Tài liệu Luận văn Thực trạng vấn đề con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Thực trạng vấn đề con người trong
thời kỳ Công nghiệp hóa- hiện đại
hóa ở Việt Nam
1. Mở đầu:
1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghiên cứu con người- theo nghĩa chung nhất là bao gồm toàn bộ nội
dung nghiên cứu của các khoa học, là lĩnh vực hàng đầu trong các tìm tòi
khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn.
Con người là vấn đề trung tâm của mọi Triết học, Triết học nào cũng
hướng về con người và quay trở lại con người. Việc giải quyết nội dung
xung quanh vấn đề con người là tiêu chí phân biệt tính chất tiến bộ hay
không tiến bộ của các hệ thống triết học trong lịch sử.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta chỉ rõ: phát triển
kinh tế, cải thiện cuộc sống, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, coi khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, chính là sự quan tâm trước hết đến con người và vì con người.
Triết học Mác- Lênin- được hình thành trên cơ sở kế thừa những tư
tưởng tiến bộ...
54 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng vấn đề con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng vấn đề con người trong
thời kỳ Công nghiệp hóa- hiện đại
hóa ở Việt Nam
1. Mở đầu:
1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghiên cứu con người- theo nghĩa chung nhất là bao gồm toàn bộ nội
dung nghiên cứu của các khoa học, là lĩnh vực hàng đầu trong các tìm tòi
khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn.
Con người là vấn đề trung tâm của mọi Triết học, Triết học nào cũng
hướng về con người và quay trở lại con người. Việc giải quyết nội dung
xung quanh vấn đề con người là tiêu chí phân biệt tính chất tiến bộ hay
không tiến bộ của các hệ thống triết học trong lịch sử.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta chỉ rõ: phát triển
kinh tế, cải thiện cuộc sống, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, coi khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, chính là sự quan tâm trước hết đến con người và vì con người.
Triết học Mác- Lênin- được hình thành trên cơ sở kế thừa những tư
tưởng tiến bộ của nhân loại, với tư tưởng khoa học, đúng đắn về con người,
đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, sứ mệnh làm nên lịch sử của con
người. Trong tư tưởng ấy, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển của lịch sử. Và để có được những con người phát triển toàn diện, cần
phải có một nền kinh tế phát triển cao, một nền khoa học- kỹ thuật hiện đại
cùng nền giáo dục đào tạo phát triển
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, thứ IX và các Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Công nghiệp hóa
gắn với hiện đại hóa với tư cách là đường lối phát triển tất yếu, khách quan
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững...
Tăng trường kinh tế phải gắn với việc nâng cao chất lượng cuộc sống, phát
triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cao và đồng bộ, kết hợp đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp với
bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm hình thành một đội ngũ lao động giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ có tác phong công nghiệp, có năng suất, chất lượng,
hiệu quả cao, có ý thức phấn đấu vì sự phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc
của nhân dân. Chỉ với những con người có phẩm chất như vậy mới trở thành
nguồn lực đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa,
1.2. Mục đích của đề tài:
Nghiên cứu đề tài thứ nhất là dể giúp ta hiểu rõ được bản chất con người
qua cách nhìn nhận của các hệ tư tưởng triết học khác nhau, nhận thức được
vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Thứ
đến là giúp ta nắm được thực trạng vấn đề con người trong thời kỳ Công
nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam cùng với những bất cập này sinh; qua
thực trạng đó, đề ra những biện pháp khắc phục, đề ra kế hoạch, phương
huớng đào tạo con người phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa- hiện đại
hóa ở nước ta.
2. Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận
2.1.1. Quan niệm về con người:
2.1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo
nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc
nhị nguyên luận. Trong triết học phật giáo, con người là sự kết hợp giữa
danh và sắc( vật chất và tinh thần). Đời sống con người trên trần thế chỉ là
ảo giác hư vô. Vì vậy cuộc đời con người khi còn sống chỉ là sống gửi, là
tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi tinh thần
con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Trong Triết học phương Đông, do ảnh hưởng bởi thế giới quan duy tâm
hoặc duy vật chất phác, biểu hiện trong tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, quan
niệm về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong phú. Khổng Tử
cho bản chất con người do "thiên mệnh" chi phối, quyết định, đức "nhân"
chính là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh Tử
quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của
phong tục, tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp.
Vì vậy, phải thông qua tu dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình.
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo
đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp.
Triết học Tuân Tử lại cho rằng bản chất con người khi sinh ra là ác,
nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt
được.
Đổng Trọng Thư- người kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm
cực đoan quan niệm trời và con người có thể thông hiểu lẫn nhau.
Lão Tử- người mở đầu cho trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh
ra từ "Đạo". Do vậy, con người cần phải sống "vô vi", theo lẽ tự nhiên,
thuần phác, không hành động một cách giả tạo, gò ép, trái với tự nhiên.
Quan niệm này biều hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
Nhìn chung, con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy
tâm có pha trộn tính chất duy vật chất phác, ngây thơ trong mối quan hệ với
tự nhiên và xã hội.
2.1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước
Mác
Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau
về con người:
Các trường phái triết học phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức
vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Trong Kitô giáo,
con người là kẻ có thể xác, thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh
cửu. Linh hồn là giá trị cao trong con người. Vì vậy phải thường xuyên
chăm sóc phần linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh cửu.
Trong triết học Hy Lạp cổ, con người được xem là điểm khởi đầu của tư
duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu
lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ bao la.
Theo Arixtốt, con người chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng
khiếu nghệ thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là thang bậc
cao nhất của vũ trụ.
Triết học Hy Lạp đã có sự phân biệt con người với tự nhiên nhưng chỉ là
hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người.
Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế
sáng tạo ra, mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều
do Thượng đế xếp đặt.
Triết học thời kỳ phục hưng- cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý
tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một
trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát con người khỏi mọi gông
cùm chật hẹp mà theo chủ nghĩa thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con
người. Tuy nhiên vẫn chưa trường phái nào nhận thức được đầy đủ về bản
chất con người cả về mặt sinh học và mặt xã hội. Con người mới chỉ được
nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ,
Hêghen đã phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng của chủ
nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan,
thông qua sự vận động của "ý niêm tuyệt đối", đã cho rằng con người là
hiện thân của "ý niệm tuyệt đối". Hêghen cũng là ngừoi trình bày một cách
có hệ thống về các quy luật tư duy của con người, làm rõ cơ chế của đời
sống tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Hêghen là
người khẳng định vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử, đồng thời là
kết quả của sự phát triển của lịch sử.
Tư tưởng triết học của nhà duy vật Phoiơbắc đã vượt qua những hạn chế
trong triết học Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách
đích thực. Phoiơbắc phê phán tính chất siêu tự nhiên, siêu vật chất, phi thể
xác về bản chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con
người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người và tự nhiên
là thống nhất không thể tách rời. Phoiơbắc đề cao vai trò trí tuệ của con
người với tính cách là các cá thể người. Đó là những con người cá biệt,
phong phú, đa dạng, không ai giống ai. Quan niệm này đều dựa trên nền
tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính nhằm giải phóng cá nhân con
người. Tuy nhiên, Phoiơbắc không thấy được bản chất xã hội trong đời sống
con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể.
Các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù là đứng trên
nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hay duy vật siêu hình, đều
không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các quan niệm trên
đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần
hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên- sinh học mà không thấy
mặt xã hội trong đời sống con người.
2.1.1.3. Quan niệm của Triết học Mác- Lênin về bản chất con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của
thế giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang cả bản tính sinh
học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy
định sự tồn tại của con người. Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Các giai đoạn
mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất
đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người
trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người
sống là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự
nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm lý- sinh
lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân
con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với với thế giới
loài vật là mặt xã hội. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác
nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính
hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải
vật chất. Thông qua sản xuất vật chất con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ thế giới tự nhiên. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt
động lao động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một
cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động sản xuất, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình;
hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập mối quan hệ xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau: Hệ thống các quy luật tự nhiên, hệ thống
các quy luật tâm lý, hệ thống các quy luật xã hội. Ba hệ thống quy luật trên
cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người
bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan
hệ xã hội:
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba
mối quan hệ đó, suy cho đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ
xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối
quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề
nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc:"Bản chất con người không phải cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định rằng không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch
sử cụ đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mói quan hệ xã hội đó con người mới bộc lộ toàn bộ bản
chất xã hội của mình.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Không có giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thỉ không tồn tại con
người, Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài
của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là
chủ thể của lịch sử- xã hội
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng đồng thời tạo ra lịch
sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người.
Mặc dù là "tổng hòa các mối quan hệ xã hội", con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó,
bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng
mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận
động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh mang tính người nhiều hơn, Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
huớng phát triển nhằm đặt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý
nghĩa định hướng giáo dục.
