Tài liệu Luận văn Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây: 1
Luận Văn
" Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở
Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây"
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu ...................................................................................... 1
Phần I Tìm hiểu chung về lãi suất................................................... 3
I. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc hình thành lãi suất ....................
1. Khái niệm.................................................................................... 3
2. Vai trò của lãi suất ...................................................................... 3
3. Nguyên tắc hình thành lãi suất..................................................... 4
II.Chính sách lãi suất ...................................................................... 5
Phần II. Thực trạng về chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những
năm 90 Cho đến nay .......................................................................
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời g...
44 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận Văn
" Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở
Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây"
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu ...................................................................................... 1
Phần I Tìm hiểu chung về lãi suất................................................... 3
I. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc hình thành lãi suất ....................
1. Khái niệm.................................................................................... 3
2. Vai trò của lãi suất ...................................................................... 3
3. Nguyên tắc hình thành lãi suất..................................................... 4
II.Chính sách lãi suất ...................................................................... 5
Phần II. Thực trạng về chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những
năm 90 Cho đến nay .......................................................................
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua..........
1.Trước tháng 3/1989 ,thời kỳ lãi suất âm ....................................... 6
3
2.Từ tháng 3/1989 ,thời kỳ chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất
dương .............................................................................................. 6
3.Từ 1/10/1993 ,thời kỳ vừa áp dụng lãi suất trần vừa áp dụng lãi
suất thoả thuận ................................................................................ 7
4.Từ 1/1/1996 ,thời kỳ áp dụng lãi suất trần .................................... 7
5.Từ 7/2000 –Một bước tiến mới trong việc hình thành lãi suất cơ
bản................................................................................................... 9
II Đánh giá những sai lầm trong việc điều hành chính sách lãi suất
từ những năm 90 Cho đến nay......................................................... 9
Phần III: Một số các giải pháp trong điều hành chính sách lãi suất
ở Việt Nam ...................................................................................... 13
4
Kết luận 16
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt.
Nếu xác định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản
xuất-lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất
ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước, vừa là công
cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một chính sách
lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong
một lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo
từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng
vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, phục
5
vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo được cho hoạt
động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế
tự cung tự cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có
sự điều tiết quản lí của Nhà nước, trong quá trình hoà nhập cùng
sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việc xem xét vấn đề lãi suất
là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : “Thực trạng
về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90
trở lại đây” với bố cục chính như sau :
Phần I: Lý luận chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt
Nam từ những năm 90 trở lại đây.
Phần III: Các giải pháp trong việc điều hành chính sách lãi
suất ở Việt Nam .
6
........................................................................................................
NỘI DUNG
PHẦN I
TÌM HIỂU CHUNG VỀ LÃI SUẤT
7
I. Khái niệm,vai trò và nguyên tắc hình thành lãi suất .
1. Khái niệm.
Tiền lãi là phần tiền dôi ra bên ngoài số vốn mà người đi vay trả
cho người cho vay.
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm tính theo năm (hoặc tháng, ngày) giữa
lãi vay và số tiền cho vay.
2.Vai trò :
Lãi suất đóng một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế ,thể
hiện:
-Trong nền kinh tế có những chủ thể thừa vốn hoặc không đưa
vốn vào kinh doanh ,khiến cho số vốn đó nằm im trong túi và trở
thành “vốn chết “.
Ngược lại ,lại có những chủ thể muốn đi vào kinh doanh nhưng
không có vốn ,thiếu vốn .Thật là có lợi nếu như hai chủ thể đó trao
đổi cho nhau .Vậy cơ sở nào để có thể tiến hành sự trao đổi ?Lãi
suất chính là điểm gặp của những người tiết kiệm (thừa vốn ,có
vốn nhàn rỗi ) với những nhà đầu tư (thiếu vốn ,cần vốn ).Lãi suất
làm dung hoà lợi ích của các bên .Người tiết kiệm ,nếu đem tiền
8
của mình cho người khác vay,họ sẽ nhận được một khoản lãi nhất
định được tính theo lãi suất ngân hàng hoặc lãi suất do hai bên tự
thoả thuận .Người đầu tư đem khoản tiền vay được đó đi vào kinh
doanh ,biến số tiền đó thành vốn .Khi sản xuất kinh doanh phát
triển ,làm ăn có lãi ,ngoài việc họ trả được số tiền vay ,họ còn thu
được thêm lợi nhuận .Như vậy họ đã biết cách dùng tiền của người
khác để tạo ra tiền cho mình .
-Mặt khác ,vì là lãi suất đem lại lợi ích cho nhà tiết kiệm ,nên với
mức lãi suất hợp lý sẽ khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh
tế.Theo một mô thức logic ,tiết kiệm tăng sẽ khiến cho đầu tư cũng
tăng và thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển .
-Một vai trò không thể thiếu là :lãi suất là một công cụ quan
trọng để nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế .Thông qua lãi
suất ,nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ cũng như chính sách tài
khoá của mình .Đối với chính sách tiền tệ ,khi lãi suất tăng sẽ làm
cho cung tiền giảm và ngược lại .
