Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá: ------
Luận văn
Thực trạng và một số
giải pháp nhằm thúc đẩy
hoạt động nhập khẩu
của công ty kinh doanh
và sản xuất vật tư hàng
hoá MATECO
1
2
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mang lại một sự đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực. Chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngặt quan trọng của nền kinh tế đất
nước, từng bước đưa nước ta hoà nhập vào nền kinh tế thế giới bằng các quan hệ kinh
tế đối ngoại nói chung và các quan hệ thương mại nói riêng ngày càng phong phú và
đa dạng. Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng việc tham gia các quan hệ mua bán
quốc tế là “nhằm giới thiệu, thúc đẩy khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước
trên cơ sở đó tiến hành phân công lại lao động xã hội. Khai thác mọi tiềm năng để sản
xuất sản phẩm xuất khẩu, đồng thời thông qua hoạt động nhập...
79 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1079 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
------
Luận văn
Thực trạng và một số
giải pháp nhằm thúc đẩy
hoạt động nhập khẩu
của công ty kinh doanh
và sản xuất vật tư hàng
hoá MATECO
1
2
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mang lại một sự đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực. Chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngặt quan trọng của nền kinh tế đất
nước, từng bước đưa nước ta hoà nhập vào nền kinh tế thế giới bằng các quan hệ kinh
tế đối ngoại nói chung và các quan hệ thương mại nói riêng ngày càng phong phú và
đa dạng. Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng việc tham gia các quan hệ mua bán
quốc tế là “nhằm giới thiệu, thúc đẩy khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước
trên cơ sở đó tiến hành phân công lại lao động xã hội. Khai thác mọi tiềm năng để sản
xuất sản phẩm xuất khẩu, đồng thời thông qua hoạt động nhập khẩu để tranh thủ khai
thác được thế mạnh về vốn, công nghệ của nước ngoài cho phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của nước ta để thúc đẩy quá trình tái sản xuất, tiêu dùng phát triển kịp thời
với tiến trình chung của nhân loại.
Nhập khẩu có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của nước ta
hiện nay. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời
sống trong nước. Nhập khẩu bổ sung các hàng hoá trong nước không sản xuất được
hoặc không đủ đáp ứng nhu cầu về nhập khẩu để thay thế những hàng hoá mà nếu
sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Nhập khẩu tạo điều kiện thúc
đẩy nhanh chóng quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dich cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đảm bảo kinh tế phát triển cân đối; thúc
đẩy xuất khẩu, tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá.
Qua thời gian thực tập tại công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá, bằng
những kiến thức đã học được kết hợp với việc khảo sát tình hình nhập khẩu của công
ty em đã chon đề tài “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của
công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá MATECO” làm đề tài nghiên cứu.
Đề tài này chỉ xoay quanh vấn đề về hoạt động nhập khẩu ở công ty diễn ra như thế
nào và những biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu hàng hoá
Chương II: thực trạng nhập khẩu hàng hoá ở Công ty CENTRIMEX - Chi
nhánh Hà Nội
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu
của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
3
Trong quá trình viết đề tài này em được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
PGS - PTS Đồng Xuân Ninh cùng thầy giáo Hồ Đình Bảo. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn
chân thành tới thày cô giáo đã giúp em hoàn thành đề tài này. Trong giới hạn về thời
gian cũng như kiến thức và kinh nghiệm nên đề tài em nghiên cứu không tránh khỏi
thiếu sót, em mong nhận được sự chỉ bảo hướng dẫn của các thầy cô giáo giúp em
hoàn thiện kiến thức.
4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA MỖI QUỐC GIA - CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU
1. Sự cần thiết của công tác nhập khẩu
Bất cứ nơi nào có thương mại đặc biệt là thương mại quốc tế hoạt động mạnh
thì thì những nơi đó có nền kinh tế phát triển, tuy vấn đề này không phải lúc nào
Chính Phủ quan tâm đúng mức cần thiết với vai trò của nó. Nước ta và một số nước
khác trước đây cũng có lúc xem xét độc lập kinh tế như một đòi hỏi phải xây dựng
một nền kinh tế độc lập hoàn chỉnh, tức là mang tính hoàn toàn tự cấp tự túc. Thực tế
đã chứng minh rằng ngày nay không có một quốc gia nào dù to lớn như Liên Xô trước
đây, Mỹ và Trung Quốc có đủ sức xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp vì no vô
cùng tốn kém về vật chất và thời gian. Nước ta và một số nước Đông Âu trước đây đã
thực hiện nền kinh tế đóng dẫn đến tình trạng kinh tế lạc hậu, đình đốn. Ngược lại,
các nước theo đuổi chính sách tự do như Hàn Quốc và các nước khác thuộc khối
ASEAN đã có một bước tiến lâu dài trong việc phát triển kinh tế chỉ với một thời gian
ngắn, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thực hiện xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung
cứng nhắc sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và thực hiện chính sách
mở cửa. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn giúp nước ta tham gia vào phân
công lao động quốc tế và thị trường thế giới.
Với mục tiêu thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc trong khi
chúng ta còn tương đối lạc hậu về kinh tế, thấp kém về kỹ thuật công nghệ thì việc
làm đó không thể ngày một ngày hai được, nước ta không chỉ dựa vào nguồn lực sẵn
có trong nước mà cần phải biết tận dụng các hiệu quả tất cả các thành tự khoa học kỹ
thuật công nghệ mới của thế giới. Nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải có sự biến động
sâu sắc về cơ cấu kinh tế xã hội. Muốn vậy việc thay đổi chiến lược kinh tế từ “đóng
của” sang “mở cửa” là vô cùng quan trọng. Nền kinh tế mở sẽ tạo ra những bước phát
triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có của nước ta nhằm sử dụng
chúng trong phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Thương mại quốc tế chỉ
ra và xác định cho một nước biết được đâu là lợi thế của mình, chỉ ra đúng đắn nên
đầu tư vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi nhất.
Nhập khẩu sẽ là nhân tố giúp cho chúng ta tháo bỏ những vướng mắc mà các
nước nghèo thường mắc phải, phương châm đó là vay mượn công nghệ nước ngoài
trong thời kỳ đầu của công nghiệp hóa.
5
Thực chất ở đây, nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức
kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại thị
trường nội địa hoặc tái xuất với mục đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất và tiêu
dùng với nhau.
Xu thế nhập khẩu bổ sung để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng là một tất yếu,
thông qua đó nước ta có thể từng bước thay đổi, hoàn thiện cơ cấu tiêu dùng của nhân
dân theo hướng hiện đại hoá. Điều đó cũng đồng thời dẫn đến việc nâng cao kỹ thuật
công nghệ sản xuất trong nước. Do vậy, Nhà nước ta đã đề ra chính sách nhập khẩu
chặt chẽ, có chon lọc, nhất là nhập khẩu vật tư thiết bị, máy móc, kỹ thuật công nghệ
để tăng cường tiếp thu công nghệ nước ngoài, từ đó phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một trong 2 hoạt động cấu thành nên nghiệp vụ xuất nhập khẩu,
là một bộ phận không thể thiếu được trong hoạt động ngoại thương của mỗi quốc gia.
Nó tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống, thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau
nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Nó tác động tích cực đến sự
phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia về
sức lao động, vốn cơ sở sản xuất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Đặc biệt trong tình
hình kinh tế thế giới hiện nay, các nước không ngừng thống nhất, mở rộng buôn bán
quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế ngày càng lớn mạnh, việc hình
thành những trung tâm thương mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển
hàng hoá giữa các quốc gia không ngừng được hoàn thiện và nâng cao. Khi đó vai trò
của hoạt động nhập khẩu ngày càng có ý nghĩa lớn đến việc ổn định và phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia cũng như trong khu vực, cụ thể biểu hiện ở những điểm sau:
- Nhập khẩu hàng hoá là cơ sở để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất
được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Ngoài ra nhập khẩu còn làm đa
dạng hoá các loại hàng hoá về chủng loại và quy cách lmà thoả mãn nhu cầu trong
nước.
- Nhập khẩu tạo ra những năng lực mới trong sản xuất, giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, không ngừng cải thiện nâng cao đời sống xã hội, hạn chế các
tệ nạn xã hội, tạo thu nhập cho nhân dân nhằm mục đích và ổn định phát triển kinh tế
xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ xã hội, phá bỏ tình trạng
độc quyền trong sản xuất kinh doanh trong nước, phát huy nhân tố mới trong sản xuất
6
nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia và cạnh tranh trên
thương trường trong khu vực cũng như trên thế giới.
- Nhập khẩu tạo ra sự liên đới giữa kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới,
tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so
sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất.
- Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, cung cấp nguyên vật liệu đầu vào
là việc sử dụng có hiệu quả ngoại tệ tiết kiệm để nhập khẩu vật tư hàng hoá phục vụ
cho quá trình tái sản xuất mở rộng, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã
hội tiêt kiệm chi phí và thời gian tạo ra sản phẩm.
Tuy nhiên việc phát huy hết vai trò của nhập khẩu còn phụ thuộc vào đường
lối, phương hướng, quan điểm của mỗi quốc gia. Vậy ở nước ta vai trò của nhập khẩu
được phát huy thế nào?
Chúng ta đều biết quan hệ kinh tế quốc tế trong chế độc tập trung bao cấp của
nền kinh tế nước ta chỉ thu hẹp trong phạm vi một vài nước XHCN trên các khoản
viện trợ và mua bán theo nghị định đã làm thui chột hoạt động nhập khẩu. Sự quản lý
quá sâu của Nhà nước đã làm mất đi tính linh hoạt, uyển chuyển của hoạt động nhập
khẩu, do đó không phát huy được vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế xã hội.
Chủ thể của hoạt động nhập khẩu trong cơ chế cũ là những doanh nghiệp Nhà nước
độc quyền thụ động, cơ cấu tổ chức cồng kềnh và kém năng động dẫn đến công tác
nhập khẩu trì trệ, không đáp ứng được nhu cầu hàng hoá trong nước. Trong hoàn cảnh
đó Đại hội Đảng VI là bước đột phá đưa đến sự chuyển mình của nước ta thoát khỏi
nền kinh tế cứng nhắc. Chuyển sang nền kinh tế mới với xu hướng toàn cầu hoá, khu
vực hoá hoạt động nhập khẩu đã phát huy lớn mạnh được vai trò của nó. Nhập khẩu
tác động đến nền kinh tế nước ta ở những điểm sau:
Nhập khẩu góp phần phát triển sản xuất, chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với định hướng phát triển nền kinh tế xã hội
của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung, nhập khẩu nói riêng phải luôn là
một giải pháp có tầm cỡ chiến lược nhằm phục vụ phát triển nền kinh tế quốc dân.
Chính sách nhập khẩu phải tranh thủ cao nhất nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến
cũng như sự đổi mới đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý nhằm thúc đẩy hàng hoá của
nước ta phát triển.
Nhập khẩu đã tác động tích cực đến hoạt động giải quyết công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân, không ngừng ổn định kinh tế xã hội. Thông qua hoạt động
nhập khẩu đã đáp ứng kịp thời tư liệu sản xuất cũng như trang thiết bị phục vụ đầu tư
7
xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy để thu hút hàng triệu lao động hàng năm không chỉ
đối với doanh nghiệp trong nước mà còn đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Bên cạnh đó nhập khẩu cũng tạo điều kiện cho các ngành có liên quan có cơ
hội phát triển thuận lợi, ổn định, mở rộng thị trường, khai thác tối đa sản xuất trong
nước, nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành, từng bước đưa nền kinh tế nước ta
hội nhập với nền kinh tế trong và ngoài khu vực.
Nhập khẩu bổ sung những mất cân đối của nền kinh tế, cung cấp bổ sung hàng
hoá không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, nhờ đó
khai thác tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế trong nước đáp ứng đầy đủ nhu
cầu thị hiếu của nhân dân.
Nhập khẩu còn có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất
lượng hàng nhập khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá của
nước ta xích gần tiêu chuẩn quốc tế. Khi đó buộc các doanh nghiệp phải hình thành
sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường, đồng thời phải hoàn thiện tốt công tác
quản lý đào tạo phù hợp với xã hội chung của thị trường nhằm tạo ra nhiều cơ hôi mới
trong quan hệ với các đối tác nước ngoài trên cơ sở mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Tuy nhiên, để phát huy hết vai trò của hoạt động nhập khẩu thì việc tuân thủ các hình
thức nhập khẩu cũng như xác định rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
và hiểu rõ về các công cụ quản lý nhập khẩu của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng
đối với quá trình kinh doanh nhập khẩu nhằm đạt được hiệu suất cao nhất.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
3.1- Các chế độ chính sách luật pháp
Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm
rõ và tuân theo một cách vô điều kiện bởi nó thể hiện ý chí của mỗi quốc gia, sự thống
nhất chung của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội, lợi ích
của các nước trên thương trường quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau
bởi vậy nó chịu sự tác động của chế độ, chính sách luật pháp ở quốc gia đó. Chế độ,
chính sách của một nước thay đổi hoặc chế độ ưu đãi của một nước hay một nhóm
nước có sự biến động ít nhiều cũng ảnh hưởng tới những nước có quan hệ xuất nhập
với nước đó. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hoạt động nhập khẩu do đó tạo nên sự tin
tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này.
