Tài liệu Luận văn Thực trạng và những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng: Luận văn
Thực trạng và những biện pháp
chủ yếu nhằm phỏt triển kinh tế
làng nghề ở Hải Phòng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới do Đảng và Nhà nước ta khởi
xướng và lãnh đạo, nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự
chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt đón đầu,
tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước khác. Con đường mà chúng ta đã
xác định là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nội dung quan
trọng của công cuộc Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là Công nghiệp hoá-
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với phát triển nông nghiệp và các làng
nghề. Đây là một trong những nét đặc trưng về truyền thống kinh tế- văn hoá xã hội
của nông thôn Việt Nam. Sự phát triển kinh tế làng nghề gắn liền với ngành nghề
truyền thống, với trung tâm cụm xã có hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch...
82 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 973 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và những biện pháp
chủ yếu nhằm phỏt triển kinh tế
làng nghề ở Hải Phòng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới do Đảng và Nhà nước ta khởi
xướng và lãnh đạo, nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự
chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt đón đầu,
tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước khác. Con đường mà chúng ta đã
xác định là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nội dung quan
trọng của công cuộc Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là Công nghiệp hoá-
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với phát triển nông nghiệp và các làng
nghề. Đây là một trong những nét đặc trưng về truyền thống kinh tế- văn hoá xã hội
của nông thôn Việt Nam. Sự phát triển kinh tế làng nghề gắn liền với ngành nghề
truyền thống, với trung tâm cụm xã có hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ phi nông nghiệp. Theo đường lối chiến lược đó các làng nghề là một thực
thể kinh tế ở nông thôn, là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nông thôn
và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại, là một bộ phận quan trọng ttrong công
cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn. Việc đẩy mạnh sự phát triển của các
làng nghề nói riêng và các ngành nghề nông thôn nói chung có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc tạo việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp và tiến tới xoá đói giảm nghèo,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng
dần tỷ trọng công nghiệp dịch vụ...Tuy nhiên sự phát triển của làng nghề, do những
yếu tố khách quan và chủ quan tác động, đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Có
nhiều làng nghề tồn tại và phát triển mạnh, có những ảnh hưởng tích cực đến kinh tế
nông thôn trong khu vực và có những ảnh hưởng tốt đến cả những khu vực lân cận,
tạo nên các cụm làng nghề và hình thành sự phân công chuyên môn hoá. Lại có
những làng nghề gặp nhiều khó khăn thậm chí bị mai một. Vì vậy, việc thúc đẩy và
khôi phục phát triển làng nghề trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, là việc
làm phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước.
Hải Phòng là một thành phố công nghiệp, diện tích đất nông nghiệp không
nhiều, hơn nữa lại cũng không có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp. Do đó để phát triển kinh tế khu vực nông thôn, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế thành phố thì phát triển ngành nghề nông thôn là vấn đề rất quan trọng và
cần thiết. Thành phố Hải Phòng cũng đã có định hướng và nhiều văn bản chi tiết
hướng dẫn, đôn đốc tạo điều kiện cho các ngành nghề nông thôn phát triển. Nhờ đó,
đến nay làng nghề Hải Phòng cũng đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, để
phát triển làng nghề theo hệ thống một cách có khoa học và đạt được hiệu quả kinh
tế- xã hội lâu dài, thì Hải Phòng cần phải có một hệ thống giải pháp phù hợp với điều
kiện hiện nay hơn nữa.
Đề tài “Thực trạng và những biện phỏp chủ yếu nhằm phỏt triển kinh tế
làng nghề ở Hải Phũng” đi sâu phân tích thực trạng kinh tế làng nghề của Hải
Phòng, đánh giá những lợi thế và những khó khăn của làng nghề hiện nay đề tài
nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển và khôi
phục kinh tế làng nghề ở Hải Phòng, từ đó góp phần phát triển kinh tế nông thôn Hải
Phòng.
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn trực
tiếp của PGS.TS Hoàng Việt- Khoa KTNN & PTNT. Em xin gửi lời cảm ơn chân
Hoàng Việt và các thày cô giáo trong khoa đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Do
trình độ còn hạn chế nên đề tài có thể còn có nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự
đóng góp, phê bình của các thày cô để đề tài có thể hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài là nghiên cứu, phân tích những số liệu thực tế, những
thông tin về hoạt động của các làng nghề Hải Phòng trong những năm gần đây để rút
ra những thuận lợi cũng như những khó khăn, tồn tại trong phát triển kinh tế làng
nghề tại Hải Phòng. Trên cơ sở đó, đề tài tiếp tục đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển kinh tế làng nghề Hải Phòng trong thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng một số phuơng pháp nghiên
cứu như sau:
*Phương pháp chuyên gia, thảo luận:
Tiến hành trao đổi với các chủ đơn vị sản xuất nhằm phát hiện những vướng
mắc, tồn tại trong sản xuất. Trao đổi thảo luận với các chuyên gia, các thày cô giáo
trong khoa Kinh tế NN &PTNT để tìm giải pháp phát triển...
* Phương pháp thống kê
Thực hiện thống kê số liệu, phân tổ thống kê, phương pháp số bình quân, số
tương đối, số tuyệt đối để phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất của các làng nghề
* Phương pháp điều tra
Quá trình điều tra sử dụng các mẫu biểu thống kê, bảng câu hỏi phỏng vấn với
các nội dung liên quan đến phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng
Thu thập các thông tin đã qua xử lý tại các tài liệu, niên giám thống kê và số
liệu của Sở NN & PTNT Hải Phòng.
CHƯƠNG 1
MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ LÀNG NGHỀ
Khái niệm và đặc điểm của làng nghề:
1.1.1. Khái niệm về làng nghề
Để tìm hiểu khái niệm làng nghề chúng ta cần chú ý đến hai yếu tố cấu tạo nên
làng nghề đó là làng và nghề. Làng là khu vực địa lý, không gian lãnh thổ nhất định
mà tại đó tồn tại những tập hợp cư dân cùng sinh sống, sản xuất và giữa họ có mối
quan hệ khăng khít với nhau. Nghề là khái niệm chỉ các hoạt động sản xuất kinh
doanh phi nông nghiệp diện ra tại khu vực nông thôn mà lao động trong các nghề
này thường được tách ra từ nông nghiệp với mục tiêu tăng thu nhập.
Hiện nay vẫn chưa có những đánh giá tiêu chuẩn xác định làng nghề thống
nhất. Đối với từng địa phương và từng đợt nghiên cứu khác nhau có thể có những
tiêu chí khác nhau để xác định làng nghề. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn,
làng nghề nông thôn của Hải Phòng được xác định theo quy định tạm thời của Cục
Chế biến nông lâm sản và Ngành nghề nông thôn ( trực thuộc Bộ NN & PTNT), là
đơn vị được Bộ giao nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Theo đó, làng
nghề là làng (thôn, ấp) ở nông thôn có ngành nghề phi nông nghiệp phát triển tới
mức trở thành nguồn sống chính hoặc nguồn thu nhập quan trọng của người dân
trong làng. Về mặt định lượng, làng nghề là làng có từ 35- 40% số hộ trở lên có tham
gia hoạt động ngành nghề ( thu nhập từ làng nghề chiếm trên 50% tổng thu nhập của
các hộ) đồng thời giá trị sản lượng của ngành nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản
lượng của địa phương.
Nghề truyền thống là các nghề thủ công nghiệp có từ trước thời Pháp thuộc
đến nay (từ khi hình thành đến nay khoảng hơn 100 năm trở lên). Các nghề này được
truyền từ đời này sang đời khác, được bảo tồn và hoàn thiện qua nhiều thế hệ làm
nghề. Các nghề truyền thống cũng bao gồm cả những nghề có được cải tiến hoặc sử
dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ những công
nghệ truyền thống.
Bên cạnh khái niệm về làng nghề truyền thống còn có khái niệm về làng nghề
mới. Đó là những làng nghề mới được hình thành do phát triển từ những làng nghề
truyền thống hoặc tiếp thu những nghề mới phục vụ đời sống sản xuất và sinh hoạt
trong khu vực. Sự xuất hiện và phát triển của các làng nghề này cũng mang những ý
nghĩa tích cực đối với đời sống khu vực kinh tế nông thôn nói riêng và nền kinh tế
thành phố nói chung.
Khi nói đến một làng nghề, ta không chỉ chú ý đến các mặt đơn lẻ mà phải chú ý
đến nhiều mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là phải quan tâm tới tính hệ
thống, toàn diện của làng nghề đó. Trong đó, yếu tố quyết định là sản phẩm và kỹ
thuật sản xuất. Làng nghề là một trung tâm sản xuất hàng hoá, nơi quy tụ nhiều nghệ
nhân, thợ giỏi và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính chất truyền thống lâu
đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ
thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn có những
ước chế gia tộc và xã hội ( đối với một số làng nghề truyền thống). Sản phẩm của
làng nghề làm ra chẳng những có tính thiết dụng mà hơn thế, một số sản phẩm còn
là loại hàng hoá tinh xảo, nghệ thuật, mang nhiều giá trị văn hoá và tinh thần. Vai
trò, tác động của làng nghề đối với đời sống kinh tế- văn hoá- xã hội là rất tích quan
trọng, đặc biệt đối với khu vực nông thôn.
Ở nông thôn nước ta, trong các hộ tiểu nông ngoài việc sản xuất nông nghiệp là
chính trong những lúc nông nhàn người nông dân còn tham gia những công việc có
tính phụ trợ như đan lát, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải... Đây có thể coi là sự kết hợp
hữu cơ giữa nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Nó nằm trong cơ cấu
mà Các Mác gọi là “ Phương thức sản xuất Châu Á”. Những người thợ thủ công hay
thương nhân này thực chất vẫn là nông dân, vẫn thực hiện cái công việc chính yếu
của nhà nông. Do đặc điểm này mà Lê-nin đã nhận xét: “Công nghiệp gia đình là cái
phụ thuộc tất nhiên của kinh tế tự nhiên mà những tàn dư hầu như vẫn luôn rớt lại ở
những nơi nào có tiểu nông... và đứng về mặt là một nghề nghiệp thì công nghiệp
vẫn chưa tồn tại dưới các hình thức đó: ở đây, nghề thủ công với công nghiệp chỉ là
một mà thôi.”
Do sự phát triển của nền kinh tế, nghề thủ công dần dần tách ra khỏi nông
nghiệp và quay lại phục vụ cho nông nghiệp. Khi đó một số thợ thủ công không còn
làm nghề nông nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê, lao động sinh sống trên làng quê
và hoạt động sản xuất tạo ra các sản phẩm phục vụ đời sống cho khu vực này. Số
người tách khỏi ruộng đồng ngày càng lớn. Họ chuyển hẳn sang làm nghề thủ công
và tồn tại, sinh sống bằng nghề đó. Theo đó, các làng có số người làm nghề tăng lên
và trở thành làng nghề. Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần, tồn tại cố
định của một hay nhiều nghề thủ công truyền thống. Mỗi nghề thủ công truyền thống
được bảo tồn, hoạt động và phát triển ở một làng nghề, cụm làng nghề hay ở nhiều
làng nghề, vùng nghề. Điều này xuất phát và do đó cũng thể hiện sức sống mạnh mẽ,
tính thiết thực của các nghề thủ công lâu đời ở nước ta. Đối với các làng nghề mới,
sự hình thành không qua khoảng thời gian lâu dài như vậy nhưng các làng nghề mới
cũng xuất phát do những nhu cầu cấp thiết mà trước hết là nhu cầu của khu vực nông
thôn. Sản phẩm của các làng nghề tạo ra đầu tiên là nhằm phục vụ khu vực nông
thôn, vì đòi hỏi của khu vực nông thôn cho sản xuất hay sinh hoạt hàng ngày. Lượng
lao động làm một hay một số nghề trong phạm vi làng tăng làm hình thành lên các
làng nghề mới. Mà trong đó những người lao động cũng có gốc là nông dân, thậm
chí vẫn hoạt động sản xuất nông nghiệp. Cũng như đối với làng nghề truyền thống,
sự liên kết hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật đào tạo... giữa các hộ sản xuất đã
tạo nên làng nghề ngay trên đơn vị cư trú của họ. Cái ban đầu thúc đẩy người nông
dân làm việc trong các ngành nghề nông thôn (bao gồm cả nghề truyền thống và
nghề mới) đó là phần thu nhập đáng kể do các ngành nghề nông thôn đem lại. Nó
chứng tỏ hiệu quả của làng nghề đối với việc phát triển nông thôn.
Làng nghề thường xuất hiện theo những con đường chủ yếu sau:
-Có nghệ nhân từ nơi khác đến truyền nghề, nghệ nhân này được suy tôn là tổ
nghề.
-Từ một số cá nhân hay gia đình dòng họ có những kỹ năng và có sự sáng tạo
nhất định
-Do những người đi nơi khác học sau đó truyền lại nghề
-Do chủ trương của địa phương khuyến khích phát triển nghề phụ, phục vụ cho
đời sống xã hội và cải thiện đời sống nông dân.
-Một số làng nghề hình thành trên cơ sở sự lan toả dần từ một số làng nghề
khác, tạo ra một cụm làng nghề, xã nghề ở vùng lân cận.
Tuỳ theo mỗi địa phương, mỗi ngành nghề, sản phẩm cũng như chất lượng của
sản phẩm và tuỳ theo nhu cầu thị trường... mà mỗi làng nghề có một con đường hình
thành khác nhau như đã nêu trên. Tuy nhiên, sự tồn tại của làng nghề có bền vững
hay không, có đạt được hiệu quả hay không thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
trong đó có cả những yếu tố chủ quan và khách quan đối với các làng nghề.
Hải Phòng, một thành phố trẻ mới thành lập hơn 100 năm ( từ năm 1888) nhưng
người nông dân xa xưa cũng đã có truyền thống sản xuất thủ công nghiệp. Từ cuối
thế kỷ XIX đến nay, Hải Phòng đã có trên 60 làng nghề truyền thống với trên 20
ngành nghề khác nhau. Đó là những ngành nghề truyền thống đã từng có tên tuổi
trong cả nước như nghề dệt ( Cổ Am- Vĩnh Bảo), nghề điêu khắc, sơn mài (Bảo Hà-
Vĩnh Bảo), nghề ươm tơ dệt lụa (Lương Quy-An Hải)... Những ngành nghề này đã
có khoảng thời gian phát triển rất thịnh vượng nhưng do những biến động của thời
gian cùng nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau nên hầu hết các làng nghề
này bị mai một và đi vào lịch sử. Chỉ có một số nhỏ các làng nghề còn giữ được
nghề, tiếp tục tồn tại cho đến nay, còn các làng nghề khác, hoặc bỏ nghề, hoặc
chuyển đổi nghề khác phù hợp với nhu cầu thị trường hơn. Từ đó phát sinh các làng
nghề mới với những ngành nghề mới như vận tải, vật liệu xây dựng... Tuy nhiên hầu
hết các làng nghề này chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả kinh tế không cao.
