tế
thường có khả năng chi trả cao, có ý thức trách nhiệm trong tham quan du lịch, có nhu cầu
lớn và tham gia nhiều hoạt động trong chuyến du lịch như vậy cần có những biện pháp tích
cực để tăng số khách thuộc thị trường này. Trong tổng số khách du lịch đến Hà Tây hàng
năm thì khách nội địa chiếm hơn 90%, các tài nguyên du lịch thiện nhiên cũng như văn
hoá lịch sử tại Hà Tây rất hấp dẫn đối với thị trường khách du lịch như Ba Vì, Khoang
Xanh, Suối Tiên, Ao Vua, Chùa Hương.
Khách du lịch đến Sơn Tây- Ba Vì chủ yếu là khách nội địa thường tập chung ở Ba
Vì, Ao Vua, Suối Hai, Đồng Mô... thăm quan phong cảnh, leo núi, tắm suối và ít ngủ qua
đêm. Ngày lưu trú trung bình của khách nội địa là 0.5 ngày, của khách quốc tế là 0.4 ngày.
Hàng năm khách du lịch đến Sơn Tây- Ba Vì chiếm hơn 40% lượng khách đến Hà Tây.
Bảng 6: Khách du lịch đến Sơn Tây- Ba Vì (2001-2004)
Địa
điểm
2001 2002 2003 2004
QT Nội địa QT Nội địa QT Nội địa QT Nội địa
Sơn
Tây-
Ba Vì
27.986 496.547 34.142 595.856 28.337 744.820 40.186 931.025
Hà Tây
89.115 1.459.132 98.922 1666.003 81.760
1.945.98
2
100.00
0
2.270.000
Đơn vị: Lượt khách
Nguồn: Sở Du Lịch Hà Tây.
* Thực trạng doanh thu du lịch:
Doanh thu của cụm du lịch Sơn Tây- Ba Vì chiếm khoảng 35% toàn tỉnh. Trong đó
doanh thu khách quố tế chiếm gần 4% của tổng doanh thu du lịch của tỉnh Hà Tây, còn lại
là doanh thu du lịch nội địa.
Doanh thu từ lưu trú của Sơn Tây- Ba Vì trung bình chiếm khoảng 34,2% so với
tổng doanh thu, doanh thu từ ăn uống chiếm 38,2% còn lại là doanh thu từ các dịch vụ
khác.
Bảng 7: Kết quả doanh thu từ du lịch Sơn Tây- Ba Vì
2001-2004
Đơn vị: Triệu đồng.
Địa
điểm
2001 2002 2003 2004
Doanh
Thu
Tỉ lệ %
Doanh
Thu
Tỉ lệ
%
Doanh
Thu
Tỉ lệ %
Doanh
Thu
Tỉ lệ %
Sơn Tây-
Ba Vì
39.473 24.2 47.367 26.3 61.577 29.8 95.917 34.3
Hà Tây 162.820 100 180.280 100 206.542 100 280.000 100
Nguồn Sở Du Lịch Hà Tây
Do luồng khách đến Hà Tây hạn chế, thời gian lưu trú quá ngắn nên doanh thu từ du
lịch của tỉnh và đặc biệt là của Sơn Tây- Ba Vì còn nhiều hạn chế. Doanh thu bao gồm các
khoản khách chi trả trong thời gian lưu trú tại điểm du lịch bao gồm các khoản lưu trú, ăn
uống, mua sắm, vui chơi, giải trí, cũng như các dịch vụ khác.
Doanh thu từ du lịch Hà Tây cũng như nhiều điểm du lịch khác được thống kê là
doanh thu xã hội từ hoạt động du lịch. Hà Tây là tỉnh có nhiều loại hình và hoạt động du
lịch khác nhau, khó quản lý và cũng khó thống kê nhiều thành phần tham gia kinh doanh
du lịch. Thu nhập từ du lịch thuần tuý khó xác định, chỉ tiêu cần tổng hợp là tổng thu xã
hội từ hoạt động du lịch, những khoản thu nhập cho ngành, xã hội do hoạt động du lịch
mang lại.
Hiện tại, khách du lịch đến Sơn Tây- Ba Vì lưu trú ít, khách thường đi trong ngày
không sử dụng các dịch vụ lưu trú, thậm chí các dịch vụ ăn uống do các đối tượng là khách
sinh viên, học sinh, cũng như những đoàn khách đoàn thể, cơ quan, người già... Đây là
những đối tượng có khả năng chi trả thấp, họ tham gia khai thác tài nguyên mà không có
nhiều đóng góp cho ngành du lịch. Nếu như vị trí địa lý của tỉnh cũng như loại tài nguyên
du lịch của tỉnh phù hợp với việc hình thành các nhóm khách thì cần có các định hướng
cho họ tham gia thêm vào một số loại hình du lịch dịch vụ khác để giảm bớt số lượng
khách du lịch đại trà và có chiến lược thu hút khách trọng tâm hơn.
Như vậy, cùng với các biện pháp gia tăng doanh thu cần thiết phải có các điều chỉnh
hợp lý, phù hợp với thị hiếu của thị trường. Khoảng cách địa lý của tỉnh không tạo điều
kiện để phát triển dịch vụ lưu trú nhưng lại phù hợp để thu hút khách nghỉ trưa, ăn trưa. Vì
vậy, cần có định hướng phát triển sản phẩm ẩm thực địa phương phù hợp với thời gian tổ
chức tour, tuyến du lịch, phù hợp với thị hiếu và khả năng của thị trường khách chính.
Chương III:
Một số giải pháp Marketing - Mix
nhằm thu hút khách du lịch cuối tuần
ở thị xã Sơn Tây và Ba Vì.
3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp.
3.1.1. Quan điểm phát triển.
- Phát triển du lịch phải gắn với việc bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội.