3.2- Tỷ giá hối đoái
8
Nhân tố này có tầm quan trọng quyết định tới việc lựa chọn bạn hàng, mặt hàng
cũng như phương án kinh doanh của không chỉ các doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp
mà còn ảnh hưởng tới các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu nhưng không phải nhập
khẩu trực tiếp. Sự biến động của các nhân tố này sẽ gây ra những biến động lớn trong
tỷ trọng nhập khẩu cũng như xuất khẩu. Chẳng hạn, tỷ giá hối đoái tăng lên nghĩa là
đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ. Nếu như không có các nhân tố
khác ảnh hưởng sẽ có tác động khuyến khích nhập khẩu vì hàng nhập khẩu trở nên rẻ
hơn so với giá cả chung trong nước. Trong trường hợp này tác động đối với hoạt động
xuất khẩu sẽ ngược lại. Có thề nói, trong kinh doanh quốc tế nói chung trong hoạt
động nhập khẩu nói riêng thì việc dự toán được tỷ giá hối đoái có ý nghĩa hết sức
quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
3.3- Ảnh hưởng của sự biến động thị trường trong và ngoài nước
Ta có thể hình dung hoạt động nhập khẩu giống như một chiếc cầu nối giữa hai
thị trường tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa
chúng, phản ánh sự biến động của một thị trường. Cụ thể như sự tồn đọng, giá cả,
giảm nhu cầu về một mặt hàng ở thị trường trong nước sẽ làm ngay lập tức lượng
hàng đó thông qua chiếc cầu nhập khẩu và ngược lại. Cũng như vậy thị trường ngoài
nước quyết định tới sự thoả mãn nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến động của
nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới, về sự đa dạng hoá dịch vụ cũng được
phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác động trên thị trường nội địa.
3.4- Sự ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước
Sự phát triển của nền sản xuất, của những doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ
tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với hàng nhập ngoại, tạo ra những sản phẩm thay
thế hàng nhập khẩu làm giảm hẳn nhu cầu về hàng nhập khẩu. Mặt khác, nền sản xuất
trong nước kém phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật chưa đạt đến một trình độ nhất
định thì không thể sản xuất những mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao mà trong nước có
nhu cầu sản xuất hoặc nếu sản xuất được thì chất lượng lại không đạt yêu cầu...lúc đó
nhu cầu về hàng nhập ngoại tăng lên. Nói tóm lại, nếu sản xuất trong nước dù phát
triển hay không cũng ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu.
Trong khi đó, sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài sẽ tạo ra những sản
phẩm mới và hiện đại, sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên không phải lúc
nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà nhiều khi
để tránh độc quyền và tạo ra sự cạnh tranh hoạt động nhập khẩu lại được khuyến
khích phát triển. Còn để đảm bảo quyền sản xuất trong nước khi nền sản xuất ở nước
ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu sẽ bị hạn chế và bị kiểm soát nghiêm ngặt.
3.5- Ảnh hưởng của giao thông vận tải và liên lạc
9
Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với việc vận chuyển và
thông tin liên lạc mà các bên có thể nắm rõ thông tin một cách nhanh nhất để từ đó
cũng tiến hành hoạt động kịp thời, còn việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang
nước khác là công việc của hoạt động nhập khẩu. Do đó, sự hiện đại hoá cũng như áp
dụng những công nghệ khoa học tiên tiến vào hệ thống thông tin liên lạc và giao
thông là yếu tố quan trọng cho hoạt động nhập khẩu. Thực tế cho thấy sự phát triển
của hệ thống thông tin liên lạc như Fax, Telex, Telephone, EMS... đã đơn giản hoá
công việc của hoạt động nhập khẩu đi rất nhiều, giảm hàng loạt các chi phí, nâng cao
tính kịp thời nhanh gọn và việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, bốc dỡ, bảo
quản... cũng như đã góp phần làm nhanh chóng an toàn phát triển của hệ thống thông
tin liên lạc và giao thông là một trong những yếu tố không thể thiếu được của hoạt
động nhập khẩu. Tuy nhiên, đây không phải là nhân tố duy nhất mà còn nhiều nhân tố
khác cần được xem xét.
3.6- Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng phát triển khá mạnh, nó tác động tới tất
cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù ở thành phần kinh tế nào những vai trò to lớn
của nó, đó là việc đảm bảo cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận
lợi nhanh chóng, chính xác cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không
thực hiện được nếu như không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Dựa trên các
mối quan hệ, uy tín nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận tiện cho các doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu vì sẽ được đảm bảo về mặt lợi ích và trong
nhiều trường hợp có uy tín với ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với lượng vốn
lớn, kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có được cơ hội kinh doanh.
3.7- Ảnh hưởng của những nhân tố khác.
Ngoài các nhân tố trên, còn có một số nhân tố khác cũng ảnh hưởng nhất định
đến hoạt động nhập khẩu.
Ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng của mỗi quốc gia sẽ
quyết định đến lượng hàng cũng như hình thức kinh doanh nhập khẩu.
Ảnh hưởng của sự phát triển kỹ thuật công nghệ trên thế giới làm đa dạng hoá
chủng loại tạo ra những nhu cầu do đó cũng đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu.
Sự xuất hiện của liên kết kinh tế ở phạm vi khu vực và trên phạm vi toàn thế
giới: khi tham gia vào các khối liên kết kinh tế (ASEAN, EU, APEC... ) thì mọi quốc
gia đềi giành cho nhau những ưu đãi đặc biệt về thuế quan, các chính sách khuyến
khích... do đó sẽ làm cho giá hàng hoá nhập khẩu rẻ hơn nên hoạt động nhập khẩu sẽ
gia tăng.
10
Những nhân tố này là khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ có thể nhận
thức và có phương hướng kinh doanh cho phù hợp chứ không thể tự mình làm tác
động biến đổi chúng.
Trên đây là một số nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động nhập khẩu của bất
kỳ một quốc gia nào. Muốn hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả thì doanh nghiệp hay
quốc gia đều phải xem xét, phân tích kỹ lưỡng các nhân tố đó để tránh rủi ro. Đây
cũng chính là công việc không thể thiếu được trong hoạt động nhập khẩu.
II. CÁC HÌNH THỨC NHẬP KHẨU VÀ CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHẬP KHẨU
1. Các hình thức nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của điều kiện kinh doanh,
Nhà nước tạo ra nhiều hình thức xuất nhập khẩu khác nhau. ở đây, ta chỉ xét một vài
hình thức nhập khẩu phổ biến đang được áp dụng tại các doanh nghiệp nước ta hiện
nay.
1.1- Doanh nghiệp tự doanh.
Khái niệm: hoạt động nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu độc lập của
một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong
và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng
phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như của quốc tế.
Đặc điểm: trong nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào
tất cả. Đây là hoạt động phải được xem xét cẩn thận ngay từ bước ban đầu là nghiên
cứu thông tin cho đến việc ký kết hợp đồng bởi doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình
chịu mọi phí tổn giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho, chi phí để tiêu
thụ hàng hoá, các khoản thuế phải nộp khi doanh nghiệp tự doanh, doanh nghiệp được
trích kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá doanh nghiệp phải chịu thuế
doanh thu, thuế mặt hàng. Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với
bên nước ngoài còn hợp đồng mua bán trong nước sau khi hàng về sẽ lập sau.
1.2- Nhập khẩu uỷ thác
Khái niệm: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá
nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho
một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu
theo yêu cầu của mình.
11
Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để nhập khẩu
hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ
thác.
Đặc điểm: Trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhận uỷ thác
không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị
trường hàng nhập mà chỉ đứng ra làm đại diện bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn
hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay bên
uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp chỉ được tính phí uỷ thác
chứ không được tính doanh thu và không chịu thuế doanh thu.
Khi nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập 2 hợp
đồng:
- Một hợp đồng ngoại
- Một hợp đồng nội uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác
1.3- Nhập khẩu liên doanh
Khái niệm: là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế
một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất
nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ
trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát
triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên lãi cùng chia, lỗ cùng chịu
Đặc điểm: so với nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp bớt chịu rủi ro
hơn bởi vì mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất
định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo vốn góp. Việc phân chia
chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp; lãi lỗ tuỳ theo hai bên thoả thuận phân chia
dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên phải gánh vác.
Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được
tính kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính doanh số trên số
hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác
12
Sự phân chia trên là dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu, nếu quan
tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể thấy 2 hình thức chính là
mua bán, thanh toán bằng tiền và thanh toán bằng hàng hay còn gọi là mua bán đối
lưu. Mua bán bằng tiền là hình thức thông thường và trong phạm vi ở đây cần quan
tâm đến hình thức nhập khẩu đối lưu hay đổi hàng.
1.4- Nhập khẩu đối lưu
Khái niệm: nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là 2 loại nghiệp
vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là một hình thức nhập khẩu gắn với xuất khẩu,
thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà dùng chính bằn hàng hoá. Ở
đây mục đích của nhập khẩu hàng không chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà
còn nhằm để xuất được hàng thu cả lãi từ hoạt động xuất.
Đặc điểm: Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể
tiến hành cùng một lúc hoạt động xuất và nhập, do đó có thể thu lãi từ 2 hoạt động.
Hàng xuất và hàng nhập tương đương về giá trị, tính quý hiếm cân bằng
về giá. Bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng mua.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính của kim ngạch nhập
khẩu và kim ngạch xuất khẩu, doanh số trên cả hàng nhập và hàng xuất.
Ngoài ra chia theo mục đích hàng nhập khẩu có thể phân ra nhập hàng
tiêu thụ trong nước và nhập hàng để tái xuất. Ở nước ta hiện nay chủ yếu là nhập về
tiêu dùng trong nước, nhập tái xuất ít, chưa ở mức độ cao thế nhưng trong tương lai sẽ
phát triển thông dụng.
1.5- Nhập khẩu tái xuất
Khái niệm: là hoạt động nhập hàng vào trong nước nhưng không phải để
tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước nào đó nhằm thu lợi nhuận, những
hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất
luôn thu hút 3 nước tham gia: nước xuất khẩu , nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Đặc điểm: Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng nhập khẩu
- Một hợp đồng xuất khẩu
Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng
xuất và nhập sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành
hoạt động.
13
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất và
nhập, doanh số tính trên giá trị hàng xuất do đó phải chịu thuế doanh thu.
Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể
chuyển thẳng sang nước thứ 3, nhưng trả tiền thì phải luôn do người tái xuất thu từ
người nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được
lợi tức về tiền hàng do thu được nhanh và trả chậm.
Trên đây đã khái quát một số hình thức nhập khẩu thông dụng ở nước ta hiện
nay, cho dù là hình thức nào thì các bước tiến hành hoạt động nhập khẩu ở doanh
nghiệp xuất nhập khẩu cũng theo một trình tự chung.
2. Các công cụ quản lý nhập khẩu của Nhà nước
Mỗi quốc gia trên thế giới sử dụng công cụ khác nhau để quản lý hoạt
động nhập khẩu, có những nước đánh thuế cao đối với nhập khẩu, có những nước lại
quản lý nhập khẩu qua ngoại tệ, qua các biện pháp phi thuế quan. Hiên nay, Việt Nam
đang áp dụng những biện pháp quản lý nhập khẩu như sau:
2.1- Thuế nhập khẩu
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là để góp phần vào việc bảo vệ
và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước.
Có nhiều cách đánh thuế khác nhau như thuế quan tính theo đơn vị vật
chất của hàng hoá nhập hoặc thuế quan tính theo giá trị hàng hoá là mức thuế tính
theo tỷ lệ % của mức giá hàng hoá trả cho nhà nhập khẩu hay thuế quan hỗn hợp là
kết hợp của hai dạng trên.
Biểu thuế được xây dựng trên cơ sở chính sách quản lý nhập khẩu của
mỗi nước. Mức thuế tính chung cho tất của các nước theo từng mặt hàng nhưng cũng
có thể tính riêng cho từng nhóm nước. Mức thuế có thể có một nhưng cũng có thể có
2 mức: mức thông thường và ưu đãi. Thuế ưu đãi là thuế dành riêng cho nước được
hưởng quyền đãi ngộ tối huệ quốc, được hưởng mức thuế ưu đãi theo luật định.
Ở Việt Nam có 2 loại thuế sau:
- Thuế suất thông thường: là mức thuế đánh vào các hàng hoá nói chung,
không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nước nào. Các nước đều dùng chung
một mức thuế.
14
- Thuế ưu đãi: áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu theo hiệp định
thương mại đã ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với một số nước nào đó. Trong đó có
điều khuản ưu đãi về thuế nhập cho từng mặt hàng với số lượng cụ thể. Để khuyến
khích nhập khẩu phục vụ sản xuất và xuất khẩu, luật thuế nhập khẩu còn quy định các
trường hợp được miễn giảm và hoàn thuế. Hàng nhập khẩu được xét miễn thuế gồm:
+ Hàng nhập khẩu phục vụ cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa
học, giáo dục, đào tạo.
+ Hàng nguyên liệu, vật tư để gia công xuất khẩu theo hợp đồng đã ký.
+ Hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các
bên nước ngoài hợp tác liên doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh
trong các trường hợp cần khuyến khích đầu tư theo quy định của luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
+ Hàng là quà tặng, quà biếu trong mức quy định
+ Những mặt hàng của công dân Việt Nam đi công tác và học tập, lao
động và hợp tác chuyên gia mang theo hoặc gửi về trong nước theo mức quy định của
Chính phủ Việt Nam
+ Hàng xuất khẩu của cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế được hưởng
các tiêu chuẩn miễn trừ do Chính phủ Việt Nam quy định phối hợp với điều ước quốc
tế mà doanh nghiệp Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
+ Thuế còn được hoàn lại cho người nhập khẩu trong trường hợp hàng là
vật tư, nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là bảo hộ sản xuất trong nước và tạo
nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò quan trọng
trong việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, mới được hình thành ở Việt Nam
chưa các khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi ở đây không phải là thuế suất mà là những biện pháp
kinh tế cơ bản, mục tiêu chính là cạnh tranh trên thị trường thế giới, thống nhất chung
với năng suất và hiệu quả cao. Thuế cần được đơn giản để mọi người hiểu là nghĩa vụ
của mình. Thuế chồng lên thuế sẽ là một yếu tố làm tăng giá, làm giảm tính cạnh
tranh của hàng sản xuất trong nước.
