Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm: Luận văn
Thực trạng và một số giải
pháp nhằm tăng cường huy
động vốn tại Ngân Hàng
Công Thương Hoàn Kiếm
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam
từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất
quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc vào qui mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu
phát triển và cạnh tranh các doanh nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được
mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ,
nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá,
dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu
vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích
nhấ...
96 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1084 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và một số giải
pháp nhằm tăng cường huy
động vốn tại Ngân Hàng
Công Thương Hoàn Kiếm
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam
từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất
quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc vào qui mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu
phát triển và cạnh tranh các doanh nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được
mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ,
nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá,
dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu
vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích
nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân hàng thương mại.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy
nhiên trong điều kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước
đầu hình thành và phát triển thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ
biến và hiệu quả nhất. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt
chuyên kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
vừa với danh nghĩa là một tổ chức hạch toán kinh tế - kinh doanh, vừa với vai
trò trung gian tài chính. Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương
mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân
phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác
của các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các nguyên
tắc tín dụng.
Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương
với việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại phải được tăng cường,
mở rộng cho phù hợp. Mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng vốn
hợp lý cũng giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn,
hiệu quả hơn.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng
tăng và đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời
gian tới để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển
của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy
động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu
đối với các ngân hàng thương mại và NHCT Hoàn Kiếm cũng không là ngoại
lệ. Vấn đề tìm ra những giải pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất
thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm
hiểu tình hình thực tế tại NHCT Hoàn Kiếm vừa qua, em đã mạnh dạn chọn
đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng
Công Thương Hoàn Kiếm ”. Làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương I : Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn
Kiếm.
Chương III : Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân
Hàng Công Thương Hoàn Kiếm.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHTM.
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các
hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước
phát triển hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch
với một Ngân hàng thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là
một định chế tài chính quen thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế
càng phát triển thì hoạt động dịch vụ của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng
những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều
chịu tác động từ các hoạt động của Ngân hàng, dù họ chỉ là khách hàng gửi
tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh
nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịnh vụ Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng
hoá trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong
nền kinh tế. Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng
hầu như là giống nhau song quan niệm về ngân hàng lại không đồng nhất
giữa các nước trên thế giới.
1.1.1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.1.1. Khái niệm.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM,
người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị
trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt
động. Ví dụ: Theo Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân
hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng
cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Hay theo như Luật Ngân hàng của Ấn Độ năm 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là
cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”...
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa
NHTM, nó tuỳ thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng
lãnh thổ nhưng khi đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa
đó, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một
tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để
sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh
khác của chính Ngân hàng.
Trên thế giới các ngân hàng thương mại hoạt động với chức năng,
nghiệp vụ khá giống nhau, đó là việc: nhận tiền gửi ký thác, tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các
nghiệp vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. Để phân loại các Ngân hàng
thương mại ta có thể dựa trên các tiêu chi sau:
* Căn cứ vào hình thức sở hữu: Các Ngân hàng thương mại được phân thành:
- Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn của một
cá nhân. Đây là các ngân hàng nhỏ, thường chỉ hoạt động trong phạm vi một
địa phương với đối tượng phục vụ chủ yếu là những người trong địa phương.
- Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng được hình thành từ nguồn
vốn thông qua tập trung phát hành cổ phiếu. Những người nắm giữ cổ phiếu
này chính là những người chủ của ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào các
hoạt động của ngân hàng và được chia lãi cổ tức. Do huy động từ nhiều người
nên các ngân hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh
đa dạng.
- Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu
thuộc về Nhà nước. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện
những nhiệm vụ nhà nước giao, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
* Căn cứ theo tính chất hoạt động
- Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng.
Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên
doanh, thường chỉ cung cấp một số dịch vụ ngân hàng nhất định.
Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây
là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ
yếu thực hiện đối với các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của ngân
hàng bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn.
Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó
thực hiện đối với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng
cá nhân. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán lẻ lớn song giá trị một
giao dịch thường nhỏ.
* Căn cứ theo cơ cấu tổ chức
Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty. Sự
phân chia này là do pháp luật ở nhiều nước cấm không cho ngân hàng trực
tiếp tham gia vào một số hoạt động kinh doanh như: buôn bán chứng khoán,
bất động sản... nên các ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có tư cách
pháp nhân để kinh doanh.
Việt Nam, với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước ta quan niệm: (Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam
ban hành 02/ 1997/QH 10) “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để
hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền
gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
*Hiện nay, ở Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ
đạo trong hệ thống ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước
cấp vốn và hoạt động chịu sự quản lý của nhà nước. Ngoài việc tiến hành
kinh doanh bình thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác, ngân
hàng còn phải thực hiện các nhiệm vụ khi nhà nước giao cho. Hiện nay có
các ngân hàng thương mại quốc doanh sau: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát
triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công
Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng
chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và
hoạt động theo luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ
cùng nhau góp vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng
liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân
hàng nước ngoài, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp
luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là một bộ phận của ngân hàng nước
ngoài (ngân hàng nguyên xứ) hoạt động tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của
pháp luật Việt Nam.
- Ngân hàng đầu tư: Ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung và
dài hạn, cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp
thông qua các giấy tờ có giá.
- Ngân hàng phát triển: Ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là
những ngân hàng này tập trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung,
dài hạn vì sự phát triển. Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu
tư trực tiếp qua các dự án.
- Ngân hàng chính sách: Là những ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước( gồm sở hữu Nhà nước
và sở hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ những
chính sách của Nhà nước. Loại ngân hàng này không hoạt động vì mục tiêu
lợi nhuận.
-Ngân hàng hợp tác: Ngân hàng hợp tác hay gọi rộng ra là những tổ chức tín
dụng hợp tác, là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành
viên tự nguyện lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu
tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng.
1.1.1.2. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
a. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản
xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội
xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, ngượi thì cần vốn để tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NH thương
mại ra đời là chìa khoá giúp cho người cần vốn có được vốn và người có vốn
tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm được lãi từ vốn. Các ngân hàng cũng cân đối
được vốn trong nền kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế cùng nhau phát
triển. Các ngân hàng đứng ra huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh
nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần vốn để tiến hành tái
sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn. có lợi nhuận
cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế càng tăng,
không một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có ngân hàng - một tổ chức
trung gian tài chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất
cả các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối.
b. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không phải là cứ sản
xuất bất cứ cái gì mà phải luôn trả lời được 3 câu hỏi: sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thị trường. Thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản
phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng. Để được như vậy các doanh nghiệp phải được đầu tư bằng
dây truyền công nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công nhân lao động phải được
nâng cao... Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng
vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các ngân hàng. Ngân hàng sẽ
giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được các cải tiến của mình, có được các
sản phẩm có chất lượng, giá thành rẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
c. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ
của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành
phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự
giao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần
kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các
nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong
hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng
trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay
vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia
vốn của thị trường, điều kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp
đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai
trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế.
d. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
Ngày nay, trong su hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc
hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
cho các mối quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia trên
thế giới ngày càng được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính
của một quốc gia cần phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng
thương mại là trung gian, cầu nối để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra
nước ngoài là một hướng đầu tư quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận.
