Tài liệu Luận văn Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông: Luận Văn
Thực trạng về thị trường
tiêu thụ sản phẩm ở Công
ty bóng đèn phích nước
Rạng Đông
1
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường bất cứ một doanh nghiệp công nghiệp nào
khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều phải xuất phát từ yêu
cầu của thị trường, nhằm trả lời được 3 câu hỏi cơ bản "Cái gì, như thế nào,
cho ai". Thị trường vừa được coi là điểm xuất phát cũng vừa là điểm kết thúc
của quá trình sản xuất kinh doanh, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Có
thể nói một doanh nghiệp chỉ làm ăn có hiệu quả khi nó xuất phát từ thị trường,
tận dụng một cách năng động, linh hoạt những cơ hội trên thị trường. Hay nói
cách khác, thông qua thị trường, sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được
tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra
một cách liên tục trên cơ sở thực hiện được các mục tiêu đã đề ra. Vì thế duy
trì và mở rộng thị trường được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản và lâu
dài của doanh nghiệp, đ...
71 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn
Thực trạng về thị trường
tiêu thụ sản phẩm ở Công
ty bóng đèn phích nước
Rạng Đông
1
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường bất cứ một doanh nghiệp công nghiệp nào
khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều phải xuất phát từ yêu
cầu của thị trường, nhằm trả lời được 3 câu hỏi cơ bản "Cái gì, như thế nào,
cho ai". Thị trường vừa được coi là điểm xuất phát cũng vừa là điểm kết thúc
của quá trình sản xuất kinh doanh, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Có
thể nói một doanh nghiệp chỉ làm ăn có hiệu quả khi nó xuất phát từ thị trường,
tận dụng một cách năng động, linh hoạt những cơ hội trên thị trường. Hay nói
cách khác, thông qua thị trường, sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được
tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra
một cách liên tục trên cơ sở thực hiện được các mục tiêu đã đề ra. Vì thế duy
trì và mở rộng thị trường được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản và lâu
dài của doanh nghiệp, đặc biệt trong quá trình hội nhập của nền kinh tế đất
nước với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên hoạt động trong cơ chế thị trường
cũng đồng nghĩa với việc phải luôn luôn đối mặt với các rủi ro thách thức trong
quá trình cạnh tranh khốc liệt. Để phát triển thị trường một cách có hiệu quả,
trước hết doanh nghiệp cần nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng nhận thức
về thị trường. Tiếp đó doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu môi trường
và khách hàng, sử dụng các thông tin, dữ liệu đó để phán đoán thị trường lựa
chọn mục tiêu thị trường, lập kế hoạch chiến lược kinh doanh, kế hoạch duy trì
thị trường cũ, chiếm lĩnh thị trường mới. Sau cùng là triển khai thực hiện kế
hoạch thông qua 4 công cụ (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến hỗn hợp) .
Trong tình hình thực tế hiện nay ngành sản xuất bóng đèn, phích nước ở
Việt Nam đang phát triển nhanh chóng và thu được nhiều thành tựu đáng kể
trên cả thị trường trong và ngoài nước. Hoà chung trong trào lưu đó, Công ty
bóng đèn phích nước Rạng Đông (với chất lượng hàng đầu của Việt Nam) cũng
2
là một công ty sản xuất hiệu quả càng ngày càng có nhiều khách hàng ưa
chuộng tiêu dùng sản phẩm của Công ty. Đây là một thế mạnh lớn nhưng bên
cạnh đó Công ty đã gặp phải không ít khó khăn. Thiết nghĩ cần ngay từ bây giờ
phải có phương hướng phát triển đúng đắn. Xuất phát từ vai trò của thị trường
và tình hình thực tế của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, em xin chọn
đề tài "Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng
đèn phích nước Rạng Đông".
Đề tài gồm 3 phần lớn sau:
- Phần thứ nhất: Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
- Phần thứ hai: Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty
bóng đèn phích nước Rạng Đông
- Phần thứ ba: Một số biện pháp cơ bản nhằm duy trì và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông
3
Phần thứ nhất
DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
I. Một số vấn đề cơ bản về thị trường
1) Khái niệm: Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là
môi trường để tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại
của mọi doanh nghiệp công nghiệp. Trong một xã hội phát triển, thị trường
không nhất thiết chỉ là địa điểm cụ thể gặp gỡ trực tiếp giữa người mua và
người bán mà doanh nghiệp và khách hàng có thể chỉ giao dịch, thoả thuận với
nhau thông qua các phương tiện thông tin viễn thông hiện đại. Cùng với sự phát
triển sản xuất hàng hoá, khái niệm thị trường ngày càng trở lên phong phú và
đa dạng. Có một số khái niệm phổ biến về thị trường như sau:
1.1. Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt
động mua bán giữa người mua và người bán.
1.2. Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các
quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của
doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của
người lao động về việc làm bao lâu, cho ai đều được điều chỉnh bằng giá cả.
1.3. Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu, trong đó những người mua
và người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán
nhiều hay ít phản ánh qui mô của thị trường lớn và nhỏ. Việc xác định nên mua
hay bán hàng hoá và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do quan hệ
cung cầu quyết định. Từ đó ta thấy thị trường còn là nơi thực hiện sự kết hợp
giữa 2 khâu sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
1.4. Thị trường là phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động
4
cơ bản của thị trường được thể hiện qua 3 yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với
nhau: Nhu cầu hàng hoá dịch vụ, cung ứng hàng hoá dịch vụ và giá cả hàng
hoá dịch vụ.
1.5. Khái niệm thị trường hoàn toàn không tách rời khái niệm phân công
lao động xã hội. Các Mác đã nhận định "Hễ ở đâu và khi nào có sự phân công
lao động xã hội và có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy sẽ có thị trường. Thị
trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công lao động xã hội và do đó có
thể phát triển vô cùng tận".
1.6. Thị trường về vấn đề Marketing được hiểu là bao gồm tất cả những
khách hàng tiềm ẩn cùng có nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có
khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Tóm lại thị trường được hiểu là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một loạt
hàng hoá, dịch vụ nào đó hay cho một đối tượng khác có giá trị. Ví dụ như thị
trường sức lao động bao gồm những người muốn đem sức lao động của mình
để đổi lấy tiền công hoặc hàng hoá. Để công việc trao đổi trên được thuận lợi,
dần dần đã xuất hiện nhiều những tổ chức kiểu văn phòng, trung tâm giới thiệu
xúc tiến việc làm cho người lao động. Cũng tương tự như thế thị trường tiền tệ
đem lại khả năng vay mượn, cho vay tích luỹ tiền và bảo đảm an toàn cho các
nhu cầu tài chính của các tổ chức, giúp họ có thể hoạt động liên tục được. Như
vậy điểm lợi ích của người mua và người bán hay chính là giá cả được hình
thành trên cơ sở thoả thuận và nhân nhượng lẫn nhau giữa cung và cầu.
2. Phân loại và phân đoạn thị trường
2.1. Phân loại thị trường
Một trong những điều kiện cơ bản để sản xuất kinh doanh có hiệu quả là
doanh nghiệp phải hiểu biết về thị trường và việc nghiên cứu phân loại thị
trường là rất cần thiết. Có 4 cách phân loại thị trường:
5
* Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
+ Thị trường địa phương: tập hợp khách hàng trong phạm vi địa phương
nơi thuộc địa phận phân bổ của doanh nghiệp.
+ Thị trường vùng: tập hợp những khách hàng ở một vùng địa lý nhất
định. Vùng này được hiểu như một khu vực địa lý rộng lớn có sự đồng nhất về
kinh tế - xã hội.
+ Thị trường toàn quốc: hàng hoá và dịch vụ được lưu thông trên tất cả
các vùng, các địa phương của một nước.
+ Thị trường quốc tế: là nơi diễn ra các giao dịch buôn bán hàng hoá và
dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau.
* Phân loại theo mối quan hệ giữa những người mua và người bán.
+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: trên thị trường có nhiều người mua và
người bán cùng một loại hàng hoá, dịch vụ. Hàng hoá đó mang tính đồng nhất
và giá cả là do thị trường quyết định.
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người
mua và người bán cùng một loại hàng hoá, sản phẩm nhưng chúng không đồng
nhất. Điều này có nghĩa loại hàng hoá sản phẩm đó có nhiều kiểu dáng, mẫu
mã, bao bì, nhãn hiệu kích thước... khác nhau. Giá cả hàng hoá được ấn định
một cách linh hoạt theo tình hình tiêu thụ trên thị trường.
+ Thị trường độc quyền: trên thị trường chỉ có một hoặc một nhóm người
liên kết với nhau cùng sản xuất ra một loại hàng hoá. Họ có thể kiểm soát hoàn
toàn số lượng dự định bán ra thị trường cũng như giá cả của chúng.
* Phân loại theo mục đích sử dụng của hàng hoá:
+ Thị trường tư liệu sản xuất: đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường là các loại tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu, năng lượng, động lực,
6
máy móc thiết bị.
+ Thị trường tư liệu tiêu dùng: đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường là các vật phẩm tiêu dùng phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của dân
cư như đồ dùng dân dụng, quần áo, các loại thức ăn chế biến.
* Phân loại theo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp:
+ Thị trường đầu vào: là nơi doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhằm
mua các yếu tố đầu vào (thị trường lao động, thị trường tài chính - tiền tệ, thị
trường khoa học công nghệ, thị trường bất động sản...).
+ Thị trường đầu ra: là nơi doanh nghiệp tiến hành các giao dịch nhằm
bán các loại sản phẩm đầu ra của mình. Tuỳ theo tính chất sử dụng sản phẩm
hàng hoá của doanh nghiệp mà thị trường đầu ra là thị trường tư liệu sản xuất
hay tư liệu tiêu dùng.
2.2. Phân đoạn thị trường:
Hiện nay, dân số trên thế giới đã đạt tới con số trên 6 tỉ người, một con số
khổng lồ và được phân bố trên phạm vi rộng với những sở thích thói quen khác
nhau. Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng làm cho tất cả mọi người ưa
thích sản phẩm của mình ngay là một điều không tưởng và không thể được.
Trước hết họ cần phải khôn khéo tập trung vào phục vụ một bộ phận nhất định
của thị trường, tìm mọi cách hấp dẫn và chinh phục nó. Từ đó xuất hiện khái
niệm "phân đoạn thị trường". Nó được hiểu là việc phân chia thị trường thành
những nhóm người mua hàng khác nhau theo độ tuổi, giới tính, mức thu nhập,
tính cách, thói quen, trình độ học vấn... Không hề có một công thức phân đoạn
thị trường thống nhất nào cho tất cả các doanh nghiệp mà họ buộc phải thử các
phương án phân đoạn khác nhau trên cơ sở kết hợp những tham biến khác nhau
theo ý tưởng của riêng mình. Tuy nhiên có thể tóm lại 4 nguyên tắc phân đoạn
thị trường tiêu dùng như sau:
7
* Nguyên tắc địa lý: nguyên tắc này đòi hỏi chia cắt thị trường thành các
khu vực địa lý khác nhau như quốc gia, tỉnh, thành phố, xã, miền...; Thành các
khu vực có mật độ dân số khác nhau như thành thị, nông thôn; Thành các khu
vực có trình độ dân trí khác nhau như miền núi, đồng bằng...
* Nguyên tắc nhân khẩu học: là phân chia thị trường thành những nhóm
căn cứ vào biến nhân khẩu học như giới tính, mức thu nhập, tuổi tác, qui mô
gia đình, giai đoạn của chu kỳ gia đình, loại nghề nghiệp, trình độ học vấn, tôn
giáo, tín ngưỡng và dân tộc. Đây là các biến phổ biến nhất làm cơ sở để phân
biệt các nhóm người tiêu dùng. Điều này có thể lý giải bởi sở thích, mong
muốn hay nhu cầu của khách hàng có liên quan chặt chẽ tới đặc điểm về nhân
khẩu học. Hơn nữa các biến này dễ đo lường, đơn giản và dễ hiểu hơn đa số
các biến khác.
+ Biến giới tính đã được áp dụng từ lâu trong việc phân đoạn các thị
trường thời trang quần áo, mỹ phẩm, sách báo, đồ dùng dân dụng... Ở đây có
sự khác biệt khá rõ nét trong thị hiếu tiêu dùng giữa nam và nữ.
+ Tuổi tác khác nhau cũng dẫn đến những nhu cầu khác nhau. Ví dụ thị
trường kem đánh răng đối với trẻ em: cần chú ý đến một số tiêu thức như độ
ngọt cao, có thể nuốt được và chống sâu răng; đối với thanh niên cần có nhu
cầu về làm bóng, trắng răng và hương thơm; đối với người già nổi bật là nhu
cầu làm cứng và chắc răng.
+ Cuối cùng việc doanh nghiệp có tiêu thụ được sản phẩm của mình hay
không lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng có nhu cầu. Mức
thu nhập của người dân cao thì khả năng thanh toán mới lớn. Nhiều doanh
nghiệp đã áp dụng phương pháp giá phân biệt cho các tầng lớp lao động trong
xã hội và đã thu được nhiều thành công.
* Nguyên tắc hành vi: Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc hành vi là
việc phân chia người mua thành nhiều nhóm khác nhau theo các biến lý do mua
8
hàng, lợi ích mong muốn thu được, tình trạng người sử dụng cường độ tiêu
dùng, mức độ trung thành, mức độ sẵn sàng chấp nhận hàng và thái độ đối với
món hàng đó. Có nguyên tắc này bởi vì người tiêu dùng quyết định mua hàng
hoá nhằm thoả mãn một lợi ích đang mong đợi nào đó. Nếu sản phẩm đủ sức
hấp dẫn, họ sẽ trở thành khách hàng thường xuyên và trung thành của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì điều cần thiết
nhất không phải là đẩy mạnh tiêu thụ mà phải nhận biết, hiểu kỹ lưỡng hành vi
của khách hàng để đáp ứng đúng thị hiếu của từng nhóm khách hàng một và từ
đó sản phẩm sẽ tự được tiêu thụ trên thị trường.
* Nguyên tắc tâm lý: Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc tâm lý là việc
phân chia người mua thành những nhóm theo đặc điểm giai tầng xã hội, lối
sống và đặc tính nhân cách. Nguồn gốc giai tầng có ảnh hưởng mạnh đến sở
thích của con người, đặc biệt là đối với đồ dùng dân dụng, quần áo, thói quen
nghỉ ngơi, đi du lịch, đọc sách báo... Những người thuộc tầng lớp trung lưu
thường đi tìm những sản phẩm hàng đầu, hàm chứa nhiều giá trị thẩm mỹ độc
đáo và thậm chí cả cách chơi chữ, còn những người thuộc tầng lớp hạ lưu lại
vừa lòng với sản phẩm thông thường nhất, phù hợp với túi tiền của mình. Ngoài
ra phong cách hay lối sống thường ngày cũng được thể hiện khá rõ trong cách
tiêu dùng của người dân. Những người "cổ hủ" thường thích những đồ dùng,
kiểu cách giản dị, tiện lợi, hay những người năng động, cởi mở lại là những
người thích các loại xe môtô dáng thể thao khoẻ mạnh... Các doanh nghiệp khi
thiết kế sản xuất hàng hoá, dịch vụ đưa vào những tính chất và đặc tính làm
vừa lòng khách hàng.