Đối với chính sách tài khoá ,lãi suất cao sẽ tác động gián tiếp tới
cung cầu của thị trường hàng hóa.Lãi suất tiền gửi tăng sẽ kéo theo
9
sự tăng lãi suất cho vay.Sự tăng lãi suất sẽ đẩy giá bán của hàng
hoá lên.Giả sử ban đầu nền kinh tế đang cân bằng (cung hàng hoá
bằng cầu hàng hoá ),khi lãi suất tăng dẫn tới giá cả hàng hoá tăng
sẽ làm cho cầu về hàng hoá đó giảm,nền kinh tế trở nên dư cung
hàng hoá ,các nhà sản xuất phải thu hẹp sản lượng .Ngược lại ,lãi
suất thấp sẽ dẫn tới giá bán hàng hoá giảm ,kích thích tiêu dùng ,
làm cho cầu về hàng hoá đó tăng .Cầu tăng ,trong khi cung không
đổi sẽ dẫn tới tình trạng dư cầu hàng hoá .Để đáp ứng nhu cầu về
hàng hoá của xã hội ,các nhà sản xuất có thể đẩy được giá bán lên
hoặc tiếp tục mở rộng sản xuất ,tạo ra hàng hoá ngày càng đa dạng
cho thị trường
-Ngoài ra ,lãi suất còn có tác động rất lớn tới chế độ tỉ giá .Nếu lãi
suất trên thế giới lớn hơn lãi suất trong nước thì nguồn vốn của tư
bản nước ngoài đổ vào trong nước ,làm cho cung ngoại tệ tăng lên
,tỉ giá giảm .Ngược lại ,nếu lãi suất thế giới nhỏ hơn lãi suất trong
nước sẽ dẫn tới hiện tượng nguồn vốn trong nước chảy ra nước
ngoài ,làm cho cung ngoại tệ giảm ,tỉ giá tăng.
10
Như vậy ,lãi suất là một công cụ không thể thiếu được trong bất
kỳ nền kinh tế của nước nào .
3.Nguyên tắc hình thành lãi suất
- Nguyên tắc bảo toàn giá trị đồng tiền: đòi hỏi lãi suất ít nhất
phải bằng tỷ lệ lạm phát.
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người gửi tiền
Lãi suất tiền gửi = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng
Lãi suất cho vay = Lsuất tiền gửi + Chi phí + Thuế + Tỷ lệ
nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người vay vốn ngân
hàng
Tỷ lệ lạm phát < Lsuất tiền gửi < Lsuất cho vay<Mức sinh lợi
bình quân
II .Chính sách lãi suất
Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc
gia. Vì thế, trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của chính
sách tiền tệ quốc gia. Đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và
11
kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở nước
ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trường tiền tệ, tạo
sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các tổ chức tín dụng,
xoá bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính
sách lãi suất phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng,
tránh tình trạng biến tướng chi phí của các TCTD vào giá thành
sản xuất của xã hội. ngoài ra, đối với các TCTD, chính sách lãi
suất còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất đủ để duy trì và
phát triển hoạt động kinh doanh.
12
PHẦN II.
THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM TỪ
NHỮNG NĂM 90 CHO ĐẾN NAY
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.
1.Trước tháng 3- 1989 :
13
Nghị định 53/ HĐBT ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh về
ngân hàng (1/10/1990) tách hệ thống ngân hàng 1 cấp thành 2 cấp
,từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường
.Tuy nhiên do lạm phát cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện
được lãi suất dương Cho nên thời kỳ này là thời kỳ điều hành theo
cơ chế lãi suất âm. Điều này có nghĩa là:
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức
lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông,
giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo
cho doanh nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không
đáng có cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ
bình thường theo cơ chế thị trường.
2.Từ tháng 3-1989:
14
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp ,có điều
kiện thực hiện chính sách lãi suất dương dương tức là lãi suất Cho
vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn
lạm phát .Tháng 10/1992 ,NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi
suất dương và đến tháng 3/1993 NHNN đã chủ động sử dụng công
cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút
tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua
lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lượng rất cao
trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % /
năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã:
- Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn
vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát.
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, xử lí hài hoà lợi ích giữa
người gửi tiền, người vay vốn và TCTD.
- Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân
hàng sang kinh doanh thực sự.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp,
còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay.
15
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất: lãi suất
Cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp
dụng lãi suất thoả thuận.
-Lãi suất trần: Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh
tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng.
-Lãi suất thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ
vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với
lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: Lãi suất huy
động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,1 %/ tháng
và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ
các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ
biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể
16
hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay
với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
Thời kỳ này , các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất
Cho vay và lãi suất huy động cao ,phổ biến là từ 0,7% -1% tháng
,Cho nên ,hầu hết , các NHTM đều có mức lợi nhuận cao ,trong
khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính .Từ thực trạng
này ,Quốc hội khoá IX ,kỳ họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua
nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng ,đồng
thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất Cho
vay .Đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất Cho vay và lãi
suất huy động 0,35%/tháng .Đó là lý do để chuyển sang một giai
đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất .
4.Từ 1/1/996 Chuyển từ lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất.
Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0,
35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi
suất. Vì thế từ 1/ 1/ 96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối
đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc điều hành theo lãi suất
17
cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định
trước đó .
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau, nhu cầu vốn
khác nhau, chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định
trần lãi suất có phân biệt như sau:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
- Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn.
- Trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng đối với các thành viên.
Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với
nhau khá xa nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cáh này đã rút
ngắn lại và chỉ còn chênh lệch ít .
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là khu vực
nông thôn có nhu cầu vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít
và chi phí hoạt động ngân hàng ở đây rất cao ,nên NHNN qui định
trần lãi suất Cho vay nông thôn cao hơn thành thị nhằm thu hút
vốn từ thành thị về nông thôn .Nhưng nhiều quan điểm Cho rằng
18
lãi suất Cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị mới
ưu đãi nông nghiệp ,mới khuyến khích nông nghiệp phát triển .
Do đó , từ 21/1/1998 , Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức
chênh lệch 0,35 % / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa
mức lãi suất cho vay của thành thị và nông thôn, NHNN quy định
các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần lãi suất và
không quy định mức chênh lệch 0,35 %/ tháng nữa:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng.
- Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành
chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất
tái cấp vốn đối với các TCTD ;trong khuôn khổ trần lãi suất
Cho vay,TCTD được phép qui định các mức lãi suất Cho vay và
lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn tín
dụng từng giai đoạn ,nhằm mở rộng tín dụng ,góp phần quan
trọng vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế trong nhứng năm
qua .
19
Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên
tục ,phù hợp với chỉ số lạm phát , quan hệ cung cầu vốn tín
dụng tại từng thời điểm và góp phần thực hiện giải pháp kích
cầu về đầu tư của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất
tín dụng .Có thể nói đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín
dụng nhiều nhất từ trước đến nay ,lãi suất năm 1999 luôn có xu
hướng giảm sau các lần điều chỉnh , cụ thể như sau :
+ Ngày 17/1/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ tị
01/1999/CT-NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng
đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh : đối với khách
hàng ở khu vực thành thị từ 1,2 – 1,25%/tháng xuống 1-
1,15%/tháng ;các TCTD khác vẫ thực hiện theo mức trần
1,2%/tháng đối với Cho vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với
Cho vay trung và dài hạn .
+ Ngày 29/05/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu
phát ,tăng trưởng kinh tế chậm lại ,sức mua giảm sút .Thống đốc
NHNN đã có quyết định 184/1999/QĐ -NHNN 1 về việc điều
chỉnh giảm trần lãi suất Cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,2-
20
1,25%/tháng xuống mức 1,15%/tháng áp dụng Cho các TCTD
Cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn .Cùng với việc
giảm trần lãi suất Cho vay ,NHNN còn giảm lãi suất tái cấp vốn
từ 1%/tháng và lãi suất tái cấp vốn về Cho vay chỉ định thu mua
tạm trữ xuất khẩu 0,9%/tháng xuống một mức thống nhất là
0,85%/tháng . Như vậy , từ tháng 6/1999 từ chỗ nhiều trần lãi
suất ngắn ,trung ,dài hạn trần lãi suất Cho vay khu vực thành thị
và khu vực nông thôn khác nhau đã thống nhất chung một trần
áp dụng chung Cho các TCTD ,không phân biệt quốc doanh hay
cổ phần .
+ Tháng 9/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ thị
05/1999/CT –NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng
VND của các NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực
thành thị từ 1,05%/tháng xuống 0,95%/tháng .Đây là bước tiến
trong chính sách lãi suất ,tạo thế chủ động hơn Cho các TCTD
trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và Cho vay phù hợp với điêù
kiện về chi phí ,cung cầu trên từng vùng khác nhau và mức độ
21
rủi ro của từng khoản vay ,tạo tiền đề Cho việc áp dụng cơ chế
điều hành chính sách lãi suất của NHNN theo lãi suất cơ bản .
Nhìn chung , việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau:
+ Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức
lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện
kinh doanh , thực hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh
doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi
suất.
+ Phù hợp với đặc diểm, chi phí hoạt động NH ở các vùng
khác nhau.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi
suất thoả thuận, vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định.
+ Có trần khống chế sẽ bảo vệ được lợi ích người vay, TCTD
và người gửi tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lí nhà nước của NHNN về lãi suất
trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền
kinh tế thị trường.
22
5.Từ 7/2000 đến nay :Một bước tiến mới trong việc hình thành
lãi suất cơ bản :
Hiện nay, NHNN đã công bố và Cho áp dụng lãi suất cơ bản
làm cơ sở Cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ
bản tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến sát đến
sự tự do hoá lãi suất hoàn toàn(đã tự do hoá lãi suất cho vay và lãi
suất tiền gửi dưới mức tối đa), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo
quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ
quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng,
giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính.
Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức
tín dụng huy động với bất cứ laĩ suất nào, chạy đua về lãi suất tiền
gửi để huy động mới bù đắp nợ cũ, bảo đảm an toàn hệ thống và
bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời, với lãi suất cơ
bản thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan
hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu
vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ
chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô
23
và sức cạnh tranh lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh,
ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở
Việt Nam.
II.Đánh giá những sai lầm trong việc điều hành chính sách lãi
suất từ những năm 90 Cho đến nay:
*. Đối với thời kỳ lãi suất âm :
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trước năm 1988 ,lãi suất của
Việt Nam không theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do
NHNN áp đặt là một trong những nguyên nhân gây ra và kéo dài
lạm phát phi mã .
*.Đối với thời kỳ lãi suất dương :
Thời kỳ này qui luật lãi suất thực mới được công nhận nhưng
tư tưởng lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trường đã dẫn
đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12%/tháng mặc dù tỷ lệ lạm phát
24
cuối năm 1992 chỉ còn 5%/tháng . Lãi suất cực kỳ cao vẫn còn ảnh
hưởng tâm lý đến ngày nay ,người gửi tiền đòi hỏi lãi suất cao .
*.Đối với thời kỳ vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và
Cho vay cụ thể ,vừa Cho vay theo lãi suất thoả thuận :
Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc
họp Giám đốc đầu năm . Nhưng chủ trương này không được thực
hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bj đẩy cao lên gấp đôi năm 1993
.Trong ba năm chậm hạ lãi suất ,tiền gửi các ngân hàng chỉ sử
dụng hết một nửa .Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất
cao để trả Cho những người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy
VND để gởi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới
trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một sổ .Vì vậy ,khi dồn
dập hạ lãi suất trong năm 1996 ,số dư nguồn vốn tiền gửi đã giảm
đột ngột vào quí IV năm đó ,chuyển các NHTM từ vị thế thừa vốn
sang thiếu vốn . Công với cái vô lý là bắt các NHTM phải gánh
chịu số lỗ do thực hiện chính sách hạ lãi suất , và áp đặt chênh lệch
lãi suất 0,35% ,các NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị
giảm lợi nhuận một cách nặng nề .Tài chính vẫn duy trì một mức
25
thuế lợi tức 45% và Cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp ,cộng với việc
tính thuế không Cho ghi các khoản chi phí trích trước đã dồn các
ngân hàng vào tình trạng hầu như không tích luỹ được vốn .Việc
tăng vốn điều lệ vì vậy hầu như không thực hiện được.Các NHTM
đã yếu và để nợ quá hạn ,nợ xấu tăng cao,lại bị suy yếu thêm vì
những chính sách dồn các NHTM vào chỗ không duy trì được tỷ
suất lợi nhuận bình quân
*.Đối với thời kỳ áp dụng trần lãi suất :
Diễn biến các mức trần lãi suất cho vay theo quy định của
NHNN kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu
vực đến năm1999:
Thời điểm thực hiện mức
trần lãi suất cho vay các
loại
1/7/199
7
21/1/19
98
1/2/199
9
1/6/199
9
1. Ngắn hạn 1,0% 1,2% 1,1% 1,15%
2. Trung dài hạn 1,1% 1,25% 1,15% 1,15%
3.Vùng nông thôn 1,2% 1,25% 1,25% 1,15%
26
4. QTDND & HTXTD 1,5% 1,5% 1,5% 1,5%
5. Lãi suất tái cấp vốn 1,1% 1,1% 1,0% 0,85%
Chỉ số tiết kiệm, lãi suất danh nghĩa trung bình, lãi suất thực
Năm Tiết kiệm
(%GDP)
LS danh
nghĩa(%nă
m)
LS thực
(% năm)
CPI
(% năm)
1991 10,10 42,0 25,6 17,5
1992 13,77 35,5 17,9 5,1
1993 14,54 21,6 16,4 14,5
1994 17,08 16,8 2,4 14,3
1995 18,99 16,8 4,1 13,5
1996 15,96 13,5 9,0 4,5
1997 16,50 12,6 8,9 3,7
Nguồn:
IMF
27
Thực tế cho thấy có nhiều tồn tại xoay quanh chính sách trần
lãi suất. Dù cho việc kiểm soát lãi suất trong những điều kiện nhất
định vì mục tiêu của chính sách tiền tệ thì vẫn không thể tránh khỏi
những thiệt hại xét trên tổng thể nền kinh tế. Điều này từng khuyến
khích sự vay mượn chiếm dụng lòng vòng, trốn tránh kiểm soát
của NHNN, làm méo mó chế độ lãi suất quy định. Mức độ toàn
dụng vốn trong nền kinh tế thấp, tính đầu cơ thực lợi và cạnh tranh
bất tương xứng về lãi suất còn phổ biến, vốn bị sử dụng lãng phí,
kém hiệu quả. Chuyển sang lãi suất trần là một bước tiến bộ, song
lãi suất vẫn chưa phản ánh đúng quan hệ cung-cầu về vốn của nền
kinh tế. Một biểu hiện rõ nhất là lãi suất chung của nền kinh tế chủ
yếu được áp đặt bởi NHNN chứ chưa phải được hình thành theo
đúng tín hiệu thị trường, thông qua một số tham số chủ chốt: lãi
suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc, lãi suất thị trường liên ngân
hàng, lãi suất giao dịch hợp đồng mua đứt, bán đoạn hay mua bán
có kì hạn, lãi suất khiết khấu, cầm cố, thế chấp tài sản...Nhìn
chung, lãi suất chưa phản ánh được rủi ro tín dụng, thiếu quan hệ
28
khăng khít với diễn biến tỉ giá hối đoái, trong lúc thường xuyên bị
trói buộc hết sức cứng nhắc bởi “vòng kim cô” chỉ số giá CPI...
