Tài liệu Luận văn Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở Việt Nam trong thời gian tới: Formatted: Right: 0,63 cm
LUẬN VĂN:
Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian
qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn
QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới
Formatted: Right: 2 cm, Top: 2,5
cm, Bottom: 2,5 cm, Header distance
from edge: 1,27 cm, Footer distance
from edge: 1,27 cm, Top: (No border),
Bottom: (No border), Left: (No border),
Right: (No border), Not Different first
page header
Formatted: Right: 0,63 cm
Lời Mở Đầu
Đất nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường với rất nhiều những
khó khăn và thách thức mới . Một trong những thách thức đó là việc nhận thức
đúng đắn được Quy luật giá trị (QLGT) và vai trò của QLGT đối với nền kinh tế thị
trường có tính chất đặc thù riêng của nước ta. Hơn nữa nước ta vừa chuyển đổi từ cơ
chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên vẫn còn tàn dư những
quan điểm sai lầm của thời kỳ bao cấp , thời kỳ mà rất nhiều quy luật kinh tế cơ ban đã
bi lãng quên như QLGT. Chính vì vậy cho ta thấy được tính c...
24 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở Việt Nam trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Formatted: Right: 0,63 cm
LUẬN VĂN:
Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian
qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn
QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới
Formatted: Right: 2 cm, Top: 2,5
cm, Bottom: 2,5 cm, Header distance
from edge: 1,27 cm, Footer distance
from edge: 1,27 cm, Top: (No border),
Bottom: (No border), Left: (No border),
Right: (No border), Not Different first
page header
Formatted: Right: 0,63 cm
Lời Mở Đầu
Đất nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường với rất nhiều những
khó khăn và thách thức mới . Một trong những thách thức đó là việc nhận thức
đúng đắn được Quy luật giá trị (QLGT) và vai trò của QLGT đối với nền kinh tế thị
trường có tính chất đặc thù riêng của nước ta. Hơn nữa nước ta vừa chuyển đổi từ cơ
chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên vẫn còn tàn dư những
quan điểm sai lầm của thời kỳ bao cấp , thời kỳ mà rất nhiều quy luật kinh tế cơ ban đã
bi lãng quên như QLGT. Chính vì vậy cho ta thấy được tính cấp thiết của đề tài nghiên
cứu “QLGT và vai trò của QLGT trong nền kinh tế thị trường ở nước ta ” trong giai
đoạn hiện nay là rất hợp lý và cần thiết. Để mỗi chúng ta lắm bắt tốt một quy luật kinh
tế cơ bản và tạo cơ sở để đưa ra những quyết định kinh tế đúng đắn .
Để làm rõ vấn đề mà đề án nghiên cứu thì đề án được bố cục như sau:
(Đề án chủ yếu nghiên cứu những vấn đề từ năm 1986 đến nay)
Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị.
Chương 2 : Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận
dụng tốt hơn QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới.
Quy luật giá trị và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Centered, Indent: Left:
-0,18 cm, Right: -0,22 cm
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Font: Times New Roman,
13 pt, Bold
Formatted: Right: 0,63 cm
Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về Quy luật giá trị
1.1. Một số quan điểm về giá trị .
1.1.1. Quan điểm của trường phái trọng thương .
Chủ nghĩa trọng thương là trường phái có tư tưởng kinh tế mở đầu của giai
đoạn tư bản chủ nghĩa (TBCN).Những nhà kinh tế của chủ nghĩa trọng thương rất coi
trọng đồng tiền. Họ coi tiền là nội dung căn bản của của cải , của giá trị và là biểu hiện
của sự giầu có,… Một quốc gia giầu mạnh theo họ phải là quốc gia có thật nhiều tiền.
Họ cũng cho rằng sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp không tạo ra giá trị
(trong công nghiệp chỉ có công nghiệp khai thác vàng , bạc là tạo ra giá trị). Qua đó ta
thấy được phần nào sự sơ khai của những tư tưởng kinh tế thời kỳ đầu. Họ vẫn chưa
biết và không thừa nhận và hiểu được QLGT.Trong thời kỳ này có những đại diện tiêu
biểu như : Montchretien , Thomas Mun , Kolber,… Các ông cho rằng chỉ có thương
mại mói tạo ra giá trị hay tiền cho đất nước .Trong thương mại thì cũng chỉ có ngoại
thương mới tạo ra giá trị của cải còn theo họ nội thương không tạo ra giá trị của cải mà
nó chỉ làm nhiệm vụ phân phát của cải cho mọi người. Theo các ông thì trong ngoại
thương thì cần phải mua rẻ bán đắt để lấy phần chênh lệch giữa mua và bán. Những tư
tưởng của các ông được thể hiện phần nào qua những câu phát biểu nổi tiếng :
“ Nội thương là một hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm , muốn tăng
của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương ”
_Montchretien_
“Thương mại là một hòn đá đối với sự phồn thịnh của một quốc gia ” ,
“Không có phép lạ nào khác kiếm tiền, trừ thương mại ”
_Thomas Mun_
Ta thấy những tư tưởng kinh tế thời kỳ này vẫn còn sơ sài ,mang tính chất chủ quan
cao ,tính khoa học và tính lý luận hệ thống còn thấp, hơn nữa những tư tưởng kinh tế
như mới chỉ là những gì đúc rút từ hoạt động thực tiễn .Nền sản xuất còn rất kém phát
triển cũng là lý do mà những nhà kinh tế chưa thể biết đến những quy luật kinh tế cơ
bản như QLGT và họ cũng không thừa nhận quy luật kinh tế khác .
1.1.2.Quan điểm của trường phái trọng nông .
Formatted: Right: 0,63 cm
Những người thuộc trường phái trọng nông thì phê phán quan điểm của những
người của chủ nghĩa trọng thương. Họ cho rằng những lợi nhuận mà chủ nghĩa trọng
thương có được là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại mà có, còn theo họ
trong thương mại chỉ là “ việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như
thế ”. Tức là thương mại chỉ trao đổi chứ không làm cho tài sản tăng nên. Điều này cho
ta thấy đã có sự nhận thức tiến bộ và trưởng thành trong quan điểm kinh tế của trường
phái trọng nông.
Những người trọng nông họ cho rằng giá trị chỉ tạo ra được trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là nghành kinh tế sản xuất duy nhất , còn đối với công nghiệp chỉ có tiêu
dùng chứ hoàn toàn không có sản xuất. Những sản phẩm mới mà trong công nghiệp
sản xuất ra chỉ là những gì đã có từ trước và họ ghép chúng vào với nhau. Duy nhất
trong nông nghiệp mới có sự tăng nên về chất và lượng, bởi vậy theo họ chỉ có nông
nghiệp mới tạo ra giá trị .Còn trong công nghiệp không những nó không làm tăng thêm
giá trị mà nó còn làm giảm đi mặt lượng thực tế của thực thể , nên họ đôi khi còn coi
công nghiệp là có hại. Đây là một quan điểm sai lầm vì họ đã đơn giản hoá khái niệm
về của cải và họ không nhận thấy được tính hai mặt của thực thể là hiện vật và giá trị .
Trong thực tế thì khối lượng và giá trị của vật phẩm có thể thay đổi hoàn toàn ngược
nhau.