2.1.2. Vai trò của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong sản
xuất xã hội
Hơn một trăm năm trước, khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của
xã hội loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội,
Các Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước
đo chung cho sự phát triển xã hội. Các Mác cho rằng, xu hướng chung của
tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng
sản xuất bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất tự nó đã nói lên trình độ phát triển của
xã hội qua việc con người chiếm lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng
tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt đoọng sống của chính con
người. Chúng ta biết rằng sản xuất là quá trình hoạt động thực tiễn cơ bản
của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Sản xuất quyết định
nhu cầu nhưng không có nhu cầu thì cũng không có sản xuất. Nhu cầu của
con người tăng lên không ngừng, do đó mà con người luôn luôn phát triển
sản xuất vì muốn nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất,
giảm nhẹ lao động. Vì vậy có thể nói, trong quá trình hoạt động, trước hết
và quan trọng hơn cả là hoạt động lao động sản xuất, bộ óc và bàn tay con
người không ngừng hoàn thiện. Sự hoàn thiện của bộ óc là cơ sở, là nguồn
vật chất vô tận cho những hoạt động ngày càng phức tạp, tinh vi, đa dạng,
phong phú của con người, đưa đến sự thay đổi liên tục cơ sở vật chất và kỹ
thuật của xã hội. Sự phát triển hoàn thiện không ngừng của trí tuệ con người
đã được thể hiện bằng việc truyền đạt, tàng trữ những tri thức lý luận và
kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác và được ghi nhận nhân cách cụ
thể, trước hết ở sự biến đổi của công cụ sản xuất. Hay nói cách khác, sức
mạnh trí tuệ con người không ngừng được vật thể hoá trong công cụ sản
xuất, trong lực lượng sản xuất nói chung. Tính vô tận của trí tuệ con người
được biểu hiện ở sự biến đổi không ngừng ở tính đa dạng, phong phú vô
cùng tận của công cụ sản xuất trong quá trình phát triển của xã hội. Những
cuộc cách mạng lực lượng sản xuất đã và đang diễn ra trong lịch sử xã hội
loài người là những nấc thang đánh dấu sự phát triển ngày càng cao hơn của
công cụ sản xuất: từ lửa đến công cụ sản xuất thủ công, rồi công cụ cơ khí
máy móc và công nghệ trí tuệ ngày nay.. Tất cả những điều đó chứng tỏ
rằng con người với bàn tay và khối óc của mình là nhân tố thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Nhưng bên cạnh vai trò con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, là
yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong lực lượngsản xuất của xã hội,
con người còn là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt
động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình, sáng
tạo ra lịch sử của xã hội loài người. Kết quả là xã hội loài người đã bước từ
thời đại văn minh này sang thời đại văn minh khác cao hơn, trong quá trình
lịch sử tự nhiên.
Mặt khác khi sản xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hóa của
sản xuất ngày càng gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng
của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại sẽ
cần đến những con người hoàn toàn mới. Các Mác đã khẳng định: sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội trước hết có ý nghĩa là "sự phát triển
phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân" (1). Bởi
vậy theo Các Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội
là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá của con
người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự
tha hoá để con người sống với cuộc sống đích thực của mình.
Thực tế đã chứng minh, trong công cuộc đổi mới đất nước, chỉ có con
người-yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội mới là
nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất
bại. Nhưng con người cũng là mục tiêu, là cái đích của sự phát triển, sự đổi
mới này. Hay nói cách khác, công cuộc đổi mới đất nước mà cụ thể là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là do con người, phụ thuộc vào con người và vì
con người.
CHươNG 2: Vấn đề xây dựng con người để đáp ứng cho sự nghiệp
công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam
2.2.1. Thực chất quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở việt nam
Trên phạm vi toàn thế giới, trong khu vực và ở nước ta hiện nay, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định là giai đoạn phát triển tất yếu mà
mỗi quốc gia sớm muộn đều phải trải qua, là hiện tượng có tính quy luật
phổ biến trong tiến trình vận động và phát triển của đất nước, nhất là đối
với những quốc gia đang phát triển muốn vươn lên thành nước có trình độ
phát triển cao. Vấn đề đặt ra đối với các nước này là thưc hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa như thế nào để có hiệu quả nhất, với thời gian ngắn nhất
và rút ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển.
ở nước ta, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành từ
những năm 60 của thế kỷ 20 theo đường lối mà Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng đã đề ra. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thức III,
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đến nay, nhiệm vụ đó vẫn được coi là nhiệm vụ trung tâm khi chúng ta
đã bước sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong bối cảnh lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa về thực chất, là:"Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại ,
dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao(2)"
Quan điểm này, về cơ bản, đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chỉ ra được cái cốt lõi của sự nghiệp
cách mạng này ở nước ta là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao
động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, nhằm đạt tới năng suất lao động
xã hội cao, gắn được công nghiệp hóa với hiện đại hóa, xác định được vai
trò của công nghiệp hóa và khoa học- công nghệ trong giai đoạn hiện nay.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là những hình thức đặc biệt của quá trình
phát triển kinh tế- xã hội.
"Hiện đại hóa" với đúng nghĩa của nó là làm cho một cái gì đó mang tính
chất của thời đại ngày nay. Hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là làm cho kỹ
thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế- kỹ thuật được hiện đại
hóa. Ngoài ra, hiện đại hóa còn bao hàm cả phương diện kinh tế- xã hội.
Như vậy hiện đại hóa là một khái niệm có nội dung rộng lớn, là quá trình
cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn
minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở nền kinh tế phát triển với nhịp độ tăng
tổng sản phẩm chung tính theo đầu người mà còn ở đời sống chính trị, văn
hóa, tinh thần của xã hội. Nó tạo ra những điều kiện hiện thực để đưa xã hội
lên trình độ hiện đại và góp phần thực hiện những giá trị phát triển cao của
nhân loại vào cuộc sống.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang đưa tới sự thay
đổi triệt để về chất chất trong kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Bởi vậy, quá
trình công nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm khác với quá trình công nghiệp
hóa của các nước đi trước. Một điều rõ ràng là chúng ta không thể thực hiện
xong xuôi quá trình công nghiệp hóa với nội dung căn bản là cơ khí hóa các
ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân rồi mới tiến hành hiện đại hóa.
Hơn nữa, khi thực hiện cơ khí hóa cũng không thể sử dụng máy móc lạc hậu
được sản xuất trước đây, mà phải sử dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất
tiên tiến hiện nay. Với ý nghĩa đó, công nghiệp hóa trong điều kiện hiện nay
đã bao hàm những nội dung của hiện đại hóa, công nghiệp hóa phải đi liền
với hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa sẽ mở ra con đường tắt, rút
ngắn khoảng cách giữa các nước đang phát triển so với các nước tiên tiến.
Đó chính là đặc điểm mới của công nghiệp hóa.
Đảng ta xác định nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa có cả
"thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Chúng ta phải chủ
động nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc tạo ra thế và lực
mới, đồng thời luôn luôn tỉnh táo kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy
cơ, kể cả những nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng hướng(3)"
Cùng việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa phải nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước
ta thành nước công nghiệp, tăng trưởng kinh tế đi liền với tăng trưởng văn
hóa, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên cơ sở "kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội", vì mục tiêu "dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
2.2.2. Mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam:
Có thể khái quát mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hóa ở nước ta như sau:
Thứ nhất, phấn đấu trong vòng 15-20 năm tới, xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp, kinh tế mạnh, tăng trưởng nhanh và bền vững, tăng
nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, sao cho nó có thể chiếm 90%GDP-
một cơ cấu kinh tế mà các nước phát triển đã đạt được.
Thứ hai, xây dựng con người Việt Nam hiện đại, mà trước hết là đội ngũ
những con người lao động có kỹ thuật, kỷ luật, có kỹ năng lao động thuần
thục, trong đó, cần phải nhanh chóng tạo ra một lực lượng trí thức đông về
số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đủ sức giải quyết những
vấn đề đặt ra về sự phát triển xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Không ngừng nâng cao năng suất lao
động , tăng hàm lượng chất xám trong một đơn vị sản phẩm, tăng sức cạnh
tranh của nền kinh tế thông qua quan hệ đối ngoại và xuất khẩu.
Thứ ba, trên cơ sở xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phấn đấu xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho mỗi công dân, mỗi tập thể
đều được bình đẳng góp tài năng vào việc phát triển đất nước và hưởng thụ
những giá trị tương xứng với công sức của họ.
Thứ tư, trên cơ sở phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao lĩnh
vực dịch vụ, chúng ta cần nỗ lực xây dựng một xã hội hiện đại, năng động,
có khả năng "tự đề kháng, tự điều tiết và tự phát triển", "tự thích nghi" để
rồi vượt qua thử thách, nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
từng bước phát triển kinh tế tri thức, đủ sức cạnh tranh, xây dựng một xã
hội hiện đại với một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền
văn minh cao thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nâng cao dân trí, trình độ
khoa học- công nghệ cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân, làm cho họ có lối
sống, mức sống và khả năng hoạt động văn hóa và văn minh của thời đại.
Chúng ta không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên một nền kinh
tế nghèo nàn, lạc hậu và cũng sẽ không thể có được một xã hội tốt đẹp, nếu
nhân dân ta chưa có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, trình độ văn hóa
cao, tay nghề vững; nếu trình độ dân trí chưa cao.