Những năm gần đây, do chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước và Thành
phố đã khuyến khích được nhiều ngành sản xuất trong nông nghiệp- nông thôn, nhất
là ngành sản xuất có sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống người nông
dân. Trong dó có cả việc khôi phục các ngành nghề truyền thống và xây dựng phát
triển các ngành nghề mới. Bước đầu, hoạt động này đã có hiệu quả nhưng tính tồn tại
và sự phát triển bền vững của các ngành nghề này còn yếu.
1.1.2. Đặc điểm của làng nghề:
Đặc điểm đầu tiên có thể thấy ở các làng nghề Việt Nam nói chung là sự phát
triển của làng nghề gắn liền với sự phát triển của xã hội nông thôn. Nói cách khác,
làng nghề có sự gắn bó không tách rời với nông nghiệp nông thôn về lao động, thị
trường, nguyên liệu, đất đai...
Các nghề thủ công và các ngành nghề nông thôn khác dần tách khỏi nông
nghiệp nhưng không tách khỏi nông thôn mà nó quay trở lại phục vụ cho nông thôn.
Do đó, phát triển các ngành nghề là góp phần phát triển nông nghiệp-nông thôn.
Thứ hai, về hình thức tổ chức sản xuất lao động, nói chung ở các làng nghề từ
xưa đến nay chủ yếu vẫn là hình thức tổ chức kinh tế hộ gia đình. Một số đã có sự
phát triển thành HTX và xí nghiệp tư nhân. Trong hình thức tổ chức sản xuất hộ gia
đình, người chủ gia đình thường là thợ cả, trong đó thường là nghề nhân hoặc thợ
giỏi còn các thành viên khác được huy động vào các công đoạn khác nhau của quá
trình sản xuất, kinh doanh và điều này phụ thuộc và khả năng cùng như giới tính
hoặc lứa tuổi của từng người. Đáng lưu ý là người lao động có tuổi ở các làng nghề
truyền thống lại có thể là nguồn nhân lực quý cần khai thác về kỹ thuật và kinh
nghiệm sản xuất. Các cơ sở sản xuất nói chung có thể thuê lao động theo hình thức
thường xuyên hay thời vụ tuỳ theo yêu cầu sản xuất và khả năng của bản thân các cơ
sở. Hình thức này bảo đảm gắn bó quyền lợi và trách nhiệm, tận dụng được lao động
và thời gian. Nó phù hợp với các cơ sở sản xuất nhỏ không có nhu cầu lớn về đầu tư
như hiện nay.
Thứ ba, đặc điểm về sản phẩm, nguyên liệu và thị trường của làng nghề. Sản
phẩm của các làng nghề thường là các vật dụng phục vụ cho đời sống sản xuất và
sinh hoạt hàng ngày như các loại thực phẩm (sản phẩm của nghề chế biến nông sản )
hay các vật dụng đơn giản (sản phẩm nghề mây tre đan) hoặc phục vụ nhu cầu sinh
hoạt ( sản phẩm nghề thêu, dệt, chạm khắc, vận tải)... Các loại sản phẩm này không
chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu cho người nông dân mà nó còn mang tính văn hoá, tính
mỹ thuật. Nhất là đối với các sản phẩm của các làng nghề truyền thống, chúng mang
những giá trị văn hoá độc đáo, thậm chí trở thành các di sản mang bản sắc của vùng,
của dân tộc. Tuy nhiên, do tính chất sản xuất thủ công nên sản xuất không phải là sản
xuất hàng loạt mà chỉ đơn chiếc. Các làng nghề cũng chưa đủ khả năng theo kịp
được sự phát triển của đời sống xã hội trong nước và thị hiếu nước ngoài. Ở Hải
Phòng, số lượng các làng nghề truyền thống có tên tuổi không còn nhiều nên chủ yếu
các làng nghề hiện nay sản xuất các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khu vực là chính.
Nguyên liệu cho sản xuất ở các làng nghề chủ yếu là khai thác tại địa phương
và các nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, các nguồn
nông lâm hải sản của địa phương. Việc sơ chế nguyên liệu thông thường do các cơ
sở sản xuất tự làm lấy với kỹ thuật thủ công đơn giản hoặc máy móc kỹ thuật tự chế,
lạc hậu. Chính vì vậy mà việc tiêu chuẩn hoá chất lượng nguyên liệu cũng như chất
lượng sản phẩm là khó khăn. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề ,
sản trong điều kiện hiện nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề được
mở rộng bao gòm cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Tuy nhiên do
chất lượng sản phẩm còn chưa cao cũng như những yếu kém trong tổ chức tiêu thụ
sản phẩm mà khả năng tiếp cận thị trường của các làng nghề hiện nay chưa cao. Mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu hiện nay là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Các loại sản
phẩm này thu hút được sự chú ý và hấp dẫn với thị trường nước ngoài do tính thủ
công tinh xảo và nét văn hoá truyền thống đặc trưng của các sản phẩm này. Do đó,
làng nghề không chỉ là một trong những đơn vị kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu
sản xuất hàng tiêu dùng trong nước thay thế hàng nhập khẩu đồng thời hướng mạnh
ra xuất khẩu mà nó còn là nét đặc sắc, sự kết tinh và bảo lưu các giá trị văn hoá của
cộng đồng làng xã ở Việt Nam.
Về nhu cầu vốn, các làng nghề thường không yêu cầu vốn đầu tư lớn, nhưng lại
có khả năng thu hút nhiều lao động, có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội.
Cơ sở vật chất, nhà xưởng và thiết bị công nghệ: tình trạng phổ biến hiện nay
trong các làng nghề là sử dụng ngay nhà ở, diện tích ở làm nơi sản xuất. Điều này
xuất phát từ quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất theo gia đình. Khi quy mô sản xuất tăng
lên hay những sự thay đổi cần thiết về điều kiện sản xuất khác phát sinh thì gây ra rất
nhiều khó khăn. Đơn giản như việc sử dụng hoá chất trong sản xuất, do không có
những dự trù cho việc xử lý chất thải và hoá chất thải nên những chất thải độc hại
này có ảnh hưởng xấu trực tiếp đến hộ gia đình sản xuất và hơn thế nữa, ảnh hưởng
đến cả môi trường chung của làng, xã, những gia đình lân cận. Đây đang là một vấn
đề khó cho việc phát triển làng nghề hiện nay.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của các làng nghề hiện nay. Những đặc
điểm này là một trong những cơ sở đáng lưu ý để nghiên cứu và tạo ra những biện
pháp thúc đẩy phát triển kinh tế làng nghề đồng thời hạn chế những tác động không
tốt.
1.2. Vai trò của kinh tế làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn
nước ta
1.2.1. Vai trò của làng nghề đói với phát triển kinh tế nói chung:
Trong công cuộc CNH-HĐH đất nước, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là
một bộ phận rất quan trọng, là vấn đề luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Thông qua các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Văn kiện Đại hội ĐảngVIII, ta có thể
thấy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn thực chất là quá trình phát triển nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là:
-Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có năng suất cao trên cơ sở trang
thiết bị, công nghệ và vật tư tiên tiến để thay thế nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu.
-Phát triển các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp với tỷ trọng ngày càng lớn
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công-nông nghiệp- dịch vụ.
-Tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn để thực hiện yêu cầu từng
bước đô thị hoá nông thôn.
Qua đó, ta có thể thấy được, khu vực kinh tế làng nghề chính là một bộ phận
quan trọng cần phát triển ngoài nông nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn. Sản xuất phi nông nghiệp ở các làng nghề là một trong những cánh cửa tiến tới
tăng tỷ trọng giá trị hàng hoá công nghiệp ở nông thôn, hướng tới sản xuất hàng hoá
lớn và cải tiến công nghệ, trang thiết bị sản xuất, cơ sở hạ tầng sản xuất nói chung.
Phát triển ngành nghề nông thôn còn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết
công an việc làm cho một số lượng lớn lao động nông thôn, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp
ởt nông thôn. Hoạt động của làng nghề sẽ thu hút một lượng không nhỏ những lao
động còn dư thừa ở khu vực nông thôn cũng như tạo thêm việc làm và thu nhập cho
người dân trong những lúc nông nhàn. Nhu cầu việc làm của người dân nông thôn là
một gánh nặng không chỉ cho khu vực nông thôn mà cho cả xã hội. Lượng người
không có việc làm là một nguy cơ dẫn đến tệ nạn xã hội, chưa kể đến số người có
việc làm chỉ thực sự có việc làm khi mùa vụ, thời gian còn lại là rảnh rỗi. Đây là sự
lãng phí lao động xã hội, lãng phí thời gian nếu không có những biện pháp tác động
phù hợp tạo ra việc làm cho những người này. Việc phát triển làng nghề và ngành
nghề nông thôn là một câu trả lời cho vấn đề này. Phát triển kinh tế làng nghề sẽ tạo
điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mạnh mẽ hơn, phân công lao động
hợp lý hơn. Lao động tham gia và làng nghề không chỉ là những người thất nghiệp
mà nó còn tạo ra việc làm cho những người bán thất nghiệp, những người cần việc
làm thêm lúc nông nhàn. Bình quân, một cơ sở trong làng nghề tạo điều kiện cho 27
lao động, mỗi hộ giải quyết 3-5 lao động. Ngoài lao động thường xuyên còn thu hút
lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Có nhiều làng nghề thu hút trên 60% số lao động
trong làng vào các hoạt động ngành nghề. Hiện nay, trên cả nước có hơn 1000 làng
nghề và thu hút được khoảng 11 triệu lao động nông thôn. Các ngành nghề, làng
nghề phát triển kéo theo và mở ra nhiều ngành nghề khác nhau, nhiều hoạt động dịch
vụ liên quan, tạo thêm nhiều việc làm mới thu hút thêm lao động. Do đó, ngành
nghề, làng nghề ở nông thôn được coi như là một động lực trực tiếp giải quyết việc
làm cho lao động ở nông thôn.
Phát triển làng nghề tạo điều kiện tăng thu nhập cho người lao động, đóng góp
cho sự phát triển của địa phương, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu
hẹp khoảng cách đời sống giữa nông thôn và đô thị. Tăng thu nhập là một vấn đề có
ý nghĩa rất quan trọng đối với người lao động và nhất là đối với người nông dân hiện
nay có mức sống còn rất thấp. Hiện nay, năng suất lao động trong ngành nông
nghiệp còn thấp, sản xuất chưa ổn định. Hoạt động trong ngành nông nghiệp không
đem lại cho người dân một mức thu nhập ổn định chứ chưa nói đến thu nhập cao.
Phát triển kinh tế làng nghề là cơ hội cho người nông dân tăng thu nhập của mình
theo hai cách. Hoặc là tham gia và làng nghề và nhận thu nhập do ngành nghề đem
lại, hoặc tham gia hoạt động dịch vụ phục vụ cho làng nghề và nhận thu nhập từ hoạt
động đó. Các dịch vụ phát sinh phục vụ cho sản xuất của làng nghề cũng khá phong
phú, nó có thể là dịch vụ cung ứng nguyên vật liệu, dịch vụ sửa chữa máy móc, công
cụ sản xuất, dịch vụ chuyên khâu hỗ trợ sản xuất hay dịch vụ tiêu thụ... Ở Hải Phòng,
thu nhập do làng nghề đem lại cũng cao gấp 2,1 đến 2,3 lần so với thu nhập của mọt
lao động thuần nông. Đối với các làng nghề, thu nhập phi nông nghiệp ngày càng trở
nên quan trọng và đóng vai trò chủ yếu trong thu nhập của các lao động làng nghề.
Thu nhập tăng là đẩy lùi đói nghèo, là tiền đề cho việc đẩy lùi sự lạc hậu, kéo gần
hơn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Thu nhập tăng cũng là cơ sở cho các
đơn vị sản xuất đầu tư nâng cấp các loại máy móc nâng cấp các yếu tố đầu vào, tăng
năng suất và chất lượng sản phẩm. Đời sống ở khu vực nông thôn được cải thiện là
điều kiện góp phần củng cố cơ sở hạ tầng nông thôn. Đây là một trong những mục
tiêu và yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn
mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Năm 1996, giá trị sản xuất ngành nghề
nông thôn khoảng 27.500 tỷ đồng. Tại các làng nghề, giá trị sản lượng tiểu thủ công
nghiệp chiếm đến 60-80%. Có những làng nghề mà 100% các hộ đều tham gia làm
nghề. Các làng nghề nghề này không những tạo ra một nguồn thu nhập không nhỏ
cho dân cư nông thôn mà nó còn đóng góp cho Ngân sách Nhà nước. Tỷ trọng GDP
trong tiểu thủ công nghiệp dịch vụ tăng lên trong tổng số GDP được tạo ra ở nông
thôn. Trên cơ sở tạo việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, giá trị sản lượng tạo ra từ
các ngành nghề nông thôn tăng. Nông thôn có tích luỹ và có điều kiện để nâng cấp
và xây dựng mới cơ sở hạ tầng. Ngành nghề ở nông thôn đóng vai trò động lực trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, tăng phúc lợi xã hội
cho người dân. Trong tương lai, nhiều làng nghề, ngành nghề còn là vệ tinh cho các
doanh nghiêp lớn ở nông thôn.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư và thu hút các nghệ
nhân, thợ giỏi tham gia lao động, tạo giá trị và làm giàu đất nước. Đối với các cơ sở
làm nghề ( thường là các hộ gia đình ) đầu tư cho sản xuất không đòi hỏi lượng vốn
quá cao so với các hình thức doanh nghiệp khác. Có thể, chỉ với vài triệu đồng ban
đầu cũng có thể hình thành một cơ sở sản xuất nhỏ. Thế nhưng nếu tính tất cả các hộ
sản xuất trong làng nghề thì lượng vốn là không nhỏ. Điều đó cho ta thấy rằng, làng
nghề phát triển tạo điều kiện thu hút vốn trong đân, phát huy sức mạnh của kinh tế cá
thể, kinh tế hộ gia đình. Ngoài ra, kinh tế làng nghề còn có ưu điểm là với quy mô
sản xuất không lớn, sản xuất tiến hành ngay trên địa điểm cư trú của chủ cơ sở sản
xuất. Như vậy là tiết kiệm được khoản đầu tư cho việc xây dựng nhà xưởng, kho
tàng lưu chứa hàng hoá. Khoản tiết kiệm này lên tới 30-40% vốn đầu tư xây dựng cơ
bản. Phát triển kinh tế làng nghề rất có lợi thế trong việc huy động và sử dụng có
hiệu quả vốn đầu tư cho sản xuất. Mặt khác, làng nghề phát triển còn tập trung thu
hút được nhiều thợ thủ công có tay nghề cao, có kinh nghiệm lâu năm về làm nghề.
Nếu làng nghề không phát triển thì thực sự là lãng phí và có thể đẩy những ngành
nghề truyền thống đến chỗ bị mai một. Tại các làng nghề, phương pháp truyền nghề
chủ yếu hiện nay là vừa học vừa làm, học đến đâu làm đến đó, không có thời hạn cho
mỗi khoá học nghề, không có trường lớp đào tạo chính quy. Nhà nước hiện cũng
chưa tổ chức phát triển các lớp đào tạo ngành nghề nông thôn, do đó, những nghệ
nhân, thợ giỏi còn là nguồn truyền nghề quan trọng cho lớp trẻ sau này.
