Tài liệu Luận văn Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trung học phổ thông miền núi khi giảng dạy một số khái niệm và định luật vật lí của chương “ khúc xạ ánh sáng” (vật lí 11 - Ban cơ bản): ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------------------------
Trƣơng Tấn Long
TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
THPT MIỀN NÚI KHI GIẢNG DẠY MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ
ĐỊNH LUẬT VẬT LÍ CỦA CHƢƠNG “ KHÚC XẠ ÁNH SÁNG”
(VẬT LÍ 11- BAN CƠ BẢN)
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thái Nguyên- Năm 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------------------------
Trƣơng Tấn Long
TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
THPT MIỀN NÚI KHI GIẢNG DẠY MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ
ĐỊNH LUẬT VẬT LÍ CỦA CHƢƠNG “ KHÚC XẠ ÁNH SÁNG”
(VẬT LÍ 11- BAN CƠ BẢN)
Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Vật lí
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Tô Văn Bình
Thái Nguyên- Năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. Công nghiệp hoá CNH
2. Đại học sƣ phạm ĐHSP
3. Đại học Thái Nguyên ĐHTN
4. Đối chứng ĐC
5. Học sinh HS...
158 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trung học phổ thông miền núi khi giảng dạy một số khái niệm và định luật vật lí của chương “ khúc xạ ánh sáng” (vật lí 11 - Ban cơ bản), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------------------------
Trƣơng Tấn Long
TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
THPT MIỀN NÚI KHI GIẢNG DẠY MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ
ĐỊNH LUẬT VẬT LÍ CỦA CHƢƠNG “ KHÚC XẠ ÁNH SÁNG”
(VẬT LÍ 11- BAN CƠ BẢN)
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thái Nguyên- Năm 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------------------------------
Trƣơng Tấn Long
TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
THPT MIỀN NÚI KHI GIẢNG DẠY MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ
ĐỊNH LUẬT VẬT LÍ CỦA CHƢƠNG “ KHÚC XẠ ÁNH SÁNG”
(VẬT LÍ 11- BAN CƠ BẢN)
Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Vật lí
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Tô Văn Bình
Thái Nguyên- Năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. Công nghiệp hoá CNH
2. Đại học sƣ phạm ĐHSP
3. Đại học Thái Nguyên ĐHTN
4. Đối chứng ĐC
5. Học sinh HS
6. Hiện đại hoá HĐH
7. Giáo viên GV
8. Nhà xuất bản Nxb
9. Sách giáo khoa SGK
10. Thực nghiệm TN
11. Thực nghiệm sƣ phạm TNSP
12. Trung học phổ thông THPT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC VẬT LÍ THEO HƢỚNG TÍCH CỰC HOÁ.
THỰC TRẠNG DẠY HỌC CÁC KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH LUẬT VẬT LÍ
Ở TRƢỜNG THPT MIỀN NÚI 5
1.1. Hoạt động nhận thức và tính tích cực hoạt động nhận thức của HS 5
1.1.1. Hoạt động nhận thức của HS 5
1.1.2. Tính tích cực và tính tích cực nhận thức của HS 6
1.2. Dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt động nhận của HS 12
1.2.1. Quan niệm về hoạt động dạy học 12
1.2.2. Các phƣơng pháp dạy học tích cực 16
1.3. Khái niệm, định luật Vật lí và thực trạng dạy- học các khái niệm và định
luật Vật lí ở trƣờng THPT miền núi hiện nay. 23
1.3.1. Khái niệm Vật lí 23
1.3.2. Định luật Vật lí 34
1.3.3. Thực trạng dạy- học các khái niệm và dịnh luật Vật lí ở trƣờng
THPT miền núi hiện nay 42
KẾT LUẬN CHƢƠNG I 48
Chƣơng II: TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HS THPT MIỀN
NÚI KHI GIẢNG DẠY MỘT SỐ KHÁI NIỆM, ĐỊNH LUẬT VẬT LÍ
CỦA CHƢƠNG “KHÚC XẠ ÁNH SÁNG”. 49
Một số biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS khi giảng
dạy các khái niệm và định luật vật lí 49
2.1.1.Xây dựng động cơ, tạo hứng thú , nhu cầu học tập 49
2.1.2. Tăng cƣờng tổ chức cho HS hoạt động nhận thức ở trên lớp và
tự học ở nhà 52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.1.3. Rèn luyện kĩ năng thực hiện các thao tác tƣ duy và phƣơng pháp
suy luận lôgic cơ bản khi hình thành các khái niệm và định luật Vật lí 57
2.1.4. Bồi dƣỡng vốn ngôn ngữ khoa học Vật lí cho HS miền núi 65
2.1.5. Tăng cƣờng sử dụng các thí nghiệm trong dạy học các khái niệm
và định luật Vật lí 68
2.1.6. Sử dụng tổng hợp, linh hoạt các biện pháp trong từng bài học cụ thể 73
2.2. Các biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức HS THPT miền núi khi
giảng dạy một số khái niệm, định luật Vật lí của chƣơng “Khúc xạ ánh sáng” 74
2.2.1. Những biện pháp đặc thù để tích cực hoá hoạt động nhận thức của
HS miền núi khi giảng dạy các khái niệm và định luật Vật lí 74
2.2.2. Các biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức HS THPT miền núi
khi giảng dạy một số khái niệm, định luật Vật lí của chƣơng “Khúc xạ ánh sáng” 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG II 107
Chƣơng III: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 109
3.1. Mục đích của TNSP 109
3.2. Nhiệm vụ của TNSP 109
3.3. Đối tƣợng và cơ sở TNSP 109
3.4. Phƣơng pháp TNSP 110
3.5. Phƣơng pháp đánh giá kết quả 110
3.6. Tiến hành TNSP 112
3.7. Kết quả và xử lí kết quả TNSP 112
KẾT LUẬN CHƢƠNG III 124
KẾT LUẬN CHUNG 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
PHỤ LỤC 1 130
PHỤ LỤC 2 134
PHỤ LỤC 3 137
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Thầy hướng dẫn: PGS.TS Tô Văn Bình, người đã trực tiếp hướng
dẫn em làm đề tài và các thầy, cô giáo đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình.
Khoa Sau đại học, Khoa Vật lí, Thư viện trường Đại học Sư
phạm- Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện cho quá trình học
tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Các trường THPT và các giáo viên cộng tác đã tạo điều kiện, giúp
đỡ cho thực nghiệm sư phạm được thành công.
Toàn thể gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã quan tâm, giúp
đỡ.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của trí tuệ và sáng tạo.
Đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kì CNH, HĐH. Chúng ta có hoàn thành đƣợc
sự nghiệp CNH, HĐH hay không, đất nƣớc ta có thật sự phát triển để vƣơn tới
ngang tầm với sự phát triển chung của thế giới và khu vực hay không hoàn
toàn phụ thuộc vào những ngƣời chủ tƣơng lai của đất nƣớc- những thế hệ học
sinh đang ngồi trên ghế nhà trƣờng phổ thông hiện nay.
Để đáp ứng những yêu cầu đó, ngành giáo dục và đào tạo đã và đang
từng bƣớc đổi mới mạnh mẽ nội dung và phƣơng pháp dạy học, trong đó đặc
biệt là việc đổi mới phƣơng pháp dạy và học. Chỉ có đổi mới cơ bản phƣơng
pháp dạy và học, chúng ta mới có thể tạo ra đƣợc sự đổi mới thật sự trong
giáo dục, mới có thể đào tạo đƣợc lớp ngƣời năng động, sáng tạo, có tiềm
năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nƣớc trên thế giới đang hƣớng tới
nền kinh tế tri thức. Điều 28.2 của Luật giáo dục đã ghi: “ Phƣơng pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dƣỡng phƣơng
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS…”. Hay có thể nói cốt
lõi của đổi mới dạy và học là hƣớng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại
thói quen học tập thụ động.
Quán triệt tinh thần đổi mới nói trên, việc nghiên cứu các phƣơng pháp
giáo dục tích cực, tìm ra các biện pháp phù hợp với hoàn cảnh, đối tƣợng HS
để nâng cao chất lƣợng dạy học là vấn đề cấp thiết đối mỗi giáo viên nói
chung và những ngƣời nghiên cứu giáo dục nói riêng. Đối với giáo dục miền
núi vấn đề đó càng trở nên cấp thiết hơn. Nguyên tổng bí thƣ BCH T.Ƣ Đảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Đỗ Mƣời nhận định: “ Thực trạng giáo dục miền núi đang đặt ra nhiều vấn đề
cần tiếp tục khẩn trƣơng giải quyết, đặc biệt là việc đào tạo giáo viên và xây
dựng lại trƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp dạy học đối với HS miền núi,
dạy những gì và dạy nhƣ thế nào để con em đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp
thu đƣợc, hào hứng học tập và ứng dụng đƣợc kiến thức vào phát triển kinh
tế- xã hội tại quê hƣơng mình”.
Trong chƣơng trình giáo dục phổ thông, việc dạy và học môn Vật lí
góp một phần quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ nêu trên. Trong
hệ thống các kiến thức các kiến thức Vật lí của chƣơng trình phổ thông thì các
khái niệm và định luật Vật lí là những kiến thức trọng tâm, cơ bản. Việc phối
hợp, lựa chọn các phƣơng pháp giảng dạy nhằm tích cực hoá hoạt động nhận
thức của HS trong việc hình thành các kiến thức Vật lí, đặc biệt là đối với là
đối với các khái niệm và định luật Vật lí là nhiệm vụ rất cần thiết. Từ trƣớc tới
nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu các biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động
nhận thức của HS nhƣ: Đào Quang Thành- Tích cực hoá hoạt động học tập
Vật lí của HS PTTH ở miền núi trên cơ sở tổ chức định hướng rèn kỹ năng
giải bài tập Vật lí (Luận văn thạc sỹ- ĐHSPTN- Năm 1997), Trần Đức
Kiểm- Một số biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS miền
núi khi dạy chương “Định luật Ôm” ở trường PTTHCS (Luận văn thạc sỹ-
ĐHSPHN- 1997), Vũ Trọng Hà- Sử dụng một số phương pháp nhận thức của
vật lí học để tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS khi dạy “Thuyết động
học phân tử” ở lớp 10 THPT (Luận văn thạc sỹ- ĐHSPTN- Năm 2001), Đồng
Thị Vân Thoa- Một số biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS
THPT miền núi khi giảng dạy BT Vật lí (Luận văn thạc sỹ- ĐHSPTN- Năm
2001), Vƣơng Thị Kim Yến- Tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS
trong dạy học Vật lí ở trường THPT với sự hỗ trợ của máy vi tính và phần
mềm dạy học (Luận văn thạc sỹ- ĐHSPTN- Năm 2002), Nguyễn Thị Nga-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Lựa chọn và phối hợp các phương pháp nhằm tích cực hoá hoạt động học tập
của HS THPT trong giờ giải BT Vật lí (Luận văn thạc sỹ- ĐHSPTN- Năm
2004)…, nhƣng chƣa có đề tài nào đề cập tới vấn đề tích cực hoá hoạt động
nhận thức của HS khi giảng dạy các khái niệm, định luật Vật lí.
Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài: “ Tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh THPT miền núi khi giảng dạy một số khái niệm và định luật Vật
lí của chƣơng “Khúc xạ ánh sáng” (Vật lí 11- ban cơ bản)”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra một số biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS
THPT miền núi khi giảng dạy các khái niệm và định luật Vật lí.
III. Đối tƣợng nghiên cứu:
Quá trình dạy- học các khái niệm và định luật Vật lí ở trƣờng THPT
miền núi.
IV. Giả thuyết khoa học:
HS sẽ có hứng thú, tích cực hoạt động nhận thức khi học tập các khái
niệm và định luật Vật lí, nếu giáo viên biết lựa chọn, phối hợp các biện pháp
dạy học phù hợp.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Nghiên cứu lí luận về tính tích cực hoạt động nhận thức và hoạt động
dạy học Vật lí nhắm tích cực hoá hoạt động của ngƣời học.
2. Nghiên cứu lí luận về đặc điểm và phƣơng pháp giảng dạy các khái
niệm và định luật Vật lí.
3. Điều tra thực trạng dạy- học các khái niệm và định luật Vật lí ở một số
trƣờng THPT miền núi thuộc tỉnh Hoà Bình.
4. Đề xuất một số biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của
HS miền núi khi giảng dạy các khái niệm và định luật Vật lí.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
5. Vận dụng các biện pháp trên vào dạy chƣơng “ Khúc xạ ánh sáng”
theo hƣớng phối hợp các biện pháp đã nêu.
6. Tiến hành thực nghiệm sƣ phạm.
VI. Giới hạn của đề tài:
Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp phù hợp với nội dung bài học, điều
kiện, cơ sở vật chất, khả năng nhận thức của học sinh THPT miền núi, vận
dụng vào giảng dạy một số khái niệm, định luật Vật lí thuộc chƣơng “Khúc xạ
ánh sáng” (Vật lí 11- ban cơ bản) trên cơ sở quan sát trực tiếp và khái quát
hoá thực nghiệm.
VII. Phƣơng pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu lí luận.
2. Điều tra, khảo sát tình hình dạy học các khái niệm và định luật Vật lí ở
trƣờng THPT miền núi.
3. Thực nghiệm sƣ phạm (trong đó có sử dụng phƣơng pháp thống kê
toán học để xử lí, phân tích các số liệu, dữ kiện thu đƣợc từ thực nghiệm, từ
đó rút ra kết luận).
VIII. Đóng góp của đề tài:
1. Góp phần củng cố và trang bị cho GV Vật lí ở các trƣờng THPT miền
núi cơ sở lí luận về phƣơng pháp dạy học Vật lí theo hƣớng tích cực.
2. Nghiên cứu đặc điểm chƣơng “Khúc xạ ánh sáng” và điều tra thực tế
việc giảng dạy các khái niệm và định luật vật lí ở một số trƣờng THPT miền
núi. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS THPT miền núi khi giảng dạy các khái niệm và định luật
Vật lí.
3. Xây dựng tiến trình trình dạy học và soạn thảo một số giáo án theo
hƣớng phối hợp các biện pháp trên. Các giáo án đã soạn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo cho GV Vật lí phổ thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC VẬT LÍ THEO HƢỚNG TÍCH CỰC
HOÁ. THỰC TRẠNG DẠY HỌC CÁC KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH LUẬT
VẬT LÍ Ở TRƢỜNG THPT MIỀN NÚI.
1.1. Hoạt động nhận thức và tính tích cực hoạt động nhận thức của HS.
1.1.1. Hoạt động nhận thức của HS.
Để tồn tại và phát triển con ngƣời không ngừng cải tạo các mối quan hệ
giữa mình và thế giới bên ngoài, tức là phải hoạt động. Bằng hoạt động và
trong hoạt động, mỗi cá nhân sẽ tự hoàn thiện mình về mọi mặt.
Trong quá trình hoạt động, con ngƣời phải luôn nhận thức- đó là quá
trình phản ánh hiện thực xung quanh và cả hiện thực bản thân mình, trên cơ
sở đó tỏ thái độ, tình cảm và hành động.