2.2.3. Tại sao cần phải xây dựng con người việt nam trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa?
Theo quan điểm của triết học Mác- Lênin, lịch sử nhân loại, xét đến
cùng, là lịch sử giải quyết vấn đề con người, từng bước thoát khỏi thần
quyền và bạo quyền để đi đến mục tiêu cuối cùng là phát triển toàn diện cá
nhân trong một xã hội văn minh. Không một dân tộc nào tồn tại và phát
triển lại không chú ý tới vấn đề con người, có điều khác nhau ở mục đích và
phương pháp giải quyết mà thôi. Ngày nay, ở nước ta, cùng với quá trình
đổi mới toàn diện đất nước và bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, việc xây dựng con người Việt Nam hiện đại là đòi hỏi cấp
bách, có thể khẳng định điều đó là do:
Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, như Đảng ta đã chỉ rõ, là tạo ra một xã hội mà trong đó, con
người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước, có nền kinh tế
phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm mục đích phát triển kinh tế- xã
hội và lấy đó làm môi trường để phát triển toàn diện con người. Phát triển
con người là đặc trưng bản chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội
chủ nghĩa; là mục tiêu, động lực cơ bản của quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Con người không thể chọn cho mình một xã hội để sinh ra, song xã hội
phải đào luyện những con người phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển
của nó. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng hoàn cảnh đó là do
chính con người tái tạo ra. Sự phù hợp giữa con người và hoàn cảnh chỉ
được hiểu thông qua hoạt động thực tiễn.
Ngày nay trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con
người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố hàng
đầu , yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà
hơn nữa, nó đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử của
mình. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cá nhân vừa
là sản phẩm, vừa là kẻ sáng tạo nội dung các quan hệ xã hội, vừa bị quy
định, vừa "tự do"; và theo một ý nghĩa nhất định nào đó, vừa là điểm kết
thúc vừa là điểm xuất phát.
Thứ ba, phát huy nguồn lực con người là vấn đề chiến lược trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chúng ta chỉ có một lối ra duy nhất trong thời đại cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, là phát huy nguồn lực con người. Sự đi lên của
chúng ta phải dựa vào thế mạnh duy nhất của mình, đó là con người Việt
Nam, trí tuệ Việt Nam, tiềm năng chất xám Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII khẳng định: Muốn tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục-
đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững.
2.2.4. Những yêu cầu đối với con người VIệt Nam để đáp ứng sự nghiệp
công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Trong "Đường cách mệnh", chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành bài mở đầu
cho vấn đề đào tạo những "hạt giống" đầu tiên cho cách mạng. Người cho
rằng, muốn làm cách mạng, trước hết cần phải có những con người có đầy
đủ phẩm chất cách mạng. Và, chính Người là một mẫu mực tuyệt vời về một
con người chân chính. Đã có rất nhiều cán bộ của Đảng, những chiến sĩ
cộng sản trung kiên đã nêu những tấm gương sáng ngời, những hình ảnh tiêu
biểu cho con người Việt Nam mới. Song chỉ khi giai cấp vô sản giành được
chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mới có điều kiện xây dựng con
người mới trong đông đảo quần chúng. Ngày nay, trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng vào mục đích "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, con người Việt Nam- mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế-
xã hội cũng phải có những đặc trưng mới, theo yêu cầu mới để có thể góp
phần tốt nhất vào sự nghiệp xây dựng đất nước, phát huy nhiều nhất những
tiềm năng của bản thân. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải xây dựng con người
Việt Nam hiện đại như thế nào để không rơi vào ảo tưởng, để tiến hành và
đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa sự nghiệp đó đến
thành công?
Đảng ta đã định hướng phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng mới là xây dựng con người Việt Nam với những đức tính sau:
- "Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mĩ và thể lực (4)".
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh. Chính vì vậy, con người Việt Nam cần phải có phẩm
chất chính trị vững vàng, đạo đức, tư cách tốt; có ý thức tổ chức kỷ luật cao;
chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Định
hướng đó không chỉ nhằm xây dựng một nền tảng tinh thần vững chắc cho
công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, mà còn nhằm tạo ra một nguồn
lực mạnh mẽ, bền vững cho công cuộc xây dựng đất nước.
2.2.5. Thực trạng xây dựng con người Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Trong suốt quá trình phát triển cách mạng nước ta, Đảng ta và chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những quan điểm của trỉết học Mác-
Lênin về con người vào việc xây dựng con người Việt Nam mới phù hợp với
điều kiện nước ta. Những định hướng phẩm chất của con người Việt Nam
được đề cập trong các văn kiện của Đảng ta trong việc đẩy mạnh công tác
giáo dục. Trên thực tế Đảng ta đã thường xuyên đổi mới công tác giáo dục
nhằm hình thành và phát triển nhân cách các thế hệ con người Việt Nam
phục vụ công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.
Ngay từ những ngày đầu bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên đất nước ta, Đảng ta đã khẳng định "con người là vốn quý nhất",
chăm lo cho hạnh phúc của tất cả mọi người là sự nghiệp lớn lao của Đảng.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, khi thông qua đường lối chính
sách đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Đại hội VI(1986), Đảng
ta đã khẳng định vai trò quan trọng của "nhân tố con người" trong toàn bộ
sự phát triển kinh tế- xã hội. Đại hội VII(1991) của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến
năm 2000.Tại đại hội này, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của
chiến lược kinh tế- xã hội, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tiếp đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư( khóa
VII) đã nâng tầm nhận thức của Đảng ta lên cao hơn về vai trò của con
người. Sự phát triển con người được xem như là nhân tố quyết định mọi sự
phát triển- phát triển xã hội, phát triển, phát triển kinh tế, phát triển văn
hóa... Trong các quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Đảng ta đã đúc kết và khẳng định "lấy việc phát huy nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững".Khẳng định này, một
lần nữa, đã được Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX.
"Đổi mới" là một quá trình cải biến cách mạng. Đặc điểm cơ bản của quá
trình này là chủ thể của nó phải thay đổi chính bản thân mình, xóa bỏ những
lực cản trong xã hội và trong mỗi con người. Thực tiễn chứng minh, không
phải bộ máy, cũng không phải khâu nào khác trong hệ thống chính trị với
tầm quan trọng của nó, mà chính là con người với phẩm chất và năng lực
nhất định quyết định sức mạnh của đổi mới.
Chặng đường đổi mới vừa là một giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong sự phát triển đất nước. Đảng ta khẳng định:"Đến nay, thế và lực của
đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số
mặt chưa vững chắc, song đã tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Về một số thành tựu cơ bản: nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng
GDP hàng năm trong thời kỳ 1991-1995 là 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi từ
77,4%(1986) xuống còn 12,7%(1995). Sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đã giải phóng sức
sản xuất. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và tiếp cận với công nghệ sản xuất
tiên tiến của nhiểu nước trên thế giới. Đại bộ phận nhân dân có đời sống vật
chất và tinh thần được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa
khá hơn trước. ở đây, người lao động đã được giải phóng từng bước khỏi sự
ràng buộc của cơ chế cũ, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động,
sáng tạo trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc thực hiện chế
độ dân chủ trong Đảng và trong xã hội được đẩy mạnh đã phát huy được trí
tuệ tập thể, phát huy sức mạnh đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Chính sách xã hội ngày càng được hoàn thiện và hướng vào con người, tạo
ra những động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, phát triển đất nước.
Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ ngày càng được khẳng
định. Những thành tựu trên cho thấy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó đổi mới tư duy là khâu đột phá, đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi
mới chính trị từng bước, đã tạo nên bước nhảy vọt lớn. Điều đó tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Xét về lĩnh vực phát huy nguồn lực con người, công cuộc đổi mới đã
đạt những thành tựu đáng kể và vô cùng quan trọng. Khảo sát tình hình phát
triển con người Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua cho thấy:
Về thể lực và sức khỏe, khi nền kinh tế- xã hội có bước phát triển thì tình
trạng sức khỏe của con người ngày càng được cải thiện. Theo đánh giá của
tổ chức Y tế thế giới, tuy Việt Nam có thu nhập bình quân theo đầu người
vào nhóm thấp nhất thế giới, nhưng về mặt sức khỏe đạt loại trung
bình(73/150 nước). Chúng ta đều hiểu rằng sự phát triển về mặt thể lực, sức
khỏe là cơ sở để phát triển toàn diện toàn diện con người, sự lành mạnh về
thể xác và tâm hồn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển hài hòa các
phẩm chất, năng lực của con người.
Về sự phát triển trí tuệ của con người Việt Nam:
Sự phát triển này được biểu hiện qua nhiều chỉ số như: trình độ học vấn,
kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, kỹ năng nghề
nghiệp...Hiện nay, cả nước có gần 20 triệu học sinh các cấp. Hiện tại ta đã
có 35 sinh viên trên 10.000 dân. Cả nước có số lượng 8.000 tiến sĩ và hàng
vạn thạc sĩ. Biểu hiện đáng mừng là chúng ta liên tiếp giành được nhiều giải
cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế về toán, lý, hóa, tin học , sinh
vật...