2.2- Hạn nghạch nhập khẩu (Quota)
Hạn nghạch nhập khẩu là một công cụ phổ biến trong hàng rào phi thuế quan.
Nó được hiểu là mức quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng
15
hay một nhóm hàng được nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định
(thường là một năm) thông qua hình thức giấy phép. Hạn nghạch nhập khẩu là một
hình thức hạn chế về số lượng nhập khẩu đồng thời gây ảnh hưởng đến giá nội địa của
hàng hoá. Khi hạn nghạch nhập khẩu được quy định cho một loại sản phẩm đặc biệt
nào đó thì Nhà nước đưa ra một định ngạch nhập khẩu mặt hàng nào đó trong một
khoản thời gian nhất định không kể nguồn gốc hàng hoá đó từ đâu đến. Nếu hạn
nghạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hoá đó có thể chỉ được nhập
khẩu từ thị trường đã định với số lượng bao nhiêu trong thời gian bao lâu.
Việc áp dụng hạn nghạch trong quản lý nhập khẩu nhằm
- Bảo hộ sản xuất trong nước: Về mặt này hạn nghạch nhập khẩu tương đối
giống thuế nhập khẩu. Giá hàng nội địa sẽ tăng lên do hạn nghạch nhập và nó cho
phép các nhà sản xuất trong nước thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu quả thấp
hơn là sơ với điều kiện thương mại tự do. Đối với Chính phủ và các doanh nghiệp
trong nước việc cấp hạn nghạch nhập khẩu sẽ cho biết trước khối lượng hàng nhập
khẩu.
- Bảo đảm cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài: những cam kết này
mang ý nghĩa chính trị và kinh tế.
Ở Việt Nam, danh mục số lượng (hoặc giá trị) các mặt hàng nhập khẩu
quản lý bằng hạn nghạch cho từng thời kỳ do Chính phủ phê duyệt trên cơ sở đề nghị
của uỷ ban kế hoạch Nhà nước duy nhất có thẩm quyền phân bổ hạn nghạch trực tiếp
cho doanh nghiệp và cũng là cơ quan có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện phân bổ
hạn nghạch đã cấp.
Người được cấp hạn nghạch nhập khẩu là các doanh nghiệp được Nhà
nước cho phép kinh doanh xuất nhập khẩu, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Một doanh nghiệp khi xuất khẩu cần phải biết mặt hàng của mình có nằm
trong danh mục hàng nhập khẩu của nước bạn hay không, hạn nghạch quy định cho
mặt hàng đó ở mức nhập khẩu là bao nhiêu? Sự thay đổi những quy định xin cấp hạn
nghạch của nước nhập khẩu ra sao... đây cũng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược với các
nhà xuất nhập khẩu.
2.3- Giấy phép nhập khẩu
Giấy phép nhập khẩu là một công cụ để quản lý nhập khẩu khác với hạn
nghạch giấy phép nhập khẩu được áp dụng rộng rãi hơn.
16
Sau đây là danh sách một số hàng hoá khi đi qua cửa khẩu Việt Nam đều
phải có giấy phép nhập khẩu.
- Hàng nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương
- Hàng nhập khẩu theo các dự án đầu tư chuyển giao công nghệ của nước
ngoài
- Hàng hội chợ triển lãm hàng quảng cáo
- Vật tư nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu để gia công nhập khẩu
- Hàng nhập khẩu theo con đường viện trợ và vay nợ
Có hai loại giấy phép thường gặp:
- Giấy phép tự động: khi người nhập khẩu xin cấp giấy phép nhập khẩu thì sẽ
được cấp ngay không đòi hỏi gì cả.
- Giấy phép không tự động: đối với là giấy phép này muốn nhập khẩu phải có
hạn nghạch nhập khẩu và bị ràng buộc bởi các hạn chế khác về nhập khẩu. Người
nhập khẩu am hiểu nâng cao quy định của Nhà nước và việc cấp giấy phép và những
phí tổn co liên quan đến việc xin giấy phép để hoạt động kinh doanh thuận lợi và có
hiệu quả cao.
2.4- Quản lý ngoại tệ
Đối với những nước thiếu ngoại tệ như nước ta, áp dụng những biện pháp kiểm
soát ngoại tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại sản phẩm thông qua việc phân
phối ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hoá đó qua ngân hàng quốc gia. Nhiều nước còn
quy định “hạn nghạch ngoại tệ” trên cơ sở hạn nghạch nhập khẩu được cấp. Người
nhập khẩu có thể ký hợp đồng mua hàng ở nước ngoài nhưng phải được quyền sử
dụng ngoại tệ để thanh toán cho khách hàng theo quy chế quản lý ngoại tệ ở nước
mình.
17
III. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU.
Quy trình nhập khẩu diễn ra dưới sơ đồ sau:
Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Xin giấy phép nhập khẩu
Mở L/C khi bên bán báo
Đôn đốc bên bàn giao hàng
Thuê tàu
Làm thủ tục hải quan
Nhận hàng
Mua bảo hiểm hàng hoá
Kiểm tra hàng hoá
Giao cho đơn vị đặt hàng
18
Hoạt động nhập khẩu có những nhiệm vụ phức tạp hơn nhiều so với hoạt động
kinh doanh nội địa do có sự khác biệt về chủ thể và khoảng cách địa lý. Vì vậy, để
thực hiện hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần xác
định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm. Mỗi bước, mỗi nghiệp
vụ phải được nghiên cứu, thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn
nhau, tranh thủ nắm bắt lợi thế nhằm đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao nhất,
phục vụ đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
1. Nghiên cứu thị trường
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản
xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó xuất hiện khái niệm
về thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên, rất cần thiết đối với bất kỳ
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, không loại trừ doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu gồm
các công đoạn sau:
1.1- Nhận biết sản phẩm nhập khẩu
Mục đích của việc nhận biết sản phẩm nhập khẩu là lựa chọn được mặt
hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi
sau:
- Thị trường trong nước đang cần những mặt hàng gì? Các doanh nghiệp
cần xác định được mặt hàng cùng với nhãn hiệu, mẫu mã, phẩm chất, giá cả và số
lượng hàng hoá đó.
19
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó trong nước ra sao? Mỗi loại mặt hàng
đều có thói quen tiêu dùng riêng, điều đó thể hiện ở thời gian tiêu dùng, thị hiếu và
quy luật biến đổi của quan hệ cung cầu về mặt hàng đó trên thị trường.
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Bất cứ một sản
phẩm nào cũng đều có chu kỳ sống riêng. Nắm được mặt hàng mà doanh nghiệp dự
tính kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sẽ xác định được các biện pháp
cần thiết để nâng cao doanh số bán hàng và thu được nhiều lợi nhuận.
- Tình hình sản xuất của mặt hàng đó trong nước như thế nào? Muốn
kinh doanh có hiệu quả thì bất kể doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến quan hệ
cung cầu về mặt hàng kinh doanh. Vấn đề mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu cần xem xét ở đây là: khả năng sản xuất, thời vụ sản xuất, tốc độ phát triển của
mặt hàng đó trong nước. Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không chỉ dựa vào những
tính toán, ước tính và những biểu hiện cụ thể của hàng hoá mà còn dựa vào kinh
nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu hướng biến động của giá
cả thị
trường trong và ngoài nước, khả năng thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán ưu
thế hơn.
1.2- Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
Đối với người nhập khẩu, việc tìm hiểu dung lượng thị trường hàng hoá
cần nhập là rất quan trọng. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một hàng hoá là
một khối hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định (thế giới,
khu vực, quốc gia) trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nghiên cứu dung
lượng thị trường cần xác định nhu cầu thật của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu
hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, các khu vực trên từng lĩnh vực
sản xuất và tiêu dùng. Cùng với việc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả
năng cung cấp của thị trường, bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng sản
xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến
của tình hình tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định.
Có thể chia làm 3 loại nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường căn cứ vào thời
gian ảnh hưởng của chúng:
+ Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ.
Đó là sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong
sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá. Sự vận động của tình hình kinh tế TBCN
có tính chất quan trọng ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá trên thế giới. Có thể
20
nói như vậy vì hầu hết hàng hoá trên thế giới đều được sản xuất ở các nước TBCN.
Nắm vững tình hình kinh tế TBCN đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa quan trọng
trong việc vận dụng kết quả nghiên cứu về thị trường và giá cả để lựa chọn thời gian
giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
+ Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường: bao
gồm những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của Nhà nước và các
tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của khả
năng sản xuất hàng hoá thay thế hoặc bổ sung.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường như hiện
tượng gây đầu cơ đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, hạn hán,
động đất và các yếu tố chính trị xã hội.
Nắm được dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó giúp
các nhà kinh doanh cân nhắc để đề ra quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng
chớp thời cơ giao dịch. Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường các nhà kinh
doanh phải nắm được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ
cạnh tranh và các dấu hiệu về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán
quốc tế để hoà nhập nhanh chóng với thị trường.
1.3- Nghiên cứu giá cả trên thị trường quốc tế.
Trên thị trường thế giới, giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết
mối quan hệ cung cầu hàng hoá. việc xác định đúng đắn giá hàng hoá trong xuất nhập
khẩu có một ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả thương mại quốc tế.
Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế. Giá quốc tế có
tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả
đó phải là giá cả giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện
đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Dự đoán xu hướng
biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy. Xu hướng biến động
của giá cả hàng hoá trên thế giới rất phức tạp, có lúc theo chiều hướng tăng, có lúc
theo chiều hướng giảm, có biệt có những lúc giá cả hàng hoá có xu hướng ổn định
nhưng xu hướng này chỉ là tạm thời. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động trên
thị trường thế giới trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán về tình hình
thị trường loại hàng hoá đó, đánh giá đúng ảnh hưởng của nhân tố tác động đến xu
hướng vận động của giá cả hàng hoá.
Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới có rất
nhiều và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau. Khi dự đoán xu hướng biến
21
động của giá cả trong thời gian dài cần phân tích đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố
tác động lâu dài như: chu kỳ, giá trị... khi dự đoán xu hướng biến động của giá cả
trong thời gian ngắn cần phân tích đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của những biến đổi về
cung cầu và các nhân tố mang tính tạm thời như: thời vụ, nhân tố tự nhiên.
2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu
Sau khi tiến hành công việc nghiên cứu thị trường quốc tế, cần lựa chọn
hình thức giao dịch thích hợp trước khi tiến hành kí kết hợp đồng. Trong hoạt động
mua bán quốc tế có một số phương thức giao dịch chủ yếu sau:
2.1- Giao dịch thông thường
Giao dịch thông thường là giao dịch có thể thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, trong
đó nười bán và người mua trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt hoặc qua thư
từ, điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Những nội
dung này được thoả thuận một cách tự nhiên, không có sự ràng buộc với lần giao dịch
trước, việc mua không nhất thiết phải gắn với việc bán. Phương thức giao dịch này có
ưu điểm là hai bên có thể thảo luận trực tiếp dễ dàng, giảm chi phí trung gian và dễ
thâm nhập thị trường. Tuy nhiên, nó cũng có phần hạn chế với thị trường trong nước.
2.2- Giao dịch qua trung gian
Trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người
bán và người mua. Người trung gian phổ biến trên thị trường là các đại lý và môi giới.
Đại lý: Là các tư nhân hay pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự
uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác với các đại lý là quan hệ hợp
đồng đại lý. Căn cứ vào quyền hạn được uỷ thác người ta chia ra làm ba loại đại lý, đó
là: đại lý toàn quyền, tổng đại lý, đại lý đặc biệt.
Sử dụng đại lý và môi giới có nhiều thuận lợi như: doanh nghiệp sẽ có những
thông tin chính xác về thị trường, giảm bớt chi phí nghiên cứu thị trường. Song hình
thức này có nhược điểm là gây ra sự mất liên lạc trực tiếp với khách hàng và lợi
nhuận bị chia sẻ.
2.3- Giao dịch tại hội chợ triển lãm
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào thời gian nhất định,
tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết
hợp đồng.
22
Triển lãm là việc trưng bày, giới thiệu những thành tựu của một ngành,
một nền kinh tế nào đó. Ngày nay, triển lãm không chỉ là nơi trưng bày mà còn là nơi
thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc, giao dịch, ký kết hợp đồng.
Trên đây là một số phương thức giao dich, buôn bán chủ yếu trên thị
trường quốc tế, căn cứ vào mặt hàng nhập khẩu, đối tượng giao dịch, thời gian giao
dịch và khả năng của nhà kinh doanh để lựa chọn phương thức giao dịch cho phù hợp.
3. Đàm phán, ký kết hợp đồng
3.1- Đàm phán
Trong kinh doanh quốc tế, có ba hình thức cơ bản đó là: đàm phán qua
thư tín, qua điện tín và gặp gỡ trực tiếp. Mỗi một hình thức đều có những ưu điểm,
nhược điểm riêng. Vì vậy, phải tuỳ vào từng điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp,
tuỳ vào bạn hàng để lựa chọn hình thức đàm phán cho thích hợp.
Quá trình đàm phán bao gồm những bước sau:
- Hỏi giá: Là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện của
mặt hàng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán, thời hạn
và đồng tiền thanh toán.
- Báo giá: Là việc người bán thông báo trở lại người mua và người mua
đã nhận được có nghĩa là có sự cam kết của người bán về việc sẽ bán hàng.