II. Vai trò và chức năng của thị trường
1. Vai trò của thị trường
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp góp phần vào việc thoả mãn
các nhu cầu của thị trường, kích thích sự ra đời của các nhu cầu mới và nâng
9
cao chất lượng nhu cầu... Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, thị trường có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Thị trường vừa là động lực, vừa là điều kiện và vừa là thước đo kết
quả, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
* Là động lực: thị trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh
nghiệp nếu muốn tồn tại được phải luôn nắm bắt các nhu cầu đó, sản xuất kinh
doanh theo các nhu cầu đó và định hướng mục tiêu hoạt động cũng phải xuất
phát từ những nhu cầu đó. Ngày nay mức sống của người dân được tăng lên rõ
rệt do đó khả năng thanh toán của họ cũng cao hơn, nhu cầu nhiều hơn nhưng
lại khắt khe hơn. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh thay nhau ra đời
cạnh tranh dành giật khách hàng một cách gay gắt bởi vì thị trường có chấp
nhận thì doanh nghiệp mới tồn tại được nếu ngược lại sẽ bị phá sản. Vậy thị
trường là động lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Là điều kiện: thị trường bảo đảm cung ứng có hiệu quả các yếu tố cần
thiết để doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình.
Nếu doanh nghiệp có nhu cầu về một loại yếu tố sản xuất nào đó thì tình hình
cung ứng trên thị trường sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tiêu cực hoặc tích cực tới
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy thị trường là điều kiện sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Là thước đo: thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của
các phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các trường
hợp khó khăn đòi hỏi phải có sự tính toán cân nhắc trước khi ra quyết định.
Mỗi một quyết định đều ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các
doanh nghiệp. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có ưa chuộng sản phẩm
hàng hoá của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án kinh doanh đó
có hiệu quả hay không hay thất bại. Vậy thị trường là thước đo hiệu quả sản
10
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy thông qua thị trường (mà trước hết là hệ thống giá cả) các doanh
nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực. Trên thị trường, giá
cả hàng hoá và dịch vụ, giá cả với yếu tố đầu vào (như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu, đất đai, lao động, vốn...) luôn luôn biến động nếu phải sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra hàng hoá và dịch vụ đáp ứng kịp thời nhu
cầu của thị trường và xã hội.
2. Chức năng của thị trường
2.1. Chức năng thừa nhận:
Nếu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra tiêu thụ được trên thị trường, tức
là khi đó hàng hoá của doanh nghiệp đã được thị trường chấp nhận, lúc ấy sẽ
tồn tại một số lượng khách hàng nhất định có nhu cầu và sẵn sàng trả tiền để có
hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đó và quá trình tái sản xuất của doanh
nghiệp, nhờ thế mà cũng được thực hiện. Thị trường thừa nhận tổng khối lượng
hàng hoá và dịch vụ đưa ra giao dịch, tức thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng
của chúng chuyển giá trị cá biệt thành giá trị xã hội. Sự phân phối và phân phối
lại các nguồn lực nói lên sự thừa nhận của thị trường. Chức năng này đòi hỏi
các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải tìm hiểu kỹ thị
trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường. Xác định cho được thị trường cần gì với
khối lượng bao nhiêu.
2.2. Chức năng thực hiện của thị trường:
Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người bán và người mua
thực hiện được các mục tiêu của mình. Người bán nhận tiền và chuyển quyền
sở hữu hàng hoá cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để
có được giá trị sử dụng của hàng hoá. Tuy nhiên sự thực hiện về giá trị chỉ xẩy
ra khi thị trường đã chấp nhận giá trị sử dụng của hàng hoá. Do đó khi sản xuất
11
hàng hoá và dịch vụ doanh nghiệp không chỉ tìm mọi cách để giảm thiểu các
chi phí mà còn phải chú ý xem lợi ích đem lại từ sản phẩm có phù hợp với nhu
cầu thị trường hay không. Như vậy thông qua chức năng thực hiện của thị
trường, các hàng hoá và dịch vụ hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để
làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực.
2.3. Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường
Cơ chế thị trường điều tiết việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tức là kích
thích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào các lĩnh vực có mức lợi nhuận
hấp dẫn, có tỉ suất lợi nhuận cao, tạo ra sự di chuyển tư liệu sản xuất từ ngành
này sang ngành khác. Thể hiện rõ nhất của chức năng điều tiết là sự đào thải
trong quy luật cạnh tranh. Doanh nghiệp nào, bằng chính nội lực của mình, có
thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường phản ứng một cách kịp thời, linh
hoạt sáng tạo với các biến động của thị trường thì sẽ tồn tại và phát triển hoặc
ngược lại. Ngoài ra thị trường còn hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng theo
mục đích có lợi nhất nguồn nhân sách của mình. Chức năng này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải nắm được chu kì sống của sản phẩm, để xem sản phẩm đang
ở giai đoạn nào, tức là xem xét mức độ hấp dẫn của thị trường đến đâu đề từ
đó có các chính sách phù hợp.
2.4. Chức năng thông tin của thị trường
Chức năng này thể hiện ở chỗ, thị trường chỉ cho người sản xuất biết nên
sản xuất hàng hoá và dịch vụ nào, bằng cách nào và khối lượng là bao nhiêu để
đưa vào thị trường tại thời điểm nào là thích hợp và có lợi nhất, chỉ cho người
tiêu dùng biết nên mua những loại hàng hoá và dịch vụ gì tại thời điểm nào là
có lợi cho mình. Thị trường sẽ cung cấp cho người sản xuất và người tiêu dùng
những thông tin sau: Tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu của cung và cầu, quan
hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá và dịch vụ, các điều kiện tìm kiếm hàng
hoá và dịch vụ, các đơn vị sản xuất và phân phối... Đây là những thông tin
12
quan trọng cho cả người sản xuất và người tiêu dùng để đề ra các quyết định
thích hợp đem lại lợi ích hiệu quả cho họ.
Để có được những thông tin này doanh nghiệp phải tổ chức tốt hệ thống
thông tin của mình bao gồm các ngân hàng thống kê và ngân hàng mô hình
cũng như các phương pháp thu thập và xử lý thông tin nhằm cung cấp những
thông tin về thị trường cho lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch chiến
lược, kế hoạch phát triển thị trường.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
trên thị trường
1. Các yếu tố cấu thành nên thị trường
1.1. Cầu thị trường
Cầu về một loại hàng hoá dịch vụ là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà
người mua sẵn sàng mua và có khả năng thanh toán ở mỗi mức giá nhất định
với các điều kiện khác không thay đổi.
Trong thực tế cuộc sống chúng ta hiểu rằng nhiều người thích mua hàng
hoá là do sự tác động của nhiều yếu tố, thể hiện chung qua mức độ hấp dẫn của
hàng hoá. Muốn tạo ra sự hấp dẫn hàng hoá của doanh nghiệp mình so với
hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh khác thì doanh nghiệp cần tạo ra cho một
khả năng thích ứng lớn hơn với nhu cầu. Vì vậy nghiên cứu để nhận dạng và
hiểu biết cặn kẽ nhu cầu của khách hàng trở thành vấn đề cốt lõi của doanh
nghiệp trong đó phải đặc biệt chú ý đến những nhu cầu có khả năng thanh toán.
Doanh nghiệp có thể chế tạo ra nhiều loại hàng hoá với những đặc tính cực kỳ
hoàn mỹ, rút cục họ cũng chẳng bán được là bao nhiêu, nếu như không bám sát
nhu cầu thị trường. Hơn nữa nếu chi phí sản xuất của nó lại quá lớn, giá cao
quá thì người mua không thể mua được mặc dù người ta rất thích dùng nó. Do
vậy mong muốn hay nhu cầu tiềm năng không thể biến thành nhu cầu hiện
13
thực, thành sức mua đối với hàng hoá. Chừng nào nhà kinh doanh đoán biết
được khách hàng sẽ cần loại hàng hoá nào với những đặc điểm gì và đặc trưng
quan trọng nhất? Để tạo ra nó người ta phải tổn phí bao nhiêu, tương ứng với
nó là mức giá nào? ... thì khi đó họ mới thực sự nắm bắt được nhu cầu của
người tiêu dùng và mới hy vọng đem lại hiệu quả trong kinh doanh.
2.2. Cung của thị trường
Cung của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ là khối lượng hàng hoá hoặc
dịch vụ mà người bán sẵn sàng bán ở một mức giá nhất định với các điều kiện
khác không thay đổi. Trên thị trường chỉ có những loại hàng hoá có nhu cầu
mới được cung ứng và phải chú ý hàng hoá được cung ứng không phải là bằng
bất cứ giá nào mà phải căn cứ vào khả năng sẵn sàng bán. Cần phải nhận thấy
rằng điều mấu chốt mà người tiêu dùng quan tâm khi mua một loại hàng hoá
hay dịch vụ chính là những lợi ích do việc tiêu dùng hàng hoá dịch vụ đó đem
lại. Như vậy những hàng hoá và dịch vụ mà người kinh doanh đem cung ứng
chỉ là phương tiện truyền tải những lợi ích mà người tiêu dùng chờ đợi. Do vậy
nhiệm vụ đặt ra cho các nhà kinh doanh là phải xác định nhu cầu, lợi ích của
người tiêu dùng để từ đó sản xuất và cung ứng những hàng hoá và dịch vụ để
có thể bảo đảm tốt nhất những lợi ích cho người tiêu dùng.
2.3. Giá cả thị trường
Về mặt giá trị, giá cả là biểu hiện bằng tiền mà người mua phải trả cho
người bán để có được giá trị sử dụng của một loại hàng hoá dịch vụ nào đó.
Giá cả trên thị trường được xác định bằng sự gặp gỡ giữa cung và cầu. Nó
phản ánh việc đáp ứng nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ, luôn
luôn gắn liền với việc sử dụng các nguồn lực có hạn của xã hội và phải được
trả giá. Đối với người tiêu dùng giá hàng hoá luôn được coi là yếu tố đầu tiên
để họ đánh giá phần lợi thu được và chi phí phải bỏ ra để sở hữu và tiêu dùng
hàng hoá. Vì vậy những quyết định về giá luôn giữ vai trò quan trọng và phức
14
tạp nhất mà doanh nghiệp phải đối mặt. Thông thường thị trường xác định giá
trần của hàng hoá, mặc dù vậy trong một số thị trường doanh nghiệp có thể
thay đổi giá cả, khi đó doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ
giữa giá cả về nhu cầu, tốc độ co giãn của cầu đối với giá.
2. Các nhân tố ảnh hưởng
2.1. Vĩ mô
* Nhân khẩu học
Nhân khẩu học nghiên cứu dân cư theo các quan điểm con người, qui mô
và tốc độ tăng dân số, mật độ, sự di chuyển dân cư, trình độ học vấn - Thị
trường vốn do con người hợp thành. Mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng xuất phát từ nhu cầu của con người, nhằm phục vụ con người và hướng
tới con người. Qui mô và tốc độ tăng dân số phản ánh trực tiếp qui mô nhu cầu
khái quát trong hiện tại và tương lai và do đó nó cũng thể hiện sự phát triển hay
suy thoái của thị trường. Dân số tăng kéo theo nhu cầu của con người cũng
tăng và thị trường cũng tăng với sức mua khá lớn, nhưng nếu sức mua giảm sút
thì thị trường sẽ bị thu hẹp.
Sự gia tăng số người có học vấn làm sinh động thêm thị trường hàng hoá
chất lượng cao. Sự thay đổi về cơ cấu tuổi tác trong dân cư sẽ dẫn tới tình
trạng thay đổi cơ cấu khách hàng tiềm năng theo độ tuổi. Những thay đổi này
sẽ tác động quan trọng đến cơ cấu tiêu dùng và nhu cầu về các loại hàng hoá.
* Kinh tế
Môi trường kinh tế trước hết được phản ánh qua tình hình phát triển và
tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng. Tình
hình đó có thể tạo nên tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với
các thị trường khác nhau. Bởi vì ngoài bản thân con người ra thì sức mua của
họ cũng rất quan trọng đối với các thị trường. Nói chung sức mua phụ thuộc
15
vào mức thu nhập hiện tại, giá cả hàng hoá số tiền tiết kiệm, khả năng vay nợ
của khách hàng, tỉ lệ thất nghiệp, lãi suất vay tín dụng. Môi trường kinh tế cũng
ảnh hưởng tới cơ cấu chỉ tiêu của người tiêu dùng. Những người thuộc tầng lớp
thượng lưu thường là thị trường tiêu thụ của các mặt hàng xa xỉ và ngược lại
tầng lớp hạ lưu trong xã hội buộc phải tính toán từng xu ngay cả khi mua sắm
thứ không thể dùng. Trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng thì cơ hội phát triển
thị trường sẽ thuận lợi hơn rất nhiều so với thời kỳ nền kinh tế suy thoái.
* Tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm hệ thống các yếu tố tự nhiên (khí hậu, đất
đai, nguyên vật liệu, năng lượng dùng cho sản xuất...) ảnh hưởng nhiều mặt tới
các nguồn lực đầu vào cần thiết cho các doanh nghiệp và do vậy chúng ta có
thể gây biến động lớn trên thị trường. Sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu thô, sự
gia tăng chi phí năng lượng, sự cạn kiệt những nguyên liệu không phục hồi như
dầu mỏ, than đá, các loại khoáng sản khác... ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Xu thế chung đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm kiếm, nghiên cứu sử dụng các
nguồn năng lượng thay thế.
Hoạt động công nghiệp hầu như bao giờ cũng gây tổn hại cho môi trường.
Các nhà chức trách đang lên tiếng kêu gọi mọi người cùng suy nghĩ về cách
loại trừ các chất thải độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất và cả trong quá
trình sử dụng sản phẩm. Ngày nay ý thức bảo vệ môi trường của người dân
đang lên cao nên đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm có độ
an toàn cao về sinh học và môi trường, mặc dù giá cả có tăng lên nhưng người
tiêu dùng vẫn chấp nhận, thị trường về các sản phẩm mạnh nhiều chất độc hại
tới môi trường qua đó thu hẹp lại và thị trường công nghệ xử lý các chất thải
được mở rộng hơn.
* Công nghệ kỹ thuật
Khoa học kỹ thuật và khoa học ứng dụng là lực lượng mang đầy kịch tính.
16
Nó chứa đựng trong đó các bí quyết dẫn đến thành công cho các doanh nghiệp.
Hệ thống khoa học công nghệ đã sinh ra cả những điều kì diệu lẫn những nỗi
khủng khiếp cho nhân loại. Môi trường công nghệ gây tác động mạnh mẽ tới
sức sáng tạo sản phẩm và cơ hội tìm kiếm thị trường mới. Sự cạnh tranh về kỹ
thuật công nghệ mới không chỉ cho phép các doanh nghiệp giành thắng lợi mà
còn thay đổi bản chất của quá trình cạnh tranh bởi vì chúng có ảnh hưởng lớn
lao tới chi phí sản xuất và năng suất lao động. Mỗi khi trên thị trường xuất hiện
một công nghệ mới sẽ làm mất đi vị trí vốn có của kỹ thuật cũ, máy photocopy
đã gây thiệt hại cho nền sản xuất giấy than, còn vô tuyến truyền hình lại gây hại
cho ngành chiếu phim...