Đôi lúc trần lãi suất chỉ có ý nghĩa tượng trưng, bên
cạnh đó còn tồn tại nhiều mức lãi suất khác nhau trên thực tế, lại
có hiện tượng lạm dụng lãi suất ưu đãi tràn lan trong vòng 2 năm
nay. Do đó xu hướng hạn chế, dỡ bỏ mọi áp đặt, can thiệp, kiểm
soát hành chính về lãi suất là một tất yếu khách quan. Mục tiêu là
cuối cùng thì phải để thị trường tự quyết định lãi suất phù hợp cho
nó(cũng là cho nền kinh tế). Dựa vào đó sự can thiệp một cách
gián tiếp của NHNN vào thị trường tiền tệ mới thực hiện được linh
hoạt, đúng hướng và có hiệu quả.
*. Thời kỳ áp dụng lãi suất cơ bản :
Ở Việt Nam hiện nay, muốn điều hành lãi suất cơ bản cho
vay một cách có hiệu lực thông qua việc khống chế lãi suất tiền gửi
tối đa thì NHNN sẽ phải kết hợp cả 2 phương pháp điều hành trực
tiếp và gián tiếp:
- Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp nâng hoặc hạ lãi
suất tiền gửi tối đa tương ứng: muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi
29
suất tiền gửi tối đa và ngược lại( điều hành bằng mệnh lệnh hành
chính)
- Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của
chính sách tiền tệ tác động vào khối lượng vốn trên thị trường như:
NHNN mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức
tín dụng( nghiệp vụ thị trường mở), NHNN tái chiết khấu các loại
chứng từ có giá(cửa sổ chiết khấu), thị trường liên ngân hàng hoạt
động có hiệu quả nhằm thực hiện NHTƯ là người cho vay cuối
cùng. Muốn điều hành khối lượng tiền bằng các công cụ gián tiếp
có hiệu quả thì việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân ở mức độ
khá phổ biến nhằm làm cho NHNN kiểm soát được tổng phương
tiện thanh toán ở mức độ cao. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện
trên ở nước ta chưa hội đủ, vì vậy khả năng kiểm soát và quản lí lãi
suất cho vay sẽ rất hạn chế do chỉ còn mỗi một công cụ trực tiếp
mà NHNN có thể thực hiện được là nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi
tối đa để theo nó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Tuy nhiên, xét
theo quan hệ cung cầu về vốn, thì việc nâng hoặc hạ lãi suất tiền
gửi tối đa trong điều kiện chưa có các công cụ gián tiếp phối hợp
30
có thể tác động theo chiều ngịch, hạ lãi suất tiền gửi cũng có thể
làm cho vốn tín dụng huy động được ít, trở nên khan hiếm và lãi
suất cho vay sẽ “đắt lên” và ngược lại.
Vì vậy, trong điều kiện hiện tại của nước ta, khi chưa hội đủ
các điều kiện như trên, việc thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất
tiền gửi tối đa thì dẫn đến tình trạng:
- Các tổ chức tín dụng sẽ nâng lãi suất cho vay lên cao để đạt
được lợi nhuận cao, vì bản chất của cơ chế thị trường là lợi
nhuận tối đa. Dự kiến mức lãi suất cho vay có thể lên đến 2,5 %
/ tháng hoặc cao hơn, khi đó muốn điều chỉnh giảm lãi suất cho
vay, NHNN chỉ còn một công cụlà giảm lãi suất tiền gửi tối đa
nhưng hiệu lực sẽ rất kém, và lãi suất cho vay có thể không thể
hạ xuống được. Khi lãi suất cho vay quá cao, doanh nghiệp sẽ
gặp khó khăn, dư luận và các đại biểu quốc hội có thể phản ứng,
khi đó điều hành qua lãi suất tiền gửi tối đa có thể kém hiệu lực
và lãi suất cho vay có thể vẫn không hạ được theo ý muốn và lại
phải quay trở lại với cơ chế lãi suất cho vay tối đa.
31
- Lãi suất cao nhưng các doanh nghiệp và hộ sản xuất vẫn phải
vay vì thiếu vốn sản xuất và vay để bù đắp các khoản nợ cũ đến
hạn do cung về vốn ở nước ta luôn nhỏ hơn cầu, lợi nhuận thấp
hơn chi phí phải trả ngân hàng sẽ dẫn đến nguy cơ cả doanh
nghiệp và ngân hàng đều khó khăn và dẫn đến chỗ cả hai đều
mất khả năng thanh toán.