Những đại diện tiêu biểu cho trường phái trọng nông phải kể tới gương mặt tiêu
biểu là Francois Quesnay (là người sáng lập ra trường phái trọng nông ở Pháp )
ông đã có những đóng góp to lớn cho chủ nghĩa trọng nông ở pháp. Lý thuyết về sản
phẩm thuần tuý cũng đã nói rõ nên quan điểm của trường phái trọng nông về giá
trị.Ông cũng đã từng tuyên bố:
“Chỉ có của cải của dân cư ở nông thôn mới đẻ ra của cải quốc gia”, “Nông
dân nghèo thì xứ sở nghèo”.
_Francois Quesnay_
Hơn nữa phát hiện tiêu biểu của ông về “ Biểu kinh tế ” được các nhà kinh tế học coi
là một trong ba phát minh lớn nhất đương thời (cùng với việc phát hiện ra tiền và máy
in) cũng qua biểu kinh tế thì ông là người đầu tiên phân tích một cách khoa học việc
tái sản xuất. Nhưng điều quan trọng nhất và đóng góp to lớn nhất của trường phái
trọng nông như K . Marx nhận xét :
Formatted: Right: 0,63 cm
“Phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ
lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp, và do đó đã đặt cơ sở cho việc phân
tích nền sản xuất TBCN ”.
Hơn nữa ta thấy cả hai trường phái trọng thương và trọng nông thực sự vẫn chưa biết
được nguồn gốc của giá trị. Nhưng những gì mà cả hai trường phái đã có được là cơ
sở vững chắc cho nền kinh tế học sau này.
1.1.3. Quan niệm của trường phái trọng công. (Trường phái tư sản cổ điển Anh)
Trường phái này tiếp tục nghiên cứu giá trị ở trong sản xuất trực tiếp, tư tưởng
của những nhà kinh tế ở thời kỳ này đã có những tiến bộ vượt bậc so với những trường
phái đã đi trước. Giai đoạn phát triển của trường phái này gắn liền với tư tưởng kinh tế
theo cấp độ thăng tiến của ba nhà kinh tế tiêu biểu là : William – Petty(1623- 1687),
Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823).
William Petty là người đầu tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên ( giá trị ) là
lao động . Ông đã cho rằng giá trị là do thời gian lao động hoa phí quyết định và năng
suất lao động có ảng hưởng đến mức hao phí đó. Nhưng ông cho rằng chỉ có lao động
khai thác vàng bạc mới tạo ra giá trị ( đây là quan điểm chịu ảnh hưởng của tư tưởng
trường phái trọng thương ), bởi vì theo ông mọi lao động khác để có thể so sánh với
nhau đều phải đều phải so sánh với lao động tạo ra tiền tệ. Còn giá trị hàng hoá là sự
phản ánh giá trị tiền tệ cũng như “ ánh sáng cảu mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng
mặt trời ” Đó là phần hạn chế trong học thuyết của ông bởi ông chưa thể phân biệt
được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Tuy học thuyết của ông còn rất
nhiều thiếu sót và hạn chế ,nhưng thực sự nó đã đặt nền móng quan trọng cho tư tưởng
của trường phái trọng công .
Adam smith tiếp tục đi theo con đường của W. Petty nhưng ông đã có những
bước tiến xa so với W. Petty . Ông đã có quan điểm đúng về giá trị, ông cho rằng giá
trị trao đổi là do lao động quyết định và giá trị là do lao động để sản xuất ra hàng hoá
quyết định . A. Smith đã phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi (được coi là
công lao chính của ông ). Hơn nữa ông cũng đã đưa ra nguồn gốc cấu thành của giá trị
trong sản xuất TBCN là tiền lương , lợi nhuận, địa tô và ông cũng phân biệt giá cả tự
nhiên và giá cả thị trường. đó cho ta thấy mặc dù học thuyết của ông đã có nhiều phát
hiện mới nhưng ông vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy ông luôn cho rằng lao động là “
Formatted: Right: 0,63 cm
thước đo thực tế của giá trị ” song trong lý luận của ông vẫn còn luẩn quẩn và sai lầm
về giá trị , còn trong nguồn gốc của giá trị ông lẫn lộn giữa hai vấn đề hình thành giá
trị và phân phối giá trị , hơn nữa ông cũng xem thường tư bản bất biến C, ông coi giá
trị chỉ có v và m tạo thành.
David Ricardo là người kế thừa và phát triển học thuyết của W .Petty và
A.Smith để đưa ra một học thuyết khá hoàn thiện. Ông đã nhận thức được giá trị lao
động được quyết định bởi lượng lao động đồng nhất của con người (lao động xã hội)
chứ không phải là lượng lao động hao phí cá biệt. ở đây cho ta thấy ông là người đầu
tiên đã phân biệt được lao động cá biệt và lao động xã hội. D. Ricardo cũng đã phân
biệt được giá trị sử dụng và giá trị nhưng ông vẫn chưa thấy được mối quan hệ giữa
giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Về quan điểm giá trị ông đã bác bỏ lý luận giá trị sử
dụng quyết định giá trị hàng hoá, ông cũng phát biểu rằng:
“ Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi , mặc dù hàng hoá rất
cần thiết giá trị này .”
“Giá trị khác xa với của cải, giá trị không tuỳ thuộc vào việc có nhiều hay ít
của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi.”
Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá cả thị trường và theo ông giá cả thị
trường luôn luôn biến động. Còn về vấn đề tăng giá theo ông không phải là do cung
cầu thị trường quyết định, mà theo ông mức giá ở trong tay những người sản xuất và
cung cầu chỉ ảnh hưởng tới giá cả mà thôi. Ngoài ra D. Ricardo đã chứng minh được
rằng giá trị của hàng hoá giảm khi năng suất lao động tăng nên. Và ông cũng đã cho cả
phần C1 vào giá trị của hàng hoá, tức là theo ông giá trị của hàng hoá không chỉ do lao
động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc nhà
xưởng (ông vẫn chưa biết được phần C). Qua đó cho ta thấy ông đã đóng góp công sức
rất lớn vào việc hoàn thiện tư tưởng của trường phái trọng công cũng như những gì để
lại cho K. Marx kế thừa và phát triển kinh tế học sau này. Tuy ông vẫn còn có những
thiếu sót và hạn chế và đã được K. Marx bổ xung và hoàn thiện .
1.1.4.Quan điểm của Marx về giá trị .
K. Marx được xem như một tổng công trình sư, ông đã kế thừa và phát triển
những tư tưởng kinh tế của những người đi trước và đưa ra những quan điểm mà được
Formatted: Right: 0,63 cm
rất nhiều những nhà kinh tế khác trên thế giới lấy đó làm chuẩn mực cho những lý luận
của họ. Với việc tìm ra lao động cụ thể và lao động trừu tượng K. Marx đã đưa ra quan
điểm đúng về giá trị (giá trị là lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá kết
tinh trong hàng hoá). Như vậy chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản
xuất kết tinh trong hàng hoá. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng,
phương pháp riêng, phương tiện riêng và kết quả cũng riêng. Mỗi lao động cụ thể tạo
ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động giản đơn nó nêu nên cách tiến hành như
thế nào. Còn lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất của con người.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự trao đổi ngang bằng. Lao động trừu
tượng nêu nên xem mức hao phí để sản xuất lao động là bao nhiêu. Quả thật việc K.