1.2.2. Vai trò của làng nghề đối với xã hội nói chung:
Không chỉ góp phần phát triển kinh tế, về mặt xã họi, làng nghề cũng có những
đóng góp không nhỏ. Phát triển kinh tế làng nghề có một vai trò quan trọng dối với
sự ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Xuất
phát từ việc có việc làm, tăng thu nhập, làng nghề hạn chế những tệ nạn xã hội, ổn
định an ninh trật tự khu vực. Xã hội ổn định là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh
tế nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Người nông dân có việc
làm ngay tại trên quê hương bản quán của mình sẽ chuyên tâm làm ăn, xây dựng
làng xóm. Nhất là đối với lớp thanh niên, khi thiếu việc làm thường xuất hiện tư
tưởng thoát ly, tìm việc làm trên thành phố. Lượng người di cư ra thành phố hàng
năm vốn là một bài toán khó cho các cấp lãnh đạo khu vực đô thị. Số người này
không có trình độ chuyên môn, trình độ văn hoá thấp, chủ yếu kiếm việc lao động
phổ thông. Họ không có chỗ ở ổn định, không chịu sự quản lý của chủ lao động nào
và là nguy cơ về tệ nạn xã hội. Làng nghề phát triển tạo ra việc làm cho người dân,
thực hiện “Ly nông bất ly hương” đem lại cho người dân một cơ hội làm giàu trên
mảnh đất mình sinh sống và làm giảm đi gánh nặng cũng như sức ép cho đô thị. Việc
phát triển kinh tế làng nghề góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho dân
cư. Khi nghề nghiệp đã phát triển, người thợ có thể sống bằng nghề nghiệp của mình,
khi đó, nghề nghiệp chính là cái gốc của đời sống, là cội nguồn của những giá trị văn
hoá tinh thần tác động đến tâm lý, tình cảm, phong tục tập quán lề lối làm việc làm
cho đặc trưng văn hóa về các nghề nghiệp mang đậm nét ở những nơi đó. Các sản
phẩm tạo ra mang đậm nét văn hoá làm phong phú thêm đời sống cho người dân địa
phương. Trong các làng nghề truyền thống thường có phong tục thờ ông tổ nghề và
có ngày hội làng, hội nghề. Đây là một nét văn hoá riêng độc đáo của người Việt
Nam. Qua các làng nghề ta có thể hiểu thêm được văn hoá nghề, văn hoá sống của
con người Việt Nam.
Cuối cùng phải nói đến là việc phát triển kinh tế làng nghề có vai trò đống góp
một phần trong việc bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Một số
sản phẩm của làng nghề, bản thân nó cũng là một tác phẩm nghệ thuật. Nó vượt qua
giá trị hàng hoá đơn thuần để trở thành di sản hay biểu tượng truyền thống văn hoá
của làng xã hay vùng. Nghề truyền thống được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ
khác, được lưu truyền và bảo tồn cho con cháu dân tộc Việt Nam. Thực hiện điều
này chính là bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, việc phát triển và khôi phục làng nghề có những tác động tích cực đến
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn, tạo thêm những
điều kiện cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như phát triển
cơ sở hạ tầng, văn hoá, y tế, giáo dục, nâng cao đời sống dân cư nông thôn. Ngược
lại, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn lại tạo điều kiện để làng nghề có cơ hội
phát triển nhanh hơn, có khả năng để cơ giới hoá và hiện đại hoá.
Để minh chứng cho vai trò và hiệu quả của việc phát triển làng nghề, có thể đưa
ra một vài nét về kết quả hoạt động của làng nghề ở một số địa phương trong cả
nước. Cả nước hiện có khoảng hơn 2000 làng nghề, trong đó 2/3 là làng nghề truyền
thống. Các làng nghề trong cả nước đã tham gia tạo việc làm cho hơn 8,1 lao động so
với hơn 30 triệu lao động trong cả nước. Giá trị sản lượng hàng hoá của các làng
nghề sản xuất ra nhưng năm gần đây tăng, năm 2001 đạt 6.37 tỷ đồng. Có nhiều địa
phương rất phát triển các ngành nghề nông thôn như Nam Hà (123 làng nghề),
Thanh Hoá (100 làng nghề), Thái Bình (82 làng nghề)... Trong đó có những địa
phương có phong trào sản xuất tốt, có những làng nghề nổi tiếng không chỉ trong
nước như các làng nghề ở Hà Tây, Thanh Hoá... Các địa phương này đã tận dụng và
phát huy hiệu quả những tiềm năng vốn có của mình và đưa làng nghề trở thành một
lực lượng tham gia vào việc phát triển kinh tế xã hội nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá. Ngành nghề nông thôn đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền
kinh tế và là ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế xã hội nông thôn ở các địa phương
này. Ở Hà Tây, giá trị từ ngành nghề thu được là 71,7%, ở Hà Bắc là 73,7%... Các
lao động làng nghề hiện nay có thu nhập trung bình khoảng 430.000 đồng/ tháng cao
gấp 1,7 đến 3,9 lần so với thu nhập của một lao động thuần nông. Thu nhập bình
quân một hộ đạt 905.000 đồng/ hộ/ tháng. Số hộ nghèo trong các làng nghề là 3,7%
thấp hơn hẳn các khu vực nông thôn không có làng nghề khác (11,2 %).
Sơ lược một số con số như trên có thể cho thấy hiệu quả của việc phát triển làng
nghề ở nước ta hiện nay trong vấn đề phát triển kinh tế nông thôn địa phương nói
riêng và đóng góp cho sự phát triển của kinh tế cả nước nói chung. Riêng đối với Hải
Phòng, một thành phố công nghiệp, phát triển kinh tế làng nghề lại càng có vai trò
quan trọng và cần thiết. Trong thời gian vừa qua, làng nghề ở Hải Phòng đã có
những đóng góp đáng kể cho kinh tế xã hội địa phương. Cụ thể, năm 2000, tỷ trọng
sản phẩm ngành nghề phi nông nghiệp toàn thành phố chiếm 45,7% cơ cấu kinh tế
nông thôn. Làng nghề phát triển tạo việc làm, thu nhập cho lao động nông thôn, ổn
định xã hội nói chung..
Không chỉ với Việt Nam, với một số nước khác đã thực hiện phát triển công
nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề cũng có những đóng góp
quan trọng cho phát triển kinh tế như Trung Quốc, ấn Độ, Thuỵ Điển, Malaysia,
Nhật Bản...
Trung Quốc, với quan điểm phát triển công nghiệp nông thôn là một bộ phận
của kinh tế lãnh thổ đã thu được những thành công tốt đẹp. Với phương châm “Ly
nông bất ly hương”, thực hiện các mô hình xí nghiệp hương trấn, Trung Quốc đã tạo
ra việc làm cho hơn 100 triệu lao động, tăng thu nhập và tạo ra một khối lượng lớn
hàng hoá thay thế nhập khẩu... Ấn Độ, ban đầu chỉ quan tâm tới phát triển công
nghiệp nặng. Khi nhận thức được thiếu sót này, ấn Độ bắt đầu quan tâm hơn tới tiểu
thủ công nghiệp. Chính phủ ấn Độ đã có những chính sách quan tâm thoả đáng tới
tiểu thủ công nghiệp và kết quả là giải quyết được việc làm cho 2,6 triệu hộ gia đình,
tăng thu nhập và góp phần phát triển kinh tế xã hội khu vực nông thôn...Đây có thể
coi như những minh chứng cho hiệu quả phát triển ngành nghề nông thôn và cũng là
bài học cho chúng ta trong quá trình phát triển kinh tế làng nghề.
Tóm lại, phát triển ngành nghề nông thôn, phát triển kinh tế làng nghề rõ ràng
đem lại những lợi ích cụ thể về kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhất là đối với tình trạng
nông thôn nước ta hiện nay, vai trò và sự cần thiết phát triển các làng nghề càng trở
nên quan trọng. Chính từ vai trò quan trọng của phát triển kinh tế làng nghề mà Đảng
và Nhà nước ta đã có chủ trương cụ thể khẳng định sự cần thiết phát triển làng nghề.
Qua các kỳ họp Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, vấn đề phát triển tiểu thủ công
nghiệp ở nông thôn ngày càng được nhấn mạnh và quan tâm hơn. Tại Đại hội Đảng
lần thứ VII, Đảng ta đặc biệt chú ý tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn, công nghiệp hoá nông nghiệp trong đó, coi trọng sự phát triển của các
ngành nghề truyền thống, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Đặc biệt, tại Đại hội
Đảng lần VIII, vai trò quan trọng và hướng phát triển của làng nghề nông thôn với tư
cách là một đơn vị kinh doanh độc lập được nêu ra trực tiếp và cụ thể: “Phát triển
các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiều thủ
công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp
khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ
phục vụ sản xuất và phục vụ nhân dân...”. Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương
(khoá VIII) cũng chỉ rõ: “phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn ”. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt
Nam đến năm 2020, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đặc biệt
được quan tâm, trong đó phát triển nghề và làng nghề bao gồm tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ là một bộ phận quan trọng. Ngày 24/11/2000 Chính phủ đã có quyết định số
132/QĐ-TTg về một số chính sách phát triển ngành nghề nông thôn với 12 điều thể
hiện cụ thể hoá các chính sách của nhà nước với các nghệ nhân, các cơ sở sản xuất
và các tổ chức liên quan. Tiếp theo đó, Trung tâm hỗ trợ và Phát triển làng nghề
ttuyền thống Việt Nam đã được ra đời với một chương trình hoạt động cụ thể và
phong phú. Gần đây nhất, Đại hội Đảng lần thứ IX đã thành công tốt đẹp, khẳng
điịnh đường lối phát triển kinh tế xã hội của đấy nước trong những năm vừa qua là
đúng đắn và hợp lý. Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vẫn dược xác
định là nhiệm vụ trọng tâm. Vai trò, vị trí của làng nghề một lần nữa lại được đề cập
và nhấn mạnh: “ Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng
công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ
phận quan trọng lao động trong nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch
vụ...”. Trong định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng, Đảng ta khẳng
định: “ Phát triển mạnh công nghiệp mạnh và dịch vụ ở nông thôn, hình thành các
khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công ngiệp ở nông thôn, các làng nghề
trong nước và xuất khẩu”, “ Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ...”.
Thông qua việc tìm hiểu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, một
lần nữa ta lại thấy vai trò và sự cần thiết phát triển làng nghề ở khu vực nông thôn.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung, làng nghề được nhấn mạnh và khẳng
định như một động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp
hoá- hiện đại hoá, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị...
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế làng nghề
1.3.1. Nhóm nhân tố tự nhiên:
Những nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là vị trí địa
lý, và điều kiện tự nhiên như khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, đất đai... Nhân tố vị trí địa lý
có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của làng nghề. Nếu một làng nghề có địa
thế nằm gần nơi có nguồn nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm hay có những yếu
tố thuận lợi tự nhiên về thông thương thì đó là những đặc điểm thuận lợi quan trọng
cần khai thác.
Nếu vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển lâu dài của các làng
nghề thì điều kiện tự nhiên của mỗi vùng cũng là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của làng nghề. Khí hậu, thời tiết tại mỗi nơi tạo ra những nguồn
nguyên liệu đặc trưng cho các làng nghề.
Tóm lại, nhóm nhân tố tự nhiên là nhóm nhân tố đầu tiên quan trọng ảnh hưởng
đến không chỉ sự hình thành mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của các làng
nghề.
1.3.2. Nhóm nhân tố kinh tế
Nhóm nhân tố kinh tế bao gồm các yếu tố thị trường, sản phẩm, vốn, cơ sở hạ
tầng, trình độ lao động...
Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là sản phẩm. Làng
nghề sinh ra nhằm sản xuất đáp ứng nhu cầu của người nông dân về các sản phẩm
dùng cho sản xuất hay sinh hoạt hàng ngày. Cùng với thời gian, những sản phẩm này
mang theo những giá trị văn hoá riêng của tâm hồn người Việt. Nhưng trước hết, nó
là những sản phẩm để sử dụng. Do đó, muốn tồn tại nó phải đáp ứng với nhu cầu sử
dụng hiện nay. Nghĩa là, nó phải tiện dụng, hình thức mẫu mã đẹp, bền chắc và giá
rẻ. Với các sản phẩm là thực phẩm thì nó còn phải đạt yêu cầu về vệ sinh an toàn
thực phẩm.
Ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề còn là nhu cầu của thị trường về các
loại sản phẩm của làng nghề. Có cầu thì mới có cung, nếu thị trường còn có nhu cầu
về các loại sản phẩm của làng nghề thì làng nghề mới có thể có đất sống. Cũng như
vậy với những làng nghề truyền thống, sản phẩm làm ra là sự kết tinh của những tài
hoa, là văn hoá phẩm độc đáo, nhất là đối với người nước ngoài. để đáp ứng nhu cầu
của thị trườn và chống lại sự cạnh tranh không khoan nhượng của các sản phẩm công
nghiệp cùng loại, các làng nghề cần chú ý đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng
mẫu mã sản phẩm, phương thức vận chuyển, thanh toán...
Nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là vốn và cơ sở hạ
tầng. Vốn và cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định để phát huy các tiềm năng khác về
lao động, ngành nghề các nguồn lực khác. Đây là yếu tố quan trọng, là cơ sở để giải
quyết các yếu tố đầu vào khác.
Nhân tố thứ tư có ảnh hưởng tới sự phát triển của làng nghề là lao động và kỹ
thuật. Về số lượng lao động, làng nghề không chỉ gồm những người trong độ tuổi lao
động mà còn bao gồm cả người già và trẻ em tham gia vào hoạt động sản xuất.
Những nghề là nghề truyền thống thì người già, người ngoài độ tuổi lao động lại có
thể là nguồn nhân lực quý giá bởi chính những kinh nghiệm và thời gian làm nghề
của họ. Đây là một đặc điểm đáng lưu ý trong việc khai thác và sử dụng nguồn nhân
lực ở làng nghề so với các ngành khác và thậm chí so với cả ngành nông lâm nói
chung. Về kỹ thuật sản xuất, kỹ thuật sản xuất nói chung ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng sản phẩm . Kỹ thuật sản xuất hiện nay còn chưa cao dẫn đến khó khăn
trong tiêu thụ và đe doạ sự tồn tại của làng nghề. Do đó, nâng cao trình độ cho lao
động làng nghề là việc làm hết sức cần thiết để phát triển kinh tế làng nghề.
1.3.3. Nhóm nhân tố văn hoá- xã hội
Nhóm nhân tố này bao gồm các điều kiện nói chung về văn hoá- xã hội như mật
độ dân số, trình độ dân trí, tay nghề người lao động, các chính sách, pháp luật của
Nhà nước...
Trình độ dân trí ảnh hưởng đến nhân thức, tiếp thu kỹ thuật và chuyển giao kỹ
thuật trong sản xuất làng nghề. Nó ảnh hưởng đến vấn đề quản lý, khôi phục và phát
triển làng nghề nói chung.