- Hoàn giá: Bên mua không chấp nhận báo giá trên và đã đưa ra đề nghị
mới.
- Chấp nhận giá: Là đồng ý mọi điều kiện về chào hàng mà bên kia đưa
ra, khi đó hợp đồng được thực hiện.
- Xác nhận giá: bên mua và bên bán sau khi đã thống nhất thoả mãn lợi
ích sẽ lập hai biên bản xác nhận, bên lập ký trước và gửi cho bên kia ký xong giữ lại
một bản và gửi trả lại một bản.
3.2- Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Sau khi các bên đã tiến hành đàm phán có kết quả thì việc tiếp theo là ký
kết hợp đồng ngoại thương.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những bên đương sự
có quốc tịch khác nhau, trong đó bên bán có nghãi vụ phải chuyển vào quyền sở hữu
23
của bên mua một khối lượng hàng hoá nhất định, bên mua có trách nhiệm trả tiền và
nhận hàng.
Phương pháp ký kết hợp đồng:
Tuỳ từng điều kiện của hợp đồng kinh tế ngoại thương có thể ký kết bằng các
hình thức sau:
- Hai bên ký vào một bản hợp đồng mua bán ngoại thương ( bằng một
văn bản )
- Người bán xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều
khoản của thư chào hàng tự do, nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết.
- Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua
- Trao đổi bằng thư xác nhận những thoả thuận bằng đơn đặt hàng từ trước đây
của hai bên.
Trước khi ký kết hợp đồng cần có sự thống nhất với nhau tất cả mọi điều
khoản cần thiết. Khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó là khó khăn
và bất lợi. Văn bản thông thường do một bên soạn thảo, trước khi ký bên mua phải
xem xét thật kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong
đàm phán. Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã
thoả
thuận, tránh mập mờ gây khó hiểu. Những điều khoản của hợp đồng phải được xuất
phát từ những đặc điểm của hàng hoá định mua bán, từ điều kiện hoàn cảnh tự nhiên,
xã hội và quan hệ giữa hai bên. Trong hợp đồng không có những điều khoản trái với
luật lệ hiện hành của nước đối tác. Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có
thẩm quyền. Ngôn ngữ trong hợp đồng nên là ngôn ngữ hai bên cùng thông thạo.
Những điều khoản cơ bản trong hợp đồng:
- Các điều khoản về đối tượng hợp đồng
+ Tên hàng: Cần ghi tên thông dụng, tên thương mại và tên khoa học
(nếu có), có thể ghi thêm nơi sản xuất ra mặt hàng đó.
+ Số lượng: Phải ghi rõ đơn vị đo lường được hai bên lựa chọn, quy định
cụ thể số lượng hàng giao dịch.
+ Trọng lượng: Có thể tính trọng lượng hàng theo nhiều cách
24
- Các điều khoản về giá cả:
+ Đồng tiền tính giá: Có thể dùng đồng tiền của bên mau hoặc bên bán
hoặc của nước thứ ba nhưng phải là đồng tiền ổn định, tự do chuyển đổi.
+ Mức giá: Là giá cả quốc tế
+ Phương pháp định giá: Có một số cách như: giá cố định, giá quy định
sau, giá linh hoạt, giá di động.
+ Giảm giá: Bên bán có thể giảm giá cho bên mua nếu bên mua là khách
quen, mua số lượng lớn, thanh toán ngay.
- Điều khoản giao hàng:
+ Thời hạn giao hàng: Cần ghi rõ trong hợp đồng vì nếu giao không đúng
thời hạn có thể gây thiệt hại lớn cho người mua.
+ Địa điểm giao hàng
+ Phương thức giao hàng
+ Thông báo giao hàng
- Điều khoản thanh toán:
+ Đồng tiền thanh toán: Phải là đồng tiền ổn định, có khả năng chuyển đổi.
+ Phương thức thanh toán: có thể trả ngay, trả trước hoặc trả sau và có
thể kết hợp các loại hình đó trong một hợp đồng.
+ Hình thức thanh toán: có hai hình thức cơ bản là: nhờ thu và tín dụng
chứng từ.
- Điều khoản về khiếu nại: Đây là các đề nghị, yêu sách do người nhập
khẩu đưa ra đối với xuất khẩu do số lượng hay chất lượng giao hàng không đúng hoặc
do một trong hai bên thực hiện không đúng các điều khoản trong hợp đồng. Trong
hợp đồng cần phải ghi rõ trình tự tiến hành, thời hạn khiếu nại, quền hạn và nghĩa vụ
của các bên liên quan.
- Điều khoản trường hợp bất khả kháng.
Những trường hợp thiệt hại về hàng hoá do những nguyên nhân khách
quan như thiên tai, chiến tranh, đình công, chính sách xuất nhập khẩu được gọi là
25
trường hợp bất khả kháng. Để đảm bảo quền lợi cho mỗi bên, các bên phải ghi rõ
trong hợp đồng tình huống nào được coi là trường hợp bất khả kháng. Hai bên phải
thông báo cho nhau bằng văn bản về những quy định tổ chức trung gian nào chứng
minh cho sự việc đó.
- Điều khoản về trọng tài: Điều khoản này có quy định thể thức giải pháp
tranh chấp có thể phát sinh giữa các bên, chọn luật nước nào và trọng tài nước nào để
giải quyết tranh chấp.
3.3- Thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên đã được
xác lập rõ ràng thì các đơn vị kinh doanh nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết sẽ
phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó.
Mỗi bên phải tiến hành sắp xếp những công việc phải làm, ghi thành
bảng biểu để theo dõi tiến độ thực hiện, ghi lại những diễn biến, những văn bản phát
đi và nhận được để tiến hành giải quyết xử lý cụ thể. Quá trình tiến hành thực hiện
hợp đồng ngoại thương là rất phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và luật quốc
tế, đồng thời đảm bảo uy tín và quyền lợi của mỗi bên. Trong khi tiến hành, cần tránh
xẩy ra sai sót dẫn đến khiếu nại, như vậy sẽ tiêt kiệm được chi phí. Ở đây, điều quan
trọng yêu cầu đối tác với tư cách là một bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nghĩa
vụ của mình theo đúng quy định.
4. Tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu
Đơn vị nhập khẩu hàng hoá sẽ phải làm thủ tục để tiếp nhận hàng hoá
sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ của mình theo quy định trong hợp đồng
4.1- Thủ tục
- Người nhập khẩu ký kết một hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về
việc giao nhận hàng.
- Xác nhận với cơ quan vận tải về kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu cơ
cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc xếp, bảo quản, vận chuyển hàng.
- Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản về hàng
hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra.
4.2- Tổ chức tiếp nhận
26
Sau khi hàng hoá đã về đến nước mình, bên nhập khẩu phải đệ trình
những chứng từ và thủ tục cần thiết cho cơ quan hải quan: giấy phép nhập khẩu,
những chứng từ liên quan. Hải quan sẽ xem xét các chứng từ đó, nếu hợp lệ thì bên
nhập khẩu mới được quyền tiếp nhận hàng hoá của mình.
Người nhập khẩu cần kiểm tra tính phù hợp về số lượng, chất lượng hàng
hoá
Bên nhập khẩu sẽ mời cơ quan giám định và cơ quan bảo hiểm đến để
kiểm tra hàng hoá. Việc giám định này do công ty kiểm tra trung gian giám định.
Trên đây là một số khâu quan trọng cua công tác nhập khẩu hàng hoá. Để
đạt được hiệu quả cao trong hoạt động nhập khẩu các đơn vị nhập khẩu phải thực hiện
đúng, đủ và tốt các khâu này.
IV. HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
1. Bản chất và phân loại hiệu quả kinh tế nhập khẩu
1.1- bản chất kết quả kinh tế
Kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói
riêng làm đa dạng hoá mặt hàng hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền
kinh tế quốc dân. Mặt khác, cùng với xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu còn tạo ra sự
cân bằng trong cán cân thanh toán. Bên cạnh đó, nhập khẩu còn tạo ra cơ sở vật chất
tiến bộ hơn cho nền sản xuất trong nước bằng việc nhập vào các máy móc thiết bị tiên
tiến trên thế giới.
Xét về mặt lý luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế trong hoạt động
nhập khẩu là góp phần đắc lực thúc đẩy nhanh năng suất lao động xã hội và tăng khối
lượng giá trị sử dụng.
1.2- Phân loại hiệu quả kinh tế trong nhập khẩu
- Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội: hiệu quả kinh tế cá
biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp xuất nhập
khẩu. Biểu hiện chung cho hiệu quả kinh tế cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp
đạt được . Hiệu quả kinh tế xã hội do kinh doanh nhập khẩu đem lại là sự đóng góp
cho hoạt động nhập khẩu để phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng
suất lao động, tăng ngân sách và cải thiện đời sống nhân dân...
- Hiệu quả chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp: Mục đích hoạt động của
doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường
để giải quyền những vấn đề theo chốt như: mặt hàng, công nghệ sản xuất, đối tượng
tiêu thụ và giá thành sản phẩm. Chi phí bỏ ra thực chất là chi phí lao động xã hội.
27
Nhưng tại mỗi doanh nghiệp việc đánh giá hiệu quả, chi phí lao động xã hội đó lại
được thể hiện dưới dạng chi phí cụ thể
+ Chi phí nguyên vật liệu
+ Chi phí lao động
+ Chi phí hao mòn máy móc thiết bị
+ Chi phí ngoài sản xuất
Môic loại chi phí trên lại có thể được phân chia chi tiết hơn. Đánh giá
hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất nhập khẩu không thể không đánh giá hiệu quả
tổng hợp của các loại chi phí trên đây, nhưng lại cần thiết phải đánh giá hiệu quả của
từng loại chi phí.
- Hiệu quả so sánh và hiệu quả tuyệt đối: Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả
được tính toán cho thừng phương án cụ thể bằnội dung cách xác định mưc lợi ích thu
được với chi phí bỏ ra. Chẳng hạn tính toán mức lợi nhuận thu được từ một dồng chi
phí sản xuất hoặc từ một đồng vốn bỏ ra. Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách
so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án. Nói cách khác, hiệu quả so
sánh chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án, từ đó cho
phép chọn ra phương án tối ưu.
2. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là phần lợi ích tài chính thu được thông
qua hiệu suất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp bằng việc so sánh trực
tiếp kết quả với chi phí.
Theo đó, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có nội dung và phạm vi
tính toán trực tiếp, cụ thể và xác định được khác với hiệu quả kinh doanh thương
nghiệp, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu bao gồm cả yếu tố đối ngoại, bao hàm tính
quốc tế gắn bó hữu cơ với tình quốc gia. Chính sự phức tạp này đòi hỏi sự thống nhất
về phương pháp và các điều kiện liên quan để tạo ra cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả
kinh doanh kinh tế của doanh nghiệp.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu theo
công thức.
vµo Çu® phÝ Chi
raÇu® qu¶ KÕt
=doanh kinhqu¶ HiÖu
28
Nguồn
Doanh thu từ hàng hoá NK
TNK
Lợi nhuận từ hoạt động NK
LNNK = TNK - CPNK
Vốn cố định
VCĐ
Hiệu quả sử dụng vốn cố định
HVCĐ = TNK / VCĐ
Tỷ suất sinh lời của VCĐ
IVCĐ = LNNK / VCĐ
Vốn lưu động
VLĐ
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
HVLĐ = TNK / VLĐ
Tỷ suất sinh lời của vốn LĐ
IVLĐ = LNNK / VLĐ
Chi phí NK
GTNK
Hiệu quả sử dụng chi phí NK
= TNK / GTNK
Tỷ suất lợi nhuận NK
INK = LNNK / GTNK
Số lao động
SLĐ
Năng suất bình quân tính theo DT
NSBQLN = TNK / SLĐ
Năng suất bình quân tính theo LN
NSBQLN = LNNK / SLĐ
Tổng vốn
VCĐ + VLĐ
Hiệu quả sử dụng tổng vốn theo DT
= TNK / VCĐ + VLĐ
Tỷ suất sinh lời của tổng vốn
ITV = LNNK / VCĐ + VLĐ
Trong đó kết quả đầu ra là các chỉ tiêu: doanh thu nhập khẩu, lợi nhuận
nhập khẩu chi phí đầu vào là: vốn lưu động, vốn cố định, chi phí nhập khẩu, số lao
động của doanh nghiệp, tổng vốn.
Như vậy, hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cần xây
dựng gồm 10 chỉ tiêu chia thành 5 nhóm với 2 chỉ tiêu đặc thù được tách ra:
- Nhóm chỉ tiêu về hoạt động sử dụng vốn cố định và tỷ suất sinh lời của
vốn cố định.
- Nhóm chỉ tiêu về hoạt động sử dụng vốn lưu động và tỷ suất sinh lời
của vốn lưu động
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời của doanh nghiệp ngoại thương và
hiệu quả sử dụng Chích phủ nhập khẩu
- Nhóm chỉ tiêu năng suất lao động bình quân
- Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tổng vốn
29
3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu
3.1- Hoàn thiện công tác tổ chức kinh doanh
Công tác tài chính kinh doanh có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Tổ chức kinh doanh phù hợp với điều
kiện của doanh nghiệp và yêu cầu của cơ chế thị trường, đáp ứng tốt nhu cầu thị
trường sẽ thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng mở rộng thị trường, thu hút được khách
hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu:
Thời kỳ bao cấp có 2 hình thức nhập khẩu chủ yếu đó là nhập khẩu trực
tiếp và nhập khẩu hàng đổi hàng, hiện nay mở rộng thêm lĩnh vực nhập khẩu uỷ thác
và nhập khẩu tái xuất. Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu cần nâng cao hiệu quả
của 2 hình thức này.