Đồng thời các nước cần xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so
sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu. Các ngân hàng thương
mại với những nghiệp vụ kinh doanh như : nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh...
và đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện,
thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy
động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba
nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát
triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ
này đan xem lẫn nhau trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một
chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn.
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh
doanh của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
* Nghiệp vụ tiền gửi:
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền
gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài
sản mà từ đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy
động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào
ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
* Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn
có tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư,
khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền
kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và
tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh.
* Nghiệp vụ đi vay:
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục
đích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị
trường tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu
hay vay có đảm bảo... Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ
yếu nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó
không tự cân đối được nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
* Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể
tạo vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn
cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động
không thường xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi
hỏi các Ngân hàng phải lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối
tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay.
* Vốn chủ sở hữu của NHTM :
Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý
bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định,
ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở
vật chất, nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân
ngân hàng, cho vay, đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh
doanh của bản thân Ngân hàng mang lại.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các
mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi
nhuận. Nghiệp vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau:
* Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với
mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như
khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt
buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. NH
thương mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề
mà mọi NH thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi
nhuận từ hoạt động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của
ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo
thời gian có cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, theo hình thức
đảm bảo có cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo, theo mục đích
có cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông
nghiệp, cho vay thuê mua...
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động
được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới
các hình thức như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị
trường... và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
* Nghiệp vụ khác
Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động king doanh như: kinh
doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn,
dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; king doanh và dịch vụ bảo
hiểm...
1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian khác
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số
nghiệp vụ khác như:
* Dich vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp , tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua
hoặc bán hàng hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực
hiện một cách nhanh chóng và chính xác.
* Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán
chứng khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản...
* Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền;
cho thuê két sắt, bảo mật...
1.2. VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức
năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo
tiền.Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có
hiệu quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
vốn hoạt động nhất định.
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau:
“ Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân
ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư
hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác ”.
Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của ngân
hàng thương mại. Về thực chất vốn của ngân hàng thương mại là bao gồm
các nguồn tiền tệ của chính bản thân ngân hàng và của những người có vốn
tạm thời nhàn rỗi. Họ chuyển tiền vào ngân hàng với các mục đích khác
nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ
khác của ngân hàng. Đây chính là họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân
hàng và số tiền mà ngân hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá
của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Nhờ việc có được nguồn vốn, các
ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê...Nói
chung vốn của ngân hàng chi phối toàn bộ và quyết định đối với việc thực
hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
1.2.2. Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu.
- Vốn huy động.
- Vốn đi vay.
- Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh
của NHTM.
1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng
có toàn quyền sử dụng gồm các trang thiết bị, cơ sở vật chất, trang thiết bị,
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
nhà cửa...Đây là nguồn vốn khá quan trọng, trước hết nó tạo uy tín cho chính
ngân hàng. Ngân hàng có to, đẹp, bề thế thì mới tạo được cảm giác an toàn
kho khách hàng khi đến giao dịch. Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành
và nghiệp vụ hình thành loại vốn rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng
lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
a. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Trước khi tiến hành kinh doanh, theo quy định của pháp luật, ngân
hàng phải có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ).
Tuỳ theo hình thức sở hữu, do nhà nước cấp nếu là ngân hàng quốc doanh, do
cổ đông đóng góp nếu là ngân hàng cổ phần, do các bên đóng góp nếu là
ngân hàng liên doanh và của cá nhân nếu là ngân hàng tư nhân.
b. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời
gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay
từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm...Nguồn vốn bổ sung này tuy
không thường xuyên song đối với các ngân hàng lớn từ lâu đời thì nguồn bổ
sung này chiếm một tỷ lệ rất lớn.
c. Các quỹ
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quĩ có một
mục đích riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn
vốn, quỹ phúc lợi, quĩ khen thưởng...Nguồn để hình thành nên các quỹ là từ
lợi nhuận. Các quỹ này thuộc toàn quyền sử dụng của ngân hàng.
d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi
thành cổ phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
Ngân hàng có thể sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
1.2.2.2. Vốn huy động
Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
thương mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn
và có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân
hàng có thể huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội... với nhiều
hình thức khác nhau.
a. Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch )
Đây là khoản tiền của các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng
với mục đích là sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Khoản tiền
gửi thanh toán này có thể được trả lãi ( trả lãi thấp ) hoặc không được trả lãi
tuỳ thuộc vào mỗi ngân hàng. Người gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng thu hộ tiền, trả hộ tiền... với một mức phí thấp. Các ngân hàng có thể sử
dụng các số dư tiền gửi khách hàng vào các hoạt động của mình.
b. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có các hoạt động thu, chi tiền theo
các chu kỳ xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi. Tuy khoản tiền
này không tiện lợi bằng tiền gửi thanh toán ( do khi cần tiền phải đến ngân
hàng để rút ) nhưng bù lại tiền gửi có kỳ hạn lại có lãi suất cao hơn tuỳ theo
độ dài của kỳ hạn được ghi trên hợp đồng.
c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Trong cộng đồng dân cư luôn có những người có khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi. Họ gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích bảo toàn
và sinh lời đối với những khoản tiền đó. Người gửi tiết kiệm sẽ có sổ tiết
kiệm xác định rõ thời gian và hình thức trả lãi đã thoả thuận với ngân hàng.
Hiện nay tiền gửi tiết kiệm là khu vực tiềm năng đồng thời là nơi cạnh tranh
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
gay gắt giữa các ngân hàng, để thu hút nguồn tiền này các ngân hàng luôn
đưa ra các hình thức huy động đa dạng như tiết kiệm bằng VNĐ, bằng vàng
và bằng ngoại tệ, với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn và với nhiều kỳ hạn để
người gửi có nhiều cơ hội lựa chọn cho phù hợp, tiện ích nhất.
d. Tiền gửi của các ngân hàng khác
Đây là nguồn tiền gửi có qui mô thường nhỏ, giữa các ngân hàng luôn
có tiền gửi của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là để đảm bảo thanh
toán thuận tiện, phục vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình.
