Tài liệu Luận văn Thực trang xuất khẩu hàng giai đoạn 1998 - 2001 và một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của tổng Công ty trong thời gian tới: Luận văn
Thực trang xuất khẩu hàng
giai đoạn 1998 - 2001và một số
giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
xuất khẩu hàng may mặc của
tổng Công ty trong thời gian
tới
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG I: Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của
xuất khẩu hàng may mặc trong doanh nghiệp
8
I. Khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu 8
II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam. 14
III. Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu
hàng may mặc trên thế giới.
16
CHƯƠNG II: Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở
Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam giai đoạn 1998-2001.
29
I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam. 29
II. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty
Dệt- May thời kỳ 1998-2001.
42
III. Đánh giá chung những thành tựu và hạn chế của hoạt động
xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
61
CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
xuất khẩu h...
90 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trang xuất khẩu hàng giai đoạn 1998 - 2001 và một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của tổng Công ty trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trang xuất khẩu hàng
giai đoạn 1998 - 2001và một số
giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
xuất khẩu hàng may mặc của
tổng Công ty trong thời gian
tới
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG I: Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của
xuất khẩu hàng may mặc trong doanh nghiệp
8
I. Khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu 8
II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam. 14
III. Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu
hàng may mặc trên thế giới.
16
CHƯƠNG II: Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở
Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam giai đoạn 1998-2001.
29
I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam. 29
II. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty
Dệt- May thời kỳ 1998-2001.
42
III. Đánh giá chung những thành tựu và hạn chế của hoạt động
xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
61
CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam
trong thời gian tới.
67
I. Triển vọng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty trong
thời gian tới.
67
II. Những giải pháp chủ yếu về phía Tổng Công ty Dệt-May
Việt Nam.
73
III. Một số kiến nghị Chính phủ. 80
KẾT LUẬN 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
2
LỜI MỞ ĐẦU
Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế
hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều
phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không
một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh.
Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy
đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước
có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác định những quan điểm
lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có
hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng
nghành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh
cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế
giới” .
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những
năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu quan
trọng, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và
vị thế mới trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan
hệ ngoại giao với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo
hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC . .. Điều
này đã đạc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi động.
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt
hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều
kiện tình hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn
phù hợp.
Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “Một số biện pháp đẩy
3
mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt May Việt Nam” góp
phần giải quyết những vấn đề đặt ra quan trọng và cần thiết. Trong đề tài này,
tôi chỉ tập trung phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu
hàng may mặc của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam giai đoạn 1998 - 2001,
tìm ra những thành công và những vấn đề còn tồn tại ở Tổng Công ty . Trên cơ
sở đó, đưa ra một số biện pháp kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động và tăng
cường hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty trong
thời gian tới.
Đề tài chia làm ba chương :
Chương I : Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu
hàng may mặc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Chương II : Thực trang xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt
may Việt Nam giai đoạn 1998 - 2001.
Chương III : Phương hướng và giải phấp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu
hàng may mặc của tổng Công ty trong thời gian tới.
Trong quá trìng tìm hiểu và hoàn thành đề tài, Tôi đã được sự chỉ bảo chi
tiết của thầy giáo - MBA Bùi Anh Tuấn, sự giúp tận tình của các bác, các cô ở
Tổng Công ty Dệt may Việt Nam. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận
được ý kiến nhận xét giúp tôi có thể hoàn thiện kiến thức chuyên môn của
mình.
4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ
CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC TRONG
DOANH NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM, CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA
XUẤT KHẨU
1. Khái niệm :
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.
Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm
bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua
đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế oỏn định
từng bước nâng cao mức sống nhân dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu
tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh
nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá
của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với
tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế
nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
2. Các hình thức xuất khẩu thông dụng ở Việt Nam
a/ Xuất khẩu uỷ thác
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho
đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số
lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi
5
phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền
thu lao trả cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu
không cao hơn 1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện
FOB tại Việt Nam.
Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác:
-Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh,
tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là
hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất
cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng
và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động
kinh doanh của Công ty.
-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh
doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và
khách hàng bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị
trường và tìm khách hàng.
b/ Xuất khẩu trực tiếp:
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết
hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp
đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và
quốc tế, đồng thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh
doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh
phải tiến hành các khâu công việc:
Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng
phương pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá
làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán
và giải quyết khiếu nại (nếu có).
Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
-Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh
6
doanh, tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu
thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh
doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản
phẩm, nhãn hiệu ... dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
- Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới kinh doanh được mấy năm thì
áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, am hiểu
thương trường quốc tế còn mờ nhạt, uy tín nhãn hiệu sản phẩm còn xa lạ với
khách hàng
c/ Gia công hàng xuất khẩu.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên
(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của
một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho
bên đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công
xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài
về để sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để
tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia
công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu
lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng(được thể hiện trong
hàng hoá) chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài.
Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế.
Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt
gia công và bên nhận gia công.
3.Vị trí, vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc
tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan
hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài
nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ,
qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh
tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Do vậy, xuất khẩu là hoạt
động kinh tế đối ngoại để đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây
7
thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ
thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá
của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với
tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế
nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ
thuật còn thấp kém, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh
xuất khẩu thu ngoại tệ cải thiện đời sống và phát triển kinh tế là cực kỳ quan
trọng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế
đối ngoại đặc biệt hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hoá là một chủ chương
đúng đắn phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Hơn bao giờ hết, xuất khẩu
hàng hoá thực sự có vai trò quan trọng, cụ thể là:
Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng để
đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về,
mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu
(xuất khẩu > nhập khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn
nhu cầu nhập khẩu trong tương lai).
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là
tiền đề của nhau xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu.
Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để phát triển kinh tế,
tránh được nguy cơ tụt hậu với thế giới, đồng thời còn tìm cách đuổi kịp thời
đại, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước. Trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là một
điều kiện tiên quyết. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ, có các nguồn
ngoại tệ sau:
- Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ.
8
- Viện trợ đi vay, đầu tư ....
- Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta.
- Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ...
Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là
nguồn quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo
đảm trả được các khoản đi vay, viện trợ ... trong tương lai. Như vậy cả về dài
hạn và ngắn hạn, xuất khẩu luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu.
Thứ hai: Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước.
Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn
được những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí
xuất khẩu) nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào
những ngành hàng, những mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả
về tương đối và tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn
của ta thì dầu mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi thế
tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một số nước có điều kiện để sản xuất các mặt hàng
này). Còn hàng may mặc khai thác chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ.
Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa tương
đối.
Hoạt động xuất khẩu vừa thúc đẩy thai thác các lợi thế của đất nước vừa
làm cho việc khai thác đó có hiệu quả hơn vì khi xuất khẩu, các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu có ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị tiên tiến đưa năng suất
lao động lên cao. Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi
dào, cần cù, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa
lý đẹp.
Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất
khẩu mũi nhọn.
9
Xuất khẩu đa dạng là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm
thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy
mô, chất lượng thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.
Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Tuân theo quy luật lợi thế so sánh của David
Ricardo tức là tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có
điều kiện nhất, có lợi thế so sánh hay chính là việc thực hiện chuyên môn hoá
và phân công lao động quốc tế. Khi đó, nước ta có khả năng chiếm lĩnh thị
trường, trở thành "độc quyền" mặt hàng đó và thu lợi nhuận siêu ngạch. Xuất
khẩu mũi nhọn có tác dụng như đầu của một con tàu, tuy nhỏ bé nhưng nó có
động cơ, do đó nó có thể kéo cả đoàn tàu tiến lên. Hiện nay, đây là hướng xuất
khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp với xuất khẩu đa dạng để tăng thu ngoại
tệ.
Và khi mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đem lại hiệu quả cao thì các doanh
nghiệp sẽ tập trung đầu tư để phát triển ngành hàng đó, dẫn đến phát triển các
ngành hàng có liên quan. Ví dụ: Khi ngành may xuất khẩu phát triển làm cho
ngành dệt cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may dẫn đến
ngành trồng bông, đay cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành
dệt.
Hơn nữa, xu hướng xuất khẩu là mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu các ngành
sản xuất trong nền kinh tế vì cơ cấu một nền kinh tế chính là số lượng các
ngành sản xuất và tỷ trọng của chúng so với tổng thể.
Rõ ràng, tỷ trọng ngành hàng mũi nhọn là tăng lên và tăng mạnh còn trong
nội bộ ngành đó thì những khâu, những loại sản phẩm ưa chuộng trên thị
trường thế giới cũng sẽ phát triển hơn. Tức là xuất khẩu hàng mũi nhọn làm
thay đổi cơ cấu ngành và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai
thác tối ưu lợi thế so sánh của đất nước.
Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở mức chất
lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi nước
mới tham gia thị trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất
10
nhập khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát
triển.
Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo
hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu.
Thứ tư: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập
và tăng mức sống.
Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần
thêm lao động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao
động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát triển
ngành nghề cần nhiều lao động như ngành may mặc. Với một đất nước hơn 70
triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất
lớn trong điều kiện nước ta hiện nay.
Thứ năm: Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường
thế giới tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân
thanh toán, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước:
GDP, lạm pháp, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu,
tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn đảm bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng được
tín nhiệm. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị
trường thế giới, khuyếch trương được tiếng vang và sự hiểu biết.
Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề
thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng,
đầu tư, hợp tác, liên doanh ....
Tóm lại : phát triển hoạt động xuất khẩu là một chiến lược để phát triển
nền kinh tế nước ta.
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT
NAM.
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được
11
nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các
ngành kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền
kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn
việc làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường
chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước
ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị
trường.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần
thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa
phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các
vai trò quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả
mãn nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu
cũng như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là
12
viện trợ, đi vay, xuất khẩu.
Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo thêm gánh
nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát
triển được coi như một chiến lược quan trọng mà hầu hết các nước đều ứng
dụng.
- Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo
International Trade 1980-1993 ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển cứ
xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo được 40 nghìn việc làm trong nước, còn ở các
nước tư bản đang phát triển khác có thể tạo ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở
nước ta nền công nghiệp còn lạc hậu, năng suất lao động thấp nên xuất
khẩu 1 tỷ USD thì sẽ tạo được trên 50 nghìn chỗ làm việc trong nước.
- Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu quả sử
dụng vốn thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi mới trang thiết bị
hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến.
- Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước, kích thích
các ngành lts phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu. Đặc biệt là sự tác động
đến sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng ngày càng sử dụng có hiệu
quả các lợi thế đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ
thuật tiên tiến giúp có thêm nguồn lức công nghiệp mới, tăng năng suất lao
động, tiết kiệm chi phí lao động xã hội.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của quốc gia.
- Đẩy mạnh xuất khẩu còn có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa
các nước, nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc
tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà nhiều Công ty nước ngoài biết đến
năng lực của ta và sẵn sàng thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư.
Như vậy, xuất khẩu nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà
nó có thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển; trực tiếp tham gia vào việc
giải quyết các vấn đề bên trong của nền kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật,
lao động, nguyên liệu, thị trường...
13
III. THỊ TRƯỜNG CHO HÀNG MAY MẶC VÀ XU HƯỚNG NHẬP
KHẨU HÀNG MAY MẶC TRÊN THẾ GIỚI.
1. Về thị trường may mặc Việt Nam.
1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại
quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây,
người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật,
Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa
qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị
khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ
tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1996-2000). Đây là thị
trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt may
từ năm 1995 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa là
khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt
Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ
EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính
vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU
sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến
vững chắc. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào
EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự kiến
năm 2001 sẽ đạt 650 triệu USD.
Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam
vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc)
Tên hàng Chủng loại 1998 1999 2000
Jacket Cat 21 8,9 9,4 11,7
T- Shirt Cat 4 2,9 3,71
áo len Cat 5 1,65 1,81
Quần Cat 6 1,65 2,4
áo sơ mi nữ Cat 7 0,91 1,49
áo khoách nữ Cat 15 0,13 0,17
14
áo dài nữ Cat 26 0,19 0,39
Váy ngắn Cat 27 0,14 0,23
(Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.)
Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim
ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận,
chỉ tính riêng năm 1999 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước
EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp
(60 triệu USD), Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển
(7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)...
Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp
Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị
trường này như:
- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt
hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân
công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho
các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh
tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả
thuận.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ
ba để tái xuất vào EU.
- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí
gia công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế
nhập khẩu vào EU.
Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà
Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn
ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển
15
sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam
và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp
cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của
ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán
giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây
là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với
những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra
chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.
Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người
26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản
nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt Nam
xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm 90%
kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt
khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía
Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư
tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm
vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị
trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ
khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập
quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng
16
hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm
1999 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu Á của
Hoa Kỳ.
Nước Giá trị ( tỷ USD)
Trung Quốc 6,1
Hồng Kông 5
Hàn Quốc 1,8
Đài Loan 2,3
Các nước ASEAN khác 4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1997 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1997 Mỹ bỏ cấm vận
viện trợ và tháng 7/1998 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The
Most Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là
điều kiện chìa khoá để xâm nhập thị trường Mỹ.
Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp
dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ
phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt
Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam
MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất
cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác
được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không
tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước chưa có
mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là một vấn
đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ muốn trả
tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải
sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho phép
vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.
Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt
17
5 triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ
là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất
khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị
trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều
nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì
tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai
trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian
dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người
tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng
may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim
ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may
mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng
chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương
thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy
năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp
cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các
doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy
lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình
thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức.
Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các
nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc
các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương
thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về
mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị trường chấp
nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức ép đó sẽ xoá
18
bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn
sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.
Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người
hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là
một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền
văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống
nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam
xâm nhập dế ràng hơn.
1.6. Thị trường trong nước
Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có
những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại
khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt
Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750
triệu USD/năm (10 USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn
đối với bất kỳ nhà đầu tư nào.
Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của
nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do
vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu,
một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ
có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may
mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm
tay.
Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần
phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để.
Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ
ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp
cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ.
2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ
19
chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:
- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động,
về sở hữu trí tuệ...
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân
hàng.
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở ,
hàng dệt may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris,
Singapore, Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức
du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và
trung tâm dịch vụ tiêu thụ...
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho
thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế
này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới
và khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc
sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các
mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu
vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc
với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung
Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công
nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản
xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên
20
một số đặc điểm sau:
+ Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn
ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký
hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một
triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy
chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu
chế độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may
cho Việt Nam.
+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho
Trung Quốc vào 1/7/2000 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường
khu vực. Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng
may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc
khủng hoảng kinh tế ở Châu Á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu
thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và
hàng may mặc nói riêng.
+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba
lớp (cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là
giảm cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).
+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao
năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng
may mặc đã đi vào hoạt động.
+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng
nước ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời
gian tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao
hàng đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng.
+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành
sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm
bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do
21
yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân.
Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước
ngoài.
+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các
doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương
mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng
dệt may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá
cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước
nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và
trong nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công,
xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung
cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có
tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994. Đây là
con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn
vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD
trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194 triệu USD
trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này
không mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể
đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh
nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra
đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty
may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị,
đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm
chất lượng cao.
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã
22
thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công
ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào
ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động
thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành
may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công nhân
không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng. Các
yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.
3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất
hàng may mặc.
Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển
mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các
Công ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng
kể. Năm 2000 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 2001 con
số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng
nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất,
chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được nâng cao. Tất
cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của ngành may Việt
Nam khi vươn ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết
mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn
các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ
các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng
công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh
những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng
đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ thể trong
thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau
và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc.
Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do
nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước
23
ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn
chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế
kỷ. Bên cạnh đó công tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ.
Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập
luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc
thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị nhập về
rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo
dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay đầu tư không
được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm
hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như :
định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm
giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra
những kết cục tranh chấp đáng tiếc.
Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi
tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó
tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất,
thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng
sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ
lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên
trường quốc tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài cũng
đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn chu
đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt
được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi
khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta
mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong
đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính, thái độ,
phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm pháp
kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán kiểu hợp
24
tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm phán gì ?
chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.
Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước
ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song
hai chiến lược đó là : chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách
tốt nhất. Thực hiện chiến lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của
Công ty được mọi người quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người
biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với
yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính đặc
thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị trường một cách bền vững. Có
câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : “Hãy tạo dựng
uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty như một thói quen”.
Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nước cũng cho thấy: trong thời gian
mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế về vốn,
công nghệ, thị trường.. do đó cần phải tăng cường chính sách hỗ trợ xuất khẩu
từ phía Nhà nước. Các nước đã đi lên từng bước, từ chỗ nhận hàng gia công
đến xuất khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất được một số lượng nhỏ với những mặt
hàng may mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp nhất đạt giá
trị cao mà cụ thể là các nước châu Á đã làm được điều đó như: Hồng Kông,
Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.. với Việt Nam hiện nay sản phẩm may mặc
xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nhận gia công do đó thị trường xuất khẩu của
ngành may Việt Nam thực chất là của người đặt ra công. Việc phân phối sản
phẩm hoàn chỉnh đi thị trường nào là quyền của họ. Như vậy dưới hình thức
này Việt Nam sẽ bị tước đi rất nhiều quyền lợi, vừa hạn chế sử dụng nguyên
liệu trong nước vừa mất đi khả năng xâm nhập thị trường chưa kể đến giá trị
lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó Nhà nước cần có chính sách tập
trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm thiết thực và cấp bách.
Có nhiều nước đã thực hiện thành công bước nhảy này bằng con đường liên
doanh liên kết, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc bước đầu tạo
sức mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tượng sản phẩm. Phương pháp
25
phát huy nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần được chúng ta xem xét vận
dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may Việt Nam
trong thị trường may thế giới.
26
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KINH DOANH XUẤT KHẨU HÀNG MAY
MẶC Ở TỔNG CÔNG TY DỆT - MAY VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1998-2001.
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT
NAM.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Dệt-may Việt
Nam:
Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền Bắc
và những năm 70 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất đất
nước thì ngành mới có sự phát triển đáng kể.
Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc được thành lập trên cơ sở
thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía
Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ thuật,
tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền.
Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành Liên
hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất
nhập khẩu. Đến ngày 5/3/1996 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt được
chuyển thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là:
- Trung tâm thương mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm hoạt
động để thúc đẩy sự phát triển của ngành.
- Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt
Việt Nam.
Với mô hình này, không đáp ứng được yêu cầu củng cố và phát triển ngành
Dệt, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, không tạo được thế và lực để
thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời tạo cho
các cơ sở phát huy lợi thế chủ động nhưng lại thiếu sự liên kết với nhau thành
27
sức mạnh, xuất hiện việc tranh mua tranh bán cục bộ bản vị trong sản xuất kinh
doanh, dẫn đến không có một sự chỉ huy thống nhất trong ngành. Do quản lí
phân tán nên không đủ sức có đại diện ở nước ngoài, một cuộc triển lãm ở
nước ngoài có nhiều đơn vị tham gia mặt hàng trùng lặp, giá cả chào hàng
không giống nhau. Nhiều Công ty nước ngoài đã lợi dụng sơ hở về mặt tổ chức
và quản lí của ta chèn ép, thủ đoạn dẫn đến thua thiệt cho nền kinh tế nói
chung và cho từng cơ sở ngành dệt nói riêng.
Tiến gần đến thế kỷ 21, công nghiệp dệt may đã và đang có thêm những
thuận lợi để phát triển sôi động với tốc độ ngày càng cao. Song song cùng phát
triển các nguồn lực trong nước, các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang trong
quá trình tích cực thay đổi về tổ chức quản lí, sắp xếp lại sản xuất theo hướng
liên kết nhiều đơn vị cùng ngành nghề hoặc cùng cấp quản lí thành những
Tổng Công ty, Công ty lớn : đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng cường đào tạo
cán bộ quản lí kỹ thuật, tiếp thị, thiết kế mẫu mã nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ
trong và ngoài nước. Trên tinh thần này, ngày 29 tháng 4 năm 1998 Chính Phủ
Việt Nam đã quyết định thành lập Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam
(VINATEX) trên cơ sở thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt Nam và Liên hiệp
các xí nghiệp sản xuất-xuất nhập khẩu May nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tạo
được thế và lực để thúc đẩy sản xuất-kinh doanh hàng Dệt-May phát triển.