Marx phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn về
mặt lý luận, nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sơ khoa học thực sự.
Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế như sự vận động trái
ngược : khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng nên, đi liền với khối lượng giá trị
của nó giảm xuống hay không thay đổi. Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời
gian lao động xã hội cần thiết để tạo ra hàng hoá đó. Ông cũng đã tìm ra được hoàn
chỉnh công thực cấu thành giá trị của hàng hoá (Giá trị hàng hoá = giá trị cũ +giá trị
mới).Và ông cho rằng lượng của giá trị hàng hoá phụ thuộc vào các nhân tố như: năng
suất lao động, hay phụ thuộc vào đó là lao động gian đơn hay là lao động phức tạp,
trong đó năng xuất lao động càng cao thì thời gian cần để tạo ra hàng hoá càng giảm
và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Còn giữa lao động giản đơn và lao
động phức tạp thì trong cùng một thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị
hơn so với lao động giản đơn.
1.2.Biểu hiện của QLGT
1.2.1. Nội dung của QLGT
QLGT là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của QLGT.
Theo QLGT, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động
xã hội cần thiết. Trong nền sản xuất hàng hoá thì mỗi người sản xuất sẽ có hao phí lao
động cá biệt, nhưng giá trị của hàng hoá được quyết định bởi lao động hao phí xã hội
Formatted: Right: 0,63 cm
cần thiết. Chính vì vậy người sản xuất muốn bán được sản phẩm thì phải điều chỉnh
cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí chung của xã hội.
Sự vận động của quy luật giá trị là thông qua sự vận độnh của giá cả hàng hoá.
Như ta đã biết giá trị là cơ sở của giá cả nên giá cả phải phụ thuộc vào giá trị. Nếu
hàng hoá nào mất nhiều thời gian lao động xã hội cần thiết thì nhiều giá trị và giá cả
của nó cũng sẽ cao và ngược lại. Hàng hoá trên thị trường ngoài chịu tác động của giá
trị còn chịu tác động của các quy luật kinh tế khác như quy luật cạnh trnh quy luật
cung cầu,… Những tác động đó làm cho giá cả tăng giảm nhưng nó vẫn xoay quanh
trục giá trị của nó. Sự nên xuống quanh trục giá trị của nó đó là
cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
1.2.2. Sự vận động của QLGT trong tự do cạnh tranh.
Trong tự do cạnh tranh các danh nghiệp tự do sản xuất, để bán được hàng trên
thị trường thì các doanh nghiệp phải điều chỉnh để cho hao phí cá biệt của doanh
nghiệp nhỏ hơn mức hao phí của xã hội là doanh nghiệp đã có lợi nhuận. Đối với mỗi
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu. Các doanh
nghiệp luôn cải tiến để cho hao phí của mình nhỏ hơn hao phí của xã hội. Các doanh
nghiệp cứ cạnh tranh với nhau trong nội bộ ngành và dần cạnh tranh với cả giữa những
ngành khác nhau để thu được lợi nhuận, cho tới khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân của xã hội thì lúc này giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Lúc này
giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Nếu xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá
cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì
tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ
sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường,
và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
1.2.3. Sự vận động của QLGT trong cơ chế độc quyền.
Vì các tổ chức chiếm được vị trí độc quyền nên có quyền áp đặt giá cả độc, giá
cả độc quyền thấp khi mua, và giá cả độc quyền cao khi bán.Tuy nhiên điều đó không
có nghĩa là quy luật giá trị thặng dư không còn hoạt động.Về thực chất thì giá cả độc
quyền vẫn không tách rời và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc
quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền thực ra là họ đã chiếm đoạt một phần giá
trị thặng dư của người khác, và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Ta thấy nguồn gốc
Formatted: Right: 0,63 cm
của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp
độc quyền, một phần lao động không công của công nhân của các xí nghiệp không độc
quyền,…. Qua đó cho ta thấy dù trong môi trường kinh tế nào thì quy luật giá trị vẫn
luôn phát huy tác dụng của mình.
1.3. Vai trò của QLGT.
1.3.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế. Vai trò này của quy luật giá trị thông qua sự biến động
của hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Khi một mặt hàng
nào đó mà cung nhỏ hơn cầu thì lúc đó giá cả hàng hoá sẽ cao hơn giá trị, hàng hoá
bán sẽ rất chạy, lãi xuất lúc đó sẽ rất cao nên người sản xuất sẽ đổ xô vào sản xuất mặt
hàng đó. Do đó sẽ có một lượng vốn được rút ra từ ngành khác để cho vào đầu tư sản
xuất mặt hàng bán chạy đó. Trái lại khi mà sản phẩm đó cung đã vượt quá cầu thì giá
cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá không bán chạy được và có thể bị lỗ vốn. Như vậy
người sản xuất sẽ buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển sang sản xuất hàng
có lãi suất cao hơn. Để lắm bắt được mối quan hệ của cung cầu về hàng hoá đó thì ta
thông qua giá cả trên thị trường sẽ thể hiện mối quan hệ đó. Qua đó cho ta thấy giá cả
có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Sự biến động của nó có thể ảnh hưởng đến
rất nhiều yếu tố khác của thị trường. Liên hệ với nước ta hiện nay đang trong quá trình
đổi mới nên vẫn còn rất nhiều điều mới mẻ trong nền kinh tế. Bởi vậy để quản lý nền
kinh tế tốt ta phải chú ý quản lý cơ chế giá sao cho thể hiện đúng được thực trạng của
thị trường.
1.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh mỗi doanh nghiệp sản xuất là một chủ
thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền
kinh tế thì các chủ thể hoạt động trong những môi trường khác nhau nên chi phí lao
động cá biệt khác nhau, người có chi phí thấp hơn mức chi phí của xã hội, người có chi
phí cao hơn chi phí của xã hội. Doanh nghiệp sản xuất nào có chi phí lao động cá biệt
càng nhỏ thì lợi nhuận thu được càng cao, còn nếu chi phí cao hơn chi phí cá biệt của
xã hội thì doanh nghiệp bị lỗ ở tình thế bất lợi. Chính vì vậy mà doanh nghiệp nào
cũng muốn giành chiến thắng trong cạnh tranh và đều không muốn bị lùi ra khỏi chiến
Formatted: Right: 0,63 cm
trường. Để làm được điều đó thì doanh nghiệp phải cố gắng tìm mọi cách để giảm chi
phí cá biệt của chính mình. Muốn vậy doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới cải tiến kỹ
thuật, cải tiến tổ chức quản lý,… tăng năng suất lao động. Tất cả mọi doanh nghiệp
đều lỗ lực cạnh tranh và ngày càng thúc đẩy quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển ngày một hoàn thiện
hơn. Qua đây cho ta thấy QLGT có vai trò rất lớn đối với nền sản xuất xã hội. Quy luật
giá trị kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, nó thúc đẩy giảm
những hao phí đó và phát triển sản xuất dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật mỗi ngày
một tiến bộ.