Tâm lí học hiện đại cho rằng: trong nhận thức thế giới, con ngƣời có thể
đạt tới những mức độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Mức độ thấp ban đầu là nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác,
trong đó con ngƣời phản ánh vào óc những biểu hiện bên ngoài của sự vật
khách quan, những cái đang tác động trực tiếp vào giác quan. Mức độ cao hơn
gọi là nhận thức lí tính hay còn gọi là tƣ duy, trong đó con ngƣời phản ánh
vào óc những thuộc tính bản chất bên trong của sự vật, những mối quan hệ có
tính qui luật. Dựa trên các dữ liệu cảm tính, con ngƣời thực hiện các thao tác
trí tuệ phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu tƣợng hoá… để rút ra
những tính chất, bản chất chung của đối tƣợng nhận thức và xây dựng thành
những khái niệm. Mỗi khái niệm đƣợc diễn đạt bằng một từ ngữ. Mối quan hệ
giữa các thuộc tính của vật chất cũng đƣợc biểu thị bằng mối quan hệ giữa các
khái niệm dƣới dạng những mệnh đề, những phán đoán. Đến đây, con ngƣời
tƣ duy bằng khái niệm. Sự nhận thức không dừng lại ở sự phản ánh vào trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
óc những thuộc tính của sự vật, hiện tƣợng khách quan mà còn thực hiện các
phép suy luận để rút ra những kết luận mới, dự đoán những hiện tƣợng mới
trong thực tiễn. Nhờ thế mà tƣ duy luôn có tính sáng tạo, có thể mở rộng sự
hiểu biết của con ngƣời và vận dụng những hiểu biết của mình vào việc cải
tạo thế giới khách quan phục vụ lợi ích của con ngƣời. Đó là những qui luật
chung của mọi quá trình nhận thức chân lí, nhƣ V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, của sự nhận thức hiện
thực khách quan…”
15
.
Đối với HS, hoạt động chủ yếu của các em là học tập. Thông qua hoạt
động này, các em chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí
tuệ cũng nhƣ quan điểm đạo đức, thái độ. Trong hoạt động học tập nói chung
cũng nhƣ trong học tập Vật lí nói riêng, HS cũng tìm ra cái mới – đó là các
khái niệm, định luật Vật lí…. Nhƣng cái mới này không làm phong phú thêm
cho kho tàng kiến thức của nhân loại mà cho chính bản thân mình, cái mới đó
đã đƣợc loài ngƣời tích luỹ, đặc biệt là GV đã biết. Việc khám phá ra cái mới
của HS cũng chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn trên lớp, với
những dụng cụ sơ sài, đơn giản trong điều kiện trang thiết bị của trƣờng phổ
thông. Đặc biệt sự khám phá này diễn ra dƣới sự chỉ đạo và giúp đỡ của GV.
Do vậy hoạt động nhận thức của HS diễn ra một cách tƣơng đối thuận lợi,
không quanh co gập gềnh nhƣ hoạt động của nhà khoa học. Cũng chính vì vậy
thƣờng dễ dẫn đến một sai lầm của GV là chỉ thông báo cho HS cái mới mà
không tổ chức cho HS tự khám phá để tìm ra cái mới đó.
Để tổ chức tốt cho hoạt động nhận thức của HS, GV cần sử dụng các
biện pháp nhằm phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động trong hoạt động
nhận thức, tạo điều kiện cho HS “ tự khám phá lại” những kiến thức đã có sẵn
trong sách vở, tài liệu để họ tập làm công việc khám phá đó trong hoạt động
thực tiễn sau này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Trƣớc hết chúng tôi trình bày vấn đề tính tích cực và tính tích cực nhận
thức của HS.
1.1.2. Tính tích cực và tính tích cực nhận thức của HS.
1.1.2.1. Tính tích cực.
Tính tích cực là trạng thái hoạt động của các chủ thể, nghĩa là của ngƣời
hành động chỉ đề cập trong quá trình nhận thức, thuộc mục đích trƣớc mắt
(I.F. Khalamop…).
1.1.2.2. Tính tích cực nhận thức là gì?
Theo quan điểm triết học, tính tích cực nhận thức thể hiện thái độ cải tạo
của chủ thể nhận thức đối với đối tƣợng nhận thức, nghĩa là con ngƣời không
chỉ hiểu đƣợc các qui luật của tự nhiên, xã hội mà còn nghiên cứu cải tạo
chúng phục vụ lợi ích của con ngƣời.
Theo tâm lí học, tính tích cực nhận thức của HS tồn tại với tƣ cách là cá
nhân với toàn bộ nhân cách của nó. Cũng nhƣ bất kì một hoạt động nào khác,
hoạt động nhận thức đƣợc tiến hành trên cơ sở huy động các chức năng nhận
thức, tình cảm và ý chí, trong đó chức năng nhận thức đóng vai trò chủ yếu.
Các yếu tố tâm lí kết hợp với nhau một cách hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau
tạo nên tâm lí hoạt động nhận thức. Sự tác động này không cứng nhắc mà trái
lại luôn luôn biến đổi tạo nên rất nhiều dạng khác nhau của các nhiệm vụ
nhận thức cụ thể mà HS phải thực hiện. Sự biến đổi này càng linh hoạt bao
nhiêu thì HS càng dễ thích ứng với nhiệm vụ nhận thức khác nhau và tinh tích
cực nhận thức càng thể hiện ở mức độ cao.
Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của HS, đặc trƣng bởi
khát vọng học tập, có gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững
kiến thức. Nói cách khác, là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể
thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết
những vấn đề học tập- nhận thức
24
.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Tính tích cực của HS có mặt tự phát và tự giác:
- Mặt tự phát của tính tích cực là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể
hiện ở tính tò mò, hiếu kì, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà ở
trẻ đều có, trong mức độ khác nhau.
- Mặt tự giác của tính tích cực tức là trạng thái tâm lí, tính tích cực có
mục đích và đối tƣợng rõ rệt, do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tƣợng đó.
Tính tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tƣ duy, trí tò mò khoa
học…
Tính tích cực nhận thức và tích cực học tập có liên quan chặt chẽ với
nhau, nhƣng không phải là đồng nhất.
1.1.2.3. Biểu hiện của tính tích cực nhận thức.
Trong học tập, HS chỉ chiếm lĩnh đƣợc kiến thức và phát triển đƣợc tƣ
duy của mình khi họ tích cực, nỗ lực hoạt động nhận thức. Hoạt động nhận
thức là yếu tố xuyên suốt quá trình học tập của HS. Thông qua hoạt động
nhận thức, HS chiếm lĩnh đƣợc kiến thức và năng lực tƣ duy cũng đồng thời
đƣợc phát triển.
Để phát hiện đƣợc các em có tích cực trong học tập hay không, có thể
dựa vào một số dấu hiệu sau đây:
- Các em có chú ý học tập không?
- Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập không?
(thể hiện ở chỗ giơ tay phát biểu ý kiến, ghi chép…).
- Có hoàn thành những nhiệm vụ đƣợc giao không?
- Có ghi nhớ tốt những điều đã học không?
- Có hiểu bài không? Có thể trình bày lại nội dung bài học theo ngôn ngữ
riêng không?
- Có vận dụng đƣợc những kiến thức đã học vào thực tiễn không?
- Có đọc thêm, làm thêm các bài tập khác không?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Tốc độ học tập có nhanh không?
- Có hứng thú trong học tập không hay vì một ngoại lực nào đó mà phải học?
- Có quyết tâm, có ý chí vƣợt khó khăn trong học tập không?
- Có sáng tạo trong học tập không?
Trong hoạt động học tập nói chung, trong dạy học Vật lí nói riêng, tính
tích cực hoạt động nhận thức của HS thƣờng thể hiện ở:
- Hoạt động trí tuệ: tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì
tìm cho đƣợc lời giải hay của một bài toán khó.
- Hoạt động chân tay: say sƣa lắp ráp tiến hành thí nghiệm.
Hai hình thức biểu hiện này thƣờng đi kèm nhau, tuy có lúc biểu hiện
riêng lẻ với những dấu hiệu thƣờng thấy nhƣ sau: HS khao khát tự nguyện
tham gia trả lời các câu hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn và thích
đƣợc phát biểu ý kiến của mình trƣớc vấn đề nêu ra; hay thắc mắc và đòi hỏi
giải thích cặn kẽ những vấn đề trình bày chƣa rõ; chủ động vận dụng linh hoạt
những kiến thức, kĩ năng đã có để nhận thức các vấn đề mới; mong muốn
đƣợc đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới nhận từ các nguồn kiến
thức khác nhau có thể vƣợt ra ngoài phạm vi bài học, môn học.
1.1.2.4. Mức độ tích cực nhận thức.
Về mức độ tích cực của HS có thể dựa vào một số dấu hiệu sau:
- Có tự giác học tập không? hay bị bắt buộc bởi những tác động bên
ngoài (gia đình, bạn bè, xã hội…)?.
- Thực hiện nhiệm vụ của thầy giáo theo yêu cầu tối thiểu hay tối đa?.
- Tích cực nhất thời hay thƣờng xuyên, liên tục?
- Tích cực ngày càng tăng dần hay giảm dần?
- Có kiên trì, vƣợt khó hay không?
Hoạt động học tập của HS là hoạt động đòi hỏi phải có tính khoa học
thực sự, đƣợc tổ chức bởi GV cùng với sự tham gia tích cực của HS. Vì vậy, để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
HS có thể tích cực, tự lực nắm vững kiến thức là yêu cầu quan trọng của quá
trình dạy học. Quá trình này không phải là tự phát mà hoàn toàn tự giác, có
mục đích, có kế hoạch và có tổ chức chặt chẽ. Trong đó HS đƣợc phát huy đến
mức tối đa tính tích cực, tự lực sáng tạo trong giải quyết các vấn đề học tập.
Mức độ tích cực tham gia xây dựng kiến thức trong học tập của HS phụ
thuộc vào các yếu tố:
- Ý thức đƣợc nhu cầu học tập của bản thân, thái độ học tập.
- Cách thức tổ chức hoạt động nhận thức của GV.
- Có suy nghĩ đúng đắn, tích cực hơn những kiến thức, kinh nghiệm đã
tích luỹ đƣợc có liên quan đến giải quyết các tình huống học tập.
- Tính tích cực phải đƣợc phát huy thƣờng xuyên, liên tục và có chiều
hƣớng tăng, đồng thời phải có tính kiên trì vƣợt qua đƣợc mọi khó khăn của
bài học.
1.1.2.5. Nguyên nhân của tính tích cực nhận thức.
Tính tích cực nhận thức của HS tuy nảy sinh trong quá trình học tập
nhƣng nó lại là kết quả của nhiều nguyên nhân: Có những nguyên nhân phát
sinh lúc học tập, có những nguyên nhân đƣợc hình thành từ quá khứ, thậm chí
từ lịch sử dài lâu của nhân cách. Nhìn chung, tính tích cực nhận thức phụ
thuộc vào những nhân tố sau đây:
- Hứng thú.
- Nhu cầu .
- Động cơ.
- Năng lực.
- Ý chí.
- Sức khoẻ.
- Môi trƣờng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trong những nhân tố trên đây, có những nhân tố có thể hình thành ngay,
nhƣng có những nhân tố chỉ đƣợc hình thành qua một quá trình lâu dài dƣới
ảnh hƣởng của rất nhiều tác động.
Nhƣ vậy, việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS đòi hỏi một kế
hoạch dài lâu và toàn diện khi phối hợp hoạt động gia đình, nhà trƣờng và xã hội.
1.1.2.6. Hứng thú và vấn đề tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS.
Tích cực hoá là một tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí
của ngƣời học từ thụ động sang chủ động, từ đối tƣợng tiếp nhận tri thức sang
chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập
24
.
Để tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS, hứng thú là vấn đề quan
trọng cần đƣợc GV quan tâm vì:
- Nó có thể hình thành ở HS một cách nhanh chóng và bất cứ lúc nào
trong quá trình dạy học.
- Có thể gây hứng thú cho HS ở mọi lứa tuổi.
- Điều quan trọng hơn cả là nó nằm trong tầm tay của GV. Ngƣời GV có
thể điều khiển hứng thú của HS qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội
dung, phƣơng pháp, phƣơng tiện, hình thức tổ chức; qua các bƣớc lên lớp: mở
bài, giảng bài mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến thức; qua mối quan hệ
thầy trò…
* Vấn đề kích thích hứng thú học tập:
Mọi ngƣời đều biết, hứng thú là sự phản ánh thái độ (mối quan hệ) của
chủ thể đối với thực tiễn khách quan- đây là sự phản ánh có chọn lọc. Thực
tiễn rất rộng lớn, nhƣng con ngƣời chỉ hứng thú những cái gì cần thiết, quan
trọng, gắn liền với kinh nghiệm và sự phát triển tƣơng lai của họ. Nói cách
khác, muốn kích thích hứng thú thì quan trọng nhất là phải nắm đƣợc khả
năng, nhu cầu, nguyện vọng và định hƣớng giá trị của HS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Muốn cho HS cố gắng đem hết sức mình để hoạt động nhận thức, cần
tạo ra ở họ nhu cầu, hứng thú hoạt động học tập. Động cơ hứng thú học tập có
thể xuất hiện do tác động của những nguyên nhân ở bên ngoài môn học nhƣ:
nhu cầu của xã hội đòi hỏi phải hoạt động có hiệu quả trong một lĩnh vực nào
đó của đời sống xã hội, quyền lợi của xã hội giành ngƣời có trình độ học vấn
cao, khả năng đƣợc lựa chọn việc nếu học giỏi, sự ngƣỡng mộ của cộng đồng,
vinh dự của gia đình đối với những ngƣời có tài năng…Có những nguyên
nhân bên trong xuất hiện ngay trong quá trình học tập, tác động thƣờng xuyên
đến HS, đó là mâu thuẫn nhận thức, là khó khăn, trở ngại giữa nhiệm vụ mới
phải giải quyết và khả năng hạn chế hiện có của HS, cần có một sự cố gắng
vƣơn lên tìm kiếm một giải pháp mới, xây dựng một kiến thức mới “động cơ
tự hoàn thiện bản thân mình”. Những yếu tố đó kích thích tính tò mò vốn có
ở lứa tuổi HS, muốn đƣợc thoả mãn đƣợc nhu cầu hoạt động của lứa tuổi,
đem lại niềm vinh dự, tự hào nếu giải quyết thành công những mâu thuẫn, trở
ngại trên. Hoạt động càng có kết quả thì động cơ càng đƣợc củng cố.
Ở vị trí ngƣời GV, có nhiều khả năng sử dụng những yếu tố tác động
bên trong, thƣờng bằng cách xây dựng tình huống có vấn đề. GV xây dựng
tình huống có vấn đề, phát triển thành bài toán nhận thức để đƣa HS vào trạng
thái tâm lí hào hứng, sẵn sàng đem hết sức mình giải quyết vấn đề.
1.2. Dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS.
1.2.1. Quan niệm về hoạt động dạy học.
1.2.1.1. Cấu trúc.
Bất cứ một hoạt động nào nói chung và hoạt động dạy học nói riêng
cũng đều có mục đích, phƣơng tiện và kết quả.
a) Mục đích.
Mục đích dạy học đƣợc qui định bởi các yêu cầu của xã hội đối với nhà
trƣờng, với thế hệ trẻ và nhu cầu, hoài bão của cá nhân HS. Mục đích chung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
và đặc điểm lứa tuổi qui định mục đích dạy học của từng cấp học. Mỗi cấp
học lại có mục đích của từng môn học, mục đích của từng môn học ở mỗi lớp
lại có mục đích của từng chƣơng, từng bài. Mục đích dạy học ở các tầng bậc
khác nhau tạo thành hệ thống mục đích dạy học.
b) Phương tiện.
Phƣơng tiện bao gồm: nội dung, phƣơng pháp, thiết bị, hình thức tổ
chức dạy học.
- Nội dung: là sự cụ thể hoá hệ thống mục tiêu thành các kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo, phƣơng pháp hoạt động nhận thức của từng môn học đã đƣợc
lựa chọn, sắp xếp theo các nguyên tắc dạy học.
- Phƣơng pháp: bao gồm phƣơng pháp lôgic trình bày nội dung,
phƣơng pháp truyền thụ kiến thức và phƣơng pháp hoạt động lĩnh hội các
kiến thức, kĩ năng.
- Điều kiện sƣ phạm: bao gồm các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học, điều kiện tâm lí, trình độ xuất phát của HS và không khí sƣ phạm.