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam
National Textile and Garment Corporation, viết tắt là VINATEX. Trụ sở chính
của Tổng Công ty đặt tại 25 Bà Triệu Hà Nội. Tổng Công ty Dệt-May Việt
Nam là một trong 18 Công ty quốc gia hoạt động theo hướng tập đoàn, chịu sự
quản lí trực tiếp của Chính phủ và Bộ công nghiệp. Tổng Công ty có tư cách
pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm
về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do Tổng Công ty quản lý,
có con dấu, có tài sản và các quĩ tập trung, được mở tài khoản tại ngân hàng
trong nước và nước ngoài theo luật định của Nhà nước, được tổ chức và hoạt
động theo điều lệ Tổng Công ty.
28
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt,
hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập khẩu),
tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác nhau theo qui định của
pháp luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Lựa
chọn, khai thác mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn và phân
công thị trường cho các đơn vị thành viên. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ và
kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược chung. Tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành nghề.
Các ngành nghề kinh doanh cụ thể là : Công nghiệp dệt may : sản xuất
kinh doanh từ nguyên liệu vật tư, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc
nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, xuất nhập khẩu hàng dệt
may gồm các chủng loại tơ, sợi vải hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn
bông, len thảm đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất,
thuốc nhuộm, hàng công nghệ thực phẩm, nông lâm hải sản, thủ công mĩ nghệ,
ô tô xe máy, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác, kinh doanh kho vận,
khu ngoại quan. Thiết kế, thi công xây lắp phục vụ ngành dệt may và xây dựng
dân dụng. Dịch vụ khoa học công nghệ, du lịch khách sạn, nhà hàng văn
phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước, xuất nhập khẩu thiết bị, phụ tùng
ngành dệt may, trang thiết bị văn phòng, thiết bị tạo mẫu thời trang, phương
tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử cao su.
Với tổng số vốn khi thành lập là 1.562.500 triệu đồng, trong đó:
-Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng
-Vốn cố định : 1.015.360 triệu đồng
Hiện tại, Tổng Công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất từ
kéo sợi dệt vải, hoàn tất và may mặc, một Công ty tài chính, ba xí nghiệp sửa
chữa và sản xuất phụ tùng, một viện thiết kế kĩ thuật dệt may, một viện mẫu và
thời trang, ba trường đào tạo công nhân. Có các chi nhánh ở thành phố Hải
Phòng và Đà Nẵng và hai Công ty du lịch và dịch vụ thương mại ở Hà nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Một số đại diện ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Tổng
29
Công ty còn có Công ty tài chính TFC là tổ chức tạo nguồn vốn cho hoạt động
đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự đổi mới tổ chức như trên
có ý nghĩa kết hợp hai ngành dệt và may trước đây vốn hoạt động riêng lẻ
thành một tổ chức chung để giảm dần sự cạnh tranh phân tán, manh mún trong
đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời có thể tích tụ, tập
trung vốn cho sự phát triển lâu dài vừa chuyên môn hoá vừa đa dạng hoá một
cách cân đối, hài hoà. Trong tương lai không xa, với sự ra đời của hiệp hội Dệt
May Việt Nam đã tạo mái nhà chung cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc
mọi thành phần kinh tế có thể liên kết và hỗ trợ nhau tốt hơn trong sản xuất
kinh doanh.
2.Chức năng, nhiệm vụ của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam có quyền quản lí, sử dụng vốn, đất đai và
các nguồn lực đã được giao theo qui định của pháp luật để thực hiện các mục
tiêu nhiệm vụ do Nhà nước giao. Mặt khác, Tổng Công ty có quyền giao lại
cho các đơn vị thành viên quản lí, sử dụng các nguồn lực mà Tổng Công ty đã
nhận của Nhà nước, điều chỉnh các nguồn lực đã giao cho các đơn vị thành
viên trong trường hợp cần thiết, phù hợp với kế hoạch phát triển chung của
toàn Tổng Công ty. Ngoài những quyền hạn trên, Tổng Công ty còn có những
nhiệm vụ sau đây:
- Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt và hàng may theo qui hoạch và
kế hoạch phát triển ngành dệt và ngành may của Nhà nước và theo yêu cầu của
thị trường, bao gồm : xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu
tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu, xuất nhập khẩu phụ
liệu, thiết bị phụ tùng, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước,
phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước.
- Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước
giao, gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực hiện
nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao.
- Tổ chức quản lí công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,
30
khoa học công nghệ và công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ và công
nhân trong Tổng Công ty.Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn đầu
tư, đào tạo trong và ngoài Tổng Công ty.
- Xác định chiến lược đầu tư, thẩm định các luận chứng hợp tác, đầu tư,
liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp thành viên trình Nhà nước xét
duyệt, làm chủ các công trình đầu tư mới.
- Điều tra nghiên cứu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước về cung cấp
vật tư, nguyên liệu chính, thực hiện hợp tác quốc tế, kinh doanh đối ngoại, thị
trường xuất nhập khẩu.
3. Hệ thống cơ cấu tổ chức, chức năng các phòng ban của Tổng Công ty
Dệt-May Việt Nam
Hệ thống tổ chức của Tổng Công ty gồm có:
- Hội đồng quản trị, ban kiểm soát
- Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
- Các đơn vị thành viên Tổng Công ty
Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lí các hoạt động của Tổng
Công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ
của Nhà nước giao.
Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm
tra giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và các
đơn vị thành viên Tổng Công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp
luật, điều lệ Tổng Công ty, các nghị quyết và quyết định của Hội đồng quản
trị.
Tổng giám đốc do Thủ Tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm khen
thưởng, kỉ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện
pháp nhân của Tổng Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị,
trước Thủ Tướng Chính phủ và trước pháp luật về điều hành hoạt động của
31
Tổng Công ty, Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong
Tổng Công ty.
Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một
số lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty theo phân công của Tổng giám đốc
và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng
giám đốc phân công thực hiện.
Kế toán trưởng Tổng Công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo thực hiện công
tác kế toán, thống kê của Tổng Công ty, có các quyền và nhiệm vụ theo qui
định của pháp luật.
Văn phòng Tổng Công ty, các ban chuyên môn, nghiệp vụ có các chức
năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lí
điều hành công việc.
Đơn vị thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập và Tổng Công ty có
quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và
nghĩa vụ đối với Tổng Công ty theo luật định tại điều lệ của Tổng Công ty.
Thành viên là các đơn vị hạch toán phụ thuộc: có quyền tự chủ kinh doanh
theo phân cấp của Tổng Công ty chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi
đối với Tổng Công ty. Được kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực
hiện các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tổ chức và nhân sự theo
phân cấp của Tổng Công ty. Quyền hạn nhiệm vụ của các đơn vị hạch toán
phụ thuộc được cụ thể hoá trong điều lệ tổ chức của đơn vị này.
Tổng Công ty có 8 ban, bao gồm các ban sau đây:
- Ban tổ chức cán bộ lao động
- Ban kế hoạch đầu tư
- Ban tài chính kế toán
- Ban hợp tác quốc tế
32
- Ban trung tâm thông tin
- Văn phòng Tổng Công ty
- Ban khoa học công nghệ và môi trường
- Ban xuất nhập khẩu
Ban tổ chức cán bộ lao động: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng
giám đốc và hội đồng quản trị trong các lĩnh vực tổ chức cán bộ, đào tạo công
tác lao động tiền lương và công tác thanh tra, góp phần bảo đảm cho công tác
quản lí của Tổng Công ty hoạt động thông suốt và có hiệu quả.
Ban kế hoạch tài chính: Là bộ môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu
giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực kế hoạch, kế
hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng toàn Tổng
Công ty.
Ban tài chính kế toán: Là cơ quan chuyên môn của Tổng Công ty tham
mưu giúp ban lãnh đạo Tổng Công ty thực hiện hai chức năng chủ yếu sau:
- Quản lí các đơn vị thành viên của Tổng Công ty về tài chính, kế
toán, giá cả trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản,
hành chính sự nghiệp.
-Tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán, giá cả và tín dụng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan
Tổng Công ty.
Văn phòng Tổng Công ty: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc
Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực hành chính quản trị, tổng
hợp, làm cầu nối giữa Nhà nước với Tổng Công ty và kinh doanh trong lĩnh
vực đối nội đối ngoại, bảo đảm cho hoạt động của Tổng Công ty được tiến
hành có hiệu quả.
Ban kỹ thuật đầu tư: Có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và hội
đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí khoa học công nghệ-môi trường và công
33
tác chất lượng sản phẩm của Tổng Công ty.
Ban xuất nhập khẩu: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng
giám đốc và Hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí ngành. Giúp đỡ các đơn
vị thành viên trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trực tiếp kinh doanh
xuất nhập khẩu nhằm tạo nguồn thu và thúc đẩy sự phát triển của Tổng Công
ty.
Nhiệm vụ của ban là:
-Xây dựng chiến lược phát triển và mục tiêu phát triển kinh doanh
xuất nhập khẩu của Tổng Công ty trong từng giai đoạn.
-Nghiên cứu tình hình thị trường, giá cả, khách hàng, sự biến đổi, xu
hướng phát triển của ngành Dệt-May thế giới.
-Nghiên cứu hệ thống quản lí, các chính sách và công cụ của nó như
quota (giá tối thiểu, giá nhập tối đa) đối với những sản phẩm chính để Tổng
giám đốc và hội đồng quản trị duyệt.
-Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện khung giá, giá đã duyệt,
theo dõi tình hình giá cả thị trường để đề xuất Tổng giám đốc và hội đồng
quản trị thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị
trường.
-Xây dựng các chính sách của Tổng Công ty đối với thương nhân,
khách hàng, chính sách đối với từng khu vực để Tổng giám đốc duyệt phục
vụ cho công tác kinh doanh xuất nhập khẩu.
-Phối hợp với ban kế hoạch đầu tư xây dựng kế hoạch kinh doanh
xuất nhập khẩu của cơ quan Tổng Công ty.
-Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tìm mọi khả năng khai thác
nguồn hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức tự doanh, đổi hàng xuất
nhập khẩu uỷ thác... bảo đảm kế hoạch kinh doanh của Tổng Công ty.
-Tổng hợp dự kiến nhu cầu bông xơ, nguyên liệu chính hàng năm, có
34
kế hoạch nhập bông dự trữ chiến lược đồng thời đảm bảo kinh doanh có
hiệu quả.
-Thực hiện tốt luật cũng như chế độ chính sách trong kinh doanh xuất
nhập khẩu.
-Theo dõi tổng hợp, kiểm tra tình hình thực hiện công tác pháp chế
trong xuất nhập khẩu của Tổng Công ty.
( Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam - Xem trang sau)
Bảng 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt May Việt Nam
4. Đặc điểm và xu thế ngành may Việt Nam.
4.1. Đặc điểm.
Ngành may Việt nam có truyền thống lâu đời gắn bó với truyền thống nhân
dân từ nông thôn đến thành thị, đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều kiện mở
rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động tạo ra ưu thế cạnh tranh cho
sản phẩm xuất khẩu, hàng năm mang về cho Nhà nước một lượng ngoại tệ
đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu khí và đã trở thành một ngành
công nghiệp then chốt của nước ta. Đây là một ngành phù hợp với điều kiện
nền kinh tế nước ta, vì:
Một là: Sản xuất hàng may mặc cần nhiều lao động, không đòi hỏi trình
độ tay nghề cao. Trong khi lao động giản đơn ở nước ta thừa rất nhiều. Hơn
nữa, để đào tạo một lao động trong ngành may mặc chỉ cần từ hai đến hai
tháng rưỡi và lao động trong ngành may mặc thường sử dụng nhiều nữ.
Hai là: Vốn đầu tư cho một chỗ làm việc ít, đồng thời ngành may mặc
có thể tạo nhiều công ăn việc làm so với các ngành khác với cùng một lượng
vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chỉ cần khoảng 700-800 USD là có
thể tạo ra một chỗ làm trong ngành may, so với 1500-1700 USD để cho một
nông dân có thể cấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Thời hạn thu hồi vốn chỉ 3-3,5
35
năm.
Ba là: Thị trường rộng lớn ở cả trong và ngoài nước. Ở trong nước thì
đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về mặc chuyển từ “ấm” sang “đẹp”,
“mốt” tức là nhu cầu hàng may mặc ngày càng tăng và nhanh biến đổi. Còn
trên thế giới thì xu thế ngành may mặc phổ thông đang chuyển dần sang các
nước đang phát triển do ở những nước này có lợi thế về lao động rẻ hơn những
nước phát triển.
Bốn là: Nước ta có điều kiện để phát triển trồng bông, đay, thúc đẩy
ngành dệt may phát triển vì nguyên liệu cung cấp trong nước thường rẻ hơn
nhập khẩu.
Với những đặc điểm trên mà ngành may Việt Nam đã ngày càng phát triển,
thu hút được nhiều lao động xã hội - gần 50 vạn người, chiếm 22,7% lao động
công nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo sự ổn định
chính trị-kinh tế-xã hội, do đó được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hiện nay
ngành may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng về ăn mặc của nhân dân, quốc
phòng và tiêu dùng trong các ngành công nghiệp khác.
4.2. Thực trạng ngành may Việt Nam.
Do có những đặc điểm phù hợp với điều kiện nước ta, nên ngành may Việt
nam và may xuất khẩu phát triển rất cao trong thời gian qua cả về mặt sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau
dầu thô và liên tục tăng, có thể thấy rõ qua bảng dưới đây:
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng qua các năm
Năm 1997 1998 1999 2000 2001
Kim ngạch xuất khẩu(tr.USD) 550 750 1150 1250 1350
Tốc độ tăng trưởng(%) 36 53 8,7 14,0
Đồng thời cũng là ngành mang tính xã hội cao, sử dụng mọi lao động trên
khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là lao động nữ. Số lao động công nghiệp của
36
ngành vào loại đứng đầu trong cả nước: khoảng 300 lao động chính và nhiều
lao động phụ khác.
Về mặt hàng: Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang vừa
có tính quốc tế vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được
nâng cao, nhu cầu hàng may mặc lại càng phong phú và chất lượng cao hơn.
Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, thông qua gia công cho các nước, các
doanh nghiệp may Việt Nam có điều kiện làm quen với công nghệ may các mặt
hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Công nghiệp may Việt Nam tiến bộ
nhanh, từ chỗ may quần áo lao động xuất khẩu, các loại quần áo đơn giản như
vỏ chăn, áo gối, quần áo ngủ, quần áo học sinh... đến nay đã may được nhiều
mặt hàng cao cấp được nguời tiêu dùng chấp nhận, khách nước ngoài tín nhiệm
đặt hàng đi tiêu thụ tại các thị trường khó tính trên thế giới.
Tính đến năm 1998, sản phẩm may Việt Nam đã xuất khẩu sang 46 nước,
riêng thị trường EU chiếm 40%, tiếp sau là Nhật Bản 16%, Đài Loan 11%,
Hàn Quốc 9%, các nước SNG 6%, các nước khác 8%. Ngoài ra còn có Nauy
và Canada cấp hạn ngạch xuất khẩu hàng may cho ta. Việc có được hạn ngạch
may là rất có ý nghĩa, đặc biệt là hiệp định may với EC (European
community), nay đổi là EU (European Union) bởi vì:
Thứ nhất: EU là thị trường rất rộng lớn, khả năng tài chính, tiêu thụ
cũng rất lớn. Một thị trường với hơn 350 triệu dân có mức sống cao, nhu cầu
về hàng may mặc hàng năm lên tới 22-23 ngàn tấn vải, quả là một thị trường lý
tưởng cho ngành may Việt Nam.
Thứ hai: là hiệp định may tạo ra thị trường ổn định để phát triển ngành
may, trị giá hạn ngạch lên tới 300-400 triệu USD/năm. Đồng thời thị trường
hạn ngạch thường hiệu quả hơn vì có giá ổn định và cao hơn. Ví dụ: giá gia
công một chiếc Jackét ( cat 21) ở thị trường EC là 4,2-4,6 USD thì ở thị
trường khác chỉ 2,5-2,8 USD.
Thứ ba: là phần nào khẳng định uy tín chất lượng của hàng may mặc
Việt Nam trên thị trường thế giới. Có hạn ngạch tức là khách hàng sẽ tìm đến
37
chứ không chỉ người sản xuất Việt Nam đi tìm khách như trước nữa.
Ngành may Việt nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công
hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công
nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài
Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình
thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, hàng may của ta có thêm thị trường Mỹ.
Tuy có những thuận lợi trong việc mở rộng thị trường nhưng thử thách đối với
hàng may của ta với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng thích ứng
về mẫu mốt, chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng theo thời vụ và tập quán
buôn bán còn rất hạn chế. Số lượng sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được
nhu cầu nguời tiêu dùng ở các nước phát triển chưa nhiều. Thị trường truyền
thống có dung lượng lớn như Liên Xô và các nước Đông Âu chưa tìm được
phương thức làm ăn thích hợp, nhất là phương thức thanh toán.
Cho đến nay, ngành may Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 200
Công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Tuy vậy, thị trường xuất
khẩu vẫn không ổn định, đặc biệt là đối với thị trường phi hạn ngạch.
5. Mục tiêu và định hướng phát triển.
Theo quy luật của sản xuất hàng hoá, thị trường là yếu tố quyết định của
sản xuất. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển, hoà nhập được vào thị
trường may của khu vực và thế giới, trong những năm tới ngành may Việt Nam
coi trọng phương châm “hướng ra xuất khẩu-coi trọng thị trường nội địa” để tổ
chức sản xuất.
Sau khi mất thị trường truyền thống là Liên Xô và Đông Âu cũ, ngành may
đã cố gắng khai thác thị trường mới là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, EU...
song còn nhiều hạn chế. Để duy trì và phát triển sản xuất-xuất nhập khẩu, Tổng
Công ty phải tổ chức tìm kiếm thị trường một cách chủ động, khắc phục tính
thụ động ngồi chờ, giữ vững, khai thác, mở rộng các thị trường hiện có, nhanh
chóng tìm kiếm, khai thác thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ và thị
trường truyền thống cũ. Trước mắt có thể làm gia công, nhưng phải chuẩn bị
các điều kiện để chuyển dần từng bộ phận, từng doanh nghiệp khi đủ khả năng
38
sang phương thức xuất FOB.
Trong hai thập kỷ tới, ngành may Việt Nam vẫn hướng ra xuất khẩu để thu
hút ngoại tệ, tự cân đối để tồn tại và phát triển, đồng thời coi trọng thị trường
nội địa để làm cơ sở cho sự phát triển.
Trên thực tế hiện nay, có thể tạm chia thị trường may Việt Nam thành hai
khu vực.
5.1. Thị trường nội địa.
Trên lĩnh vực này, ngành may Việt nam cũng gặp phải không ít những khó
khăn khi phải thi đấu với những đối thủ trên sức mình. Vì Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức và thực hiện các điều khoản của hiệp định AFTA,
thị trường nội địa là “sân chơi” của các nước trong khu vực. Trong khi ngành
dệt Việt Nam đang ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực: về phần
cứng ta sau bạn từ 7-8 năm, về phần mềm thì sau 15-20 năm. Như vậy, để giữ
được thị trường trong nước, không để hàng các nước trong khu vực tràn vào
cạnh tranh, ngành dệt may phải có những bước đi và giải pháp thích hợp trong
thời gian tới.
5.2.Thị trường xuất khẩu.
Đây là thị trường có nhu cầu lớn nhưng lại có yêu cấu rất cao về chất lượng
và mẫu mã, đặc biệt là thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU. Để vào được thị
trường này, ngành may phải đi từng bước từ dễ đến khó, từ gia công đến xuất
hàng FOB ( năm 2010 hàng vào EU là 70% FOB ) và thương mại. Với tình
hình thực tế ngành may của ta hiện nay, chỉ có thể đi vào các chủng loại mặt
hàng chất lượng thấp và trung bình, một số ít mặt hàng đạt đến khá. Các loại
mặt hàng cao cấp của thị trường này ta chưa thể làm được và rất khó cạnh
tranh. Đặc biệt vào năm 2005, thị trường Mỹ sẽ không còn hạn ngạch, với lợi
thế nhân công rẻ, ngành may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị
trường này.