Một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của làng nghề là các
chính sách của Nhà nước. Chính sách của Nhà nước là tổng thể các biện pháp tác
động vào nông nghiệp- nông thôn nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định phát
triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Thực tế cho thấy, nhờ có các chính sách
khuyến khích phát triển của Đảng và Nhà nước ta mà một số lớn các làng nghề được
bảo tồn và khôi phục. Các chính sách có vai trò quan trọng, tác động trực tiếp đến
sản xuất làng nghề tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất hàng hoá, phát triển sức
mạnh của các thành phần kinh tế, góp phần xây dựng nông thôn mới, cải thiện mức
sống chung của người dân nông thôn. Sự tác động của chính sách đảm bảo cho sự
thành công và phát triển của các làng nghề, phát huy những yếu tố tích cực và
khuyến khích sự nỗ lực phấn đấu của người dân làng nghề. Những chính sách đúng
đắn, kịp thời sẽ là động cơ quan trọng tạo động lực cho phát triển làng nghề, ngành
nghề nông thôn và từ đó góp phần phát triển khu vực nông thôn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KINH TẾ LÀNG NGHỀ Ở HẢI PHÒNG
2.1. Khái quát các điều kiện phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của làng nghề ở Hải
Phòng:
Hải Phòng là một trong bốn thành phố trực thuộc Trung ương. Vị trí địa lý của
Hải Phòng kéo dài từ 20030’39” đến 21001’15’’ vĩ độ Bắc và từ 106023’23’’ đến
107008’28’’ độ kinh Đông. Hải Phòng nằm ở phía Đông Bắc vùng đồng bằng Sông
Hồng, Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Đông giáp biển Đông- có nguồn lợi từ
biển khá phong phú, phía Tây và Nam giáp các tỉnh Thái Bình, Hải Dương- hai tỉnh
nông nghiệp trù phú nhất đồng bằng Sông Hồng. Do có nhiều thuận tiện về đường
thuỷ, ở Hải Phòng từ thời Pháp thuộc đã hình thành một hải Cảng có ý nghĩa về kinh
tế, thương mại và quân sự. Đi liền với Cảng, Hải Phòng cũng trở thành trung tâm
công nghiệp, đầu mối giao thông hàng hải, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và
đường hàng không, là cửa ngõ chính của các tỉnh phía Bắc hướng ra biển Đông
thông thương với quốc tế.
Khí hậu ở Hải Phòng là khí hậu đặc trưng của vùng nhiệt đới ven biển gió mùa,
nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 230C, lượng mưa bình quân 1.500mm, độ ẩm
tương đối trung bình 86%. Khí hậu thời tiết nói chung thuận lợi trồng các loại cây
nhiệt đới. Tuy nhiên lượng mưa và nhiệt độ không khí không phân bố đều trong cả
năm, mưa bão ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp.
Thành phố Hải Phòng có diện tích đất tự nhiên không lớn (151.292 ha) trong đó
đất nông lâm nghiệp chiếm 80.714 ha (chiếm khoảng 50%). Đất đai Hải Phòng chủ
yếu là chua phèn và mặn phèn, (50%) , đòi hỏi chi phí cao về phân bón, thuỷ lợi để
tiếp tục cải tạo đất. Với chất lượng đất như vậy, việc tiến hành sản xuất nông nghiệp
là khó khăn. Đối với phát triển làng nghề thì quỹ đất hạn hẹp cũng gây một số ảnh
hưởng khiến sản xuất không tập trung, sản xuất nguyên liệu tại chỗ có khó khăn.
Hải Phòng cũng có một số tài nguyên khoáng sản khác tuy số lượng và trữ
lượng không lớn. Chủ yếu là đất sét gạch ngói, sét xi-măng và phụ gia (trữ lượng
2.217 triệu tấn), đá vôi, đá trang trí mỹ nghệ (trữ lượng 330 triệu tấn), ngoài ra có
một số mỏ than bùn, mỏ kim loại ti-tan, mỏ phi kim: Dolomit, Photphorin, Silic hoạt
tính,... với trữ lượng nhỏ.
Như vậy, qua phân tích cho thấy, Hải Phòng có một số điều kiện thuận lợi cơ
bản về tự nhiên để phát triển kinh tế làng nghề như sau:
Thứ nhất, Hải Phòng là thành phố công nghiệp, có cảng biển và điều kiện địạ lý
cũng như cơ sở hạ tầng khá phát triển (được đánh giá là một trong 12 tỉnh thành phố
dẫn đầu trong cả nước). Điều kiện giao thông, lưu thông thương mại tạo điều kiện
thuận lợi cho sản phẩm, hàng hoá ngành nghề nói chung tiếp cận và hội nhập thị
trường trong và ngoài nước.
Thứ hai, thành phố có thế mạnh tự nhiên nằm trong vùng có tiềm năng khai thác
nguyên liệu nông sản từ các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, các tỉnh miền núi phía Bắc
để phát triển các ngành nghề chế biến. Bản thân thành phố cũng có một số nguồn
nguyên liệu về tài nguyên khoáng sản, tuy không phong phú nhưng cũng phần nào
đáp ứng được nhu cầu vật liệu cho các làng nghề sản xuất gốm sứ, khai thác vật liệu
xây dựng.
Thứ ba, Hải phòng có nhiều địa danh nổi tiếng hấp dẫn khách du lịch. Đây cũng
là đầu mối tiêu thụ, thông tin thu hút khách hàng cho các sản phẩm của các làng
nghề.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, điều kiện tự nhiên của Hải Phòng cũng có
một số khó khăn cho phát triển kinh tế làng nghề. Do diện tích đất nông nghiệp
không nhiều và chất lượng đất thấp nên khả năng tự sản xuất nguyên liệu từ sản
phẩm nông nghiệp có nhiều khó khăn, sản xuất không tập trung với quy mô lớn
được. Vùng nguyên liệu ở xa cũng là một vấn đề vướng mắc cho sản xuất…
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội của Hải Phòng và ảnh hưởng của nó đến sự phát
triển của làng nghề:
BẢNG 1: CƠ CẤU VÀ TĂNG TRƯỞNG GDP CỦA HẢI PHÒNG
(Đơn vị tính: %)
Nhóm ngành kinh tế 1990 1995 1998 1999 2000 2001
GDP toàn thành phố 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Nhóm nông-lâm-thuỷ sản 22,10 20,90 18,80 18,70 17,70 16,70
Nhóm công nghiệp- XD 21,00 26,80 32,10 32,10 33,70 34,50
Nhóm dịch vụ 56,90 52,30 49,100 49,20 48,60 48,80
( Nguồn: Niên giám thống kê - Cục thống kê Hải Phòng 2001)
Trong giai đoạn 1996- 2000, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp liên
tục tăng, đạt mức bình quân 5,6%/năm, trong đó trồng trọt tăng 4,98%, chăn nuôi
tăng 6,78%. Kinh tế nông thôn phát triển nhanh, GDP liên tục tăng, đạt 9,1%/năm.
Về cơ bản, Hải Phòng đã xóa được hộ đói, hộ nghèo giảm nhiều, chỉ còn khoảng
5,8% trong đó, khu vực nông thôn còn gần 10% số hộ nghèo. Sản xuất phát triển, đời
sống kinh tế nông thôn được tăng lên, hệ thống cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường,
trạm, các công trình thuỷ lợi, dự án nước sạch được tập trung quan tâm đầu tư đã
nhanh chóng đổi mới diện mạo nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nông
dân. Hệ thống giao thông, đường xá, điện nước, thông tin liên lạc là cầu nối quan
trọng giữa sản xuất và tiêu dùng, tạo điều kiện cho sản phẩm được tiêu thụ ở những
thị trường rộng lớn do đó có khả năng đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
Hải Phòng có khoảng 1.800,5 ngàn người. Trong đó có khoảng 900.000 người
trong độ tuổi lao động, lao động có kỹ thuật chiếm 28,8% ( chỉ đứng sau Hà Nội và
cao hơn hẳn các tỉnh phía Bắc khác). Dân cư nông thôn chiếm khoảng 66% tổng số
dân của Thành phố hàng năm đóng góp vào tổng giá trị sản xuất của thành phố
khoảng 12%/ năm. Về trình độ dân trí nói chung trong những năm qua đã được nâng
lên đáng kể do có sự quan tâm thích đáng từ phía các cấp lãnh đạo. Hải Phòng là một
thành phố được đầu tư nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học kỹ thuật và giáo dục đào tạo
Công tác giáo dục, phổ cập giáo dục về mọi mặt được triển khai thực hiện khá tốt.
Do đó đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân kỹ thuật ngày
càng có trình độ và tay nghề cao hơn, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, phục vụ công cuộc CNH-HĐH của thành phố.
Hải Phòng được đánh giá là một trung tâm công nghiệp lớn, là một địa bàn phát
triển kinh tế của khu vực được Nhà nước quan tâm đầu tư. Hải Phòng đang hình
thành nhiều khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao, đặc khu kinh
tế ... với nhiều nhà máy, nhiều ngành nghề công nghiệp mới đang hình thành. Năm
2000, vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn thành phố đạt 4.041,5 tỷ đồng trong đó vốn
ngân sách chiếm 16,3%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5,8%; Vốn đầu tư XDCB cho
lĩnh vực nông nghiệp chiếm 9,1%.
Riêng đối với lĩnh vực nông nghiệp - vốn là một bộ phận cấu thành của nền
kinh tế thành phố- có vai trò đóng góp tích cực về nhân lực, lương thực, thực phẩm,
đồng thời là một thị trường lớn (vừa tiêu thụ hàng hoá vừa cung cấp nguyên liệu)
góp phần phát triển thành phố đi lên công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Nông nghiệp Hải
Phòng trong những năm vừa qua đã có nhiều chuyển biến đáng khích lệ, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân 9,2%/năm; giá trị sản xuất nông nghiệp cũng đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân 8,8%/năm. Hải Phòng cũng đã và đang thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tuy nhiên tốc độ thực hiện còn khá chậm chạp. Một số yếu tố khác của
kinh tế nông nghiệp như vốn, chất lượng lao động khu vực nông thôn, cơ sở kỹ thuật
sản xuất của ngành nông nghiệp hiện nay ở Hải Phòng còn nhiều yếu kém; yêu cầu
cần được chấn chỉnh và hoàn thiện.
Về tình hình phát triển ngành nghề nông thôn, Hải Phòng vốn có các làng nghề
phát triển lâu đời, có những làng nghề truyền thống đã từng có tên tuổi trên cả nước.
Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà nhiều làng nghề bị mai
một. Đây cũng là một cơ sở để Hải Phòng khôi phục phát triển các ngành nghề nông
thôn.
Như vậy, có thể thấy, Hải Phòng là một thành phố có nhiều tiềm năng phát triển
thuận lợi để phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng như sau.
Thứ nhất, về điều kiện sản xuất, Hải Phòng có cơ sở hạ tầng nông thôn khá phát
triển. Những yếu tố cơ bản như giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước sạch cho
sinh hoạt và sản xuất, các cơ sở y tế, giáo dục... là nền tảng chung cho các làng nghề
để phát triển sản xuất và tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, tăng
năng suất là chất lượng sản phẩm.
Thứ hai, Hải Phòng có nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ dân trí nói chung
khá cao so với các tỉnh thành trong khu vực. Lực luợng lao đọng dồi dào này tạo khả
năng khai thác trong thời gian tới.
Thứ ba, thành uỷ, UBND thành phố Hải Phòng rất quan tâm đến sự phát triển
của khu vực kinh tế nông thôn nói chung và sự phát triển của làng nghề nói riêng. Sự
quan tâm này thể hiện qua những văn bản hướng dẫn, đôn đốc thực hiện các biện
pháp phát triển làng nghề của thành phố trong thời gian qua
Có thể thấy, những lợi thế của Hải Phòng là khá cơ bản. Điều quan là vận dụng
sao cho có hiệu quả những yếu tố thuận lợi này để phát triển kinh tế làng nghề góp
phần tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố, đúng với định hướng và yêu cầu
CNH-HĐH của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Hơn nữa, cũng cần chú ý đến những
khó khăn hiện tại, là nguyên nhân khiến làng nghề Hải Phòng hiện chưa phát triển.
Đó là các vấn đề về trình độ lao động, mô hình tổ chức sản xuất của các làng nghề…
Hải Phòng hiện có tốc độ phát triển khá nhanh nhưng cũng do đó mà tốc độ đô thị
hoá cao, đất nông nghiệp có xu thế giảm nhanh gây khó khăn cho sản xuất tập trung.
Ngoài ra còn vấn đề về môi trường và ô nhiễm môi trường do sản xuất của các làng
nghề cũng là một vấn đề cần quan tâm giải quyết.
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng:
2.2.1.Vài nét về quá trình phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng:
Hải Phòng vốn là vùng nông thôn miền biển thuộc duyên hải Bắc Bộ. Người
dân ở đây chủ yếu làm nông nghiệp, ngoài trồng lúa là chính còn trồng các cây lương
thực, cây cói và cây thuốc lào. Đảo Cát Hải, thị xã Đồ Sơn và một số xã ven biển ở
Kiên thuỵ có nghề làm muối. Đảo Cát Bà và nhiều xã ven biển, cửa sông có nghề
đánh bắt thuỷ hải sản. Nghề thủ công cổ truyền cũng khá phát triển, có những làng
nghề nổi tiếng như đúc gang Phương Mỹ( Thuỷ Nguyên); tác tượng Đồng Minh và
dệt vải Cổ Am(Vĩnh Bảo)…Những làng nghề này đã phát triển từ cuối thế kỷ XIX
với nhiều làng nghề truyền thống đã từng có tên tuổi trong nước. Hải Phòng đã có
trên 60 làng nghề truyền thống với trên 20 ngành nghề khác nhau. Nhưng do biến
động của thời gian cùng với nhiều lý do khách quan và chủ quan khác, đến nay hầu
hết các làng nghề truyền thống này đã dần mai một và đi vào lịch sử. Một số ít làng
nghề hiện truyền thống hiện còn tiếp tục phát triển, một số khác chuyển đổi ngành
nghề phục vụ đời sống khác. Tuy nhiên hoạt động sản xuất của các làng nghề hiện
nay vẫn còn ở dạng nhỏ lẻ, manh mún và hiệu quả cũng như năng suất lao động chưa
cao.
Giai đoạn từ năm 1990 trở về trước:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thủ công nghiệp trên cả nước, Hải Phòng
cũng khai thác thế mạnh về các ngành nghề truyền thống trên khắp các địa bàn quận
huyện; phục hồi phát triển các HTX sản xuất gia công cho các đơn vị quốc doanh
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: thảm len, thảm đay, thảm cói, chiếu cói, hàng
mây tre đan, mành trúc, thêu ren, thảm trải giường, trải bàn, đúc kim loại... Các làng
nghề Hải Phòng sản xuất nhiều mặt hàng với chủng loại phong phú. Hầu hết các sản
phẩm này được xuất khẩu sang các nước Đông Âu và Liên Xô(cũ). Năm 1990, xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt 13,8 triệu USD, chiểm 30% tổng kim ngạch toàn
thành phố. Có thể nói, đây là giai đoạn phát triển nhất của các làng nghề Hải Phòng.