Tuy nhiên, cần phải khai thác nhu cầu thị trường, xem xét khả năng của
doanh nghiệp để kết hợp với các hình thức khác như: Nhập khẩu tái xuất trên cơ sở
nước xuất khẩu phải có khó khăn nhất định trong việc nhập khẩu trực tiếp hàng hoá
đó, nhập khẩu nguyên liệu máy móc thiết bị đồng thời xuất khẩu sản phẩm cho họ,
nhập khẩu hàng hoá kết hợp tái chế để xuất khẩu hàng hoá đó, làm trung gian nhập
khẩu.
Đa dạng phương thức tiến hành nhập khẩu
Quá trình nhập khẩu được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều công việc từ
đàm phán ký kết hợp đồng, nhập hàng cho đến bạn hàng
Việc phương thức thanh toán có thể trả ngay hoặc trả chậm giúp cho
doanh nghiệp tiêt kiệm được vốn lưu động. Việc bán hàng cũng cần mở rộng các hình
thức, có thể nhập về sau đó bán, có thể ký hợp đồng trước khi bán, có thể doanh
nghiệp nhập hàng về sau đó ký hợp đồng bán.
Mở rộng danh mục hàng nhập.
Việc mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu đi đôi với việc mở rủi rộng
thị trường, tăng doanh thu và có triển vọng tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên
cạnh xác định mặt hàng nhập khẩu nào là truyền thống là thế mạnh của doanh nghiệp
để tập trung gia tăng số lượng và giữ thị trường đó, cần phải tìm kiếm, khai thác nhu
cầu trong nước về các loại hàng hoá khác. Từ đó, doanh nghiệp phải dựa vào các mối
30
quan hệ và khả năng của doanh nghiệp để tìm kiếm khả năng cung cấp có tính đến
yếu tố chi phí và giá bán.
* Gia tăng các biện pháp khuyến khích mua hàng
Doanh nghiệp có nhập khẩu hàng hoá hay không phụ thuộc vào việc có
bán được hàng hoá hay không. Vì vậy, doanh nghiệp phải đặt mình vào vị trí bán
hàng, cần phải gia tăng các biện pháp khuyến khích mua hàng của doanh nghiệp như:
bảo hành hàng hoá, khuyến mãi, điều kiện ưu đãi thanh toán...
3.2- Mở rộng thị trường
Trong cơ chế thị trường, duy trì và mở rộng thị trường là yêu cầu quan
trọng để phát triển doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp bên cạnh duy trì và ổn định thị trường chủ yếu, thị
trường hiện tại của mình, cần phải luôn luôn mở rộng thị trường kinh doanh, nâng cao
khả năng cạnh tranh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mới ngày càng
cao. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu, việc mở rộng thị trường là mở
rộng cả thị trường mua và thị trường bán.
* Thị trường mua:
Việc mở rộng thị trường mua cho phép doanh nghiệp có nhiều thị trường
để nhập hàng. Sự đa dạng một loại thị trường mua một loại hàng hoá cho phép doanh
nghiệp tận dụng cạnh tranh trong việc cung cấp hàng hoá, doanh nghiệp sẽ nhập hàng
hoá với chi phí nhỏ nhất, chất lượng cao và có ưu đãi. Để mở rộng thị trường
nhậpkhẩu, doanh nghiệp cần phải thông qua các tổ chức thương mại, tổ chức kinh tế
quốc tế, tổ chức tư vấn hoặc tự điều tra, từ đó doanh nghiệp sẽ quyết định nên nhập
hàng từ thị trường nào là tối ưu và xác định các mối quan hệ buôn bán.
Thị trường bán:
Việc mở rộng thị trường bán cho phép doanh nghiệp gia tăng số lượng
hàng hoá nhập khẩu, mở rộng danh mục hàng nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh
tranh tăng doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để mở rộng thị trường bán, doanh
nghiệp tập trung vào một số biện pháp sau:
- Điều tra, xác định đúng nhu cầu thị trường
- Nhanh chóng tìm kiếm thị trường nhập khẩu hấp dẫn nhất
- Sử dụng biện pháp kích thích tiêu dùng và nhập khẩu
3.3- Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý
31
Việc tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả sẽ giúp
doanh nghiệp giảm được các chi phí không cần thiết, phối hợp được các bộ phân, các
phòng ban cùng hợp tác. Để hoàn thiện bộ máy quản lý cần phải giải quyết tốt hai vấn
đề sau:
Về lao động: đội ngũ lao động cần có năng lực và trình độ chuyên môn,
bố trí lao động hợp lý, đúng vị trí, phù hợp với yêu cầu công việc, trình độ và khả
năng của mỗ người. Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
mở rộng kiến thức cho cán bộ công nhân viên.
Về bộ máy quản lý: Sự phối hợp các bộ phận, phòng ban chặt chẽ và hợp
tác trong công việc, cho phép doanh nghiệp hoàn thành tốt công việc của. Các phòng
ban chức năng cần hỗ trợ, hợp tác với nhau. phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban
giúp doanh nghiệp thực hiện tốt việc giao nhận, tiêu thụ hàng hoá giảm chi phí, thu
hồi vốn nhan.
3.4- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Đối với các doanh nghiệp thương mại có đặc điểm vốn cố định chiếm tỷ
lệ nhỏ trong vốn kinh doanh. Vì vây, các doanh nghiệp cần duy trì tỷ lệ vốn cố định
thấp nhất bằng cách không mua tài sản cố định không cần thiết. Đối với vốn lưu động,
doanh nghiệp cần tăng tốc độ luân chuyển bằng cách đẩy nhanh tiêu thụ hàng hoá
cũng như việc ký kết hợp đồng.
Về việc sử dụng vốn vay, trong kinh doanh thương mại nhu cầu về vốn không
ổn định trong năm, phụ thuộc vào hàng hoá nhập khẩu trong từng thời kỳ. Do đó,
doanh nghiệp cần lập kế hoạch chi tiết dự kiến nhu cầu về vốn. Các doanh nghiệp cần
cố gằn rút ngắn kỳ hạn các khoản vay để chuyển đổi vốn tiện lợi và giảm lãi suất phải
trả lãi.
Như vây, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và tối thiểu hoá lãi tiền vay của ngân
hàng, tổ chức tài chính sẽ cho phép doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong kinh doanh
nhập khẩu.
3.5- Tác động đến các yếu tố Vĩ mô
Các yếu tố vĩ mô như: Chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu, thuế hạn
nghạch, tỷ giá cũng như thủ tục hải quan... Có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hiệu
quả kinh doanh nhập khẩu . Tuy nhiên các doanh nghiệp có thể tác động trở lại các
yếu tố vĩ mô thông qua việc vận dụng có linh hoạt, am hiểu và thực hiện và có kiến
nghị.
32
Các chính sách quản lý của Nhà nước về xuất nhập khẩu chặt chẽ nhưng vẫn
còn nhiều bất cập và luôn thay đổi, chính sách của Nhà nước, vận dụng một cách linh
hoạt sao cho có lợi nhất, tránh thua lỗ và không vi phạm pháp luật.
Đề thuận lợi và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh, doanh nghiệp phải thực hiện
đúng các thủ tục hải quan, xuất nhập khẩu, trường hợp có rắc rối phải tập trung giải
quyết nhanh chóng, tránh các chi phí không cần thiết. Nếu có thiệt hại cho doanh
nghiệp cần yêu cầu bồi thường.
Nhìn chung, các yếu tố vĩ mô có tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh nhập khẩu. Các doanh nghiệp cần tạn dụng những thuận lợi có những biện
pháp đối phó với những khó khăn để hiệu quả kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao
nhất.
33
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ Ở
CÔNG TY CENTRIMEX - CHI NHÁNH HÀ NỘI.
I-TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CENTRIMEX - CHI NHÁNH HÀ NỘI
1. Quá trình thành lập và phát triển của Công ty CENTRIMEX - Chi
nhánh Hà Nội
Ngày 04/1/1988, để giải quyết chính sách đối với các bộ công nhân viên dôi dư
qua sặp xếp lại bộ máy và lao động của cơ quan Bộ, Bộ vật tư ra quyết định 03/VT-
QĐ thành lập xí nghiệp dịch vụ trực thuộc văn phòng Bộ vật tư. Xí nghiệp dịch vụ
được hoạt động theo phương thức thanh toán, được mở tài khoản chuyên thu chuyên
chi. Khi thành lập xí nghiệp dịch vụ này chủ yếu kinh doanh các loại vật tư theo kế
hoạch của Bộ vật tư giao.
Do nhu cầu kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp ngày 24/03/1988 Bộ
vật tư ra quyết định 073/VT-CB sửa đổi bổ sung quyết định 03/VT-QĐ chuyể xí
nghiệp thành đơn vị hạch toán kinh tế độc lập.
Nhờ có sự cố gắng nỗ lực để củng cố và phát triển, qua một năm hoạt động theo
cơ chế thị trường, xí nghiệp không những củng cố được quá trình phát triển, vị trí tồn
tại, xí nghiệp đã vượt ra khỏi lĩnh vực dịch vụ đã tổ chức sản xuất hàng trong nước và
xuất khẩu, mở rộng địa bàn khắp cả nước và ra cả nước ngoạ. Vì vậy ngày 10/1/1990,
Bộ vật tư ra quyết định số 10/VT-QĐ đổi tên xí nghiệp dịch vụ thành xí nghiệp dịh vụ
và sản xuất vật tư.
Từ chỗ mới thành lập chỉ được cấp 4,2 triệu đồng tiền vốn, sau 2 năm hoạt
động xí nghiệp đã nâng tổng số vốn lên tới 535 triệu đồng và doanh số 1,33 tỉ. Với
quy mô phát triển như vậy và khả năng phát triển ngày càng cao, ngày 16/3/1990 Bộ
trưởng Bộ vật tư ra quyết định số 72/VT-QĐ chuyển xí nghiệp trực thuộc văn phòng
Bộ thành xí nghiệp trực thuộc Bộ vật tư.
Qua 3 năm hoạt động, quy mô xí nghiệp không ngừng mở rộng và phát triển,
văn phòng xí nghiệp phải mở rộng phạm vi và quy mô mới đáp ứng được nhu cầu
quản lý các đơn vị trục thuộc.
Trước tình hình đó, ngày 22/4/1991, Bộ trưởng Bộ thương nghiệp ra quyết định
số 412/TN/TCCB chuyển đổi xí nghiệp thành công ty kinh doanh và sản xuất vật tư
hàng hoá, trực thuộc Bộ Thương nghiệp ( nay là Bộ Thương Mại), tên giao dịch quốc
tế là Material Trading Company (MATECO), đặt trụ sở chính tại 399 Minh Khai.
34
Trong điều kiện thương nghiệp nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý cuả Nhà Nước, thương nghiệp Quốc doanh phần lớn rơi vào
lúng túng bị động, nhằm giúp cho công ty có thể chủ động giải quyết được mọi vấn
đề, ngày 17/6/1998 Bộ Thương Mại ra quyết định 233/CT-QĐ cho phép Công ty
CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội được áp dụng hình thức khoán trong kinh doanh.
Hiện nay, công ty có 6 phòng kinh doanh xuất nhập khẩu trực thuộc và 4 đơn vị
trực thuộc cùng một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là:
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu I.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu II.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu III.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu IV.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu V.
-Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu VI.
-Trạm dịch vụ sản xuất vật tư và nhà khách 12 - Quán Chính - Gia Lâm.
-Trạm dịch vụ sản xuất vật tư và nhà khách 399 – Minh Khai.
-Cửa hàng kinh doanh kim khí số 1 – Gia Lâm.
-Cửa hàng kinh doanh săm lộp 399 – Minh Khai.
-Chi nhánh TP Hồ Chí Minh 16 – Nguyến Huệ – Quận 1.
Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội có chức năng là thông qua hoạt
động kinh doanh sản xuất, dịch vụ và xuất nhập khẩu để tạo thêm quỹ vật tư, nguyên
liệu, hàng hoá góp phần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh dịch vụ tăng nguồn thu nhập
cho đất nước.
Theo quyết định của Bộ Thương Mại, Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà
Nội có phạm vi hoạt động và nhiệm vụ như sau:
* Phạm vi hoạt động của công ty.
-Tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch vụ các loại vật tư hàng hoá trên thị trường.
35
-Thực hiện đại lý bán buôn, bán lẻ và giới thiệu các loại vật tư hàng hoá cho
các tổ chức kinh tế trong và ngoài nghành.
-Sản xuất, gia công vật tư hàng hoá, vật liệu xây dựng, bao bì các loại để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường.
-Xuất khẩu các mặt hàng do công ty sản xuất hoặc do công ty liên doanh, liên
kết đầu tư, góp vốn tạo ra.
-Nhập khẩu các loại vật tư, nguyên liệu, hàng hoá để phục vụ sản xuất và tiêu
dùng trong nước.
-Tổ chức các dịch vụ, chuyển giao, ửng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật giữ
thuê hàng hoá và cho gửi xe, bảo dưỡng xe, nhà khách và phục vụ ăn uống.
* Nhiệp vụ của công ty.
-Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh, sản xuất dịch vụ và kế
hoạch khác có liên quan (dài hạn, từng năm), đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công ty.
-Quản lý, sử dụng và tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ của công
ty có hiệu quả. Đảm bảo đầu tư, mở rộng sản xuất, chế biến kinh doanh dịch vụ, làm
tròn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
-Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khầu và
các quy định về giao dịch đối ngoại.
-Thực hiện các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng kinh
tế, hợp đồng liên doanh hợp tác đầu tư đã ký kết.