Quan điểm trên cần được quán triệt trong việc đưa ra các định hướng chiến lược,
trong đề xuất các giải pháp về tổ chức quản lý phát triển du lịch, trong tổ chức quy hoạch
không gian du lịch trong việc phân tích thị trường định hướng tiếp thị, xúc tiến và tuyên
truyền quảng bá.
Trước những biến động phức tạp của thế giới hay như tình hình Tây Nguyên bất ổn
chính trị ở trong nước, thì việc phát triển du lịch Hà Tây nói riêng, cả nước nói chung càng
phải gắn với việc đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
- Quan điểm phát triển du lịch bền vững về môi trường tự nhiên và văn hoá xã hội.
Quy hoạch du lịch phải gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái và văn hoá, từ đó
lập ra các kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp với việc tôn tạo, khai thác các tài sản thiên
nhiên, nhân văn sao cho môi trường cảnh quan thiên nhiên và các khu thắng cảnh, khu bảo
tồn văn hoá, di sản không những bị xâm hại mà còn được bảo tồn và phát huy giá trị tốt
hơn. Đặc biệt là đối với hệ sinh thái rừng, những danh thắng quan trọng và các quần thể di
tích lịch sử...
Vừa qua dịch viêm đường hô hấp SARS xuất hiện trên thế giới trong đó có Việt
Nam và đến bây giờ lại là dịch cúm (H5N1) đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế thế
giới đặc biệt là du lịch. Đối với Việt Nam, nhưng đợt dịch vừa qua đã làm nhiều đoàn
khách quốc tế huỷ các chuyến du lịch đến Việt Nam gây ảnh hưởng tiêu cực đến du lịch
Việt Nam. Vì vậy quy hoạch du lịch phải gắn với việc bảo vệ môi trường xã hội trong
sạch. Cần có biện pháp tổ chức quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực
từ các hoạt động du lịch mang lại đối với môi trường văn hoá xã hội của địa phương.
- Phát triển du lịch phải tạo sự liên hoàn và nối kết với các tỉnh lân cận để cùng phát
triển.
Phát triển du lịch Hà Tây phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh và phải được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với du lịch các tỉnh lân cận để có được
nguồn khách thường xuyên và ổn định. Trong thời gian qua nguồn khách chủ yếu của dủ
lịch Hà Tây vẫn là các nguồn khách từ các thị trường truyền thống cho nên kết hợp chặt
chẽ với du lịch các tỉnh thuộc vùng du lịch Bắc Bộ là thật sự cần thiết.
- Phát triển du lịch phải dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành:
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, để phát triển được cần có sự phối hợp đồng
bộ của nhiều ngành như nông nghiệp; giao thông , công nghiệp, bưu chính viễn thông,
điện... do đó cần phải có nhận thức đúng đắn về phát triển du lịch trong tất cả các cấp, các
ngành, mỗi người dân Hà Tây. Có như thế mới thúc đẩy được du lịch Hà Tây, phát triển và
đạt được những mục tiêu đề ra.
3.1.2. Định hướng phát triển.
- Định hướng chung
Để khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch cuối tuần ở Hà Tây, để Hà Tây nơi cận kề thị
trường khách du lịch cuối tuần Hà Nội thực sự thành điểm du lịch cuối tuần của người dân
Hà Nội, cần phải tính tới định hướng phát triển sao cho du lịch cuối tuần thành một thế
mạnh của Hà Tây để Hà Nội là thị trường khách chính của du lịch cuối tuần Hà Tây. Định
hướng ấy gắn kết các ngành, các lĩnh vực kinh tế- xã hội - văn hoá để xây dựng một hệ
thống các dịch vụ du lịch phù hợp với nhu câu của khách du lịch cuối tuần. Định hướng ấy
vừa khai thác tiềm năng sẵn có của Hà Tây cho du lịch, vừa thúc đẩy các ngành, các lĩnh
vực khác của địa phương phát triển. Thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo nâng dần
đời sống vật chất và tinh thần của mọi t ầng lớp nhân dân lao động. Căn cứ vào tiềm năng,
quy hoạch chiến lược phát triển du lịch Hà Tây xác định rõ thế mạnh của ba cụm, khu du
lịch trọng điểm: Hương Sơn - Quan Sơn, Suối Hai- Ba Vì, Hà Đông và phụ cận. Quy
hoạch khu du lịch Hương Sơn và Suối Hai núi Ba Vì đã được chỉnh phủ công nhận là khu
du lịch chuyên đề quốc gia.
Tổ chức hoạt động du lịch phải gắn liền với tổ chức quản lý, đảm bảo an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội, phát huy truyền thống văn hoá, giữ gìn bản sắc dân tộc, đảm bảo
môi trường sinh thái để phát triển bền vững du lịch Sơn Tây - Ba Vì.
3.1.3. Định hướng tổ chức không gian du lịch.
- Định hướng phát triển không gian.
Không gian du lịch Sơ Tây - Ba Vì được lồng trong không gian phát triển kinh tế xã
hội chung của khu vực đã được xác định trong chiến lược phát triển chuỗi đô thị Xuân Mai
- Hoà Lạc. Ngoài ra, không gian này cũng phù hợp với tổ chức không gian du lịch trong
quy hoạch tổng thể phát triển trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận, quy hoạch tổng thể
phát triển vùng du lịch Bắc Bộ thời kỳ 1996-2010. Như vậy, tổ chức không gian du lịch
của khu vực đảm bảo cho việc khai thác tối đa các tiềm năng du lịch, những lợi thế về vị
trí của khu vực cũng như tổ chức các tuyến điểm du lịch.
- Các cụm, điểm du lịch.
+ Khu du lịch chuyên đề quốc gia Hồ Suối Hai - Núi Ba Vì.