Thâm nhập và tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc khó
39
khăn phức tạp nên phải phát huy khả năng của mọi doanh nghiệp để mở rộng
và phát triển thị trường. Đồng thời ngành may Việt nam cũng phải từng bước
đầu tư hợp lý, tổ chức lại quản lý sản xuất để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh
tranh và uy tín trên thị trường.
Trong những năm tới, ngành may Việt Nam phải đầu tư phát triển để đạt
được tốc độ tăng trưởng bình quân 1999-2003 là 15%/năm. Đến năm 2003
xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,2-1,3 triệu USD, tăng ba lần so với năm 1998.
Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt Nam sản xuất chiếm khoảng 40-50%.
Tạo việc làm cho khoảng một triệu lao động.
Đến năm 2010 xuất khẩu hàng may mặc đạt 3 tỷ USD, tăng gấp hai lần so
với năm 2003. Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt nam sản xuất chiếm 60-
70%. Tạo ra công ăn việc làm cho gần hai triệu lao động với mức thu nhập
bình quân trên 100 USD/1tháng/1người.
40
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA TỔNG
CÔNG TY DỆT- MAY THỜI KỲ 1998-2001.
Mặt hàng may mặc Việt nam trong nhiều năm qua chiếm một vị trí quan
trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao giá trị sản lượng của toàn bộ
ngành công nghiệp Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc tăng vọt từ
năm 1996, là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định may mặc giữa Việt nam với EC
(Europed Community). Hiệp định này đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về
số lượng, chất lượng và thị trường của sản phẩm may mặc "Made in Vietnam"
trên thị trường thế giới.
Nếu như năm 1996 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đạt 350 triệu USD
thì năm 1997 tăng lên 554 triệu USD, chiếm 85% kim ngạch hàng công nghiệp
nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, chiếm khoảng 13-14% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Năm 1998 vẫn giữ tỉ trọng này nhưng về mặt giá trị đã tăng lên
750 triệu USD. Với sự ra đời của Tổng Công ty Dệt- May Việt nam trên cơ sở
thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất-
xuất nhập khẩu hàng may mặc đã phát huy được sức mạnh tổng hợp, tạo được
thế và lực. Từ năm 1998 tới nay, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc không
ngừng tăng lên và đã đứng hàng thứ hai trong danh mục hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt nam. Cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3: Giá trị xuất khẩu hàng may Việt nam 1994-2001.
(Đơn vị: triệu USD)
1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Giá trị XK toàn
quốc
2.087,1 2.580,7 2.985,0 4.054,3 5.200,0 7.255,8 8.850,0 8.910,0
Giá trị XK ngành
may Việt nam
116,0 180,0 350,0 550,0 750,0 1.150,0 1.250,0 1.310,0
Tỷ lệ so với XK
toàn quốc (%)
5,6 7 11,7 13,6 14,4 15,8 14,1 14,7
(Nguồn: Dự án qui hoạch tổng thể ngành công nghiệp Dệt- May đến năm 2010, tr. 17.)
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
phải kể đến hàng Dệt-May. Tuy đứng ở vị trí thứ hai sau dầu thô, nhưng đây là
mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Năm 2000 tỷ
41
lệ xuất khẩu hàng Dệt-May chiếm 14,1% so với toàn quốc đến năm 2001 tỷ lệ
này tăng lên 14,7% mặc dù bị ảnh hưởng không ít bởi cơn khủng hoảng tài
chính ở Đông Nam á. Đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Tổng Công thuốc
thú y, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Điều này góp
phần giải quyết việc làm, tích cực đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
1. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo mặt hàng.
Trong những năm qua, Tổng Công ty Dệt-May Việt nam thực hiện kinh
doanh đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, khách hàng có xu hướng tăng
lên. Tổng Công ty có khả năng tạo nguồn hàng với khối lượng lớn và đang mở
ra một hướng kinh doanh mới phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế trong
nước và thế giới.
Các hình thức xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty chủ yếu là xuất
khẩu trực tiếp, xuất khẩu trả nợ, liên doanh với các đơn vị để xuất, giao hàng
đổi thiết bị, mua bán đứt đoạn. Các nhóm mặt hàng chủ yếu bao gồm:
- Nhóm mặt hàng mặc thường ngày: sơ mi, quần âu, áo váy...
- Nhóm mặt hàng lót nam, nữ
- Nhóm mặt hàng thường dùng ở nhà: các loại bộ ngủ nam, nữ; vỏ chăn,
ga, gối.
- Nhóm quần thể thao: quần áo vải thun, quần áo bò (Jean)
- Nhóm thời trang hiện đại (quần áo mode)
- Nhóm trang phục đặc biệt: quân đội, bảo hộ lao động cho các loại
ngành nghề.
Các nhóm hàng trên với nhiều chất liệu vải và phụ liệu, với tay nghề tốt,
khéo léo nên sản phẩm xuất khẩu ra đạt yêu cầu về chất lượng của khách hàng.
42
Bảng 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu qua các năm
Mặt hàng 1999 2000 2001
Tr. USD % TKN Tr.
USD
% TKN Tr. USD % TKN
1. Sơ mi 108,871 14,25 236,028 20,52 257,043 20,56
2.Jacket và áo khoác các loại 118,459 15,79 225,742 19,63 241,978 19,36
3. Quần các loại 58,630 7,82 110,483 9,61 157,142 12,57
4. Dệt kim các loại 57,799 7,71 92,421 8,03 107,664 8,6
Sau mỗi đợi xuất hàng, Tổng Công ty đều tổ chức hạch toán kiểm tra việc
thực hiện nhiệm vụ ở các công đoạn xem có đúng, đầy đủ, chính xác không để
kịp thời phát hiện, bổ sung thiếu sót. Do vậy, hoạt động xuất khẩu hàng may
mặc liên tục hoàn thiện và phát triển. Có thể thấy rõ hơn sự biến động tăng
giảm của từng sản phẩm qua các năm qua (Bảng 4).
Qua bảng trên cho thấy, tình hình xuất khẩu các mặt hàng may mặc nói
chung có triển vọng tốt, chẳng hạn đối với mặt hàng sơ mi năm 1999 giá trị đạt
hơn 100 triệu USD, chiếm 14,52% tổng kim ngạch thì năm 2000 đã tăng lên
hơn 200 triệu USD, chiếm 20,52% và năm 2000 là 20,56%. Trong cơ cấu hàng
may mặc xuất khẩu trên thì xu hướng hàng may mặc sẵn có xu hướng tăng lên
nhiều bởi Tổng Công ty ngoài việc thực hiện xuất khẩu còn thực hiện làm hàng
trả nợ cho các nước SNG và Đông Âu. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự
hỗ trợ của các đối tác, Tổng Công ty không ngừng đầu tư đổi mới trang thiết
bị, dây truyền công nghệ, thay thế các thiết bị cũ, lạc hậu, lắp đặt các thiết bị
hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm đa
dạng (sơ mi, jacket, đồ thể thao...) từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường. Đặc
biệt đối với mặt hàng sơ mi nam cao cấp đã có mặt và đứng vững trên thị
trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Bắc Mỹ.
Đối với mặt hàng dệt kim, những năm trước kia có giá trị xuất khẩu rất lớn,
do khi đó chưa đòi hỏi kỹ thuật cao cấp và nhu cầu ở các nước bạn hàng rất
43
lớn. Còn hiện nay, hàng dệt kim đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, trên thị
trường lại có nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt. Do đó mặt hàng này hiện nay
xuất khẩu chủ yếu là để trả nợ . Bên cạnh đó, mặt hàng này phần lớn là được
xuất sang các nước SNG, vì vậy khi các nước này tan rã, thì thị trường cho mặt
hàng này bị thu hẹp nhanh chóng. Nếu như năm 1996 xuất khẩu chiếm 39,1%
thì từ năm 1998 đến nay chỉ đạt từ 7 đến 8%.
Trên đây là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Tổng Công ty. Hiện nay
Tổng Công ty đang tiếp tục củng cố và tiến tới nâng cao tỉ trọng hàng dệt kim,
hoàn thiệnvà phát triển hàng may mặc, đảm bảo chất lượng cao, chủng loại đa
dạng phong phú, giá thành giảm dần.
Bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại cần
giải quyết. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cao nhưng hình thức xuất
khẩu hàng gia công là chủ yếu, do đó hiệu quả chưa cao (75-80% là gia công
xuất khẩu). So với các nước nói chung, mặt hàng may mặc của ta chưa cạnh
tranh được (trong đó có Trung Quốc, Thái Lan). Một trong những mục tiêu
phấn đấu của Tổng Công ty là từng bước giảm gia công, tăng bán sản phẩm
hoàn chỉnh. Để thực hiện được mục tiêu này, Tổng Công ty hướng ưu tiên đầu
tư cho khâu kéo sợi, dệt vải, in, nhuộm để tạo ra nhiều loại vải có chất lượng
cao (hiện nay, vải đủ tiêu chuẩn chỉ có 10-15% nhu cầu chủng loại) và đầu tư
vào sản xuất phụ liệu, khâu thiết kế mẫu mã, nhãn mác và phải đẩy mạnh công
tác tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng mua sản phẩm hoàn chỉnh của
Việt Nam. Năm 1999 toàn Tổng Công ty xuất khẩu sản phẩm theo điều kiện
FOB được khoảng 30%, năm 2000 đã tăng lên 40%. Đây là một cố gắng lớn
của Tổng Công ty.
2. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường .
Thâm nhập tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tổng
Công ty Dệt-May Việt nam. Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh xuất
khẩu hàng may mặc luôn được Tổng Công ty chú trọng nhằm mở rộng thị
trường trong nước và nước ngoài. Đến nay Tổng Công ty đã có quan hệ buôn
bán với trên 40 nước. Tổng Công ty đang củng cố vị thế và mở rộng thị trường
44
hơn nữa. Giá trị hàng may mặc không ngừng tăng lên qua các năm.