- Tổ chức: bao gồm các hoạt động do GV sắp xếp để HS có thể bằng hành
động thông qua hoạt động tự giác, tích cực để chiếm lĩnh tri thức khoa học.
c) Kết quả.
Kết quả dạy học là HS nắm đƣợc các kiến thức, kĩ năng, phƣơng pháp
hoạt động nhận thức, phát triển năng lực trí tuệ, hình thành thế giới quan duy
vật biện chứng và những phẩm chất cần thiết của ngƣời lao động.
Nhƣ vậy, quá trình dạy học dẫn đến sự phát triển của HS từ trạng thái
xuất phát sang trạng thái cao hơn về sự phát triển tƣ duy.
1.2.1.2.Quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học.
Trong hoạt động dạy học có hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt
động này nối tiếp, đan xen, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Mỗi hành
động, thao tác của GV đƣợc tiếp nối bằng các hành động, thao tác của HS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Nhờ sự tiếp nối đó mà hoạt động dạy và hoạt động học kết hợp nhuần nhuyễn
với nhau, nếu cắt bỏ một trong hai hoạt động thì không còn là dạy học nữa. Vì
vậy, ngƣời ta còn nói dạy học là hoạt động kép, chỉ khi có tƣơng tác của hai
hoạt động này thì quá trình dạy học mới trọn vẹn. Tuy nhiên, nhƣ M.N
Xkatlin đã nhận định: “hoạt động nhận thức của HS trong hoạt động học là
mắt xích cơ bản, là khâu trung tâm của quá trình dạy học”.
1.2.1.3. Sự khác nhau giữa hoạt động dạy và hoạt động học.
- Mục đích:
+ Mục đích của hoạt động dạy của GV là bằng các hành động hƣớng dẫn
sƣ phạm tác động đến tƣ duy HS, nhằm hình thành năng lực hoạt động trí tuệ
và các phẩm chất cần thiết theo mục tiêu dạy học.
+ Mục đích của hoạt động học của HS là thông qua hoạt động nhận thức
một cách tích cực, tiếp thu tri thức mà loài ngƣời đã tích luỹ đƣợc, biến chúng
thành năng lực hoạt động của cá nhân, tự biến đổi mình để đạt đƣợc một trình
độ cao hơn.
- Nội dung:
Nội dung của hoạt động dạy và hoạt động học giống nhau, đƣợc qui
định trong chƣơng trình, đƣợc cụ thể ở sách giáo khoa và mục tiêu môn học,
bài học. Đó là những kiến thức, kĩ năng vừa sức, phù hợp với mục đích dạy
học, đƣợc HS hứng thú, tự giác, tích cực tiếp thu.
- Phƣơng pháp:
+ Phƣơng pháp dạy là những cách thức chỉ đạo, điều khiển hoạt động
nhận thức của HS. Nhờ đó HS biết thực hiện các hành động, thao tác học tập
tích cực, tự lực.
+ Phƣơng pháp học là cách thức hoạt động của HS để có thể chiếm lĩnh
đƣợc kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và các phẩm chất khác của ngƣời
lao động. Cách thức hoạt động đó bao gồm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
a) Phát hiện vấn đề.
b) Thực hiện hoạt động.
c) Thu thập thông tin.
d) Xử lí thông tin suy ra kết luận dự đoán.
e) Kiểm tra lại dự đoán trong thực tế.
f) Vận dụng vào thực tế.
- Phƣơng tiện:
+ Phƣơng tiện cho quá trình dạy là các tài liệu dạy học và cơ sở vật chất
phục vụ cho dạy học.
+ Phƣơng tiện học là sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, giấy bút,
phƣơng tiện kĩ thuật cá nhân…Trong đó phƣơng tiện dạy và phƣơng tiện học
có một phần giao nhau, tức là có một số phƣơng tiện đƣợc sử dụng đồng thời
cho hai quá trình dạy và học.
- Hình thức tổ chức dạy học: bao gồm dạy học trên lớp, ngoài trời, cơ sở
sản xuất, tham quan, hội thảo…
Hình thức học bao gồm học cá nhân, theo nhóm, tổ, lớp…
- Kết quả:
+ Kết quả của hoạt động dạy là GV thực hiện đƣợc mục đích dạy học,
thể hiện ở chất lƣợng HS.
+ Kết quả của hoạt động học là HS tiếp thu đƣợc các kiến thức, kĩ năng,
phƣơng pháp nhận thức mới, làm phát triển năng lực phẩm chất lên trình độ
cao hơn. Nhƣ vậy, kết quả của hoạt động học cũng chính là kết quả cuối cùng
của hoạt động dạy.
Sự khác nhau giữa hai hoạt động này cho thấy rằng: Muốn nâng cao
chất lƣợng dạy và học cần phải phối hợp cả hai hoạt động đó một cách linh
hoạt trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, hoạt động học của HS vẫn là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
khâu trung tâm của quá trình dạy học. Bởi vì, hoạt động dạy của GV mục tiêu
cuối cùng cũng nhằm tạo điều kiện cho HS thực hiện tốt hoạt động học.
Tâm lí học hiện đại đã chứng tỏ rằng năng lực của mỗi cá nhân không
phải do bẩm sinh mà phần lớn nó đƣợc hình thành và phát triển thông qua
quá trình hoạt động của bản thân.
HS miền núi chậm phát triển là do không có điều kiện thuận lợi cho họ
hoạt động nhận thức. Vì vậy, muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển trí lực cho HS
miền núi cần tổ chức cho HS hoạt động nhiều hơn để thông qua hoạt động mà
mỗi cá nhân có cơ hội phát triển nhanh hơn.
1.2.1.4. Sự phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học.
Từ sự phân tích hoạt động dạy và hoạt động học nhƣ trên, chúng ta thấy
hoạt động dạy của GV bắt đầu từ khi soạn giáo án. GV phải đọc kĩ nội dung
để phát hiện vị trí, tính chất của nội dung mà bài học có liên quan với bài
trƣớc, chuẩn bị cho bài sau. Nội dung bài thuộc loại nào? đơn giản hay phức
tạp, cần đến những tài liệu tham khảo nào. Từ đó GV cân nhắc xem trình độ
của HS đang ở mức độ nào, phƣơng tiện kĩ thuật và cơ sở vật chất phục vụ
cho quá trình giảng dạy ra sao, điều kiện sƣ phạm thế nào?... để xác định mục
đích, yêu cầu, những kiến thức, kĩ năng cơ bản mà HS cần phải nắm đƣợc, dự
kiến hình thức tổ chức hoạt động ra sao? lựa chọn phƣơng pháp gì cho phù
hợp. Đó chính là hoạt động độc lập của GV chuẩn bị cho sự phối hợp với hoạt
động của HS ở trên lớp.
Trong giờ lên lớp, với vai trò là ngƣời hƣớng dẫn, GV lần lƣợt thực hiện
nội dung giáo án theo kế hoạch đã dự kiến. Ở đây có sự phối hợp linh hoạt, ăn
khớp giữa hoạt động dạy của GV với hoạt động học của HS. Dƣới sự hƣớng
dẫn của GV, HS thực hiện các thao tác, các hành động học tập để chiếm lĩnh
những kiến thức và kĩ năng mới. Sau khi chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng trên
lớp HS tiếp tục tự học để hiểu, ghi nhớ và vận dụng vào bài tập để rèn luyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
kĩ năng, tái hiện bằng ngôn ngữ nói hoặc viết, tự kiểm tra điều chỉnh, khắc sâu
kiến thức, kĩ năng để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh mới.
1.2.2. Các phương pháp dạy học tích cực
1.2.2.1.Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.
- Dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của HS
Nét đặc thù của hoạt động dạy học là: HS vừa là đối tƣợng vừa là chủ
thể của quá trình dạy học. HS không chỉ tiếp thu những kiến thức từ ngƣời
dạy, mà phải thông qua hoạt động tự lực để chiếm lĩnh nó và làm biến đổi bản
thân. Tâm lí học sƣ phạm cũng khẳng định rằng: nhân cách của trẻ đƣợc hình
thành và phát triển thông qua các hoạt động có ý thức của chủ thể. Vì vậy có
thể nói, hoạt động học là cách tốt nhất để làm biến đổi chính ngƣời học. Dạy
học không còn là sự truyền thông tin từ thầy sang trò, thầy không còn là
ngƣời truyền thông tin mà phải là ngƣời tổ chức, hƣớng dẫn, diều khiển các
hoạt động học tập của HS.
- Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học hơn là việc truyền thụ kiến thức
Diesteweg viết: “Ngƣời thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, ngƣời thầy giáo
giỏi dạy cách tìm ra chân lí”. Rèn luyện cho HS phƣơng pháp tự học không
chỉ là biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu của dạy
học. Con ngƣời đƣợc đào tạo trƣớc hết phải là con ngƣời năng động, có tính
tích cực, có khả năng tự học, tự nghiên cứu để tự hoàn thiện mình.
Mặt khác, trong một thời gian ngắn nhà trƣờng không thể trang bị kịp
cho HS những kiến thức cần thiết trong kho tàng kiến thức của nhân loại đang
ngày một phong phú thêm. Do vậy, GV phải tìm cách hình thành ở HS
phƣơng pháp và năng lực tự học, tự nghiên cứu để có thể tự chiếm lĩnh kiến
thức và hoàn thiện bản thân sau này.
- Tăng cường tính tự lực của cá nhân HS đồng thời chú trọng phối hợp
tương tác GV- HS và tương tác nhóm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Phƣơng pháp dạy học tích cực đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực của mỗi HS
trong quá trình tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì vậy, phải chú ý đến vai trò của
từng cá nhân trong hoạt động dạy học. Tuy nhiên, vai trò cá nhân chỉ có thể
phát huy tốt thông qua sự tƣơng tác giữa GV và HS, giữa HS và HS và tƣơng
tác giữa các nhóm với nhau, đó chính là phƣơng pháp học tập hợp tác. Trong
phƣơng pháp này, ngƣời ta đề cao vai trò giao tiếp giữa HS và HS. Để phát
huy vai trò của HS ngƣời ta thƣờng tổ chức việc học tập hợp tác theo kiểu
nhóm, tổ từ 4 đến 6 ngƣời. Học tập nhóm, tổ tạo cho HS có nhiều cơ hội bộc
lộ suy nghĩ, hiểu biết và thái độ của mình, cũng nhƣ biết cách bảo vệ ý kiến
của mình. Đó là cách tốt nhất để hình thành cho HS tính tích cực, độc lập và
sáng tạo trong suy nghĩ, cũng nhƣ hành động.
- Kết hợp đánh giá của GV và tự đánh giá của HS
Quá trình dạy học bao gồm hai hoạt động dạy và học, với hai chủ thể là
GV và HS. Trong quá trình này luôn có sự điều chỉnh và tự điều chỉnh. Vì
vậy, ngoài sự đánh giá của GV, phải có sự tự đánh giá của HS. Qua tự đánh
giá, HS sẽ đƣa ra những nhận định về bản thân và tự điều chỉnh cách học của
mình cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Trong phƣơng pháp dạy
học tích cực, ngƣời ta chú trọng đến việc dạy cho HS cách tự học đi kèm theo
là năng lực tự đánh giá của HS. Thiếu năng lực này HS không thể tự điều
chỉnh cách học của mình và không hoàn chỉnh đƣợc phƣơng pháp tự học. Nhƣ
vậy, năng lực tự học luôn gắn liền với năng lực tự đánh giá, tự điều chỉnh, mà
tự học là dấu hiệu của phƣơng pháp tích cực. Do vậy, khả năng rèn luyện
năng lực tự đánh giá của HS cũng là một dấu hiệu của phƣơng pháp dạy học
tích cực.
1.2.2.2. Một số phương pháp dạy học tích cực
Phƣơng pháp dạy học tích cực không phải là một phƣơng pháp dạy
học cụ thể, chuyên biệt nào đó, cũng không phải là sự phủ nhận các phƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
pháp dạy học truyền thống mà là muốn nhấn mạnh một định hƣớng khai thác
mặt tích cực của các phƣơng pháp dạy học hiện có. Những phƣơng pháp nhƣ
thuyết trình, đàm thoại…vẫn rất cần thiết trong quá trình dạy học. Điều cốt
yếu là phải lựa chọn và vận dụng các phƣơng pháp sao cho phù hợp với nội
dung của bài dạy và đặc biệt là phù hợp với đối tƣợng HS, trong đó cần chú ý
khai thác và sử dụng các kĩ thuật dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động nhận
thức và phát triển tƣ duy HS, hình thành cho các em khả năng độc lập, năng
động, sáng tạo trong việc tiếp thu và xử lí thông tin, cũng nhƣ trong việc giải
quyết những công việc cụ thể sau này.
a) Sử dụng phương pháp thuyết trình theo hướng tích cực hoá hoạt động của HS
Phƣơng pháp thuyết trình là một phƣơng pháp dạy học trong đó GV
dùng lời nói, chữ viết để trình bày, giảng giải nội dung bài học, còn HS chủ
yếu thụ động nghe, nhìn, ghi chép, tái hiện và ghi nhớ nội dung bài học.
Phƣơng pháp thuyết trình gồm các bƣớc sau:
- Bƣớc 1: Đặt vấn đề
Mục đích của việc này là nhằm thu hút sự chú ý của HS và tạo tâm thế
học tập, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, đồng thời
giới thiệu mục tiêu của bài học.
Cách đặt vấn đề có thể là dựa vào kiến thức, vốn sống, kinh nghiệm đã
có của HS hoặc dựa vào các tƣ liệu về lịch sử phát triển khoa học Vật lí, hoặc
dựa vào hiện tƣợng thực tế có liên quan…
- Bƣớc 2: Giải quyết vấn đề
Giải quyết theo từng nội dung trong bài, chú ý các đoạn chuyển tiếp
giữa các phần, minh hoạ- giải thích, nêu vấn đề và giải quyết…Có thể giải
quyết vấn đề theo con đƣờng qui nạp hoặc diễn dịch tuỳ theo đặc điểm nội
dung bài học.
- Bƣớc 3: Kết luận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Tóm tắt những nội dung trọng tâm, hệ thống hoá và chỉ ra lôgic giữa các
đơn vị kiến thức trong bài, củng cố bài học và giao nhiệm vụ tiếp cho HS.
Phƣơng pháp này có ƣu điểm là GV chủ động về mặt thời gian và kế
hoạch lên lớp, do đó cũng chủ động thiết kế lôgic nội dung, cập nhật bổ sung
kiến thức, tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, nhƣợc điểm lớn nhất của phƣơng
pháp này là là HS thụ động, việc truyền thụ kiến thức dễ mang tính áp đặt.
Do vậy, khi sử dụng phƣơng pháp này, cần chú ý các điểm sau:
+ Lời giảng của GV phải đủ to, rõ, không vi phạm các qui luật lôgic.
+ Tốc độ vừa phải, có định hƣớng ghi chép, theo dõi của HS.
+ Biết dừng đúng lúc với thời gian hợp lí.
+ Nội dung bài thuyết trình phải lôgic.
+ Tƣ thế, tác phong và cách diễn đạt của GV phải hấp dẫn, lôi cuốn HS.
b) Sử dụng phương pháp đàm thoại theo hướng tích cực hoá hoạt động học
tập của HS
Phƣơng pháp đàm thoại là phƣơng pháp trong đó GV đặt ra một hệ
thống câu hỏi, HS sẽ trả lời hay trao đổi với GV hoặc tranh luận giữa các
thành viên trong lớp với nhau, qua đó HS sẽ củng cố, ôn tập kiến thức cũ và
tiếp thu đƣợc kiến thức mới. Trong hệ thống câu hỏi, ngoài các câu hỏi chính
còn có những câu hỏi phụ để gợi ý khi HS gặp khó khăn.