Mặt khác, trình độ chuyên môn không ngừng được nâng cao, kỹ năng
nghề nghiệp ngày càng tinh thông. Con người Việt Nam đã từng bước làm
chủ được những dây chuyền công nghệ, giải pháp kỹ thuật đòi hỏi tay nghề
cao...
Tuy nhiên, sự phát triển về mặt trí tuệ của con người Việt Nam hiện nay
cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: trí lực con người đã có bước
phát triển, song không đều và chất lượng chưa cao, mức chênh lệch về trình
độ học vấn giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn, cán bộ khoa học kỹ
thuật, khoa học nhân văn, số người thật sự có năng lực về trí tuệ, đủ sức đáp
ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn .
Đến nay, cả nước chưa phổ cập xong trình độ tiểu học. Độ vênh giữa
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội-nhân văn khá lớn trong mỗi con
người, nhất là tầng lớp trẻ do sớm học lệch, học tủ, học để đi thi; do nội
dung, phương thức đào tạo chưa phù hợp, thiếu đồng bộ. Điều đó đã hạn chế
sự phát triển về năng lực trí tuệ con người Việt Nam, nhất là thanh niên.
Nhìn chung, sau những năm đổi mới, sự đầu tư của Nhà nước vào giáo
dục- đào tạo, vào chính sách xã hội ngày càng nhiều. Sự cạnh tranh về việc
làm trong nền kinh tế thị trường ngày càng căng thẳng, xã hội ngày càng
đánh giá cao giá trị của lao động trí tuệ cũng như sự vươn lên của cá nhân
để chiếm lĩnh tri thức tiên tiến. Tất cả những điều đó là những yếu tố tạo
nên trí lực của con người Việt Nam, làm cho trí lực ấy được phát triển ở
mức độ nhất định. Đó là con người năng động, nhạy bén, nắm bắt những cái
mới, có nhiều cách làm sáng tạo để giải quyết các vấn đề đặt ra; dám nghĩ ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, ngày càng trưởng thành trong các lĩnh vực
kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, xã hội.
Về tư tưởng, đạo đức cách mạng
Lý tưởng và đạo đức cách mạng là vấn đề vô cùng quan trọng, không thể
thiếu trong nhân cách của con người Việt Nam hiện nay.Thành tựu lớn lao
trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo, xây dựng con người Việt Nam là chúng
ta đã từng bước tạo lập, xây dựng những con người có lý tưởng cách mạng,
đạo đức trong sáng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
Sự biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế- xã hội đã tác động
mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của con người Việt Nam, ảnh hưởng
đến lý tưởng và hành vi đạo đức của họ. Các kết quả điều tra, nghiên cứu xã
hội những năm qua cho thấy, cùng với quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập,
giao lưu với con người, thang giá trị của con người Việt Nam cũng bị biến
đổi, khúc xạ theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Bên cạnh mặt tích cực
trong việc định hướng vào các giá trị chung của nhân loại( hòa bình, tự do,
sức khỏe, việc làm, công lý, học vấn, an ninh, niềm tin, nghề nghiệp...), các
giá trị của truyền thống dân tộc( lòng yêu nước, nhân ái, tính tập thể, cộng
đồng, tình nghĩa, hiếu học, càn cù, sáng tạo...) đã xuất hiện xu hướng xem
nặng vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; xem nặng giá trị hiện đại, ngoại lai,
xem nhẹ giá trị truyền thống, thuần phong, mỹ tục của dân tộc; coi trọng vai
trò của kỹ thuật, xem nhẹ vai trò của con người; đặt lên quá cao lợi ích cá
nhân mà xem nhẹ lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng.
2.2.6. Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người VIệt Nam
theo yêu cầu đẩy mạnh Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Từ thực trạng trên, trước yêu cầu của sự nghiệp đầy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức. Xét từ góc độ
con người, ở đây đang bộc lộ nhiều mặt hạn chếm yếu kém. Điều này thể
hiện ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ cấu lao động còn bất hợp lý và lạc hậu về nhiều mặt
Sự mất cân đối giữa các ngành còn lớn, phân bố giữa các miền, các vùng
không đều. Chẳng hạn, vùng có lực lượng lao động làm việc trong nhóm
ngành nông- lâm- ngư nghiệp có tỷ lệ cao nhất là miền núi- trung du phía
Bắc( 83,8%), thấp nhất là Đông Nam Bộ( 32,12%). Vùng có lực lượng lao
động làm việc trong công nghiệp- xây dựng cơ bản và dịch vụ cao nhất là
Đông Nam Bộ: 23,64% và 44,24%.
Cơ cấu lao động ở nông thôn rất lạc hậu và quá trình chuyển dịch diễn ra
rất chậm. Lực lượng lao động nông thôn đang tăng nhanh trong khi diện
tích đất canh tác đang thu hẹp, bình quân 0,3 ha/1 lao động . hệ số sử dụng
đất mới đạt 1,1 lần.
Thị trường lao động diễn biến phức tạp, luôn mất cân đối giữa cung và
cầu, do chưa đủ các điều kiện cho thị trường lao động phát triển. ở nước ta,
thị trường lao động hình thành tự phát, chưa hoàn chỉnh, chưa được điều tiết
và quản lý từ cẫp vĩ mô, quy mô nhỏ, chưa giải phóng hết tiềm năng lao
động.
Hiện nay, đang có sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường sức lao động.
Nguyên nhân là do lực lượng lao động bổ sung hàng năm vẫn lớn hơn số
việc làm được tạo ra: do cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn đến sự thay đổi về cơ
cấu lao động. Số người thiếu lao động ở nông thôn chiếm 25,4% lực lượng
lao động. Số người trong lực lượng lao động không hoạt động hoạt động
kinh tế thường xuyên tính chung trong cả nước là 27,7%.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, riêng 1996, cả nước có 2.042.685
người đủ 15 tuổi trở lên ở nông thôn ra thành thị tìm việc làm, chiếm
7,14% lực lượng lao động, trong đó, lao động trong độ tuổi chiếm 93,98%.
Vùng có tỉ lệ cao nhất là đồng bằng sông Hồng(12,94%), tiếp đến là Bắc
Trung Bộ( 8,43%).
Trên thị trường lao động, cung vẫn vượt quá cầu. Số người chưa có việc
làm tập trung vào lứa tuổi thanh niên. Hiện tượng thất nghiệp trong giới có
học có xu hướng tăng ở khu vực thành thị. Việc di dân tự do từ nông thôn ra
thành thị, tứ phía Bắc vào Đông Nam Bộ, Tây Nguyên chưa được kiểm soát
chặt chẽ. Quyền lợi người lao động cũng như người thuê lao động chưa rõ
ràng, chưa đảm bảo.
Thứ hai, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn còn thấp
Thống kê năm 1997 cho thấy: toàn quốc, số người chưa biết chữ chiếm
5,1%, đã tốt nghiệp cấp 1 chiếm 28,13%, cấp 2: 32,27%, cấp 3: 14,14%
trong tổng lực lượng lao động. Đồng bằng sông Hồng có tỉ lệ tốt nghiệp cấp
2 cao nhất: 74,48%; thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long: 54,33%. Mức
chênh lệch về trình độ học vấn ngày càng lớn giữa lực lượng lao động ở
thành thị tốt nghiệp cấp 2, 3 là:61,85% so với nông thôn là 42,62%.
Toàn quốc, số người thuộc lực lượng lao đông không có chuyên môn kỹ
thuật chiếm 87,18%; có chuyên môn kỹ thuật: 12,82%. Trong đó, công nhân
kỹ thuật( có bằng và không có bằng) và sơ cấp chiếm 5,58%; trung học
chuyên nghiệp: 3,8%; cao đẳng và đại học: 2,5%; trên đại học: 0,04%. ở khu
vực thành thị, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 29,37%, trong
đó công nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm 12,14%; trung học chuyên
nghiệp:8,34%; cao đẳng và đại học 8,69%; trên đại học:0,2%. Khu vực nông
thôn, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 9,3%; và tương ứng với
các chỉ số của thành thị là:2,41%; 5,84%; 0,94%; 0,01%. Mức chênh lệch
này có xu hướng ngày càng tăng.
Thứ ba, chính sách xã hội ở nước ta còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa hợp
lý
Những chính sách xã hội trong thời kỳ chiến tranh, thời kỳ kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp còn được sử dụng trong thời kỳ đổi mới, chậm
khắc phục, có mặt còn kéo dài, gây trở ngại nhiều đến nền kinh tế, nhiều khi
triệt tiêu mất những động lực lợi ích của người lao động.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế thì chính sách xã hội không thay đổi kịp với sự phát triển của đất
nước. Nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân, sự quản lý nhà nước, sự
thay đổi cơ cấu xã hội...làm cho chính sách xã hội bị động, lúng túng.