- Đồng thời, nếu thực hiện lãi suất này thì chắc chắn sẽ hình
thành nhiều khu vực lãi suất theo cung cầu vốn và chi phí ngân
hàng khác nhau như: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu
vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng cổ phần sẽ
cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh lớn
như các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên
doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Và như vậy, sẽ giảm
bớt tính lành mạnh của cạnh tranh và trong sự cạnh tranh này
chắc chắn các tổ chức tín dụng lớn, có nguồn vốn lớn là các
ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn, các tổ chức tín
32
dụng nhỏ như ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng
nhân dân sẽ gặp không ít khó khăn.
- Việc thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay ở khu vực núi
cao, hải đảo sẽ khó có cơ sở để thực hiện, trong khi các đối
tượng vay vốn thuộc các khu vực này chưa được tách bạch là
đối tượng chính sách được vay theo chính sách riêng của Nhà
nước. Vì hiện tại việc giảm lãi suất miền núi cao(khu vực 3 ở
vùng miền núi) được quy định giảm 30% trần lãi suất cùng loại
do NHNN công bố.
Vì vậy, khi NHNN xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ,
chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang kết
hợp điều hành bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa
nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động để mua bán các chứng
khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng, thực hiện tái chiết khấu
các chứng từ của các tổ chức tín dụng, củng cố và kiểm soát thị
trường liên ngân hàng có giá để thực hiện vai trò của Ngân hàng
Trung ương là người cho vay cuối cùng, tiếp tục củng cố và mở
rộng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân, để trên cơ sở đó thực
33
hiện một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần lãi suất như
công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm soát
của Nhà nước bằng cả trực tiếp và gián tiếp. Sau quá trình thực
hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì ta sẽ
tiến thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi đã có
và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các
điều kiện khác về kinh tế và chính sách tiền tệ ổn định.
PHẦN III
MỘT SỐ CÁC GIẢI PHÁP TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
1. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, hoàn thiện hệ thống chính
sách.
34
Phối hợp với Bộ tài chính tăng cường phát hành những tín
phiếu, trái phiếu kho bạc để đủ số lượng công cụ cho thị trường
liên ngân hàng. Các ngân hàng vay hay cho vay rất dễ dàng
bằng cách bán(vay) khi thiếu vốn, hay mua(cho vay) khi thừa
vốn. NHTW cũng bán khi muốn thu hồi tiền từ lưu thông và
mua khi muốn tung tiền ra lưu thông. Cách làm này nhanh và
nhẹ nhàng hơn tái cấp vốn nặng nề hiện nay vì đòi hỏi phải có
bộ hồ sơ cho vay, có tài sản thế chấp được công chứng và sự
thẩm định lại của NHNN địa phương. Còn dùng cửa sổ tái chiết
khấu thì ta chưa có thương phiếu do những điều luật về thương
phiếu còn quá sơ sài(chỉ có 4 điều trong mươi dòng ở Luật
Thương mại và chưa được hướng dẫn thi hành). Với cách làm
nặng nề hiện nay, thị trường liên ngân hàng sẽ không hoạt động
thường xuyên hàng ngày được.
NHNN phải thực sự là ngân hàng của các ngân hàng, nghĩa là
nơi các NHTM thừa tiền có thể gửi NHNN để hưởng lãi suất
qua đêm.
35
Trách nhiệm thực hiện chính sách xã hội và chính sách cơ cấu
của NHNN và NHTM cho một vài tổ chức kinh tế chuyên trách,
chẳng hạn Ngân hàng chính sách và Quỹ đầu tư quốc gia. Hoạt
động của NHNN và NHTM tập trung cho thực hiện chính sách
tiền tệ và chính sách đầu tư phát triển kinh tế.
Cải tiến và tăng cường tác động của NHNN bằng các công cụ
của chính sách tiền tệ hiện có, đặc biệt là điều chỉnh linh hoạt
khả năng tạo tiền của các NHTM bằng giới hạn sử dụng vốn và
hạn mức tái cấp vốn trong tái chiết khấu khế ước nợ và tín dụng
thế chấp đối với giấy tờ có giá đảm bảo chất lượng.
Cần có một sự điều tra cơ bản của NHTW về mức chi phí quản
lí bình quân của các ngân hàng ở các vùng khác nhau để lãi suất
có thể bù đắp chi phí trung bình của các NHTM thành phố.
Chính sách lãi suất có đảm bảo cho các NHTM kiếm được tỉ
suất lợi nhuận bình quân của các ngành, các ngân hàng mới đủ
sức đối phó được ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ và có đủ
sức cạnh tranh khi hội nhập với ASEAN.