Ngày nay khoa học kỹ thuật đang không ngừng tiến bộ và làm xuất hiện
thêm những khả năng vô tận như thị trường năng lượng mặt trời, thị trường
máy vi tính các loại, thị trường thuốc và dụng cụ y tế với tính năng thần kỳ
chữa các loại bệnh hiểm nghèo như ung thư, gan, phổi, thay đổi gen ADN... Do
vậy các doanh nghiệp cần phải nắm bắt và hiểu rõ được bản chất của những
thay đổi trong môi trường công nghệ kỹ thuật cùng nhiều phương thức khác
nhau mà một công nghệ mới có thể phục vụ cho nhu cầu của con người. Mặt
khác phải cảnh giác, kịp thời phát hiện các khả năng xấu có thể gây ra thiệt hại
tới người tiêu dùng.
* Chính trị
Môi trường chính trị bao gồm hệ thống luật pháp, các công cụ chính sách
của nhà nước, cũng như cơ chế điều hành quản lý của chính phủ. Tất cả đều tác
động đến thị trường thông qua sự khuyến khích hay hạn chế các doanh nghiệp
tham gia vào thị trường. Luật pháp ra đời là để điều tiết hoạt động kinh doanh.
Nó bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp trước sự cạnh tranh không lành mạnh, bảo
vệ cho người tiêu dùng trước những việc làm gian dối như sản xuất hàng hoá
kém chất lượng, quảng cáo không đúng sự thật, đánh lừa khách hàng bằng thủ
17
đoạn bao bì nhãn gói và mức giá cả, bảo vệ lợi ích tối cao của xã hội chống lại
sự lộng hành của các nhà sản xuất. Môi trường chính trị ảnh hưởng rất lớn tới
thị trường. Chẳng hạn như việc điều hành xuất nhập khẩu của chính phủ, nếu
số lượng, giá cả, thời điểm... hàng nhập khẩu không được điều hành tốt đều có
thể làm cho thị trường trong nước biến động.
* Văn hoá xã hội
Môi trường văn hoá bao gồm các nhân tố đa dạng như phong tục tập
quán, các giá trị văn hoá truyền thống, thái độ, thị hiếu, thói quen, đinh hướng
tiêu dùng... của mỗi dân tộc. Những giá trị văn hoá đôi khi trở thành "Hàng rào
gai góc" đối với việc thâm nhập thị trường của doanh nghiệp. Các giá trị văn
hoá truyền thống khó thay đổi tác động mạnh mẽ tới thái độ, hành vi mua và
tiêu dùng hàng hoá của cá nhân, nhóm người. Tuy nhiên những giá trị văn hoá
mang tính thứ phát thì dễ thay đổi hơn và sẽ tạo ra cơ hội thị trường hay
khuynh hướng tiêu dùng mới. Do vậy các doanh nghiệp cần phải chú ý thích
đáng tới yếu tố văn hoá trước khi tiến hành xâm nhập hay phát triển thị trường
nào đó. Ngày nay đặc trưng môi trường văn hoá ở Việt Nam đang thay đổi
theo xu hướng tôn trọng các giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời mong
muốn thoả mãn nhu cầu một cách nhanh chóng và có định hướng trí tuệ trong
các sản phẩm tiêu dùng.
2.2. Vi mô
* Nhóm nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp
Nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về tiêu
dùng hàng hoá của thị trường. Công việc này thành công hay không lại phụ
thuộc vào nhiều nhân tố và lực lượng.
Trước hết là các chính sách và định hướng phát triển do ban lãnh đạo
doanh nghiệp vạch ra. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn cụ thể, từng thực trạng
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà họ có những kế hoạch ngắn hạn, trung
18
hạn, dài hạn phù hợp. Đối với một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị
trường thì bộ phận lãnh đạo phải đưa ra mục tiêu, chiến lược, phương châm và
quyết định trên cơ sở lợi ích chung của tập thể và chúng phải chứa đựng trong
đó thế mạnh tổng hợp của mọi bộ phận. Phòng tài chính quan tâm đến vấn đề
vốn và hiệu quả sử dụng vốn, phòng vật tư chú trọng giải quyết việc bảo đảm
cung cấp đủ, đúng thành phẩm, bán thành phẩm cần thiết, phòng kế toán theo
dõi chặt chẽ các khoản thu chi, phòng thiết kế kỹ thuật bảo đảm về chất lượng,
độ an toàn, độ bền đẹp cho sản phẩm... Tất cả phải được tập hợp, hợp tác chặt
chẽ với phòng thị trường.
* Các nhà cung cấp
Những người cung ứng là các tổ chức và các cá nhân bảo đảm cung cấp
cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh những yếu tố cần thiết để sản xuất
ra hàng hoá, dịch vụ nhất định. Để sản xuất thì người sản xuất phải luôn theo
dõi đầy đủ các thông tin có liên quan đến thực trạng số lượng, chất lượng, giá
cả... hiện tại và tương lai của các yếu tố nguồn lực cho sản xuất hàng hoá và
dịch vụ. Nguồn lực khan hiếm, giá cả tăng, trước mắt có thể làm xấu đi cơ hội
thị trường cho việc kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ nhất định thậm chí
phải ngừng sản xuất.
* Khách hàng
Khách hàng của doanh nghiệp là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ là
yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp bởi vì khách hàng tạo nên thị
trường, qui mô khách hàng tạo nên qui mô thị trường. Khách hàng có thể là
người tiêu dùng, các tổ chức mua bán thương mại, nhà buôn bán trung gian,
các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế. Nhu cầu của họ luôn luôn biến đổi
và do đó người bán cần nghiên cứu kỹ những biến động đó.
* Các trung gian phân phối và tiêu thụ
Những người trung gian và các hãng phân phối chuyên nghiệp đóng vai
19
trò rất quan trọng hỗ trợ cho doanh nghiệp đi lên, tiêu thụ và phổ biến hàng hoá
đối với khách hàng. Họ có thể là những người môi giới thương mại, đại lý,
người bán buôn, bán lẻ, tổ chức dịch vụ Marketing lưu thông hàng hoá tổ chức
tài chính tín dụng. Những tổ chức này có ảnh hưởng trực tiếp tới hình ảnh của
doanh nghiệp trên thị trường, ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ, tính sáng tạo
và chi phí, vì vậy điều nên làm đối với các doanh nghiệp là cần phải cân nhắc
cẩn thận trước khi quyết định cộng tác với một loại hình trung gian phân phối
cụ thể nào. Cần phải tiến hành đánh giá hoạt động của họ để tránh bị ràng buộc
đồng thời thiết lập những mối quan hệ bền vững với những tổ chức có tính
quyết định nhất đối với mình.
* Các đối thủ cạnh tranh
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế. Mỗi quyết định của đối thủ cạnh
tranh đều ảnh hưởng đến thị trường nói chung và đến doanh nghiệp nói riêng.
Nhiều doanh nghiệp cứ lầm tưởng người tiêu dùng có nhu cầu về giá trị hàng
hoá của mình nhưng về bản chất là họ cần giá trị sử dụng hàng hoá đó và trên
thị trường có rất nhiều sản phẩm thay thế cho họ lựa chọn, đôi khi các nhu cầu
này bị triệt tiêu nhau, tức sự thành công của doanh nghiệp này lại chính là thất
bại của doanh nghiệp khác, sự phát triển thị trường của doanh nghiệp này lại
chính là sự thu hẹp thị trường của doanh nghiệp khác và ngược lại. Vì vậy mọi
quyết định của doanh nghiệp không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh.
IV. Cơ chế thị trường và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường
1. Đặc trưng của cơ chế thị trường
20
Kinh tế tư bản là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Đến lượt
mình cơ chế thị trường là cơ chế của nền sản xuất hàng hoá ở đâu có sản xuất
hàng hoá thì ở đó sẽ xuất hiện cơ chế thị trường, hay nói cách khác cơ chế thị
trường là cơ chế tạo môi trường cho các quy luật của nền sản xuất hàng hoá
hoạt động. Đó là môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận thông qua các
quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả, quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật khách hàng... Nhân tố cơ bản
của cơ chế thị trường là cung, cầu và giá cả thị trường.
Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do, nó có một số đặc
trưng chủ yếu sau:
* Các vấn đề liên quan đến việc phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên
sản xuất như lao động, vốn, đất đai, công nghệ, nguyên nhiên liệu... về cơ bản
được quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật
kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị...
* Cơ chế thị trường đòi hỏi chất lượng sản phẩm ngày càng tăng nhằm thu
được thắng lợi trong cạnh tranh. Về lâu dài thì cạnh tranh về chất lượng vẫn
gay go và mang tính quyết định. Ngày nay, chất lượng sản phẩm không chỉ bó
hẹp qua một số thông số như bền, đẹp, tính cơ lý cao mà còn thể hiện rất nhiều
qua hình thức, kiểu dáng, mẫu mã, bao bì, mầu sắc... và các dịch vụ kèm theo.
Nói chung sản phẩm hàng hoá nào đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của
người tiêu dùng nhiều hơn thì sản phẩm hàng hoá đó có chất lượng cao hơn và
ngược lại.
* Cơ chế thị trường mặt hàng sản xuất phải thường xuyên đổi mới hình
thức mẫu mã tương ứng với nhu cầu mới của thị trường. Con người thường
nhanh chán những thứ đang thịnh hành và họ đi tìm kiếm sự đa dạng, đơn giản
chỉ bởi sự đa dạng trong cuộc sống. Doanh nghiệp nào không nắm bắt kịp
những thay đổi này sẽ bị đẩy ra ngoài thị trường nhường chỗ cho những sản
21
phẩm thay thế khác. Do đó không có một loại hàng hoá nào có thể tồn tại mãi
trên thị trường với mẫu mã cũ rích. Vì thế một yêu cầu đặt ra cho các nhà sản
xuất kinh doanh là phải thường xuyên thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, rút ngắn
chu kỳ sống sản phẩm. Điều này có thể lý giải bởi tâm lý đa dạng của con
người.
* Cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự thay đổi về kỹ thuật công nghệ để
có thể phát huy được thế mạnh trong cạnh tranh. Thắng lợi trong cạnh tranh
trong cơ chế thị trường phụ thuộc rất lớn vào trình độ sản xuất, đôi khi nó là
nhân tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh cả về giá cả, chất lượng sản
phẩm, qui cách mẫu mã sản phẩm. Điều này đã được C.Mác nêu: "Sự khác
nhau của các thời đại kinh tế không phải là sản xuất ra cái gì mà là sản xuất
bằng cách nào". Vì vậy cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới cải tiến kỹ
thuật để có thể phát huy được thế mạnh trong cạnh tranh.
* Cơ chế thị trường đòi hỏi trình độ tay nghề của công nhân ngày càng
cao để sản xuất sản phẩm với chất lượng tốt. Điều này hoàn toàn hợp với lôgic
phát triển. Khoa học công nghệ càng phát triển sau bao nhiêu thì đòi hỏi kĩ
năng của người lao động càng phải cao bấy nhiêu để có thể làm chủ được nó.
Đây là một vấn đề mang ý nghĩa thực tiễn vô cùng lớn đối với nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.
* Cơ chế thị trường đòi hỏi trong phân phối phải có sự đãi ngộ thoả đáng
đối với công nhân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật và tay nghề cao. C. Mác
đã từng nói: "Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn". Vì thế để
công bằng và làm hài lòng những người đã có nhiều công lao động góp vào quá
trình phát triển của doanh nghiệp thì buộc các doanh nghiệp phải áp dụng các
biện pháp khuyến khích cả về vật chất lẫn tinh thần.
* Cơ chế thị trường đòi hỏi phải tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ để
phục vụ một cách kịp thời nhất đối với khách hàng. Phân phối là một mắt xích
22
quan trọng giúp cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục, không có
phân phối thì không thể thực hiện được hoạt động sản xuất. Để thực hiện tốt
chức năng phân phối đòi hỏi doanh nghiệp phải tiếp cận và phục vụ khách hàng
một cách tốt nhất, kịp thời nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phải tìm hiểu thị
trường, cung cấp sản phẩm theo nhu cầu, thực hiện các hoạt động dịch vụ cả
trước, trong và sau khi bán.
2. Vai trò của cơ chế thị trường
Trong cơ chế thị trường các nhà sản xuất phải tự ấn định ra các mục tiêu
phương hướng hoạt động cũng như các công cụ để thực hiện mục tiêu đó một
cách hiệu quả nhất. Họ được tự chủ trong việc sản xuất cái gì, với số lượng bao
nhiêu, chất lượng như thế nào, mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất ở đâu. Điều đó được gọi là sự tự do kinh doanh, tuy nhiên họ
vẫn bị ràng buộc bởi sợi dây vô hình và chính nó đã chi phối phần nào hoạt
động của họ. Đó là quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ
chế thị trường có tác động điều tiết các hoạt động của các doanh nghiệp, hướng
hoạt động của họ ngày càng trở nên hoàn thiện và hiệu quả hơn để có thể đứng
vững rên thương trường.
Cơ chế thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm tòi, nghiên cứu các
biện pháp để hạ giá thành sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh về giá. Có thể vì
khả năng thanh toán không cho phép mà khách hàng đã không có được quyết
định tiêu dùng theo đúng nhu cầu mong muốn của họ. Cùng một loại hàng hoá,
sản phẩm trên thị trường có cùng chất lượng và sự tiện dụng như nhau thì chắc
rằng họ sẽ tìm đến với những sản phẩm có giá cả thuộc nhóm thấp nhất.
Cơ chế thị trường góp phần thúc đẩy sự phân công lao động trong xã hội.
Để duy trì và mở rộng thị trường, các doanh nghiệp phải biết phát huy những
lợi thế so sánh của mình, đó có thể là các lợi thế mà doanh nghiệp khác không
có hoặc có nhưng lại yếu hơn. Hay nói cách khác, mỗi doanh nghiệp tự tạo cho
23
mình nét đặc thù không giống ai, tìm cách lách vào những phần trống trên thị
trường mà chưa có một đối thủ nào đặt chân tới. Như vậy sự phân công lao
động bắt đầu hình thành từ những ý tưởng đó. Cơ chế thị trường góp phần nâng
cao chất lượng của hàng hoá, dịch vụ trong xã hội. Cuộc cạnh tranh về chất
lượng, lâu dài vẫn luôn là gay go và quyết liệt nhất. Những sản phẩm kém chất
lượng đang dần biến mất khỏi thị trường nhường chỗ cho những sản phẩm có
chất lượng tốt hơn. Trong những hàng hoá cùng mức giá cả thì người tiêu dùng
sẵn sàng chọn những thứ có chất lượng cao hơn. Ngày nay chất lượng hàng hoá
và dịch vụ không chỉ là độ bền hay tính cơ lý hoá cao nữa mà còn được thể
hiện qua hình dáng mầu sắc, mẫu mã, bao gói, dịch vụ kèm theo. Cuộc sống
của con người ngày càng trở nên gấp gáp đòi hỏi cần được tiết kiệm về không
gian và thời gian. Các loại máy móc, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc
hiện đại đã thay nhau ra đời vì nhu cầu đó. Hay có thể nói cơ chế thị trường
thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng, làm tăng năng suất lao động,
tăng số lượng sản phẩm qua đó làm tăng của cải vật chất cho toàn xã hội.