Gồm Hồ Suối Hai, với các điểm du lịch bãi tắm Thuỵ An, khu Đá Chông (K9),
trung tâm khai thác nước khoáng Tản Viên, nước kháng Thuần Mỹ và hồ Đằm Long, vườn
Quốc gia Ba Vì, khu du lịch Ao Vua, khu du lịch Thiên Sơ - Suối Ngà, Khoang Xanh, Từ
cốt 100-400, đỉnh Vua (1296m), Đền Thượng, đỉnh Tản Viên ( 1226m), Đền Trung, Đền
Hạ, núi Chẹ, Hồ Tôm, đỉnh Hang Hùm, đỉnh Ngọc Hoa (1120m), đặc biệt có xóm sổ dân
tộc Dao với khoảng 85hộ dân và các danh thắng khắc trong khu vực Ba Vì.
+ Khu du lịch Hoà Lạc, làng văn hoá các dân tộc và Hồ Đồng Mô
Gồm Hồ Đồng Mô với các điểm du lịch đảo Mỏ, Đảo Xanh, Sân golf 18 hỗ, làng
văn hoá các dân tộc Việt Nam, làng Đại Học, Khu công nghệ cao Hoà Lạc.
+.Khu di tích lịch sử, văn hoá.
Bao gồm thị xã Sơn Tây có thành cổ Sơn Tây, Làng Ngô Quyền, Phùng Hưng,
Chùa Mía, đèn Và nhà thờ Sơn Lộc và trại giam Xã Tắ, làng Cổ Đường Lâm và các điểm
du lịch phụ cận.
- Các tuyến du lịch.
Các tuyến du lịch chính trong cụm Sơn Tây- Ba Vì được xác định theo trục các
quốc lộ 21, 32 và trục láng - Hoà Lạc cho phép nối các khu du lịch trong cụm. Đây sẽ là
những tuyến du lịch tổng hợp cho phép du khách đến được hầu hết các điểm du lịch chính
trong vường Quốc Gia Ba Vì, khu du lịch Ao Vua, các đền thờ trên núi Ba Vì, các làng
dân tộc, hồ Suối Hai thành cỡ Sơn Tây, Hồ Đồng Mô, Sân golf, làng văn hoá các dân tộc
Việt Nam... Trong tương lai khu đô thị Hoà Lạc hình thành và phát triển đây sẽ là trung
tâm chính của du lịch Sơn Tây - Ba Vì. Như vậy đây cũng là trung tâm phân phối khách
chính của khu vực theo các trục quốc lộ 21 ( Xuân Mai - Sơn Tây) và trục quốc lộ 32 ( Sơn
Tây - Ba Vì - Suối Hai) để đến các cụm điểm du lịch trong khu vực.
Trong phạm vi không gian cụm du lịch Sơn Tây - Ba Vì có thể tổ chức các tuyến du
lịch chuyên đề.
- Du lịch văn hoá: Hoà Lạc - Đồng Mô - Sơn Tây - Ba Vì với các đối tượng du lịch
như làng văn hoá các dân tộc Việt Nam, thành cỡ Sơn Tây, Chùa Mía, Đền và Đền thượng
(Ba Vì), các làng dân tộc Dao...
- Du lịch sinh thái: Hoà Lạc - Đồng Mô - Ba Vì - Suối Hai với các dân tộc du lịch là
sinh thái hồ Đồng Mô, vườn Quốc gia Ba Vì, vườn cò Ngọc Nhị...
- Du lịch thể thao: Hoà Lạc - Đồng Mô - Ba Vì - Suối Hai với các hoạt động thể
thao chơi golf, leo núi, đua ngựa, chèo thuyền, bơi lội...
- Du lịch hành hương - lễ hội: Hoà Lạc - Đồng Mô - Ba Vì với các hoạt động lễ hội
đền và đền thượng.
- Du lịch bằng tuyến cáp treo từ núi Ba Vì xuống Hồ Đồng Mô và từ núi Ba Vì
xuống hồ Suối Hai.
Các tuyến du lịch liên vùng quan trọng đối với phát triển du lịch Sơn Tây - Ba Vì.
Ngoài ra tuyến du lịch Hoà Lạc - Hoà Bình- Mộc Châu - Sơn La- Lai Châu theo tuyến
quốc lộ 6 cũng có vai trò quan trọng cho phép khai thác các sản phẩm du lịch đặc sắc của
tuyến du lịch Tây Bắc, một trong những tuyến du lịch hấp dẫn có ý nghĩa quốc gia và quốc
tế những năm 2000.
Với lợi thế về giao thông, vị trí gần thủ đô Hà Nội, cụm du lịch Sơn Tây - Ba Vì có
đầy đủ các yếu tố để phát triển thành một cụm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải
trí lớn nhất vùng du lịch Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói chung, có ý nghĩa quốc gia, quốc
tế. Phát triển khu du lịch sẽ đem lại nhiều lợi ích to lớn về mặt kinh tế - xã hội - văn hoá
cho khu vực và cho cả vùng du lịch Bắc Bộ nói chung trong đó có ích lợi to lớn với thủ đô
Hà Nội.
3.1.4. Những đề xuất để nâng cao chính sách thu hút khách du lịch.
- Đề xuất tổ chức các loại hình kinh doanh du lịch.
Điều chỉnh và tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước về du lịch theo hướng công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
- Chỉ giữ lại và tập trung đầu tư cho một số doanh nghiệp Nhà nước về du lịch có đủ
điều kiện, tiềm năng về cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo ra những sản phẩm du lịch cao cấp
có khả năng cạnh tranh, phát triển và vươn ra thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
- Tiến hành hợp nhất và cổ phần hoá một số doanh nghiệp, khách sạn Nhà nước làm
ăn kém hiệu quả để tạo nguồn vốn xây dựng, nâng cấp các cơ sở du lịch.