-Thực hiện tốt chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản, lao động tiền lương,
sử dụng phân công lao động hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên
của công ty để không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn.
-Làm tốt công tác bảo hộ an toàn lao động, trật tự xã hội, bảo vệ môi trường,
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc phòng.
Với những chức năng và nhiệm vụ nói trên, thì từ khi thành lập tới nay, Công
ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã không ngừng phấn đấu tăng trưởng, hoàn
thành vượt mức kế hoạch nhà nước giao cho. Bên cạnh đó, công ty còn tăng cường
mở rộng, tiếp thị với nhiều thị trường trong và ngoà nước, xác định nhiệm vụ trước
mắt và mục tiêu chiến lược lâu dài của các đơn vị trong công ty. Chính vì vậy trong
36
những năm qua, Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã phát triển hơn nhiều,
vững chắc và tạo được uy tín trên thị trường trong cũng như ngoài nước
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà
Nội
Số cán bộ công nhân viên hiện nay của công ty là 176 ngượ, phần lớn là hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh, chỉ có 30% lực lượng tham gia vào quá trình sản
xuất. Trình độ của lực lượng lao động trong công ty khá cao, có 40% là trình độ đại
học và cao đẳng. Lượng cán bộ công nhân viên này được tổ chức theo bộ máy như
sau.
2.1- Ban giám đốc
Đứng đầu công ty là giám đốc, giám đốc do Bộ trưởng Bộ Thương Mại bổ
nhiệm. Giám đốc công ty có chức năng và nhiệm vụ chính như sau:
+Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp cũng như các kế
hoạch dại hạn và ngắn hạn. Hàng năm tổ chức thực hiện kế hoạch, các phương án
kinh doanh đã được Bộ Thương Mại phê duyệt.
+Tổ chức điều hành mọi hoạt động của công ty và chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh của toàn công ty trước Bộ Thương Mại.
Giúp việc cho giám đốc có một phó giám đốc do giám đốc đề nghị và đã được
Bộ trưởng Bộ Thương Mại phê duyệt.
Phó giám đốc có chức năng cùng trợ lý giám đốc, giúp giám đốc điều hành hoạt
động của công ty theo sự phân công của giám đốc.
Kết toán trưởng của công ty được bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm theo chế độ hiện
hành của Nhà Nước.
Kế toán trưởng giúp giám đốc chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kế toán thống
kê của công ty.
2.2- Các phòng ban chức năng của công ty
*Phòng tổ chức hành chính:
Phòng này có trách nhiệm thức hiện các chỉ tiêu kinh tế được giao hàng năm,
thông qua các phương án kinh doanh đã được phê duyệt. Đồng thời, tham gia vào việc
37
ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng thương mại với các thương nhân trong và
ngoài nước thuộc phương án kinh doanh đã được công ty phê duyệt.
*Phòng kế toán tài chính:
Có chức năng quản lý, tổ chức và hướng dẫn thực hiện nghiệpvụ tài chính kế
toán trong toàn công ty. Giám sát các hoạt động tài chính diễn ra trong các đơn vị
trạm, của hàng, phòng kinh doanh. Ban hành các loại hình bán buôn, bán lẻ, bán đại
lý mà giám đốc đã duyệt.
*Phòng tổng hợp:
Phòng này mới được thành lập từ khi công ty áp dụng chế độ khoán trong kinh
doanh, phòng tổng hợp có chức năng như sau:
+Giúp giám đốc thẩm định tính khả thi của các phương án sản xuất kinh doanh
do các đơn vị nhận khoán đề xuất trước khi trình giám óc. Tham gia góp ý các điều
khoản của hợp đồng mua bán, đảm bảo tính pháp lý chặt chẽ.
+Thường xuyên thông áo về các chính sách, chủ trương xuất nhập khẩu, các
văn bản mới của nhà nước để các đơn vị nhận khoán nắm được.
+Theo dõi việc thực hiện các chỉ tiêu khoán của các đơn vị nhận khoán, xây
dựng kế hoạch chung của toàn công ty chỉ tiêu khoán từng đơn vị.
38
SƠ
Đ
Ồ
C
Ơ
C
Ấ
U
T
Ổ
C
H
Ứ
C
B
Ộ
M
Á
Y
H
O
Ạ
T
Đ
Ộ
N
G
C
Ủ
A
C
Ô
N
G
T
Y
C
EN
TR
IM
EX
- C
H
I N
H
Á
N
H
H
À
N
Ộ
I
B
A
N
G
IÁ
M
Đ
Ố
C
C
H
I N
H
Á
N
H
M
A
T
E
C
O
T
P H
Ồ
C
H
Í M
IN
H
PH
Ò
N
G
TÀ
I
C
H
ÍN
H
K
Ế
TO
Á
N
PH
Ò
N
G
T
Ỏ
C
H
Ứ
C
H
À
N
H
C
H
ÍN
H
PH
Ò
N
G
T
Ổ
N
G
H
Ợ
P
TR
Ạ
M
D
ỊC
H
V
Ụ
S
Ả
N
XU
Ấ
T
V
Ậ
T
T
Ư
VÀ
N
H
À
K
H
Á
C
H
M
IN
H
K
H
A
I
TR
Ạ
M
D
ỊC
H
V
Ụ
S
Ả
N
XU
Ấ
T
V
Ậ
T
T
Ư
VÀ
N
H
À
K
H
Á
C
H
G
IA
LÂ
M
C
Ử
A
H
À
N
G
K
IN
H
D
O
A
N
H
S
Ă
M
L
Ố
P
M
IN
H
K
H
A
I
C
Ử
A
H
À
N
G
K
IN
H
D
O
A
N
H
K
IM
K
H
Í
G
IA
LÂ
M
PH
Ò
N
G
K
IN
H
D
O
A
N
H
XU
Ấ
T
N
H
Ậ
P
K
H
Ẩ
U
I
PH
Ò
N
G
K
IN
H
D
O
A
N
H
XU
Ấ
T
N
H
Ậ
P
K
H
Ẩ
U
II
PH
Ò
N
G
K
IN
H
D
O
A
N
H
XU
Ấ
T
N
H
Ậ
P
K
H
Ẩ
U
III
39
3. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội là một công ty có quy mô khá lớn.
Đây là một doanh nghiệp vừa thực hiện chức năng thương mại, vừa thực hiện chức
năng sản xuất, do đó cơ cấu vốn của nô coa những nét đặc thù riêng và hiệu quả hoạt
động của công ty chịu sụ tác động của cả hai mảng này, trong đố chủ yếu là hoạt động
thương mại. Tổng số vốn của công ty hiện nay là 6 tỉ đồng VN, vốn lưu động chiếm tỉ
trọng rất lớn 33,4% trong tổng số vốn. Số vốn này được dùng chủ yếu cho hoạt động
kinh doanh mà chủ yếu là kinh doanh xuất nhập khẩu. Lợi nhuận thu được từ hoạt
động này chiếm từ 60 –65% trong tổng số lợi nhuận thu được của công ty từ các
nguồn.
Kể từ khi được đổi thành công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá, các
nghành nghề kinh doanh, mặt hàng chủ yếu của công ty là: ngoại thương, cung ứng
vật tư, dịch vụ, các loại vật tư và vật tư bổ sung, đồ mộc, thiết bị bổ sung, khách sạn.
Cho đến nay thì nghành nghề kinh doanh và mặt hàng kinh doanh của công ty hầu
như không có gì thay đổi, phát triển khá tốt và đem lại hiệu quả cao.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu trực tiệp và xuất nhập uỷ thác, phổ biến là
hình thức xuất nhập khẩu trục tiếp, hình thức này có thể giúp cho công ty chủ động
được trong mọi vấn đề. Tính riêng về hoạt động nhập khẩu thì nhập khẩu trực tiếp
mang lại 65% lợi nhuận cho công ty.
Mặt hàng kinh doanh phần nào đã quyết định đến thị trường của công ty. Đối
với hoạt động nhập khẩu, thi trường nhập khẩu của công ty chủ yếu là các nước thuộc
khu vực Châu Á . Đó là những nước có nền kinh tế phát triển mạnh, có thể đem lại
40
cho nền kinh tế nước ta những thuận lợi nhất định thông qua việc nhập khẩu hàng hoá
của họ.
4. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Trong những năm đầu thành lập, công ty đã gặp một số khó khăn, đặc biệt là
vấn đề thiếu vốn trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước mới chuyể sang kinh tế thị
trương. Không chỉ riêng công ty mà phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đều rơi vào
tình trạng này. Tuy nhiên nhờ vào sự phấn đấu nỗ lực của bản thân, luôn luôn tìm
cách chuyển hướng kinh doanh, công ty đã đạt được những thành công nhất định.
Cùng với sụ giúp đỡ của nhà nước cũng như Bộ Thương Mại mà giá trị tổng doanh
thu trên các mặt sản xuất kinh doanh của công ty (kể cả kinh doanh nội địa và kinh
doanh xuất nhập khẩu) có sự tăng đáng kể.
Biểu số 01: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Đơn vị : VNĐ.
TT Năm
Chỉ tiêu
1996 1997 1998 1999
1 Doanh thu 80.248.760.630 107.703.347.032 124.548.276.301 185.970.458.135
2 Giá vốn 75.434.215.728 99.215.316.402 112.960.635.210 168.470.318.210
3 Thuế 927.215.316 1.796.673.205 3.035.655.440 8.421.665.391
4 Chi phí 3.828.763.264 6.665.345.110 8.445.673.366 8.937.166.732
5 Lãi 14.566.322 26.003.315 106.312.285 141.317.902
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh (1996-1999).
Qua bảng số liệu 01 ta thấy:
Trong giai đoạn 1996-1999 kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
trên cả ba chỉ tiêu : doanh thu, thuế, lãi của công ty đều tăng qua các năm, và tăng
mạnh nhất là giai đoạn 1997-1999, đây là giai đoạn mà công ty áp dụng hình thức
khoán trong kinh doanh. Năm 1997, kết quả kinh doanh của công ty tăng không nhiều
là do có sụ biến động của thị trường trong và ngoại nước. Mặt khác, do tình trạng
quản lý kinh doanh của công ty còn hạn chế dẫn đến thiếu vốn kinh doanh, lợi nhuận
41
không cao. Nhờ có sự phấn đấu, luôn tìm cách chuyển hướng mà công ty đã đạt được
kết quả cao trong năm 1998.
Ta có thể thấy được chi tiết qua bảng sau.
Biểu số 02 : So sánh giữa các năm qua một số chỉ tiêu.
Đơn vị : VNĐ.
Mức tăng giảm tổng doanh
thu
Mức tăng giảm lợi nhuận Mức tăng giảm nộp ngân
sách
Giai đoạn
Tuyệt đối Tương
đối (%)
Tuyệt đối Tương
đối (%)
Tuyệt đối Tương
đối (%)
1996-1997 27.454.586.402 34 11.430.993 78 824.457.889 84
1997-1998 16.244.929.269 15 80.308.970 308 123.898.235 68.9
1998-1999 61.422.181.834 49 35.005.617 32.9 5.386.009.951 177
Có được kết quả trên đó không chỉ là do sự cố gắng của tất cả các thành viên
trong công ty mà còn được tạo ra bởi sự giúp đỡ của Bộ Thương Mại. Thành công
bước đầu khi áp dụng hình thức khoán trong kinh doanh đã khích lệ tinh thần làm việc
của các thành viên trong công ty khiến họ ngày càng có trách nhiệm hơn trong công
việc và mang tính chất sáng tạo cao hơn, góp phần thúc đẩy công ty phát triển ngày
càng vững mạnh.
II. THỨC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA CÔNG TY
CENTRIMEX - CHI NHÁNH HÀ NỘI
1. Đặc điểm tình hình các mặt hàng nhập khẩu của công ty trong những năm
qua
1.1- Các mặt hàng nhập khẩu.
Công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá MATECO là doanh nghiệp nhà
nước, trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nươac công ty phải luôn cạnh
tranh để tồn tại và phát triển. Một mặt coi trọng hoạt động kinh doanh, một mặt công
ty luôn lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo trong kinh doanh, công ty không vì lợi ích
trước mắt mà tự nhập khẩu hàng hoá, danh mục hàng hoá nhập khẩu của công ty đều
đã được sự đồng ý của Bộ Thương Mại và là những mặt hàng cần thiết, bổ sung nhu
cầu tiêu dùng trong nước khi sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ. Các mặt hàng đó
là
Săm lốp ô tô : Săm lốp ô tô là loại mặt hàng kinh doanh nhập khẩu chủ yếu của
công ty, Hiện nay, trong nước cũng có một số công ty sản xuất săm lốp ô tô như cao
su sao vàng.. song nhu cầu sửa chữa, lắp ráp ô tô là tương đối lớn, sản phẩm trong
nước sản xuất ra chất lượng tuy có đạt yêu cầu song vẫn chưa đáp ứng đủ. Vì vậy
nhập khẩu mặt hàng này của công ty là rất cần thiết.
42
Phương tiện vận tải : Song song với sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng thì
sự gia tăng các phương tiện vận tải ngày càng lớn mạnh. Đặc biệt là các loại xe vận
tải hạng nặng rất cần thiết cho nhu cầu vận chuyển hàng hoá ngày càng nhiều trong
các tổ chức kinh tế cũng như trong nhân dân. Trong hoàn cảnh hệ thống giao thông
công cộng chưa phát triển công ty cùng các đơn vị khác được giao nhiệm vụ nhập
khẩu phương tiện vận tải để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Hàng tiêu dùng : Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, do nhu cầu và
đời sống của nhân dân được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng cũng gia tăng bắt nguồn từ
đó. Trình độ khoa học ngày càng phát triển thì nhu cầu của người tiêu dùng không
dừng lại ở số lượng chất lưọng hàng hoá mà ở cả bao bì, mẫu mã, chủng loại. Nhận
thức được tầm quan trọng của việc nhập khẩu hàng tiêu dùng trong những năm qua,
Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã góp phần vào việc đa dạng hoá nhằm
bổ sung thêm về mặt hàng tiêu dùng ở thị trường trong nước. Các mặt hàng công ty
nhập như : Bếp ga, quạt điện, rượu, mì chính, cà phê.