Ngƣời ta thƣờng chia ra hai dạng đàm thoại chính là:
+ Đàm thoại tái hiện: các câu hỏi, vấn đề do GV đặt ra đòi hỏi HS nhớ,
tái hiện lại kiến thức, kinh nghiệm đã có thì có thể giải quyết đƣợc. Loại này
chủ yếu dùng để ôn tập, củng cố kiến thức.
+ Đàm thoại gợi mở hay vấn đáp tìm tòi: Trong vấn đáp tìm tòi GV luôn
đóng vai trò chỉ đạo, điều khiển hoạt động của HS. Hệ thống câu hỏi của GV
giữ vai trò chỉ đạo, định hƣớng hoạt động nhận thức của HS. Trật tự lôgic của
câu hỏi góp phần hƣớng dẫn HS từng bƣớc phát hiện ra bản chất của sự vật,
qui luật của hiện tƣợng và quá trình Vật lí.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Muốn nâng cao hiệu quả của phƣơng pháp vấn đáp tìm tòi, GV cần đầu
tƣ nâng cao chất lƣợng của các câu hỏi. Giảm bớt các câu hỏi có yêu cầu thấp
về mặt nhận thức (chỉ đòi hỏi tái hiện kiến thức). Tăng dần số câu hỏi có yêu
cầu cao về mặt nhận thức (câu hỏi có sự thông hiểu và sáng tạo trong vận
dụng kiến thức để trả lời câu hỏi, cũng nhƣ đòi hỏi cả sự phân tích, hệ thống
hoá, khái quát hoá…kiến thức).
Loại câu hỏi thứ hai có tác dụng kích thích tƣ duy tích cực của HS. Tuy
nhiên, cũng không nên xem thƣờng loại câu hỏi thứ nhất, vì không tích luỹ
kiến thức đến một mức độ nhất định nào đó thì khó mà tƣ duy sáng tạo.
c) Dạy học theo nhóm
Theo cách dạy này, lớp học đƣợc chia thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm
từ 4 đến 6 HS. Tuỳ vào mục đích sƣ phạm và vấn đề học tập mà GV phân
nhóm cho thích hợp. Nhóm đƣợc duy trì ổn định hoặc thay đổi theo từng tiết
học, các nhóm đƣợc giao cùng một nhiệm vụ hoặc giao những nhiệm vụ khác
nhau. Trong mỗi nhóm có nhóm trƣởng, nhóm trƣởng chịu trách nhiệm phân
chia công việc cho các nhóm viên thực hiện một phần công việc của nhóm.
Trong thực hiện công việc, các thành viên trong nhóm làm việc tích cực và
tạo không khí thi đua với các nhóm khác. GV cần có biện pháp để tạo ra
không khí thi đua này. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết
quả chung của cả lớp. Mỗi nhóm sẽ trình bày kết quả của mình trƣớc toàn lớp
và các nhóm có thể trao đổi, tranh luận với nhau về kết quả của nhóm khác
cũng nhƣ kết quả của nhóm mình.
Tiến trình dạy học theo nhóm (có thể là một phần tiết học, một tiết
học…) gồm những bƣớc sau:
- Bƣớc 1: GV làm việc chung với cả lớp
+ Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
+ Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
+ Hƣớng dẫn tiến trình hoạt động cho từng nhóm.
- Bƣớc 2: HS làm việc theo nhóm
+ Nhóm trƣởng phân công công việc cho từng thành viên. Từng cá nhân
thực hiện nhiệm vụ đƣợc phân công.
+ Trao đổi ý kiến thảo luận trong nhóm.
+ Cử đại diện để trình bày kết quả làm việc của nhóm.
- Bƣớc 3: Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp
+ Các nhóm lần lƣợt báo cáo kết quả.
+ Các nhóm trao đổi, thảo luận chung.
+ GV nhận xét, bổ sung, hoàn chỉnh và đƣa ra kết luận cuối cùng. Chỉ ra
những kiến thức HS cần lĩnh hội.
Với phƣơng pháp dạy học hợp tác nhóm, cho phép các thành viên trong
nhóm chia sẻ kinh nghiệm và những hiểu biết cho nhau, cũng nhƣ những
vƣớng mắc, những băn khoăn suy nghĩ của bản thân. Nhờ sự trao đổi, thảo
luận giữa các thành viên trong nhóm và giữa các nhóm giúp cho HS dễ hiểu
và dễ nhớ bài hơn.
Tuy nhiên, việc tổ chức cho HS học tập theo nhóm ngay tại lớp bị hạn
chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học
nên GV phải biết tổ chức hợp lí mới có kết quả. Không nên lạm dụng các hoạt
động nhóm và cần đề phòng xu hƣớng hình thức. Cần lƣu ý, trong hoạt động
nhóm, tƣ duy tích cực của HS phải đƣợc phát huy và ý nghĩa quan trọng của
nó là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.
c) Dạy học theo lí thuyết kiến tạo
- Cơ sở của lí thuyết kiến tạo
+ Học trong hoạt động.
Học là một hoạt động đặc thù của con ngƣời, trong đó ngƣời học vừa là
chủ thể, vừa là đối tƣợng tác động. Bởi vậy, cách học tốt nhất là học trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
hoạt động và thông qua hành động. Do đó, thầy giáo phải tổ chức tình huống
để đƣa HS vào hoạt động, qua đó HS kiến tạo đƣợc kiến thức, phát triển trí
tuệ và nhân cách.
+ Học là sự vƣợt qua khó khăn về nhận thức.
Những quan niệm sai lầm thƣờng tạo nên những trở lực cho HS trong
quá trình nhận thức. Vì thế, ngƣời ta nói rằng dạy học là xây dựng cái mới
trên nền cái cũ.
+ Học trong sự tƣơng tác.
Thông qua sự tƣơng tác giúp cho HS hiểu rõ và nắm vững hơn các kiến
thức khoa học. Do đó, việc học của HS sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn. Thông
qua thảo luận, tranh luận kiến thức đến với HS sẽ tự nhiên hơn, không áp đặt
và gƣợng ép.
+ Học thông qua hoạt động giải quyết vấn đề.
Thƣờng trƣớc những vấn đề đƣợc HS chấp nhận, thì các em có hứng thú
và nhu cầu tìm cách giải quyết. Chính sự tò mò đã tạo cho các em quyết tâm
tìm tòi câu trả lời. Đây là yếu tố tạo nên sự tích cực của hoạt động nhận thức
ở HS.
- Tiến trình dạy học theo lí thuyết kiến tạo
Dạy học theo lí thuyết kiến tạo gồm ba pha:
+ Pha chuyển giao nhiệm vụ.
Trong pha này ta cần làm cho HS ý thức đƣợc nhiệm vụ học tập.
+ Pha hành động giải quyết vấn đề.
Dƣới sự hƣớng dẫn và giúp đỡ của GV, HS tham gia hoạt động để xây
dựng kiến thức cho bản thân.
+ Pha tranh luận hợp thức hoá kiến thức và vận dụng kiến thức mới.
Các kiến thức mà HS đƣa ra có khi chƣa đầy đủ, chƣa thật chính xác và
khoa học. Vì vậy, GV cần tổ chức cho HS tranh luận, qua đó bổ sung, chỉnh lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
và hoàn chỉnh kiến thức mà HS cần thu nhận. Cuối cùng, GV tổ chức cho HS
vận dụng kiến thức mới vào những tình huống tƣợng tự.
- Hoạt động của GV trong dạy học theo lí thuyết kiến tạo
+ Tạo không khí học tập.
+ Tạo điều kiện để HS bộc lộ quan niệm riêng.
+ Tổ chức cho HS tranh luận về những quan niệm của mình.
+ Trọng tài trong những trƣờng hợp ý kiến tranh luận không ngã ngũ.
+ Tạo điều kiện và giúp HS nhận ra các quan niệm sai lầm của mình và
tự giác khắc phục chúng.
+ Trình bày tính hiển nhiên của các quan niệm khoa học.
+ Tổ chức cho HS vận dụng kiến thức thu nhận.
Các phƣơng pháp dạy học tích cực hình thành và phát triển từ lâu, tuy
nhiên do những yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành
những con ngƣời phát triển, năng động và sáng tạo, nên các phƣơng pháp này
ngày càng đƣợc đặc biệt quan tâm hơn. Trong các phƣơng pháp dạy học tích
cực, ngƣời ta đề cao vai trò hoạt động của HS, nhƣng không hề hạ thấp hay
giảm nhẹ vai trò của GV. Trái lại, GV càng có vai trò quan trọng hơn và đƣợc
chuyển đổi từ vai trò là ngƣời truyền đạt kiến thức sang vai trò là ngƣời tổ
chức, điều khiển, hƣớng dẫn hoạt động nhận thức của HS
12
.
1.3. Khái niệm, định luật Vật lí và thực trạng dạy- học các khái niệm và
định luật Vật lí ở trƣờng THPT miền núi hiện nay.
1.3.1. Khái niệm Vật lí.
1.3.1.1.Khái niệm Vật lí.
Khái niệm là một tƣ tƣởng phản ánh những dấu hiệu bản chất, khác biệt
của các sự vật hiện tƣợng của hiện thực. Khái niệm là kết quả của những quá
trình trừu tƣợng hoá, của sự tổng hợp khái quát biện chứng, đó là một hình
thức tƣ duy phản ánh những dấu hiệu chung và bản chất của các sự vật, hiện
tƣợng trong thế giới khách quan.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Khi tiếp xúc và quan sát các vật thể, các hiện tƣợng Vật lí, ta nhận thấy
chúng có dấu hiệu giống nhau. Các dấu hiệu chung ấy trong hàng loạt các sự
vật khác nhau chỉ phản ánh một mặt nào đó của hiện tƣợng, một tính chất nào
đó của vật thể đƣợc chọn lọc, xác định, đƣợc định nghĩa và trở thành khái
niệm Vật lí
10
.
Khái niệm Vật lí là kết quả của những quá trình trừu tƣợng hoá, khái
quát hoá mà trong đó diễn ra sự phản ánh những dấu hiệu chung bản chất của
các đối tƣợng, hiện tƣợng Vật lí. Những dấu hiệu này cho phép ta xác định
(định nghĩa) đối tƣợng, phân biệt nó với các đối tƣợng, hiện tƣợng khác
21
.
1.3.1.2. Các đặc điểm của khái niệm Vật lí.
Khái niệm Vật lí là hình thức cơ bản của nhận thức lí tính, hình thành do
kết quả của hoạt động tƣ duy, là giai đoạn cao nhất của sự phản ánh thế giới
vào trong nhận thức của con ngƣời. Mỗi khái niệm có một nội hàm riêng, nội
hàm này đƣợc xác định bởi một tập hợp những dấu hiệu chung, thuộc tính bản
chất Vật lí nào đó. Khái niệm Vật lí dù cụ thể, dễ hiểu hay trừu tƣợng khó
hiểu, song luôn phản ánh đúng đắn một thuộc tính nhất định của thế giới
khách quan.
Khái niệm Vật lí có tính chất trừu tƣợng và khái quát, nó khác về chất
so với cảm giác, tri giác và biểu tƣợng. Quá trình hình thành khái niệm về
đại lƣợng Vật lí đƣợc thực hiện từng bƣớc, từ việc mở ra các tính chất định
tính đến việc nghiên cứu mối liên hệ định lƣợng của các sự vật, hiện tƣợng,
dẫn đến các biểu thức, định nghĩa bằng lời. Việc vận dụng khái niệm nảy
sinh nhu cầu đo đạc, tính toán và xác lập đơn vị đo của đại lƣợng Vật lí.
Một số khái niệm Vật lí đƣợc hình thành trong cả một quá trình nhận thức.
Trong quá trình ấy khái niệm đƣợc mở rộng, củng cố, đƣợc vận dụng theo
nhiều khía cạnh khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Khái niệm Vật lí rất nhiều vẻ, nội dung rộng hẹp khác nhau, có khái
niệm định tính, có khái niệm mang cả tính chất định tính lẫn định lƣợng.
Dung lƣợng của khái niệm đƣợc xác lập bởi tập hợp những đối tƣợng Vật lí
có cùng những dấu hiệu và thuộc tính bản chất, phản ánh những tính chất
chung của khái niệm. Các thuộc tính, dấu hiệu và quan hệ khác biệt không thể
hiện bản chất mức độ nhƣ nhau trong các khái niệm.
Mỗi khái niệm đều nằm trong mối quan hệ nào đó với các khái niệm
khác trong quá trình nhận thức tiếp theo về thế giới, dẫn đến hình thành
những khái niệm mới phản ánh sâu sắc hơn bản chất của sự vật. Nói cách
khác, khái niệm mới xuất hiện do nhu cầu giải quyết một mâu thuẫn giữa sự
hiểu biết đã có và sự chƣa hiểu biết và cũng là kết quả của sự giải quyết mâu
thuẫn đó. Ví dụ: để mô tả tính chất nhanh hay chậm của các chuyển động
thẳng đều thì ta dùng khái niệm vận tốc là đủ. Nhƣng khi nghiên cứu chuyển
động của các hòn bi trên các mặt phẳng nghiêng khác nhau, ta thấy một hiện
tƣợng mới là vận tốc của chúng thay đổi, tăng dần và khác nhau. Dùng đại
lƣợng Vật lí nào trong các khái niệm đã biết (đƣờng đi, thời gian hay vận tốc)
biểu thị đƣợc tính chất mới đó. Mâu thuẫn xuất hiện và chỉ có thể giải quyết
mâu thuẫn đó bằng cách xây dựng một khái niệm mới: khái niệm gia tốc.
Khái niệm Vật lí xuất hiện ở một thời kì nào đó phản ánh một trình độ
nhận thức nhất định của con ngƣời lúc đó. Nội dung khái niệm đƣợc bổ sung,
phát triển và biến đổi phù hợp với trình độ khoa học đƣơng thời. Ví dụ: trong
cơ học cổ điển, khối lƣợng, chiều dài và thời gian đều bất biến, nhƣng trong
cơ học tƣơng đối tính (v c) thì chúng lại là hàm của vận tốc của vật:
m =
22
0
/1 cv
m
; l = l0
22 /1 cv
;
22
0
/1 cv
t
t
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
1.3.1.3. Các loại khái niệm Vật lí.
Khái niệm Vật lí có hai loại chính: khái niệm định tính và khái niệm
định lƣợng. Khái niệm định tính miêu tả các hành vi của tự nhiên nhƣng
không phục tùng một quá trình đo nào và về nguyên tắc không phải đo, bao
gồm các khái niệm về hiện tƣợng, sự vật cụ thể, hạt vĩ mô, trƣờng Vật lí, các
thuộc tính Vật lí…
Khái niệm định lƣợng: đối tƣợng tƣ duy là những đại lƣợng có thể miêu
tả các hành vi của tự nhiên phục tùng theo những quá trình đo và về nguyên
tắc có thể đo hoặc xác định đƣợc, thƣờng đƣợc biểu diễn bằng các biểu thức
toán học, bao gồm khái niệm về các đại lƣợng Vật lí, về đơn vị…
10
Trong các loại khái niệm Vật lí thì khái niệm về đại lƣợng Vật lí có tầm
quan trọng đặc biệt. Mỗi một đại lƣợng Vật lí đều có hai đặc điểm: đặc điểm
định tính và đặc điểm định lƣợng. Đặc điểm định tính là biểu thị một tính chất
Vật lí nào đó của sự vật, hiện tƣợng. Đặc điểm định lƣợng cho ta biết cách đo
cƣờng độ lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu của tính chất Vật lí đó.
Những khái niệm về đại lƣợng Vật lí đƣợc đặc trƣng bởi sự thống nhất
giữa đặc điểm định tính và đặc điểm định lƣợng.