Giai đoạn từ năm 1991 đến 1995
Đây là giai đoạn khó khăn của làng nghề Việt Nam nói chung do sự đổ vỡ của
thị trường chủ yếu của chúng ta là Đông Âu và Liên Xô (cũ). Cơ chế thị trường mở
ra là lúc các làng nghề rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Hàng hoá
không còn khan hiếm như trước. Làng nghề đứng trước một sức ép mạnh mẽ của
hàng hoá Trung quốc nhập lậu có giá rẻ hơn rất nhiều mà hình thức, mẫu mã lại đa
dạng hơn, được nhiều người ưa chuộng hơn. Không có nơi tiêu thụ, đầu ra cho các
mặt hàng thủ công mỹ nghệ trở nên bế tắc. Do đó, việc sản xuất các mặt hàng này
dần dần co hẹp thậm chí ngừng hoạt động đối với một số làng nghề. Một số làng
nghề truyền thống chuyển sang sản xuất các mặt hàng rẻ tiền khác phục vụ đời sống
sinh hoạt hàng ngày của nhân dân, tiêu thụ chủ yếu trên thị trường nội địa. Sự
chuyển đổi đối tượng sản xuất nhằm giải quyết trước mắt việc làm và thu nhập cho
chính con em làng nghề trong giai đoạn khó khăn. Tất nhiên, nó không thể mang lại
hiệu quả kinh tế cao cũng như không mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người
làm nghề. Sự tồn tại và phát triển của làng nghề lúc này phải trông mong vào những
cơ hội mới trong tương lai.
Từ năm 1996 trở lại đây, do có những chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước
và Thành phố khuyến khích sự phát triển của ngành nghề nông thôn, các làng nghề
được mở ra một hướng phát triển mới có nhiều tương lai và hứa hẹn hơn. Số lượng
làng nghề và ngành nghề tăng, song khả năng tồn tại và phát triển vững chắc của
ngành nghề còn yếu. Làng nghề ở Hải Phòng hiện nay chủ yếu tập trung giải quyết
vấn đề lao động việc làm trong thời gian nông nhàn ( nghề đan tre, chế biến cói, chế
biến nông sản...) hoặc tận dụng thế mạnh của địa phương (vận tải, khai thác vật liệu
xây dựng...). Các làng nghề bao gồm cả các làng nghề truyền thống và làng nghề mới
và phát triển ở các huyện ngoại thành. Căn cứ theo sản phẩm làm ra, Hải Phòng hiện
có 11 loại hình ngành nghề ở 30 làng nghề. (Bảng 2)
BẢNG 2: SỐ LƯỢNG VÀ CÁC LOẠI HÌNH LÀNG NGHỀ
STT Loại hình Sản phẩm chủ yếu Số lượng
1 Sản phẩm mây tre Song, mây, tre đan, chổi đót ... 8
2 Thêu ren, thảm len Thêu ren, móc chỉ, bôđê, thêu tranh, dệt màn, khăn mặt, thảm len 3
3 Chế biến cói Dệt chiếu, đan mũ, đĩa, làn cói... 1
4 Chế biến nông sản Bún, bánh đa, bánh gai... 3
5 Sản xuất đồ gỗ Điêu khắc, tạc tượng, sản xuất đồ gỗ dân dụng,
đóng tàu thuyền vỏ gỗ... 4
6 Đúc rèn, kim loại Đúc gang, đúc đồng, đúc mỹ nghệ, rén các sản
phẩm cơ khí...
2
7 Vật liệu xây dựng Đá, vôi, phụ gia xi- măng... 4
8 Vận tải Vận tải trên bộ, vận tải thuỷ 2
9 Cây cảnh Trồng và kinh doanh cây cảnh 1
10 Gột cá giống Giống cá tôm các loại 1
11 Đánh cá xa bờ Các loại thuỷ sản 1
Tổng cộng 30
BẢNG 3: CÁC LÀNG NGHỀ HIỆN NAY CỦA HẢI PHÒNG
Số
TT
Huyện
(Quận,thị xã) Ngành nghề Xã Hình thức
Truyền thống Mới
I An Hải 4 làng nghề
1 Chế biến nông sản (bún,bánh) Tân Tiến x
2 Trồng hoa Đằng Hải x
3 Mây, tre đan Dư Hàng Kênh x
4 Đan tre Hồng Thái x
II An Lão 1 làng nghề
5 Đan tre An Thái x
III Kiến An 1 làng nghề
6 Mộc, đồ gỗ ôkan Nam Sơn x
IV Kiến Thuỵ 4 làng nghề
7 Đan tre Thuận thiên x
8 Dệt thảm len Thuận thiên x
9 Đan tre Thanh Sơn x
10 Chế biến nông sản Đông Phương x
V Thuỷ Nguyên 13 làng nghề
11 Đóng thuyền vỏ gỗ Lập lễ x
12 Đánh cá vương khơi Lập Lễ x
13 Đan tre Chính Mỹ x
14 Đúc kim loại Mỹ Đồng x
15 Vật liệu xây dựng Lại Xuân x
16 Vật liệu xây dựng An Sơn x
17 Vật liệu xây dựng Minh Đức x
18 Vận tải Minh Đức x
19 Chế biến nông sản Thiên Hương x
20 Vận tải An Lư x
21 Rèn kim loại Hoa động x
22 Sản xuất đồ gỗ Phục Lễ x
23 Vật liệu xây dựng Minh Tân x
VI Tiên Lãng 2 làng nghề
24 Đan tre Tiên Cường x
25 Dệt chiếu cói Quang Phục x
VII Vĩnh Bảo 5 làng nghề
26 Điêu khắc, tạc tượng, sơn mài Đồng Minh x
27 Đan tre Đồng Minh x
28 Dệt vải, thảm len, ren Cổ Am x
29 Thêu ren Cao Minh x
30 Gột cá giống Cao Minh x
Tổng cộng 16 14
Nguồn: Sở NN & PTNT Hải Phòng
Ta có thể thấy, số lượng làng nghề ở Hải Phòng hiện nay còn khá ít, chủ yếu là
các nghề không đòi hỏi cao về tay nghề kỹ thuật cũng như ít có yêu cầu về máy móc
và vốn đầu tư. Số ngành mới và số ngành truyền thống được khôi phục sản xuất là
tương đương nhau. Tuy nhiên các ngành nghề truyền thống chủ yếu sản xuất thủ
công. Nhìn chung, các huyện Hải Phòng đều có làng nghề phát triển nhưng loại hình
sản xuất chưa nhiều, chưa phong phú và chỉ tập trung một số xã. Còn lại, nhiều xã
chưa có làng nghề phát triển. Như vậy, cần phải mở rộng hơn nữa mô hình sản xuất
làng nghề đồng thời mở ra thêm nhiều ngành mới, khôi phục các ngành nghề có tiềm
năng để khai thác năng lực sản xuất.
2.2.2.Sự phát triển của làng nghề Hải Phòng giai đoạn từ năm 1996 đến nay:
a) Chủ trương, chính sách phát triển làng nghề của thành phố:
Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước là một mốc son với nền kinh tế cả
nước nói chung và kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng trong đó có làng nghề.
Nhất là sau khi Chính phủ ban hành quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày
24/11/2000 của Thủ tướng chính phủ về “ Một số chính sách phát triển ngành nghề
nông thôn” cùng với sự hồi phục và phát triển các ngành kinh tế khác, ngành sản
xuất tiểu thủ công nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ được phát triển trở lại. Thực hiện
quyết định của Chính phủ, UBND thành phố Hải Phòng đã ra văn bản 1777/KH-UB
ngày 07/06/2001 về “Kế hoạch triển khai thực hiện quyết định 132/2000/QĐ-TTg”
Ngày 05/09/2001 UBND thành phố có quyết định 2068/QĐ-UB về “ Thành lập tiểu
ban quản lý chương trình hỗ trợ, khôi phục phát triển ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp”. Ban thường vụ thành uỷ khoá XI cũng đưa ra nghị quyết 15 về một số vấn
đề phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, trong đó đề cập đến chủ trương và giải
pháp “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng nâng cao tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, tăng tỷ trọng tổng sản phẩm xã hội”. Tại hội nghị cấp thành phố “
Hội thảo ngành nghề nông nghiệp nông thôn Hải Phòng” có sự tham gia của các cấp
các ngành trong thành phố cũng cho thấy sự quan tâm của thành phố trong vấn đề
phát triển ngành nghề nông thôn tại thành phố Hải Phòng. Nghị quyết Đảng bộ thành
phố lần thứ 12 xác định: Để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cần phải
“Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, nhất là công nghiệp chế biến,
thủ công mỹ nghệ, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các cụm công nghiệp và các làng
nghề, các loại hình dịch vụ và kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao
động, tăng dần tỷ lệ lao động phi nông nghiệp...”. Cụ thể, thành phố Hải Phòng đã có
những mục tiêu cụ thể tăng kim ngạch xuất khẩu đạt 670 triệu USD, tăng 19%/ năm,
sản lượng hàng thông qua cảng đạt trên 12 triệu tấn, giải quyết việc làm cho trên
17,5 vạn lao động, tăng tỷ lệ lao động được đào tạo lên hơn 35% tổng số lao động
thành phố. Trong giai đoạn 2000-2992, thành phố đã dành 1.500 triệu đồng cho đầu
tư phát triển các làng nghề có tính mũi nhọn; phát triển các khu công nghiệp làng
nghề tập trung, cấp quyền sử dụng đất cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, triển khai
các chương trình tín dụng và thông tin thị truờng...
Thành phố có dự kiến tiếp tục phát huy và đến năm 2005 phát triển thêm 5 làng
nghề, năm 2010 phát triển thêm 17 làng nghề với một số ngành nghề mới như chạm
khắc vỏ ốc biển và quy hoạch lại những làng nghề hoạt động có hiệu quả, những làng
nghề hoạt động kém hiệu quả sẽ thu hẹp dần. Với mục tiêu tiến tới giải quyết 29.000
lao động bao gồm cả lao động chuyên và lao động kiêm, đem lại thu nhập đạt trên
500.000đ/ tháng, tổng doanh thu ước tính đạt 350 tỷ đồng ( chiếm khoảng 45-50%
tổng doanh thu của các địa phương). Theo đó, thành phố đã khuyến khích đào tạo
nghề, đầu tư chiều sâu cho sản xuất có hỗ trợ một phần vốn từ ngân sách.
Nói tóm lại, Đảng bộ và UBND thành phố Hải Phòng rất quan tâm đến vấn đề
phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và vấn đề phát triển ngành nghề nông
thôn nói riêng. Qua các nghị quyết của thành phố cho thấy, thành uỷ, UBND thành
phố Hải Phòng coi ngành nghề nông thôn như một vấn đề quan trọng, có tính động
lực cho sự phát triển của nông thôn.
b) Thực trạng về hình thức tổ chức sản xuất của các làng nghề của Hải Phòng
hiện nay:
BẢNG 4: MÔ HÌNH TỔ CHỨC SẢN XUẤT CỦA CÁC LÀNG NGHỀ
Số
TT
Tên ngành nghề
Tổng số
hộ tham
gia sản
xuất
Hộ NN
kiêm
ngành
nghề
Hộ
chuyên
ngành
nghề
Tổ hợp
sản
xuất
Doanh
nghiệp
tư nhân
Công ty
TNHH
HTX
1 Đan tre 2.786 2.124 662 1 - - 2
2 Thêu ren 732 732 - 1 - - 3
3 Gột cá giống 728 720 8 - - - -
4 Dệt chiếu cói 400 400 - - - - 1
5 Sản xuất đồ gỗ 470 347 123 - 5 - 4
6 Chế biến nông
sản
880 762 118 - - - -
7 Trồng hoa 1.250 548 702 - - - -
8 Vật liệu xây dựng 1.783 1.198 585 - 1 5 4
9 Đúc rèn kim loại 636 450 186 - 10 1 2
10 Vận tải 306 133 173 - - 13 2
11 Đánh cá xa bờ 718 718 - - 8 - 3
Tổng cộng 10.689 8.132 2.557 2 24 19 21
Trong tổng số hộ điều tra của các huyện thị, số hộ tham gia sản xuất làng nghề
là 10.689 hộ, chiếm 21% trong tổng số. Tỷ lệ này cho thấy phong trào sản xuất làng
nghề đã phát triển đáng kể. Tuy nhiên, số hộ kiêm sản xuất nông nghiệp và ngành
nghề khá cao (8.132 hộ - chiếm 76%). Số hộ chuyên ngành nghề chỉ chiếm 24%. Tỷ
lệ này mặc dù chưa cao nhưng cũng là một tỷ lệ đáng khích lệ và nó là biểu hiện của
những nỗ lực cố gắng của toàn thành phố trong thời gian qua. Có thể thấy rằng, hình
thức tổ chức sản xuất chủ yếu là sản xuất theo quy mô gia đình, vốn do gia đình bỏ
ra và lao động là người nhà. Với các cơ sở lớn hơn có thể thuê thêm lao động nhưng
chủ yếu vẫn là những người nhà, trong đó có cả người già và trẻ em. Hiện nay, các
hộ nông dân chủ yếu sản xuất độc lập dựa trên những kinh nghiệm vốn có, đồng thời
phát huy tính sáng tạo bản thân để đáp ứng nhu cầu thị trường. Hình thức tổ chức sản
xuất hiện tại còn rất manh mún, quy mô sản xuất nhỏ do đó dễ suy ra rằng số lượng
cũng như chất lượng sản phẩm chậm được cải thiện. Bản thân đơn vị sản xuất cũng
có ít cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành, tăng tính cạnh
tranh của sản phẩm. Các hình thức tổ chức sản xuất HTX,Công ty TNHH, DNTN, ...
là những mô hình năng động có số lượng rất hạn chế trong tổng số các loại hình sản
xuất của làng nghề cho thấy tâm lý sản xuất nhỏ, sản xuất mang tính tự phát còn
mang nặng đối với người làm nghề ở Hải Phòng hiện nay.
c) Tình hình lao động ở các làng nghề Hải Phòng:
*Về số lượng lao động trong các làng nghề
Trong tổng số 26 xã được điều tra, tổng số lao động làng nghề chiếm 26% số
lao động. Trong đó, huyện Thuỷ Nguyên có số lao động tham gia cao nhất, chiếm
53% tổng số lao động nông nghiệp huyện.Các hộ, cơ sở sản xuất làng nghề bình
quân tạo việc làm cho từ 1 đến 4 lao động thường xuyên và 1- 2 lao động thời vụ.