Thứ tư, quyền dân chủ của nhân dân còn nhiều vấn đề tiếp tục phải giải
quyết
Qua 15 năm đổi mới, nhân dân đã phát huy quyền làm chủ trên nhiều
lĩnh vực: được đóng góp ý kiến vào các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
quan trọng của đất nước, xây dựng các dự án luật, tiếp xúc, chất vấn các
đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân về những vấn đề thiết thân của mình;
trực tiếp tham gia các phong trào, như cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư", phong trào "Đền ơn đáp nghĩa",
phong trào "Xóa đối giảm nghèo"... Đó là còn chưa kể các hình thức nhân
dân tham gia tự quản tại cơ sở bằng việc tái lập các quy ước, hương ước-
một phương tiện hỗ trợ cho pháp luật trong việc xử lý, điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội.
Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, vẫn còn bộc lộ những yếu kém, t iêu
cực trong quá trình dân chủ hóa xã hội: hiện tượng mất dân chủ không chỉ
xảy ra ở cấp trên, mà còn ở cả cơ sở, nơi chính quyền ở trong lòng dân. Mặt
khác, lại đang diễn ra tình trạng phân tán cục bộ, kỷ luật lỏng lẻo, phép
nước không nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng; hiện tượng tham ô,
lãng phí, quan liêu, cửa quyền, sách nhiều, ức hiếp nhân dân không những
chưa bị ngăn chặn, giảm bớt mà có lúc, có nơi, còn trầm trọng hơn. Điều đó
gây bất bình trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chế độ.
Trong quản lý kinh tế, hiện tượng nắm quá chặt những cái cân mở rộng,
trong khi lại buông lỏng những cái cần nắm vững đã gây sức ỳ, cản trở sự
phát triển sản xuất. Bên cạnh đó có sự suy thoái đạo đức, lối sống ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Biểu hiện
cụ thể của sự suy thoái này là: tham nhũng, dùng tiền Nhà nước tiêu xài
phuùng phí, lãng phí của công, ăn chơi sa đoạ, bất chính; kèn cựa địa vị, cục
bộ, bè phái, mất đoàn kết, độc đoán chuyên quyền, mê tín dị đoan.
Như vậy bên cạnh những biểu hiện tích cực cũng xuất hiện những biểu
hiện tiêu cực về đạo đức cần giải quyết.
Con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải
khắc phục được những hạn chế của lối sống, sinh hoạt, tác phong lạc hậu,
hình thành con người mới với những chuẩn mực giá trị của văn hóa công
nghiệp tiên tiến.
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa
2.3.1.Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo
Sự nghiệp Giáo dục- đào tạo được Đảng ta xác định đóng vai trò hàng
đầu trong việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Ngày nay, khoa học- công nghệ đang tác động mạnh mẽ vào chính cuộc
sống con người. Thế giới đang đổi thay, phát triển và cạnh tranh quyết liệt,
tận dụng thời cơ và những thách thức của thời đại không phải là công việc
của riêng một quốc gia nào. Nhật Bản đã xây dựng 19 thành phố công nghệ
rải rác khắp đất nước, với ý định dẫn đầu loài người vào làn sóng văn minh
mới; Mĩ đang cố níu lại vị trí siêu cường về kinh tế của mình bằng mọi
cách, kể cả thủ đoạn sử dụng vũ lực quân sự. Các nước thuộc cộng đồng
kinh tế châu Âu cũng đang cố gắng bứt lên sánh ngang với Nhật Bản và Mĩ.
Các "con rồng" châu á tuy đi sau nhưng cũng đạt được những tiến bộ phi
thường về kinh tế...Tất cả các quốc gia đó có thể đạt được những sự phát
triển phi thường đó là do sớm nhận thức được vai trò của tri thức và triệt để
khai thác kho tài nguyên vô tận này. Để có được những con người với trí
tuệ phát triển không có cách nào khác là giáo dục- đào tạo.Thực tiễn lịch sử,
nhất là trong thời đại ngày nay đã chứng minh rằng trong tất cả các yếu tố
tạo nên sự thành công của một quốc gia không có yếu tố nào quan trọng hơn
giáo dục- đào tạo.
Có điều đó là vì: Trước tiên, giáo dục- đào tạo ngày nay đã trở thành
động lực hàng đầu cho phát triển kinh tế. Theo tính toán, nếu phổ cập giáo
dục nâng lên một bậc thì năng suất lao động bình quân trên toàn xã hội tăng
tới 5%. Sở dĩ như vậy là vì giáo dục- đào tạo tạo ra cho nền kinh tế quốc
dân của một dân tộc những nhà bác học, những chuyên gia, những kỹ sư,
những người lao động có kỹ thuật trên các lĩnh vực mà nhờ họ, mới có thể
sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới, những nguyên liệu
không có sẵn trong tự nhiên, những hình thức quản lý mới đạt hiệu quả kinh
tế cao. Giáo dục- đào tạo trực tiếp quyết định việc nâng cao trình độ học
vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý, năng lực thực tiễn của
người lao động. Giáo dục- đào tạo không chỉ là yếu tố hàng đầu để phát
triển kinh tế mà còn tạo ra nhân cách con người. Một số nhà nghiên cứu
giáo dục và xã hội đã khẳng định rằng: con người chỉ sinh ra con người con
giáo dục sinh ra cả năng lực và nhân cách con người.
Lịch sử càng tiến lên, vai trò của yếu tố trí tuệ trong nguồn lực con
người càng trở nên quan trọng. Vai trò của trí tuệ không chỉ tăng lên trong
lĩnh vực sản xuất vật chất, mà còn tăng lên trong tất cả mọi lĩnh vực, mọi
hoạt động của cuộc sống; ý nghĩa to lớn của giáo dục- đào tạo là ở chỗ: giáo
dục- đào tạo là một nhân tố rất cơ bản đối với sự phát triển của văn hóa, là
một trong những hiện tượng tiềm ẩn, có khả năng "hóa thân", "thẩm thấu"
không chỉ vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất, mà cả quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng. Vì vậy giáo dục- đào tạo luôn là nền móng đối với
toàn bộ chiến lược phát triển con người và chiếm vị trí trọng yếu trong
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Ngày nay, đặc biệt là ở các nước phát triển, nhân tố ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế chính là tiềm năng khoa học, giâo dục và khả năng huy
động chất xám của đất nước. Riêng Nhật Bản, 1/4 mức tăng trưởng kinh tế
sau chiến tranh là nhờ vào giáo dục- đào tạo.
Như vậy, nói đến vai trò của sự nghiệp giáo dục- đào tạo trong giai
đoạn hiện hay là phải nói đến vai trò động lực hàng đầu của nó trong tăng
trưởng kinh tế. Bài học của sự thành công trong tăng trưởng kinh tế của các
nước công nghiệp mới (NIC) là tài trợ cho các dự án phát triển nguồn lực
con người, chia sẻ tổng sản phẩm thu nhập quốc dân ngày một nhiều thêm
cho giáo dục- đào tạo. Có thể nói, để tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế thì
trước tiên phải tránh tụt hậu xa hơn về sự đầu tư cho giáo dục- đào tạo và
khoa học- công nghệ.
Giáo dục- đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. ở Việt
Nam ta, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự nghiệp
giáo dục- đào tạo đang đứng trước những yêu cầu mới, cao hơn. Trong Nghị
quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VII về định
hướng chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chỉ tõ mục tiêu của của giáo dục- đào tạo hiện
nay là:"Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam, có ý
thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa
học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ thuật thực hành giỏi,
có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe"
Hơn nửa thế kỷ qua, đặc biệt là từ khi chúng ta tiến hành công cuộc đổi
mới đất nước, nền giáo dục nước ta đã có những bước tiến đáng kể. Từ chỗ
95% dân số mù chữ, đến nay, đã có khoảng 90% dân số biết chữ. Đại bộ
phận nhân dân có trình độ từ tiểu học trở lên; nước ta từ chỗ chỉ có ba
trường phổ thông trung học đến nay đã có hơn 20.000 trường phổ thông các
cấp. Năm học 1996-1997, cả nước có hơn 20 triệu học sinh với hơn 130
trườngĐại học, cao đẳng, gần 500 trường trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề, gần 90 cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học... Cho đến nay,
các loại hình trường lớp từ phổ thông, trung học chuyên nghiệp đến đại học
tương đối đa dạng và phát triển rộng khắp, đội ngũ giáo viên được đào tao
chính quy, có tâm huyết, luôn gắn bó với nghề và phát huy được trách
nhiệm trong công tác giáo dục và đào tạo. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
cho công tác đào tạo bước đầu đã được tăng cường, đáp ứng một phần nhu
cầu đào tạo của các tập thể, cá nhân và các thành phần kinh tế khác. Hợp tác
quốc tế về giáo dục- đào tạo được mở rộng...
Thành tựu của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm qua là không
thể phủ nhận, nhưng cũng còn những yếu kém, thể hiện ở chỗ chất lượng và
hiệu quả của giáo dục- đào tạo chưa cao, duy mô còn nhỏ và manh mún,
chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về nguồn lực con người trong công
cuộc đổi mới đất nước. Cơ cấu ngành nghề không cân đối, đào tạo và sử
dụng chưa hình thành một cấu trúc chặt chẽ, dẫn đến hiện tượng trôi nổi
chất xám. Đầu ra của đào tạo thì thừa, đầu vào của sử dụng thì thiếu...