Những định nghĩa của các đại lƣợng Vật lí đƣợc phát biểu rõ ràng, chính
xác. Phân tích nội dung định nghĩa một đại lƣợng Vật lí xác định, cần thấy rõ
cả dấu hiệu định tính lẫn dấu hiệu định lƣợng. Một đại lƣợng Vật lí biểu thị số
đo định lƣợng một tính chất Vật lí nào đó của sự vật, hiện tƣợng. Sự thông
hiểu kiến thức về một đại lƣợng Vật lí phải thể hiện ở chỗ phản ánh đƣợc mối
liên hệ giữa hai mặt định tính và định lƣợng của một tính chất Vật lí xác định.
Nói cách khác, qua định nghĩa một đại lƣợng Vật lí phải trả lời đƣợc các câu
hỏi theo cả hai chiều: đại lƣợng này biểu thị số đo định lƣợng của tính chất
Vật lí gì? Dựa vào cái gì để xác định (biểu thị) đƣợc số đo định lƣợng của tính
chất Vật lí này? Nghĩa là nếu xuất phát từ dấu hiệu định lƣợng thì cần tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
hiểu, làm sáng tỏ dấu hiệu định tính, và ngƣợc lại, nếu xuất phát từ dấu hiệu
định tính thì cần làm sáng tỏ dấu hiệu định lƣợng của tính chất Vật lí đang
xét. Trong việc dạy học kiến thức về một đại lƣợng Vật lí, đòi hỏi GV phải
định hƣớng, kiểm tra nhận thức của HS về cả hai khía cạnh định tính và định
lƣợng trong khái niệm về đại lƣợng đó và đi đến diễn đạt bằng lời định nghĩa
đại lƣợng.
Khái niệm về một đại lƣợng Vật lí đƣợc xây dựng trong quá trình xem
xét sự vật hiện tƣợng Vật lí, phân tích các kết quả quan sát, thực nghiệm hoặc
các kết quả suy luận, tính toán lí thuyết, nhận ra đƣợc sự tồn tại của một tính
chất nào đó của sự vật hiện tƣợng liên quan đến sự tồn tại của một mối tƣơng
quan bất biến nào đó ở tất cả các sự vật hiện tƣợng cụ thể thuộc cùng một lớp,
có thể biểu đạt bằng cùng một biểu thức toán học, nhƣng giá trị định lƣợng của
biểu thức này tƣơng ứng với mỗi trƣờng hợp cụ thể khác nhau là khác nhau.
Các đại lƣợng Vật lí có thể là đại lƣợng vô hƣớng (ví dụ: khối lƣợng,
công, năng lƣợng…) hoặc đại lƣợng véc tơ (ví dụ: vận tốc, gia tốc, lực, động
lƣợng…). Vì vậy, trong việc dạy học các khái niệm về đại lƣợng Vật lí cụ thể,
GV cần làm cho HS nắm vững tính chất vô hƣớng hay tính chất véc tơ của đại
lƣợng Vật lí cụ thể đang nghiên cứu.
Trị số của một đại lƣợng Vật lí cụ thể đƣợc xác định theo đơn vị đo
của của đại lƣợng đó. Đối với các đại lƣợng Vật lí cơ bản (ví dụ: khối
lƣợng, chiều dài…), đơn vị đo là một mẫu cụ thể đƣợc xác định theo quy
ƣớc. Còn đối với các đại lƣợng Vật lí dẫn xuất (ví dụ: vận tốc, gia tốc,
lực…) thì đơn vị đo đƣợc xác định tuỳ thuộc vào mối liên hệ của đại lƣợng
đó với các đại lƣợng Vật lí cơ bản đã chọn. Một trong những yêu cầu của
việc dạy học kiến thức Vật lí là phải đảm bảo cho HS nắm vững đƣợc đơn
vị đo của đại lƣợng Vật lí đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Ngƣời ta còn phân biệt các đại lƣợng có thứ nguyên (ví dụ: vận tốc,
động lƣợng…) và các đại lƣợng không có thứ nguyên (ví dụ: hệ số ma sát,
hằng số điện môi…).
Một đại lƣợng Vật lí bao giờ cũng có mối liên hệ nào đó với các đại
lƣợng khác bằng một công thức toán học cụ thể. Nói cách khác, công thức
Toán- Vật lí biểu thị mối liên hệ đa phƣơng của một đại lƣợng Vật lí. Mặt khác,
một đại lƣợng Vật lí lại có thể có mặt trong nhiều mối liên hệ khác nhau đối
với các đại lƣợng Vật lí khác, nghĩa là có thể có nhiều công thức khác nhau
cùng chứa một đại lƣợng Vật lí nhất định (ví dụ: đại lƣợng gia tốc trong các
công thức xác định lực, vận tốc, đƣờng đi…). Vì vậy, muốn HS hiểu sâu sắc và
vận dụng đƣợc kiến thức về các đại lƣợng Vật lí thì trong quá trình dạy học,
GV cần hƣớng dẫn HS hệ thống hoá kiến thức và vận dụng kiến thức để nắm
đƣợc đầy đủ các mối liên hệ có liên quan đến từng đại lƣợng Vật lí đã học.
Sau đây, ta chỉ đề cập đến việc hình thành khái niệm về đại lƣợng Vật lí.
Việc hình thành các khái niệm Vật lí khác chỉ có mặt định tính (ví dụ: khái
niệm chân không, sự rơi, sự nhiễm điện, tia sáng, thấu kính…) thì đơn giản
hơn và cũng gồm một số giai đoạn giống nhƣ các giai đoạn hình thành một
đại lƣợng Vật lí.
1.3.1.4. Các giai đoạn điển hình của quá trình hình thành những khái niệm về
đại lượng Vật lí.
Không thể đƣa ra một sơ đồ chung, duy nhất cho việc hình thành tất cả
các khái niệm về đại lƣợng Vật lí, bởi vì tính chất muôn hình muôn vẻ của các
sự kiện và hiện tƣợng Vật lí. Ngay trong lịch sử Vật lí học, ta thấy con đƣờng
phát hiện ra những đặc tính của sự vật, hiện tƣợng Vật lí và xây dựng những
khái niệm tƣơng ứng cũng rất đa dạng, phức tạp, nhiều khi rất quanh co trong
một thời gian dài. Mặt khác, đặc điểm của các lớp HS cũng rất đa dạng, làm
cho quá trình hình thành các khái niệm Vật lí cũng rất khác nhau. Dƣới đây,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
ta chỉ vạch ra những giai đoạn điển hình của quá trình đó và nội dung chính
của mỗi giai đoạn. Khi vận dụng vào xây dựng từng khái niệm cụ thể, ta có
thể thay đổi ngay cả trình tự các giai đoạn cũng nhƣ những hành động cụ thể
trong mỗi giai đoạn cho thích hợp nhằm đạt kết quả cao nhất.
- Giai đoạn 1: Phát hiện đặc điểm định tính của khái niệm.
Nhƣ trên đã nói, trong dạy học Vật lí, một khái niệm mới đƣợc xây
dựng để giải quyết một mâu thuẫn giữa sự hiểu biết đã có và sự chƣa hiểu
biết, có nghĩa là: những khái niệm đã có chƣa đủ để mô tả, lí giải đƣợc những
sự vật, hiện tƣợng mới xuất hiện. Bởi vậy, trƣớc hết, GV cần tạo điều kiện để
HS ý thức đƣợc mâu thuẫn đó, phát hiện đƣợc những mặt mới của sự vật hiện
tƣợng mà nếu dùng những khái niệm đã biết thì không thể hiểu đƣợc. Muốn
thế, GV tạo ra một tình huống, trong đó xuất hiện tính chất mới của sự vật,
hiện tƣợng. Ví dụ: GV có thể giới thiệu (hoặc yêu cầu HS nhớ lại) sự kiện gần
gũi với đời sống hằng ngày của HS, sử dụng một thí nghiệm đơn giản để làm
xuất hiện một hiện tƣợng mới, làm một bài tập vận dụng khái niệm cũ để giải
quyết một vấn đề mới. Nhƣng những cố gắng nỗ lực của HS trong việc sử
dụng vốn kiến thức cũ, khái niệm cũ đều không giải quyết đƣợc nhiệm vụ đề
ra, bắt buộc phải đƣa ra một khái niệm mới. Lúc đó, HS hiểu rõ việc đƣa ra
khái niệm mới để làm gì, để đặc trƣng cho tính chất mới nào của sự vật, hiện
tƣợng. Trả lời đƣợc câu hỏi đó chính là đã phát hiện đƣợc đặc điểm định tính
của khái niệm.
- Giai đoạn 2: Chỉ ra đặc điểm định lượng của khái niệm.
Nói cách khác là chỉ rõ mối liên hệ định lƣợng giữa khái niệm mới với
khái niệm cũ, cách xác định độ lớn của khái niệm mới. Đặc điểm định lƣợng
phải thống nhất với đặc điểm định tính, phản ánh đƣợc đặc điểm định tính.
Thông thƣờng, đặc điểm định lƣợng của đại lƣợng Vật lí mới đƣợc biểu diễn
bằng một công thức toán học liên hệ giữa đại lƣợng mới với đại lƣợng cũ đã
biết. Thƣờng có hai cách để tìm ra đặc điểm định lƣợng của khái niệm mới:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
+ Cách 1: Nếu đã biết trƣớc đặc điểm định tính của khái niệm, ta có thể
xuất phát từ đặc điểm định tính đó, dựa trên sự phân tích mối quan hệ giữa khái
niệm mới với các khái niệm cũ, tìm ra một biểu thức định lƣợng giữa các khái
niệm cũ, biểu thức này có giá trị càng lớn khi đặc tính mới của sự vật và hiện
tƣợng có biểu hiện càng mạnh và ngƣợc lại. Ví dụ: ta tìm đƣợc biểu thức
t
s
và
nhận thấy nó có giá tri càng lớn khi chuyển động càng nhanh và ngƣợc lại. Vậy
biểu thức
t
s
này biểu thị tính chất nhanh hay chậm của chuyển động.
+ Cách 2: Nếu chƣa biết trƣớc đặc điểm định tính của khái niệm thì ta
không thể dựa vào đặc điểm định tính để tìm đặc điểm định lƣợng mà phải
làm một cách độc lập. Ta sử dụng những đại lƣợng và định luật đã biết để
khảo sát một hiện tƣợng mới và tìm đƣợc một biểu thức luôn luôn có một
giá trị không đổi khi các đại lƣợng có mặt trong biểu thức đó thay đổi, giá
trị của biểu thức này chỉ phụ thuộc vào bản thân của sự vật, hiện tƣợng, mà
không phụ thuộc vào các đại lƣợng bên ngoài. Biểu thức này đƣợc coi là
đặc trƣng cho một tính chất nào đó của chính bản thân sự vật, hiện tƣợng
mà ta chƣa biết, có thể dùng để đặc trƣng cho một tính chất nào đó của sự
vật, hiện tƣợng. Phân tích ý nghĩa thực tiễn của biểu thức đó, ta sẽ biết
đƣợc biểu thức đó đặc trƣng cho tính chất nào của sự vật, hiện tƣợng, nghĩa
là tìm đƣợc đặc điểm định tính của khái niệm. Cũng có khi ta gọi đó là ý
nghĩa Vật lí của biểu thức tìm đƣợc. Có nhiều trƣờng hợp, sau khi xác định
đƣợc đặc điểm định lƣợng, ta mất rất nhiều thời gian mới tìm đƣợc đặc
điểm định tính hay ý nghĩa Vật lí của biểu thức định lƣợng. Ví dụ: khi khảo
sát sự va chạm giữa hai vật có khối lƣợng m1 và m2, ngƣời ta nhận thấy
rằng: tổng các tích mv của chúng (m1v1 + m2v2) luôn luôn là một hằng số,
không phụ thuộc vào cách thức va chạm:
m1v1 + m2v2 = '
22
'
11 vmvm
.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Vậy tích mv của các vật có một ý nghĩa, vai trò quan trọng trong
tƣơng tác giữa hai vật, nó chắc chắn đặc trƣng cho một đặc tính nào đó của
hai vật tƣợng tác. Ta tạm đặt cho nó một cái tên là động lƣợng của vật. Một
sự phân tích tỉ mỉ về sau mới thấy đƣợc động lƣợng đặc trƣng cho chuyển
động của vật xét về mặt động lực học, hoặc động lƣợng là số đo chuyển
động cơ học của vật.
+ Cách 3: Vì đặc điểm định lƣợng của khái niệm về đại lƣợng Vật lí
biểu thị một mối quan hệ khách quan giữa khái niệm mới với các khái niệm
cũ nên nhiều khi nó cũng xuất hiện đồng thời với định luật Vật lí biểu thị mối
quan hệ đó. Ví dụ: đại lƣợng mv trong cách 2 nêu ở trên cũng nằm trong công
thức của định luật bảo toàn động lƣợng. Công thức của định luật II Niutơn
F = ma cũng chính là công thức của khái niệm lực.
- Giai đoạn 3: Định nghĩa đại lượng Vật lí.
Định nghĩa khái niệm là quá trình nhận thức, làm rõ các thuộc tính bản
chất của các sự vật, hiện tƣợng, làm rõ mối quan hệ giữa chúng. Định nghĩa
cần dựa trên các cứ liệu thực tế, tuân theo các qui tắc: phải tƣơng xứng, không
đƣợc vòng quanh luẩn quẩn, không đƣợc phủ định nhau, ngắn gọn, rõ nghĩa.
Theo lôgic học, khi định nghĩa một khái niệm, ta phải thực hiện hai
nhiệm vụ:
+ Phân biệt sự vật cần định nghĩa với tất cả những sự vật khác tiếp cận
với nó.
+ Vạch ra những dấu hiệu bản chất của sự vật cần định nghĩa (nội hàm
của khái niệm).
Để thực hiện đƣợc hai nhiệm vụ ấy, trong lôgic học, thƣờng dùng phổ
biến là định nghĩa thông qua giống và khác biệt về loài. Công thức chung của
loại định nghĩa này là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Khái niệm muốn
định nghĩa
=
Khái niệm
giống
+
Thuộc tính bản
chất của loài
Ví dụ: Động năng là năng lƣợng do chuyển động mà có. Nhƣ vậy, muốn
định nghĩa động năng, ta phải đƣa ra một khái niệm đã biết có ngoại diên bao
trùm lên ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa, là khái niệm năng lƣợng
(giống), sau đó nêu thêm những thuộc tính bản chất của động năng (loài) là do
chuyển động mà có để phân biệt với các dạng năng lƣợng khác nhƣ thế năng.
Tuy nhiên, trong Vật lí học, nhiều khi mỗi đại lƣợng vật lí thuộc một
loại đặc biệt, không thể phân chia đƣợc theo giống và loài, mặc dù chúng có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Ví dụ: vận tốc v có quan hệ với đƣờng đi s và thời
gian t theo công thức v =
t
s
, nhƣng không thể nói vận tốc là cùng một giống
với quãng đƣờng đi, chúng có bản chất khác nhau, biểu thị hai tính chất hoàn
toàn khác nhau của chuyển động: vận tốc biểu thị tính chất nhanh hay chậm
của chuyển động, còn đƣờng đi biểu thị khoảng cách giữa vị trí ban đầu và vị
trí cuối của vật chuyển động. Bởi vậy, cách định nghĩa “vận tốc là quãng
đƣờng đi đƣợc trong một đơn vị thời gian” sẽ dẫn tới sự hiểu lầm rằng vận tốc
và quãng đƣờng đi có cùng bản chất.
Với quan niệm nhƣ trên, đối với đa số các đại lƣợng Vật lí, ngƣời ta
dùng hình thức định nghĩa thứ hai: định nghĩa bằng cách nêu toàn bộ nội hàm
của khái niệm, nghĩa là nêu cả đặc điểm định tính và đặc điểm định lƣợng của
khái niệm. Ví dụ: “Vận tốc là đại lƣợng Vật lí đặc trƣng cho tính chất nhanh
hay chậm của chuyển động và đo bằng thƣơng số giữa quãng đƣờng đi đƣợc
và thời gian để đi hết quãng đƣờng đó”.