1.3.3. Lựa chọn tự nhiên, phân hoá người sản xuất thành kẻ giầu người nghèo.
Trong quá trình cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì không phải mọi doanh
nghiệp đều giành phần thắng cả, mà phải có kẻ thắng người thua. Những người có chi
phí cá biệt thấp thì sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh. Người ta sẽ bán nhiều hàng
hơn mở rộng quy mô sản xuất và họ ngày một giàu nên. Còn những người có chi phí
cá biệt cao thì sẽ chịu thua trong cuộc cạnh tranh thua lỗ và dẫn tới nghèo khó. Qua
đây cho ta thấy QLGT ngoài việc lựa chọn tự nhiên những người tài giỏi trong kinh
doanh ra nó còn tự phân hoá giầu nghèo tạo nên sự bất bình đẳng trong xã hội.
Formatted: Right: 0,63 cm
Chương 2
Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua và giải pháp nhằm vận dụng tốt
hơn QLGT ở Việt Nam
trong thời gian tới
2.1. Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua ở Việt Nam.
Như chúng t a đã biết đại hội VI của đảng ta họp năm 1986 đã có những bước
cải tổ lớn về tư tưởng, kinh tế ,… đối với nước ta. Thời gian đó là một bước ngoặt lớn
đối với cả dân tộc ta nhất là về mặt kinh tế. Quả thật sau gần 20 năm đổi mới đát nước
ta đã có rất nhiều nhưng thay đổi mà nhiều nước trên thế giới cũng phải ngạc nhiên.
Đất nước chuyển từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường với rất
nhiều những khó khăn đè nặng nên vai chính phủ. Ngay năm 1986 thì lạm phát của
nước ta ở mức siêu lạm phát nên tới 774.7 % và lúc đó rất ít người có thể nghĩ rằng
chúng ta có thể vượt qua và có được những thành tựu to lớn như ngày hôm nay.
Nhưng chúng ta đã làm được và đó chính là nhờ vào những đường lối đúng đắn của
đảng và nhà nước vận dụng hợp lý, sáng tạo các quy luật kinh tế, những bài học của
các nước anh em trên thế giới và cùng với sự quyết tâm không mệt mỏi của mỗi người
dân Việt Nam. Tất cả cùng cố gắng và có được thành quả như ngày hôm nay tuy chưa
nhiều nhưng cũng là sự động viên cho ta cố gắng tiếp tục đi theo con đường đã chọn,
mặc dù vẫn còn nhiều thiếu sót và sai lầm nhưng chúng ta đã biết và vẫn đang cố gắng
sửa chữa về tất cả các mặt nhất là về kinh tế để ngày một hoàn thiện hơn và phát triển
hơn nữa .
2.1.1.Vận dụng QLGT vào hoạch toán kinh tế (HTKT).
Khái niệm về HTKT: HTKT là phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của các
DN trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hoá, đồng thời HTKT là công cụ quản lý kinh
tế vi mô. Trên ý nghĩa đó cần phải làm sáng tỏ bản chất của quan hệ này cùng với
những điều kiện và nguyên tắc của nó, đặc biệt trong quá trình tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường.
Thời kỳ trước năm 1986 nền kinh tế nước ta vẫn còn là cơ chế kế hoạch hoá tập
trung. Mọi kế hoạch sản xuất của cả nền kinh tế đều được cơ quan chính phủ vạch định
ra sẵn từ: sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu? rồi từ đó phân bổ chỉ tiêu cho các đơn vị
sản xuất. Còn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thì cứ như chỉ tiêu của nhà nước
Formatted: Right: 0,63 cm
đã giao cho mà làm, còn ngoài ra các doanh nghiệp (DN) không phải lo đầu ra đầu vào
tất cả đều đã có sự sắp xếp của nhà nước. Nếu DN sản xuất có mà hàng không bán
được thì nhà nước sẽ bù lỗ cho DN vì đó có thể coi như “Lỗi của nhà nước”. Nói
chung các DN dù là “tồn tại” hay là “sống” cũng gần như nhau cả, vì đã là DN của nhà
nước thì chắc chắn sẽ không bị “đói”. Các DN cũng có HTKT nhưng dường như việc
đó là thừa đối với các DN vì thực sự HTKT có ra kết quả đi nữa thì lỗ lãi cũng không
phải là vấn đề của DN. Điều đó đã không làm phát huy được sự năng động sáng tạo
của mỗi DN cũng như mỗi cá nhân trong DN như bị thui chột đi cái năng động trong
mỗi người công nhân. Chính vì vậy ta thấy giai đoạn này QLGT thực sự không được
vận dụng trong HTKT và không phát huy được vai trò của nó đối với nền kinh tế. Hơn
nữa giai đoạn này thì thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh khác không được khuyến khích nên việc vận dụng QLGT vào HTKT ở thời
kỳ này dường như không được chú ý.
Sau khi nhà nước ta quyết tâm cải cách sau đại hội Đảng lần thứ VI thì đã có
thay đổi trong nền kinh tế của cả nước trong cách quản lý hay đối với từng doanh
nghiệp. Từ bước ngoặt đó thì các DN nhà nước đã phải tự HTKT hơn nữa từ 1986 thì
các DN tư nhân và các DN ngoài quốc doanh cũng được khuyến khích phát triển (nhất
là sau khi Mỹ dỡ bỏ cấm vận với nước ta năm 1995). Mỗi DN bây giờ là một chủ thể
độc lập , họ phải tự tìm hướng đi cho mỗi DN của mình . Đối với các DN nhà nước thì
nhà nước tách quyền sử dụng và quyền sở hữu riêng, quyền sở hữu vẫn thuộc về nhà
nước nhưng quyền sử dụng thì nhà nước giao cho DN. Doanh nghiệp tự mình tổ chức
hoạt động kinh doanh , tự nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng sản xuất, lựa chọn
công nghệ sản xuất cho đến khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước chỉ thể
hiện quyền sở hữu của mình thông qua thuế và DN nộp lợi nhuận. Nhà không còn can
thiệp vào các hoạt động của công ty và bây giờ nhà nước chỉ can thiệp vào bằng các
biện pháp vĩ mô để ổn định thị trường. Trong nền kinh tế thị trường mỗi DN là người
sản xuất hàng hoá, để đứng vững được trên thị trường thì họ phải tính đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí…và phải
thường xuyên đối chiếu đầu vào và đầu ra. Đối với các DN thì lợi nhuận luôn luôn là
mục tiêu để phấn đấu, để đạt được mục tiêu đó thì các DN phải tự tìm cách hạ thấp chi
phí sản xuất bằng cách hợp lý hoá sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất
Formatted: Right: 0,63 cm
lao động, … Để làm được điều đó thì DN phải lắm vững và vận dụng tốt QLGT và
trong HTKT. Thời gian qua ta đã thấy được đã có rất nhiều DN làm ăn có hiệu quả,
điều đó cho thấy các Dn đã vận dụng khá tốt QLGT vào trong HTKT và các chíng
sách của nhà nước thực sự đã có tác động vào nền kinh tế.