Trong các ngành nghề được điều tra, nghề đan tre là nghề có nhiều lao động tham
gia nhất (5.039 người, chiếm 21% tổng số lao động của làng nghề). Có thể lý giải
điều này là bởi tính thủ công đơn giản của nghề, dễ học, dễ làm và có thể tham gia
vào bất cứ lúc nào.Về loại hình tham gia lao động thì có 13.526 lao động thường
xuyên (chiếm 56%); lao động thời vụ là 10.543 người (chiếm 44%). Điều này cho
thấy, làng nghề Hải Phòng đã tạo ra sức hút lao động đáng kể, tạo ra được việc làm
cho người nông dân trong lúc nông nhàn, giải quyết tình trạng bán thất nghiệp. Mặt
khác nó cũng lại cho thấy tính chất “phụ” của các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,
công nghiệp nông thôn còn nặng nề. Lao động nam có 15.327 người (chiếm 63%)
chủ yếu tập trung vào khai thác vật liệu xây dựng (3.441 người); đánh bắt cá xa bờ
(2.900 người), đúc rèn kim loại, sản xuất đồ gỗ, vận tải... nói chung là những công
việc nặng nhọc, yêu cầu sức khoẻ, phù hợp với nam giới. Lao động nữ có 8.742
người ( chiếm 37%) chủ yếu tập trung vào các nghề đan tre, chế biến cói, thêu ren,...
các ngành đòi hỏi sự cẩn thận kiên trì và khéo léo. Với cả hai giới đều có những
ngành nghề phù hợp để tham gia lao động, tân dụng nguồn lực lao động ở địa
phương.
BẢNG 5: SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở CÁC LÀNG NGHỀ
(Đơn vị: người)
Số
TT
TÊN NGÀNH
NGHỀ
LAO ĐỘNG (NGƯỜI)
Tổng
số
Theo giới tính Tính chất lao
động
Tình trạng
việc làm
Nam Nữ Thường
xuyên
Thời vụ Đủ việc Thiếu
việc
1 Đan tre 5.039 2.470 2.569 1.791 3.248 2.140 2.899
2 Thêu ren 844 06 838 552 292 500 344
3 Gột cá giống 850 820 30 250 600 720 130
4 Dệt chiếu cói 1.500 600 900 600 900 1.200 300
5 Sản xuất đồ gỗ 1.615 1.454 161 817 798 1.156 459
6 Chế biến nông sản 1.661 595 1.066 1.015 646 1.078 538
7 KD cây cảnh 2.262 973 1.289 1.606 656 1.855 407
8 Vật liệu xây dựng 4.867 3.441 1.426 3.203 1.664 3.803 1.064
9 Đúc, rèn kim loại 1.626 1.213 413 990 636 1.232 394
10 Vận tải 905 855 50 802 103 830 75
11 Đánh cá xa bờ 2.900 2.900 - 1.900 1.000 1.900 1.000
Tổng cộng 24.069 15.327 8.742 13.526 10.543 16.414 7.655
(Nguồn: Sở NN & PTNT Thành phố Hải Phòng)
Phân chia theo tính chất lao động, ta có thể thấy, hoạt động của làng nghề đã
góp phần giải quyết được cho 13.526 lao động thường xuyên và 10.543 lao động thời
vụ. Phân chia theo tình trạng việc làm cho thấy điều đáng quan tâm là lượng việc làm
ở các làng nghề hiện không đủ cho lượng người có nhu cầu làm việc, biểu hiện qua
con số 7.655 người thiếu việc làm của các làng nghề được điều tra. Tổng số lao động
có việc làm là làng nghề mới chỉ là hơn 24.000 người, chưa phải là con số lớn đối
với lượng lao động dồi dào ở nông thôn Hải Phòng. Một mặt nó cho thấy nguồn lực
lao động của Hải Phòng hiện vẫn chưa được giải phóng hết. Mặt khác lại thấy rằng
nông thôn Hải Phòng hiện có một nguồn lao động dồi dào sẵn sàng với việc làm.
Đây là một nguồn lực đáng kể để khai thác trong thời gian tới.
*Về chất lượng lao động: đáng chú ý là hiện nay các lao động hầu hết chưa qua
đào tạo, chủ yếu làm bằng kinh nghiệm và truyền nghề. Do đó, chất lượng lao động
không cao, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
BẢNG 6: TRÌNH ĐỘ LAO ĐỘNG Ở CÁC LÀNG NGHỀ
Số
TT
Tên ngành nghề
Tổng
số lao
động
Chưa
qua
đào tạo
Đã qua đào tạo
Tổng
số
Trình độ
Sơ cấp
Thợ
giỏi
Trung
cấp
CĐ
ĐH
1 Đan tre 5.039 4.930 109 10 99 - -
2 Thêu ren 844 - 844 741 102 - 1
3 Gột cá giống 850 770 80 - 52 25 3
4 Dệt chiếu cói 1.500 1.380 120 - 120 - -
5 Sản xuất đồ gỗ 1.615 1.376 239 125 94 20 -
6 Chế biến nông sản 1.661 1.661 - - - - -
7 KD cây cảnh 2.262 2.262 - - - - -
8 Vật liệu xây dựng 4.876 4.119 748 348 400 - -
9 Đúc, rèn kim loại 1.626 1.404 222 50 130 40 2
10 Vận tải 905 509 396 304 - 56 36
11 Đánh cá xa bờ 2.900 2.378 522 410 - 103 9
Tổng cộng 24.069 20.789 3.280 1.988 997 244 51
(Nguồn: Sở NN & PTNT Thành phố Hải Phòng)
Có thể thấy rằng tỷ lệ lao động đã được qua đào tạo là rất ít, chỉ có 3.280
người, chiếm 14% tổng số lao động làng nghề. Trình độ đào tạo của người làm nghề
cũng tỷ lệ nghịch với số lượng lao động tương ứng. Chủ yếu thợ làm nghề chỉ có
trình độ sơ cấp, chiếm đến hơn 50% tổng số lao động đã qua đào tạo. Đặc biệt, người
làm nghề có trình độ cao đẳng hoặc đại học rất hiếm hoi, chỉ có 51 người trong 3.280
người được đào tạo và trong 24.069 người là lao động làng nghề. Lượng lao động có
qua đào tạo chủ yếu tập trung ở các nghề thêu ren, vận tải , vật liệu xây dựng. Nhưng
thợ có trình độ cao về chuyên môn thì chủ yếu ở các ngành đánh cá xa bờ, đúc rèn
kim loại. Một điểm đáng lưu ý là nghề chế biến nông sản, sản xuất các loại thực
phẩm, bún bánh,... hoàn toàn không được đào tạo qua một bậc nào cả. Việc sản xuất
hoàn toàn dựa trên nghề cha truyền con nối hoặc nghề dạy nghề. Điều này có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm và
sức khoẻ người tiêu dùng. Cũng như vậy, đối với các nghề đòi hỏi trình độ nhất định
như vận tải, khai thác vật liệu xây dựng hay đánh cá xa bờ thì mức đào tạo mà người
dân được học chủ yếu là trình độ sơ cấp. Dễ thấy rằng mức độ đào tạo đối với các
ngành này như vậy là chưa thoả đáng. Hậu quả của nó có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ
cũng như của cải vật chất của chính người làm nghề, ảnh hưởng tới sản phẩm và môi
trường sinh thái bền vững.
Một vấn đề nữa là trình độ quản lý của chủ các cơ sở sản xuất ở Hải Phòng hiện
cũng chưa cao. Nguyên nhân do sản xuất nhỏ quy mô gia đình nên chủ hộ đồng thời
là chủ cơ sở sản xuất, quyết định mọi vấn đề liên quan đến sản xuất. Đối với những
hộ sản xuất lâu năm còn có thể bù lấp bằng kinh nghiệm và mối quan hệ trong sản
xuất, tiêu thụ. Còn đối với hộ mới đi vào sản xuất thì sự thiếu hụt kiến thức chung về
sản xuất và quản lý làm ảnh hưởng rất nhiều đến sự tồn tại của cơ sở sản xuất. Nhất
là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày nay, người quản lý cần có một lượng
kiến thức nhất định trong sản xuất kinh doanh để có được những quyết định kinh
doanh đúng đắn. Trong khi đó, Hải Phòng vốn được đánh giá là một trong những
thành phố có trình độ dân trí cao, nguồn lao động có tay nghề và được đào tạo bài
bản hơn so với một số tỉnh, địa phương trong khu vực. Vấn đề là ở chỗ thu hút lượng
lao động này phục vụ cho hoạt động của các làng nghề, góp phần cải thiện chất
lượng sản phẩm, nâng cao trình độ quản lý sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tóm lại, trình độ lao động nói chung của các lao động làng nghề ở Hải Phòng
hiện nay là chưa cao, 86% lao động chưa qua đào tạo, chỉ có 14% lao động được qua
đào tạo. Để phát triển sản xuất và duy trì sự tồn tại, phát triển của làng nghề thì trong
thời gian tới cần có những biện pháp thúc đẩy công tác dạy và học nghề, nâng cao
trình độ của người làm nghề.
d) Về vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng của các làng nghề hiện nay của Hải Phòng
Vốn là điều kiện cần thiết và không thế thiếu được để thực hiện bất cứ quá trình
sản xuất kinh doanh nào. Nhất là đối với lĩnh vực nông nghiệp- nông thôn đang là
lĩnh vực có vai trò chủ chốt trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Đối với các ngành
nghề nông thôn, vốn đầu tư là yếu tố quan trọng để phát huy tiềm năng về các nguồn
lực khác của làng nghề. Trong quá trình hoạt động và phát triển hiện nay, các làng
nghề cũng từng bước tích luỹ vốn, đầu tư cho sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Tuy nhiên, mức đầu tư cho mỗi ngành nghề và tỷ lệ đầu tư vốn trong mỗi
ngành nghề là khác nhau.
BẢNG 8: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CHO SẢN XUẤT Ở CÁC LÀNG NGHỀ
Số
TT
Ngành nghề
Giá trị tài sản (triệu đồng)
Tổng giá trị Tài sản cố định Tài sản
lưu động Giá trị máy móc TSCĐ khác
1 Đan tre 2.947 246 1.100 1.601
2 Thêu ren 1.238 390 618 230
3 Gột cá giống 3.550 50 0 3.500
4 Dệt chiếu cói 1.870 270 0 1.600
5 Sx đồ gỗ 10.390 1.180 3.360 5.850
6 CB nông sản 3.560 1.345 715 1.500
7 KD Cây cảnh 3.400 - - 3.400
8 Vật liệu XD 10.624 6.454 1.245 2.925
9 Đúc rèn kim loại 15.606 1.346 1.568 12.692
10 Vận tảI 121.250 105.920 2.205 13.125
11 Đánh cá xa bờ 89.880 87.880 - 2.000
Tổng cộng 264.315 205.081 10.811 48.423
Tổng vốn đầu tư của 30 làng nghề điều tra là 264.315 triệu đồng, trong đó, tổng
tài sản cố định là 215.892 triệu đồng (chiếm 81%), vốn lưu động là 48.423 triệu đồng
(chiếm 19%). Xét tương tương quan giữa hai lượng vốn cho thấy rõ ràng sự chênh
lệch. Vốn đầu tư cho sản xuất chủ yếu tập trung vào các tài sản cố định, vốn lưu
động ít và do đó sản xuất sẽ khó có khả năng phát huy vai trò của mình. Đó là vấn đề
chủ động về nguyên liệu, vật tư dự trữ cho sản xuất, các vấn đề về lưu thông sản
phẩm...
Trong các ngành nghiên cứu, hai ngành có lượng vốn đầu tư lớn là ngành vận
tải (121.250 triệu đồng) và đánh cá xa bờ (89.880 triệu đồng) cũng là do đặc điểm
hoạt động phải sử dụng các loại máy móc lớn, hiện đại. Với các ngành này, lượng
vốn đầu tư vào máy móc, phương tiện vận tải chiếm hầu hết lượng tài sản cố định
của ngành. Với một số ngành khác thì lượng vốn đầu tư rất thấp, vào khoảng
1.000.000 đồng/ hộ. Hầu hết các ngành này sử dụng tay nghề làm vốn, tài sản cố
định ít và có giá trị thấp, số vốn còn lại là vốn lưu động, sử dụng quay vòng trên thị
trường để thu mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.. Các ngành này có quy mô nhỏ,
sản xuất manh mún, dụng cụ thô sơ và chất lượng sản phẩm không cao.
Về hình thức đầu tư vốn, các ngành này chủ yếu sử dụng vốn tự có. Chính vì
quy mô sản xuất gia đình và sử dụng lượng vốn tự có để tiến hành sản xuất nên
lượng vốn đầu tư cho sản xuất thấp. Hình thức vốn tín dụng được xác định là hình
thức đầu tư vốn quan trọng trong phát triển nông nghiệp nông thôn lại không được
tiến hành rộng rãi đối với phát triển sản xuất của các làng nghề Hải Phòng. Vốn vay
tín dụng chủ yếu tập trung tại các nghề vận tải đường thuỷ, đánh bắt cá xa bờ, một
phần cho khai thác vật liệu xây dựng và nghề đúc rèn kim loại do tỷ lệ hoàn vốn cao
hơn các ngành khác. Như vậy, một mặt làng nghề phát triển cũng góp phần giúp
nông thôn Hải Phòng đẩy mạnh thu hút vốn trong dân đưa vào sản xuất tạo ra giá trị
cho xã hội và cho bản thân chủ cơ sở sản xuất. Lượng vốn ở mỗi cơ sở không nhiều
nhưng tính trên toàn khu vực nông thôn thì con số này là hơn 264.000 triệu đồng-
một con số không nhỏ. Mặt khác, cũng lại thấy rằng do vốn đầu tư thấp làm ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm và nhiều yếu tố khác nữa như tiêu thụ và xử lý rác
thải... Nó cũng thể hiện tính chất sản xuất nhỏ, tính thủ công trong sản xuất. Về lâu
dài tiến lên sản xuất hàng hoá lớn buộc phải tăng lượng vốn đầu tư cho các cơ sở sản
xuất. Ta cũng thấy rằng vốn tín dụng không phát huy được vai trò tích cực của nó đối
với sản xuất của làng nghề. Trong tình trạng thiếu vốn sản xuất, vốn tín dụng nếu
được sử dụng hợp lý sẽ có tác dụng hỗ trợ phát triển rất to lớn. Do đó trong thời gian
tới cần có những biện pháp đối với vốn tín dụng để vốn tín dụng có thể được sử dụng
nhiều hơn ở khu vực kinh tế làng nghề.
e)Về cơ sở hạ tầng cho sản xuất của làng nghề ở Hải Phòng
Trong nhiều năm qua, được sự hỗ trợ của Nhà nước và cùng với sự hưởng ứng
nhiệt tình của nông dân, đến nay, tại các xã có làng nghề đã có 48% đường liên thôn,
liên xã được nhựa hoá, bê tông hoá, còn lại cũng được rải đá cấp phối. Đường thôn
xóm cũng được củng cố, tạo điều kiên thuận lợi cho lưu thông nguyên vật liệu và sản
phẩm dễ dàng hơn trước. Giao thông trước đây vốn là một trở ngại cho việc lưu
thông và tiêu thụ hàng hoá thì từ nay, việc vận chuyển, tiêu thụ đã thuận tiện hơn rất
nhiều. Phục vụ cho sản xuất, các yếu tố quan trong khác như điện, nước sạch, các
công trình phục vụ văn hoá, giáo dục, y tế của nhân dân cũng được cải thiện khá
nhiều. Các huyện có tới 102 trạm biến áp, đáp ứng được hơn 95% nhu cầu người dân
về điện, gần 90% các hộ dân thoả mãn nhu cầu dùng nước sạch. Những điều kiện
thuận lợi này hỗ trợ rất tích cực cho các làng nghề trong sản xuất và sinh hoạt.