Sở dĩ như vậy là vì một số nguyên nhân:
Thứ nhất, quy mô giáo dục- đào tạo mở rộng nhưung thiếu định hướng
về chiều sâu, thiếu quy hoach ngành nghề đào tạo cho các trường, thiếu sự
chỉ đạo đồng bộ về nội dung, chương trình đào tạo.
Thứ hai, phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính
chủ động sáng tạo của học sinh.
Thứ ba, nội dung giáo dục- đào tạo chưa gắn chặt với lao động sản xuất.
Nhà trường- gia đình- xã hội chưa kết hợp chặt chẽ với nhau.
Thứ tư, chưa có chính sách cụ thể đối với giáo viên để khuyến khích họ
nâng cao trình độ.
Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất- kỹ thuật cho các trường thiếu đồng bộ.
Trang thiết bị và đồ dùng học tập chưa hiện đại, chậm cải tiến so với sự
phát triển khoa học-kỹ thuật trên thế giới.
Từ thực trạng của sự nghiệp giáo dục- đào tạo nước ta hiện nay, để làm
cho giáo dục- đào tạo thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", để phát huy
nhân tố con người, chúng ta có thể sử dụng một số biện pháp:
-Phải kiên quyết và nhanh chóng tăng nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa
cho giáo dục- đào tạo. Mặc dù nước ta còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế-
xã hội, nhưng không thể để mức để tổng chi phí đầu tư cho giáo dục- đào
tạo ở mức thấp. Đồng thời phải phân bổ nguồn ngân sách ấy một cách hợp
lý cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành
trọng điểm. Thực hiện công bằng trong giáo dục, mở rộng hệ thống giáo dục
ở tất cả các cấp học, bậc học, các trường bán công, dân lập, công lập...trong
đó các trường công phải là nòng cốt. Từng bước hiện đại hóa quy trình giáo
dục- đào tạo, xây dựng hệ chuẩn đánh giá kết quả học tập.
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục- đào tạo. Việc đầu tư cho giáo dục- đào
tạo không chỉ là công việc của Nhà nước. Chúng ta cần thông suốt quan
điểm "giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân". Xã hội hóa
giáo dục phải là quan điểm chỉ đạo quan trọng, góp phần phát triển giáo
dục, đào tạo. Cần phải kết hợp gia đình- xã hội- nhà trường trong phát triển
giáo dục và đào tạo.
- Việc đào tạo và đào tạo lại người lao động phải được coi là nhiệm vụ
cấp thiết trong từng ngành, từng vùng, từng địa phương.Đào tạo lại phải
được tiến hành thường xuyên ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học.
- Để đảm bảo về số lượng và chất lượng nguồn lực con người cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, giáo dục phải được phát triển cả về quy mô và về
chất lượng, trong đó yếu tố đóng vai trò quyết định đến chất lượng chính là
đội ngũ giáo viên. Thường xuyên bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên,
kết hợp giảng dạy với nghiên cứu khoa học; có chính sách khuyến khích
những người có khả năng vào các trường sư phạm và các cơ quan nghiên
cứu.
- Cần đào tạo có địa chỉ, theo nhu cầu của các lĩnh vực, các ngành sản
xuất để có lực lượng cán bộ đồng đều ở các lĩnh vực, các hệ thống xã hội
trong cả nước. Cần có cơ chế sử dụng đãi ngộ người có tài để họ có điều
kiện cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Cùng với đào tao nhân tài trong
nước, phải có chính sách cho những học sinh giỏi được đào tạo ở nước
ngoài trong các ngành chủ chốt.
- Giáo dục- đào tạo cần phải được đổi mới cả về nội dung lẫn phương
pháp.Đó là giáo dục phải phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa hiện đaị hóa
ở nước ta hiện nay. Giáo dục phải khuyến khích mọi người học độc lập suy
nghĩ, tìm tòi nâng cao năng lực tư duy và bản lĩnh con người Việt Nam.
Giáo dục phải gắn liền với thực tiễn, phải nâng cao năng lực nắm bắt và giải
quyết những vấn đề thực tiễn đất nước đặt ra. Trong giáo dục và đào tạo
không chỉ chú ý về chuyên môn mà còn phải tăng cường giáo dục công dân,
giáo dục tư tưởng- đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục- đào tạo,thống nhất
từ trên xuống dưới, mọi cấp, mọi ngành , mọi cơ sở giáo dục và và từ dưới
lên cần kịp thời rút kinh nghiệm hoạt động thực tiễn để báo cáo tình hình,
đề xuất ý kiến với cấp trên nhằm bổ sung , điều chỉnh các chủ trương, giải
pháp để thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng.
2.3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ
Cùng với giáo dục- đào tạo, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả sử
dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ là một trong những vấn đề vừa
có tính cấp bách, vừa cơ bản nhằm tạo ra những lực lượng đầu đàn, nòng cốt
cho khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Thật vậy , trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện dại hóa không
thể thành công, nếu thiếu đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có chất lượng
cao, có đủ đức, tài. Chúng ta không thể nói đến công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ, thời đại cách mạng khoa học
và công nghệ, kinh tế tri thức đang ngày có vai trò to lớn mà lại thiếu đội
ngũ cán bộ khoa học- công nghệ giỏi. Bởi lẽ đội ngũ cán bộ khoa học- công
nghệ là lực lượng nòng cốt trong nguồn lực con người Việt Nam hiện đại mà
chúng ta cần tạo ra nhằm đảm bảo thành công cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đây là đội ngũ quyết định sự phát triển của khoa học và công nghệ của
đất nước.
Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định" Khoa học và công nghệ là động
lực của công nghiệp hóa hiện đại hóa""Cùng với giáo dục, đào tạo, khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu", là động lực phát triển kinh tế xã hội,
là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào khoa
học, công nghệ.
Song khoa học và công nghệ chỉ có thể đóng vai trò động lực khi có
người tạo ra nó, chuyển tải nó vào thực tiễn sản xuất và hoạt động xã hội,
biến nó thành "năng lực nội sinh". Điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ
khoa học- công nghệ có chất lượng cao ,đủ tài, đức. ý thức rõ điều đó, Đảng
ta đã nhiều lần khẳng định: Nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là con người Việt Nam hiện
đại, con người với trí tuệ và năng lực ngày càng cao mà nòng cốt là đội ngũ
cán bộ khoa học- công nghệ. Bởi thế, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ khoa học, công nghệ đã trở thành nhiệm vụ nóng bỏng, cấp thiết, đỏi
hỏi các cấp có thẩm quyền phải đưa ra một chính sách đúng và những giải
pháp hữu hiệu.
Có thể nói rằng, để có được một đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có
chất lượng cao, trước hết chúng ta phải tạo ra một môi trường thuận lợi cho
họ. Đó là sáng tạo, cải tiến và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ
vào thực tiễn sản xuất, quản lý các quá trình xã hội. Qua đó, những cán bộ
khoa học kỹ thuật tự nâng cao chất lượng, có điều kiện trở thành những
chuyên gia đầu ngành, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. C.Mác đã nói: Việc tạo ra một đội
ngũ đông đảo những người có trình độ học vấn cao, tinh thông khoa học- kỹ
thuật "không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã
hội mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người
phát triển toàn diện nữa(5 )"
Do vậy, chúng ta cần phải đầu tư đúng mức và hợp lý cho công tác
nghiên cứu khoa học, cho việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa
học- công nghệ, nâng cao đời sống cả vật chất lẫn tinh thần cho đội ngũ cán
bộ làm công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Đối với cán bộ khoa học, nhu cầu vật chất, nhu cầu kinh tế cũng rất cần,
song không phải là tất cả. Ngoài nhu cầu vật chất, họ còn cần tới nhu cầu
tinh thần, là nhu cầu được thừa nhận rộng rãi, được động viên khen thưởng
kịp thời. Nhu cầu tinh thần ấy là một động lực không nhỏ thúc đẩy đội ngũ
cán bộ khoa học- công nghệ hoạt động sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu
quả làm việc.
Việc xây dựng một chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ khoa học
công nghệ, trước hêt là chính sách lương thỏa đáng, cũng là một biện pháp
cần được tiến hành nhanh chóng để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm
việc của đội ngũ này. Đi liền với biện pháp đó là chế độ thưởng, phụ cấp và
trợ cấp đối với đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ và cho những công trình
khoa học và công nghệ có giá trị của họ, đảm bảo thu nhập thích đáng thông
qua việc thu hút họ tham gia các hợp đồng nghiên cứu cơ bản và ứng dụng,
triển khai.
Cùng với biện pháp đó, chúng ta cũng cần phải xây dựng và sớm thực
hiện "quy chế đảm bảo dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, tăng cường
đoàn kết, ý thức trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học trong hoạt động
nghiên cứu và triển khai". Môi trường như vậy chẳng những khuyến khích
họ sáng tạo mà còn tạo điều kiện thuận lợi để họ phát triển, tự hoàn thiện
mình, nâng cao trình độ chuyên môn và hiệu quả làm việc.