Đối với các đại lƣợng Vật lí, đặc điểm định lƣợng phản ánh đặc điểm
định tính, thống nhất với đặc điểm định tính, nhƣng đặc điểm định lƣợng có
vai trò nổi bật hơn do mối liên hệ với các đại lƣợng khác cũng nhƣ yêu cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
phải đo lƣờng chính xác, cách diễn đạt bằng lời cũng gọn gàng rõ ràng hơn.
Do đó, nhiều khi trong định nghĩa, ngƣời ta chỉ nêu đặc điểm định lƣợng của
đại lƣợng Vật lí, còn đặc điểm định tính coi nhƣ giải thích ý nghĩa Vật lí của
khái niệm, có thể diễn đạt bằng mệnh đề nằm ngoài định nghĩa. Ở trƣờng phổ
thông, ta chỉ nên dùng hình thức gọn gàng trong trƣờng hợp việc diễn đạt đặc
điểm định tính khá phức tạp. Ví dụ: khi mới bắt đầu nghiên cứu khái niệm
công cơ học, ta chỉ có thể định nghĩa: “Công là đại lƣợng đo bằng tích số của
lực F và quãng đƣờng đi s do tác dụng của lực, và cosin của góc giữa
hƣớng của lực và hƣớng của đƣờng chuyển dời: A = F.s.cosin ”. Còn đặc
điểm định tính của công thì mãi về sau mới xác định đƣợc: “Công là đại
lƣợng biểu thị phần năng lƣợng truyền từ vật này sang vật khác hay biến đổi
từ dạng này sang dạng khác”.
- Giai đoạn 4: Xác định đơn vị đo.
Đo một đại lƣợng Vật lí cần phải thoả mãn hai yêu cầu:
+ So sánh hai đại lƣợng cùng loại bằng nhau. Điều đó có nghĩa là phải
chọn đƣợc một “vật mẫu” để so sánh với vật khác có đặc điểm định lƣợng
bằng đặc điểm định lƣợng của vật mẫu.
+ Xác định đƣợc một đại lƣợng cùng loại với vật mẫu.
Những yêu cầu này đặc biệt khó khăn khi “vật mẫu” lại là khái niệm
trừu tƣợng.
Trong Vật lí học, có hai loại đơn vị: đơn vị cơ bản và đơn vị dẫn xuất.
Đơn vị cơ bản thì có thể tuỳ chọn, không phụ thuộc vào đơn vị đo các đại
lƣợng khác (ví dụ: đơn vị đo độ dài, thời gian, khối lƣợng trong cơ học). Còn
các đơn vị dẫn xuất đều đƣợc xác định dựa trên công thức định nghĩa của đại
lƣợng vật lí muốn đo. Đơn vị để đo một đại lƣợng là một trƣờng hợp riêng, cụ
thể của chính đại lƣợng đó. Ví dụ đơn vị đo chiều dài chỉ có thể là chiều dài
của vật làm mẫu (cái thƣớc mét mẫu), đơn vị đo công suất chỉ có thể là công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
suất của một máy làm mẫu. Trong khi định nghĩa đơn vị, ta phải xác định rõ
vật làm mẫu đó. Trong trƣờng hợp vật làm mẫu ở trạng thái động thì định
nghĩa khá phức tạp. Ví dụ “đơn vị gia tốc là gia tốc của một vật chuyển động,
trong đó vận tốc của vật biến thiên đƣợc một lƣợng bằng một đơn vị vận tốc
trong một đơn vị thời gian”. Không nên cho rằng việc định nghĩa đơn vị đo
đại lƣợng nhƣ thế là “dài dòng”, “lủng củng”, rồi đi đến chỗ thực dụng chủ
nghĩa, cho HS biết ngay tên cụ thể của các đơn vị vật lí. Chính thông qua định
nghĩa đơn vị nhƣ trên, GV vạch rõ đƣợc cho HS cách đo một đại lƣợng Vật lí
là so sánh nó với đại lƣợng cùng loại đã đƣợc chọn làm mẫu. Mặt khác, do
việc định nghĩa đơn vị đƣợc tiến hành trên cơ sở công thức định nghĩa đại
lƣợng đó nên có tác dụng củng cố khái niệm về đại lƣợng này. Ngoài ra, định
nghĩa đơn vị đo nhƣ thế khiến HS hiểu đƣợc ý nghĩa của tên đơn vị đo, thấy
đƣợc đơn vị đó phụ thuộc vào các đơn vị khác nhƣ thế nào. Do đó về sau, HS
có thể biết cách suy ra đƣợc các đơn vị đo trong hệ thống đơn vị khác và biết
cách đổi đơn vị.
Cần lƣu ý rằng các công thức Vật lí, phƣơng trình Vật lí khác với các
công thức, phƣơng trình toán học ở chỗ đòi hỏi sự bằng nhau về giá trị của độ
lớn và về đơn vị, đó cũng là là một cơ sở để HS có thể tự kiểm tra sự đúng
đắn của một công thức hay một phƣơng trình mà họ thiết lập đƣợc.
- Giai đoạn 5: Vận dụng khái niệm vào thực tiễn.
Sau khi định nghĩa khái niệm, ta thu đƣợc một sản phẩm trừu tƣợng và
khái quát, tách rời khỏi những sự vật hiện tƣợng cụ thể. Nhƣng muốn sử dụng
đƣợc khái niệm đó, ta lại cần biết những biểu hiện của nó trong thực tiễn, trên
những sự vật hiện tƣợng cụ thể, phải vận dụng khái niệm mới để giải thích
những sự vật hiện tƣợng cụ thể, dự đoán những dấu hiệu, những hiện tƣợng
có thể cảm nhận đƣợc trong thực tiễn bằng giác quan, có thể đo lƣờng cụ thể.
Nhờ thế mà hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa Vật lí của khái niệm mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Trong quá trình hƣớng dẫn HS vận dụng khái niệm vào thực tiễn GV có
thể: Thông qua phân tích các ví dụ, bài toán thực tế, các sự kiện và hiện tƣợng
Vật lí liên quan đến sự vật, hiện tƣợng vừa nghiên cứu cần làm sáng tỏ ý nghĩa,
nội hàm và dung lƣợng của khái niệm, giúp HS thu nhận đƣợc những khía cạnh
mới chƣa đề cập đầy đủ trong bài giảng, mở rộng hiểu biết về khái niệm.
Quá trình vận dụng khái niệm vào thực hành đòi hỏi HS phải suy nghĩ,
ôn luyện, tự lực giải quyết nhiệm vụ nhận thức, từ đó hình thành trong họ kĩ
năng ứng dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, củng cố kiến thức và phát triển
trí lực ở họ
14
.
Ví dụ: sau khi đã biết định nghĩa chung của lực, có thể yêu cầu HS xác
định xem ta cần phải tác dụng lên một vật có khối lƣợng 2kg một lực là bao
nhiêu để vật đó có thể chuyển động trên một mặt phẳng nằm ngang, ma sát
không đáng kể và sau thời gian 10s (kể từ lúc tác dụng lực lên vật đang đứng
yên), vật đi đƣợc quãng đƣờng là 10m?
Trong quá trình vận dụng khái niệm vào thực tiễn, sẽ đến lúc ta gặp
những sự kiện mới, đòi hỏi phải mở rộng, bổ sung thêm cho khái niệm đƣợc
hoàn chỉnh. Tuy nhiên, việc mở rộng, bổ sung này còn phải tuỳ thuộc vào
trình độ HS mà xác định các mức độ thích hợp. Ví dụ: khái niệm gia tốc đƣợc
sơ bộ hình thành từ lớp 10, nhƣng đƣợc mở rộng, bổ sung đến tận lớp 12.
1.3.2. Định luật Vật lí.
1.3.2.1. Khái niệm định luật Vật lí.
Theo V.I. Lênin: “Khái niệm về qui luật là một trong những mức độ
nhận thức của con ngƣời về sự thống nhất và sự liên hệ, sự phụ thuộc lẫn
nhau và sự toàn bộ của một quá trình trong vũ trụ. Định luật là phản ánh của
vật chất tồn tại trong vận động”.
Định luật Vật lí là mối liên hệ khách quan, phổ biến giữa các thuộc tính
của các đối tƣợng, các quá trình và trạng thái đƣợc mô tả thông qua các đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
lƣợng Vật lí, tồn tại trong những điều kiện xác định và thể hiện khi những
điều kiện này xuất hiện, tƣơng đối bền vững và có thể lặp lại.
Các định luật vật lí mô tả những sự vật, hiện tƣợng trong tự nhiên có thể
nhận biết đƣợc bởi con ngƣời. Chúng có thể đƣợc con phát hiện thông qua
quan sát tự nhiên hoặc từ thí nghiệm, cũng có thể suy ra từ những định luật
tổng quát đã biết thông qua lập luận lôgic hay toán học
14
.
1.3.2.2. Đặc điểm của định luật Vật lí.
- Tính qui luật khách quan:
Mọi hiện tƣợng trong vũ trụ đều diễn ra có qui luật ngoài ý muốn chủ
quan của con ngƣời. Các hiện tƣợng và các thuộc tính Vật lí trong những điều
kiện xác định có mối liên hệ biện chứng, đƣợc lặp đi lặp lại phản ánh tính qui
luật của định luật Vật lí. Tính qui luật của các hiện tƣợng Vật lí là đặc điểm
cơ bản của các định luật Vật lí. Điều này có nghĩa là trong những điều kiện
nhất định, định luật phải đúng ở mọi nơi, mọi lúc và cho thấy phạm vi tác
dụng của các định luật Vật lí không giống nhau.
- Tính khái quát:
Định luật Vật lí là kết quả của một quá trình khảo sát các đối tƣợng Vật
lí, nghiên cứu các đặc trƣng, mối liên hệ của các đại lƣợng Vật lí từ các số
liệu, sự kiện thực tế hoặc thí nghiệm, bằng con đƣờng qui nạp hay diễn dịch
với sự khái quát cao độ. Định luật Vật lí là bƣớc phát triển tiếp theo cao hơn
và tất yếu của các khái niệm, nó đƣợc trình bày bằng mệnh đề biểu đạt mối
liên hệ giữa các đại lƣợng trong điều kiện xác định, thƣờng đƣợc diễn đạt
thông qua các biểu thức hoặc phƣơng trình toán học chính xác, rõ ràng.
- Tính phổ biến:
Định luật Vật lí luôn phản ánh đúng đắn một thực tế khách quan có thể
rộng hay hẹp của thế giới tự nhiên, nó chung cho hàng loạt các hiện tƣợng và
đƣợc ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống, sản xuất. Các định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
luật Vật lí có mối liên quan mật thiết với các khoa học khác, là cơ sở phát
triển của nhiều nghành kĩ thuật tiên tiến và công nghệ mới. Nó giúp con ngƣời
có thêm sức mạnh nhận thức và cải tạo thế giới tự nhiên.
- Tính phát triển:
Các định luật Vật lí đƣợc kiểm nghiệm, áp dụng trong hoạt động thực
tiễn của con ngƣời. Khoa học càng phát triển, phƣơng tiện thực nghiệm càng
tinh vi hiện đại thì một số định luật đƣợc mở rộng thêm, đính chính hoặc bổ
sung hoàn chỉnh. Điều ấy cho thấy, những điều nêu trong một số định luật
chƣa phải là chân lí tuyệt đối, nội dung của nó không phải cố định, mà do con
ngƣời ngày càng hiểu biết thiên nhiên đúng đắn và đầy đủ hơn thì các định
luật đƣợc phát triển hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, khi có một định luật đƣợc coi
là đúng thƣờng tiếp theo đó có khả năng có những phát minh mới, định luật
mới nảy sinh
10
.
1.3.2.3. Các loại định luật Vật lí.
Các định luật Vật lí có thể chia ra thành những loại sau:
- Định luật động lực học: cho biết một đối tƣợng riêng lẻ trong những
điều kiện đã cho sẽ hoạt động nhƣ thế nào (ví dụ: định luật thứ hai của
Niutơn, định luật Ôm cho một đoạn mạch…).
- Định luật thống kê: cho biết một số lớn các đối tƣợng riêng lẻ trong
một tập hợp sẽ thể hiện nhƣ thế nào trong những điều kiện đã cho (ví dụ: các
định luật đối với chất khí lí tƣởng…).
- Định luật bảo toàn: cho biết có một đại lƣợng Vật lí nào đó luôn không
đổi(ví dụ: định luật bảo toàn động lƣợng, định luật bảo toàn năng lƣợng, định
luật bảo toàn điện tích…). Số lƣợng các định luật bảo toàn không nhiều,
nhƣng chúng có ý nghĩa tổng quát cao, có thể bao trùm nhiều lĩnh vực hiện
tƣợng, cho nên chúng có vai trò quan trọng trong Vật lí học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Các định luật Vật lí thƣờng phản ánh mối liên hệ định lƣợng giữa các
đại lƣợng Vật lí xác định và trong những điều kiện nhất định. Chúng hoạch
định, chi phối sự tồn tại của các sự vật, hiện tƣợng Vật lí cụ thể. Bởi vậy,
trong việc dạy học kiến thức về một định luật Vật lí cần đảm bảo cho HS hiểu
rõ định luật Vật lí đó đề cập mối liên hệ của các đại lƣợng Vật lí nào và trong
điều kiện cụ thể nào. Ví dụ nhƣ định luật II Niutơn đề cập mối liên hệ giữa
gia tốc mà vật thu đƣợc với lực tác dụng lên vật và với khối lƣợng của vật, xét
trong điều kiện hệ quy chiếu quán tính; định luật Bôi- Mariôt đề cập mối liên
hệ giữa thể tích và áp suất của chất khí, xét với một khối lƣợng khí không đổi;
định luật Ôm cho đoạn mạch đề cập mối liên hệ giữa cƣờng độ dòng điện với
hiệu điện thế giữa hai đầu đoạn mạch và với điện trở của đoạn mạch, áp dụng
cho trƣờng hợp dòng điện không đổi chạy trong dây dẫn kim loại… Mặt khác
khi nghiên cứu từng hiện tƣợng Vật lí và khi hệ thống hoá kiến thức, HS phải
hiểu rõ đƣợc trong hiện tƣợng này có tồn tại mối liên hệ xác định nào, hay
hiện tƣợng này bị chi phối bởi định luật Vật lí nào.
Giữa các kiến thức về các đại lƣợng Vật lí và các định luật Vật lí có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Việc xây dựng kiến thức về định luật Vật lí dựa
trên kiến thức về các đại lƣợng Vật lí có liên quan. Ngƣợc lại, kiến thức về
định luật Vật lí giúp cho việc hiểu sâu sắc ý nghĩa của các đại lƣợng Vật lí và
nhiều khi việc xây dựng kiến thức về một đại lƣợng Vật lí diễn ra gần nhƣ
đồng thời với việc xây dựng kiến thức về một định luật Vật lí tƣơng ứng.
1.3.2.4. Các con đường hình thành những định luật Vật lí.
Dựa trên đặc điểm của hoạt động nhận thức trong khi đi tìm chân lí, có
thể có ba con đƣờng điển hình sau trong việc hình thành các định luật Vật lí :
- Đạt tới định luật thông qua quan sát trực tiếp và khái quát hoá thực nghiệm.
- Đạt tới định luật thông qua quan sát trực tiếp và khái quát hoá lí thuyết.
- Đạt tới định luật xuất phát từ những mệnh đề lí thuyết tổng quát đã biết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
a) Đạt tới định luật thông qua quan sát trực tiếp và khái quát hoá thực nghiệm.