Phần thứ hai
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN
PHẨM Ở CÔNG TY BÓNG ĐÈN PHÍCH NƯỚC RẠNG ĐÔNG
I. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng đến thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông
1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty
Cùng với sự hình thành và phát triển của đất nước, là sự hình thành và
24
phát triển mạnh mẽ của rất nhiều công ty, xí nghiệp, liên doanh, liên hiệp xí
nghiệp... Sự xuất hiện hàng loạt các loại hình kinh doanh trên bắt nguồn từ
nhận thức đúng đắn, từ trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật từ nhu cầu tiêu
dùng và sinh hoạt của xã hội ngày càng cao. Nhớ lại vào khoảng năm 1959 Bộ
Công nghiệp nhẹ giao trách nhiệm cho một đoàn cán bộ công nhân đi học nghề
làm bóng đèn phích nước tại Trung Quốc, dẫn đoàn cán bộ công nhân này đi
là:
Ông Nguyễn Quang Kiêm (nguyên giám đốc đầu tiên của nhà máy). Sau 2
năm thực tập, nhờ trí thông minh và cần cù của công nhân và cán bộ Việt Nam
và lòng nhiệt tình chỉ bảo của cán bộ và công nhân nước bạn. Công ty đã bỏ
khung ban đầu sản xuất ra những sản phẩm đầu tiên cho đất nước đồng thời
đào tạo một số thợ mới từ các thiết bị chuyên dụng mà anh chị em đi thực tập
đã sản xuất nhiều ngày trên nước bạn. Người xưa có nói "Vạn sự khởi đầu nan"
tuy được chính phủ và Bộ công nghiệp nhẹ rất quan tâm (Phó Thủ tướng Lê
Thanh Nghị và Bộ trưởng Kha Vang Cân đã về dự lễ cắt băng khánh thành nhà
máy) nhưng vì nhà máy đang trong thời kỳ hoàn chỉnh việc xây dựng nên bước
đầu nhà máy vừa sản xuất vừa hoàn chỉnh công trình.
Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông đặt trụ sở tại 15 Hạ Đình -
Thanh Xuân - Hà Nội với mặt bằng xây dựng là 20.690 m2 và 52 hạng mục
công trình không kể hệ thống sân bãi và cây xanh. Đây là điểm thuận lợi cho
việc giao dịch của Công ty. Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông thuộc
Tổng Công ty sành sứ Việt Nam trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ.
Nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông khởi công xây dựng vào tháng
3 năm 1961 do Trung Quốc giúp đỡ xây dựng. Sau 2 năm xây dựng, đầu năm
1963 nhà máy cắt băng khánh thành và chính thức đi vào sản xuất, đến tháng 6
năm 1994 được nâng cấp từ nhà máy lên thành công ty. Trong giai đoạn xây
dựng tháng 3 năm 1961 thực chất nhà máy đã được khảo sát trước đó trùng với
25
thời gian Bộ công nghiệp nhẹ cử đoàn cán bộ sang Trung Quốc học nghề. Theo
thiết kế ban đầu Công ty chỉ sản xuất 1 ca với sản lượng bóng đèn chiếu sáng
thường là 1,5 triệu cái/năm; bóng đèn ôtô là 0,4 triệu cái/năm; phích nước nóng
0,2 triệu cái/năm; đèn huỳnh quang và phụ kiện 5 vạn cái/năm, nhưng đến mãi
12 năm sau nhà máy mới đạt được công suất thiết kế ban đầu (nghĩa là đến tận
năm 1975).
Theo công văn số 292 CNN-TTCP ngày 24/3/1993 của Bộ trưởng bộ
công nghiệp nhẹ quyết định thành lập lại công ty. Sau thời kỳ đổi mới và sự nỗ
lực phấn đấu không mệt mỏi tháng 6 năm 1994 nhà máy đã được nâng cấp
thành Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông theo quyết định số 667-
QĐTCNĐ của Bộ công nghiệp nhẹ. Qui mô của Công ty là doanh nghiệp loại 1
theo quyết định xếp hạng 122 QĐ-TCCB ngày 26/1 của Bộ công nghiệp nhẹ.
Kể từ ngày cắt băng khánh thành đưa vào sản xuất cho đến nay, nhà máy
đã biết bao thăng trầm từ sản xuất nhỏ theo bao cấp, lại bị chiến tranh tàn phá,
bom đạn Mỹ đã phá huỷ nhà xưởng. Thiết bị vật tư sản xuất kỹ thuật gần như
bị phủ định. Với hàng ngàn cán bộ công nhân viên (CBCNV) cùng với vật tư
thiết bị - kỹ thuật chuyên sơ tán theo lệnh trên phân tán thành 3 cơ sở (C1, C2,
C3). Vừa chiến đấu vừa sản xuất, tất cả tập trung xây dựng phấn đấu duy trì sự
tồn tại và thực hiện mọi nghĩa vụ, chi viện phục vụ cho tuyền tuyến như C2 sản
xuất bóng đèn ôtô đáp ứng nhu cầu quốc phòng. Khó khăn chồng chất nhưng
đều hướng theo Đảng "thắng không kiêu, bại không nản" luôn vững vàng tin
tưởng thực hiện theo đường lối chủ trương của Bác - Đảng đã vạch ra.
Với sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ xí nghiệp qua từng thời kỳ mặc dù
có những thời điểm mâu thuẫn theo kiểu cá nhân phi thực tế, song mọi hành
động gây mất đoàn kết đều bị CBCNV phủ định và đấu tranh cho sự đoàn kết
ấy, đồng tâm nhất trí phấn đấu cho nhà máy luôn phát triển không ngừng, thực
sự rạng rỡ. Với hơn ba thập kỷ qua do cơ chế bao cấp điều tiết gây sự trì trệ
26
cho sản xuất và đời sống. Bước vào thời kỳ chuyển đổi cơ chế, bỡ ngỡ lúng
túng, lo lắng là điều không thể tránh được nhưng với quyết tâm làm theo lời
Bác khó khăn mấy có chí vẫn làm nên. Từ tình trạng Công ty phải đóng cửa 6
tháng liền vì hàng ngoại tràn lan không tiêu thụ được đến duy trì sản xuất liên
tục, sản lượng tăng từ 3-5 lần để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Từ một cơ sở
kinh doanh thua lỗ, tiến tới hàng năm làm ăn ngày càng có lãi, nộp ngân sách
ngày càng tăng. Từ tình trạng chất lượng sản phẩm kém, nhân dân kêu ca, bị
hàng ngoại lấn át nhưng đã vươn lên hai năm liền 1993 và 1994 là cơ sở duy
nhất ở phía bắc được lựa chọn vào Topten '93 và Topten '94 (mười mặt hàng
tiêu dùng Việt Nam được ưa thích nhất). 5 năm trước 1990-1994 là quá trình
vươn lên của Công ty, khẳng định sự đứng vững và phát triển trong cơ chế
mới. Với thành tích phấn đấu tháng 9/1994 Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã tăng huân chương lao động hạng nhất cho tập thể cán bộ
công nhân viên chức Công ty và huân chương hạng ba cho cá nhân giám đốc
Công ty.
Đảng bộ Công ty liên tục trong các năm 1991, 1992, 1993 và 1994 đã
được công nhận tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh. Công ty đã hai năm liền được
Bộ công nghiệp nhẹ tặng cờ "Đơn vị thi đua xuất sắc". Công ty đã được lựa
chọn là một trong hai đơn vị của Bộ công nghiệp nhẹ tặng cờ xuất sắc về an
toàn, bảo hộ lao động và chăm sóc điều kiện làm việc cho công nhân trong 5
năm 1990-1994.
Nguồn gốc của mọi thay đổi hôm nay bắt nguồn từ đường lối đổi mới của
Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện. Có được cuộc sống hôm nay đảng bộ và toàn thể công nhân Rạng Đông
đã ra sức thi đua "Học tập và làm theo lời Bác dạy" thực hiện tốt những điều
Bác đã căn dặn trong dịp Bác về thăm Công ty 28/4/1964. Nhờ công ơn trời
biển của Người, cán bộ đảng viên, công nhân lao động Rạng Đông đã tổ chức
27
long trọng lễ đón tượng đài Bác về Công ty mình. Có lẽ không có ngày nào, lư
hương đặt trước tượng đài Bác Hồ không ngát hương thơm vì các đoàn khách
trong vàn goài nước đã đến làm việc với Công ty, các tổ chức sản xuất, các
đơn vị trong Công ty, các đại hội của Công ty đều đến báo cáo với Bác công
việc mình làm dâng lên Bác những thành tích mà mình đã đạt được.
Sau một thời gian lúng túng không dài, Công ty đã xác định đúng đắn
phương hướng sản xuất kinh doanh của Công ty đó là "Tập trung mọi nỗ lực,
phát huy thế mạnh độc đáo của mình, nâng cao sản lượng, nâng cao một mức
hợp lý về chất lượng, hạ giá thành hai mặt hàng bóng đèn tròn và phích nước,
đồng thời sản xuất bóng đèn huỳnh quang tạo thế vững vàng 3 chân về 3 sản
phẩm chính của Công ty đó là bóng đèn tròn, phích nước và đèn huỳnh quang.
Để tổ chức thực hiện được phương hướng sản phẩm kinh doanh này, Công ty
đã có một số thành công bước đầu trong vận dụng những tư tưởng mới của
nghị quyết Đảng trong tập trung chỉ đạo điều hành theo mục tiêu.
+ Với kinh nghiệm lượng định và dự đoán đúng được xu hướng phát triển
với ý chí và khát vọng quyết đưa Công ty vượt qua khó khăn, trong từng thời
kỳ và đối với từng khâu Công ty đã xây dựng những mục tiêu cụ thể đúng vừa
đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu vươn lên, vừa có khả năng phấn đấu vươn lên và có
khả năng thực hiện thực tiễn trong thực hiện.
+ Lề lối và phong cách làm việc đã biến đổi về chất: giảm mệnh lệnh hành
chính, tăng việc trao đổi gợi mở, khuyến nghị tham gia ý kiến, giải quyết tốt
mối quan hệ ngang, chủ động phối hợp và chủ yếu làm biện pháp kinh tế: lấy
lợi ích hài hoà làm động lực tạo khả năng, phát huy tính chủ động ở mọi cấp để
đạt được mục tiêu. Đó là công tác hạch toán kinh tế nội bộ đã được triển khai,
nâng dần trình độ từ thấp đến cao, mở rộng từ sản xuất trực tiếp sang các bộ
phận phục vụ như động lực, nhà ăn ca,...
+ Bộ máy cán bộ giúp giám đốc điều hành công việc được sắp xếp lại gọn
28
nhẹ, giảm dần đầu mối và có hiệu lực cán bộ ở các vị trí then chốt thiết yếu của
dây chuyền công tác chính đã được sàng lọc, lựa chọn và bố trí đúng. Sau 5
năm chuyển đổi sang nền kinh tế mới Công ty đã có một tài sản vô giá đó là
một đội ngũ cán bộ có ý chí quyết tâm cao, đoàn kết, chủ đống tổ chức; một
đội ngũ dày dạn kinh nghiệm, tâm huyết, trách nhiệm cao với công việc chung
và đời sống quần chúng.
Trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng Công ty trải qua 3 giai
đoạn:
- Giai đoạn I (1990-1993)
Khai thác triệt để khả năng tiềm năng lao động sản xuất sắp xếp và bố trí
lại lao động sản xuất.
- Giai đoạn II (1994-1997)
Giai đoạn đổi mới công nghệ đòi hỏi nhiều vốn và con người có trình độ
cao nhưng khả năng của Công ty có hạn do đó Công ty đã không theo con
đường này và quyết định chọn con đường là đi theo chiều sâu, đầu tư vào đúng
cái mình có và có khả năng làm nhất.
Năm 1994 Công ty đã động viên công nhân cho Công ty vay tiền nhàn rỗi
để đầu tư vào máy thổi tự động được trên 8 tỉ đồng. Cũng vì đầu tư vào máy
thổi tự động mà phân xưởng đã dư hơn 200 công nhân lao động. Trong hơn
200 công nhân lao động thì có một số người về hưu và nghỉ việc do không có
khả năng lao động. Năm 1994 đúng năm kỉ niệm 30 năm ngày Bác Hồ về thăm
Công ty, Công ty đã liên doanh với Công ty Tân Á và SEES-MEGA Đài Loan
sản xuất thêm mặt hàng đèn huỳnh quang để đáp ứng nhu cầu thị trường thay
thế hàng nhập khẩu hàng năm từ 10-15 triệu đèn từ các nước trong khu vực
Đông Nam Á và Trung Quốc kỹ thuật sản xuất bóng đèn cũng không hơn
mình. Đèn huỳnh quang nhãn hiệu "Rạng Đông" sản xuất theo tiêu chuẩn quốc
29
tế tương đương với "JIS" của Nhật Bản có tuổi thọ dài đạt từ 7500h trở lên,
quang thông cao, tiết kiệm điện.
- Giai đoạn III (từ năm 1998 đến nay)
Giai đoạn đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị. Thời gian phấn đấu trong
vòng 3 năm, tập trung vào 3 loại: công nghệ bóng đèn tròn, phích nước và bóng
đèn huỳnh quang. Nâng 3 loại này lên trình độ trung bình của khu vực. Ngày
25/8/2000 Công ty đã hoàn thành công trình trong 3 năm đề ra. Kết quả bóng
đèn tròn hiện nay đã xong 3 dây chuyền 2600 cái/giờ trong khi đó cả vùng
Đông Nam Á có 8 dây chuyền thì Việt Nam có 3 dây chuyền. Qua đó có thể
thấy rõ sự phát triển không ngừng của Công ty. Nhưng một số dây chuyền khác
lại tương đối thấp như dây chuyền lắp đèn huỳnh quang ở Việt Nam là 2-2,5
giây/1SP. Trong đó ở Mỹ là 1 giây/1SP. Ở nước ta căn bản có 9 dây chuyền
sản xuất bóng đèn huỳnh quang do đó năng suất cũng tương đối cao. Ngày 25-
8 vừa qua dây chuyền sản xuất phích nước với công nghệ hiện đại đã hoàn
thành và đưa công suất lên rất cao so với trước đạt 3,5 giây/1SP còn công suất
hiện nay đạt được 4,5-5 triệu SP/năm.
Nhìn chung qua ba giai đoạn phát triển Công ty cho đến nay Công ty đã
vươn lên và đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự
tăng trưởng trong 10 năm qua của Công ty nhìn chung có thể khẳng định là sự
tăng trưởng đều đặn liên tục với tốc độ cao. Đó là sự tăng trưởng có hiệu quả,
có chất lượng về sản xuất kinh doanh, về sản phẩm và cả uy tín của Công ty.