1.2.2.3. Vốn đi vay
Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi
vay để đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc... Các ngân hàng có thể
vay ở:
a. Vay ngân hàng Nhà nước ( ngân hàng trung ương )
Khi các ngân hàng thương mại có nhu cầu cấp bách về vốn thì người
dang tay cứu giúp sẽ là ngân hàng trung ương. Hình thức vay chủ yếu là tái
chiết khấu ( hay tái cấp vốn ). Các ngân hàng thương mại sẽ mang các trái
phiếu mà mình đã chiết khấu lên ngân hàng trung ương để tái chiết khấu.
Thông thường các ngân hàng trung ương chỉ cho tái chiết khấu những trái
phiếu có chất lượng, thời hạn ngắn và phù hợp với mục tiêu của Nhà nước
trong từng thời kỳ.
b. Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa
ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Hình
thức vay này rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân
hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Các khoản vay có thể không
cần thế chấp hoặc thế chấp bằng các chứng khoán của kho bạc. Các khoản
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
vay này thông thường có thời hạn ngắn chủ yếu chỉ để giải quyết những nhu
cầu tức thời.
c. Vay trên thị trường vốn
Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu) trên thị trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng
các nhu cầu cho vay trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Những
ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ có khả năng vay được nhiều hơn
các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các
ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay
mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính,
các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các công cụ nợ...
1.2.2.4. Vốn khác
a. Nguồn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác qua đó làm tăng
nguồn vốn của ngân hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp
phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ...
b. Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt như: L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi... hay ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ cũng giúp ngân hàng
làm tăng nguồn vốn của mình.
c. Nguồn khác
Gồm các khoản phải nộp, phải trả như: thuế chưa nộp, lương chưa trả...
1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.3.1.Đối với toàn bộ nền kinh tế
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm
và đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng
phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần
khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường
nhỏ, lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các
ngân hàng thương mại. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết
kiệm chuyển thành đầu tư góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân
hàng trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ
thanh toán đồng thời các khoản tiền không bị chết, luôn được vận động, quay
vòng.
Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát
triển sản xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân
đối về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều
kiện để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng
hơn với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy
động vốn có thể thực hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân
sách nhà nước...nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua
các ngân hàng thương mại vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất.
1.2.3.2. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
a. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có
vốn. Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các
nguồn khác. Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì
phải có thứ để mà cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
ngân hàng. Đối với những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự
án lớn luôn dễ dàng hơn các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương
mại. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được
các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
b. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng.
Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn.
Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín
dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng.
Các ngân hàng lớn, nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng.
Phạm vi hoạt động kinh doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ.
Chính vì vậy càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
c. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên
thương trường
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được
ca ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân
hàng chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của
ngân hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi
giao thiệp với ngân hàng. Trong nên kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh
toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các
ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn.
d. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều
kiện để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
quy mô hoạt động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo
khách hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân
hàng tăng lên đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân
hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với
các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả
lãi...Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và được
thực hiện tốt hơn.
1.3. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Một hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại là tiến
hành huy động vốn để ngân hàng đi vào hoạt động. Quá trình huy động vốn
đó hầu như đều giống nhau ở các ngân hàng nhưng để phân loại các hình thức
huy động thì lại rất khác nhau. Điều này còn phụ thuộc vào các tiêu chí được
lựa chọn để phân loại.
1.3.1. Phân loại căn cứ theo thời gian
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó
liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy
động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian, hình thức
huy động được chia thành:
1.3.1.1. Huy động ngắn hạn
Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại
thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và
các nghiệp vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán....Phần lớn số này
được dùng để cho vay ngắn hạn ( dưới 1 năm ) hoặc được chuyển hoán kỳ
hạn để thực hiện cho vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động
ngắn hạn thường thấp, tuy nhiên tính ổn định lại kém.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
1.3.1.2. Huy động trung hạn
Đây là nguồn huy động vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ
trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm).
Vốn huy động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy
nhiên lãi suất huy động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn
huy động trung hạn rất quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các
hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi suất
cao.
1.3.1.3. Huy động dài hạn
Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường
vốn, với nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn
định cao ( từ 5 năm trở lên ). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất
cao.
1.3.2. Phân loại căn cứ theo đối tượng huy động
1.3.2.1. Huy động vốn từ dân cư
Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân
hàng huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển
đến cho những người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy
động từ dân cư thường khá ổn định .
1.3.2.2. Huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Đây là nguồn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao
trong tổng nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các
doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong ngân hàng. Các
doanh nghiệp khi bán được hàng hoá đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ra khi
cần. Chu kỳ rút tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội không giống
nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này
phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi
khách hàng sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ
các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến
các dịch vụ ngân hàng.
1.3.2.3. Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi
ở lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán... Ngoài ra việc vay lẫn
nhau giữa các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy
không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi
ngân hàng thương mại. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng
thanh toán bị đe doạ... các ngân hàng thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá
trình vay này là một thoả thuận tín dụng giữa hai bên. Quá trình tăng vốn huy
động này có thể được thực hiện ở trên thị trường nội tệ hay thị trường ngoại
tệ. Trong số những người cho ngân hàng vay có một người đặc biệt. Đó là
ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người cho vay
cuối cùng để cứu cho các ngân hàng thương mại khỏi các trục trặc xảy ra.
Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tuy cũng khá dễ
dàng nhưng số lượng thường không nhiều và chi phí huy động thường cao
hơn. Do vậy, hình thức này các ngân hàng sử dụng không nhiều.
1.3.3. Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn
Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các ngân hàng
thương mại sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng
tạo sự thuận tiện cho ngân hàng khi tiến hành huy động. Các hình thức huy
động bao gồm:
1.3.3.1. Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
a. Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát
triển có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản
tiền gửi này không phải là để lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách
hàng gửi tiền phần lớn là những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá
nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ liên tục. Người
gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để trả cho người thứ ba. Hình
thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toàn bằng séc. Đặc biệt
người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có thể rút qua
các máy rút tiền tự động ( máy ATM ). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền
gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai:
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có
toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền
gửi. Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có.
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường
được sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách
hàng còn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng
vay.
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng
nên mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí
không phải trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng
tiền mặt thấp ( trong đó có Việt Nam ) và để tăng mức động viên tiền gửi,
ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền gửi này ( có những thời điểm được trả ngang
bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ). Tỷ lệ huy động từ nguồn
này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các dịch vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng
chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng tốt các nhu cầu của
người gửi tiền.
b. Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Là các tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và
rút ra sau một thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn với các tổ chức kinh
tế có chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định,
ít có sự biến động. Phần tiền gửi này ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi
suất mà ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử
dụng các dịch vụ ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi
suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của ngân
hàng.
ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (
mà chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích ) với các thời hạn 3
tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm... ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai
trò hay việc tạo vốn cho các ngân hàng.
c. Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các ngân hàng thương
mại. Bao gồm các loại sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Hình thức này gần giống như huy động tiền gửi không kỳ hạn. Tuy
nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này ổn định hơn, ít
biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn.
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen thuộc nhất ở nước ta.
Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời hạn xác định: 3
tháng, 6 tháng... Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì sẽ bị
phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả
khách hàng với lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay,
để tăng sức cạnh tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
việc khách hàng rút ra trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách
hàng với lãi suất không kỳ hạn, có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số
ngày gửi thực tế...
- Tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài.
Loại hình này khá phổ biến ở những nước phát triển nhưng ở nước ta
còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào và chỉ được rút
ra khi đến hạn ( thời hạn tương đối dài ). Loại hình này giúp cho ngân hàng
có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư trung và dài hạn.
1.3.3.2. Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường
kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có thể
vay từ nhiều nguồn:
a. Vay từ các tổ chức tín dụng
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên
thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng thường xây
dựng các mối quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không
vay ngân hàng trung ương.
b. Vay từ ngân hàng trung ương
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc
hay mất khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể
cầu cứu là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương cho vay dưới hình
thức tái chiết khấu thương phiếu. Các ngân hàng thương mại có thể mang các
thương phiếu lên ngân hàng trung ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng
có một số khó khăn do ngân hàng trung ương chỉ cho ngân hàng thương mại
một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng của
chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung
vốn cho ngân hàng thương mại cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
định.
1.3.3.3. Huy động qua phát hành các công cụ nợ
Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các ngân hàng
thương mại. Trong qúa trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân
hàng thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy
hấp dẫn. Điều đó có nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có
nghĩa là có đầu ra mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy
động, loại tiền huy động và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo
vốn của ngân hàng thành công nhanh chóng. Để vay trên thị trường, ngân
hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của
khách hàng đối với người chủ ngân hàng với những cam kết như thanh toán
một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác
định cho trước. Trái phiếu được phát hành trong toàn bộ hệ thống ngân hàng,
chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn.
Kỳ phiếu: kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do
ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ
cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một
chương trình kinh tế...
1.3.3.4. huy động vốn qua các hình thức khác.
Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế,
các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác
về dịch vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung
gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng đồng tài trợ... Nền kinh tế càng phát
triển, các dịch vụ trên càng mang lại cho ngân hàng những nguồn huy động
lớn giúp cho ngân hàng có thể kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả.
1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
VỐN CỦA NHTM
Trong cả môi trường tự nhiên và xã hội, mỗi sự vật, hiện tượng đều có
những tác động đến sự vật, hiện tượng khác và đồng thời cũng phải chịu
những tác động ngược trở lại. Việc huy động vốn của các ngân hàng cũng
vậy. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhận thức được những yếu tố tác
động đến việc huy động vốn. Những tác động này rất phong phú, đa dạng.
Dựa vào bản chất của các tác động ta chia các yếu tố đó thành những yếu tố
khách quan và các yếu tố chủ quan.
1.4.1. Yếu tố khách quan
Đây là các yếu tố mà khi tác động đến ngân hàng sẽ không thể chống
được, đó là các rủi ro không thể tránh. Ngân hàng chỉ có thể nhận thức, dự
báo và tìm cách giảm thiểu các rủi ro khi nó xảy ra.
1.4.1.1. Pháp luật, chính sách của Nhà nước
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Do vậy tất
cả mọi hoạt động của ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Cụ thể
là Luật các tổ chức tín dụng (1997), Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính (1990), Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), các
văn bản pháp luật khác như: chỉ thị, thông tư...Lĩnh vực hoạt động của ngân
hàng là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các hoạt động của ngân
hàng luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ bằng các văn bản pháp quy. Mỗi
văn bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của Ngân hàng, cụ thể là
hoạt động huy động vốn.
Chính phủ đề ra chính sách tiền tệ quốc gia và hệ thống ngân hàng là
công cụ đắc lực để thực hiện. Chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà
nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút
tiền ngoài xã hội thì lúc đó ngân hàng thương mại huy động vốn dễ dàng hơn.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì
ngân hàng khó huy động vốn hơn vì người có tiền nhàn rỗi họ bỏ tiền vào
sản xuất có lợi hơn gửi ngân hàng
Các quy định của pháp luật đòi hỏi các ngân hàng thương mại luôn
phải tuân thủ. Pháp luật quy định số tiền huy động của ngân hàng không được
lớn hơn 20 lần vốn chủ sở hữu. Hay thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc chính phủ
điều chỉnh việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ
bắt buộc hay lãi suất tái chiết khấu là tuỳ theo định hướng phát triển của từng
thời kỳ. Các chính sách đầu tư, ưu đãi, ưu tiên phát triển mũi nhọn... cũng ảnh
hưởng sâu sắc tới việc huy động vốn của ngân hàng thương mại. Nói chung
bất cứ ngân hàng thương mại nào khi cần huy động vốn đều phải xem xét các
quy định của luật pháp.
1.4.1.2. Tình hình chính trị – kinh tế – xã hội trong và ngoài nước
Có thể nói đây là yếu tố khách quan đối với tất cả các ngành nghề kinh
tế, không riêng gì ngân hàng. Sự ổn định chính trị cả trong và ngoài nước có
tác động rất rõ. Các cuộc bãi công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo theo
tình trạng huy động vốn của ngân hàng bị trì trệ bởi người dân không còn tin
tưởng. Ngược lại, sự đồng tâm, nhất trí, ổn định trong bộ máy lãnh đạo sẽ
làm cho các ngân hàng thương mại huy động vốn được dễ dàng. Như
Achentina năm 2002, sau khi có những vấn đề về chính trị, người dân kéo
đến ngân hàng rút tiền ồ ạt làm cho cả hệ thống ngân hàng chao đảo. Và cuộc
chiến Irac gần đây cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong đó có sự
khó khăn về huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Nền kinh tế ở vào trạng thái tăng trưởng hay suy thoái đã tác động tới
việc huy động vốn của ngân hàng. ở tình trạng tăng trưởng, người dân cần
nhiều vốn để đầu tư mở rộng quy mô, trang thiết bị. Các ngân hàng phải huy
động nhiều vốn và càng có điều kiện để huy động do tích luỹ được nhiều hơn.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Ngược lại ở tình trạng suy thoái, sản xuất đình trệ, đầu tư bị thu hẹp, ngân
hàng huy động vốn khó khăn.