- Chỉ ưu tiên vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án du lịch có quy mô lớn đòi hỏi
trình độ quản lý kinh doanh những sản phẩm du lịch cao cấp các loại hình du lịch mới hấp
dẫn. Vì vậy việc tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước cần được thực hiện sao cho có
được những doanh nghiệp có đủ điều kiện và trình độ quản lý để tham gia các liên doanh
nước ngoài. Còn các dự án quy mô nhỏ có thể được thực hiện thông qua liên doanh với các
tổ chức doanh nghiệp trong nước, trên địa bàn tỉnh hoặc các tỉnh khác.
- Khuyến khích các thành phầ kinh tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư
vào các khu vui chơi, giải trí, thể thao, nghỉ dưỡng mà hiện nay chưa có điều kiện phát
triển trên địa bàn tỉnh, nhằm tạo r a các sản phẩm du lịch đa dạng để thu hút khách.
Đề xuất tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch.
Sở Du lịch thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với tất cả các đối tượng thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trong lĩnh vực du lịch va dịch vụ trên địa bàn
tỉnh.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật, các quy định của Tổng cục Du lịch, của UBNN
tỉnh và các ngành có liên quan, Sở Du lịch soạn thảo các hướng dẫn cụ thể về thể lệ, tiêu
chuẩn... đối với từng đối tượng quản lý, đối với từng loại hình hoạt động. Các văn bản
soạn thảo sau khi đượ UBNN tỉnh phê duyệt sẽ được phổ biến rộng rãi tới các ban ngành
và đối tượng hoạt động trong lĩnh vực du lịch để thực hiện. Sở du lịch sẽ tiến hành thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước theo chuyên ngành trên cơ sở các văn bản cụ thể đó.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá
cao, do đó cần có sự thống nhất phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cấp, ban, ngành
của tỉnh với Sở Du lịch để đảm bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch có
hiệu quả, ngăn ngừa được những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, đến đạo đức và nếp sống lành mạnh của người dân địa phương. Mô hình ban
chỉ đạo phát triển du lịch với sự tham gia của các cơ quan chức năng dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của UBNN tỉnh cần được duy trì và nâng cao hiệu quả.
- Đề xuất phát triển các loại hình du lịch.
Căn cứ vào tiềm năng tài nguyên du lịch và các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật
trên địa bàn lãnh thổ Sơn Tây - Ba Vì, những loại hình du lịch chủ yếu của Sơn Tây - Ba
Vì có thể tổ chức được gồm:
- Du lịch nghỉ dưỡng núi, hồ.
- Du lịch tham quan, nghiên cứu
- Du lịch sinh thái
- Du lịch thể thao, mạo hiểm.
- Du lịch văn hoá, lịch sử.
Để tổ chức tốt các loại hình du lịch trên thì ta cần phải:
+ Chú trọng đầu tư, khắc phục những hạn chế về tài nguyên để mở rộng quy mô và
nâng cao tính hấp dẫn của các loại hình du lịch chủ yếu hiện có của vùng.
+ Có biện pháp bảo vệ, làm phong phú hơn hệ sinh thái các rừng nguyên sinh, rừng
cảnh quan, rừng đầu nguồn, biến những điểm này thành những điểm du lịch sinh thái hấp
dẫn của tỉnh.
+ Tôn tạo, nâng cấp các điểm tham quan, khu vui chơi, giải trí hiện có trên địa bàn
tỉnh và đầu tư xây dựng mới một số điểm vui chơi giải trí lớn của tỉnh đáp ứng nhu cầu vui
chơi giải trí cuối tuần của khách du lịch cũng như người dân địa phương.
+ Tiếp tục đầu tư bảo vệ tôn t ạo và nâng cấp các di tích lịch sử- văn hoá trên địa
bàn tỉnh để phát triển hơn nữa loại hình du lịch tham quan nghiên cứu.
Việc kết hợp thực hiện các giải pháp cơ bản trên sẽ cho phép phát triển phong phú
các loại hình du lịch cuối tuần của Sơn Tây - Ba Vì.
- Đề xuất về đa dạng hoá các sản phẩm du lịch
Khu vực Sơn Tây - Ba Vì có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch
cuối tuần. Tuy nhiên, sản phẩm du lịch của vùng còn đơn điều chưa tương xứng với tiềm
năng của vùng. Để khắc phục những hạn chế đó cần có những định hướng nhằm đa dạng
hoá các sản phẩm du lịch và nâng cao chất lượng các sản phẩm đó. Cụ thể là:
- Kiến nghị:
- Tiến hành điều tra đánh giá về hiện trạng ( số lượng và chất lượng) các sản phẩm
du lịch chính của Sơn Tây - Ba Vì và những tiềm năng còn chưa được khai thác. Kết quả
khảo sát sẽ làm cơ sở cho việc xây dựng một Kế hoạch có tính khả thi cao để tạo ra những
sản phẩm du lịch của các địa phương khác.
- Cần tiến hành nhanh chóng việc đánh giá phân loại khách sạn và hệ thống du lịch
tiêu chuẩn quốc tế và có những quy định chặt chẽ về tiện nghi và chất lượng phục vụ trong
hệ thống khách sạn, nhà hàng. Cần tiến hành kiểm tra thường xuyên để đảm bảo chất
lượng các sản phẩm du lịch không bị xuống cấp. Trong các khách sạn, nhà hàng cần
khuyến khích mở rộng nhiều loại hình du lịch bổ sung để tạo ra những sản phẩm đa dạng
và hấp dẫn hơn các sản phẩm du lịch trong lĩnh vực này.