Nó còn phản ánh cả chất lượng, trình độ công nghệ của các dây chuyền sản
xuất chủ yếu được từng bước được nâng cao. Đồng thời đó là sự tăng trưởng
bền vững do động lực nội sinh, do nhân tố con người có ý thức tự lực tự cường,
do hiệu quả của sản xuất kinh doanh tạo ra nguồn lực để đầu tư phát triển.
* Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất của Công ty bóng
đèn phích nước Rạng Đông
30
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty là tổng hợp các bộ phận lao
động quản lý khác nhau có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn
hoá và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí thành những
cấp, những khâu khác nhau nhằm đảm bảo các chức năng quản lý và phục vụ
mục đích chung của Công ty.
Hiện nay Công ty bao gồm các phòng ban, phân xưởng sau:
- Văn phòng giám đốc: 11người
- Phòng điều hành sản xuất: 22 người
- Phòng KCS: 22 người
- Phòng bảo vệ: 46 người
- Phòng quản lý kho: 36 người
- Phòng thống kê kế toán: 15 người
- Phòng dịch vụ đời sống: 43 người
- Phòng thị trường: 91 người (Cả 4 chi nhánh)
Các phân xưởng gồm
- Phân xưởng cơ động: 55 người
- Phân xưởng bóng đèn: 375 người
- Phân xưởng phích nước: 368 người
- Phân xưởng thuỷ tinh: 257 người
- Phòng kỹ thuật: 77 người (gồm tổ sản xuất đèn thường, đèn huỳnh
quang, dây dẫn, lắp dáp đèn huỳnh quang Compact)
31
Sơ đồ 1. Cơ cấu cán bộ quản lý chung
Sơ đồ 2. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty.
CBQL
Kinh tế
CBQL ở các cơ quan
chức năng
CBQL kinh doanh
Cán bộ lãnh đạo
Cán bộ chuyên môn
Nhân viên thực hiện
Giám đốc
Phó Giám đốc
hành chính
Phó Giám đốc
kỹ thuật
Phòng thống kê kế
toán
Phòng
kỹ
thuật
KCS
Phòng
quản lý
kho
Các
phân
xưởng
sản
xuất
Phòng
bảo vệ
Phòng
điều
hành
SX
Phòng
dịch vụ
đời
sống
Phòng
thị
trường
Phân
xưởng
bóng
đèn
Phân
xưởng
đột
dập
Phân
xưởng
phích
nước
Phân
xưởng
thủy
tinh
Phân
xưởng
cơ
động
32
* Chức năng nhiệm vụ của bộ máy quản lý trong Công ty
Trong Công ty tuỳ theo trách nhiệm cụ thể mà các phòng ban có các chức
năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng lại phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo
cho hoạt động của Công ty được thông suốt.
- Giám đốc: là người chịu trách nhiệm cao nhất về điều hành sản xuất kinh
doanh tại Công ty, lãnh đạo chung toàn Công ty.
- Hai phó giám đốc: là người có nhiệm vụ giúp giám đốc chỉ đạo trực tiếp
các bộ phận theo sự phân công hoặc uỷ quyền của giám đốc.
- Phòng thống kê kế toán: giúp giám đốc chỉ đạo thực hiện toàn bộ công
tác thống kê kế toán tài chính của Công ty. Thực hiện đúng các chế độ các
quyết định về quản lý vốn và tài sản, các chế độ chính sách khác của nhà nước.
- Phòng kỹ thuật KCS: chịu trách nhiệm phụ trách các qui trình sản xuất
công nghệ đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Phòng quản lý kho: có nhiệm vụ mua sắm cung cấp nguyên vật liệu phục
vụ sản xuất và quản lý sản lượng sản phẩm đầu ra của Công ty.
- Phòng bảo vệ: Có trách nhiệm trong công tác bảo vệ, tự vệ, phòng
chống cháy nổ, giữ gìn an ninh trật tự trong sản xuất kinh doanh.
- Phòng tổ chức điều hành sản xuất: bố trí sắp xếp lao động trong Công ty
về số lượng, trình độ tay nghề từng phòng, ban, phân xưởng, thực hiện chế độ
chính sách của nhà nước về tiền lương, đồng thời theo dõi sự biến động của
thành phẩm và chỉ tiêu số lượng.
- Phòng dịch vụ đời sống: có nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ cho toàn cán bộ
nhân viên và giúp đỡ các phòng ban chăm lo vệ sinh môi trường trong Công ty
và chăm sóc mầm non.
- Phòng thị trường: là nơi trực tiếp giao dịch với khách hàng viết hoá đơn
bán hàng và chịu trách nhiệm về khâu tiêu thụ sản phẩm.
33
* Chức năng, nhiệm vụ của các phân xưởng sản xuất
- Phân xưởng cơ động: cung cấp, thể hơi thể khí, hơi áp lực, điện, máy nổ,
làm tuần hoàn nước... cho các phòng ban và các phân xưởng sản xuất.
- Phân xưởng bóng đèn: có nhiệm vụ sản xuất, lắp ghép các loại bóng đèn
huỳnh quang, bóng đèn tròn các loại từ 25W đến 30W.
- Phân xưởng phích nước: Đột, dập quai vai nắp phích cuốn thản phích.
Nấu, cán nhôm để dập quai vai nắp phích, lắp ráp phích hoàn chỉnh từ bán
thành phẩm ruột phích chuyển qua. Chế tạo ra ruột phích để đưa sang phân
xưởng dột dập lắp thành phích hoàn chỉnh.
- Phân xưởng thuỷ tinh: nhiệm vụ là sản xuất các loại bán thành phẩm vỏ
bóng đèn tròn, ống đèn huỳnh quang, bình phích và vỏ thuỷ tinh.
Về trình độ công nghệ thì tất cả các qui trình sản xuất đề tương đối hiện
đại. Dưới đây là một qui trính công nghệ sản xuất bóng đèn huỳnh quang hiện
đại bậc nhất ở Việt Nam đang được sử dụng tại Công ty.
34
Sơ đồ 3. Quy trình sản xuất đèn huỳnh quang
Ống loa
Máy làm trụ số 1
Máy làm loa
Loa thành phẩm
Máy làm trụ số 2
Ống rút khí
Dây dẫn
Trụ thành phẩm số 1
Trụ thành phẩm số 2
Dây tóc
Quệt keo Đầu đèn
ống huỳnh quang
Tạo dạng
Rửa
Tráng bột huỳnh
quang
Ruột khí
Vít miệng
Gắn đầu
Luyện nghiệm
Bảo ôn
Đóng gói
Sản phẩm
hoàn chỉnh
35
2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến tiêu thụ
sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông
2.1. Phương hướng và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hiện nay và
những năm tiếp theo của Công ty
Trong những năm tiếp theo Công ty đã xác định cho mình một phương
hướng nhiệm vụ rõ ràng để có được bước đi vững vàng và phù hợp với bối
cảnh thị trường có nhiều biến động. Nhất là đến năm 2006 AFTA sẽ áp dụng
đối với tất cả các nước ASEAN khi đó sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng và
cả nước ta nói chung sẽ gặp không ít khó khăn do phải cạnh tranh với các sản
phẩm của các công ty trong khu vực ASEAN và các nước trên thế giới.
Biểu 1. Qui mô sản xuất kinh doanh của Công ty
Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
1. Giá trị tổng sản lượng 112.374 167.077 217.912
2. Doanh thu (tr.đ) 108.805 140.010 184.818
3. Nộp ngân sách (tr.đ) 9.083 13.745 19.700
4. Lao động (người) 1.292 1.298 1.460
5. Thu nhập BQ/tháng/người
1000đ
1.761 1.733 1.952
6. Lợi nhuận thực hiện (tr.đ) 9.763 10.934 14.531
7. Tổng tài sản
Để vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới. Đại hội Đảng bộ Công ty, hội
nghị đại biểu công nhân viên chức và Đại hội công đoàn Công ty đã tập hợp trí
36
tuệ, đông đảo CNVC đã đề ra các nghị quyết và định hướng chiến lược phát
triển đến năm 2005 và các đề án xây dựng đội ngũ nhằm đáp ứng tình hình mới
cụ thể là:
- Phát triển và nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm hiện có.
- Đa dạng hoá các loại sản phẩm (kể cả việc tự cung cấp các loại bán
thành phẩm hiện nay đang nhập ngoại) phát triển các loại đèn mới, các chao
chụp thiết bị chiếu sáng.
- Mở rộng qui mô Công ty, nâng cấp và đổi mới cơ chế quản lý Công ty.
- Phấn đấu đạt bằng được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh hiện tại
để có nguồn tích luỹ từ đầu tư, chuẩn bị vững chắc cho mở rộng phát triển công
ty đồng thời thực hiện thắng lợi mục tiêu trước mắt.
- Trong các chiến lược bộ phận, chiến lược quan trọng nhất là cần phải
triển khai thực hiện sớm, chiến lược con người, cần tập trung đánh giá thực
trạng và điểm xuất phát của Công ty để bước vào thời kỳ mới.
Trong những tháng đầu năm 2000 Công ty đã và sẽ tiếp tục chủ động mua
sắm, nâng cấp dần các dây chuyền sản xuất hiện đại của các nước bạn thay thế
lao động thủ công trước đây. Bên cạnh đó xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, đào
tạo bồi dưỡng cán bộ công nhân viên trong biên chế thông qua các lớp đào tạo
ngắn hạn để họ có thể đáp ứng yêu cầu của khoa học kỹ thuật công nghệ mới,
cách quản lý mới. Công ty đã chủ động đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường mở
rộng thị trường cả trong và ngoài nước, lấy thị trường tiêu thụ để làm mục tiêu
sản xuất để từ đó có điều kiện làm lợi cho nhà nước, tăng dần lợi nhuận và
nâng cao thu nhập cho người lao động.
2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Máy móc thiết bị là một trong những yếu tố quan trọng trong dây chuyền
công nghệ, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất và chất lượng sản
37
phẩm. Theo thiết kế ban đầu nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông do
nước bạn (Trung Quốc) giúp đỡ chỉ sản xuất một ca với máy móc thiết bị lạc
hậu chủ yếu vẫn là thủ công, nhận thấy được tầm quan trọng của máy móc thiết
bị, lãnh đạo Công ty đã dần dần từng bước kiện toàn tất cả hệ thống trang thiết
bị từ lò ga đến bể chứa 300m3 việc cung cấp hơi, gió điện, nước trên cơ sở vận
hành với độ tin cậy cao của thiết bị, cùng với thành phần khí ga ngày càng duy
trì.
Biểu 2. Một số công trình tiêu biểu của Công ty các năm qua
Lĩnh vực sản
xuất
Giai đoạn
thực hiện
Công trình kỹ thuật tiêu biểu
Thuỷ tinh 1977-1979 1. Nấu thuỷ tinh bằng là bể đốt dầu và đốt hơi
than thay cho lò nồi bán khí
1982 2. Băng hấp bình phích dùng bức xạ nhiệt
1991-1993 3. Thiết kế các lò thuỷ tinh đốt bằng hơi than,
hiệu suất khai thác cao, chất lượng ổn định.
1995 4. Đầu tư máy thổi vỏ bóng tự động 18 đầu
khuôn
Cơ động 1976-1980 1. Chế tạo lò GAZ theo kiểu Đức 350m3 giờ
thay thế lò GAZ 60m3 giờ của Trung Quốc
1986-1988 2. Cải tiến van thải không lò GAS
1988 3. Đưa nguồn nước Hạ Đình về bề 300m3
38
1992-1993 4. Cải tiến công nghệ vận hành lò GAZ đảm
bảo tuổi thọ của lò, tiết kiệm than, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng GAZ cao.
Đột dập 1986-1987 1. Cuốn thân phích bằng thép lá tráng thiếc
intipô phích có quai xách
1992-1993 2. Tự đúc cán nhôm, cải tạo hệ thống khuôn
mẫu dập phụ tùng phích bằng nhôm dày
0,6mm. Thực hiện sử dụng nhóm tiết kiệm
còn 181 kg/1000 SP.
Bóng đèn 1976 1. Cơ giới hoá khâu sản xuất đèn ôtô nâng
công suất đèn ôtô lên 1 triệu cái/năm
1978 2. Đưa dây tóc xoăn khép vào sản xuất bóng
đèn thường thay cho xoắn đơn là bước nhảy
vọt về chất lượng bóng đèn.
1979 3. Chế tạo đưa vào sản xuất đen thường 3
bằng dây chuyền
1896-1989 4. Thực hiện đề tài nâng cao chất lượng bóng
đèn về tuổi thọ, về keo gắn đầu, về bao bì.
1992-1994 5. Chế tạo mới máy vít miệng cho dây chuyền
đèn thường số 3 (1992)
6. Chế tạo đưa vào sản xuất dây chuyền đèn
39
thường số 4 (1993-1994)
7. Thực hiện cuộc cách mạng về bao bì cho
bóng đèn (1992-1993)
8. Củng cố thiết bị phụ tùng ổn định chất
lượng bóng đèn trong sử dụng và giảm chi phí
vật tư hệ số vỏ bóng 1993, hệ số dây dẫn 1,19
hệ số dây tóc 1,183.
9. Đầu tư các dây chuyền lắp ghép bóng đèn
mới công suất 1200 cái/h với máy vít miệng
24, đầu máy rút khí 36 đầu và máy gắn đầu
đèn, hàn thiếc và thông điện liên hoàn tự động
(1994-1995).
Phích nước 1979 1. Rút khí phích trên máy bàn tròn của Nhật
Bản
1984-1985 2. Công nghệ trang trí vỏ phích với khắc hoạ
bản giấy sơn mau khô Ankyd Melamin.
1982 3. Thực hiện đề tài nghiên cứu nâng cao chất
lượng ruột phích nóng đưa băng ủ miệng
phích vào sản xuất thay cho ủ rơm.
1986 4. Thực hiện đề tài thu hồi Ag NC3
5. Đưa vỏ phích intipơ vào sản xuất thay cho
phun sơn - vỏ phích có quai xách, nâng cao
một bước chất lượng vỏ phích.
1992 6. Đưa vào sản xuất vỏ phích in vân đá
1993 7. Thực hiện cải tiến công nghệ, giảm định
40
mức sử dụng AgNC3 xuống còn 0,378
kg/1000SP. Thực hiện cuộc cách mạng bao
bì.
Để theo kịp với tiến trình phát triển chung của khu vực và trên thế giới
cùng cả nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Công ty đã và
đang xây dựng cho mình một chương trình đầu tư phát triển bao gồm lắp đặt
các dây chuyền công nghệ hiện đại trong năm 2000 và tiếp tục hoàn thiện nâng
cấp thêm các dây chuyền công nghệ cụ thể:
- Lắp đặt dây chuyền sản xuất ruột phích mới 25/8/2000
- Lắp đặt dây chuyền lắp ghép đèn huỳnh quang 2 kế hoạch 7/11/2000
hoàn thành.
- Lắp đặt dây chuyền lắp ghép đèn thường 2600 cái/h số 3 hoàn thành
15/8/2000.