2.3.3. Xây dựng con người việt nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh
tế- xã hội
Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử. Việc xây dựng
con người Việt Nam không thể tách rời công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội
đang diễn ra. 15 năm đổi mới từ mô hình kế hoạch hóa tạp trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Năm năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VIII, "Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong
nước( GDP) tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục,
đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi trồng và khai thác thủy hải sản
đuợc mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng
13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính- viễn thông, đường sá, cầu,
cảng, sân bay, điện, thủy lợi... được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất
khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút mức
tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt được hoặc vượt kế hoạch
đề ra.
Văn hóa xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Giáo dục và đào tạo phá triển về quy mô và cơ sở vật chất. Trình độ
dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được tăng lên (6 )"
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, đến nay nước ta vẫn là một trong
những nước nghèo nhất thế giới, tình trạng phân hóa giàu nghèo tăng nhanh,
thất nghiệp nhiều, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng...
Để tiếp tục đổi mới nhằm xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết, chúng ta phải giải quyết một số vấn đề
cụ thể sau:
Thứ nhất, kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần cho
nhân dân.
Vấn đề nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân,
vừa là mục tiêu của chế độ ta, vừa là một nội dung trong việc xây dựng con
người Việt Nam hiện nay.
Cùng với nâng cao đời sống vật chất, nâng cao đời sống tinh thần, đẩy
mạnh quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc cũng
là một trong những giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện con người Việt
Nam. Xã hội càng hiện đại, văn minh, nhu cầu tinh thần, văn hóa càng đòi
hỏi phải được đáp ứng. Bởi nó là cái cấu thành "nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội", đồng thời, góp
phần xây dựng con người Việt Nam với đạo đức trong sáng, lối sống lành
mạnh, trí tuệ phát triển, đủ sức, tinh thần đáp ứng yêu cầu thời đại.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần
phải nâng cao hơn nữa việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nâng
cao đời sống tinh thần, trước hết phải "củng cố, tăng cường mạng lưới văn
hóa cơ sở", "sớm hoạch định một chiến lược quốc gia về thông tin..."
Muốn tạo ra một môi trường thuận lợi về kinh tế, văn hóa và xã hội cho
sự nghiệp phát triển con người Việt Nam hiện nay và nhằm xây dựng một
nguồn lực con người VIệt Nam có chất lượng cho giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện dại hóa, chúng ta phải thực hiện tốt các chính sách xã hội
vì con nguời, vì cuộc sống dích thực của con người.
Thứ hai, kết hợp phát triển kinh tế với việc giải quyết tốt vấn đề công
bằng xã hội.
Điểm căn bản khiến chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa tư bản là ở chỗ
trong quá trình phát triển kinh tế, nó luôn quan tâm tới việc giải quyết tốt
vấn đề công bằng xã hội. Công bằng không chỉ là một mục tiêu phải đạt tới,
mà nó còn là cơ sở, là điều kiện để cho mọi người phát triển tốt tài năng của
mình, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay,
vấn đề công bằng là một vấn đề dang nổi lên cần tập trung giải quyết. Trong
quá trình chuyển sang kinh tế thị trường đương nhiên có phân hóa giàu
nghèo, nhưng ở nước ta, quá trình phân hóa đó diễn ra quá mạnh mẽ, gây
bất bình trong nhân dân, có nơi đã dẫn đến mất ổn định xã hội. Hiện tượng
mất công bằng xã hội có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, như: cơ chế
chính sách không hợp lý, pháp luật thiếu đồng bộ và không nghiêm minh,
quản lý của Nhà nước có nhiều sơ hở...Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề
này, chúng ta cần giải quyết một cách đồng bộ bằng hàng loạt giải pháp liên
quan đến chính sách, đến luật pháp, đến cơ chế quản lý.
Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là vấn đề có tính chiến
lược trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngày nay, khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng
ta xác định đó là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế.
Điều này hoàn toàn lôgic, phù hợp với xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chính trong cạnh tranh trên thị trường mà mọi người phải không ngừng
nâng cao trình độ của mình để có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật mới, công
nghệ mới, phương pháp quản lý mới. Nó giáo dục con người phải luôn sáng
tạo ra những mặt hàng mới, đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao
hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa
trên thị trường. Và đây cũng là quá trình tạo ta con người Việt Nam mới đủ
năng lực đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, kết hợp phát triển nền kinh tế độc lập- tự chủ với hội nhập kinh
khu vực và quốc tế.
Việc kết hợp phát triển nền kinh tế độc lập- tự chủ với mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế có vai trò to lớn trong việc xây dựng con người Việt Nam
mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một mặt nó
phát huy tính tự tôn dân tộc, quyết tâm làm cho kinh tế nước ta phát triển,
sánh vai với các nước khác trên thế giới. Mặt khác nó cũng tạo điều kiện
thuận lợi để tiếp thu được công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý tiên
tiến đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ năm, đẩy nhanh việc tạo thêm công ăn việc làm, giảm dần nạn thất
nghiệp
Tìm mọi cách tạo ra việc làm cho tất cả mọi người lao động, đảm bảo sử
dụng hết số lao động hiện có cần phải được coi là biện pháp cấp bách. Bước
vào thập kỷ 90 thế kỉ XX, nước ta có khoảng 66 triệu dân với khoảng 33
triệu người trong độ tuổi lao động, đến năm 2000 ta có gần 80 triệu dân với
hơn 40 triệu lao động. Đó là nguồn lực quan trọng nhất để chúng ta đẩy
mạnh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước. Song nguồn nhân lực
ấy phải đuợc sử dụng hết và khắc phục những lạc hậu, dấu ấn của cơ chế cũ
thì mới trở thành thế mạnh của đất nước, mới đáp ứng được những đòi hỏi
của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Do vậy phương
hướng quan trọng nhất mà Đảng ta đã nhiều lần khẳng định là Nhà nước
cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương
trình kinh tế- xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân,
mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Thứ sáu, đẩy lùi tệ nạn xã hội
Tệ nạn xã hội không chỉ là những căn bệnh của xã hội, là vật cản không
nhỏ trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, mà nó còn tác
động trực tiếp, hàng ngày, hàng giờ đến mục tiêu phát triển con người Việt
Nam hôm nay, đến sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam hiện
đại. Bởi vậy cần thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành
chính và pháp luật để phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất là tệ
trộm cướp, cờ bạc, ma túy, mua bán dâm...
Việc giải quyết một cách đồng bộ các biện pháp cụ thể trên chính là tạo
ra môi trường kinh tế- xã hội nhằm xây dựng những con người Việt Nam
mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.3.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của
Nhà nước trong quá trình xây dựng con người
Để có thể xây dựng con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải không ngừng nâng cao vai trò của Đảng
và Nhà nước.Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây cũng
như trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt
quan tâm đến vấn đề con người, đến giải phóng con người và phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự
lãnh đạo sự quản lý của Nhà nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tự to
lớn trong việc xây dựng con người Việt Nam đáo ứng yêu cầu trong từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, nhiều ván đề đặt ra đòi hỏi Đảng và Nhà
nước ta phải có chủ trương, chính sách và những giải pháp mới tác động
một cách tích cực vào con ngừoi, nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của Đảng và
Nhà nước đối với xây dựng con người có nhiều mặt, song trong giai đoạn
hiện nay, cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt
chiến lược phát triển con người Việt Nam theo yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Xây dựng chiến lược con người là một trong những vấn đề hết sức cơ
bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói riêng. Xây dựng chiến lược con người cần phải xác định rõ
mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản cho việc xây dựng con
người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây dựng chiến
lược con nguời phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, phù
hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Vấn đề chiến lược phát triển con người Việt Nam đã được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm thường xuyên. Tuy nhiên, trong những năm qua, yếu tố tự
phát vẫn còn là yếu tố chi phối, cho nên tạo ra bất hợp lý rất lớn trong
nguồn lực con người. Chính vì vậy, hiện nay, vấn đề xây dựng chiến lược
con người Việt Nam và việc tổ chức thực hiện chiến lược ấy là một vấn đề
hế sức cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc phát huy vai trò của
Đảng và Nhà nước trong xây dụng con người, trước Đảng và Nhà nước phải
xây dựng chiến lược con người.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước phải xây dựng được một hệ thống chính sách
đồng bộ nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược con người.
Trên cơ sở chiến lược con người, phải có một hệ thống giải pháp nhằm
đảm bảo thực hiện thắng lợi chiến lược đã vach ra. Trong hệ thống giải pháp
thì chính sách đóng vai trò đặc biệt quan trọng, bởi nó trực tiếp tác động
đến lợi ích của con người, nó là động lực cơ bản đối với hoạt động của con
người. Sự hoạt động của con người bị tác động bởi rất nhiều yếu tố. Chính
vì vậy chính sách cũng phải đề cập đến nhiều mặt, phải là một hệ thống
chính sách.