Bên cạnh đó, nhu cầu hàng may mặc không ngừng tăng lên ở các nước trên
thế giới vì sau nhu cầu ăn là nhu cầu về mặc. Tổng khối lượng lưu chuyển hàng
hoá này chiếm tỉ trọng lớn trong cán cân thương mại quốc tế, chỉ đứng sau
khoáng sản tài nguyên và chế tạo máy, điện tử. Khi trình độ khoa học kỹ thuật
của con người ngày càng phát triển ở mức độ cao sẽ dẫn tới sự phân hoá thế
giới về sản xuất. Các nước phát triển sẽ chuyển sang các ngành công nghiệp
hiện đại, nhường chỗ cho các nước đang phát triển trong công nghiệp sản xuất
hàng may mặc. Nhu cầu may mặc cũng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, mẫu mã,
chất liệu phong phú hơn, đặc biệt xã hội càng văn minh lịch sự bao nhiêu thì
yêu cầu về mặc lại càng được chú ý cầu kỳ bấy nhiêu. Nhận biết được các yếu
tố đó đã giúp cho Tổng Công ty trong hoạt động xuất khẩu đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Để hiểu rõ hơn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của
Tổng Công ty sang các thị trường trong thời gian qua, ta hay xem xét qua bảng
5 dưới đây:
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường chủ yếu
1998-2001
Thị trường 1998 1999 2000
Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN
TT có hạn ngạch
Trong đó:
- EU 310 41,3 420 36,52 650 52
- Canada 17,85 2,38 15,97 1,39 12,89 1,03
- Nauy 9,53 1,27 5,82 0,51 4,93 0,39
TT Phi hạn ngạch
Trong đó:
- Thuỵ Sĩ 27,6 3,68 8,64 0,75 8,51 0,68
- Hungary 57,5 7,70 102,59 8,93 105,58 8,44
- Ucraina 37,21 4,97 119,12 10,35 121,3 9,7
- Séc 39,87 5,32 189,22 16,45 69,07 5,53
- Nga 50,53 6,74 43,75 3,8 39,87 3,19
- Nhật 59,28 7,90 79,85 6,94 29,54 2,36
- Hàn quốc 36,71 4,89 9,87 0,9 8,75 0,7
- Đài loan 47,66 6,35 25,69 2,23 30,42 2,43
- Hồng Kông 29,21 3,89 97,54 8,48 112,37 9,04
45
- Mỹ 5,48 0,73 9,74 0,85 14,28 1,14
- Các nước khác 21,57 2,88 22,2 1,90 42,49 3,41
Tổng 750 100 1150 100 1250 100
Qua bảng số liệu trên cho thấy, hàng may mặc xuất khẩu của Tổng Công ty
chiếm tỉ trọng lớn ở các thị trường Nga, Nhật, EU, Séc, Ucraina, Hungary. Tuy
nhiên hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở các thị trường trên vẫn
chưa thật ổn định.
Trong số các thị trường có hạn ngạch, thì EU là thị trường lớn nhất của
Tổng Công ty. Đây là một thị trường đông dân (350 triệu người) lại có sức tiêu
dùng vải cao (17 kg/ 1 người). Yêu cầu về hàng may mặc đặc biệt cao. Nhu
cầu tiêu dùng để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10- 15% giá trị sản phẩm, còn 80-
90% là theo mốt, nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm may là chính.
Trong ba năm 1998, 1999, 2000, quota xuất khẩu hàng may mặc Việt nam
vào EU không ngừng tăng lên. Điều đó chứng tỏ chất lượng hàng may mặc đã
ngày một cao hơn. Nhưng so với các nước có quota vào EU thì số lượng của ta
còn rất nhỏ bé (mới chỉ chiếm 0,7% tổng kim ngạch nhập hàng may mặc vào
EU) và chỉ bằng 5% đối với Trung Quốc, 10- 20% so với các nước ASEAN.
Tuy nhiên, ta cũng còn gặp nhiều khó khăn như nhiều mặt hàng lớn thì bị hạn
chế về số lượng như Jacket, áo sơ mi mới chỉ đạt 50% công suất của ngành. Số
hạn ngạch còn hạn chế: Hiệp định Việt nam- EU 1996- 1998 qui định 151 cat.
Giá trị xuất khẩu năm 1998 đạt 310 triệu USD, năm 1999 ký lại còn 54 cat
(nhóm hàng xuất khẩu) đã nâng kim ngạch xuất khẩu lên 410 triệu USD. Năm
2000 Hiệp định này ký lại rút xuống còn 29 cat, nâng tổng kim ngạch xuất
khẩu sang EU lên 650 triệu USD chiếm 52% tổng kim ngạch xuất khẩu. Số
nhóm hàng xuất khẩu (cat) mà EU dành cho hàng may mặc Việt Nam càng
giảm thì số chủng loại mặt hàng may Việt Nam càng có cơ hội thâm nhập vào
thị trường EU nhiều hơn.
Ngoài ra, EU còn dành một số ưu đãi về thuế quan (GSP) đối với mặt hàng
may mặc do Việt Nam sản xuất. Song do nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong
nước còn yếu kém, chưa có mẫu mã phù hợp với thị hiếu và chưa có bạn hàng
46
mua bán trực tiếp ở các nước trong khối EU... nên hầu hết phải thông qua gia
công cho các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... Gia công đơn
thuần làm cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc không hiệu quả, bị thua thiệt
nhiều mặt, không tận dụng được ưu đãi quota mà EU dành cho ta. Đối với thị
trường EU, kim ngạch xuất khẩu có tăng lên, xong không đáng kể. Các thị
trường Canada, Nauy bị thu hẹp do hàng của Tổng Công ty không cạnh tranh
được với hàng của các nước khác. Chẳng hạn như mặt hàng sơ mi, Trung
Quốc phát triển hơn ta rất nhiều.
Đối với nhóm thị trường phi hạn ngạch, nhìn tổng thể thì kim ngạch xuất
khẩu tăng đều trên các thị trường Hungary, Ucraina, Hồng Kông, Mỹ nhưng
trên một số thị trường khác thì xuất khẩu lại giảm, chẳng hạn như: Nga, Đài
loan, Thuỵ sĩ, đặc biệt là thị trường Nhật giảm rất nhanh trong năm2000. Sở dĩ
vì có tình trạng trên là vì ở các thị trường Séc, Hungary phần lớn là hàng trả
nợ. Trên thị trường Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu đổi hàng thuỷ điện Yaly,
thuỷ điện Yaly nợ Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu hàng may mặc sang
Ucraina, Yaly trả tiền cho Tổng Công ty, do đó khối lượng tiêu thụ sang những
thị trường này là tương đối lớn.
Mặt khác, đây là các thị trường dễ tính, phù hợp với trình độ và quen thuộc
của Tổng Công ty nên dễ thực hiện, tuy nhược điểm đồng tiền trên thị trường
SNG và một số nước Đông Âu còn biến động lớn.
Trên thị trường Nga, mặc dù giá trị hàng xuất khẩu năm 1999, 2000 có
giảm đi nhưng không đáng kể vì trên thị trường này xuất khẩu chủ yếu là hàng
đổi hàng và để trả nợ. Ở Đài Loan, Nhật Bản thì con số này chỉ ở mức khiêm
tốn, chiếm khoảng 1,7%. Đây là thị trường to lớn và hấp dẫn mà Tổng Công ty
cần khai thác hiệu quả hơn nữa.
Ngoài các thị trường trên, Mỹ là thị trường mới mẻ đối với Tổng Công ty.
Qua ba năm từ 1998-2000 thị trường Mỹ đã liên tục được mở rộng và tăng lên
tuy nhiên chưa lớn lắm. Đây là một thị trường đầy triển vọng đối với Tổng
Công ty. Mỹ-một thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế
giới, dân số đông (hơn 360 triệu người), mức tiêu thụ hàng may mặc gấp rưỡi
47
EU (27kg/ 1 người). Từ sau khi quan hệ Việt-My bình thường hoá, hai nước
đã đặt quan hệ Đại sứ, bãi bỏ cấm vận, tuy chưa được hưởng ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP) và tối huệ quốc MFN, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc giữa
Tổng Công ty với Mỹ luôn tiến triển tốt đẹp.
Trong khuôn khổ đàm phán WTO từ 1/1/1998 thì trong vòng 10 năm nữa
hàng rào hạn ngạch hàng dệt may bị bãi bỏ và thuế sẽ giảm trung bình 9%. Các
nước có xu hướng sản xuất hàng dệt may đang điều chỉnh lại chiến lược phát
triển ngành dệt may nước họ, chuẩn bị đọ sức quyết liệt tại thị trường Mỹ
không hạn ngạch vào năm 2005, đặc biệt là đối với những nước có lợi thế nhân
công rẻ sẽ ồ ạt xuất hàng may mặc vào Mỹ. Tổng Công ty Dệt May Việt nam
do xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ còn quá nhỏ bé (0,037% tổng kim ngạch
nhập năm 1998) nên cần có chiến lược tiếp thị, phát triển các mặt hàng may
mặc phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng, và thị hiếu của thị trường Mỹ, đầu tư
đón trước thời cơ để có thể thâm nhập mạnh mẽ vào được thị trường khổng lồ
này.
Có thể nói rằng những thành công của Tổng Công ty trong thời gian qua
không chỉ thể hiện bằng những con số, mà còn phải kể đến thị trường mở rộng,
mặt hàng đa dạng, phong phú, tạo ra uy tín đối với các đơn vị kinh doanh trong
và ngoài nước, đây mới là tài sản vô hình quí giá không dễ gì đạt được.
3. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt -
May Việt Nam.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty là một đòi hỏi bức thiết
đối với công tác quản lý cũng như đối với Tổng Công ty nhằm hướng Tổng
Công ty quan tâm khai thác tiềm năng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Trên cơ sở đó, tăng cường tích luỹ để đầu tư tái kinh doanh cả chiều
rộng lẫn chiều sâu, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Có rất nhiều chỉ tiêu để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng
Công ty. Song đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc thì chỉ
48
tiêu lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu
động là hai chỉ tiêu quan trọng nhất.