Sự nhận thức định luật Vật lí thông qua quan sát trực tiếp và khái quát
hoá thực nghiệm tồn tại trong sự phát triển của Vật lí học và trong dạy học ở
một số lớn các trƣờng hợp trong giai đoạn đầu của quá trình nhận thức khoa
học. Lúc đó, kiến thức khoa học chƣa nhiều và còn tản mạn, chƣa thành hệ
thống chặt chẽ. Điều quan trọng ở đây là tạo cho HS khả năng có thể tiếp xúc
trực tiếp với đối tƣợng nhận thức, nhận biết đƣợc những dấu hiệu cảm tính
của chúng. Đó là điểm xuất phát và cũng là tiêu chuẩn để biết xem điều mà ta
nhận thức đƣợc có phải là chân lí không? Nhƣng quan sát trực tiếp bao giờ
cũng chỉ thu đƣợc những dấu hiệu bên ngoài rời rạc của sự vật, hiện tƣợng
xảy ra trong những điều kiện nhất định. Cần phải tiến hành một phép qui nạp
để rút ra những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính qui luật, nghĩa
là khái quát hoá thành một định luật Vật lí.
b) Đạt tới định luật thông qua quan sát trực tiếp và khái quát hoá lí thuyết.
Mục đích của sự nhận thức khoa học là phải phát hiện ra đƣợc bản chất
của sự vật, hiện tƣợng chứ không dừng lại ở nhận thức cảm tính. Điều đó chỉ
có thể đạt đƣợc thông qua sự khái quát hoá lí thuyết. Những kết luận của sự
khái quát hoá lí thuyết cho phép ta phát hiện ra những qui luật có thể giải
thích đƣợc những hiện tƣợng đã biết cũng nhƣ tiên đoán những hiện tƣợng
mới. Để thực hiện sự khái quát hoá lí thuyết, ngoài việc quan sát trực tiếp, còn
phải sử dụng các phƣơng pháp của sự nhận thức gián tiếp, đặc biệt là phép
suy luận diễn dịch. Phép suy luận diễn dịch giúp ta nhận thấy sự gắn bó bản
chất giữa các sự vật, hiện tƣợng riêng lẻ với những mệnh đề tổng quát, những
định luật; mỗi hiện tƣợng riêng lẻ là một biểu hiện cụ thể, một trƣờng hợp
riêng của một đặc tính chung của thế giới tự nhiên.
Con đƣờng nhận thức định luật Vật lí thông qua quan sát trực tiếp kết
hợp với khái quát hoá lí thuyết diễn ra theo các giai đoạn sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
+ Giai đoạn 1. Quan sát nhằm thu thập những cứ liệu thực nghiệm
(thông qua quan sát tự nhiên, thông qua thí nghiệm hay thông qua hiểu biết
kinh nghiệm đã tích luỹ đƣợc từ trƣớc). Ở giai đoạn này, HS phải mô tả bằng
lời hiện tƣợng quan sát đƣợc và những điều kiện trong đó hiện tƣợng diễn ra.
+ Giai đoạn 2. Khái quát hoá những kết quả quan sát đƣợc, làm nổi bật
cái chung, cái bản chất, cái giống nhau trong các sự vật, hiện tƣợng cụ thể
khác nhau; phân biệt những điều kiện không cơ bản với những điều kiện cơ
bản mà trong đó hiện tƣợng xảy ra. Ví dụ: khi quan sát một cái thƣớc thẳng
nhúng một phần vào nƣớc, ta thấy dƣờng nhƣ nó bị gãy. Ở đây, vật liệu làm
cái thƣớc, độ dày của cái thƣớc là điều kiện không cơ bản, còn sự tồn tại của
mặt phân cách giữa hai môi trƣờng trong suốt khác nhau về mặt quang học là
điều kiện cơ bản.
+ Giai đoạn 3. Giải thích những kết quả quan sát đƣợc
Ở giai đoạn này, hai trƣờng hợp có thể xảy ra:
- HS giải thích đƣợc kết quả quan sát nhờ vận dụng những kiến thức,
những định luật đã biết. Quá trình nhận thức kết thúc với sự giải thích này.
Nhƣ vậy, hoạt động nhận thức đi đến giải thích đƣợc một hiện tƣợng mới phát
hiện nhƣng không đem lại một định luật mới; nói cách khác là mở rộng đƣợc
phạm vi ứng dụng của định luật đã biết. Ví dụ: khi cho một tia sáng đi qua
một lăng kính, ta thấy nó luôn bị lệch về phía đáy. Giải thích vì sao? HS vận
dụng định luật khúc xạ ánh sáng và giải thích rõ ràng hiện tƣợng này. Nhƣ
vậy, mặc dù HS đã giải thích đƣợc một hiện tƣợng cụ thể mới nhƣng không
dẫn tới hình thành một định luật mới.
- HS đã vận dụng tất cả những kiến thức, những định luật đã biết để
giải thích hiện tƣợng nhƣng không thành công, bắt buộc phải đƣa ra một
phỏng đoán là hiện tƣợng diễn ra do một tính chất mới của sự vật, một qui
luật mới của hiện tƣợng mà trƣớc đây ta chƣa biết. Lời phỏng đoán đó là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
giả thuyết. Quá trình nhận thức cần phải đƣợc tiếp tục để xác định xem giả
thuyết đó có đúng đắn không?
Tuy nhiên, cần phải chú ý rằng nếu một giả thuyết đƣa ra chỉ để giải
thích một hiện tƣợng đã biết thì giả thuyết đó không có ý nghĩa khái quát,
không có giá trị khoa học cao. Ví dụ: quan sát sự rơi của một viên gạch và
một cái lá, ta thấy viên gạch rơi nhanh hơn cái lá. Tại sao lại nhƣ thế? Để trả
lời câu hỏi này, ta đƣa ra giả thuyết rằng: vì viên gạch nặng hơn cái lá. Đối
với trƣờng hợp cụ thể này thì giải thích đó là có lí, có thể tin tƣởng đƣợc.
Nhƣng nếu dùng giả thuyết “vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ” để giải thích sự
rơi của các vật khác lại không đúng. Mặt khác, giá trị của một giả thuyết còn
ở chỗ là nó có thể giúp ta tiên đoán đƣợc hiện tƣợng xảy ra trong những điều
kiện mới, hoàn cảnh mới mà trƣớc đây ta chƣa biết. Điều đó là một bằng
chứng để xem giả thuyết đã phản ánh đúng qui luật của tự nhiên chƣa.
Việc đƣa ra đƣợc nhiều giả thuyết khác nhau để giải thích cùng một hiện
tƣợng, rồi chọn lấy một giả thuyết có nhiều triển vọng nhất là một đặc trƣng
của tƣ duy sáng tạo. Không có con đƣờng lôgic để suy từ những sự kiện thực
nghiệm quan sát đƣợc đến những giả thuyết. Ở đây, có vai trò quan trọng của
trực giác, của sự nhạy cảm khoa học, một bƣớc nhảy vọt trong tƣ duy, có thể
rèn luyện cho HS dựa trên các lí thuyết về sự phát triển tâm lí học của Piaget
và Vƣgôtxki.
+ Giai đoạn 4. Kiểm tra sự đúng đắn của giả thuyết.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí. Cho nên, việc kiểm tra sự đúng đắn
của một giả thuyết chính là kiểm tra xem giả thuyết đó có phù hợp với thực
tiễn không? Thực tiễn này phải quan sát trong tự nhiên hay trong các thí
nghiệm. Có hai trƣờng hợp xảy ra:
- Kiểm tra ngay giả thuyết trong thực tiễn, không thông qua một suy luận
trung gian nào cả. Ví dụ: để kiểm tra giả thuyết “vật nặng rơi nhanh hơn vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
nhẹ”, ta có thể lấy từng cặp hai vật bất kì nặng nhẹ khác nhau để thả cho vật
rơi cùng một lúc ở cùng một độ cao: hòn đá với cái lá, cả tờ giấy và nửa tờ
giấy, một miếng bìa đặt nằm ngang và một mẩu phấn…Trong nhiều trƣờng
hợp, có thể gặp trƣờng hợp giả thuyết không đúng nhƣ trƣờng hợp miếng bìa
cứng tuy nặng hơn mẩu phấn nhƣng lại rơi chậm hơn mẩu phấn. Tuy nhiên,
cách kiểm tra này mang tính ngẫu nhiên, rất có thể sau nhiều lần làm thí
nghiệm mà không gặp lần nào giả thuyết là sai.
- Kiểm tra thông qua một hệ quả rút ra từ giả thuyết nhờ suy luận toán
học hay suy luận lôgic. Nếu sự suy luận đƣợc thực hiện chặt chẽ, đúng đắn thì
giữa giả thuyết và hệ quả có mối liên hệ bản chất. Hệ quả đúng với thực tiễn
thì điều đó có nghĩa là giả thuyết phản ánh đúng thực tiễn, nếu không đúng
với thực tiễn thì giả thuyết sai, phải bỏ đi. Điều quan trọng ở đây là hệ quả đó
phải là những hiện tƣợng có thể quan sát đƣợc trong thực tiễn.
Nhƣ vậy, sau khi rút ra hệ quả bằng suy luận lí thuyết, ta phải bố trí thí
nghiệm thích hợp để kiểm tra xem hệ quả dự đoán có xảy ra trong thực tế
không. Tất nhiên, hệ quả ở đây phải khác với hiện tƣợng ban đầu đã biết, đã
đƣợc dùng làm những sự kiện xuất phát để xây dựng giả thuyết. Trong trƣờng
hợp thí nghiệm khẳng định điều dự đoán trong hệ quả thì giả thuyết cũng
đƣợc khẳng định và đƣợc coi là chân lí, là định luật.
+ Giai đoạn 5. Vận dụng định luật vào thực tiễn.
Sau khi giả thuyết đã đƣợc xác nhận trong một số thí nghiệm, ta tiếp
tục vận dụng định luật để thử giải thích các hiện tƣợng khác hoặc để suy ra
hệ quả mới. Nếu định luật này càng giải thích đƣợc nhiều hiện tƣợng mới,
càng dự đoán đƣợc nhiều hiện tƣợng mới phù hợp với thực tế thì định luật
này càng có phạm vi áp dụng rộng hơn cho nhiều lĩnh vực, có thể trở thành
cơ sở cho một lí thuyết tổng quát hơn và quá trình nhận thức tiếp tục phát
triển sâu sắc hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
c) Đạt tới định luật xuất phát từ những mệnh đề lí thuyết tổng quát đã biết.
Con đƣờng này không thể thực hiện đƣợc trong giai đoạn đầu của quá
trình nhận thức về một lĩnh vực nào đó, vì nó đòi hỏi đã xác lập đƣợc một số
mệnh đề lí thuyết tổng quát. Đối với HS, chỉ có thể thực hiện ở các lớp trên
khi họ đã tích luỹ đƣợc khá nhiều kiến thức khái quát.
Điểm xuất phát của quá trình nhận thức này là các mệnh đề chắc chắn
hoặc chí ít là về mặt lí thuyết đã đƣợc coi là chắc chắn. Từ những mệnh đề đó,
có thể thực hiện phép suy luận diễn dịch, rút ra những hệ quả, những tiên
đoán có tính chất qui luật. Quá trình nhận thức này có thể trải qua các giai
đoạn sau:
+ Nêu lên một hiện tƣợng thực tế mà ta chƣa thể giải thích đƣợc hoặc
chƣa thể dự đoán đƣợc diễn biến của nó, chƣa thể biết đƣợc mối quan hệ giữa
một số đại lƣợng nào đó.
+ Nêu lên một mệnh đề lí thuyết mà ta dự đoán rằng có liên hệ đến hiện
tƣợng đang xét. Mệnh đề này phải có giá trị chân thật, nghĩa là đã đƣợc chứng
tỏ là chắc chắn.
+ Thực hiện một phép suy luận diễn dịch để từ mệnh đề lí thuyết, rút ra
một hệ quả lôgic trong đó nêu lên mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tƣợng
nhƣ một định luật Vật lí.
+ Làm thí nghiệm để kiểm tra dự đoán có phù hợp với thực tế không.
Nếu phù hợp thì hệ quả dự đoán trở thành một định luật.
Thông thƣờng, theo lôgic học, nếu các mệnh đề xuất phát là chân thực,
các phép suy luận theo đúng các qui tắc của suy luận diễn dịch thì kết quả của
phép suy luận cũng chắc chắn là đúng, không cần phải kiểm tra lại bằng thực
nghiệm. Tuy nhiên, ở trƣờng phổ thông, nhiều khi HS chƣa đủ kiến thức toán
học và trình độ tƣ duy để có thể thực hiện đƣợc một phép suy luận diễn dịch
hoàn hảo. Bởi vậy, nên tiến hành một thí nghiệm kiểm tra để tăng lòng tin ở
sự chắc chắn của kết quả thu đƣợc bằng suy luận ở trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Trong Vật lí học, thƣờng xảy ra trƣờng hợp một định luật Vật lí thoạt
đầu đƣợc nhận thức bằng con đƣờng quan sát trực tiếp kết hợp với khái quát
hoá lí thuyết. Nhƣng ngày nay, sau khi Vật lí đã xây dựng đƣợc những lí
thuyết tổng quát thì ngƣời ta lại tìm ra con đƣờng khác xuất phát từ một mệnh
đề lí thuyết để đi đến định luật đó. Con đƣờng này vừa gọn nhẹ hơn, vừa làm
cho HS thấy đƣợc tính thống nhất của giới tự nhiên
14
.
Ví dụ: định luật Ôm cho toàn mạch trong lịch sử vốn là một định luật
đƣợc phát hiện bằng con đƣờng quan sát trực tiếp, kết hợp với khái quát hoá lí
thuyết, còn ngày nay lại có thể suy ra nó từ định luật bảo toàn năng lƣợng và
định luật Jun- Lenxơ.
1.3.3. Thực trạng dạy- học các khái niệm và định luật Vật lí ở trường
THPT miền núi hiện nay.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã tiến hành điều tra,
khảo sát tại 3 trƣờng THPT thuộc địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn
của tỉnh Hoà Bình, đó là: trƣờng THPT Yên Thuỷ B thuộc huyện Yên Thuỷ,
trƣờng THPT Đại Đồng thuộc huyện Lạc Sơn, trƣờng THPT Lũng Vân thuộc
huyện Tân Lạc. Quá trình điều tra, khảo sát nhằm mục đích:
- Điều tra về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học cũng nhƣ việc
sử dụng chúng trong dạy học.
- Khảo sát chất lƣợng học tập môn Vật lí của HS khối 11, điều kiện học
tập, mục đích, động cơ, hứng thú, phƣơng pháp học tập, những yếu tố
ảnh hƣởng đến quá trình nhận thức của HS đối với bộ môn.
- Tìm hiểu phƣơng pháp giảng dạy của GV, đặc biệt là vấn đề đổi mới
phƣơng pháp giảng dạy cũng nhƣ việc thực hiện đổi mới chƣơng trình
SGK mới.
- Nghiên cứu phƣơng pháp giảng dạy các khái niệm và định luật Vật lí
của GV, khả năng nhận thức của HS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
1.3.3.1. Về cơ sở vật chất phục vụ dạy học.
Trong những năm gần đây, đƣợc sự quan tâm của Đảng và nhà nƣớc đối
với sự nghiệp giáo dục nói chung và đối với giáo dục của các tỉnh miền núi,
vùng sâu vùng xa nói riêng, bộ mặt trƣờng lớp của các trƣờng đã có nhiều cải
thiện rõ rệt. Tuy nhiên, nhìn chung về cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình
dạy và học đối với các trƣờng này còn nhiều thiếu thốn nhƣ: tuy các phòng
học đều đã đƣợc xây dựng khá kiên cố nhƣng cả 3 trƣờng đều thiếu phòng
học nên HS phải học cả hai ca sáng và chiều hay nhƣ trƣờng THPT Lũng Vân
còn phải chung cơ sở vật chất với trƣờng THCS, các trƣờng cũng đều chƣa có
phòng học bộ môn nên cũng ít nhiều ảnh hƣởng đến các hoạt động chuyên
môn của các nhà trƣờng nhất là trong việc dạy và học đối với các bộ môn cần
nhiều thời gian làm thí nghiệm nhƣ môn Vật lí.