- Lắp đặt dây chuyền sản xuất dầu đèn 1/7/2000 hoàn thành.
- Lắp đặt dây chuyền lắp ghép đèn huỳnh quang compact kế hoạch
1/10/2000 hoàn thành
- Hoàn thiện dây chuyền đèn mầu, đèn nhỏ G40, C7 hoàn thành
15/6/2000.
Nhìn chung so với mặt bằng máy móc thiết bị của nước ta hiện nay thì
máy móc trang thiết bị của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông ở mức độ
hiện đại không thua kém gì nước bạn. Điều này được thể hiện rất rõ trong thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
2.3. Nguồn cung ứng nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hoá.
41
Nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một quá trình sản xuất kinh doanh hay một
chu kỳ sản xuất nhất định và toàn bộ giá trị nguyên vật liệu được chuyển vào
chi phí kinh doanh trong kì.
Để có thể sản xuất ra được các loại bóng đèn tròn, phích nước, đèn huỳnh
quang và một số sản phẩm phụ khác cung cấp cho thị trường, Công ty bóng
đèn phích nước Rạng Đông phải sử dụng rất nhiều loại nguyên vật liệu khác
nhau như Ag NC3, sơn mau khô, Ankyd Mêlomin, nhôm, thép lá trong thiếc
intipô, thuỷ tinh (tự sản xuất hay nhập trong nước)... Nhưng những vật tư
chính, quyết định đến chất lượng sản phẩm như dây tóc, dây dẫn, bột huỳnh
quang, bột điện tử, khí Argon, Silicon cho keo gắn đầu đèn, dùng thuỷ tinh
chì... nhập từ các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Tiệp Khắc...
Do vậy mà người cung cấp vật liệu rất phong phú, đa dạng. Điều này có
những hạn chế nhất định trong định mức sản xuất của Công ty. Tất cả các
nguyên vật liệu sau khi nhập, mua đều được khảo nghiệm phù hợp với tiêu
chuẩn kỹ thuật.
Biểu 3: Một số nguyên liệu nhập khẩu
STT Tên nguyên vật liệu Chủng loại Đơn vị cung ứng
1 Kim loại màu Nhôm, đồng Công ty khí cụ điện
2 Kim loại đen Sắt thép VINAKIP
3 Các loại hoá chất Bột huỳnh quang, bột
điện tử, khí Argon
Nhật, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Hungari
4 Keo gắn Silicon
5 Bao bì Bìa caton Công ty Tân Trung
42
Việt
2.4. Lao động
Đi đôi với việc quản lý và sử dụng các biện pháp kinh doanh sản xuất có
hiệu quả là yếu tố lao động. Lao động là một trong những yếu tố đầu vào giữ
một vai trò rất quan trọng trong bất kỳ một doanh nghiệp nào, bởi nó là nguồn
lực của mọi nguồn lực. Sử dụng hợp lý lao động sẽ cho ta một kết quả tốt nhất
trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Hành lang của công ty bước vào cơ chế mới
là một di sản nặng nề của cơ chế bao cấp đó là một bộ máy cồng kềnh, kém
hiệu lực, trì trệ, một đội ngũ lao động đông đảo song thiếu động lực để thích
ứng và năng động. Biện pháp đột phá lớn nhất là tiền để cho sự phát triển lớn
mạnh của Công ty như ngày nay là trực tiếp tác động đến tâm tư tình cảm, đời
sống của cả đội ngũ lao động của nhà máy hơn 30 năm tuổi. Công ty đã tiến
hành công việc khó khăn đó một cách thận trọng, tương đối dân chủ và khách
quan giải quyết hài hoà quyền lợi của người ở, người về, làm tốt tư tưởng và
đặc biệt nhờ sự gương mẫu đầu tầu của nhiều cán bộ đảng viên.
Ngày nay Công ty đã có một lực lượng lao động hùng hậu với hơn một
ngàn lao động có tay nghề cao, ổn định và đặc biệt trong cơ cấu lao động của
Công ty ngày càng có nhiều người có trình độ học vấn cao. Ngoài biện pháp
nâng cao tay nghề Công ty còn tuyển thêm một số lao động và đặc biệt thông
qua các phong trào thi đua mà đội ngũ công nhân viên đã từng bước nâng cao
một cách đáng kể. Cụ thể có khoảng trên 300 lượt người được suy tôn danh
hiệu "Lao động giỏi" tiêu biểu như các chú Đỗ Tiến Trang, Trần Đức Sơn,
Trần Đức Trí, Trần Văn Hạnh... là những lao động dẫn đầu về năng suất lao
động ở phân xưởng thuỷ tinh. Chú Phạm Minh Tân là thợ cơ khí tài hoa, chú
Nguyễn Đăng Trung là tổ trưởng quản lý giỏi của phân xưởng bóng đèn. Chú
Nguyễn Hữu Khoan và Phạm Minh Toán là những tấm gương tận tuỵ bám
43
máy, bám lò ở phân xưởng cơ động... Từ đội ngũ, phong trào trên mà trong
những năm qua Công ty đã có hàng trăm sáng kiến cỉa tiến kỹ thuật (58 sáng
kiến năm 1954) làm lợi cho Công ty hàng tỷ đồng.
44
Biểu 4: Số lượng cán bộ công nhân viên của Công ty đến 4/9/2000
Chỉ tiêu 1999 2000 Tuyệt đối Tỉ lệ
Tổng số lao động 1.298 1160 + 162 1,124%
Trong đó
1. Phân theo trình độ
Trên đại học 24 29 +5 1,208%
Đại học 59 62 +3 1,050%
Cao đẳng 69 76 +7 1,101%
Trung cấp 91 97 +6 1,065%
Công nhân kĩ thuật 1056 1197 +141 1,133%
2. Phân theo đối tượng
Lao động gián tiếp 222 256 +34 1,153%
Lao động trực tiếp 0176 1204 +128 1,118%
3. Phân theo cơ cấu
Lao động nam 794 879 +85 1,107%
Lao động nữ 504 581 +77 1,152%
Qua bảng trên ta thấy giữa năm 1999 và 2000 số lao động tăng lên 162
người trong đó có 21 người làm hành chính và 141 người là công nhân kỹ
thuật. Do xu hướng những năm gần đây Công ty đang mở rộng phạm vi sản
xuất các loại phụ kiện đi kèm các loại sản phẩm chính như máng đèn huỳnh
45
quang, đui đèn, các loại đèn màu trang trí... vì vậy mở ra cơ hội việc làm và thu
hút một số công nhân từ các bộ phận sản xuất khác do lắp đặt máy móc, dây
chuyền sản xuất tự động làm dư thừa. Ngoài ra còn thiếu thì bổ xung lao động
bên ngoài. Nói chung qua 2 năm 1999, 2000 lao động của Công ty tương đối
ổn định. Bậc thợ của Công ty trung bình năm 99 là 4,7/7 năm 200 là 4,85/7.
Điều này có nghĩa là hàng năm trình độ tay nghề của công nhân được nâng cao
hơn ngoài ra Công ty còn thường xuyên có 2 chuyên gia Trung Quốc cố vấn.
2.5. Tài chính
Vốn sản xuất trong doanh nghiệp là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu
sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào việc
sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch của doanh nghiệp. Vốn là nhân tố đầu
vào không thể thiếu của doanh nghiệp và bản thân nó là kết quả đầu ra của hoạt
động sản xuất kinh doanh. Trước kia các yếu tố đầu vào do các đơn vị nhà
nước cấp phát. Ngày nay trong cơ chế thị trường thì việc mua sắm xây dựng
hay lắp đặt các dây chuyền sản xuất, mở rộng qui mô sản xuất thì nhất thiết
phải có vốn. Vốn dùng để đầu tư trang thiết bị máy móc, vốn chuyển giao công
nghệ, vốn lưu động để chi phí tiền lương, vật tư... và các chi phí khác.
Theo bản thống kê số liệu về quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của
Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông (ngày 4/9/2000) ta có tình hình tăng
giảm nguồn vốn của Công ty như sau:
Biểu 5: Một số chỉ tiêu về vốn kinh doanh
Chỉ tiêu ĐVT 1995 1996 So
1995
(%)
1999
7
So
1996
(%)
1998 So
1997
(%)
1999 So
1998
(%)
2000 So
1999
(%)
Nguồn vốn
46
- Kinh
doanh
Tr.đ 1733
1
2000
7
115 3410
9
170 3474
6
101 3764
9
108 43510 115
- Vốn NS
cấp
Tr.đ 1205
6
1189
9
98 2476
5
208 2481
0
100,1 2481
0
100 24810 100
- Vốn tự bổ
sung
5275 8108 153 9344 115 9936 106 1370
9
137 18690 136
Như vậy qua bảng số liệu ta thấy rằng trong 3 năm 95, 96, 97 thì nguồn
vốn kinh doanh của Công ty tăng lần lượt là 1,15 và 1,97 so với (95), năm
1998, 1999, 2000 nguồn vốn của Công ty tăng lần lượt là 1,08 và 1,25 so với
năm 1998 và trong 2 năm tốc độ tăng lên là 17%. Nếu đi sâu phân tích ta thấy
vốn ngân sách cấp năm 97 so với 95 tăng 2,05 lần nguồn vốn tự bổ sung tăng
lên 97 so 95 là 1,77 lần.
Trong 3 năm gần đây 1998, 1999, 2000 thì vốn ngân sách cấp hoàn toàn
không tăng ở mức là 24819 (triệu đồng). Như vậy tăng 100% trong cơ cấu
nguồn vốn kinh doanh hay nói cách khác là trong 3 năm trở lại dây nguồn vốn
kinh doanh tăng lên chính là do tăng nguồn vốn tự bổ sung của Công ty chủ
yếu là do Công ty làm ăn có lãi và hiệu quả.
II. Phân tích thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng
đèn phích nước Rạng Đông
1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất năm 2000
Trong năm 2000 vừa qua Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông có nỗ
lực trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất, hầu hết các chỉ tiêu đều vượt so với
kế hoạch đặt ra và nộp ngân sách tăng 5.700.000.000 đ so với kế hoạch.
Biểu 6: Thực hiện kế hoạch sản xuất năm 2000
STT Chỉ tiêu ĐVT Kế hoạch
2000
Thực hiện
2000
% so với
kế hoạch
47
1 Giá trị tổng sản
lượng
(tr.đ) 179.000 217.912 121,74
2 Doanh số tiêu thụ (tr.đ) 159.500 203.300 127,46
3 Sản phẩm chủ yếu
- Bóng đèn tròn 25.500 29.000 113,37
- Sản xuất phích 2.500 3159 122,6
Trđ phích H'chỉnh 2.200 2.515 114,13
- Bóng đèn H'quang 5.250 7.158 133,33
4 Nộp ngân sách 14.000 19.700 138,33
5 Lao động 1350 1464
6 Thu nhập
BQ/tháng/người
1.780 1.952
7 Lợi nhuận thực hiện 11.000 13.500 122,7
2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chủ yếu
năm 2000 tại Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông
Biểu 7: Một số sản phẩm chủ yếu năm 2000
Tên sản
phẩm
ĐVT
(SP)
Tồn đầu
kỳ
Sản xuất
trong kỳ
Tiêu thụ
trong kỳ
Tồn cuối
kỳ
Tiêu thụ
năm
1999
So sánh
(%)
Đèn tròn 1000 1.500 30.765 29.600 2665 23.063 128,3
Đèn
H'quang
1000 650 7.000 6.850 800 4.827 141,9
Phích
48
nước
- Phích
hoàn chỉnh
1000 120 2450 2400 170 1806 132,9
- Ruột
phích
1000 10 800 785 25 695 12,9
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty được lập ra cho các sản phẩm
chính: bóng đèn tròn, bóng đèn huỳnh quang, phích nước trong đó có phích
hoàn chỉnh và ruột phích.
- Cột số lượng tiêu thụ năm 1999 được tập hợp từ "sổ chi tiết tiêu thụ"
năm 1999 của Công ty.
- Cột số lượng tiêu thụ trong kỳ được lập căn cứ vào các hợp đồng kinh tế
đã kí kết và căn cứ vào nhu cầu thị trường làm kế hoạch.
- Cột số lượng sản xuất trong kỳ được dựa vào kế hoạch tiêu thụ trong
năm, dựa vào số dự đoán về dư đầu kỳ và nhu cầu đột xuất của khách hàng.
- Cột số lượng tồn cuối kỳ được tính bằng cách lấy số lượng sản xuất
trong kỳ trừ đi cột số lượng tiêu thụ trong kỳ và cộng tiếp với tồn đầu kỳ. Kế
hoạch tiêu thụ hàn quí được lập đơn giản hơn vì trong các kế hoạch không có
so sánh thực tế cùng quí của năm 1999.
Dưới đây là biểu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm dành cho quí IV năm 2000.
Biểu 8: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm theo quý/tháng
Tên sản
phẩm
Tồn đầu kỳ
(1000 SP)
Sản xuất
trong kỳ
(1000
Tiêu thụ
trong kỳ
(1000
Tồn cuối
kỳ (1000
SP)
Tháng 10
(1000
SP)
Tháng 11
(1000 SP)
Tháng 12
(1000 SP)
Đơn giá
KH (đồng)
49
SP) SP)
Đèn tròn 450 9050 9060 440 2900 3060 3100 2100
Đèn H'quang 230 2270 2190 310 620 700 870 7000
Phích nước
- Phích hoàn
chỉnh
45 800 730 115 230 230 270 27500
- Ruột phích 5 245 240 10 80 80 80 14.400
Việc lập kế hoạch của Công ty nhìn chung là thích hợp với đặc điểm tiêu
thụ sản phẩm của Công ty. Trong năm 2000 số lượng hàng hoá dự kiến tiêu thụ
đã tăng lên hẳn so với số lượng tiêu thụ được năm 1999.
Về số lượng tiêu thụ: số lượng dự kiến tiêu thụ năm 2000 tăng lên ở hầu
hết các mặt hàng so với năm 1999.
- Xét về bóng đèn tròn các loại: dự kiến năm 2000 sẽ tiêu thụ 29.600.000
chiếc tăng lên 6.537.000 sản phẩm so với thực hiện năm 1999 tức tỉ lệ tăng lên
là 28,34%.
- Xét về bóng đèn huỳnh quang: kế hoạch năm 2000 là sẽ tiêu thụ
6.850.000 sản phẩm đèn huỳnh quang. Số lượng này dự kiến sẽ vượt năm 1999
là 2.023.000 sản phẩm đèn huỳnh quang tức là tăng lên 41,9%. Đây là một tỉ lệ
tăng rất cao.
- Xét về phích hoàn chỉnh: năm 2000 dự kiến sẽ tiêu thụ 2.400.000 sản
phẩm phích hoàn chỉnh. So với thực hiện năm 1999 là 1.806.000 sản phẩm thì
tăng lên là 594.000 sản phẩm. Tức là tăng lên 32,9% so với năm 1999.
- Về ruột phích: số lượng ruột phích tiêu thụ mỗi năm thường không nhiều
lắm. Năm 1999 lượng ruột phích tiêu thụ là 695.000 sản phẩm mà năm 2000 sẽ
tiêu thụ được 785.000 sản phẩm ruột phích tăng 90.000 ruột phích tức là tăng
12,94%.
