Luận văn Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường vai trò của nó trong nền kinh tế ngày nay

Tài liệu Luận văn Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường vai trò của nó trong nền kinh tế ngày nay: LUẬN VĂN: Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường vai trò của nó trong nền kinh tế ngày nay A. Phần mở đầu Trong nền kinh tế thị trường (KTTT) cái khác nhau cơ bản giữa các dạng KTTT chính là mục đích vận động của nền kinh tế đó. Điều này lại xuất phát từ đường lối chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội của giai cấp thống trị xã hội, thông qua vai trò quản lý của nhà nước, từ đó càng có sự khác nhau về phương pháp và biện pháp quản lý nền KTTT của nước đó. Đối với nước ta, khi thực hiện quá trình chuyển nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, không thể hiểu mơ hồ, xem nhẹ vai trò quản lý của nhà nước. ở đây cần phê phán mạnh mẽ một số người cho rằng, đã chấp nền KTTT thì không cần hoặc xem nhẹ vai trò của nhà nước trong quản lý nền kinh tế, Nhà nước không nên can thiệp sâu vò kinh tế, mà để mặc các quy luật kinh tế tự điều tiết các quan hệ kinh tế như quan hệ cung cầu,...

pdf29 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường vai trò của nó trong nền kinh tế ngày nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường vai trò của nó trong nền kinh tế ngày nay A. Phần mở đầu Trong nền kinh tế thị trường (KTTT) cái khác nhau cơ bản giữa các dạng KTTT chính là mục đích vận động của nền kinh tế đó. Điều này lại xuất phát từ đường lối chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội của giai cấp thống trị xã hội, thông qua vai trò quản lý của nhà nước, từ đó càng có sự khác nhau về phương pháp và biện pháp quản lý nền KTTT của nước đó. Đối với nước ta, khi thực hiện quá trình chuyển nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, không thể hiểu mơ hồ, xem nhẹ vai trò quản lý của nhà nước. ở đây cần phê phán mạnh mẽ một số người cho rằng, đã chấp nền KTTT thì không cần hoặc xem nhẹ vai trò của nhà nước trong quản lý nền kinh tế, Nhà nước không nên can thiệp sâu vò kinh tế, mà để mặc các quy luật kinh tế tự điều tiết các quan hệ kinh tế như quan hệ cung cầu, quan hệ sản xuất và tiêu dùng. Thực chất của những người này là muốn chúng ta từ bảo tính định hướng XHCN. Trong nền KTTT, lái nền kinh tế nước ta đi theo con đường TBCN mà thôi. Chúng ta không thể chấp nhận điều này vì nó trái ngược với sự vận động khách quan, với con đường mà Đảng và nhân dân ta. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ: " Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN".. Sự quản lý của nhà nước ta thông qua việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội các chương trình kế hoạch, ban hành pháp luật kinh tế, các chính sách, kinh tế trên nhiều lĩnh vực nhằm một mặt, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mặt khác không ngừng củng cố, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Đề cao vai trò quản lý của nhà nước ta cũng có nghĩa là đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Đây là nhân tố quyết định bảo đảm giữ vững định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Nói cách khác là đã sử dụng KTTT để xây dựng CNXH nhất thiết cần có vai trò quản lý của nhà nước của dân, do dân và vì dân để nền kinh tế phát triển lành mạnh, đúng hướng. KTTT có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN có nội dung hết sức phong phú, đang ngày càng được bổ xung, phát triển cả về lý luận cũng như thực tiễn ở nước ta. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá, lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để phát triển đúng hướng đi lên CNXH. Về cơ bản nền KTTT mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế mà ở đó các thành phần kinh tế được phát triển bình đẳng trức pháp luật, nền kinh tế lấy thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, lấy việc xây dựng một xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh làm mục tiêu. B. Cơ sở lý luận: I. Một số vấn đề lý luận về kinh tế nhà nước Kinh tế nhà nước theo cách hiểu hiện nay là thành phần kinh tế do nhà nước, với tư cách là người đại diện cho toàn dân làm chủ sở hữu và tổ chức quản lý. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần để góp phần phát huy sức mạnh của toàn dân, toàn dân tộc, phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất quán, lâu dài trong cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để thực hiện có hiệu quả chính sách đó, Trung ương có trách nhiệm xây dựng phương hướng, nội dung, giải pháp cụ thể của từng thành phần kinh tế theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng. Trung ương làm việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là để góp phần bảo đảm cho kinh tế nhà nước giữa vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chứ không hề coi nhẹ việc phát triển các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các sở hữu nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ kể cả một phần vốn của nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là, hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, ngân sách quốc gia, các quỹ quốc gia..). Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,hoạt động kinh tế hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có hai loại: loại hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra, còn có loại nằm giữa hai loại trên, như những tổ chức kinh tế đang quản lý, bảo dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng....) loại này có xu hướng chuyển hoá từng phần sang hai loại trên. Kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo của mình. Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội trong đó lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích. II. Vai trò của kinh tế nhà nước Với việc chú trọng làm cho kinh tế nhà nước không ngừng lớn mạnh, thật sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, chăm lo xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng làm cho nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, tạo dựng một chế độ xã hội dân chủ, công bằng văn minh tiến bộ. Tiếp tục đổi mới và phát triển hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy d đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội: mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô. Chính vì thế vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng là vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế. Song vai trò của nhà nước cần được xem xét từ hai góc độ; trong kinh tế thị trường và trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường Vai trò điều chỉnh, bằng cách cân đối cung cầu trong toàn xã hội để chỉ đạo các doanh nghiệp không làm lệch cung - cầu chung cái mà tăng doanh nghiệp không nắm được. Trong vai trò này phải phát hiện kịp thời những mặt cân đối, những nguy cơ tiềm ẩn để lo ngăn ngừa trước hay đối phó kịp thời khi nó xảy ra. Việc sử dụng các công cụ như tài chính tiền tệ để điều chỉnh tốc độ phát triển sao cho hài hoà, đòi hỏi phải thường xuyên kiểm tra lại các lý thuyết kinh tế về các công cụ đó xem mức độ đúng sai ra sao. Vì cơ sở lý luận mà không khoa học sẽ dẫn tới những sai lầm rất lớn. Vai trò điều tiết giữa các lĩnh vực, các vùng kinh tế đó tạo ra sự phát triển hài hoà. Điều tiết khó hơn điều chỉnh vì nó không phải chỉ là cân bằng mà nó đòi hỏi phải tính ra được một tỷ lệ phát triển tối ưu cả về không gian và thời gian. Nó cũng đòi hỏi tầm nhìn xa xem xét thị trường hiện nay như thế nào nhưng tương lai nó sẽ biến động ra sao để điều tiết từ nơi thừa sang nơi thiếu, lúc thừa sang lúc thiếu. Vai trò tạo sân chơi công bằng để các doanh nghiệp tự do kinh tế. Đó cũng là tạo công bằng xã hội. Biện pháp được soạn thảo đúng với quy luật thị trường sẽ giúp thực hiện tốt vai trò này. Vai trò bảo hộ cho sản xuất trong nước. Về vai trò này, đang có những ý kiến khác nhau. ý kiến cho rằng ta buộc phải tham gia AETA thì vai trò bảo hộ sẽ mất dần đi. 2. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa để tìm ra những định chế có khả năng xoá bỏ những khuyết tật đó và tạo ra dần dần một kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Vai trò này cũng đòi hỏi phải thay thế dần phương thức phân phối theo tư bản bằng phương thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lựckhác nhau vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội: Nói rộng ra là sáng tạo ra những cách quản lý mới để dần biến đổi dần thị trường tư bản chủ nghĩa thành thị trường XHCN. Củng cố và phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để nước thực sự giữ vai trò chủ đạo là điều phải làm nếu muốn thực hiện vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Lâu nay người ta vẫn nhìn thành phần kinh tế quốc doanh như là một thành phần kinh tế được quản lý rất tốt mà quên mất rằng có nhiều Xí nghiệp quốc doanh kinh tế có hiệu quả. Không phải cổ phần hoá, mà nhiều người cố hiểu là tự nhân hoá, mới thay đổi được cung cách làm việc quan liêu, điều quan trọng là phải làm thế nào nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước, có chính sách kích thích kinh tế để phân khuyến khích nâng cao năng suất lao động. Trong các doanh nghiệp nhà nước, nhà nước là cổ đông duy nhất vẫn có thể thành lập hội đồng quản trị để trực tiếp quản trị kinh doanh. Thực hiện vai trò của nhà nước trong KTTT theo định hướng XHCN là rất khó khăn vì không thể chia tách thị trường nước ta ra ngoài thị trường thế giới bao gồm cả kinh tế thị trường của các nước tư bản. Vì thế cần phải thực hiện hài hoà bằng hai cách. - Đối thoại với các nước tư bản để họ cũng thấy được khuyết tật và tự điều chỉnh, đó là phương pháp hay nhất. - Khéo léo dùng những giải pháp đặc biệt để ngăn chặn tác động sấu của thị trường tư bản tư bản vào kinh tế nước ta. Khi đã xác định được vai trò của nhà nước phải nghiên cứu tiếp nội dung quản lý và công cụ quản lý của nn trong KTTT. Những công cụ quản lý của nhà nước luôn luôn thay đổi tuỳ theo mức tiến bộ hay tụt lùi của kinh tế học. Như học thuyết Keynes đã cung cấp cách sử dụng công cụ tiến bộ để khắc phục khủng hoảng kinh tế. Vì vậy muốn thực hiện những vai trò tất yếu của nhà nước phải chăm lo xây dựng một học thuyết kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trung ương khẳng định tư tưởng của Nghị quyết Đại hội IX xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, xác định doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, là công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Vì vậy doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng sắp xếp đổi mới, phát triển, có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, không ngừng nâng cao hiệu quả. 3. Kinh tế nhà nước tất yếu phải giữ vai trò chủ đạo Thứ nhất, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. ở đây, cần phải biết hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước đại diện cho toàn dân - là chủ sở hữu công cộng của toàn dân. Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết hướng dẫn giúp đỡ là liên kết tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. Thứ tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Thứ năm, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng. Thứ sáu, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế; đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng, sống còn nhưng ít ai giám đầu tư vì đòi hỏi vốn có nhiều mà thời gian thu hồi vốn chậm. III. Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 1. Tình hình Trong hơn 10 năm qua Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế có nhiều khó khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước; đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực theo chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện. Năm 2000, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đóng góp 39,5% GDP, 39,2% tổng thu ngân sách, trên 50% kim ngạch xuất khẩu; nộp thuế thu nhập trong 10 năm (1999 đến 2000) gần 64.000 tỷ và có khoảng 250 đơn vị được cấp chứng chỉ ISO, được người tiêu dùng bình chọn đạt chất lượng sản phẩm cao 5 năm liền... Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của chính phủ và các cấp, các ngành; sự cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp nhà nước, của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém và hiện nay đang nổi cộm bốn vấn đề gay gắt trong cạnh tranh của kinh tế thị trường định hướng XHCN như sau: - Quy mô và các mối quan hệ quản lý của doanh nghiệp nhà nước có nhiều điểm chưa hợp lý. Doanh nghiệp nhà nước phát triển còn chồng chéo, trùng lập về ngành nghề, sản phẩm. Nguồn vốn hạn hẹp nhưng lại đầu tư hình thành và phát triển nhiều DNNN có quy mô và quá nhỏ bé. Không đủ lực để tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là một sự lãng phí lớn trong đầu tư phát triển. - Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản đối với quá trình nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh các sản phẩm trên thương trường. Nhiều loại vật tư, nguyên liệu tồn kho từ thời kỳ bao cấp đã lỗi thời, phẩm chất đó giảm không tiêu thụ được nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn "treo" lại, chờ nhà nước có biện pháp xử lý. Do đó, doanh nghiệp phải tăng thêm chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn, dẫn đến tình hình tài chính doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Hiệu quả sản xuất doanh nghiệp nhà nước giảm dần. Nợ nần nhiều, quan hệ phải thu, phải trả ngày càng lớn, tình hình tài chính thiếu lành mạnh. Nhà nước phải giúp đỡ hỗ trợ ngày càng nhiều trong khi ngân sách nhà nước còn co hẹp tỷ lệ vay nợ trong và ngoài nước ta. - DNNN cũng là một trong những "địa chỉ" của tệ lãng phí, tham nhũng, gây thất thoát, tổn thất ngoài tài lực của nhà nước. Trong 3 năm gần đây số doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đa dạng sở hữu gần như dận chân tại chỗ; nhiều bộ Ngành, địa phương lại thành lập thêm DNNN dù chưa đủ cơ sở và điều kiện phần lớn những doanh nghiệp mới được thành lập không thuộc ngành mũi nhọn, then chốt, mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, xây dựng; sản xuất hàng tiêu dùng.... là những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có nhiều lợi thế hơn. Các tổng Công ty 91 tuy là những doanh nghiệp có nhiều lợi thế và tiềm lực, nhưng tình hình cũng chưa sáng sủa so với thực trạng chung của doanh nghiệp nhà nước. Về vốn; 17 doanh nghiệp này nắm giữ tới 80.000 tỷ đồng /126.000 tỷ đồng chiếm tới 63,5% tổng số vốn ngân sách tại các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ các sản phẩm quan trọng nhất và luôn được hưởng những chính sách ưu đãi của chính phủ mỗi khi gặp khó khăn thế nhưng số lãi trước thuế của 17 tổng Công ty trong 6 tháng đầu năm 2001 chỉ đạt 92% so với cùng kỳ, chỉ bằng 47% kế hoạch cả năm, vẫn còn 23% số các doanh nghiệp thành viên bị thua lỗ. 2. Nguyên nhân: Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan và được đúc rút trong 4 nguyên nhân chính sau: - Hệ thống thể chế, chính sách đối với DNNN chưa được cải tién kịp quá trình đổi mới theo cơ chế quản lý của nền KTTT. Hệ thống thể chế, chính sách hiện nay vừa thể hiện lối tư duy cũ, nặng cơ chế xin - cho, ban phát, bảo trợ đến mức tối đa từ ngân sách nhà nước, từ các mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của cơ quan hành chính, quản lý cấp trên, để không chênh lệch hướng và mong muốn nó làm được vai trò then chốt, cạnh tranh thắng lợi trên thương trường. Do vậy, quyền tự chủ, tự quyết định của DNNN trên thương trường bị tước bỏ; quyền tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định, quyết đoán cũng không còn..... Điều đó còn gây tâm lý ỷ lại nặng nề, dựa dẫm vào sự bảo trợ của nhà nước, vừa triệt tiêu động lực, vừa không khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của mình. - Hai là tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa hợp lý. Với bộ máy quản lý hiện nay, hệ thống DNNN đã phải gánh chịu hai gọng kìm bất cứ lúc nào cũng đến kiểm tra mà giúp đỡ thì ít, hạch sách thì nhiều. Một bên là bộ, ngành, cấp chủ quản của doanh nghiệp và một bên là các tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản lý chuyên ngành với hệ thống ngành dọc từ trên xuống dưới.Tức là, tất cả các bộ, ngành với hệ thống dọc, ngay đều có quyền thực hành chức năng của mình tại doanh nghiệp để hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát, thanh tra, kiểm tra,.... trên thực tế, nhiều khi đó là sự nhũng nhiễu phiền hà và gây tổn thất cho doanh nghiệp, hiệu quả thấp và không rõ rệt. - Đội ngũ cán bộ lãnh đạo DNNN chưa được phát huy và thể hiện được năng lực, bản lĩnh cần phải có. Yêu cầu đối với giám đốc trong điều kiện mới không chỉ có năng lực, trình độ về nghiệp vụ kinh doanh mà cần phải có óc sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹ trong việc thu nhập và xử lý thông tin, sáng suốt trong dự báo các tình huống trên thương trường với sự năng động, chủ động trong kinh doanh, có phẩm chất vững vàng trong quá trình đối mặt với tiền - hàng, coi tài sản của quốc gia như của chính mình với ý thức "vì nhân dân phcụ vụ", làm giàu cho dân, cho nước, cho mình. Trách nhiệm không chỉ thuộc bản thân của từng giám đốc, mà lớn hơn, cao hơn thuộc về hệ thống tổ chức và cán bộ trong việc theo dõi đề bạt, bổ nhiệm giám đốc nói riêng và đội ngũ cán bộ chủ chốt trong từng doanh nghiệp nói chung. - Mô hình và cơ chế lãnh đạo của Đảng trong DNNN còn nhiều bất cập, nên chưa phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của thủ trưởng doanh nghiệp, mặt khác DNNN còn là cái "túi" chứa đựng nhiều loại lao động. Đây là nỗi khổ tâm của không ít giám đốc doanh nghiệp muốn cải tổ, cải cách. Đổi mới, sắp xếp lại nhân sự trong doanh nghiệp. Từ sự phân tích nhiều mặt như trên, càng cho thấy việc thua lỗ kém hiệu quả thậm chí phá sản của một bộ phận DNNN không phải do thuộc tính, bản chất của DNNN mà chủ yếu do con người: từ khâu hoạch định thể chế, chính sách cơ chế tổ chức bộ máy quản lý cho đến việc quản trị, điều hành trong từng doanh nghiệp cũng như cả hệ thống. 