1.4.1.3. Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối
với việc huy động vốn của ngân hàng. Rõ ràng ở những vùng, người dân
thường có thói quen gửi tiền vào ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được
dễ dàng hơn nhiều ở những vùng người dân thường hay cất trữ tiền trong nhà
bằng vàng, bất động sản... Đồng thời ngay thói quen thanh toán khi mua hàng
hoá cũng góp phần làm tăng hay giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng. ở
nhiều nước phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt là phổ biến, hầu
như người dân nào cũng có tài khoản trong ngân hàng và ngân hàng là cái gì
đó không thể thiêú trong cuộc sống. Ngược lại, ở một số nước, thói quen
thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn sâu thì nguồn vốn huy động của ngân
hàng sẽ gặp khó khăn. Các tập quán tiêu dùng này khó có thể được thay đổi
ngay một sớm một chiều. Do đó để mở rộng nguồn huy động, các ngân hàng
phải nỗ lực hết mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính sách khách
hàng...
Một trong những đặc tính của cộng đồng dân cư đó là tính lan truyền
nhanh chóng. Cuộc đổi tiền năm 1985 – 1986 với tốc độ lạm phát chóng mặt
600-700 % đã khiến người gửi tiền kéo ồ ạt đến ngân hàng để rút. Điều này
đã kéo theo sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân và làm cả hệ
thống ngân hàng lao đao. Đồng thời gần đây các vụ bê bối, tham nhũng liên
quan đến các ngân hàng như dệt Nam Định, vụ Tamexco, Minh Phụng-
Epco...đã làm suy giảm uy tín của các ngân hàng trong con mắt của người gửi
tiền. Nó không tạo cho người gửi tiền cảm giác an toàn và nó đã làm hạn chế
khả năng hoạt động của các ngân hàng.
Một trong những lý do nữa là người dân chưa hiểu biết nhiều về các
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
hoạt động của ngân hàng, các tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp. Điều
này đòi hỏi các ngân hàng phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng, quảng cáo,
quảng bá về các hoạt động của mình, các lợi ích của người gửi tiền cũng như
các thủ tục cần thiết.
1.4.2. Yếu tố chủ quan
1.4.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh có thể nói là đường lối, phương hướng hoạt
động cho một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có một chiến lược kinh doanh khác
nhau. Điều này phụ thuộc vào từng điểm mạnh, điểm yếu, khả năng cũng như
hạn chế của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh xác định quy mô huy động có
thể mở rộng hay thu hẹp, cơ cấu vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các loại nguồn,
chi phí hoạt động có thể tăng hay giảm .
Chiến lược kinh doanh có liên quan đến huy động vốn bao gồm: Chính
sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và phí dịch vụ. Đây là các yếu
tố quan trọng. Với việc lãi suất huy động tăng thì sẽ dẫn đến nguồn vốn vào
ngân hàng tăng, rất lớn. Nhưng đồng thời thì hiệu quả của việc huy động vốn
có thể giảm do chi phí huy động tăng. Do đó số lượng nguồn vốn huy động
được sẽ phụ thuộc chủ yếu vào chiến lược kinh doanh hay đúng hơn là phụ
thuộc vào chính bản thân ngân hàng.
1.4.2.2. Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
Không chỉ riêng ngân hàng mà trong bất cứ hoạt động nào, ngành nghề
nào, yếu tố con người cũng phải được đặt lên hàng đầu. Các cán bộ nhân viên
ngân hàng có năng lực sẽ phán đoán, xử lý chính xác các tình huống sẽ làm
cho các hoạt động huy động vốn được thực hiện một cách tốt đẹp. Trình độ
của cán bộ ngân hàng cao sẽ làm cho các thao tác nghiệp vụ được thực hiện
nhanh chóng và hiệu quả. Thái độ trong tiếp xúc của nhân viên với khách
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
hàng cũng rất quan trọng. Nó có thể lôi kéo khách hàng làm tăng nguồn vốn
huy động đồng thời cũng có thể làm khách hàng rơì bỏ gây ra những hậu quả
vô cùng nghiêm trọng trong hoạt động của ngân hàng, trước hết là trong khâu
huy động vốn. Các nhân viên ngân hàng là những người mang hình ảnh cho
cả ngân hàng. Do đó, để tăng cường huy động vốn thì một điều cực kỳ quan
trọng là các nhân viên ngân hàng phải có đủ những tiêu chí của một nhân
viên ngân hàng chuyên nghiệp: Hiểu biết khách hàng, Hiểu biết nghiệp vụ,
Hiểu biết quy trình, Hoàn thiện phong cách phục vụ.
1.4.2.3. Uy tín của ngân hàng
Đó là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, là niềm tin của
khách hàng đối với ngân hàng. Uy tín của mỗi ngân hàng được xây dựng,
hình thành trong cả một quá trình lâu dài. Người gửi tiền khi gửi thường lựa
chọn những ngân hàng lâu đời chứ không phải là những ngân hàng mới thành
lập. Ngân hàng lớn thường được ưu tiên lựa chọn so với các ngân hàng nhỏ.
Hình thức bảo hiểm tiền gửi làm tăng độ an toàn, tăng uy tín của ngân hàng.
Một điều quan trọng ở nước ta là hình thức sở hữu cũng có ảnh hưởng quan
trọng tới huy động vốn. Các ngân hàng quốc doanh bao giờ cũng có độ an
toàn cao hơn cho người gửi tiền, uy tín của các ngân hàng thương mại quốc
doanh cao hơn so với các ngân hàng khác. Những ngân hàng có uy tín luôn
chiếm được lòng tin của khách hàng là tiền đề cho việc họ huy động được
những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian.
1.4.2.4. Trình độ công nghệ ngân hàng
Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại khác xa so với trước đây.
Việc áp dụng máy tính là một cuộc cách mạng trong hoạt động của ngân
hàng. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, ngân hàng có thể thu thập thông tin
về khách hàng, về thị trường tốt. Từ đó, có thể hoạch định ra các hình thức
huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi... Mặt khác, nhờ hệ thống
thông tin tốt khiến cho ngân hàng có thể nâng cao hiệu quả huy động vốn.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ
biến, đó là một xu thế tất yếu. Việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khiến
cho các ngân hàng ngày càng gắn liền với các hoạt động xã hội. Ngoài ra
mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn cũng tác động tới việc huy động
vốn của ngân hàng. Mạng lưới huy động rộng rãi, tạo điều kiện cho người gửi
tiền. Mạng lưới hẹp thì sẽ gây khó khăn cho khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi
vào ngân hàng, chi phí giao dịch lớn, mất nhiều thời gian.