36
Các tiền gửi dự trữ bắt buộc phải thật sự là khoản dự trữ an toàn
của ngành Ngân hàng. Không thể hiểu lầm phải đóng băng nó
lại, nghĩa là không cho vay ra tức thời cho các NHTM khi họ
thiếu khả năng chi trả tạm thời có thể dẫn tới phải khất chi tiền
gửi cho khách hàng. Dùng loại tín dụng điều chỉnh với điều kiện
NHTM không được tăng dư nợ khi đang vay loại này sẽ hoàn
toàn khống chế việc dùng khoản vay này để kinh doanh(tăng dư
nợ). Được vay ngay khi tạm thời thiếu khả năng chi trả, các
NHTM có thể giảm bớt dự trữ an toàn sơ cấp rất cao hiện nay
làm tăng chi phí và kéo theo tăng chênh lệch lãi suất.
Phân định rõ chức năng kinh doanh và chức năng xã hội trong
hoạt động của các NHTM và các TCTD theo hướng xoá bỏ dần
cơ chế bao cấp qua lãi suất tín dụng. Với hướng này các NHTM
và các TCTD chỉ làm chức năng kinh doanh tiền tệ theo Luật
Ngân hàng. Chuyển chức năng xã hội cho các tổ chức tài chính
khác như Kho bạc, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng
phục vụ người nghèo. Muốn vậy, cần phải hạn chế và tiến tới
xoá bỏ dần cơ chế bao cấp qua tín dụng. Chừng nào còn tồn tại
37
sự bao cấp của Nhà nước qua tín dụng thì các NHTM chưa thể
thực hiện được chức năng kinh doanh tiền tệ đúng luật Ngân
hàng. tính chủ động trong kinh doanh của các chủ nhà băng vẫn
bị hạn chế, hiệu quả của hoạt động ngân hàng không thể hạch
toán rõ ràng cả về kinh tế cũng như xã hội. Yêu cầu tạo sân chơi
bình đẳng giữa các NHTMQD với NHTMCP và NHTM liên
doanh với nước ngoài.
Tạo lập môi trường pháp lí lành mạnh để khuyến khích sự cạnh
tranh giữa các NHTM và các TCTD phù hợp với chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước.
2. Từng bước điều chỉnh cơ chế lãi suất, tiến dần theo hướng tự
do hoá.
Thứ nhất: Trước mắt vẫn sử dụng trần lãi suất cho vay tối đa làm
lãi suất cơ bản và cơ sở để chuyển sang tự do hoá lãi suất dựa trên
mặt bằng giá vốn sẽ có những bước thuận lợi hơn so với việc điều
hành theo lãi suất cơ bản sử dụng lãi suất huy động tối thiểu- lãi
suất tiết kiệm tối thiểu làm lãi suất cơ bản; Đồng thời sớm triển
38
khai xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo toàn tiền gửi để đảm bảo
quyền lợi hợp pháp về mặt kinh tế cho người gửi tiền.
Thứ hai: Các mức lãi suất cơ bản: về mặt thực tiền, do đặc thù của
nguồn vốn cho vay là ngắn hạn và dài hạn, nên vẫn cần thiết cho
việc tách biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn trong đầu
tư tín dụng; tuy nhiên để có thể phù hợp với điều kiện thực tiễn và
công tác điều hành lãi suất cơ bản cũng như tạo tiền đề cho các
bước tự do hoá lãi suất trong khuôn khổ lãi suất cơ bản, chỉ nên
xác định và công bố lãi suất cơ bản theo lãi suất cho vay tối đa
vốn trung và dài hạn; các mức cho vay và huy động vốn ngắn hạn
được phép tự do hoàn toàn trong khuôn khổ lãi suất cơ bản; khi
thị trường tài chính đã thực sự phát triển và hội đủ các điều kiện sẽ
chuyển sang điều hành lãi suất thị trường tự do(theo lãi suất cho v
ay ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng).
Thứ ba: Đối với lãi suất cho vay áp dụng cho các địa bàn hoạt
động khác nhau và lĩnh vực kinh doanh có suất doanh lợi khác
nhau: vẫn chỉ nên sử dụng một mức lãi suất chung theo cơ chế thị
trường(lãi suất thương mại); riêng đối với các nghành nghề hoặc
39
vùng kinh tế có những điều kiện sản xuất khó khăn, cần phải có sự
ưu đãi của Nhà nước thì nên xử lí bằng chính sách tài chính ( như
chính sách thuế, chính sách trợ giá cho tiêu thụ sản phẩm...), nếu
có ưu đãi về lãi suất thì theo hướng xử lí cụ thể như sau:
- Cấp bù trừ trực tiếp cho người sản xuất hoặc tính giảm trừ
khoản phải nộp ngân sách của họ.
- Trường hợp cấp bù qua ngân hàng thì trước mắt ngân hàng thực
hiện giảm lãi suất cho vay; tài chính thực hiện cấp bù cho
NHTM hoặc giảm trừ khoản phải nộp ngân sách của các
NHTM; tiến tới hình thành hệ thống các ngân hàng chính sách
để thực hiện các mục tiêu này và tiến tới loại bỏ hoàn toàn bao
cấp qua tín dụng Ngân hàng;
Thứ tư: Về việc xác định lãi suất cơ bản nhằm điều hành chính
sách lãi suất nói chung: cần được xem xét tính toán và công bố
định kì đảm bảo phù hợp với tín hiệu thị trường về cung- cầu vốn
đầu tư và các yêu cầu khác về thực thi các mục tiêu của chính sách
tiền tệ.