Tuy nhiên trong tổng số 5.904 hộ sản xuất cần có nhà xưởngảan xuất thì có tới
76% không có khu vực riêng, các hộ thường kết hợp nhà ở với khu sản xuất gây ảnh
hưởng tới sinh hoạt và môi trường xung quanh. Tổng diện tích nhà xưởng của các
làng nghề Hải Phòng khoảng 90.000 m, phần lớn thuộc các cơ sở sản xuất lớn,
trong đó 84% là nhà xưởng tạm thời hoặc đã xuống cấp. Điều này cho thấy mức độ
tập trưng đầu tư cho sản xuất còn yếu kém, cần được củng cố hơn nữa trong thời
gian tới.
f) Về nguồn nguyên liệu cho sản xuất ở các làng nghề
BẢNG 9: TÌNH HÌNH CUNG ỨNG NGUYÊN LIỆU CHO SẢN XUẤT
Số
TT
Ngành nghề
Nguồn cung ứng(%) Mức độ ổn định (hộ)
Đầu tư
sản xuất
NVL
Sử dụng
NVL trong
nước
Sử dụng
NVL nhập
từ nước
ngoài
Nguồn
NVL ổn
định
Nguồn
NVL ko ổn
định
1 Đan tre 9,00 91,00 - 1.940 846
2 Thêu ren - 100,00 - 250 482
3 Gột cá giống 80,00 20,00 - 728 -
4 Dệt chiếu cói 21,00 79,00 - 320 80
5 Sản xuất đồ gỗ 9,00 83,00 8,00 300 170
6 Chế biến nông sản 46,00 54,00 - 880 -
7 KHcây cảnh 80,00 20,00 - 975 275
8 Vật liệu xây dựng 96,4 3,60 - 1.369 414
9 Đúc, rèn kim loại - 100,00 - 320 316
10 Vận tải - - - - -
11 Đánh cá xa bờ - - - - -
Tổng cộng 40,00 59,66 0,34 7.082 2.583
Nguồn nguyên liệu của thành phố hiện nay chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu
nguyên liệu cho sản xuất của các làng nghề. Còn lại, hầu hết các làng nghề phải sử
dụng nguyên liệu của các tỉnh thành khác trong nước. Nguồn nguyên liệu nhập ngoại
chỉ chiếm số lượng rất ít, phục vụ cho ngành sản xuất đồ gỗ. Có những ngành như
vận tải hay đánh cá xa bờ không quan trọng nguyên liệu, có ngành như ngành đúc
rèn kim loại phải dùng 100% nguyên liệu nhập từ các tỉnh khác, nghề đan tre cũng
phải dùng 91% nguyên liệu của các tỉnh khác. Hơn nữa, 27% nguồn nguyên liệu
cung ứng cho sản xuất lại không ổn định. Như vậy, hầu hết các ngành nghề ở Hải
Phòng phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. Đây là một khó khăn cho
sản xuất ở các làng nghề Hải Phòng. Phải nhập nguyên liệu từ bên ngoài sẽ làm cho
chi phí sản xuất cao hơn do phải gánh thêm phí vận chuyển cùng nhiều phụ phí khác.
Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chi phí tăng lên sẽ trực tiếp đánh vào lợi nhuận
của cơ sở sản xuất. Hơn nữa, phải nhập nguyên liệu làm cho tính chủ động trong sản
xuất lại bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó cần lưu ý là hiện nay các làng nghề ở Hải
Phòng có gần 30% các hộ sản xuất không có nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định.
Để sản xuất ổn định thì nhất định phải ổn định đầu vào, do đó, những hộ sản xuất
này phải có những biện pháp đáp ứng tốt hơn nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất
trong thời gian tới.
g) Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề ở Hải Phòng hiện nay:
Các sản phẩm của làng nghề hiện nay vẫn chủ yếu được tiêu thụ trong thành
phố, phục vụ nhu cầu của người dân Hải Phòng. Một số nghề như nghề đúc kim loại
đã tạo ra được nhiều sản phẩm gang, nhôm, đồng, phục vụ cho sản xuất công nghiệp,
dân dụng, mỹ thuật... được đánh giá cao và đã được xuất khẩu sang thị trường Pháp,
Nhật, Đông Âu. Hay nghề thêu ren, vốn là nghề thủ công truyền thống có sản phẩm
được người nước ngoài ưa chuộng, sản phẩm làm ra 100% được xuất khẩu. Tuy
nhiên, các sản phẩm như vậy không nhiều.
BẢNG 10: TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÁC LÀNG NGHỀ
Số
TT
Ngành nghề
Tiêu thụ
trong thành
phố (%)
Tiêu thụ ở
các tỉnh nước
(%)
XK qua các
đơn vị khác
(%)
XK trực
tiếp (%)
1 Đan tre 68,20 31,20 0,30 0,30
2 Thêu ren - - 100,00 -
3 Gột cá giống 95,00 5,00 - -
4 Dệt chiếu cói 95,00 5,00 - -
5 Sản xuất đồ gỗ 51,00 49,00 - -
6 Chế biến nông sản 95,00 5,00 - -
7 KD cây cảnh 55,00 45,00 - -
8 Vật liệu XD 74,00 26,00 - -
9 Đúc rèn kim loại 20,10 45,30 25,70 8,90
10 Vận tải - - - -
11 Đánh cá xa bờ 20,00 80,00 - -
Trung bình 59,0 32,31 8,11 0,58
Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thô thành phố Hải Phòng
Theo như bảng tổng kết trên, ta có thể thấy, 59% các sản phẩm các làng nghề
sản xuất ra được tiêu thụ trong nội thành. Chỉ có 32,31% tổng sản phẩm được tiêu
thụ ở các tỉnh khác và tỷ lệ xuất khẩu trung bình là 8,69% tổng sản phẩm. Điều này
phản ánh chất lượng sản phẩm của các làng nghề hiện nay. Do đội ngũ thợ có tay
nghề cao, thợ giỏi còn thiếu nên chất lượng sản phẩm thấp, trình độ kỹ thuật lẫn mỹ
thuật đều không cao nên chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Sản phẩm của làng
nghề Hải Phòng hiện nay có thể nói là chưa đa dạng về chủng loại, chất lượng cũng
như hình thức không cao. Do đó, mức độ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và tính
cạnh tranh của sản phẩm là rất thấp. Bên cạnh đó lại là sự cạnh tranh gay gắt của
những hàng hoá cùng loại của các địa phương khác trong nước, hàng Trung quốc giá
rẻ... Tất yếu dẫn đến việc tiêu thụ bị bó hẹp trong khu vực thành phố, chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong khu vực.
Việc sản xuất hiện nay còn mang tính tự phát và sản xuất còn manh mún nên
những thông tin về thị trường chủ yếu do các chủ cơ sở sản xuất tự tìm hiểu không
chính xác, thiếu tính cập nhật, làm giảm khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường và tiêu
thụ sản phẩm. Các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của các đơn vị sản xuất hầu
như không có. Gần như các cơ sở sản xuất chỉ tiến hành sản xuất đơn thuần, vấn đề
tiêu thụ giao cho người mua buôn qua mối quan hệ lỏng lẻo hoặc tự những người
trong hộ sản xuất đem tiêu thụ tại các chợ nông thôn, chợ đầu mối của thành phố.
Một điều đáng nói nữa là những sản phẩm có khả năng xuất khẩu và đã được xuất
khẩu hiện nay phần lớn phải xuất khẩu qua các đơn vị khác chứ các làng nghề chưa
chủ động tự tìm nguồn xuất khẩu cho mình. Đây là một điều đáng tiếc chứng tỏ khả
năng tiếp cận thị trường của các làng nghề ở Hải Phòng hiện nay còn rất yếu kém.
Điều này càng cho thấy rõ hơn việc cần phải có một chiến lược nắm bắt thị trường
đối với các làng nghề, tạo điều kiện mở rộng thị trường cho các làng nghề Hải
Phòng.
h) Về thu nhập và mức sống của lao động làng nghề hiện nay
Thu nhập từ làng nghề là giá trị bằng tiền thu được do tham gia sản xuất làng
nghề. Mức thu nhập của lao động phần nào cho thấy hiệu quả sản xuất của các làng
nghề tại những thời điểm nhất định. So sánh mức thu nhập của người tham gia các
ngành nghề nông thôn với thu nhập làm nông nghiệp thuần sẽ cho ta thấy hiệu quả so
sánh giữa các ngành này. Qua đó cũng có thể thấy phần đóng góp của làng nghề cho
đời sống người dân nông thôn và việc phát triển kinh tế khu vực nông thôn.
BẢNG 10: TÌNH HÌNH THU NHẬP CỦA LÀNG NGHỀ
Đơn vị tính:1000đ
Số
TT Ngành nghề
Tổng
giá trị
SP
(Triệu
đồng)
Lương tháng cho 1 lao động thường
xuyên
Thu
nhập
bình
quân
của LĐ
thời vụ
Bình
quân /
1LĐ
Thu nhập của các bậc LĐ
Nghệ
nhân,
thợ giỏi
Thợ
trung
bình
LĐ
thường
1 Đan tre 13.133 210 300 230 185 155
2 Thêu ren 3.638 230 280 230 205 175
3 Gột cá giống 6.750 550 800 600 450 310
4 Dệt chiếu cói 4.200 250 300 260 220 150
5 Sx đồ gỗ 15.550 520 780 600 410 295
6 CB nông sản 13.250 275 340 290 245 200
7 KD cây cảnh 8.600 350 550 400 300 250
8 Vật liệu XD 30.558 405 630 450 365 315
9 Đúc rèn kim loại 55.010 630 1.000 635 440 295
10 Vận tải 15.858 890 1.500 950 750 530
11 Đánh cá xa bờ 90.000 700 1.100 800 550 350
Bình quân 410 750 450 350 260
Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thô thành phố Hải Phòng
Thu nhập bình quân cho một lao động làng nghề vào khoảng 350- 410.000đ/
tháng (đối với những lao động có việc làm thường xuyên). Thu nhập này bằng 2,1-
2,3 lần lao động nông nghiệp thuần ở Hải Phòng. Đối với những lao động thời vụ,
ngành nghề cũng đem đến cho mỗi lao động thu nhập khoảng 260.000đ/tháng. Qua
đó có thể thấy lao động ở làng nghề đem đến hiệu quả nhất định đối với người dân
nông thôn. Nhất là đối với những lao động là thợ giỏi, có kinh nghiệm và tay nghề
cao, thu nhập trung bình lên tới 750.000đ/ tháng. Thậm chí có những nghệ nhân có
thể có thu nhập lên tới 1.500.000đ/ tháng. Đây quả là con số không nhỏ đối với
người dân nông thôn và là một đọng lực thu hút người dân nông thôn tham gia và các
hoạt động ngành nghề và dịch vụ phục vụ sản xuất của các ngành nghề. Các ngành
có thu nhập cao là các ngành yêu cầu đầu tư và trình độ thợ cao hơn các ngành nghề
khác. Đó là các nghề vận tải, đánh cá xa bờ, đúc rèn kim loại...( trung bình từ 600-
900.000đồng/ tháng). Nó cũng thể hiện nhu cầu của xã hội hiện nay về các sản phẩm
của các ngành này. Các nghề có thu nhập thấp hơn là các nghề đan tre, thêu ren... có
thu nhập/1lao động khoảng hơn 200.000đ/tháng. Tuy nhiên, các ngành nghề này thu
hút chủ yếu là lao động trong thời gian nông nhàn nên thu nhập này mang tính chất
phụ thêm vào thu nhập chính. Do đó, con số 200.000đ/ tháng thu nhập thêm không
phải là nhỏ, thậm chí tương đối cao so với lao động thuần nông. Tổng giá trị sản
phẩm mà các làng nghề đóng góp cho xã hội trung bình là 240.689 triệu đồng/ tháng,
trong đó cao nhất là phần đóng góp của nghề đánh cá xa bờ (90.000 triệu/tháng). Với
mức thu nhập này, các lao động làng nghề có thể phần nào cải thiện đời sống vật
chất cũng như đời sống tinh thần của mình. Thực tế ở Hải Phòng hiện nay, làm giàu
từ làng nghề chưa có nhiều nhưng làng nghề cũng đã đóng góp một phần nhất định
nâng cao mức sống vật chất cũng như tinh thần của một số cư dân. Nó cho thấy khả
năng của làng nghề trong vấn đề xoá đói giảm nghèo và làm giàu ở khu vực nông
thôn trong thời gian tới nhờ phát triển sản xuất ngành nghề nông thôn. Chúng cũng
nói lên những đóng góp của làng nghề cho xã hội nói chung và đời sống xã hội nông
thôn nói riêng.
2.3. Kết quả và những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế làng nghề của Hải
Phòng
2.3.1.Những kết quả đạt được trong thời gian qua:
Theo định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn của Đảng, theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN & PTNT, UBND thành phố đã thực hiện chỉ đạo, tạo
hành lang pháp lý và cơ chế chính sách đầu tư để phát triển làng nghề. Do đó, trải
qua một thời gian khôi phục và xây dựng các làng nghề, các làng nghề Hải Phòng đã
đạt được một số thành tựu nhất định về phát triển ngành nghề nông thôn, mang lại
nhiều hiệu quả kinh tế xã hội.
Đầu tiên phải nói đến là tác động tích cực của làng nghề đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Năm 1990, sản xuất của các làng nghề chiếm
40% GDP chung của khu vực nông thôn. Đến năm 2000, tỷ trọng của ngành nghề
nông thôn trong cơ cấu kinh tế nông thôn Hải Phòng là 45,7%. Riêng những xã có
làng nghề hoạt động, tỷ trọng ngành nghề giai đoạn 2000-2001 chiếm 64%, cao hơn
hẳn các nơi khác. Hoạt động sản xuất của các làng nghề đã góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo đúng hướng, tăng dần tỷ trọng của ngành nghề nông thôn
trong cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung. Điều này lại có ý nghĩa đặc biệt hơn nữa
đối với thành phố Hải Phòng vốn không có nhiều thuận lợi cho sản xuất thuần nông.
Từ đó sẽ tạo điều kiện cho việc đưa nhanh cơ khí hoá vào sản xuất nông nghiệp, thúc
đẩy các loại hình dịch vụ, ngành nghề khác cùng phát triển. Đối với lao động nông
thôn, làng nghề đã tạo ra việc làm cho người dân nông thôn, tạo ra nguồn thu nhập
khá cao đối với người dân nông thôn, cao gấp 2,1-2,3 lần so với lao động thuần
nông, do đó thu hút ngày càng nhiều lao động vào hoạt động làng nghề. Đến nay,
khu vực kinh tế làng nghề đã thu hút hơn 24 ngàn lao động, trong đó tạo việc làm
cho hơn 10.500 lao động thời vụ.