Nhìn chung có rất nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động
vốn của ngân hàng. Các yếu tố này tác động đến mọi hoạt động, ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng khi hoạt động đều cần
phải tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu. Những yếu tố tác động này có tính hai
mặt: có thể có tác động tích cực đồng thời có thể tác động tiêu cực tới ngân
hàng. Ngân hàng nào xác định đúng, chính xác các yếu tố tác động sẽ huy
động được vốn lớn với chi phí rẻ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
2.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của Ngân hàng
Công thương Việt Nam, có trụ sở tại số 37 Hàng Bồ quận Hoàn Kiếm - Hà
Nội. Đây là khu vực nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế -
Văn hoá - Chính trị của thủ đô, là mơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp nhất
thành phố. Mặt khác, đây còn là nơi tập trung của rất nhiều vằn phòng đại
diện của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trước đây Ngân hàng là
một chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước với nhiệm vụ chính là bảo đảm nhu
cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và tập thể trên địa bàn quận.
Nhưng do nhu cầu đổi mới kinh tế cùng với sự chuyển đổi chung của hệ
thống Ngân hàng Việt Nam (năm 1988) từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang
hệ thống Ngân hàng hai cấp, chi nhánh Ngân hàng quận Hoàn Kiếm cũng
được thay đổi cả về chức năng và nhiệm vụ và trở thành Ngân hàng Công
thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của NHCT Việt Nam với chức năng
hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Và
từ đó đến nay Ngân hàng đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh trên cơ sở
tự hạch toán kinh doanh.
Trải qua quá trình 15 năm hoạt động cho đến nay Ngân hàng đã hoàn
toàn hoà nhập được với hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng trong cơ
chế thị trường. Không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không
ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao. Hiện nay ngân hàng
có cơ cấu, tổ chức như sau:
NHCT Hoàn Kiếm có 227 cán bộ trên tổng số hơn 1,2 vạn cán bộ của
toàn bộ hệ thống NHCT. Trong đó có 40,8% có trình độ đại học và trên đại
học, còn lại đều đã được đào tạo qua hệ cao đẳng, trung học chuyên ngành
ngân hàng. NHCT Hoàn Kiếm có 9 phòng, hoạt động theo chức năng riêng
đã được phân công theo sự chỉ đạo điều hành của Ban giám đốc gồm:
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Giám đốc: Nguyễn Hữu Thuỷ: phụ trách về lao động – tiền lương,
phòng kinh doanh đối ngoại, phòng kiểm tra nội bộ .
Phó giám đốc: Phạm Thị Mai: phụ trách phòng kinh doanh kiêm chủ
tịch công đoàn của chi nhánh.
Phó giám đốc: Lê Tuyết Mai: phụ trách phòng kế toán – tài chính,
phòng giao dịch Đồng Xuân, phòng vi tính.
Phó giám đốc: Nguyễn Thị Huy: phụ trách phòng Nguồn vốn, phòng
ngân quỹ, phòng tổ chức – hành chính.
Phòng kinh doanh: Đây là phòng kinh doanh tổng hợp, thực hiện các
nghiệp vụ cho vay đối với các khách hàng là các tổ chức và cá nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế, dưới hình thức là các khoản vay ngắn, trung và dài
hạn, cho vay uỷ thác, cho vay theo dự án. Đồng thời cũng thực hiện chức
năng giám sát và quản lý việc sử dụng vốn.
Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện 2 chức năng chính là thanh
toán quốc tế (thanh toán xuất nhập khẩu bằng các phương thức mở tài khoản,
nhờ thu và L/C) và kinh doanh ngoại tệ (thanh toán, chuyển tiền cho các
khách hàng, chủ yếu là mua bán ngoại tệ để phục vụ cho các doanh nghiệp
XNK), hạch toán kế toán các nghiệp vụ ngoại tệ, làm đầu mối thanh toán séc
du lịch, thẻ tín dụng quốc tế, thu chi tiền mặt ngoại tệ cho các đơn vị, thực
hiên việc giải ngân cho một số dự án do NHCTVN chỉ định.
Phòng giao dịch Đồng Xuân: do trên địa bàn quận Hoàn Kiếm có khu
chợ Đồng Xuân nên NHCTHK đã tổ chức ra một phòng riêng để phục vụ cho
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Phòng này hoạt động như một chi
nhánh ngân hàng, tự hạch toán thu chi độc lập và có lãi. Hiện nay phòng giao
dịch Đồng Xuân đang có kế hoạch mở rộng thành một chi nhánh NHCT gần
tương tụ như chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
Phòng nguồn vốn: cân đối tổng hợp: làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch
cân đối và tổng hợp về nguồn vốn và sử dụng vốn; huy động mọi nguồn vốn
tiết kiệm từ các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phân kinh tế; thực hiện
chế độ thông tin, lập kế hoạch tài chính, tổng hợp, phân tích, báo cáo về mọi
tình hình hoạt động kinh doanh của NHCTHK theo yêu cầu của Giám đốc
NHCT Việt Nam. Hiện nay chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có tất cả 11 quỹ tiết
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
kiệm. Mỗi quỹ tiết kiệm đều có 1 bộ máy gồm: Trưởng quỹ, thủ quỹ và kế
toán.
Phòng kế toán-tài chính: thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ
thanh toán bằng VND, lên cân đối tổng hợp. Phòng có 5 tổ công tác chịu
trách nhiệm về các chức năng riêng biệt: Tổ kế toán nội bộ, Tổ thanh toán
viên, Tổ thanh toán liên ngân hàng, Tổ thanh toán bù trừ và Tổ tiết kiệm.
Phòng ngân quỹ: quản lý tồn quỹ, thực hiện thu chi theo lệnh về tiền
mặt VND và ngoại tệ, bảo quản và phân phối các chứng từ có giá.
Phòng kiểm tra nội bộ: thực hiện kiểm soát nội bộ là nhiệm trọng tâm
của phòng, ngoài ra còn thanh tra các vụ việc có liên quan, các thao tác
nghiệp vụ nhằm ngăn chặn các rủi ro xảy ra từ chính các cán bộ ngân hàng.
Phòng vi tính: quản lý và xử lý các dữ liệu kế toán, kết nối mạng nội bộ,
ngoài ra còn thực hiện việc bảo dưỡng, lắp đặt các máy tính phục vụ cho việc
tổng hợp, cân đối, sao kê cho mạng máy tính phòng kế toán.