- Khuyến khích việc đầu tư nâng cấp mở rộng với nhiều loại hình vui chơi hơn ở
các điểm vui chơi giải trí và xây dựng thêm các điểm vui chơi giải trí mới của tỉnh. ở mỗi
điểm vui chơi giải trí, cần nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm độc đáo có bản sắc riêng,
tránh sự trùng lặp trong thiết kế các hình thức vui chơi giải trí. Đây sẽ là một trong những
yếu tố quan trọng để kéo dài ngày lưu trú của khách du lịch trên địa bàn Sơn Tây - Ba Vì.
- Tiến hành quy hoạch một số điểm trình diễn văn nghệ, ca múa nhạc dân tộc với
những chương trình biểu diễn độc đáo, mang đậm tính nghệ thuật và dân tộc cao. Điều này
sẽ hấp dẫn và thu hút một lượng khách không nhỏ.
- Tiến hành phân loại, hệ thống hoá và tổ chức chu đáo các lễ hội truyền thống trên
địa bàn tỉnh để có thể phục vụ khách du lịch và có chính sách xúc tiến, quảng bá đối với
loại sản phẩm này.
- Khuyến khích mở các điểm trưng bày và bán sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ,
hàng lưu niệm có chất lượng cao, giá cả hợp lý trên địa bàn tỉnh. Nên có những quy định
đối với các cơ sở tư nhân buôn bán các loại hàng này cho khách du lịch.
- Cần tiến hành hợp tác chặt chẽ với các địa phương khác, để tạo nhiều sản phẩm du
lịch có chất lượng cao thông qua các điểm, tuyến du lịch liên vùng. Cần có sự thống nhất
về giá cả, tình trạng cạnh tranh gây phiền hà cho khách.
- Đề xuất về đào tạo nguồn nhân lực.
Chất lượng đội ngũ nhân viên của du lịch Sơn Tây - Ba Vì chưa tương xứng với yêu
cầu phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập ASEAN, AFTA và đang chuẩn bị ra
nhập WTO, du lịch Việt Nam đang vươn tới hội nhập với du lịch khu vực và quốc tế, đòi
hỏi đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngành phải có trình độ cao đáp ứng được chuẩn mục
của quốc gia và quốc tế. Vì vậy - Sở Du lịch Hà Tây đã đề ra những định hướng sau:
- Điều tra phân loại trình độ nghiệp vụ của toàn thể cán bộ nhân viên và lao động
hiện đang làm việc trong ngành du lịch của tỉnh để từ đó đưa ra Kế hoạch đào tạo cụ thể
các cấp trình độ chuyên ngành.
- Tiến hành thực hiện chương trình đào tạo lại (đào tạo bổ túc và tại chức) lao động
trong ngành khai thác. Các lớp đào tạo ngắn hạn theo chương trình trên sẽ được tổ chức
định kỳ phục vụ mọi dân tộc doanh nghiệp du lịch của tỉnh.
- Có Kế hoạch cử các cán bộ trẻ đi đào tạo ở trình độ đại học và trên đại học về
nghiệp vụ du lịch ở trong nước và nước ngoài. Đây là lực lượng cán bộ quản lý nòng cốt
quan trọng vào sự nghiệp đổi mới theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá ngành du
lịch của Hà Tây.
- Tăng cường hợp tác trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ thông qua các chuyến công
tác, khảo sát và tham gia hội nghị, hội thảo khoa học ở các nước có ngành du lịch phát
triển.
- Xây dựng và xúc tiến một chương trình đặc biệt nhằm nâng cao hiểu biết về du
lịch, các ứng xử đối với khách và bảo vệ môi trường du lịch cho nhân dân ở khu vực Sơn
Tây - Ba Vì, cho các địa bàn có điểm tham quan du lịch thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng ở các trường phổ thông, trường chuyên nghiệp...
- Đề xuất về tiếp thị và xúc tiến tuyên truyền quảng cáo.
Trong thời gian qua công tác tiếp thị và xúc tiến tuyên truyền quảng cáo du lịch của
Sơn T ây - Ba Vì còn nhiều hạn chế do thiếu kinh phí và đội ngũ cán bộ nên hiệu quả còn
chưa cao. Hiện nay, khách du lịch Sơn Tây - Ba Vì thiếu thông tin về du lịch của tỉnh. Các
nguồn thông tin chính thức được phát hành chưa được phong phú. Những thông tin chính
thức qua kinh nghiệm và truyền khẩu của khách là những nguồn thông tin chính để khách
du lịch biết được và đến Sơn Tây - Ba Vì. Những định hướng lớn đối với công tác này bao
gồm.
- Biên soạn và phát hành những ấn phẩm có chất lượng và thông tin chính thức về
du lịch Sơn T ây - Ba Vì, để giới thiệu với khách du lịch về con người và cảnh quan, tài
nguyên du lịch "Sơn Tây - Ba Vì, những thông tin cần thiết cho khách như các điểm lưu
trú, hệ thống các điểm tham quan du lịch, các nhà hàng, các điểm vui chơi giải trí, giá cả
sinh hoạt, đi lại ăn uống... và địa chỉ các điểm tư vấn cung cấp thông tin cho khách du lịch.
Những điểm này cần được đặt ở những đầu mối giao thông như bến xe, khách sạn hoặc
những điểm thuận lợi trong giao dịch. Đối với các tổ chỉ dẫn và thông tin sơ lược, có thể
kết hợp với các ngành giao thông vận tải cung cấp miễn phí cho khách trên các lộ trình đền
Sơn Tây - Ba Vì.