Nguyên tắc vận dụng QLGT vào HTKT ở các DN nhà nước tuy đã có những
tiến bộ trong nhiều DN, nhưng vẫn còn có nhiều DN thực hiện việc HTKT chưa được
sát và triệt để. Còn nhiều những DN làm ăn thua lỗ và cả tình trạng lãi giả lỗ thật vẫn
còn khá phổ biến trong nhiều DN. Nhiều công ty còn ỉ lại vào cái tiếng là DN nhà
nước và chưa thực sự có những khuyến khích thoả đáng về mặt vật chất cũng như về
mặt tinh thần nên chưa thực sự phát huy được hết khả năng của mỗi công nhân nói
riêng và của mỗi DN nói chung. Để tạo đà phát triển mới cho nền kinh tế đất nước thì
nhà nước ta đã quyết định cổ phần hoá phần lớn các DN nhà nước, và nhà nước chỉ giữ
lại một số ngành có tính chất an ninh quốc gia. Các DN rồi sẽ dần chuyển thành các
công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của chính mình để
đầu tư vào sản xuất, HTKT và cố gắng sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Bởi vậy
việc việc vận dụng QLGT vào để HTKT của mỗi công ty cổ phần thời kỳ này là một
việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với mỗi công ty cổ phần.
Qua trên cho ta thấy HTKT là một điều kiện cần thiết đối với mỗi DN dù là DN
nhà nước hay DN ngoài quốc doanh. Bởi ta thấy thông qua HTKT thì sẽ nâng cao
được tính chủ động, sáng tạo của tập thể cũng như của mỗi người lao động và khai
thác tốt các tiềm năng của DN. Đồng thời HTKT vận dụng QLGT để tính toán, đưa ra
những phương pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa trong quá trình
quốc tế hội nhập như hiện nay và việc chúng ta chuẩn bị ra nhập WTO thì các DN phải
thực hiện tốt việc vận dụng QLGT vào HTKT để biết được lợi thế và sửa chữa những
khuyết điểm và cạnh tranh cùng với các loại hàng hoá khác trên thị trường. Khẳng
định vị thế của hàng hoá của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
2.1.2. Vận dụng QLGT vào cơ chế tiền lương.
Sau đại hội Đảng lần VI (1986), triển khai nghị quyết TW3 về đổi mới quản lý
kinh tế thì chính phủ đã ra quyết định 217, quy định mọi người lao động trong các DN
nhà nước được thu nhập theo kết quả kinh doanh của DN và năng suất, hiệu quả lao
động của mỗi người. Nhưng do nhà nước chưa có hướng dẫn thi hành kịp thời nên mỗi
Formatted: Right: 0,63 cm
đơn vị hiểu và làm theo cách riêng của mình. Doanh nghiệp nào lương thấp quá thì tìm
mọi biện pháp để nâng lương nên và gây ra sự rối loạn chế độ tiền lương đối với DN
nhà nước. Bởi vậy năm 1989 nhà nước đã chỉnh lại chế độ quản lý tiền lương theo đơn
giá sản phẩm được tính trên cơ sở bảng lương và trượt giá, nhưng do tình hình lạm
phát quá cao nên chính sách này cũng không phù hợp. Tới năm 1995 nhà nước lại ban
hành chế độ tiền lương tối thiểu là 120.000 (đồng/tháng) .Nhưng mức lương này thực
tế vẫn chưa đảm bảo sinh hoạt cho công nhân với giá cả hàng hoá thực tế. Nên tới đầu
năm 2000 tăng tiền lương tối thiểu nên180.000 (đồng/tháng), năm 2001 là 210.000
(đồng/tháng) năm 2003 là 290.000(đồng/tháng) và theo dự kiến sẽ là
400.000(đồng/tháng) vào năm 2007. Ta thấy theo sự tăng nên của giá cả thì nhà nước
cũng tăng mức tiền lương tối thiểu đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên. Qua
đó ta thấy nhà nước đã có sự vận dụng nhạy bén QLGT vào trong cơ chế tiền lương.
Tuy tiền lương ở nước ta đã được hoàn thiện nhiều lần nhưng thực sự vẫn còn
rất nhiều bất cập. Mức lương vẫn còn thấp, không đủ để tái sản xuất giản đơn sức lao
động, tiền lương thực tế bị hạ thấp.Tiền lương tối thiểu tuy đã tăng nên rất nhiều
nhưng thực sự vẫn chưa đảm bảo được ổn định mức sống của người lao động. Điều đó
cho ta thấy rằng mặc dù đã cố gắng nhưng cơ chế tiền lương vẫn chưa thực sự thay đổi
phù hợp với QLGT.Chính vì vậy mà trong thực tế tiền lương vẫn chưa thể trở thành
đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động học tập, nâng cao trình độ,nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩn. Chính điều đó cũng hạn chế đi sự tăng trưởng kinh
tế. Bởi tiền lương và quan hệ kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nền kinh tế có
tăng trưởng thì tiền lương mới tăng và thu nhập tăng kích thích người lao động làm
việc và tăng mức tiêu dùng của người lao động là cơ sở để tiêu thụ sản phẩm.
Cơ chế tiền lương tiền lương vẫn còn có sự trênh lệch giữa các ngành nghề, các
đơn vị khác nhau. Như lương ở DN nhà nước TW là từ 1,5–1,9(triệu
đồng/người/tháng) , cũng con số đó với DN nhà nước thành phố là từ 1,0 –1,5 (triệu
đồng/người/tháng), DN nhà nước Quận (huyện) là 0,6 – 0,8 (triệu đồng/người/tháng),
và DN có vốn đầu tư nước ngoài là 0,975 (triệu đồng/người/tháng). Ngoài ra ta còn
thấy được sự phân biệt giữa người lao động nước ngoài và người lao động trong nước,
khi làm cùng một công ty cùng bằng cấp và cùng cả chức vụ, nhưng người ngoại quốc
vẫn có mức lương cao hơn của người trong nước. Đó là sự khập khiễng khi áp dụng
Formatted: Right: 0,63 cm
QLGT vào cơ chế tiền lương. Hơn nữa sự phân biệt khoảng cách lớn giữa lương của
nhà nước với lương của nước ngoài và các doanh nghiệp liên doanh khác đã và đang
thu hút rất nhiều lao động có trình độ và chất lượng cao. Còn trong cơ quan nhà với
tiền lương thấp không thoả mãn được nhu cầu đầy đủ của người lao động, nên tình
trạng chảy máu chất xám đang là một vấn nạn, vấn đề bức xúc của chính phủ. Rất
nhiều những nghiên cứu sinh được nhà nước cử đi học tập kinh nghiệm của nước bạn,
nhưng khi học xong lại trốn tránh trách nhiệm và ở lai luôn nước đó làm ăn.Vì họ đã bị
cuộc sống lôi kéo nên khi nghĩ đến việc về nước với mức lương quá thấp nên họ đã bỏ
lại trách nhiệm và tự tìm cho mình một con đường mới.
Phải chăng ở nước ta cơ chế tiền lương chưa hợp lí cũng là lí do của nạn tham
nhũng, chân trọng, chân ngoài của không ít cán bộ công nhân viên chức nhà
nước. Ai cũng biết chế độ lương của nhà nước là chưa thể phản ánh đúng sức lao động
của mỗi người. Nhưng những cán bộ cơ quan nhà nước lai có rất nhiều tiền, rất giàu.