Thứ hai, kinh tế làng nghề Hải Phòng thời gian qua đã có những đóng góp đáng
kể cho nền kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn Hải Phòng nói riêng. Tổng giá trị
sản phẩm trung bình trong thời gian qua đạt khoảng 240.500 triêu đồng/ năm và nó
đã góp phần nâng cao đời sốngvật chất tinh thần cho người dân nông thôn. Các làng
nghề đồng thời cũng tham gia tạo ra một khối lượng sản phẩm không nhỏ cung cấp
trước hết cho dân cư trong khu vực và bắt đầu có xu hướng tiến tới sản xuất hàng
xuất khẩu.
Về mặt xã hội, hoạt động của làng nghề cũng đã tạo ra được những hiệu quả
nhất định. Việc tham gia sản xuất ở làng nghề tạo ra thu nhập cao hơn so với lao
động thuần nông là một cái mốc thu hút lao động nông thôn (khoảng 1-2%/năm).
Việc tham gia lao động trong các ngành nghề đã tích cực góp phần thúc đẩy sản
xuất, ổn định trật tự xã hội, giảm bớt nguy cơ về tệ nạn xã hội phát sinh do không có
việc làm. Hơn nữa, trong quá trình lao động, người lao động sẽ được nâng cao tay
nghề, tạo ra đội ngũ thợ hoàn thiện có khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất hơn so với
hiện nay. Tăng lượng người tham gia lao động ở các làng nghề còn tạo ra khả năng
phát triển các nghề mới, phong phú hoá các loại hình ngành nghề nông thôn. Một
ảnh hưởng tốt nữa do có việc làm ổn định là hạn chế lượng người ở nông thôn ra
thành phố tìm việc, giảm bớt gánh nặng cho đô thị. Hải Phòng hiện là thành phố có
tỷ lệ lao động ở các làng nghề ra thành phố tìm việc giảm đi khá rõ. Cũng từ việc có
việc làm và thu nhập ổn định, môi trường xã hội ở nông thôn cũng dần dần được cải
thiện và ổn định hơn. Tệ nạn xã hội và các vấn đề do thất nghiệp gây ra giảm đi khá
rõ. Đồng thời, cùng với phát triển sản xuát, giao lưu tiêu thụ, trình độ dân trí của
người dân cũng được nâng cao. Do thu nhập tăng, tích luỹ tăng nên cơ sở hạ tầng cho
sản xuất và sinh hoạt, các công trình phúc lợi xã hoọi, công trình công cộng được
xây dựng nhiều hơn ở khu vực nông thôn.
2.3.2. Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân trong phát triển kinh tế làng nghề ở Hải
Phòng hiện nay:
Mặc dù đã đạt được một số thành quả nhất định, nhưng cũng lại thấy rằng, trong
những năm vừa qua, làng nghề của Hải Phòng có được khôi phục và phát triển, có
nhiều dấu hiệu khởi sắc nhưng chưa tạo ra được ấn tượng mạnh mẽ, chưa hoạt động
hiệu quả như khả năng và mong đợi. Sản xuất ở làng nghề Hải Phòng, qua phân tích
thực trạng cho thấy, quy mô sản xuất hiện còn rất manh mún, kỹ thuật sản xuất thô
sơ, mang nặng tính thủ công. Vốn đầu tư cho máy móc, công nghệ ở những khâu có
thể thay thế lao động chân tay nhằm tăng năng suất lao động còn rất thấp. Nó ảnh
hưởng trực tiếp lên chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm thiếu tính cạnh tranh.
Cũng như bất kỳ sản phẩm hàng hoá khác trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm
làng nghề cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm tương tự của các
cơ sở sản xuất khác ở trong khu vực và cả ở ngoài khu vực. Nếu chỉ sản xuất cầm
chừng như hiện nay thì ngành nghề nông thôn vẫn chỉ đóng vai trò như một ngành
phụ cho nông nghiệp và làng nghề không thể tồn tại như một ngành độc lập, có khả
năng mang lại việc làm có thu nhập cao đúng như vai trò của nó. Không chỉ thế, nó
còn có nguy cơ bị thủ tiêu bởi những khó khăn trong tiêu thụ. Tình trạng này bắt
nguồn từ những tồn tại hạn chế hiện nay của làng nghề Hải Phòng.
Đầu tiên là những tồn tại về trình độ công nghệ kỹ thuật tại các làng nghề còn
thấp và chậm được cải tiến. Sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao, sức cạh tranh
thấp so với sản phẩm cùng loại từ sản xuất công nghiệp. Do vậy, nó ảnh hưởng trực
tiếp và lâu dài đến chất lượng sản phẩm và sức sống của làng nghề. Tình trạng này
xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau
- Thứ nhất, trình độ lao động hiện nay chưa cao, trình độ tổ cức quản lý sản xuất
còn có nhièu hạn chế, Công tác dạy và học nghề còn nhiều bất cập. Các trường dạy
nghề ở Hải phòng hiện phân bố chưa đều giữa các huyện, quận. Chính vì vậy, công
tác dạy nghề chưa được phổ cập. Trong các trường dạy nghề thì số lượng các ngành
nghề cũng nhu chất lượng giảng dạy chưa cao, nội dung giảng dạy còn nhiều bất cập,
chưa phù hợp với tình hình phát triển hiện nay. Về hình thức đào tạo, các cấp độ đào
tạo, thời hạn các khoá học cũng chưa phong phú để phù hợp với nhiều đối tượng.
Một vấn đề nữa của các trường dạy nghề là kinh phí ít và thiếu nên cơ sở vật chất
chậm được cải thiện và đổi mới cho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay và phục
vụ cho nhu cầu phát triển sau này. Việc học nghề cũng không được nhiều người dân
quan tâm hưởng ứng, kể cả chủ các đơn vị sản xuất. Học nghề chủ yếu theo phương
thức truyền nghề và tâm lý coi nghề là nhân tố phụ còn khá năng nề.
- Thứ hai, do mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại cùng với khả năng đầu tư
nhỏ bé của các hộ sản xuất không có điều kiện trang bị máy móc hay áp dụng công
nghệ hiệnđại vào sản xuất. Các loại máy móc được sử dụng ở các làng nghề hiện nay
chủ yếu là các loại máy móc thải loại từ công nghiệp thành thị hoặc máy rẻ tiền có
năng suất, chất lượng không cao.
Vấn đề tồn tại thứ hai là thị trường tiêu thụ sản phẩm còn hẹp. Vấn để thị trường
có thể coi là vấn đề quan trọng có tính sống còn đối với phát triển kinh tế làng nghề.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khó khăn trong tiêu thụ là do chất lượng sản phẩm
thấp, hình thức mẫu mã chưa phong phú, ít chủng loại sản phẩm, sản phẩm thiếu tính
sáng tạo và sản phẩm cũng không được phổ biến, quảng bá rộng rãi trên thị trường.
Với các ngành nghề chế biến nông sản thì còn có nguyên nhân từ tính vệ sinh và an
toàn thực phẩm trong quy trình sản xuất chưa cao nên chưa được ưa chuộng. Các
làng nghề Hải Phòng thậm chí còn tồn tại tình trạng sản phẩm sản xuất ra phải mang
thương hiệu của nơi khác mới có thể tiêu thụ được. Điều này thể hiện sự yếu kém
của các làng nghề trong khâu tiêu thụ và đồng thời, về lâu dài việc làm này ảnh
hưởng đến vấn đề xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản
phẩm làng nghề Hải Phòng. Bên cạnh đó, qua phân tích cho thấy khâu tiêu thụ chưa
được quan tâm đúng mức ở các làng nghề. Do vậy, sản phẩm không những chư
chiếm lĩnh được thị trường nội vùng mà còn bị các sản phẩm từ nơi khác lấn lướt.
Thứ ba, về đầu tư cho sản xuất của làng nghề hiện cũng còn một số vấn đề tồn
tại. Lượng vốn huy động cho sản xuất ở các làng nghề hiện còn rất thấp. Người dân
còn ngần ngại và không yên tâm về sự bảo toàn cũng như phát triển vốn của mình
khi đưa vào sản xuất của các làng nghề. Do vậy, lượng vốn khá lớn còn đọng trong
dân chưa phát huy hết tiềm năng của mình. Về vốn tín dụng, một thực tế hiện nay ở
Hải Phòng là nhu cầu về vốn lớn mà vốn tín dụng hầu như chưa phát huy được vai
trò của nó đối với vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung. Nguyên nhân
có thể thấy dễ dàng là do hệ thống tài chính tín dụng ngân hàng còn chưa theo sát sự
phát triển cả khu vực nông thôn, chưa nắm bắt được thực tế sản xuất tại các làng
nghề hiện nay.
Về mặt môi trường, Sự hoạt động của làng nghề hiện nay có một số ảnh hưởng
không tốt đến môi trường. Ô nhiễm do rác thải, do phế thải ảnh hưởng rất lớn đến
nguồn nước và không khí. Đặc biệt là ở các làng nghề mộc Kha Lâm (Kiến An),
nghề khai thác vật liệu xây dựng, làng nghề đúc kim loại Mỹ Đồng ( Thuỷ Nguyên),
các làng chế biến nông sản... Sự ảnh hưởng đến môi trường khi tiến hành sản xuất là
khó tránh khỏi trong điều kiện hiện nay nhưng chúng ta hoàn toàn có thể giảm được
mức thiệt hại cho môi trường bằng cách nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho
người dân ở các làng nghề. Hiện nay, người dân ở các làng nghề chưa có ý thức cao
trong vấn đề này đồng thời cũng không có điều kiện để xử lý chất thải trong sản
xuất. Việc đưa rác thải, phế thải ra các nguồn nước hoặc đổ bỏ chất thải không qua
xử lý đã làm tổn hại rất nhiều đến không chỉ môi trường mà còn sức khoẻ của những
người khác trong khu vực.
Cuối cùng, còn tồn tại là vấn đề phát huy vai trò quản lý Nhà nước trong phát
triển kinh tế làng nghề. Trong thời gian qua, Thành uỷ, UBND thành phố Hải Phòng
đã có nhiều biện pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế làng nghề nhưng quá trình
thực hiện lại còn có nhiều vướng mắc nên những biện pháp này không phát huy hết
được hiệu quả của nó.
2.3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng:
Như chúng ta đã thấy, để phát triển kinh tế làng nghề tại Hải Phòng thì trước
mắt còn rất nhiều khó khăn. Khó khăn đầu tiên là vấn đề thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Thị trường tiêu thụ là vấn đề quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển hay
tiêu thuỷ của các làng nghề. Lịch sử phát triển làng nghề của nước ta đã cho thấy
điều nay. Do vây, các làng nghề Hải Phòng cần có một chiến lược nắm bắt, tiếp cận
và đáp ứng nhu cầu thị trường.Vấn đề đặt ra cho các làng nghề Hải Phòng ở đây là
thứ nhất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Như vậy cũng có nghĩa là đồng thời nâng
cao kỹ thuật sản xuất, tăng cường áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, đa dạng
hoá sản phẩm... Có thể nói, cải tiến sản phẩm là bước đi quan trọng và cần thiết đầu
tiên để mở rộng thị trường tiêu thụ cho các làng nghề Hải Phòng. Vấn đề thứ hai để
phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm là cần có một chiến lược tiếp cận thị trường.
Thứ hai là vấn đề huy động, cải tạo và phát huy nguồn lực, bao gồm cả nguồn
lực vốn cho sản xuất, đảm bảo nguyên liệu và cải thiện trình độ lao động làng nghề.
Về khai thác nguồn lực vốn, qua phân tích ta đã thấy rằng, hầu như các cơ sở sản
xuất ở Hải Phòng đều là các hộ gia đình tiến hành sản xuất dựa trên nguồn vốn tự có.
Nguồn vốn này có đặc điểm cơ bản là nhỏ lẻ, manh mún. Do vậy, các cơ sở sản xuất
khó có cơ hội đầu tư cho sản xuất, không phát huy được những tiềm năng lợi thế
khác. Trong khi đó, nguồn vốn tín dụng nông thôn lại chưa phát huy được vai trò của
mình. Hải Phòng những năm vừa qua có cải thiện nhiều vấn đề về tín dụng, mở rộng
khả năng cho nông dân vay vốn sản xuất nhưng thực tế thì người dân vẫn còn những
khúc mắc, khó khăn khi vay vốn sản xuất. Hoặc là thủ tục vay còn phức tạp, hoặc là
lượng vốn được vay chưa thoả đáng cho sản xuất, hoặc là thời hạn vay còn quá ngắn,
chưa đủ để hồi vốn và phát triển sản xuất... Do đó, tâm lý người dân còn ngần ngại
khi vay vốn, chủ yếu sản xuất bằng vốn tự có với số lượng có hạn. Hơn nữa, cũng
bởi các cơ sở sản xuất hiện nay ở các làng nghề Hải Phòng là hộ gia đình, các hình
thức tổ chức sản xuất khác còn ít nên mức độ tập trung nguồn lực, khả năng tiếp cận
thị trường còn rất thấp. Để phát triển sản xuất, nhất thiết phải có sự đầu tư với quy
mô lớn hơn vào sản xuất và như vậy, cần có những biện pháp thu hút vốn đầu tư vào
khu vực sản xuất ngành nghề nông thôn của Hải Phòng. Không chỉ là thu hút vốn
trong dân mà còn phải có những biện pháp để phát huy vai trò vốn tín dụng, thu hút
vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế cho sản xuất tại các làng nghề.
Về vấn đề nguyên liệu cho sản xuất: Sản xuất của các làng nghề hiện nay chỉ
một số khai thác được nguồn nguyên liệu trong thành phố. 60% nguyên liệu phải
nhập từ nơi khác trong đó có 0,34% nguyên liệu nhập ngoại. Tình hình này gây ra
một số khó khăn cho sản xuất làm cho tính chủ động trong sản xuất giảm. Hơn nữa,
nó cũng cho thấy mức độ khai thác nguồn lực taị chỗ hiện nay ở Hải Phòng là chưa
cao. Như vậy, vấn đề này cần sớm giải quyết để các làng nghề có thể đi vào sản xuất
ổn định, khai thác triệt để nguồn lực tại địa phương, giảm giá thành sản phẩm.
Vấn đề trình độ lao động: Mặc dù có thuận lợi về số lượng lao động nhưng để
phát triển sản xuất nhất định phải có một đội ngũ thợ giỏi về chuyên môn, trình độ
kỹ thuật, khả năng tiếp thu công nghệ mới và ứng dụng vào sản xuất. Trình độ của
người quản lý, chủ cơ sở sản xuất cũng cần được nâng cao hơn nữa để phù hợp với
sự phát triển chung của nền kinh tế hiện nay. Không thể tiến hành sản xuất lớn với
một đội ngũ lao động phổ thông đơn thuần, một số ít thợ giỏi vừa làm vừa dạy nghề
và chủ quản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở Hải Phòng.pdf