3.1. Cơ sở hình thành lợi nhuận của Tổng Công ty từ hoạt động
xuất khẩu.
Để có thể phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
xuất khẩu một cách rõ ràng, chính xác cần thiết phải xem xét những khoản mục
nào tạo nên chi phí, lợi nhuận trước và sau thuế được hình thành như thế nào.
Cơ sở hình thành lợi nhuận của tổng Công ty có thể được tóm tắt như sau:
49
P = [( R - C ) - T ] + B
Trong đó:
R: Tổng doanh thu từ hợp đồng xuất khẩu: Giá trị hợp đồng
C: Tổng chi phí hợp lý, hợp lệ bao gồm:
- Giá vốn hàng hoá: giá mua và chi phí thu mua
- Tiêu hao nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu
- Khấu hao tài sản cố định
- Tiền công, tiền lương
- Lệ phí hải quan, thuê tàu, bảo hiểm hàng hoá
- Chi phí quản lý, tiền lãi ngân hàng
- Chi phí liên quan trực tiếp đến lưu thông hàng hoá xuất khẩu
ở trong nước:
+ Bốc xếp, vận chuyển
+ Chi phí bảo quản, đóng gói bao bì
+ Chi phí giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng
- Các chi phí được coi là hợp lệ
T: Thuế các loại, bao gồm:
- Thuế doanh thu
- Thuế sử dụng vốn ngân sách cấp (gọi tắt là thuế vốn)
- Thuế lợi tức tính theo công thức sau:
Trước năm 1999:
50
Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- thuế vốn + Lợi tức
khác) * thuế suất lợi tức
Năm 2000 đến nay:
Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- lợi tức khác) * thuế suất
lợi tức
B: Các khoản lợi tức khác:
Bao gồm:
- Các khoản lợi tức khác phải nộp thuế:
+ Lãi tiền gửi ngân hàng
+ Lãi từ hoạt động kinh doanh cho thuê động sản, bất
động sản
+ Lãi từ hoạt động kinh doanh phụ khác
+ Lãi từ các hoạt động tài chính khác
+ Chênh lệch thanh lý , chuyển nhượng tài sản cố định
- Các khoản lợi tức khác không phải nộp thuế
+ Lãi từ góp vốn liên doanh
+ Lợi nhuận góp hoặc mua cổ phiếu, cổ phần
P: Thực lãi của Tổng Công ty từ hoạt động xuất khẩu
Phần lãi này được chia làm 3 quĩ theo qui định của Nhà nước và thuộc
quyền sử dụng của Tổng Công ty trong phạm vi 3 quĩ đó là: quĩ phát triển sản
xuất, quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi.
Trong thực tế khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta phải
chú ý đến tương quan giữa tỉ giá hối đoái chính thức được công bố trên thị
51
trường và tỉ giá hàng xuất khẩu.
Tỉ giá hàng xuất khẩu là số nội tệ phải bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại
tệ ví dụ là (Mx)
Khi nhà sản xuất hoàn thành thủ tục giao hàng, sẽ thực hiện thanh toán bằng
ngoại tệ. Số lượng ngoại tệ thu về là giá trị của hợp đồng xuất khẩu gọi là
doanh thu hoạt động xuất khẩu (Rx). Như vậy, để thu được Mx đơn vị ngoại tệ
thì Tổng Công ty phải chi phí (Mx*Rx) đồng nội tệ, đó chính là các khoản chi
phí ở mục b.
Số lượng ngoại tệ Mx thu về được đổi thành đồng nội tệ theo tỉ giá hối đoái
trên thị trường là Mtt và (Mtt*Mx) đồng nội tệ. Vì vậy lợi nhuận hoạt động
xuất khẩu là:
LNx = Mtt*Rx - Mx*Rx = (Mtt - Mx)* Rx
Lợi nhuận xuất khẩu chỉ dương hay nhà xuất khẩu chỉ có lợi khi tỉ giá hối
đoái của thị trường Mtt lớn hơn tỉ giá hàng xuất khẩu Mx. Khi Mtt = Mx thì
nhà xuất khẩu hoà vốn.
3.2. Tổng lợi nhuận.
Tổng lợi nhuận thường được biết đến là lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp từ
hoạt động sản xuất kinh doanh, được tính bằng doanh thu trừ đi chi phí.
Tổng lợi nhuận có thể được xem xét dựa vào bảng sau:
Bảng 6: Tình hình tài chính của Tổng Công ty năm 1998-2001.
(Đơn vị: Triệu VND)
Năm
Chỉ tiêu
1998 1999 2000 2001
- Doanh thu
- Chi phí
- Lợi nhuận trước thuế
- Nộp thuế
- Lợi nhuận sau thuế
- Lợi nhuận khác
83.905
81.119
2.786
1.253
1.533
161583
155.926
5.657
2.340
3.317
465
198770
192327
6.443
245.302
237.807
52
Thực lãi 1.533 3.782 3.866 4.623
Qua bảng trên cho thấy, tỷ trọng chi phí trên tổng doanh thu lần lượt qua
các năm là: 96,7%; 96,5%; 96,8%. Tỷ trọng trước thuế tương ứng với 3 năm
đó là: 3,32%; 3,5%; 3,24%.
Như vậy tỷ trọng của lợi nhuận trước thuế trong tổng doanh thu là tương
đối ổn định đạt mức trung bình là 3,35% trong thời kỳ 1998-2000. Doanh thu
qua các năm không ngừng tăng lên. Năm 1999 so với năm 1998 đã tăng thêm
được 77678 triệu đồng, năm 2001 tăng thêm so với năm 2000 là 31187 triệu
đồng.
Như đã đề cập ở trên, lợi nhuận trước thuế sau khi trừ đi các khoản nộp
ngân sách thu được khoản lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế cộng thêm
các khoản lợi tức khác của Tổng Công ty thu được thực lãi, mà thực lãi sau đó
sẽ được trích lập thành ba quĩ theo qui định của Nhà nước. Vì vậy, sẽ là không
đầy đủ khi đánh giá hiệu quả kinh tế theo lợi nhuận nói chung mà chỉ phân tích
lợi nhuận trước thuế.
Tỷ trọng nộp ngân sách trong tổng lãi gộp qua các năm 1998,1999,
2000,2001 tương ứng là: 45%; 41,4%; 40%, 42% trung bình là 42,1%. Tỷ
trọng của lợi nhuận sau thuế trong tổng lợi nhuận tương ứng là: 51,1%; 58,6%;
và 60%, 61% trung bình là 57,9%. Những con số trên đây cho thấy mức độ
nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước của Tổng Công
ty. Phần lợi nhuận sau thuế có tỷ trọng trung bình trong tổng lãi gộp từ hoạt
động kinh doanh là: 57,9%, trong đó tổng chi phí là 2,01%, trong tổng doanh
thu nói chung là 1,94%. Như vậy trong thời kỳ 1998-2001 vừa qua, hoạt động
kinh doanh của Tổng Công ty tương đối ổn định, luôn đảm bảo nghĩa vụ đầy
đủ đối với Nhà nước.
Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận trước thuế thời kỳ 1998-2001 là
58,47% so với tốc độ tăng trưởng trung bình của tổng doanh thu cùng kỳ là
57,8%. Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận sau thuế trong thời gian này là
66,46%, của nộp ngân sách là 48,44%.
53
Xét về số tuyệt đối thì tổng lãi gộp chưa lớn, hay phần nộp ngân sách và lợi
nhuận sau thuế còn nhỏ bé nhưng rõ ràng lợi nhuận trước và sau thuế tăng đều
đặn và đạt từ 58- 66%, cùng với mức tăng trưởng doanh thu là 57,8%. Đó là
một dấu hiệu tích cực, phản ánh quá trình tích cực của Tổng Công ty trong
suốt thời kỳ 1998-2001 đã đạt được hiệu quả kinh tế cao, không những mang
lại lợi nhuận ngày càng cao cho Tổng Công ty mà còn tăng thu ngân sách cho
Nhà nước.
3.3. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, doanh thu, và vốn kinh doanh.
3.1.1. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc) được tính theo công thức:
Tổng lợi nhuận
Tổng chi phí
Trong đó tổng lợi nhuận được tính là tổng lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp,
là phần còn lại của doanh thu sau khi đã bù đi các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, nếu tính doanh lợi theo chi phí dựa trên ba nhân tố là lãi gộp, lợi
nhuận trước thuế, thực lãi của Tổng Công ty thì không những biết được rằng
một đồng chi phí bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lãi gộp mà còn cho biết trong
phần lãi gộp đó bao nhiêu đồng trở về ngân sách Nhà nước, bao nhiêu là phần
lãi thực tế của Tổng Công ty. Phân tích như vậy sẽ có giá trị so sánh hơn rất
nhiều.
Bảng 7: Doanh lợi theo chi phí thời kỳ 1998-2001
Năm
Chỉ tiêu
1998 1999 2000 2001
Tổng chi phí 81.119 155.926 192.327 237.807
Lợi nhuận trước thuế 2.786 5.657 6.443 7.495
Lợi nhuận sau thuế 1.533 3.317 3.866 4.623
Thực lãi 1.533 3.782 3.866 4.623
Dc (theo lợi nhuận trước thuế) 3.4 3,6 3.4 3,5
Dc
=
* 100%
54
Dc (theo lợi nhuận sau thuế) 1.9 2,1 2,0 2,0
Dc (theo thực lãi) 1.9 2.4 2,0 2,0
Về nội dung, các số liệu ở các cột tương ứng với các năm có ý nghĩa như
nhau vì thế chỉ cần chú giải một cột, ví dụ như năm 1999. Trong năm 1999:
Một đồng chi phí bỏ ra có thể thu về 0,036 (3,6%) đồng lãi gộp.
0,036 đồng lãi gộp đó có 0,024 đồng thực lãi của Tổng Công ty.
0,036 đồng đó có 0,015 đồng quay lại ngân sách Nhà nước
Như vậy từ một đồng chi phí bỏ ra năm 1999, Tổng Công ty thu về được
0,036 đồng lợi nhuận trước thuế, nộp 0,015 đồng cho ngân sách Nhà nước, thu
về là 0,021 đồng lợi nhuận sau thuế và 0,024 đồng thực lãi của Tổng Công ty.