Ngoài ra, công ty còn nhập các loại ắc quy, vật liệu xây dựng như: Gạch lát
nền, sắt thép xây dựng, sơn, kính xây dựng, vật liệu điện như : que hàn điện, dây dẫn,
công tắc điện.
Đối với các mặt hàng này, công ty nhập về chủ yếu đáp ứng cho các đơn vị
kinh doanh thương mại, các đại lý tiêu thụ cũng như cửa hàng bán lẻ.
Bên cạnh đó, công ty còn nhập một số máy móc thiết bị như : máy bào, máy
cưa, máy ép nhựa, máy phôtô.
1.2- Kim nghạch nhập khẩu các mặt hàng trong những năm qua
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta khởi xướng nền kinh tế nước ta
chuyển hoàn toàn từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước. Từ đó mở rộng quan hệ kinh tế nước ta với các nước trong và ngoài
khu vực, hoà nhập vào kinh tế thế giới theo xu hướng khu vực hoà, toàn cầu hoá.
Bước đầu, chúng ta đã thành công trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước. Sau
bao nhiêu năm đắm chìm trong khủng hoảng và lạm phát, những năm gần đây nước ta
đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế và lạm phát kéo dài, đưa nền kinh tế
nước ta ổn định và phát triển vững mạnh. Chíng sự phát triển đó đã thúc đẩy nhu cầu
hàng hoá thiết bị công nghệ...được tăng lên trong khi năng lực sản xuất chưa đáp ứng
đủ hoặc đáp ứng chưa kịp thời. Để tránh biến động lớn và giữ nền kinh tế trong nước
ổn định Nhà nước cho phép các đơn vị xuất nhập khẩu theo giấy phép nhập khẩu hàng
hoá đáp ứng kịp thời nhu cầu trong nước, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nước. Là đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, Công ty
CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã ý thức được trách nhiệm và nhiệm vụ to lớn đó
cùng với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Trong những năm qua, ban lãnh đạo công
43
ty cùng với sự nỗ lục của tập thể, các phòng kinh doanh đã có những cố gắng nhất
định luôn đảm bảo kim nghạch nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng giá trị
sản phẩm của công ty. Điều đó thể hiện qua bảng sau:
Biểu số 03 : Kim nghạch nhập khẩu các mặt hàng
Đơn vị : 1000USD
Năm
Mặt hàng
1996
1997
1998
1999
Săm lốp ôtô 2815 3200 4000 4500
Ăc quy 312.2 600 650 720
Phương tiện vận tải 216 309 325 435
Vật liệu điện 135 145 200 424
Hàng tiêu dùng 126 432 150 180
Máy móc thiết bị 312.82 400 450 500
Vật liệu xây dựng 219.98 514 225 241
Tổng cộng 4137 5500 6000 7000
Nguồn : Thống kê kim nghạch nhập khẩu các mặt hàng (1996-1999).
Từ bảng số liệu trên ta có thể biểu diễn dưới dạng biểu đồ.
Đơn vị : 1000USD
7000
6000
5000
4000
3000
2000
1000
0
4137
5500
6000
7000
Giá trị
1996 1997 1998 1999 Năm
44
Trước sự cạnh tranh đầy khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường, Công ty
CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội đã cố gắng vươn lên mở rộng thị trường để đa
dạng hoá các loại hàng. Qua bảng số liệu 03 và biểu đồ ta thấy : giá trị tổng kim
nghạch và kim nghạch nhập khẩu của từng mặt hàng đều có sự tăng lên đáng kể. Sang
năm 1998 kim nghạch nhập khẩu của một số mặt hàng có sự giảm sút là do biến động
của thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên điều này vẫn khẳng định được sự cố
gắng để đứng vững trong sự cạnh tranh trong cư chế thị trường của công ty. Cụ thể,
kim nghạch nhập khẩu của từng mặt hàng qua các năm như sau:
+Kim nghạch nhập khẩu mặt hàng săm lốp ôtô :
Đây là mặt hàng nhập khẩu chính của công ty. Năm 1996 giá trị kim nghạch
nhập khẩu của mặt hàng này là 2815000USD chiếm tỷ trọng 68% trong tổng số. Năm
1997 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 3200000USD tăng 385000USD so với năm
1996, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ trọng 58% so với tổng số.
Năm 1997 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 3200000USD tăng 385000USD so
với năm 1996, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ trọng 58% so với tổng số.
Năm 1998, giá trị kim nghạch nhập khẩu là 4000000USD tăng 850000USD so
với năm 1997, chiếm tỷ trọng là 66% trong tổng số các mặt hàng nhập khẩu.
Năm 1999 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 4500000USD tăng 500000USD so
với năm 1998, chiếm tỷ trọng là 64% so với tổng số. Ta có thể thấy rằng, kim nghạch
nhập khẩu mặt hàng săm lốp ôtô đều tăng qua các năm, trong đó tăng mạnh nhất là
vào năm 1998, đó cũng là năm mà Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội bắt
đầu thực hiện hình thức khoán trong kinh doanh. Sang năm 1999, giá trị kim nghạch
nhập khẩu của mặt hàng này tuy tăng không nhiều so với sự tăng của năm 1998
nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số kim nghạch nhập khẩu. Kim nghạch nhập
khẩu không tăng nhiều là do giá cả thị trường nước ngoài tăng trong khi đố giá trong
nưóc lại ít biến động. Mặt khác, do sự tăng lên của sản xuất trong nước cũng phần nào
tác động đến kế hoạch nhập khẩu của công ty.
+Kim nghạch nhập khẩu mặt hàng ắc quy :
Đây là mặt hàng chủ chốt thứ 2 được công ty thường xuyên chú trọng tới trong
hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Cũng như mặt hàng săm lốp ôtô, kim nghạch nhập
khẩu của mặt hàng này đều tăng qua các năm. Cụ thể là :
45
Năm 1996 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 312.200USD, chiếm tỷ trọng 7,5%
trong tổng số.
Năm 1997, giá trị kim nghạch nhập khẩu là 600000USD, chiếm tỷ trọng 10,9%
trong tổng số, tăng so với năm 1996 là 287800USD với tỷ lệ tăng 52%.
Năm 1998, giá trị kim nghạch nhập khẩu là 650000USD, chiếm tỷ trọng 10,8%
trong tổng số, tăng 50000USD so với năm 1997.
Năm 1999, giá trị kim nghạch nhập khẩu là 720000USD, chiếm tỷ trọng 10,2%
so với tổng số, tăng 70000USD so với năm 1998.
Giá trị kim nghạch nhập khẩu mặt hàng ắ quy tuy không lớn như mặt hàng săm
lốp ôtô song đây cũng là mặt hàng nhập khẩu chủ chốt của công ty. Kim nghạch nhập
khẩu mặt hàng này tăng tương đối đều trong giai đoạn 1998-1999, năm 1997 tăng ít
hơn giai đoạn này. Tuy trong nước sản xuất ắc quy đã phát triển cả về số lượng lẫn
chất lượng song nhu cầu tiêu dùng là tương đối cao nên mặt hàng ắc quy nhập khẩu
vẫn tăng trưởng cao về giá trị.
+Kim nghạch nhập khẩu phương tiện vận tải.
Năm 1996, giá trị kim nghạch nhập khẩu mặt hàng này là 216000USD, chiếm
tỷ trọng 5,2% trong tổng số. Sang năm 1997 giá trị kim nghạch nhập khẩu là
309000USD chiếm tỷ trọng 5,6% trong tổng số, tăng 93000USD so với năm 1996.
Năm 1998 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 325000USD, chiếm tỷ trọng 5,4%
trong tổng số, tăng 16000USD so với năm 1997.
Năm 1999 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 43500Usd, chiếm tỷ trọng 6,2%
trong tổng số, tăng 110000Usd so với năm 1998.
Kim nghạch nhập khẩu mặt hàng phương tiện vận tải có nhiều biến động qua
các năm, tăng mạnh nhất là vào năm 1999. Năm 1998 do ảnh hưởng của khủng hoảng
tài chính tiền tệ nên kim nghạch nhập khẩu tăng không nhiều, chỉ tăng 16000USD so
với năm 1997 và năm 1999. Trong điều kiện hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều liên
doanh lặp ráp ôtô trong nước nên công ty cần xen xét vấn đề này để có hướng giả
quyết cho phù hợp.
+Kim nghạch nhập khẩu mặt hàng vật liệu điện:
Nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này ngày càng tăng, nắm bắt kịp thời kim nghạch
nhập khẩu mặt hàng này của công ty đều tăng qua các năm.
46
Nừu kim nghạch nhập khẩu mặt hàng này năm 1996 là 135000USD, chiếm tỷ
trọng 3,2% thì sang năm 1997 giá trị kim nghạch nhập khẩu đã là 145000USD, chiếm
tỷ trọng 2,6% trong tổng số, tăng 10000USD so với năm 1996.
Năm 1998 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 200000USD, chiếm tỷ trọng 3,3%
trong tổng số, tăng 35000USD so với năm 1997.
Năm 1999 giá trị kimnghạch nhập khẩu là 424000Usd chiếm tỷ trọng 6% trong
tổng sô, tăng 224000USD so với năm 1998.
Như trên ta thấy, kim nghạch nhập khẩu mặt hàng này tăng mạnh nhất là vào
năm 1999, gấp hai lần so với năm 1998, có được sụ gia tăng đó là do công ty đã đi sâu
vào xem xét công tác nghiên cức thị trường, tránh nhập các loại vật liệu sản xuất
trong nước đang phát triển mà chỉ nhập những loại trong nước còn thiếu như que hàn,
công tắc..
+Kim nghạch nhập khẩu máy móc thiết bị :
Công ty đã tiến hành kinh doanh mặt hàng này từ năm 1995. Nhìn chung, qua
các năm kim nghạch nhập khẩu đều tăng.
Năm 1996 giá trị kim nghạch nhập khẩu mặt hàng này là 312820USD chiếm tỷ
trọng 7,5% trong tổng số kim nghạch nhập khẩu. Sang năm 1997 giá trị kim nghạch
nhập khẩu là 400000USD chiếm tỷ trọng 7,2% trong tổng số tăng 87180USD so với
năm 1996 (gần 0,27 lần).
Năm 1998 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 450000USD chiếm tỷ trọng 7,5%
trong tổng số, tăng 0,12 lần so với năm 1997 (tương đương 50000USD).
Năm 1999 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 500000USD chiếm tỷ trọng 7,1%
trong tổng số, tăng 50000USD so với năm 1998.
Qua các năm tăng trưởng về giá trị kim nghạch nhập khẩu mặt hàng này là
tương đối ổn định, chủ yếu là công ty nhập về máy fôtôcoppy và máy ép nhựa.
+Kim nghạch nhập khẩu hàng tiêu dùng:
Trong các mặt hàng nhập khẩu của công ty, hàng tiêu dùng là mặt hàng có
nhiều biến động nhất. Năm 1996 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 126000USD, chiếm
tỷ trọng 3% trong tổng số, sang năm 1997 giá trị him nghạch nhập khẩu là
432000USD, chiếm tỷ trọng 7,8% trong tổng số, tăng gấp 2,4 lần so với năm 1996
(tương đương 306000USD).
47
Năm 1998 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 150000USD chiếm tỷ trọng 2,5%
trong tổng số, giảm 1,9 lần so với năm 1997, tương đương giảm giá trị 2829000USD.
Năm 1999 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 180000USD, có tăng hơn so với
năm 1998 là 0,2 lần tương đương giá trị là 30000USD.
+Kim nghạch nhập khẩu mặt hàng vật liệu xây dựng:
Đây cũng là mặt hàng có kim nghạch nhập khẩu biến động qua các năm. Năm
1996 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 219980USD chiếm tỷ trọng 5,6% trong tổng số,
sang năm 1997 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 514000USD, tăng 294020USD so với
năm 1996.
Năm 1998 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 225000USD, chiếm tỷ trọng 3,7%
trong tổng số, giảm giá trị 289000USD so với năm 1997.
Năm 1999 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 241000USD, chiếm tỷ trọng 3,4%
trong tổng số, tăng 1600USD so với năm 1998.
Vật liệu xây dựng cũng là mặt hàng hiện nay nhu cầu sử dụng rất cao song mắc
độ sản xuất ở trong nước cũng tăng rất nhanh. Nhất là năm 1998 có sự biến động của
thị trường nên kim nghạch nhập khẩu của công ty giảm rất nhiều.
+Tổng kim nghạch nhập khẩu các mặt hàng trong những năm qua:
Nếu tính năm 1996 giá trị tổng kim nghạch nhập khẩu các mặt hàng chỉ đạt
4137000USD thì sang năm 1997 giá trị tổng kim nghạch nhập khẩu đã là
5500000USD, tăng 1363000USD so với năm 1996, đây là năm có tổng kim nghạch
nhập khẩu tăng cao nhất. Năm 1998 giá trị tổng kim nghạch nhập khẩu là
6000000USD chỉ tăng 500000USD so với năm 1997. Nguyên nhân là do cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu A làm ảnh hưởng đến thị trường nhập khẩu của
công ty và do sự phát triển của sản xuất trong nước về một số mặt hàng đã khiến cho
giá trị tổng kim nghạch nhập khẩu của công ty tăng trưởng không cao. Sang năm 1999
tình hình khu vực đã dần đi vào ổn định, giá trị tổng kim nghạch nhập khẩu của công
ty đã tăng 1000000USD so với năm 1998. Đây cũnglà một cố gắng rất lớn của công
ty để đảm bảo được kim nghạch nhập khẩu của mình.