Đó là do đâu? Rất nhiều người có quyền, có chức và lợi dụng quyền chức của mình để
tham nhũng. Còn có cả những cán bộ nhà nước làm việc ở cả trong nhà nước và cả
ngoài nhà nước. Với họ ở trong là chỗ chắc chân, còn làm ở ngoài mới là thu nhập
chính của họ. Cứ như vậy ta thấy sự tận tâm của công chức nhà nước trong các cơ
quan nhà nước sẽ không cao bởi họ đã phải quá chú tâm đến đi kiếm miếng ăn ở bên
ngoài. Hơn nữa nạn tham nhũng của nhiều cơ quan đã xuất hiện phổ biến. Bởi vậy mà
trong thời gian trở lại đây hiện tượng lập trạm kiểm soát để “ăn tiền “của cảnh sát giai
thông và ở các trạm cố định của ngành hải quan … diễn ra khá nhiều và gây nhiều bức
xúc trong toàn thể dân chúng. Qua đó cho thấy, việc vận dụng không tốt quy luật giá
trị vào cơ chế tiền lương còn tạo ra rất nhiều những mặt tiêu cực cho xã hội. Hơn nữa
với cơ chế tiền lương như vậy thì ta chưa thể nào kiểm soát được tiền lương của cán bộ
nhà nước nói riêng và của những người lao động nói chung. Từ đó sẽ rất khó khăn
trong việc đánh thuế thu nhập hay trợ cấp thu nhập cho những người lao động.
2.1.3.Vận dụng quy luật giá trị và những chính sách về giá cả
Như ta đã biết thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì tất cả giá cả của
các loại hàng hoá đều do Chính phủ kiểm soát. Bởi ở trong giai đoạn này nền kinh tế
nước ta vẫn còn yếu kém và nếu để thị trường tự điều tiết sẽ có những bất ổn không
kiểm soát được về giá. Quả thật đúng như vậy năm 1986 đã cải cách và để cho một số
Formatted: Right: 0,63 cm
hàng hoá được thị trường tự điều tiết của giá cả cùng với sự yếu kém của nền kinh tế
đã đẩy nạn lạm phát nên tới 747.7%. Nhà nước đã rời bỏ quyền can thiệp trực tiếp,
định giá hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ mang tính độc quyền và trả lại cho thị
trường quyền quyết định của các hàng hoá dịch vụ còn lại. Nhà nước cũng đã xác định
từ thời kỳ này nước ta thực hiện cơ chế một giá đó là giá kinh doanh thương nghiệp,
chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp các quy luật, trong đó QLGT có tác động
trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị của đồng tiền và trong sự tác động với quy
luật cung cầu, không thể giữ giá theo ý muốn chủ quan cứng nhắc bất chấp các quan
hệ cung cầu, bất chấp sức mua của đồng tiền và các yếu tố hình thành giá cả khác. Qua
đay cho ta thấy ngay trong nhà nước cũng đã nhận ra được vai trò quan trọng của quy
luật giá trị trong việc hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường. Lúc này QLGT
thực sự đã phát huy tác dụng về mặt tác động vào giá cả cũng như cũng như hướng tác
động vào HTKT và cơ chế tiền lương của nước ta. Còn về phía nhà nước thực hiện
việc xây dựng môi trường pháp lí, sử dụng các chính sách biện pháp kinh tế vĩ mô để
tác động đến sự hình thành và vận động cửa giá cả như: Chính sách phát triển sản xuất
,điều hoà cung-cầu, chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách thương mại tổ chức kiểm
soát thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại dưới mọi hình thức…Cuộc cải
cách đó của nhà nước đã thực sự có hiệu quả, đưa nước ta với mức lạm phát từ 3 con
số những năm cuối thập kỷ 80 cho đến nay thì lạm phát chỉ còn dừng lại ở một con số.
Thành công này của nước ta đã làm cho giá cả tương đối bình ổn, lạm phát ở mức
kiểm soát được đã khuyến khích đầu tư bỏ vốn sản xuất, khuyến khích thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, phân bổ một cách hợp lí và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của đất
nước, tạo ra động lực kích thích sản xuất phát triển.
Từ năm 1986 cho đến nay, đã có rất nhiều mặt hàng thông qua QLGT đã biểu
hiện giá trị của mình bằng giá cả. Các loại mặt hàng sinh hoạt như: gạo, thịt, cá, trứng,
sữa, dầu hoả,…các hàng hoá này đã được tự do lưu thông hoá trên thị trường. Tuy vậy
trên thực tế vẫn còn một số hàng hoá có tính chất độc quyền do nhà nước quy định
như: điện, nước, bưu điện, hàng không,… Hay một số mặt hàng độc quyền do lợi thế
của doanh nghiệp trên thị trường, như thời gian qua việc giá thuốc tăng giá là do một
số công được uỷ nhiệm phân phối thuốc độc quyền nên đã găm hàng đợi tăng giá tạo
nên cơn sốt trên thị trường. Các ngành này mang tính chất độc quyền và dựa vào thế
Formatted: Right: 0,63 cm
độc quyền đó để thu những khoản siêu thăng dư và có thu nhập rất cao so với các
ngành khác. Điều đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng rất nhiều. Hơn nữa những
ngành này có vốn đầu tư rất lớn vì vậy mà các doanh nghiệp tư nhân khó có thể chen
chân vào cạnh tranh. Vì vậy nhà nước cần có những chính sách khuyến khích cho tư
nhân tham gia vào trong các lĩnh vực này, phá vỡ thế độc quyền, tạo ra sự lành mạnh
trong cạnh tranh về giá để cho QLGT phát huy hết vai trò của nó đối với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta như hiện nay.
2.2 Nguyên nhân của những khuyết tật còn tồn tại
Nước ta đã trải qua một thời kỳ dài trong cơ chế bao cấp, nên việc chuyển sang
cơ chế thị trường định hướng XHCN còn rất nhiều mới mẻ và chưa có kinh nghiệm.
Chưa có một nước nào đã có mô hình kinh tế của nước ta nên việc nước ta vừa phát
triển vừa phải lựa chọn xem có phù hợp với nền kinh tế nước ta hay không. Chính vì
vậy có những sai lầm trong một số đường lối và chính sách là không thể tránh khỏi.
Hơn nữa những con người cũ của cơ chế bao cấp còn nhiều người chưa thích ứng kịp
với sự thay đổi của cơ chế thị trường, cũng đã tạo ra những bước cản đối với nền kinh
tế. Bộ máy cồng kềnh, chồng chéo của cơ chế bao cấp cũng vẫn còn gây rất nhiều khó
khăn trong việc quản lí và sử lí các vi phạm. Hơn nữa rất nhiều căn bệnh cố hữu của
nước ta vẫn còn. Đó là việc cán bộ vi phạm ở cấp này thì chuyển cán bộ sang cấp
khác. Nạn cậy chức cậy quyền, con ông cháu cha vẫn còn rất phổ biến. Như thời gian
vừa qua ở một số tỉnh như Hà Tây nổi nên vụ việc các lãnh đạo địa phương lợi dụng
chức quyền đã tự ý lấy đất thổ canh để bán cho dân và cũng tự kiếm trác cho bản thân
họ những mảnh đất lớn, đất đẹp.