- Xúc tiến việc xây dựng và phát hành rộng rãi các phim ảnh tư liệu về lịch sử văn
hoá, các công trình kiến trúc, du lịch, các danh lam thắng cảnh, các làng nghề, lễ hội... và
cả những cơ hội, khả năng đầu tư phát triển Sơn Tây - Ba Vì để giới thiệu với du khách
trong và ngoài nước. Những thông tin này rất bổ ích không chỉ đối với khách du lịch có
mục đích tham quan nghỉ dưỗng ở Sơn Tây - Ba Vì mà còn là cần thiết đối với nhiều nhà
đầu tư, kinh doanh muốn đến để hợp tác với địa phương.
- Cần tận dụng cơ hội để tham gia vào các hội nghị, hội thảo và hội chợ du lịch
quốc tế để có điều kiện tuyên truyền tiếp thị những sản phẩm đặc sắc của du lịch Sơn Tây -
Ba Vì.
- Có thể mở văn phòng đại diên du lịch Sơn T ây - Ba Vì tại các thị trường lớn trong
nước để thực hiện các chức năng về dịch vụ lữ hành và xúc tiến tiếp thị.
3.1.5. Một số giải pháp Marketing- mix nhằm thu hút khách.
- Nghiên cứu thị trường
Thông qua việc nghiên cứu thị trường du lịch để nhận biết nhu cầu trên thị trường
cũng như khả năng cung cấp dịch vụ cho các nhu cầu đó phải thông qua marketing giới
thiệu chương trình sản phẩm mà mình có, phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người
tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về mọi mặt của sản phẩm dịch vụ du lịch cụ thể và đưa nó
đến tay người tiêu dùng, nhằm đảm bảo thu lợi cao nhất cho công ty. Bên cạnh đó phải xác
định được thị trường mục tiêu cho khách du lịch.
Đối với thị trường khách du lịch, tùy từng sở thích của khách mà chúng ta xây dựng
các chương trình khác nhau. Với khách là thanh niên thì phải tổ chức những chuyến đi ở
những nơi mà có thể cắm trại hay dựng lều được thì mới đáp ứng được nhu cầu của họ.
Hay với đối tượng là khách từ thành phố xuống thì phải tổ chức các chuyến đi du lịch
thuần túy để thăm quan thắng cảnh nổi tiếng, di tích lịch sử, những công trình kiến trúc cổ
hay chỉ cần một nơi để nghỉ ngơi thư giãn.
Vì vậy phải lập kế hoạch cụ thể, định rõ thị trường mục tiêu, phân tích lợi thế cạnh
tranh, liên tục phát triển để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
- Các chính sách marketing - mix
+ Hoàn thiện chính sách sản phẩm:
Các doanh nghiệp đều cố gắng hết sức để mang lại hiệu quả cao nhất. Chính sách
marekting - mix là những biến có thể kiểm soát được để đạt được những mục tiêu du lịch
của điểm đến đối với mỗi thị trường mục tiêu (thị trường khách nội địa).
Những biến cấu thành nên 1 marketing - mix được xếp vào nhóm "4P" sản phẩm
(product), giá cả (price), phân phối (place) và quảng cáo (promotion) 4P là những biến
marketing được sử dụng phổ biến cho các sản phẩm truyền thống.
- Ưu điểm:
+ Đưa ra được những chính sách marketing - mix đúng đắn để trên cơ sở đó ta có
thể tạo dựng được nền tảng vững chắc.
+ Sản phẩm thì không ngừng được đổi mới và từ đó ta có thể khai thác thêm được
những tuyến điểm du lịch để phục vụ khách.
+ Giá cả: đưa vào những giá hợp lý để phục vụ khách, để đảm bảo lợi nhuận cũng
như giữ được khách bởi giá cả.
+ Phân phối: đưa ra những nhân viên để marketing trực tiếp đến những khách hàng
đang có nhu cầu hay thuyết phục khách hàng được dễ dàng và thuận lợi hơn.
+ Quảng cáo: quảng cáo các sản phẩm rộng rãi hơn, truyền tải được những lợi ích
của điểm đến tới các khách tiềm năng không chỉ bao gồm hoạt động quảng cáo mà còn cả
hoạt động khuyến mại, quan hệ cộng đồng và bán hàng cá nhân.
- Nhược điểm:
+ Khi các tour thành lập còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng nó vẫn chưa đáp
ứng được hết nhu cầu của khách. Vì vậy có thể chất lượng của dịch vụ bị phụ thuộc vào
nhiều yếu tố.
Phát triển marketing - mix luôn được coi là điều kiện cần thiết để lựa chọn phương
hướng phát triển kinh doanh thích nghi với môi trường và đối sách linh hoạt hiệu quả. Bên
cạnh đó marketing là một nghệ thuật để trinh phục khách hàng, thu hút khách nhằm tăng
thêm doanh thu và lợi nhuận. Để thu hút được khách đến với thị trường mới như vậy ta
phải cố gắng hoàn thiện những khía cạnh sau:
- Hoàn thiện hơn những chính sách sản phẩm đã đưa vào để tạo ra một sản phẩm
mới để có thể cạnh tranh với những nơi khác.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm:
Có 2 yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm du lịch đó là:
+ Chất lượng dịch vụ trong chương trình:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì có thể người tiêu dùng là "vua" vì họ có
quyền lựa chọn những sản phẩm mà họ ưa thích. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng
sản phẩm là yếu tố quan trọng mà doanh nghiệp lữ hành cần tung ra thị trường (cả về chất
lượng và hình thức) nên muốn cho sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng tốt và thu hút
được sự chú ý của khách thì nên phải có sự đổi mới về chất lượng chương trình và chất
lượng dịch vụ trong chương trình.
- Chất lượng công trình:
+ Cần xác định rõ tính chủ đạo của một chương trình du lịch độc lập để từ đó chú
trọng các yếu tố cấu thành nên sản phẩm từ đó tạo ra sản phẩm có 1 chỗ đứng vững trên thị
trường.