3. Những vấn đề về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tại hội Nghị trung ương đã dành phần lớn thời gian để thoả thuận và thông qua Nghị quyết " tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước ". Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế của Đảng. Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: " kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kt nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, " kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành luật pháp. Hội nghị của Trung ương lần này cũng bàn và ra nghị quyết để thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng; bảo đảm doanh nghiệp nhà nước có vị trí then chốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm nâng cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa nước ta trở thành một nước phát triển. IV. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 1. Đối với kinh tế và nước. Để phat huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VII đã nhấn mạnh: " Chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên CNXH ở nước ta. Các hành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở và hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước các thành phần kinh tế phải được cải biến dựa vào những tiền đề khách quan; thứ nhất, xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên thực tế, thứ hai là xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù hợp; thứ ba, xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lýkt của nhà nước XHCN và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Vấn đề không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vững bản chất của từng thành phần và sử dụng chúng để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Mỗi thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng, dựa trên một số hình thức sở hữu nhất định về lực lượng sản xuất và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tạo và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp khả năng sản xuất chỉ rõ vai trò của triển vọng của mỗi thành phần kt trong nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối liên hệ và tác động qua lại, đan xen. Để bảo đảm nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN trong quá trình vận động, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng cho chế độ xã hội mới. Xã hội XHCN. Để thành phần kinh tế nhà nước có thể thực sự giữ vai trò chủ đạo, xứng đáng là phương thức sản xuất chi phối, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ chủ yếu dưới đây: - Tập chung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu mà các thành phần kinh tế khác không có đủ điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng, an ninh.... nhà nước chỉ nên nắm một số trong đa số những ngành, lĩnh vực chính trong nền kinh tế, tức là những vị trí kinh tế then chốt, yết hầu, thông qua đó mà điều tiết chi phối, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất bằng cách lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp. - Đổi mới dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại và phát huy ưu thế về kỹ thuật tiến bộ nhất; liên kết, liên doanh với các thành phần kinh tế khác nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội. - Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần thuộc sở hữu nhà nước phải có cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. - Tiếp tục sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với yêu cầu sản xuất - kinh doanh trong điều kiện mới. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp. 2. Đối với doanh nghiệp nhà nước Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với kinh tế quốc doanh, Đại hội đã chỉ rõ là: " phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho Xí nghiệp và cho nhà nước. Song, sau 10 năm đổi mới ngoài những thành tựu thu được chúng ta đã vấp phải những thử thách khó khăn mà Đảng và nhà nước ta đã rút ra được nhiều bài học quý báu, từ những cuộc đổi mới sắp xếp doanh nghiệp nhà nước là: - Một là, đó là sự quán triệt đầy đủ chủ trương của Trung ương, sự nhất trí và quyết tâm cao của cấp uỷ và chính quyền các cấp trong việc triển khai thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực tế ở một số nước như: thành phố Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh... cho thấy là sau khi quán triệt đầy đủ, nhất trí cao và có quyết tâm thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan Đảng và Nhà nước ở địa phương đã ban hành những văn bản cụ thể để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. Ngược lại, ở một số bộ, ngành, địa phương, do chưa nhận thức đúng và thống nhất về vị trí vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay, chưa quán triệt đầy đủ chủ trương sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước nên kết quả còn hạn chế. - Hai là, công tác tổ chức học tập, tuyên truyền, giải thích, vận động thực hiện chủ trương chính sách sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được coi trọng ngay từ đầu và suâts trong quá trình tổ chức thực hiện phương án. Các cấp uỷ Đảng, liên đoàn lao động, Ban tuyên giác tỉnh uỷ đã tổ chức học tập và giới thiệu các văn bản của nhà nước về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, Đài phát thanh truyền hình, Báo địa phương, đa bám sát chủ đề này để tuyên truyền, giải thích, vận động, biểu dương, ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh đã chủ động phối hợp với các sở đến từng doanh nghiệp để giải quyết về cơ chế chính sách và giới thiệu kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã cồ phần hoá, về sự thay đổi tác phong người thợ làm công ăn lương sang người chủ thực sự có cồ phần trong Công ty để cán bộ doanh nghiệp và công nhân yên tâm và quyết tâm đi vào cổ phần hoá. - Ba là, khi xây dựng phương án, tổ chức thực hiện phương án sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ từ cơ sở cho đến các sở, ngành, huyện, thành phố và tỉnh việc phát huy dân chủ sẽ thống nhất giữa cấp dưới và cấp trên, phát huy được trí tuệ tập thể người lao động trong doanh nghiệp cho việc đổi mới chính doanh nghiệp của họ. Đồng thời với việc tuân thủ, nguyên tắc dân chủ, phải thực hiện tập chung. Những vấn đề còný kiến khác nhau, nhất là khi xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì chủ tịch tỉnh sẽ là người quyết định cuối cùng. Doanh nghiệp nhà nước là do nhà nước đầu tư thành lập, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của nhà nước là do nhà nước (gồm cả trung ương và địa phương) quyết định. Trong nhiều địa phương, một số giám đốc không thực hiện kế hoạch đã giao thì người quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ bãi miễn giám đốc và cử người khác lên thay. - Bốn là; thực hiện đúng, đủ các chế độ chính sách và giải quyết việc làm đối với người lao động trong doanh nghiệp thực hiện tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá, để người lao động yên tâm phấn khởi. Quyền lợi ưu đãi, công nhân nghèo mua cổ phần trả chậm đã được công khai thảo luận dân chủ. Nguồn vốn chủ yếu để giải quyết quyền lợi cho số lao động dôi dư này là quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và một phần ngân sách của tỉnh. - Năm là; tính sáng tạo và phát huy tối đa sáng kiến của địa phương, để trên cái nền chính sách chung của nhà nước mà cụ thể hoá cách làm cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Thí dụ, tình hình chung của Nam Định là đại đa số công nhân còn nghèo, thu nhập thấp nên khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã áp dụng giải pháp bán cổ phần làm nhiều đợt để đạt được tỷ lệ đã duyệt trong phương án cổ phần hoá. - Sáu là; các địa phương đạt kết quả cao trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Còn là do đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp quyết tâm thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá. Đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quyết dịnh sự thành bại của công tác này. Tại nhiều nơi có tình hình trì trệ trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà một nguyên nhân quan trọng là sự không hưởng ứng tích cưcụ, sự nứu kéo, tù hãm với mọi lý do và biện minh của đội ngũ này. Nhưng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định thì không phải vậy. Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của doanh nghiệp nhà nước đều đi đâu trong sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đóng góp rất nhiều công sức, từ việc nghiên cứu học tập các chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để xây dựng phương án cổ phần hoá, điều lệ công ty, đến việc tổ chức cho công nhân học tập, thảo luận. Do đó ở Nam Định hầu hết giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của 22 doanh nghiệp đã cồ phần hoá đều được Đại hội cổ đông sáng suốt lựa chọn bầu vào hội đồng quản trị và đa số trong đó được cử làm giám đốc Công ty cổ phần. - Bảy là; một yếu tố không kém phần quan trọng là vai trò của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh và việc chọn được các cán bộ có tâm huyết, có tri thức và nhiệt tình cho công tác này. Trong quá trình thực hiện sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp tỉnh chỉ đạo sâu sát thường xuyên, phối hợp chặt chẽ, hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả giữa các ngành. Thêm vào đó, về phía doanh nghiệp và các cơ quan quản lý doanh nghiệp, tỉnh cũng yêu cầu phải thành lập các ban đổi mới doanh nghiệp ở sở, ngành, quân, huyện do một đồng chí lãnh đạo làm trưởng ban doanh nghiệp có giám đốc làm trưởng ban. Như vậy, công tác cổ phần hoá đã triển khai đồng bộ cả bề rộng và chiều sâu, hầu như không có cơ quan nào đứng ngoài cuộc. Từ những bài học kinh nghiệm được đúc kết rút từ thực tế kể trên chúng ta cần phải tìm những giảipháp phương án nhằm vượt qua những khó khăn để đạt mục tiêu đã định như sau: 5 giải pháp. (1) Tận dụng và sử dụng có hiệu quả cao nhất nguồn lực vật chất to lớn, của kinh tế nhà nước để đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp - dịch vụ với tốc độ nhanh hơn. Trong đó mục tiêu ưu tiên hàng đầu là củng cố các DNNN đã có các cơ sở kinh tế vững chắc, đồng bộ, đã và đang có những tiềm lực về năng suất, chất lượng, hiệu quả làm nòng cốt để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng. Trước mắt, cần phải tập trung tháo gỡ các vướng mắc trong việc hình thành đồng bộ các thể chế kinh tế thị trường: Vốn, lao động, đất đai, địa ốc, thông tin, khoa học và công nghệ... Đồng thời, để thực hiện được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu nông nghiệp - nông thôn nói riêng, phải đổi mới cơ chế và phương hướng đầu tư của nhà nước cải cách thực hiện hệ thống tài chính - ngân hàng theo hướng tập trung đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tôn trọng các cam kết với các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế. Cần tổ chức chỉ đạo triển khai cải cách đồng bộ, có hiệu quả ở 4 lĩnh vực then chốt: cải cách thể chế; cải cách hành chính, bộ máy tổ chức, nhân sự; cải cách hoạt động tài chính - ngân hàng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Trong đó cải cách chế độ, chính sách tiền lương phải được coi là khâu đột phá để xoay chuyển toàn bộ tình hình, tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện cải cách ở các lĩnh vực khác. (2) Vấn đề cải cách thể chế kinh tế cần được nhà nước chỉ đạo khẩn trương, đồng bộ, đạt được sự thống nhất chung giữa các bộ, ngành và các cấp quản lý nhằm khắc phục được những tồn tại hiện nay để tạo đông lực phát triển. Vấn đề quan trọng đặt ra đối với cải cách thể chế DNNN là cần phải đạt được những yêu cầu cải cách các loại thể chế, bao hàm đầy đủ các nội dung sau: - DNNN có mặt đúng trận tuyến then chốt, bảo đảm được định hướng và sự ổn định xã hội, an ninh nhân dân bất kỳ trong tình huống nào. Không phát triển DNNN tràn lang sang các lĩnh vực, ngành nghề mà các thành phần kinh tế khác có thể làm. - Tạo lập cho được những cơ sở, những điều kiện tối thiểu, cần thiết ban đầu cho DNNN đủ sức hoạt động với thế mạnh về cạnh tranh. Và các nguồn lực trên một sân chơi bình đẳng, các DNNN cũng cần cạnh tranh với nhau để phát triển. - Không có sự can thiệp quá sâu của nhà nước với tư cách là chủ sở hưu để quản lý trực tiếp về phương án sản xuất kinh doanh, vốn, nhân sự, tiền lương, phân phối điềuhành doanh nghiệp phải hoạt động trong thế bị động, lúng túng khó khăn, không phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh mà luật pháp quy định. - Không có kẽ hở trong thể chế, chính sách để bọn xấu có thể lợi dụng, đặc biệt cần loại bỏ ngay bọ ăn cắp, những kẻ hám danh, hám lợi, lừa đảo, thông đồng trong ngoài để "rút ruột nhà nước ". Đồng thời không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự, công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng thiết thực, vừa phát hiện nhân tố mới, vừa phát hiện, ngăn chặn sai lầm. - Xoá bỏ cơ chế chủ quan đối với DNNN của các Bộ, Ngành, cấp quản lý hành chính địa phương. Trên cơ sở phân định rõ 2 chức năng của đại diện chủ sở hữu nhà nước và chức năng quản lý nhà nước. DNNN chỉ chịu sự kiểm tra, quản lý, giám sát của luật pháp nói chung của các bộ quản lý chuyên ngành ở từng lĩnh vực nói riêng. - Luật hoá về trách nhiệm thực hiện quy chế dân chủ tại doanh nghiệp và trách nhiệm của người thủ trưởng thuộc cơ quan chủ quản và người giám đốc phải chịu trách nhiệm bồi thường, chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật vì sự tổn thất, thua lỗ của doanh nghiệp. - Các chức danh có trách nhiệm chủ yếu về quản trị, điều hành DNNN cần áp dụng những phương pháp tuyển chọn nghiên túc đúng ngành, nghề đào tạo, chặt đứt những đường dây móc ngoặc trên dưới trong ngoài về cán bộ, phải có sự cam kết trước pháp luật đối với cán bộ được bổ nhiệm các chức danh này. (3) Trách nhiệm quản lý, điều hành DNNN cần được xây dựng rõ và giao cho một người là Tổng giám đốc. Do vậy, trong quy chế làm việc của doanh nghiệp nhà nước phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa tổng giám đốc với bí thư Đảng bộ, tập thể ban giám đốc với tập thể ban thường vụ đảng bộ doanh nghiệp. Khi trách nhiệm rõ ràng, quyền hạn phân minh giữa các cá nhân và tập thể thì mới tránh được tình trạng chồng chéo, dẫm đạp, đùn đẩy ỷ lại nhau từ trong bộ bộ doanh nghiệp và mới có thể thành công trong kinh doanh. Để làm được điều đó nhà nước phải chọn lựa, thi tuyển, đề cử người có năng lực, trình độ, phẩm chất xứng đáng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đối với Tổng giám đốc DNNN phải qua thi tuyển nghiêm túc, được sát hạch qua một hội đồng giám khảo về các phương án sản xuất kinh doanh, có sự cam kết trách nhiệm trước pháp luật về sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và bồi thường vật chất nếu để xảy ra tổn thất. Tổng giám đốc tuân thủ và hoạt động theo pháp luật trong mọi lĩnh vực mà doanh nghiệp đang kinh doanh, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ cơ sở, quyết định các công việc của doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước nhà nước, pháp luật về những quyết định đó. (4) Xoá bỏ hẳn cơ chế chủ quản đối với DNNN. Có ý kiến lo ngại rằng, Nếu nhà nước giao cho bộ tài chính đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, thông qua hệ thống tổ cức dọc của ngành này để thực hiện đầu tư vốn các loại doanh nghiệp nhà nước thì e không đảm đương nổi nhiệm vụ. Và quan trọng hơn, họ còn cho rằng với cơ chế đó, chỉ khác trước đây có nhiều bộ, cấp chủ quản thì nay tập trung vào một bộ - Bộ tài chính. Xoay quanh chủ đề này, ý kiến còn khác nhau là chuyện bình thường. Bởi vì, khi tập trung vào một số đầu mối chịu trách nhiệm chính trong việc đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước thì có một địa chỉ chịu trách nhiệm duy nhất trước nhà nước, trước pháp luật về gìn giữ và phát triển các loại tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Điều đó hoàn toàn khác với việc phân tán cho nhiều đầu mối với tư cách là bộ, ngành, cấp hành chính chủ quản với hai chức năng vừa đại diện chủ sở hữu, vừa quản lý nhà nước theo cơ chế hiện hành trong việc đầu tư, quản lý và sử dụng nguồn vốn của nhà nước. Từ đó, các bộ, ngành sẽ chuyên tâm hơn vào chức năng quản lý nhà nước, còn doanh nghiệp nhà nước sẽ bớt được nhiều đầu mối phải "trình bẩm". (5) Mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền trong hoạt động của DNNN cũng cần được nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh, các Đảng bộ, chi bộ, trong doanh nghiệp thực hiện chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức cần nắm vững hành động của đảng viên, đặc biệt về phẩm chất đạo đức, lãnh đạo Đảng viên hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn được phân công. Thực hiện vai trò giám sát, kiểm tra, giữ vững nề nếp sinh hoạt phê và tự phê để quản lý đảng viên và giữ gìn đoàn kết nội bộ trong đảng bộ theo điều lệ Đảng, pháp luật của nhà nước. Cụ thể những giải pháp (1). Định hướng sắp xếp phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. a. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh - Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm vật liệu nổ hoá chất độc hại, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế. - Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực buôn bán, lương thực, buôn bán săng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng... những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu cần thiết và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc ở miền núi vùng sâu, vùng xa. - Nhà nước giữ cồ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết như là chuyển các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức Công ty TNHH một chủ sở hữu là nhà nước hoặc Công ty cổ phần gồm các cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước. Căn cứ vào định hướng trên, chính phủ chỉ đạo giám sát phê duyệt phân loại cụ thể các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực hiện vào từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại DNNN cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. - Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới hình thức Công ty cổ phần. Chỉ thành lập với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành, lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia. b. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích. - Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích trong các lĩnh vực: in bạc và chứng chỉ có giá; điều hành hay bảo đảm hàng hải kiểm soát và phân phối vô tuyến điện.... - Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật, phương tiện giao thông, cơ giới lớn, xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị... Trong từng thời kỳ Chính phủ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, Chính phủ căn cứ vào định hướng trên chỉ đạo rà soát phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai thực hiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ sắp xếp lại. Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích phải được xem xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu và có đủ các điều kiện cần thiết. Khuyến khích nhân dân và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần và pháp luật không cấm. (2). Sửa chữa bổ sung cơ chế, chính sách a. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật chung. Đối với doanh nghiệp hoạt động nhà nước trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận, cần tổ chức một số doanh nghiệp nhà nước cùng cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp. - Về vốn: doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường để phát triển kinh doanh, được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, vật tư, hàng hoá ứ đọng. Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001 - 2005 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp. Không thu thuế sử dụng vốn ngân sách, chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm lập Công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu ban hành luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh. Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trình lập các quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hoà các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển. - Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong quyết định đầu từ trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được thực hiện. - Về đổi mới hiện đại hoá công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp, chi phí này được hạch toán vào giá sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. -Về lao động tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động và chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động do mình tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp, được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển, cơ quan nhà nước và tổ chức có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ trốt của doanh nghiệp. Nhà nước có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp. - Về thanh tra kiểm soát: hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán kết quả, kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. b. Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà nhà nước quyết định quy mô tổ chức, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích. Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý lao động, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà nhà nước giao hoặc đặt hàng. (3). Đẩy mạnh cồ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm: tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, cổ phần hoá DNNN không được biến thành tư nhân hoá DNNN. Đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà nhà nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc và thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh . Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành Công ty cổ phần, trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phân đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, hoặc nhà nước không giữ cổ phần. Hình thức cổ phần hoá bao gồm: giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn, bám vào phần hiện có của doanh nghiệp cho các cổ đông, cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành Công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần được ưu đãi cho người lao động tới các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Có quy định để người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó người lao động với doanh nghiệp; giành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng một phần vốn tự có của doanh nghiệp để hình thành cổ phần của người lao động, người lao động được hưởng lãi nhưng không được rút cổ phần này ra khỏi công ty. Mở rộng việc bán cổ phần của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông lâm sản cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cổ phần hoá sử dụng nhiều lao động và có quy định cho phép chuyển nợ thành vốn góp cổ phần. Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn liền với thị trường, nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, những điểm đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung gian. Nhà đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với doanh nghiệp cổ phần hoá mà nhà nước không giữ cổ phần theo đúng quy định của luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Số tiền thu được từ mua bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách đối với người lao động và để nhà nước tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được đưa vào ngân sách để chi thường xuyên. Nhà nước ban hành quy chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang Công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp mới cổ phần hoá có khó khăn. Chỉ đạo chặt chẽ doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn để lập mới Công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết. Vai trò, vị trí then chốt của DNNN trong cơ chế mới phải nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu như trên để thúc đẩy sự phát triển từ nội tại của đời sống kinh tế xã hội, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả trên thị trường nội địa trong quan hệ kinh tế khu vực và kinh tế. Đạt được điều đó chỉ có một phương cách duy nhất đó là Đảng lãnh đạo nhà nước quản lý chỉ đạo đầy đủ quyết tâm và quyết liệt. C. Kết luận Nhìn một cách tổng thể bảo toàn vốn và có lãi là nguyên tắc quan trọng nhất, là mục tiêu cơ bản nhất để quản lý doanh nghiệp nhà nước, tạo cơ sở vững chắc cho nhà nước thực hiện đúng các định hướng vĩ mô, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước được thông qua các phương pháp, công cụ kinh tế nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải phù hợp với các nhiệm vụ phát triển kinh tế của Chính phủ đó là: - Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập chung và những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu, không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các lĩnh vực các ngành và sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến một bộ phận cần thiết có quy mô nhỏ để kinh doanh những sản phẩm dịch vụ thiết yếu nhất là những vùng nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ Công ty, đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước và nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. - Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cần thiết, có điều kiện với các ngành, lĩnh vực sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến động độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xoá bỏ bao cấp đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ đúng với những ngành, lĩnh vực và sản phẩm ưu tiên phát triển. - Việc tiếp tục sắp xếp đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và chiến lược lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết phải khẩn trương kiên quyết triển khai thực hiện, nhưng vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắm các sai sót lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực nhưng vững chắc. Đảng và nhà nước ta đã đề ra mục tiêu 10 năm từ 2001 - 2010 đó là: Sắp xếp đổi mới phát triển nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng, đảm bảo các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội. Và nhu cầu cần thiết của quốc phòng và an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xã hội chủ nghĩa. Tài liệu tham khảo 1. Đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước TS. Phạm Viết Muôn - Bộ Công nghiệp 2. Nghị quyết Đại hội IX 3. Tạp chí cộng sản Số 1,3 4. Nghiên cứu kinh tế : Số 269 5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII 6. Luật doanh nghiệp nhà nước 7. Giáo trình kinh tế chính trị tập I, II Mục lục A. Phần mở đầu ......................................................................................................... 1 B. Cơ sở lý luận: ......................................................................................................... 3 I. Một số vấn đề lý luận về kinh tế nhà nước.......................................................... 3 II. Vai trò của kinh tế nhà nước ............................................................................. 4 1. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường .................................................. 5 2. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. ................................................................................................ 5 3. Kinh tế nhà nước tất yếu phải giữ vai trò chủ đạo ............................................ 7 III. Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ....................................... 8 1. Tình hình ......................................................................................................... 8 2. Nguyên nhân: ................................................................................................ 10 3. Những vấn đề về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. ................................. 11 IV. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ........................................ 12 1. Đối với kinh tế và nước. ................................................................................ 12 2. Đối với doanh nghiệp nhà nước ..................................................................... 14 Cụ thể những giải pháp ....................................................................................... 20 C. Kết luận ............................................................................................................... 26 Tài liệu tham khảo ................................................................................................... 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường vai trò của nó trong nền kinh tế ngày nay.pdf
Tài liệu liên quan