Trong những năm đổi mới vùa qua, Đảng va Nhà nước ta đã đổi mới và
bổ sung nhiều chính sách theo yêu cầu của công cuộc đổi mới ấy. Sự đổi
mới đó đã mang ý nghĩa tích cực trong việc phát huy nguồn lực con người.
Tuy nhiên do tồn tại trong một thời gian dài với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, cho đến nay, sự thay đổi chính sách vân chưa kịp thời. Hiện nay
còn nhiều chính sách bất hợp lý và thiếu đồng bộ, chưa phát huy tốt nguồn
lực con người.
Rõ ràng rằng, vấn đề đổi mới và hoàn thiện chính sách là vấn đề hết sức
cấp thiết hiện nay. Nó là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện
thắng lợi chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề
mà Đảng và Nhà nước phải tập trung giải quyết trong giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế- một yếu tố cơ bản trong
việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay
Để xây dựng con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, một vấn đề đặt ra là phải phát huy quyền dân chủ.
Đó là một trong những động lực mạnh mẽ để khơi dậy nhiệt tình cách
mạng, phát huy tính chủ động sáng tạo của con người và từ đó mới hình
thành nên những con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc phát huy quyền dân chủ lại
phải gắn liền với tăng cường pháp chế. Dân chủ không phải là hoạt động
một cách tùy tiện, mà phải sống và làm viẹc theo pháp luật. Việc không
ngừng hoàn thiện và thực hiện nghiêm minh pháp luật xã hội chủ nghĩa là
một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện quyền tự do, dân chủ
của nhân dân và đó cũng là một yếu tố cơ bản đảm bảo xây dựng con nguời
Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc hoàn thiện và thực hiện nghiêm minh pháp luật phải gắn liền với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây cũng như trong
công cuộc đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến quá
trình dân chủ hóa, đến việc hoàn thiện pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Về lĩnh vực này, chúng ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu:
quyền tự do, dân chủ của nhân dân ngày càng đuợc đảm bảo, phảp luật ngày
càng được bổ sung và hoàn thiện, việc thực hiện pháp luật ngày càng
nghiêm minh hơn. Tuy nhiên cho đến nay, tình trạng vi phạm quyền tự do,
dân chủ của nhân dân còn nhiều và có nơi rất nghiêm trọng, pháp luật còn
thiếu và không đồng bộ, việc thực hiện pháp luật còn thiếu nghiêm minh.
Tình hình đó do nhiều nguyên nhân như trình độ dân trí thấp, việc giáo dục
pháp luật còn chưa được chú ý đúng mức...Tình hình đó cho thấy, để xây
dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, con người Việt Nam mới đáp
ứng yêu cẩu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một vấn đề bức bách
là phải đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa thực hiện tốt dân chủ từ Trung ương
đến cơ sở, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, thực
hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng con người
Việt Nam hiện đại, có thể nói, việc xác định phương hướng và những giải
pháp đúng đắn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng con
người Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Nét đặc biệt, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta là ở chỗ: con người vừa
là mục tiêu vừa là động lực của cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu
cao nhất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là vì con người, vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh". Và bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế. Sự nghiệp đó đòi
hỏi phải phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng, tài năng và sáng tạo của
nhân dân, Đây là quan điểm chi phối, có tính chỉ đạo trong quá trình xây
dựng con người ở nước ta hiện nay.
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, việc hình thành,
phát triển con người bị tác động bởi hàng loạt yếu tố. Bởi vậy, để xây dựng
con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, chúng ta phải thực hiện hàng loạt giải pháp. Trong điều
kiện cụ thể của nước ta hiện nay, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản
là: Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo; nâng cao chất lượng và
hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ: đẩy nhanh tốc độ
đổi mới kinh tế- xã hội; nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả
hoạt động của Nhà nước trong quá trình xây dựng con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Kết luận
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã, đang và sẽ là xu hướng phát triển
chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển
tất yếu của nước ta để đi tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh". Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây
dựng kinh tế mà còn là quá trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và con người),
làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nhưng cơ sở, động
lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì? Theo các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc,
đồng thời vừa là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Nói cách khác, con
người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội hiện đại
ngày nay, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chính là
con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về
số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành
động lực thật sự của sự phát triển.
Quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã được nhiều quốc gia quan tâm
và đặc biệt đang nổi lên ở khu vực Đông á. Xuất phát là những nước nghèo,
chỉ có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, bền vững trong trường hợp đầu tư phát triển đủ mạnh
nguồn nhân lực. Sự đầu tư ấy được hiểu cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng
cao mức sống và phát triển giáo dục, trong đó đầu tư có hiệu quả nhất là đầu
tư cho giáo dục. Khi nghiên cứu quan hệ giữa GDP và các yếu tố của nguồn
nhân lực, người ta thấy sự phát triển của nguồn nhân lực càng sớm thì tốc
độ tăng trưởng kinh tế càng cao. Thực tế đã chứng minh, do phát triển
nguồn nhân lực mà Hàn Quốc đã mau chóng trở thành nước công nghiệp, có
sự hội nhập thần kỳ ở khu vực Đông á và trở thành một điểm sáng bên Nhật
Bản siêu cường.
Đồng thời, xuất phát từ tư tưởng của C.Mác về sự phát triển vì con
người, vì sự nghiệp giải phóng của con người, giải phóng nhân loại, chúng
ta có thể khẳng định rằng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế
giới nói chung và đặc biệt là ở nước ta hiện nay chính là một cuộc cách
mạng- cách mạng con người. Trong "Tư bản", C.Mác đã khẳng định: "Để
sản xuất ra những con người toàn diện" cần phải có một nền kinh tế phát
triển, một nền văn hoá mới, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền
giáo dục tiên tiến. Và ông coi tạo ra những thành tựu kinh tế xã hội đó
"không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội,
mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát
triển toàn diện(7)" - những chủ nhân thực sự của một xã hội vì con người.
Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải vì mục tiêu phát triển con
người. Chỉ có như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới trở thành sự
nghiệp cách mạng của quần chúng.
Qua toàn bộ phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bước sang thời kỳ
phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con
người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát
triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời
công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là vì sự phát triển con người Việt Nam
toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự
nghiệp đầy khó khăn, phức tạp nhưng tất yếu này.
chú thích:
(1): C.Mac-F.Anghen toàn tập, tập 26, phần II. NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội- 1995, trang 168.
(2): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban Cháp
hành Trung ương khóa VII, Hà Nội, 1994, tr.42
(3): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.79-80
(4): Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ V Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.58-59
(5): C.Mac và F.Anghen, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
t23, t688
(6): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX,Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, tr69
(7): C.Mac-F.Anghen toàn tập, tập 23. NXB Chính trị Quốc gia Hà nội-
1995, trang 688.
danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Triết học Mác- Lênin- NXB Chính trị Quốc gia.
2. Tổng cục thống kê- Niên giám thống kê 1995- NXB Thống kê, Hà Nội-
1996
3. Vũ Thiện Vương- Triết học Mác- Lênin về con người và việc xây dựng
con người Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hóa- hiện đại hóa- NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2001.
4. Vũ Thiện Vương- Con người- chủ thể sáng tạo lịch sử-, Tạp chí Triết
học, số 3(115), 6/2000, tr 29-31.
5. Trần Hữu Tiến- Vấn đề con người, cá nhân, xã hội trong học thuyết của
Mác,
Tạp chí cộng sản 1/1994.
6. Võ Đại Lược- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đầu năm 2000.
7. Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam và các nước trong khu vực.
Mục lục
1. Mở đầu: ................................ ........................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài: ........................................................... 2
1.2. Mục đích của đề tài: ................................ ................................ .. 3
2. Nội dung: ................................ ......................................................... 4
Chương 1: Cơ sở lý luận ................................ ................................... 4
2.1.1. Quan niệm về con người: ................................ ....................... 4
2.1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông..............4
2.1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước
Mác...................................................................................................................... 5
2.1.1.3. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về bản chất
con người.............................................. ........................................... 7
2.1.2. Vai trò của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong sản
xuất xã hội ................................................................ ................... 11
Chương 2: Vấn đề xây dựng con người để đáp ứng cho sự nghiệp công
nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam .............................................. 13
2.2.1. Thực chất quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam:
................................................................ ................................... 13
2.2.2. Mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam: ................................ .................................................... 16
2.2.3. Tại sao cần phải xây dựng con người việt nam trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa? ....................................... 17
2.2.4. Những yêu cầu đối với con người Việt Nam để đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa................................ ............. 19
2.2.5. Thực trạng xây dựng con người Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
................................................................ ................................... 21
2.2.6. Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam
theo yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa ..................... 26
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa ............... 30
2.3.1. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo ......................... 30
2.3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ: ................................................................ ........ 36
2.3.3. Xây dựng con người Việt Nam kết hợp với quá trình đổi mới
kinh tế- xã hội ................................ .............................................. 39
2.3.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của
Nhà nước trong quá trình xây dựng con người ................................. 43
3. Kết luận...........................................................................48
Chú thích.......................................... ..........................................40
Danh mục tài liệu tham khảo....................................................41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thực trạng vấn đề con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam.pdf