+ Chương trình du lịch cần chú ý thiết kế sao cho càng về cuối chương trình càng
có sức thu hút và hấp dẫn và tạo cho khách ấn tượng bất ngờ. Như vậy sẽ xóa bỏ được sự
mệt mỏi hay nhàm chán cho du khách.
- Trong chương trình du lịch có thể hạn chế được sử dụng phương tiện vận chuyển
trong cùng một chuyến đi.
- Thời gian cũng quyết định tới một phần chất lượng của chương trình. Nếu như
chương trình chú ý đến việc giới thiệu khách tham quan nhiều điểm mà không sắp xếp, bố
trí thời gian cho khách nghỉ ngơi sau một chuyến đi dài thì khách sẽ có cảm giác mệt mỏi,
khó chịu và không tập trung theo dõi. Như vậy, thời gian sắp xếp sẽ hợp lý sẽ tạo cho
khách có được cảm giác hưng phấn và sự hài lòng vào chuyến đi, điều này cũng quyết định
cho chất lượng của chương trình.
- Một yếu tố cũng quan trọng đó là chương trình xây dựng cũng phải chuyên tới
nghề nghiệp của từng đối tượng khách. Biết được công việc của từng khách thì chúng ta sẽ
biết được nhu cầu và khả năng thanh toán của họ. Dựa vào đó sẽ xây dựng được chương
trình làm hài lòng khách với mức giá thấp nhất có thể.
- Nâng cao chất lượng du lịch trong chương trình:
+ Đối tượng khách không giống nhau, do đó nhu cầu của họ cũng khác nhau.
Nhu cầu ăn uống của khách cũng không giống nhau. Bởi vậy khách đi du lịch chủ
yếu thăm và nghỉ ngơi nhưng việc ăn cũng được họ quan tâm rất nhiều. Nếu không hài
lòng trong bữa ăn sẽ gây cho khách cảm giác khó chịu, ảnh hưởng lớn tới chất lượng
chương trình và uy tín. Để tránh xảy ra tình trạng đó thì phải có những giải pháp:
. Thường xuyên liên tục và kiểm tra các đơn vị lưu trú và vận chuyển khách mà
Công ty có quan hệ đảm bảo chất lượng các dịch vụ của Công ty cung cấp cho khách là tốt
nhất.
. Trong quá trình tìm kiếm tạo lập quan hệ với các cơ sở cung cấp, phải lựa chọn kỹ
nhằm tìm ra được những cơ sở có chất lượng phục vụ tốt để liên kết hoạt động.
- Đa dạng hóa sản phẩm: Phải đa dạng hóa sản phẩm bằng cách xây dựng thêm
nhiều tuyến điểm du lịch phong phú hấp dẫn hơn nữa đáp ứng.
+ Hoàn thiện chính sách giá:
Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch là một trong những nhân tố quyết định
trong việc định giá. Trong tình hình hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều ở trong vị thế
hoàn toàn cạnh tranh, mức cầu cho các sản phẩm ở bất cứ doanh nghiệp du lịch nào cũng
rất nhạy bén đối với giá cả tính cho khách hàng. Bởi vì, người đi du lịch cũng nhạy cảm
với giá nhưng độ nhạy cảm này có thể biến thiên đáng kể ở những tình huống khác nhau
tùy theo mức độ của sự thỏa mãn do sản phẩm đem lại. Tất nhiên chất lượng đặc sắc càng
quan trọng đối với người đi du lịch bao nhiêu thì người đi du lịch ít bị nhạy cảm với giá
bấy nhiêu. Chính vì vậy mà việc định giá là một công cụ tiếp thị mà bất cứ doanh nghiệp
du lịch nào có thể sử dụng một cách hữu hiệu để cải thiện mức lãi. Giá của chuyến đi trọn
gói quá cao có thể làm nguy hại đến sự phát triển của sản phẩm. Điều lan giải là làm sao
cân bằng giữa giá cả và lỗ lãi. Nói cách khác, các doanh nghiệp du lịch định giá sau khi đã
xét kỹ ảnh hưởng của giá đối với mức lãi.
Mục tiêu trước mắt là đề ra khai thác thị trường khách nội địa nên việc xác định
đóng vai trò rất quan trọng tới việc bán chương trình. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thu
nhập bình quân của người Việt Nam chỉ ở mức trung bình khá nên vấn đề giá cũng ảnh
hưởng tới quyết định tiêu dùng của họ. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của hàng loạt các đơn vị
kinh doanh du lịch đã làm cho sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Nên yếu tố
giá đương nhiên trở thành yếu tố quyết định tới sự lựa chọn của khách hàng. Bởi vậy, khi
chào mời khách hàng mua chương trình của một nơi nào thì nên vận dụng chiến lược giá
thật mềm dẻo cho từng đối tượng khách hàng và cho từng giai đoạn sống của sản phẩm.
+ Hoàn thiện chính sách phân phối:
Chính sách phân phối đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Một chiến lược hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an toàn,
hàng hoá sản xuất ra không bị tồn đọng, giảm được sự cạnh tranh và làm cho quá trình lưu
thông tốt hơn. Việc xác định một chính sách phân phối hợp lý là công ty du lịch tìm ra
cách đưa sản phẩm và dịch vụ du lịch đến tay người tiêu dùng, từ thị trường này đến thị
trường khác một cách chính xác. Sử dụng hình thức tiếp xúc với khách hàng qua cách gọi
điện thoại hay gặp mặt trực tiếp mà vẫn đang sử dụng.
+ Hoàn thiện chính sách xúc tiến quảng cáo khuyếch trương sản phẩm
Việc tổ chức hoạt động giao tiếp khuyếch trương sản phẩm là khá tốn kém nhưng
lại rất có hiệu quả cho việc thu hút khách hàng nên đòi hỏi bộ phận marketing phải có
nhiều kinh nghiệm thực hiện.