Các chính sách của Đảng Chính phủ và những hướng dẫn thi hành thực sự còn
chưa có được sự nhất quán từ TW đến địa phương. Qua mỗi cấp mỗi đơn vị thì chủ
trương của Đảng lại bị sai lệch đi. Chính vì vậy mà rất nhiều địa phương do hiểu sai
mà thực hiện sai những chính sách của nhà nước. Hơn nữa nhiều chính sách của chính
phủ còn bất cập chưa thực sự thông thoáng. Nhiều cơ quan trồng chéo nên nhau, hệ
thống bộ máy của nhà nước vẫn chưa thực sự đồng bộ. Như đợt làm hộ khẩu tại thành
phố Hồ Chí Minh thời gian vừa qua, một công dân đến đang ký hộ khẩu thì cơ quan
đăng ký hộ khẩu thì bảo cần “sổ đỏ” chứng minh sử dụng đất. Nhưng đến cơ quan
đăng ký quyền sử dụng đất thì họ lại đòi sổ hộ khẩu. Hay ngay cả những dự án đầu tư
Formatted: Right: 0,63 cm
vào phát triển kinh tế, nhà doanh nghiệp xin phép tỉnh thì tỉnh cho phép triển khai,
nhưng khi triển khai thì mới lại biết khu vực đó đã lằm trong dự án phát triển của nhà
nước. Nếu các cơ quan không có sự thống nhất vơi nhau mà cứ như trên thì thật là khó
để phát triển đất nước. Sự bất cập trong các chính sách đó của cơ quan nhà cũng là một
lý do mà thứ hạng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta giảm từ 60/102 xuống mức
77/104.
Đất nước ta thực sự còn nghèo, nền kinh tế chưa mạnh. Còn rất nhiều sản phẩm
cần thiết cho sản xuất cũng như tiêu dùng nhưng chúng ta vẫn phải nhập hoàn toàn từ
nước ngoài như: xăng dầu,… Nên nền kinh tế nước ta cũng còn phụ thuộc khá vào nền
kinh tế của các nước trên thế giới khác. Chính vì vậy mà trong những vấn đề như: tiền
lương, giá cả,… chúng ta vẫn chưa thể quản lí như chúng ta mong muốn. Nền kinh tế
còn đang phát triển nên các quy luật kinh tế vẫn chưa thể thực sự phát huy hết vai trò
của mình đối với nền kinh tế.
2.3 Phương hướng giải quyết những thực trạng trên
Điều quan trọng đầu tiên đó là việc cải cách bộ máy hành chính nhà nước gọn
gàng và hoạt động có hiệu quả hơn. Nhà nước cần quy hoạch lại các cơ quan hành
chính của nhà nước để giảm bớt đi những cơ quan hoạt động không có hiệu quả, làm
sao để có được số cơ quan đơn vị ít nhất nhưng hoạt động có hiệu quả nhất. Để có
được điều đó thì chúng ta cũng cần phải chọn được những cán bộ công nhân viên theo
đúng năng lực tránh tình trạng “con ông cháu cha ”, “mua chức bán quyền”. Thời gian
vừa qua Chính phủ cũng đã thi hành một số chính sách rất có hiệu quả như chính sách
“một cửa” được áp dụng ở rất nhiều thành phố và thực sự đã phát huy tác dụng cao.
Mọi vấn đề được giải quyết nhanh chóng, chính xác không bị phiền hà. Chính phủ
cũng nên sớm triển khai dự án chính phủ điện tử như đã làm ở một số quận trong TP
Hồ Chí Minh, bởi dự án này đem lại hiệu quả kinh tế xã hội rất cao. Những thành công
đó cần được phát huy và triển khai mở rộng quy mô áp dụng ra tất cả các tỉnh thành
trong cả nước. Nhà nước cũng nên có những chính sách ưu đãi khuyến các nhà đầu tư
nước ngoài và luôn luôn tự hoàn thiện mình để tạo môi trường thuận lợi cho các nhà
đầu tư an tâm đầu tư vào nước ta, tạo điều kiện để thu hút vốn và công nghệ khoa học
kỹ thuật của các nước trên thế giới. Bởi vì nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn còn đang
Formatted: Right: 0,63 cm
trong thời kỳ phát triển với nguồn vốn và nền công nghệ khoa học kỹ thuật vẫn còn
hạn chế.
Trong HTKT nhà nước cần sát xao hơn trong việc sản xuất kinh doanh tính chi
phí và doanh thu của các doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò của QLGT trong
HTKT. Nhà nước nên có một ban chuyên trách để quản lí việc HTKT của các doanh
nghiệp nhà nước cũng như ngoài quốc doanh để ta có được những số liệu chính xác về
nền kinh tế. Và để ta tính thuế đúng và hợp lí tránh thất thoát thuế của nhà nước.
Chúng ta cũng nên thực hiện chế độ khuyến khích bằng vật chất để khuyến khích các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng có những hình thức sử phạt nghiêm
minh. Nhà nước cũng nên thực hiện chế độ giám đốc bằng tiền để tạo sự độc lập giữa
bộ máy quản lý và nhà máy, như vậy cũng sẽ tạo được sự nghiêm chỉnh trong HTKT
vì hai chủ thể là giám đốc và doanh nghiệp tuy là một nhưng lại là hai chủ thể độc lập.
Bởi lợi ích của hai chủ thể là sự ảnh hưởng của nhau chứ không thực sự liên quan đến
nhau.
Về tiền lương ta cần phải có những thông tin kịp thời và vận dụng QLGT để
đưa ra những mức lương hợp lí cho người lao động. Cần có những thông tin về giá cả
sinh hoạt, ăn ở, học hành, y tế, …làm sao cho mức tiền lương tối thiểu cũng phải đảm
bảo cuộc sống tối thiểu của người lao động. Đất nước ta còn nghèo nên quỹ tiền lương
vẫn còn hạn hẹp. Chính vì vậy cần chú ý vận dụng QLGT thật tốt để đảm bảo với quỹ
lương như vậy nhưng vẫn bảo đảm cuộc sống cho người lao động. Nhà nước cần có
chính sách khuyến khích người tài với những chế độ ưu tiên riêng, lương bổng riêng
để thu hút nhân tài cho vào phục vụ cho đất nước. Như việc ở một số tỉnh hiện nay có
rất nhiều chính sách trong đó có chính sách về lương bổng để thu hút nhân tài. Như
tỉnh Bình Dương đang giải thảm đỏ để chào đón người tài về tỉnh. Những người có
bằng cấp khác nhau sẽ được hưởng lương sứng đáng như bằng cấp và còn được phân
nhà, phân đất cho những nhân tài.