40
Thứ năm: Thúc đẩy phát triển thị trường nội tệ và ngoại tệ liên
ngân hàng, lấy đó làm căn cứ để xây dựng và thiết lập mặt bằng lãi
suất chung theo lãi suất qua đêm hoặc lãi suất chiết khấu, làm cơ
sở cho các mức lãi suất thị trường tự do sau này.
Thứ sáu: Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá làm cơ sở cho việc ra
đời các hàng hoá trao đổi trên thị trường chứng khoán, thiết lập sự
tồn tại song hành của thị trường vốn đầu tư, tạo môi trường cạnh
tranh hoàn hảo giữa các chủ thể liên quan đến chu chuyển vốn
trong nền kinh tế.
Thứ bảy: khi hội đủ các điều kiện sẽ từng bước chuyển sang cơ chế
lãi suất thị trường tự do và thực hiện can thiệp bằng các chế tài phù
hợp trong những trường hợp cần thiết.
Như vậy, lãi suất là một công cụ tiền tệ của nền sản xuất
hàng hoá- thị trường có độ nhạy cảm kinh tế rất cao. Việc sử dụng
lãi suất trong quá trình xây dựng và điều hành chính sách lãi suất là
một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có những hướng đi thích hợp, tuỳ
thuộc vào đặc thù và những điều kiện thực tiễn của Việt Nam
nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế, phát huy vai trò đòn bẩy
41
của lãi suất, góp phần tạo ra sự dịch chuyển trong cơ cấu đầu tư và
thương mại theo hưóng tự do hoá và xác lập cạnh tranh tương đối
bình đẳng về lãi suất giữa các nhà kinh doanh tiền tệ, từng bước
tiến tới một hệ thống tài chính -tiền tệ và ngân hàng hoàn thiện,
lành mạnh, đảm bảo thực hiện thành công chính sách tiền tệ vĩ mô.
Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính sách vừa có tác dụng
thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư , vừa có thể khuyến khích nhà
sản xuất xử dụng vốn vay đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất
kinh doanh, đảm bảo quyền lợi về mặt kinh tế của người gửi tiền,
người vay tiền và Ngân hàng; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,
42
KẾT LUẬN
Ngày nay ,mọi người hết thảy đều nghĩ rằng sự toàn cầu hoá là
nền tảng cho tương lai : “Ý tưởng về một nền kinh tế quốc gia
đang trở thành vô nghĩa như các khái niệm về một công ty quốc
gia ,nguồn vốn quốc gia ,sản phẩm quốc gia và công nghệ quốc
gia”-Robert Reich ,the Work Nations .Toàn cầu hoá là xu thế
không gì cưỡng lại nổi.Đứng trước xu thế đó đòi hỏi hệ thống ngân
hàng cần phải được đổi mới .Điều này đặt ra không ít những khó
khăn thách thức đối với các nhà điều hành chính sách lãi suất là
việc thực hiện chính sách lãi suất vừa phải gắn liền với chính sách
tiền tệ - tín dụng, chính sách cơ cấu , chính sách kinh tế ,vừa phải
đáp ứng yêu cầu tự do hoá lãi suất .
Tự do hoá lãi suất là cái mốc cần đạt được, thông qua những
bước đi phù hợp, trên tinh thần nhanh chóng khắc phục yếu kém,
43
tích cực chuyển bị để có thể tự do hoá trong thời gian ngắn, để tận
dụng những lợi thế cơ bản do tự do hoá mang lại. Tất nhiên, mỗi
cuộc cải cách đều có những khó khăn riêng của nó, và thông
thường một cuộc cải cách được thực hiện nhanh và triệt để nếu cải
cách là do khủng hoảng thúc đẩy. Nhưng nếu chúng ta trì hoãn
đến khi khủng hoảng xảy ra và gây sức ép mới tiến hành cải cách
thì những chi phí sẽ rất tốn kém. Do đó, năng lực nhận biết một
cuộc khủng hoảng tiềm năng và tạo những cải cách thích hợp là
rất cơ bản để giảm thiểu những chi phí sẽ phải gánh chịu.
Yêu cầu mới của thực tiễn đòi hỏi NHNN không thể giữ
nguyên cách điều hành lãi suất như trước đây nhưng cũng không
thể nôn nóng thực hiện ngay cơ chế điều hành lãi suất như các
nước phát triển. Các Vì vậy, chính sách lãi suất trong nền kinh tế
thị trường phải thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn và yêu cầu kinh tế
đặt ra trong mỗi thời kì, cần có sự trao đổi rộng rãi và kĩ lưỡng
trước khi thực hiện những chính sách kinh tế quan trọng, tạo điều
kiện cho người dân và các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, các
nhà kinh doanh tham gia đầy đủ và bình đẳng vào thị trường
44
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây.pdf