- Một số giải pháp khác để phát triển du lịch cuối tuần ở Sơn Tây - Ba Vì.
+ Tổ chức và thực hiện:
- UBND các cấp tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện quản lý chặt chẽ không gian, lãnh
thổ đã quy hoạch cho phát triển du lịch. Trước mắt nghiêm cấm việc xây dựng mới hoặc
cơi nới cải tạo cho công trình trên phạm vi lãnh thổ được xác định, có các biện pháp thích
hợp để chấm dứt tình trạng "chia ô" trong đầu tư xây dựng.
- Tổ chức bảo vệ tôn tạo và khai thác có hiệu quả các tài nguyên du lịch để tạo ra
những sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn lớn đối với du khách.
- Cần sớm xác lập và hình thành những nhân tố tích cực trong chuyên môn hóa theo
ngành và chuyên môn hóa theo lãnh thổ, tránh sự trùng lặp trong quản lý và khai thác phát
triển giữa các ngành kinh tế trên cùng một lãnh thổ.
+ Hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển du lịch:
- Cơ chế chính sách miễn, giảm thuế, cho nộp thuế chậm, lãi suất ưu đãi vốn vay
đầu tư đối với các dự án ưu tiên đầu tư tại các khu du lịch trọng điểm phát triển du lịch, ưu
đãi đặc biệt cho tổ chức, cá nhân đầu tư, kinh doanh, xây dựng các khu du lịch - vui chơi
giải trí trên địa bàn tỉnh.
- Cần có chính sách khuyến khích đảm bảo an toàn về vốn cho người đầu tư và đơn
giản hóa các thủ tục hành chính để thu hút được các nhà đầu tư. Cần có sự ưu tiên về cơ
chế chính sách đầu tư cho các đơn vị và cá nhân góp vốn cho những công trình đặc biệt và
trong thời gian đầu của từng giai đoạn.
- Hoạt động du lịch là hoạt động xuất khẩu tại chỗ, do đó cho phép kinh doanh du
lịch quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi khuyến khích xuất nhập khẩu.
- Phối hợp liên ngành để giải quyết các chính sách tạo thuận lợi cho khách du lịch
trong các lĩnh vực: xuất nhập cảnh, thủ tục hải quan, visa, phí và lệ phí.
+ Chính sách đa dạng hóa sản phẩm du lịch tạo ra các sản phẩm đặc thù:
Đây là một trong những yếu tố quan trọng của sự nghiệp phát triển du lịch Hà Tây
nói chung và khu vực Sơn Tây - Ba Vì nói riêng, đòi hỏi phải nhanh chóng tạo ra các sản
phẩm mới, độc đáo, mang bản sắc riêng của Hà Tây có khả năng cạnh tranh trong khu vực.
Đặc biệt chú ý đến các sản phẩm du lịch sinh thái và văn hóa lịch sử phù hợp với từng
vùng để thu hút khách điển hình như: Du lịch sinh thái làng quê truyền thống, du lịch về
cội nguồn, du lịch sinh thái rừng, du lịch thể thao nước...
+ Giải pháp mở rộng thị trường:
Đây là giải pháp có tầm quan trọng hàng đầu trong phát triển du lịch khu vực Sơn
Tây - Ba Vì và của cả tỉnh Hà Tây. Du lịch của tỉnh phải có kế hoạch không ngừng mở
rộng và phát triển thị trường, cả thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Cần coi
trọng việc mở rộng thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Bên cạnh việc
đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ du lịch để đủ sức cạnh tranh trên thị trường tiến hành
hợp tác với các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh... đặc biệt với các
Công ty Lữ hành trong việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá nhằm tạo dựng được
hình ảnh hấp dẫn của du lịch Hà Tây trong vùng, khu vực và trên thị trường khách du lịch
quốc tế, đồng thời kết hợp việc liên doanh, liên kết các doanh nghiệp và du lịch các tỉnh
bạn để nối tour, nối tuyến, thu hút khách, không ngừng mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
+ Giải pháp phát triển nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định của sự phát triển. Do thực trạng nguồn nhân
lực hoạt động trong ngành du lịch Hà Tây quá thiếu lại yếu về năng lực vì vậy phải có
chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực hiện có. Từng bước xây dựng đội ngũ các
nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp năng động và sáng tạo, đủ năng lực điều hành các hoạt
động kinh doanh du lịch hiệu quả, có chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc biệt để thu hút
nhân tài về phục vụ cho ngành du lịch.
+ Giải pháp về cơ cấu đầu tư:
Đầu tư phát triển du lịch là một hướng đầu tư tương đối có hiệu quả không chỉ về
mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội. Tuy nhiên do những đặc thù riêng của ngành cũng như
điều kiện cụ thể của vùng du lịch Bắc Bộ, tỉnh Hà Tây nói chung và của du lịch khu vực
Sơn Tây - Ba Vì nói riêng, cơ cấu đầu tư phát triển du lịch ở đây cần bao gồm những nội
dung cơ bản sau:
- Đầu tư xây dựng khu du lịch: tập chung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và
các dịch vụ tương ứng thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu của khách cho khu du lịch chuyên đề
quốc gia Suối Hai - Ba Vì để trở thành điểm du lịch hấp dẫn khách trong và ngoài nước.
- Đầu tư phát triển các công trình dịch vụ du lịch: Về hướng đầu tư phát triển hệ
thống khách sạn cần ưu tiên xem xét các dự án đầu tư khách sạn tầm trung (từ 1 đến 3 sao)
với lối kiến trúc dân tộc truyền thống. Hệ thống khách sạn cao cấp cũng sẽ được xây dựng
hạn chế trong một số khu du lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế.
- Đầu tư phát triển hệ thống các công trình vui chơi giải trí: Sự nghèo nàn của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì.pdf