Về giá cả nhà nước sử dụng những biện pháp kinh tế vĩ mô (chính sách sản
xuất, điều hoà cung – cầu, chính sách tài chính tiền tệ....) có hiệu quả cao hơn để đảm
bảo sự bình ổn giá cả tốt hơn. Việc quản lý HTKT của các DN để xác định chi phí,
doanh thu và kiểm soát được giá cả hàng hoá đúng với giá trị của nó. Đối với những
loại hàng hoá độc quyền do nhà nước quy định thì nhà nước nên có chính sách định
Formatted: Right: 0,63 cm
giá độc quyền với các mặt hàng của doanh nghiệp, trên cơ sở kiểm tra việc HTKT của
các doanh nghiệp này. Nhà nước cần có sự quản lý chặt chẽ hơn và có những chính
sách sử lý nghiêm khắc những sai phạm của các DN có lắm trong tay những mặt hàng
độc quyền như: xăng dầu, bưu chính viễn thông, hàng không. đường sắt,.... Như trong
thời gian vừa qua cơn sốt giá thuốc đã tạo nên những phản ứng mạnh mẽ của mọi
người dân và các cơ quan thông tin đại chúng. Do có một số công ty lợi dụng sự phân
phối thuốc độc quyền của mình đã tạo nên sự khan hiếm về thuốc, gây ra việc tăng giá
mạnh đối với một số loại thuốc ảnh hưởng lớn đến những người bệnh nhân, họ đã bị
bệnh đã tốn kém nay lại phải chịu khoản thuốc tăng giá tới gấp đôi gây khó khăn về
kinh tế đối với nhiều người và gia đình. Đối với những doanh nghiệp do sử dụng ưu
thế của mình trên thị trường để lạm dụng cũng cần phải sử lý thật nghiêm khắc. Nhà
nước cũng nên có những chính sách ưu đãi hơn để tạo điều kiện cho tư nhân tham gia
vào danh mục các hàng hoá có tính chất độc quyền như trên. Ngoài ra chúng ta vẫn
phải nhập khẩu như : xăng dầu, phân bón, phôi thép,... và chúng ta chịu ảnh hưởng rất
nhiều của biến động giá cả thế giới, vì vậy chính phủ cần có những kho dự trữ những
hàng cần thiết, hay đẩy mạnh đầu tư xây dựng nhà máy chế biến sản phẩn đó. Như
chíng phủ cần đẩy nhanh tiến độ của khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất là một ví dụ.
Hoàn thành được dự án chung ta sẽ bớt được những ảnh hưởng của biến động dầu mỏ
trên thế giới vì hiện nay nước ta đang xuất khẩu ra nước ngoài lượng dầu thô khá lớn
hàng năm. Song song với những việc đó thì chính phủ cũng cần phải đẩy mạnh công
tác chống hàng lậu, hàng giả, hàng nhái kém chất lượng trên thị trường. Chính phủ
cũng cần đẩy nhanh tốc độ phát triển của thị trường chứng khoán để cơ sở huy động
vốn của các doanh nghiệp được mở rộng hơn nữa, tránh tình trạng doanh nghiệp muốn
thay đổi công nghệ nhưng không có vốn để làm.
Nói tóm lai ta thấy điều cần thiết phải vận dụng tốt quy luật giá trị trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát
triển, và nền kinh tế phát triển cũng tạo điều kiện thuận lợi để vận dụng tốt quy luận
giá trị vào trong nền kinh tế.
kết luận
Formatted: Right: 0,63 cm
Quy mô nghiên cứu của đề án này tuy không phải là lớn và đề án cũng không
phải là công trình khoa học lớn. Nhưng ta thấy việc nghiên cứu đề án nêu nên thật cần
thiết và hợp lý với giai đoạn hiện nay của nước ta. Khi mà chúng ta vừa chuyển đổi từ
nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường với nhiều khó khăn
và mới mẻ. Qua đề án ta đã giải quyết được một số vấn đề như: ta đã tìm hiểu được sự
hình thành và bản chất của quy luật giá trị, vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh
tế. Đồng thời đề án cũng đã tìm hiểu được một phần thực trạng của của việc vận dụng
quy luật giá trị vào trong nền kinh tế nước ta từ thời kỳ đổi mới (1986) cho đến nay.
Đề án cũng đưa ra một số giải pháp để khắc phục những tồn tại và những thiếu sót khi
vận dụng quy luật giá trị vào trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta.
Qua việc nghiên cứu đề án ta thấy được quả thật quy luật giá trị có vai trò rất
quan trọng đối với với không chỉ riêng một nền kinh tế nào mà với tất cả các nền kinh
tế. Chính vì vậy mà chính phủ cần phải chú ý đến sự vận động của quy luật giá trị
trong nền kinh tế để có những chính sách hợp lý. Và chính phủ cũng cần tạo điều kiện
để cho quy luật giá trị phát huy tác dụng của nó cũng như tìm cách để hạn chế những
khuyết điểm của nó (phân hoá kẻ giầu người nghèo, gây bất công xã hội). Vận dụng
quy luật một cách sáng tạo và có hiệu quả sao cho phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Để làm tốt được nhiệm vụ đó thì trong thời
gian tới chính phủ sẽ phải cố gắng rất nhiều để phát triển kinh tế nói chung và đi song
song là việc ổn định giá cả và đưa ra được một mức lương hợp lý cho người lao động
đảm bảo cuộc sống đồng thời nhà nước cũng thu hút được chất xám có chất lượng để
phục vụ cho công cuộc xây dụng đất nước xã hội chủ nghĩa.
DANH MụC TàI Liệu tHam khảo
Formatted: Right: 0,63 cm
1.PGS.TS. Chu Văn Cấp và PGS.TS. Trần Bình Trọng (đồng chủ biên) – Giáo trình
Kinh tế chính trị – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 2002.
2. K. Marx – Tư bản Q1-3 – nhà xuất bản sự thật – 1973,1978.
3. PGS.TS. Trần Bình Trọng (chủ biên) - Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế
– nhà xuất bản bộ giáo dục và đào tạo – 2003.
4. Tạp chí Phát triển kinh tế – 2002.
5. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế – 1997,2003.
6. Tạp chí Nghiên cứu và phát triển – 2003.
7. Tạp chí Thị trướng giá cả - 2004.
Formatted: Right: 0,63 cm
Mục lục
Trang
Lời mở đầu ................................................................................................................ 1
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản của quy luật giá trị ....................................................... 2
1.1. Một số quan điểm về giá trị .................................................................................... 2
1.1.1. Quan điểm của trường phái trọng thương ...................................................... 2
1.1.2. Quan điểm của trường phái trọng nông ......................................................... 3
1.1.3. Quan điểm của trường phái trọng công ......................................................... 4
1.1.4. Quan điểm của K. Mark về giá trị ................................................................... 6
1.2. Biểu hiện của quy luật giá trị. ................................................................................ 7
1.2.1. Nội dung của quy luật giá trị. ......................................................................... 7
1.2.2. Sự vận động của quy luật giá trị trong tự do cạnh tranh ............................... 8
1.2.3. Sự vận động của quy luật giá trị trong độc quyền ........................................ 8
1.3. Vai trò của quy luật giá trị ...................................................................................... 9
1.3.1. Điều tiết nền sản xuất và lưu thông hàng hoá................................................. 9
1.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động .................................... 9
1.3.3. Lựa chọn tự nhiên phân hoá người sản xuất thành kẻ giầu người nghèo ... 10
Chương 2 : Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong thời gian qua và giải pháp
nhằn vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở Việt Nam trong thời gian tới .......................... 11
2.1. Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong thời gian qua ................................ 11
2.1.1. Vận dụng quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế ......................................... 11
2.1.2. Vận dụng quy luật giá trị vào cơ chế tiền lương .......................................... 14
2.1.3. Vận dụng quy luật giá trị vào những chính sách về giá cả .......................... 16
2.2. Nguyên nhân của những khuyết tật còn tồn tại. ............................................... 18
2.3. Phương hướng giải quyết những thực trạng trên.19
Lời kết luận ............................................................................................................. 22
Danh mục các tài liệu tham khảo. .......................................................................... 23
Formatted: Right: 0,63 cm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới.pdf