1.3- Cơ cấu mặt hàng kim nghạch nhập khẩu của công ty
Qua bảng số liẹu 03 ta thấy rằng từ năm 1996 trở lại đây, mặt hàng săm lộp ôtô
luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của công ty.
48
Chính sách và cơ chế nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay nước ta có thay đổi
lớn phù hợp với công cuộc đôỉ mới của đất nước. Hơn nữa mặt hàng nhập khẩu của
công ty còn phụ thuộc vào từng giai đoạn có sự định hướng của ban lãnh đạo công ty.
Kim nghạch nhập khẩu mặt hàng săm lốp ôtô luôn chiếm tỷ trọng cao 68%, 58%,
66%, 64% trong tổng số, trong khi đó tỷ trọng các mặt hàng như hàng tiêu dùng, vật
liệu xây dựng lại có nhiều biến động. Cụ thể : hàng tiêu dùng năm 1996 : 3,0%; năm
1997 : 7,8%; năm 1998 : 2,5%; năm 1999 : 2,6%.
Vật liệu xây dựng : năm 1996 : 5,6%; năm 1997 : 9,3%; năm 1998 :3,7%; năm
1999 : 3,4%.
Các mặt hàng còn lại như ắc quy, phương tiện vận tải, vật liệu điện, máy móc
thiết bị, tỷ trọng là tương đối ổn định qua các năm là do những mặt hàng này không
bị ảnh hưởng nhiều của biến động thị trường trong và ngoài nước.
2. Thị trường nhập khẩu của công ty
Trong hoạt động nhập khẩu, việc tìm kiếm để mở rộng thị trường là một vấn đề
quan trọng đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu hàng hoá được diễn ra liên tục và đạt
hiệu quả cao. Nhận thức được vai trò to lớn này Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh
Hà Nội đã cố gắng tìm kiếm mở rộng thị trường với mục đích đạt hiệu quả cao về mặt
kinh tế, chủ động nguồn hàng trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên trong sự cố
gắng đó thì cho tới nay Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội mới quan hệ với 7
nước, trong đó đều là những nước thuộc khu vực Châu Á.
Biểu số 04 : Kim nghạch nhập khẩu theo thị trường (1996-1999).
Đơn vị :1000USD.
1996 1997 1998 1999 TT Năm
Tên
thị trường
Giá trị
Tỷ
trọng
%
Giá trị
Tỷ
trọng
%
Giá trị
Tỷ
trọng
%
Giá trị
Tỷ
trọng
%
1 Hàn Quốc 1572 38 880 16 900 15 1120 16
2 Singapore 165 4 302.5 5.5 30 6 434 6.2
3 Trung Quốc 608 14.7 2821.5 51.3 3090 51.5 3549 50.7
49
4 Ân Độ 591.6 14.3 973.5 17.7 1080 18 1295 18.5
5 Hồng Kông 537.8 13 401.5 7.3 420 7 455 6.5
6 Nga 579 14 104.5 1.9 90.0 1.5 70 1
7 Đài Loan 83.6 2 52.5 0.9 60 1 77 1.1
Tổng cộng 4137 100 5500 100 6000 100 7000 100
Nguồn : Thống kê kim nghạch nhập khẩu theo thị trường.
Qua bảng số liệu trên ta thấy qua các năm tỷ trọng kim nghạch nhập khẩu theo
thị trường có sự thay đổi đáng kể. Mỗi thị trường đều có thể mạnh riêng đối với nhập
khẩu các mặt hàng.
Năm 1996 thị trường Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu chính của công ty giá
trị kim nghạch nhập khẩu là 1572000USD, chiếm tỷ trọng 36% tổng kim nghạch nhập
khẩu. Sang năm 1997 là năm có sự kiện khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Nam
A. Cuộc khủng hoảng này đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế Hàn Quốc làm tốc độ
tăng trưởng của nó chậm lại. Nói riêng về xuất khẩu của Hàn Quốc, giá trị xuất khầu
giảm nhưng giá cả tăng, đồng Won mất giá buộc chính phủ phải tăng lương. Tiền
lương tăng đẩy chi phí sản xuất tăng và tạo sức ép đối với giá thành sản phẩm. Tác
động này làm giảm đi khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm xuất khẩu của Hàn
Quốc. Chính vì vậy, quan hệ buôn bán giữa Hàn Quốc và Thế giới giảm đi rất nhiều.
Điều này giải thích được nguyên nhân dẫn tới giá trị kim nghạch nhập khẩu của Công
ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội tại thị trường này giảm sút trong năm 1997,
trong năm này kim nghạch nhập khẩu của Hàn Quốc giảm xuống chỉ còn
880000USD, tỷ trọng chỉ còn chiếm 16% trong tổng sô và lại tiếp tục giảm chỉ còn
15% trong năm 1998. Sang năm 1999 kinh tế Hàn Quốc dần đi vào ổn định, kim
nghạch nhập khẩu tăng lên là 1120000USD, chiếm tỷ trọng 16% trong tổng số. ở thị
trường cung cấp các sản phẩm cho công ty như săm lốp ôtô, ắc quy..
Thị trường Ân Độ cũng là nơi cung cấp các mặt hàng như săm lốp ôtô, ắc quy,
vật liệu xây dựng, đây là thị trường mà công ty có giá trị kim nghạch nhập khẩu tương
đối cao và khá ổn định, giá trị kim nghạch nhập khẩu và tỷ trọng của nó thường xuyên
tăng qua các năm. Đây là một thị trường ổn định để công ty có thể quan hệ buôn bán
lâu dài.
Công ty đã có quan hệ buôn bán với Trung Quốc từ lâu, song từ năm 1996 công
ty mới bắt đầu nhập săm lốp ôtô của Trung Quốc. Nừu như năm 1996 kim nghạch
nhập khẩu ở thị trường này mới chỉ là 608000USD chiếm 14,7% tổng số thì sang năm
1997 đã tăng vọt lên 2821500USD, chiếm tỷ trọng 51,3%. Có sự gia tăng mạnh này là
do các mặt hàng của Trung Quốc như săm lốp ôtô, vật liệu xây dựng, vật liệu điện giá
cả thập hơn các thị trường khác mà chất lượng sản phẩm tương đối cao. Nhờ quan hệ
giao dịch tốt mà trong những năm gần đây giá trị kim nghạch nhập khẩu ở thị trường
này luôn chiếm tỷ trọng rất cao. Cụ thể : Năm 1998 giá trị kim nghạch nhập khẩu là
3090000USD chiếm 51,5%. Năm 1999 giá trị kim nghạch nhập khẩu là 3549000USD
50
chiếm 50,7%. Như vậy, Trung Quốc là thị trường trong tương lai có nhiều tiềm năng
để khai thác nguồn hàng của công ty.
Ngoài ra cũng phải kể đến thị trường Nga là thị trường truyền thống của công
ty với các mặt hàng như sắt thép xây dựng, máy móc thiết bị. Tuy nhiên trong những
năm gần đây tỷ trọng cũng như giá trị kim nghạch nhập khẩu tại thị trường này lại
giảm nhiều là do sản phẩm của Nga có chất lượng tốt nhưng giá cả lại cao hơn so với
sản phẩm cùng loại ở các thị trường khác. NĂm 1996 giá trị kim nghạch nhập khẩu
tại thị trường này là 579000USD thì năm 1999 chỉ còn là 70000USD. Do nhu cầu tiêu
dùng của thị trường vẫn còn cần đế sản phẩm của Nga nên công ty vẫn nhập về. Tuy
nhiên để gia tăng lợi nhuận thì việc giảm bớt tỷ trọng nhập khẩu tại thị trường này là
điều phù hợp. Thị trường Singapore cung cấp các mặt hàng như bếp ga, cà phê, vật
liệu điện kim nghạch nhập khẩu tại thị trường này tương đối ổn định, đây là thị trường
mà công ty đã đạt ra chiến lược kinh doanh lâu dài trong những năm tới.
Bên cạnh đó, Đài Loan và Hồng Kông là những thị trường à công ty mới đặt
quan hệ từ năm 1996. Tuy giá trị kim nghạch nhập khẩu tại thị trường này còn chưa
cao nhưng trong tương lai công ty sẽ có chiến lược phát triển mạnh hơn nữa quan hệ
buôn bán với các nước này. Như vậy sẽ làm phong phú hơn chủng loại các mặt hàng
nhập khẩu của công ty.
3. Hình thức nhập khẩu của Công ty CENTRIMEX - Chi nhánh Hà Nội
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty có hai loại hình thức sau:
Nhập khẩu (tự doanh) trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác.
Biểu số 05 : Kết quả nhập khẩu theo hình thức (1996-1999)
Đơn vị :1000USD.
1996 1997 1998 1999 Năm
Hình thức
nhập khẩu
Giá trị
(USD)
Tỷ
trọng
%
Giá trị
(USD)
Tỷ
trọng
%
Giá trị
(USD)
Tỷ
trọng
%
Giá trị
(USD)
Tỷ
trọng %
51
Nhập khẩu trực
tiếp
2689 65 3190 58 3180 53 3640 52
Nhập khẩu uỷ
thác
1448 35 2310 42 2820 47 3360 48
Tổng giá trị
KNNK
4137 100 5500 100 6000 100 7000 100
Nguồn : Tổng hợp kết quả nhập khẩu theo hình thức (1996-1999).
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy hình thức nhập khẩu tự doanh luôn chiếm
tỷ trọng cao hơn trong tổng giá trị kim nghạch nhập khẩu của công ty qua các năm
gần đây. Tuy nhiên, tỷ trọng này lại có xu hướng giảm đi, tỷ trọng nhập khẩu theo
hình thức uỷ thác lại tăng lên. Trong điều kiện nguồn vốn kinh doanh của công ty còn
hạn hẹp, hơn nữa thị trường trong nước có nhiều biến động cũng gây nhiều khó khăn
trong khâu tiêu thụ, vì vậy công ty phải có kế hoạch hạn chế hơn đối với hình thức
nhập khẩu tự doanh cũng là điều tất yếu.
Đi sâu vào phân tích cụ thể ta thấy : Năm 1996 nhập khẩu tự doanh chiếm 65%
đạt 2689000USD trong tổng kim nghạch nhập khẩu. Năm 1997, đạt 3190000USD
chism 58% tổng kim nghạch cả năm, so với năm 1996 tỷ trọng nhập khẩu trực tiếp có
giảm đi nhưng giá trị kim nghạch nhập khẩu lại tăng lên 501000USD do kim nghạch
nhập khẩu năm 1997 cao hơn 1996.
Năm 1998, tỷ trọng nhập khẩu trực tiếp lại giảm đi 5% so với năm 1997 và giá
trị kim nghạch nhập khẩu trực tiếp cũng giảm đi 10000USD.
Sang năm 1999, giá trị kim nghạch nhập khẩu trực tiếp tăng 460000USD song
tỷ trọng lại giảm 1% so với năm 1998. Bên cạnh sự giảm sút tỷ trọng kim nghạch
nhập khẩu trực tiếp thì tỷ trọng kim nghạch nhập khẩu uỷ thác lại liên tục tăng qua
các năm. Năm 1996 tỷ trọng kim nghạch nhập khẩu uỷ thác chỉ chiếm 35%, đạt
1448000USD thì đến năm 1999 đã đạt 3360000USD chiếm tỷ trọng 48% trong tổng
số kim nghạch nhập khẩu năm 1999.
Qua phân tích bảng số liệu trên ta thấy hình thức nhập khẩu tự doanh tuy chiếm
tỷ trọng cao hơn hình thức nhập khẩu uỷ thác nhưng lại có xu hướng giảm đi. Đây là
hình thức nhập khẩu đem lại nhiều lợi nhuận nhưng lại gặp nhiều rủi ro. Đặc điểm của
hình thức này khác nhập khẩu uỷ thác ở chỗ, công ty phải chủ động tiêu thụ hàng hoá
nhập khẩu nếu có biến động theo chiều hướng bất lợi ở thị trường trong nước thì công
ty sữ gắnh chịu hết những rủi ro đó. Có điều trong nề kinh tế thị trường muốn hưởng
nhiều lợi nhuận đồng thời cũng phải chấp nhận rủi ro lớn. Vì vậy, muốn thúc đẩy hoạt
động kinh doanh nhập khẩu theo hình thức tự doanh đạt kết quả cao hơn nữa, trước
hết công ty phải giải quyết được vấn đề nguồn vốn kinh doanh. Trong hoạt động trực
tiếp này công ty phải thường xuyên xem xét tìm hiểu để khai thác những nguồn hàng
52
mới, nghiên cứu bạn hàng và thị trường mới, tìm ra biện pháp để tiêu thụ hàng nhanh
nhất với chi phí thấp nhất và đem lại hiệu quả cao nhất.
Đối với hình thức nhập khẩu uỷ thác của công ty các mặt hàng tập trung chủ
yếu là săm lốp ôtô và các loại sắt thép xây dựng. Việc nhập khẩu uỷ thác đã tạo điều
kiện cho công ty mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ với các bạn hàng trong nước,
đáp ứng được nhu cầu về nhập khẩu những vật tư hàng hoá của các đơn vị sản xuất
kinh doanh trong nước nhằm khai thác thêm thế mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động
nhập khẩu cho công ty.
4. Kết quả hoạt độ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của công ty kinh doanh và sản xuất vật tư hàng hoá.pdf