50
Kế hoạch năm 2000 dự tính tiêu thụ mạnh là sản phẩm đèn huỳnh quang.
Do yêu cầu từ phía thị trường, người tiêu dùng hiện nay để sử dụng thắp sáng
trong nhà, họ ưa chuộng đèn huỳnh quang hơn vì ánh sáng dịu. Hơn nữa dây
chuyền sản xuất đèn huỳnh quang của Công ty lại là một dây chuyền hiện đại
bậc nhất của Việt Nam tạo điều kiện nâng cao chất lượng, giảm chi phí sản
xuất sản phẩm. Đó cũng là một thế mạnh của Công ty.
3. Phân tích tình hình tiêu thụ theo khu vực thị trường
51
Biểu 9: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty ở một số khu vực thị
trường
Tên sản phẩm Đơn vị tính Năm 2000
1. Thị trường tại Hà Nội
- Bóng đèn tròn Sản phẩm 17.775.475
- Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 3.950.117
- Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 1.023.436
- Ruột phích Sản phẩm 444.800
2. Thị trường tại Nam Định
- Bóng đèn tròn Sản phẩm 1.232.000
- Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 37.325
- Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 64.433
- Ruột phích Sản phẩm 293.500
3. Thị trường tại Nghệ An
- Bóng đèn tròn Sản phẩm 170.750
- Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 9.375
- Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 20.387
- Ruột phích Sản phẩm 19.625
4. Thị trường tại Hải Phòng
- Bóng đèn tròn Sản phẩm 1.170.650
- Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 36.050
- Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 29.365
- Ruột phích Sản phẩm 455.750
52
5. Thị trường tại TP Hồ Chí Minh
- Bóng đèn tròn Sản phẩm 863.600
- Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 103.275
- Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 638.718
- Ruột phích Sản phẩm 489.500
Nhìn vào tình hình các vùng thị trường của Công ty bóng đèn phích nước
Rạng Đông ta thấy thị phầm chiếm tỉ trọng lớn nhất đó là thị trường Hà Nội.
Thị trường Hà Nội chiếm một lượng 17.775.000 bóng đèn tròn, 444.800 ruột
phích, 1.023.436 phích hoàn chỉnh và đèn huỳnh quang chiếm 3.950.117 sản
phẩm. Còn tại các thị trường khác như thị trường Nghệ An, thị trường thành
phố Hồ Chí Minh tình hình tiêu thụ cũng gặp không ít trở ngại. Tại các khu vực
này lượng sản phẩm tiêu thụ không được mạnh mẽ như các thị trường khác. Đó
là yếu tố hoàn toàn bất lợi của Công ty. Cũng là do sự cạnh tranh gay gắt của
sản phẩm do Công ty bóng đèn điện quang Hồ Chí Minh sản xuất và sản phẩm
của các công ty tư nhân khác. Đồng thời do khoảng cách địa lý cũng tương đối
xa xôi, nên việc vận chuyển sản phẩm, nhất là những sản phẩm thuỷ tinh thực
sự không dễ dàng gì. Mà trong năm 2000 do thiên tai lũ lụt kéo dài nên đã gây
khó khăn cho việc vận chuyển sản phẩm thông suốt cả nước. Do vậy để mở
rộng hơn nữa các thị trường ở miền Nam, miền Trung vẫn là vấn đề cần giải
quyết của công ty.
4. Phân tích tình hình thực hiện tiêu thụ sản phẩm
Trong năm 2000 sản phẩm của Công ty đã được tiêu thụ rất mạnh mẽ.
Điểm đáng lưu ý là cho đến tháng 11, tháng 12 năm 2000 Công ty lại sản xuất
sản phẩm máng đèn huỳnh quang và đèn huỳnh quang compact và là lần đầu
tiên đưa ra thị trường.
53
Biểu 10: Tình hình thực hiện tiêu thụ sản phẩm năm 2000
Thực hiện tiêu thụ sản phẩm năm 2000
Tên sản phẩm Tồn đầu kỳ
(1000 SP)
Sản xuất
trong kỳ
(1000 SP)
Tiêu thụ
trong kỳ
(1000 SP)
Tồn cuối
kỳ (1000
SP)
Đơn giá
bình quân
(đồng)
Doanh thu
tiêu thụ
năm 2000
(tr.đ)
Số lượng
tiêu thụ
năm 1999
(1000 SP)
Đèn tròn 1.442 29.000 27.638 2.804 1.953 53.973 23.063
Đèn H'quang 742 7.158 7.285 615 6.849 49.895 4.827
Phích nước
- Phích hoàn
chỉnh
125 2.515 2.542 98 27.070 68.813 1.806
- Ruột phích 0 828 812 16 14.239 11.562 695
Máng đèn
H'quang
51,255 51,128 0,127 6122 313
Đèn huỳnh
quang
Compact
32 11 21 39.363 433
Cộng 184.989
Năm 2000 với nỗ lực phấn đấu trong công tác tiêu thụ sản phẩm, tổ chức
việc bán hàng, sử dụng đòn bẩy tài chính.... Công ty đã đạt những kết quả sau:
Bóng đèn tròn của Công ty đã tiêu thụ trong năm là 27.638.000 sản phẩm
với đơn giá bình quân là 1953 đ/SP đạt doanh thu 53.975 triệu đồng. Nếu đem
ra so sánh với tình hình thực hiện năm 1999 thì đều tăng lên cả sản lượng lẫn
doanh thu. Sản lượng tăng 4.575.000 sản phẩm tức là tăng 19,83% so với năm
1999. Đây là việc cố gắng của Công ty.
Về bóng đèn đèn huỳnh quang, sản lượng tiêu thụ năm 2000 là 7.285.000
sản phẩm tăng so với năm 1999 (tiêu thụ đạt 4.827.000 sản phẩm) là 2.458.000
sản phẩm. Một tỉ lệ tăng rất cao 50,92% so với năm 1999. Với tỉ lệ tăng như
vậy nên doanh thu cũng tăng từ năm 1999 là 34.453 lên đến 49.895 triệu đồng
tức là tăng 15.442 triệu đồng về số tương đối tăng lên là 44,82% so với năm
54
1999.
Về sản phẩm phích hoàn chỉnh. Sản lượng tiêu thụ năm 1999 là 1.806.000
sản phẩm thì đến năm 2000, tiêu thụ được 2.542.000 sản phẩm và doanh thu
tăng so với năm 1999 từ 49.289 triệu đồng đến 68.813 triệu đồng. Tức là tăng
19.524 triệu đồng về số tương đối và 39,61%.
- Sản phẩm ruột phích về số lượng cũng tăng. Năm 1999 tiêu thụ được
695.000 sản phẩm thì đến năm 2000 tiêu thụ được 812.000 sản phẩm tăng
117.000 sản phẩm tức là tỉ lệ tăng là 15,2% so với năm 1999.
Với tình hình tiêu thụ năm 2000 như vậy Công ty đã đạt được những kết
quả tương đối tốt. Các sản phẩm đều có sự tăng trưởng cả về số lượng lẫn
doanh thu trên từng sản phẩm tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có khác nhau.
Tăng nhanh và mạnh hơn cả là bóng đèn huỳnh quang, sau đó là phích
nước hoàn chỉnh. Bóng đèn tròn các loại cũng tăng nhưng với tốc độ chậm hơn
so với các sản phẩm khác. Để xem xét tình hình cụ thể ta đi xem xét tình hình
tiêu thụ sản phẩm của Công ty qua các quí.
Biểu 11: Tình hình tiêu thụ sản phẩm chủ yếu qua các quí năm 2000
Quý I Quý II Quý III Quý IV Tên sản
phẩm
Số lượng
(1000
SP)
Đơn giá
BQ
(đồng)
Số lượng
(1000
SP)
Đơn giá
BQ
(đồng)
Số lượng
(1000
SP)
Đơn giá
BQ
(đồng)
Số lượng
(1000
SP)
Đơn giá
BQ
(đồng)
Đèn tròn 8052 1985 5957 1975 5160 1934 8469 1917
Đèn HQ 1850 7029 1581 6.991 1622 6845 2232 6601
55
Phích
nước
- Phích
HC
802 27119 467 26925 429 27181 844 27047
- Ruột
phích
277 14498 154 14305 126 14071 255 14000
Máng
đèn HQ
51,128 6122
Đèn HQ
compact
11 39363
Quí I đầu năm 2000 sản phẩm được bán ra với một số lượng đáng kể gồm
8.052.000 sản phẩm đèn tròn các loại, 1.850.000 đèn huỳnh quang, 802.000
sản phẩm phích hoàn chỉnh và 277.000 sản phẩm ruột phích. Vào thời điểm
này tiết trời đang là mùa xuân vẫn còn lạnh, nám nên nhu cầu về các sản phẩm
của Công ty còn tương đối cao. Nước ta lại chủ yếu là nước nông nghiệp vào
các tháng 1, 2, 3 đang là những ngày nông nhàn nên dân thường hay đi mua
sắm, do vậy thời kỳ này công tác tiêu thụ sản phẩm đang ở chiều hướng có
thuận lợi.
Cho đến quí II và quí III, lượng sản phẩm đã bắt đầu giảm xuống. Bóng
đèn tròn quí II chỉ tiêu thụ được 5.957.000 sản phẩm đến quí III giảm xuống
5.160.000 sản phẩm. Về sản phẩm phích hoàn chỉnh quí II tiêu thụ được
467.000 sản phẩm, quí III lại giảm xuống 429.000 sản phẩm còn ruột phích thì
giảm mạnh quí II tiêu thụ được 154.000 sản phẩm, quí III tiêu thụ 126.000 sản
phẩm. Vì vào các quí này thời tiết bắt đầu trở lên nóng, nhu cầu giữ nóng nước
cũng giảm xuống. Hơn nữa đây là mùa mưa vì vậy ngành xây dựng cũng hẹp
lại. Sự thu hẹp này cũng ảnh hưởng không ít tới nhu cầu về sản phẩm của Công
ty.
Vào hai quí II, quí III sản phẩm đã giảm rõ rệt so với quí I. Nhưng sang
56
quí IV thì sản phẩm của Công ty lại trội dậy và đẩy ra rất nhanh. Bóng đèn tròn
lên đến 8.469.000 sản phẩm, đèn huỳnh quang 2.232.000 sản phẩm, phích
hoàn chỉnh 844.000 sản phẩm và ruột phích 255.000 sản phẩm, đó là đặc điểm
của sản phẩm tạo nên, trong quí IV là thời gian giáp tết nên sức mua mạnh,
lượng hàng bán ra được nhiều hơn. Để phục vụ cho tết cổ truyền các gia đình
đều thực hiện việc trang trí nhà cửa nên việc mua các sản phẩm của Công ty
được diễn ra liên tục thậm chí không những trang trí, họ còn mua dự phòng để
trong dịp tết nếu dùng lâu bị hỏng cũng có đồ để thay thế.
Tình hình tiêu thụ sản phẩm như vậy là do đặc điểm sản phẩm của Công
ty có tính chất thời vụ nên điều hđó đã chi phối việc tiêu thụ các sản phẩm của
Công ty.
Để có được kết quả về công tác tiêu thụ sản phẩm như vậy, Công ty đã
phải rất nỗ lực trong việc giữ và mở rộng thị trường, tìm các thị trường tiềm
năng để khơi dậy nhằm tăng khối lượng sản phẩm bán ra. Đến nay thì thị
trường của Công ty khá rộng phủ kín cả nước nhưng trên cùng một thị trường
đều phải đấu tranh với các sản phẩm cùng loại do Công ty, đơn vị khác sản
xuất việc cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh như chất lượng giá cả... Việc
cạnh tranh này diễn ra rất quyết liệt đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh luôn hạ
giá nhằm chiếm lĩnh thị trường.
5. Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ sản phẩm
5.1. Thuận lợi
Thứ nhất: nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của Công ty là khá rộng rãi. Vì
những sản phẩm của Công ty là vật dụng thường xuyên trong gia đình nên
lượng cầu về sản phẩm của Công ty là lớn. Bên cạnh đó sản phẩm của Công ty
sản xuất ra có chất lượng tốt, được qua các khâu kiểm tra chặt chẽ nên đáp ứng
được yêu cầu của người tiêu dùng.
57
Thứ hai: Về mặt công nghệ sản xuất các dây chuyền sản xuất của Công ty
hiện đại, như dây chuyền sản xuất đèn huỳnh quang là một trong những dây
chuyền hiện đại bậc nhất tại Việt Nam.
Thứ ba: Công ty có đội ngũ công nhân tay nghề cao, có bề dày kinh
nghiệm nhiều năm sản xuất, có trách nhiệm và nhiệt tình trong công việc. Đặc
biệt là họ gắn bó với Công ty nên tạo ra một khối đoàn kết, một bầu không khí
thoải mái trong công việc, thuận lợi cho sản xuất.
Thứ tư: Một yếu tố quan trọng là Công ty có uy tín trong kinh doanh sau
nhiều năm hoạt động Công ty thiết lập được một đội ngũ bạn hàng đáng tin
cậy, gắn bó với Công ty trong nhiều năm.
5.2. Khó khăn
Thứ nhất: Khó khăn trước hết là sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Để
có chỗ đứng vững Công ty luôn phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh.
Về bóng đèn có Công ty bóng đèn điện quang thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một đối thủ lớn của Công ty vì Công ty bóng đèn điện quang Hồ Chí
Minh cũng là một doanh nghiệp có những điều kiện về công nghệ về kinh
doanh, về chất lượng sản phẩm tương đối. Bên cạnh đó còn có các đối thủ khác
như Công ty liên doanh Đông Á cũng sản xuất bóng đèn huỳnh quang. Công ty
tư nhân sản xuất bóng đèn Đại quang thành phố Hồ Chí Minh và các sản phẩm
nhập ngoại của Philippin, Đức, Trung Quốc.
Về phích nước Công ty phải cạnh tranh với các sản phẩm của các Công ty
tư nhân sản xuất như sản phẩm phích ASEAN, phích 999 và các sản phẩm
phích của Trung Quốc.
Với một số lượng các đối thủ cạnh tranh như vậy, mà các đối thủ cạnh
tranh luôn hạ giá bán gây nhiều ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm của
Công ty.
58
Thứ hai: Vật tư của Công ty chủ yếu nhập ngoại nên giá đắt đòi hỏi nhiều
về vốn. Trong những năm qua dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế
châu Á giá cả vật tư đầu vào liên tục tăng lên nhưng do cạnh tranh giá đầu ra
cũng phải giảm xuống. Do vậy điều đó đặt ra thách thức rất lớn đối với Công
ty.