Sở dĩ số thực lãi và lợi nhuận sau thuế không thống nhất với nhau vì Tổng
Công ty còn có các khoản lợi tức khác cộng thêm vào lợi nhuận sau thuế mới
có được thực lãi. Ởđây, các khoản lợi tức khác được tính vào thực lãi của
Tổng Công ty không phải là lợi tức từ hoạt động kinh doanh nhưng chỉ tồn tại
khi Tổng Công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đó không phải là các
khoản lợi nhuận thu về từ chênh lệch doanh thu và chi phí, nhưng lại có nguồn
gốc từ chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, các khoản lợi nhuận này
được đưa vào tính tỷ suất lợi nhuận để có giá trị phân tích cao hơn.
Qua bảng trên có thể thấy rằng các khoản chi phí của Tổng Công ty để tiến
hành hoạt động xuất khẩu nhìn chung là tiết kiệm. Tỉ lệ lợi nhuận trước và sau
thuế thu về từ mọi hoạt động chi phí là tương đối cao. Bản thân doanh lợi theo
chi phí này phản ánh mức độ tiết kiệm các khoản chi phí và cũng là một khiá
cạnh quan trọng đánh giá hiệu quả kinh doanh. Trên góc độ của chỉ tiêu này
nhận thấy hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu trong thời kỳ 1998-2001 là
tương đối cao. Kết quả tích cực đó tạo nên nền tảng vững chắc để Tổng Công
ty có thể mở rộng cả về chiều sâu chiều rộng trong kinh doanh xuất khẩu hàng
may mặc trong tương lai.
55
3.3.2. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (Dr) được tính theo công thức:
Lợi nhuận
Dr = * 100%
Doanh thu
Xét lợi nhuận của năm 1999:
Trong một đồng doanh thu có 0.035 đồng lợi nhuận. Trong 0.035 đồng đó
có 0.015 đồng quay lại ngân sách Nhà nước, 0.02 đồng là lãi sau thuế của
Tổng Công ty. Phần lãi sau thuế này cộng thêm với phần góp thêm của các lợi
tức. Còn lại 0.023 đồng lợi nhuận thực tế.
Bảng 8: Doanh lợi theo doanh thu thời kỳ 1998-2001.
Năm
Chỉ tiêu
1998 1999 2000 2001
Tổng doanh thu 83.905 161.583 198.790 245.302
Lợi nhuận trước thuế 2.786 5.657 6.443 7.495
Lợi nhuận sau thuế 1.533 3.317 3.866 4.623
Thực lãi 1.533 3.782 3.866 4.63
Dr (Tính theo lợi nhuận trước thuế) (%) 3,3 3,5 3,2 3,24
Dr (Tính theo lợi nhuận sau thuế) (%) 1.8 2,0 1,9 1,97
Dr (Theo thực lãi) 1,8 2,3 1,9 1,97
Như vậy, từ một đồng doanh thu Tổng Công ty có 0.035 đồng lợi nhuận
trước thuế, 0.02 đồng lợi nhuận sau thuếvà 0.023 đồng lợi nhuận thực tế. Thực
tế cho thấy, doanh lợi theo doanh thu cho biết khả năng sinh lời từ một đồng
doanh thu, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí phản ánh mức độ tiết kiệm chi phí,
56
khả năng sinh lợi của một đồng chi phí. Tuy nhiên, nếu chỉ có doanh lợi theo
chi phí và doanh thu cao thì chưa đủ để kết luận về hiệu qủa kinh doanh, mà
cần thiết phải xem xét lợi nhuận trong mối quan hệ với các nguồn lực của
doanh nghiệp, đặc biệt là vốn kinh doanh.
3.3. Doanh lợi tính theo vốn kinh doanh.
Vốn lưu động thường chiếm hơn 80% tổng vốn của một doanh nghiệp
thương mại. Việc sử dụng luân chuyển vốn lưu động có quan hệ nhân qủa, chặt
chẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động kinh doanh.
Doanh lợi theo vốn lưu động (Dv) được tính theo công thức sau:
Lợi nhuận
Dv = * 100%
Obq
Obq: Là số dư bình quân của vốn lưu động trong thời gian tính lợi
nhuận.
Obq được tính như sau:
-Trong một tháng:
Odk + Ock
Obq =
2
Odk: Dư đầu kỳ vốn lưu động
Ock: Dư cuối kỳ vốn lưu động
- Trong một quí:
Obq: Là tổng bình quân số dư vốn lưu động của các tháng trong kỳ.
- Trong một năm:
Obq: Là tổng bình quân của 12 tháng hay bốn quí.
Xác định số dư vốn lưu động đầu kỳ và cuối kỳ căn cứ vào số dư đầu kỳ và
dư nộp cuối kỳ trên các tài khoản theo dõi tài sản lưu động và vốn lưu thông
thể hiện bằng tiền và hàng hoá trên sổ sách báo cáo kết quả của phòng kế toán
của Tổng Công ty.
57
Xét năm 1999 ( Bảng 9 ):
Doanh lợi theo vốn lưu động bình quân là 0.25 cho biết từ một đồng vốn
lưu động bỏ ra trong năm có thể thu về bình quân 0.25 đồng lợi nhuận trước
thuế. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, Tổng Công ty
có thể thu về bình quân là 0.25 đồng lợi nhuận sau thuế.
Doanh lợi tính theo vốn lưu động bình quân là khá ổn định trong ba năm
1998-2000, với mức trung bình là 19.3 % nếu là lợi nhuận chưa trừ thuế và
11.3% với lợi nhuận sau thuế. Như vậy, chúng ta có thể thấy hiệu quả sinh lợi
từ vốn lưu động là rất cao. Đây là một chỉ tiêu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn
lưu động của Tổng Công ty.
Bảng 9: Doanh lợi theo vốn lưu động năm 1998-2001.
(Đơn vị: Triệu VNĐ và %)
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999 2000 2001
Số dư bình quân vốn lưu động 26.310 25.267 25.755 28.602
Lợi nhuận trước thuế 2.786 5.657 6.443 7.495
Lợi nhuận sau thuế 1.533 3.317 3.866 4.623
Dv theo lợi nhuận trước thuế (%) 10,6 22,4 25,0 25,3
Dv theo lợi nhuận sau thuế (%) 5,8 13,1 15,0 15,2
3.4. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Vốn lưu động là một nguồn lợi quan trọng nhất và đáng kể nhất bên cạnh
vốn nhân lực của các doanh nghiệp thương mại nói chung, của Tổng Công ty
xuất khẩu Dệt-May Việt Nam nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì thế
là một dấu hiệu quyết định hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh.
Bảng 10: Chu chuyển vốn lưu động năm 1998-2001.
Năm 1998 1999 2000 2001
Tổng doanh thu (Tr.VNĐ) 83.905 161.583 198.770 245.302
Số dư bình quân vốn lưu động (Tr.VNĐ) 26.310 25.267 25.755 28.602
58
Tốc độ chu chuyển (vòng) 3,2 6,4 7,7 7,9
Thời gian chu chuyển (ngày) 112,5 56,3 46,8 49,0
Xét năm 1999:
Tổng mức luân chuyển vốn lưu động (doanh số) đạt 161.583 triệu đồng. Số
dư bình quân vốn lưu động trong năm là 25.267 triệu đồng, tốc đọ chu chuyển
đạt 6,4 vòng, thời gian mỗi lần chu chuyển là 56,3 ngày.
Xét cả thời kỳ 1998-2001, tốc độ chu chuyển vốn lưu động bình quân là
5,8 vòng, thời gian chu chuyển trung bình là 62,1 ngày, có thể nhận thấy các
hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty thực hiện khá nhanh,
vốn lưu động thực hiện có hiệu quả, luân chuyển liên tục trong thời gian trung
bình chưa đầy ba tháng.
4. Vấn đề đối tác và mức độ cạnh tranh của Tổng Công ty Dệt-May Việt
Nam trên thị trường thế giới hiện nay.
Trong 15 nước đạt kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới
trong những năm gần đây chúng ta xem xét tới một số đối tác đang phát triển ở
gần Việt Nam như Trung Quốc, Thái lan, ấn Độ, Mailaixia, Bawngladet...Tốc
độ tăng Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, ấn Độ, Mailaixia, Bawngladet...
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng may mặc của các nước này những năm qua
rất cao. Indonexia nhiều năm tăng trên 40%, Băngladet 40%, Trung Quốc
35%, Thái Lan 27%, Mailaixia 20%.
Thị trường hàng may mặc ở các nước phát triển đòi hỏi chất lượng sản
phẩm rất cao. Để chiếm lĩnh thị trường này, các nhà sản xuất phải tuân theo
các tiêu chuẩn chất lượng đó. Họ có những cơ quan kiểm nghiệm và phòng thí
nghiệm hiện đại để kiểm tra chất lượng trước khi xuất. ở những nước này,
thường áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 và nhãn hiệu CE đối với hàng may mặc
xuất khẩu (CE là nhãn hiệu của cộng đồng Châu Âu, bảo đảm phẩm chất hàng
hoá phù hợp với yêu cầu pháp lý của Châu Âu). Những điều này, Việt Nam
chưa có khả năng thực hiện một cách đồng loạt ở các đơn vị sản xuất do hạn
59
chế về khả năng tài chính, trình độ công nghệ ...Tuy nhiên trong quy trình công
nghệ của tổng Công ty, các nhà sản xuất đã áp dụng hai biện pháp quản lý:
- Kiểm tra “on line” (kiểm tra trên dây chuyền) nhằm ngăn ngừa tận lỗi ở
sản phẩm may ngay từ khi chúng được coi là bán thành phẩm.
- Triệt để giữ vệ sinh công nghiệp ở khâu sản xuất.
Với các nước như Thái Lan, Indonexia luôn tích cực tìm kiếm những thị
trường không hạn ngạch. Nhiều khi thị trường Mỹ, Châu Âu bị đình trệ hoặc
không cạnh tranh nổi với Trung Quốc ở thị trường này,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trang xuất khẩu hàng giai đoạn 1998 - 2001 và một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của tổng Công ty trong thời gian tới.pdf