Vì là năm thứ 2 thực hiện việc đổi mới chƣơng trình SGK nên các
trƣờng đều đã đƣợc trang bị tƣơng đối đầy đủ phƣơng tiện, thiết bị phục vụ
cho quá trình dạy và học. Tuy nhiên, do nhiều lí do cả chủ quan và khách
quan nên có rất nhiều bộ thí nghiệm đƣợc thiết kế không đồng bộ, hoặc chất
lƣợng không đảm bảo. Do đó ít nhiều có ảnh hƣởng đến mục đích sử dụng
của các phƣơng tiện, thiết bị. Thƣ viện của các trƣờng nói chung còn ít đầu
sách, chủ yếu là SGK còn các loại sách tham khảo thƣờng rất ít đặc biệt là
sách tham khảo về lí luận dạy học, chƣa có phòng đọc phục vụ cho nhu cầu
đọc của GV và HS.
1.3.3.2. Về tình hình học tập của HS.
Qua điều tra bằng phiếu thăm dò, tham khảo sổ điểm, các bài kiểm tra
khảo sát chất lƣợng của HS, qua trao đổi trực tiếp với các GV bộ môn và với
HS, chúng tôi thu đƣợc kết quả sau:
- Chất lƣợng học tập bộ môn Vật lí của HS miền núi nói chung còn rất
thấp (khoảng 10% khá giỏi, 50% trung bình, còn lại là yếu kém).
- Đa số HS miền núi (khoảng 70%) cho rằng môn Vật lí trừu tƣợng, khó
hiểu nhƣng vì bắt buộc phải học nên chƣa có hứng thú trong học tập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
- Tìm hiểu về mức độ tích cực nhận thức trong giờ học của HS thì chỉ có
khoảng 20% số HS thƣờng xuyên chú ý nghe giảng, tích cực suy nghĩ,
phát biểu xây dựng bài, 30% số HS thỉnh thoảng mới phát biểu, còn lại
là không biết để phát biểu hoặc biết nhƣng không dám phát biểu.
- Đa số HS chỉ học theo nội dung vở ghi hoặc theo SGK, ít đọc thêm các
sách tham khảo khác. Thời gian tự học giành cho môn Vật lí thƣờng rất
ít, các em chỉ học khi hôm sau có giờ Vật lí.
- Đối với các khái niệm Vật lí, đa số HS chỉ học thuộc lòng các khái
niệm đã đƣợc định nghĩa mà ít quan tâm đến nội hàm của các khái
niệm. Còn đối với các định luật Vật lí, các em chỉ cố gắng nhớ cách
phát biểu nội dung định luật hoặc nhớ công thức để áp dụng khi giải bài
tập mà ít để ý đến điều kiện giới hạn của định luật hoặc mối liên quan
giữa các đại lƣợng đƣợc nêu ra trong định luật, đặc biệt là không quan
tâm quá trình dẫn đến định luật đó nhƣ thế nào.
- Việc tự lực thực hiện các thao tác thí nghiệm Vật lí còn rất hạn chế, đa
số (khoảng 60%) các em không dám thực hiện hoặc nếu có thì thao tác
còn rất lúng túng nếu không có sự nhắc nhở hoặc giúp đỡ của GV.
1.3.3.3. Về tình hình giảng dạy của GV.
a) Tình hình GV giảng dạy bộ môn Vật lí.
Bảng 1: Tình hình GV giảng dạy bộ môn Vật lí
Trƣờng
Tổng số
GV Vật lí
Nữ
GV là
DT ít
ngƣời
Năm công tác
Mới ra
trƣờng
Dƣới 5
năm
5 10
năm
Trên
10 năm
THPT
Yên Thủy B
3 1 1 0 1 2 0
THPT
Đại Đồng
5 3 2 1 1 3 0
THPT
Lũng Vân
2 1 2 0 1 1 0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
b) Về áp dụng các phương pháp giảng dạy.
- Các phƣơng pháp thƣờng xuyên sử dụng: Diễn giảng- minh hoạ
(100%), thuyết trình- hỏi đáp (70%).
- Các phƣơng pháp đôi khi sử dụng: Đàm thoại (60%), phƣơng pháp
thực nghiệm (50%), dạy học nêu vấn đề (40%).
- Các phƣơng pháp không sử dụng hoặc sử dụng rất ít: Dạy học chƣơng
trình hoá, dạy học angorit hoá, tham quan ngoại khoá, sử dụng các phƣơng
tiện kĩ thuật hỗ trợ nhƣ máy chiếu…
c) Việc giảng dạy các khái niệm và định luật Vật lí của GV.
Qua khảo sát điều tra ở 3 trƣờng về phƣơng pháp thƣờng dùng trong dạy
học Vật lí, chúng tôi thấy đa số GV Vật lí vẫn sử dụng PPDH truyền thống
nhƣ: giảng trƣớc, sau đó đọc cho HS chép; trong một tiết học GV chỉ chú ý
tới việc truyền đạt đầy đủ nội dung kiến thức trong SGK cho HS theo kiểu
truyền thụ một chiều…Các phƣơng pháp khác nhƣ: đàm thoại, nêu vấn đề…ít
khi đƣợc dùng đến và rất ít GV chú ý tới quá trình hình thành cũng nhƣ các
phƣơng pháp học tập nhằm chiếm lĩnh tri thức cho HS.
Đối với việc giảng dạy các khái niệm Vật lí, GV chỉ chú ý tới việc làm
sao cho HS nắm đƣợc nội dung khái niệm mà ít chú ý tới quá trình hình thành
khái niệm cũng nhƣ phân tích nội hàm của khái niệm hay mối quan hệ của
khái niệm mới với các khái niệm cũ đã biết.
Đối với việc giảng dạy các định luật Vật lí, đa số GV chỉ yêu cầu HS
biết cách phát biểu định luật hoặc nắm đƣợc công thức biểu diễn định luật để
có thể áp dụng khi giải bài tập, mà ít quan tâm tới quá trình hình thành định
luật. Chính vì vậy việc chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm cũng nhƣ các thao tác
tiến hành thí nghiệm phục vụ cho nội dung của tiết học ít đƣợc GV chú ý.
Với HS, do lâu nay chịu ảnh hƣởng của của phƣơng pháp dạy học truyền
thống nên việc tham gia phát biểu xây dựng bài cũng nhƣ việc thực hiện các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
thao tác thực hành thí nghiệm đối với HS miền núi là rất hạn chế- đây cũng là
một khó khăn lớn trong việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS.
Qua trao đổi với GV, chúng tôi đƣợc biết:
- HS chƣa thấy đƣợc sự cần thiết phải học môn Vật lí, do đó chƣa xác
định đƣợc mục đích, động cơ học tập của chính bản thân mình, chƣa có hứng
thú học Vật lí.
- Trang thiết bị của các nhà trƣờng chƣa đáp ứng đƣợc đầy đủ nhu cầu
dạy và học môn Vật lí.
- Do hạn chế về điều kiện để học hỏi kinh nghiệm nên phƣơng pháp dạy
và học của HS và GV chƣa phù hợp.
- Trình độ nhận thức của HS còn thấp, chất lƣợng thấp hơn mức trung
bình so với yêu cầu của chƣơng trình.
- Kĩ năng diễn đạt, trình bày của HS còn yếu.
1.3.3.4. Nhận xét về thực trạng.
Qua việc phân tích về thực trạng cơ sở vật chất và tình hình dạy- học
Vật lí ở các trƣờng THPT miền núi, chúng tôi cho rằng chất lƣợng học tập
môn Vật lí của HS miền núi nói chung còn thấp mà chủ yếu là do các nguyên
nhân chính sau đây:
* Nguyên nhân khách quan:
- Do ảnh hƣởng của điều kiện kinh tế xã hội: đa phần HS miền núi xuất
phát từ các gia đình nông dân, thu nhập thấp, kinh tế không ổn định, các em
phải vừa học vừa giúp đỡ gia đình nhiều công việc nên điều kiện và thời gian
dành cho học tập bị hạn chế.
- Đội ngũ GV dạy Vật lí còn thiếu nhiều và thƣờng xuyên không đƣợc
bồi dƣỡng chuyên môn nghiệp vụ dẫn đến phƣơng pháp giảng dạy của giáo
viên chƣa hợp lí, chƣa phù hợp với đối tƣợng nhận thức.
- Do điều kiện trang thiết bị phục vụ học tập chƣa đáp ứng đủ…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
* Nguyên nhân chủ quan:
- Do điều kiện kinh tế- văn hoá- xã hội miền núi chƣa phát triển, các em
ít đƣợc tiếp xúc với các phƣơng tiện hiện đại, ít đƣợc giao lƣu với các hoạt
động xã hội nên vốn ngôn ngữ của HS miền núi thƣờng hạn chế nhất là ngôn
ngữ Vật lí, kĩ năng đọc, viết, nói còn yếu, chƣa chính xác.
- HS miền núi sống giản dị, hồn nhiên, chân thành, nhƣng rụt rè mang
nặng bản tính tự ti dân tộc.
- Khả năng tƣ duy của HS miền núi còn chậm, quen lối tƣ duy cụ thể, ít
tƣ duy trừu tƣợng, thƣờng chỉ chú ý đến bề ngoài, ít đi sâu vào tìm hiểu bản
chất bên trong của các sự vật, hiện tƣợng Vật lí. Khả năng so sánh, phân tích,
tổng hợp…còn yếu, khi gặp khó khăn thƣờng trông chờ vào sự giúp đỡ của
GV hoặc ngƣời khác.
- Trình độ kiến thức của GV Vật lí miền núi ít đƣợc tích luỹ thêm, việc
tự nghiên cứu, học hỏi nhằm đổi mới phƣơng pháp giảng dạy chƣa đƣợc quan
tâm đúng mức, không theo kịp xu thế phát triển chung.
KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Trong chƣơng này, chúng tôi đã trình bày những cơ sở lí luận về tính
tích cực hoạt động nhận thức và hoạt động dạy học Vật lí ở trƣờng THPT theo
hƣớng tích cực hoá.
Đã làm rõ khái niệm về tính tích cực nhận thức của HS, biểu hiện của
tính tích cực nhận thức cũng nhƣ các biện pháp phát huy tính tích cực nhận
thức. Nghiên cứu các phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy- học Vật lí nhằm
tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS.
Phân tích các đặc điểm của khái niệm và định luật Vật lí, các giai đoạn
điển hình của quá trình hình thành các khái niệm và định luật Vật lí, đặc biệt
là con đƣờng hình thành bằng quan sát và khái quát hoá thực nghiệm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Sử dụng phiếu thăm dò đội ngũ GV Vật lí, phỏng vấn, trao đổi với GV
và HS nhằm khảo sát thực trạng dạy- học các khái niệm và định luật Vật lí ở 3
trƣờng THPT miền núi trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.
Trên cơ sở phân tích, làm rõ các vấn đề ở trên, trong chƣơng II
chúng tôi sẽ nghiên cứu một số biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động
nhận thức của HS miền núi khi giảng dạy các khái niệm và định luật Vật
lí, đồng thời vận dụng các biện pháp đó vào xây dựng tiến trình của một
số bài giảng cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
CHƢƠNG II
TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH THPT
MIỀN NÚI KHI GIẢNG DẠY MỘT SỐ KHÁI NIỆM, ĐỊNH LUẬT
CỦA CHƢƠNG “KHÚC XẠ ÁNH SÁNG”.
2.1. Một số biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh khi
giảng dạy các khái niệm và định luật Vật lí.
2.1.1. Xây dựng động cơ, tạo hứng thú , nhu cầu học tập.
Lí luận dạy học đã cho thấy nguyên nhân gây nên động cơ và hứng thú
học tập của HS- cơ sở của sự tích cực nhận thức gồm 2 yếu tố cơ bản đó là:
nguyên nhân bên ngoài và nguyên nhân bên trong (phần cơ sở lí luận).
Chúng tôi cho rằng đối với HS miền núi, những nguyên nhân bên ngoài
cũng rất quan trọng. Vì các em thƣờng thiếu thông tin và ít tiếp xúc với cuộc
sống hiện đại nên những tác động từ bên ngoài nhƣ quyền lợi của xã hội giành
cho HS ham học, vƣợt khó, có thành tích cao trong học tập, sự vinh dự trƣớc
tập thể lớp và cộng đồng đối với những ngƣời có tài năng…cũng rất dễ dàng
hấp dẫn các em, từ đó làm nảy sinh ở các em hứng thú, nhu cầu học tập.
Một trong những nguyên nhân tác động trực tiếp đến chất lƣợng học tập
môn Vật lí của HS miền núi là các em chƣa có thái độ học tập đúng đắn hay
là thƣờng coi nhẹ môn học. Vì vậy, chúng tôi cho rằng: nếu mỗi GV Vật lí
đều cho HS thấy rằng Vật lí cũng là môn khoa học lí thú và hấp dẫn, mỗi kiến
thức Vật lí đều mang lại cho bản thân các em, cho gia đình các em, cho quê
hƣơng làng bản của các em những lợi ích thiết thực thì điều đó cũng kích
thích mạnh mẽ việc học tập của các em.
Tuy nhiên, những tác động nhƣ trên cũng chỉ là những tác động từ bên
ngoài, nó chỉ gây hứng thú ban đầu. Sự phát triển trí tuệ lại đòi hỏi một sự lao
động cố gắng và liên tục trong quá trình học tập. Vì vậy, bên cạnh sự tác động
từ bên ngoài nhƣ đã nêu ở trên cần phải có các tác động từ bên trong để duy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
trì hứng thú hoạt động của HS. Theo lí luận dạy học, những hứng thú này nằm
ngay trong mâu thuẫn của sự nhận thức, trong lôgic kiến thức của từng bài
học. Ngƣời GV phải làm sao cho các mâu thuẫn nhận thức nảy sinh trong tƣ
duy ngƣời học đúng lúc và vừa sức.
Thực tiễn giảng dạy cho thấy con đƣờng làm nảy sinh mâu thuẫn nhận
thức tốt nhất là bằng con đƣờng xây dựng tình huống có vấn đề. Đối với HS
miền núi, có thể xây dựng một số tình huống có vấn đề phù hợp với đặc điểm
nhận thức của các em nhƣ:
a) Giới thiệu những hiện tƣợng lạ xƣa nay các em chƣa từng thấy, có tác
dụng gây ấn tƣợng mạnh làm cho HS ngạc nhiên, kích thích tính tò mò, muốn
hiểu biết của các em.
Ví dụ: Để vào bài “Sự rơi tự do” GV có thể biểu diễn thí nghiệm: lấy
hai tờ giấy nhƣ nhau, một tờ vo viên, một tờ để nguyên rồi thả cho rơi để cho
HS thấy rằng quan niệm của các em từ trƣớc nay là vật nặng rơi nhanh hơn
vật nhẹ rõ ràng không phù hợp.
b) Tổ chức cho nhiều HS cùng làm một thí nghiệm nhƣng thu đƣợc
những kết quả khác nhau, điều đó kích thích HS tìm hiểu nguyên nhân của sự
khác nhau đó.
Ví dụ: Khi hình thành khái niệm về hiện tƣợng mao dẫn, GV có thể cho
HS làm thí nghiệm mở đầu sau: Cắm ống mao dẫn có tiết diện khác nhau vào
các lọ đựng chất lỏng khác nhau, HS sẽ nhận thấy mực chất lỏng trong các
ống so với mực chất lỏng bên ngoài là khác nhau. Từ đó, giúp HS có khái
niệm sơ bộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc9.pdf