Thứ ba suốt năm 1999 rồi đến năm 2000 thiên tai, lũ lụt miền trung kéo
dài, hàng hoá bị ách tắc không lưu thông được trong cả nước. Vấn đề này cũng
ảnh hưởng khá nhiều đến công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
59
Phần ba
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ
TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY BÓNG ĐÈN
PHÍCH NƯỚC RẠNG ĐÔNG
I. Tăng cường nghiên cứu, xây dựng chiến lược thị trường
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn có quyết định đúng đắn thì phải dựa
trên những thông tin thu thập chính xác. Trong công tác tiêu thụ muốn có một
chiến lược sản phẩm hợp lý, một mạng lưới tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả nhất
thì phải nghiên cứu thị trường về nhu cầu sản phẩm. Công tác nghiên cứu thị
trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác định phương hướng phát
triển sản xuất kinh doanh, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn đồng thời
nó cũng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh có thể thực hiện nhanh chóng,
nhịp nhàng, tăng nhanh vòng quay vốn. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu
được, doanh nghiệp còn nâng cao khả năng thích ứng của sản phẩm mình sản
xuất ra với yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, nắm bắt, đón đầu các nhu cầu
tiềm ẩn và cải tiến sản phẩm cho phù hợp. Do đó công tác nghiên cứu nhu cầu
thị trường không thể thiếu được trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình tiêu
thụ sản phẩm và mở rộng thị trường.
Một trong những tồn tại lớn nhất của Công ty hiện nay đó là công tác
nghiên cứu thị trường chưa thật hiệu quả và hợp lý. Công ty cần phải khắc
phục tình trạng phụ thuộc vào nhu cầu, thụ động trong sản xuất nhằm:
- Xác định những thị trường, những khu vực bị bỏ trống mà doanh nghiệp
có khả năng vươn tới và dung lượng nó.
- Xác định tình hình cạnh tranh trên thị trường, xác định điểm mạnh, điểm
yếu của Công ty cũng như của các đối thủ cạnh tranh.
60
- Nghiên cứu tìm hiểu thăm dò khách hàng về chất lượng sản phẩm, giá ca
ở mỗi vùng thị trường. Những đặc điểm nào của sản phẩm mà khách hàng khen
chê.
- Đối với những người trung gian: cách thức kí hợp đồng, thanh toán, vận
chuyển như thế nào thì khách hàng thấy thoải mái chủ động trong tiêu thụ sản
phẩm.
Để nghiên cứu thị trường đạt kết quả tốt, bên cạnh những thông tin được
thu thập chính xác, còn cần phải có một bộ phận nghiên cứu thị trường một
cách chuyên tinh theo đúng chức năng của nó. Công ty nên tăng cường cho
phòng kinh doanh bằng các biện pháp.
+ Về nhân sự: Công ty nên lựa chọn những người có năng lực chuyên
môn làm công tác tiếp thị nghiên cứu thị trường bồi dưỡng và đào tạo cho họ
những kĩ năng thu thập và xử lí thông tin và kiến thức Marketing.
+ Về trang bị: Công ty cần phải tiến hành lưu trữ thông tin bằng cách
thêm trang bị hệ thống máy móc hiện đại. Như vậy sẽ cắt giảm nhiều thời gian
trong việc tra cứu và xử lý thông tin, kết quả của nghiên cứu thị trường sẽ được
đưa ra nhanh chóng và kịp thời.
Xây dựng chiến lược thị trường là một việc làm rất khó khăn đòi hỏi phải
tập hợp được lực lượng kiến thức cũng như kinh nghiệm trong toàn Công ty.
Để làm được điều này Công ty phải tổ chức hẳn ban soạn thảo trong đó do
giám đốc hoặc phó giám đốc làm trưởng ban, các thành viên phải được lựa
chọn từ các phòng ban và có sự tham gia ý kiến của người lao động. Trong
chiến lược thị trường này có một số vấn đề chính cần lưu ý đó là:
- Nếu nêu được tầm quan trọng của chiến lược thị trường để mọi người
trong toàn Công ty luôn ý thức và hành động vì nó. Trong mọi trường hợp, mọi
hoàn cảnh kiên quyết theo đuổi coi nó là kim chỉ nam cho mọi hành động. -
61
Xác định đối tượng khách hàng của Công ty là toàn bộ cộng đồng dân cư ở cả
3 miền Bắc, Trung, Nam trong đó khách hàng ở khu vực miền Bắc là khách
hàng mục tiêu cho Công ty. Còn khách hàng ở khu vực phía Nam, Trung là
mục tiêu của sự mở rộng thị trường.
- Xác định một cơ cấu sản phẩm tối ưu trong các mặt hàng chính là mục
tiêu của sự đổi mới và phát triển sản xuất.
II. Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm hàng hoá và đa dạng hoá
sản phẩm
Đánh giá về chất lượng sản phẩm của Công ty ta có thể thấy là khá tốt
nhưng đứng trước tình hình xã hội ngày càng văn minh thì sự đòi hỏi về chất
lượng cao hơn. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho Công ty trong cạnh tranh đó cũng là chiến lược lâu dài mà Công ty cần
phải quan tâm đến. Để nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa thì cần phải:
1. Tăng cường huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ
Trong hai năm 1999, 2000 Công ty đã mạnh dạn đầu tư đổi mới rất nhiều
khâu công nghệ. Vậy nhưng vẫn còn những khâu nằm trong tình trạng yếu kém.
Chỉ cần một vài khâu công nghệ như vậy thôi thì năng suất làm việc sẽ không
cao, chất lượng sản phẩm sẽ giảm xuống. Cần phải hoàn thiện các khâu công
nghệ từ đó mới có thể ra đời những sản phẩm bền, đẹp tăng sức mạnh trong
cạnh tranh. Mặc dù để có vốn đầu tư đổi mới công nghệ là rất khó khăn nhưng
trước hết là phải triệt để tiết kiệm để tích luỹ vốn bên cạnh đó phải sử dụng
những phương thức huy động vốn cần thiết để thay thế những dây chuyền cũ đã
lạc hậu thành những dây chuyền mới hiện đại. Về việc huy động vốn có thể sử
dụng các nguồn vốn như từ quĩ khấu hao, từ lợi nhuận để lại. Trước đây Công
ty đã có hình thức huy động bằng cách vay vốn của CBCNV trong Công ty để
đầu tư, đến cuối năm 1999 số vốn vay này lên đến 25 tỉ đồng. Cách làm này
vừa tạo điều kiện có vốn để đầu tư, vừa tạo lên thêm sự gắn bó giữa CBCNV
62
với Công ty. Đối với nguồn vốn từ ngân sách thì không nên trông chờ ỷ lại.
Cần phải tự vận động đi lên. Ngoài ra Công ty có thể đi vay nhưng với điều
kiện sản xuất kinh doanh cần phải thực hiện có hiệu quả. Về việc sử dụng máy
móc, Công ty cần phải chú ý, đảm bảo tốt chế độ bảo dưỡng máy móc, thiết bị
theo đúng yêu cầu thiết bị và thực trạng của máy.
2. Cần phải nâng cao năng lực sản xuất của công nhân, nâng cao tay
nghề của họ
Bởi vì đây là những người trực tiếp vận hành máy móc, thiết bị nên ngay
cả trong điều kiện sản xuất tự động hoá thì máy móc vẫn chịu sự chi phối của
người điều hành. Ngay như hiện nay Công ty trang bị khá nhiều máy móc kỹ
thuật hiện đại, nhưng do dây chuyền mới nên việc công nhân làm chủ được còn
khó khăn. Mà yêu cầu của việc sản xuất kinh doanh là liên tục. Do đó phải mở
các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, tổ chức hội thảo, rút kinh
nghiệm, báo cáo kinh nghiệm trong phạm vi từng phân xưởng cũng như trong
toàn Công ty. Về mặt tài chính cần phải sử dụng tiền lương, tiền thưởng để
khuyến khích công nhân. Thực hiện nâng lương cho những công nhân có tay
nghề cao, thưởng một cách xứng đáng và hợp lý với công nhân có thành tích
trong việc tăng năng suất, có các sáng kiến phục vụ cho sản xuất. Bên cạnh các
hình thức thưởng thì cần phải có các hình thức phạt đối với những công nhân
kém không chịu phấn đấu vươn lên làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Ngoài những biện pháp trên cần phải tăng cường khâu kiểm tra, tuyệt đối
hạn chế sản xuất sản phẩm có chất lượng kém, tránh lọt những sản phẩm xấu ra
ngoài.
3. Việc đa dạng hoá sản phẩm
Hiện nay do nền kinh tế phát triển, rất nhiều người có thu nhập cao, có
nhu cầu về sản phẩm cao cấp. Nếu sản phẩm chỉ có chất lượng thôi thì chưa
đủ. Sản phẩm cần phải đẹp, nhiều chủng loại để thích hợp với nhu cầu đa dạng
63
của thị trường. Công ty cần phải thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm bóng
đèn, đèn trang trí nội thất, đèn chiếu sáng công cộng, đèn ôtô, xe máy. Cần
phải chú trọng tới các sản phẩm có những yếu tố thích hợp với yêu cầu tiêu
dùng hiện nay. Đặc biệt Công ty phải nghiên cứu chế tạo loại đèn huỳnh quang
tiết kiệm điện hơn nữa để có thể cạnh tranh với các công ty khác. Hiện nay trên
thị trường còn một số sản phẩm bóng đèn mà trong nước chưa sản xuất. Công
ty nên xem xét khả năng, trong trường hợp có thể thì nên tiến hành sản xuất
những loại sản phẩm này như sản phẩm đèn cao áp, đèn halogen. Đối với sản
phẩm phích nước, loại phích vỏ sắt vẫn còn hiện tượng vỏ bình mau han, hình
ảnh còn chưa được đẹp. Đối với hàng phích nhựa, vỏ bình tương đối đẹp
nhưng khi dùng hay bị vết xước, gãy bản. Ngoài ra Công ty cũng sản xuất các
phích như phích cao cấp, phích vân đá... Trong thời gian tới Công ty cần phải
xây dựng một số chủng loại phích nước mới sử dụng phụ tùng nhựa cao cấp
hoặc vỏ nhựa cao cấp có ưu điểm nhẹ, đẹp, bền mầu. Hình ảnh trên phích đẹp
lôi cuốn người tiêu dùng.
III. Chính sách giá cả
Công ty sản xuất ra những mặt hàng chính là những mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu của dân chúng nên một chính sách giá cả thống nhất được thông báo
rộng rãi là một việc làm có ý nghĩa chiến lược trước mắt cũng như lâu dài. Tác
dụng to lớn của chính sách này là:
- Tạo ra rào cản rất lớn chống lại sự xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh
cũng như các cơ sở sản xuất hàng giả. Hơn nữa nếu như giá cả đó là tương đối
rẻ so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thì đó sẽ là thách thức rất lớn
đối với các đối thủ.
- Giá cả thống nhất sẽ hạn chế các nhà bán lẻ đặt giá tuỳ tiện sản phẩm
của Công ty.
- Tạo ra một tâm lý tiêu dùng tốt vì trên thị trường có rất nhiều loại sản
64
phẩm với giá rẻ có, đắt có mà chất lượng thì chưa thể đo lường ngay được.
Nếu Công ty đưa ra mức giá thống nhất trên địa bàn toàn quốc thì mọi người sẽ
có cảm giác an toàn khi tiêu dùng.
Tuy nhiên việc xây dựng chính sách giá thống nhất với các sản phẩm cũng
có một số nhược điểm có thể nhận thấy là:
- Khó quản lý giá và quảng bá đến người tiêu dùng với phạm vi rộng lớn
như vậy.
- Khi theo đuổi chính sách này thì cũng đồng nghĩa với việc không theo
đuổi chính sách giá linh hoạt mà ngày nay điều kiện kinh doanh luôn mang đến
nhiều biến động, có thể kể đến sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến giá thành phẩm của Công ty vì nguyên vật liệu chính chủ yếu
Công ty phải nhập từ nước ngoài.
- Nếu không đi kèm với chính sách phân phối hợp lý thì sẽ rất khó thuyết
phục bạn hàng tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Các hạn chế này là không đáng kể song không phải là không thể khắc
phục. Tuy vậy chúng ta cũng cần hiểu là sự thống nhất trong một giới hạn
tương đối khi cần thiết để có thể điều chỉnh hợp lý. Bên cạnh chính sách giá cả
thống nhất, Công ty nên tiếp tục theo đuổi chính sách phân biệt theo số lượng,
theo mức thu nhập, khả năng thanh toán, theo thời vụ, bao bì, khoảng cách vận
chuyển...
IV. Tích cực đẩy mạnh hoạt động truyền thông, xúc tiến
Quảng cáo ngày càng trở nên phổ biến trong cuộc sống hàng ngày và là
hoạt động không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh nhằm đẩy nhanh tốc
độ tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường. Về quảng cáo Công ty cần phải
xây dựng một chương trình quảng cáo sao cho hiệu quả mà ít tốn kém. Quảng
cáo cần ngắn gọn dễ ghi nhớ, đem lại hình ảnh của Công ty cho người tiêu
65
dùng. Đối với những khu vực phát triển nền quảng cáo qua báo chí, tivi, qua áp
phích, panô, còn đối với các khu vực nông thôn xa thành thị nên quảng cáo chủ
yếu qua tivi và đài phát thanh. Hàng năm Công ty nên tham gia các hội chợ
triển lãm trên phạm vi toàn quốc. Những đợt triển lãm này là cơ hội để Công ty
thực hiện được nhiều mục đích: quảng cáo, giới thiệu sản phẩm với khách hàng
trong và ngoài nước, nắm bắt được thông tin từ phía người tiêu dùng, cơ hội
tiếp cận với các lãnh đạo, các đơn vị khác một cách thoải mái để chào hàng,
học tập kinh nghiệm, tìm kiếm được các bạn hàng.
66
KẾT LUẬN
Doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải
hướng sự phục vụ của mình vào các đối tượng khách hàng và một trong những
kim chỉ nam để hành động vì khách hàng là "khách hàng luôn luôn đúng". Tuy
nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng thành công vì sự cạnh tranh trên
thương trường, có kẻ thắng người thua đó là điều tất yếu nhưng chắc chắn rằng
nếu doanh nghiệp biết tận dụng triệt để các thế mạnh của mình, tìm ra các kẽ
hở của thị trường và xác lập một vị trí cạnh tranh có lợi nhất thì doanh nghiệp
đó sẽ thành công.
Với vấn đề trên, đề tài "Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở
Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông" đã trình bày một cách cụ thể, khoa
học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn vấn đề nghiên cứu.
Các vấn đề về lý luận cơ sở của thị trường như khái niệm, phân loại và phân
đoạn thị trường, vai trò, chức năng của thị trường... đã được trình bày ở Phần
thứ nhất. Dựa trên cơ sở lý luận đó áp dụng cụ thể vào phân tích thực trạng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông ở Phần
thứ hai, từ đó tìm ra những thuận lợi và khó khăn. Phần thứ ba tập trung vào
giải quyết các vấn đề đã rút ra từ việc phân tích thực trạng ở Phần thứ hai. Qua
đó rút ra các biện pháp cũng như các kiến nghị nhằm duy trì và phát triển thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty nói riêng và góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung:
Tuy nhiên để không ngừng phát triển và mở rộng thị trường Công ty cần
phải chuẩn bị nhiều mặt để phát huy tiềm năng sẵn có của mình. Trong tương
lai Công ty phải tập trung nghiên cứu thị trường, đổi mới thêm máy móc thiết
bị, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Xâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông.pdf