Phòng tổ chức-hành chính: thực hiện các công việc về hành chính quản
trị như các doanh nghiệp khác, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động kinh
doanh của các phòng ban; quản lý, sắp xếp và điều chuyển nhân sự, bảo đảm
tiền lương cho cán bộ nhân viên, tham mưu cho lãnh đạo về xét tuyển và đề
bạt cán bộ.
Các phòng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau để
thực hiện tốt các hoạt động của ngân hàng. Cơ cấu tổ chức của các phòng ban
ngày càng được cải tiến để ngày càng phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ của một
ngân hàng đa năng, hiện đại và ngày càng có nhiều sản phẩm mới, đáp ứng
được các nhu cầu của khách hàng trong cơ chế thị trường.
2.2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG HOÀN KIẾM
Tất cả các Ngân hàng thương mại để đi vào hoạt động phải cần huy
động vốn. Hoạt động huy động vốn (nghiệp vụ tài sản nợ) trong mỗi Ngân
hàng không nằm riêng lẻ mà cùng với các nghiệp vụ tài sản có và các dịch vụ
khác hình thành nên định hướng hoạt động chung của Ngân hàng. Huy động
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
vốn là cơ sở, tạo cho Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh để thu được lợi
nhuận.
Nhận thức được vấn đề đó, NHCT Hoàn Kiếm đã coi việc huy dộng
vốn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Toàn thể cán bộ công nhân viên của
Ngân hàng đã có những cố gắng vượt bậc để thực hiện mục tiêu trên. Trong
những năm qua, nguồn vốn mà NHCT Hoàn Kiếm huy động được luôn ổn
định năm sau cao hơn năm trước. Nguồn vốn huy động được dồi dào không
những đáp ứng được nhu cầu ở chi nhánh mà còn đựơc điều chuyển về hội sở
chính, góp phần điều hoà vốn chung trong toàn hệ thống. Đội ngũ nhân viên
ngân hàng với trình độ chuyên môn cao, phương pháp làm việc hiện đại, khoa
học...đã góp phần làm giảm chi phí huy động. So với các chi nhánh khác, chi
phí huy động của Ngân hàng gần như là thấp nhất. Đồng thời huy động được
vốn nhiều nhưng nguồn vốn huy động của chi nhánh vẫn được đánh giá là có
độ an toàn cao. Đây là kết quả của việc đa dạng hoá các hình thức huy động,
linh hoạt về lãi suất, hình thức trả lãi, nâng cao chất lượng các dịch vụ Ngân
hàng. Ngân hàng luôn tích cực tìm kiếm nguồn vốn có chất lượng để phục vụ
cho mục đích kinh doanh của mình.
2.2.1.Tình hình huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm
Trong những năm qua hoạt động huy động vốn của NHCT Hoàn kiếm
đã đạt được những thành tích xuất sắc. Nguồn vốn của ngân hàng luôn dồi
dào, năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra. Ta có thể thấy qua
bảng sau:
Bảng2.1.KHỐI LƯỢNG VỐN HUY ĐỘNG THEO KẾ HOẠCH(đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Nguồn vốn huy động theo kế hoạch 1.753.712 2.803.075 4.500.000
Nguồn vốn thực tế huy động được 2.335.896 4.297.992 5.060.689
Mức chênh lệch tuyệt đối + 582.184 +1.494.917 + 560.689
Mức chênh lệch tương đối 33,19% 51,86% 12,45%
Nguồn số liệu: phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Năm 2000. Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động vốn tăng 15% so với
năm 1999 (1.753.712 triệu đồng). Nhưng trên thực tế chi nhánh đã huy động
được 2.335.896 triệu đồng vượt 33,19% kế hoạch đặt ra. Trong năm Ngân
hàng đã bước đầu áp dụng phương thức giao dịch tức thời trên máy vi tính tại
một số quỹ, đội ngũ nhân viên với phong cách phục vụ văn minh, lịch sự,
đúng quy trình, tận tình, chu đáo đã chiếm được lòng tin của số lượng khách
hàng ngày càng tăng. Đây là cơ sở giúp cho Ngân hàng có số dư tiền gửi tăng
mặc dù lãi suất huy động của Ngân hàng thường thấp hơn các Ngân hàng
khác trên cùng địa bàn. Năm 2001 Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động vốn
tăng 20% so với năm 2000 tức khoảng 2.803.075 triệu đồng. Trong năm
Ngân hàng đã huy động được 4.297.992 triệu đồng, vượt 51,86% kế hoạch
đặt ra. Năm 2002 Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động tổng nguồn vốn là
4.500.000 triệu đồng. Trong năm Ngân hàng đã huy động được 5.060.689
triệu đồng, vượt 12,45% kế hoạch đặt ra.
Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng năm nào
cũng cao hơn so với kế hoạch đặt ra. Năm 2001 nguồn vốn huy động của
Ngân hàng tăng vọt so với năm 2000 và năm 2002 tăng chậm hơn. Gọi là
tăng chậm, song so với các chi nhánh khác hay các đơn vị khác trên địa bàn,
tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của NHCT Hoàn Kiếm là quá lý tưởng. Tổng
nguồn vốn huy động của Ngân hàng thường cao hơn hẳn các đơn vị khác trên
điạ bàn quận. Sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn đã khẳng định uy tín và vị thế
của Ngân hàng trên thương trường. Ta có thể thấy rõ sự tăng trưởng qua bảng
sau:
Bảng 2.2. KHỐI LƯỢNG VỐN HUY ĐỘNG(đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Tổng vốn huy động 1.524.967 2.335.896 4.297.992 5.060.689
Lượng vốn huy động gia
tăng sau mỗi năm
+810.929 +1.962.096 +762.697
Tỷ lệ gia tăng năm sau so
với năm trước
53,17% 83,99% 17.74%
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Nguồn số liệu: Phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm
Khối lượng vốn huy động của NHCT Hoàn Kiếm có thể nói là ở mức
đáng kinh ngạc. Chỉ sau 2 năm nguồn vốn huy động đã tăng gấp đôi. Năm
2000, khối lượng vốn huy động của Ngân hàng tăng 53,17% so với năm
1999. Đặc biệt năm 2001, tỷ lệ trên là 83,99%. Đến năm 2002, khối lượng
vốn huy động chỉ tăng 17,74%. Ta có thể thấy rõ một điều là nguồn vốn năm
nào cũng tăng, song không ổn định. Chỉ tính riêng năm 2001, nguồn vốn huy
động đã tăng gần gấp đôi so với năm 2000.
Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, chi nhánh có đủ khả năng đáp ứng
mọi nhu cầu về vốn của khách hàng, đồng thời chuyển vốn về NHCT Việt
Nam, góp phần điều hoà toàn hệ thống và tham gia thị trường vốn. Có thể nói
trong lúc việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn, sự cạnh tranh lãi suất
quyết liệt, lãi suất huy động liên tục tăng trong khi lãi suất cho vay không thể
tăng cùng tốc độ, thì đây là kết quả rất đáng khích lệ. Có được kết quả trên là
vì ngay từ khi nguồn vốn còn dồi dào, Ngân hàng đã xác định nhu cầu vốn
đầu tư cho nền kinh tế là rất lớn, vốn không bao giờ thừa cho một nền kinh tế
đang phát triển như Việt Nam, nên đã xác định một chiến lược tăng trưởng
vốn lâu dài.
2.2.1.1. Về nguồn huy động vốn
Một trong những thế mạnh của NHCT Hoàn Kiếm, đó là nguồn huy
động vốn rất đa dạng. Hiện nay NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn chủ yếu
bằng các nguồn như :
-Tiền gửi của các tổ chức kinh tế (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn)
-Tiền gửi của đân cư ( tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn)
-Phát hành các công cụ nợ
- Nguồn đi vay
- Các nguồn huy động khác
Một trong những điều đặc biệt ở NHCT Hoàn Kiếm, đó là trong cơ cấu
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
tiền gửi thì tiền gửi của tổ chức kinh tế có tỷ trọng khá lớn. Nó thể hiện vai
trò, vị thế của chi nhánh Hoàn Kiếm so với các đơn vị khác trên địa bàn.
Khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của chi nhánh Hoàn
Kiếm là rất lớn. Từ lâu chi nhánh đã thấy được tầm quan trọng của lượng
khách hàng này và đã có những giải pháp hữu hiệu để thu hút. Nhưng như thế
không có nghĩa là tiền gửi của dân cư không quan trọng. Bên cạnh đó là
nguồn phát hành các công cụ nợ, tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác... Cơ
cấu trong huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm khá đa dạng và phong phú,
thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.3. CƠ CẤU NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG (đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Chỉ tiêu
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng(
%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Tiền gửi của các tổ
chức kinh tế
371.847 15,94 1.065.158 24,78 1.456.202 28,77
Tiền gửi của dân
cư
530.686 22,71 602.946 14,04 625.620 12,38
Phát hành các
công cụ nợ
3 17.399 0,4 102.468 2,02
Nguồn đi vay 1.280.171 54,8 2.500.030 58,16 30
Nguồn vốn khác 153.189 6,55 112.459 2,62 2.876.368 56,83
Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Ta thấy qua các năm tiền gửi của tổ chức kinh tế có xu hướng tăng dần
và tăng khá nhanh vào các năm 2001 và năm 2001. Năm 2000, tiền gửi của
các tổ chức kinh tế chỉ chiếm 15,94% tổng nguồn vốn nhưng đến năm 2001
chiếm đến 24,78% . Đây là cố gắng rất lớn của chi nhánh. Bước vào năm
2001, năm đầu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005), nhận thức được những thời
cơ và thách thức khi mở cửa, hội nhập kinh tế với nước ngoài. Ngân hàng đã
cùng doanh nghiệp suy nghĩ, tháo gỡ những khó khăn, đưa ra các loại hình
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
dịch vụ mới, đáp ứng một cách tốt nhất cho doanh nghiệp về thanh toán, bảo
lãnh... Chính vì vậy trong con mắt của các tổ chức kinh tế, Ngân hàng là một
người bạn đáng tin cậy, có thể chia sẻ, giúp đỡ doanh nghiệp trong kinh
doanh. Không thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình, Ngân hàng
luôn chủ động tìm kiếm các khách hàng mới. Có rất nhiều các khách hàng lớn
như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện Lực Việt Nam, Công
ty Đầu tư Phát triển nhà Hà Nội, Công ty Phát triển hạ tầng... với số dư tiền
gửi ở Ngân hàng lên tới hàng trăm tỷ đồng. Ngoài ra phần lớn khách hàng là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ cá thể.
Tiền gửi của khu vực dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi
không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi của dân cư qua các năm vẫn tăng song có xu
hướng giảm dần về tỷ trọng. Nếu như năm 2000, số dư tiền gửi là 530 tỷ và
chiếm tỷ trong là 22,71% thì các con số tương ứng trong năm 2001 là 602 tỷ
và 14,04%. Như vậy về số tuyệt đối là tăng gần 1/5 so với năm trước song về
tỷ trọng lại giảm gần một nửa. Đây là do năm 2001, chi nhánh ngoài huy
động vốn từ dân cư đã đẩy mạnh thu hút từ nhiều nguồn khác và đạt được
nhiều thắnh lợi. Tiếp đà năm 2001, đến năm 2002. nguồn vốn huy động vẫn
tăng song tỷ trọng lại giảm. Điều này cho thấy đi đôi với việc tăng tổng
nguồn vốn thì cần phải rất chú trọng và cải thiện việc huy động tiền gửi từ
dân cư.
Về phát hành các công cụ nợ. Thực ra việc phát hành này cũng là huy
động từ khu vực dân cư. Ngân hàng phát hành các kỳ phiếu, trái phiếu theo
định hướng chung của NHCT Việt Nam. Đây là khu vực mà có tốc độ tăng
ngoạn mục nhất. Năm 2000, việc phát hành các công cụ nợ của Ngân hàng
chỉ thu được vỏn vẹn 3 triệu đồng. Một con số quá khiêm tốn. Đến năm 2001
đã nhảy vọt lên 17 tỷ và năm 2002 là hơn một trăm tỷ.
Ngoài ra nguồn vốn đi vay của chi nhánh cũng rất lớn, vào các năm
2000 và 2001 chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn. Song đến năm 2002 nguồn
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
vay này chỉ chiếm không đáng kể trong tổng nguồn vố. Đây là do trong năm,
Ngân hàng có nhiều hợp đồng tín dụng và nguồn vốn từ các đơn vị khác
trong hệ thống do không có đầu ra nên được điều chuyển về.
Nguồn vốn khác của Ngân hàng cũng rất lớn , trong năm 2000 và năm
2001 chỉ chiếm vài % nhưng đến năm 2002 chiếm tới hơn 50% tổng nguồn
vốn. Ngân hàng cho vay được nhiều, đầu tư có hiệu quả nên các ngân hàng
khác, chi nhánh khác có nguồn vốn nhiều không cho vay được đã uỷ thác cho
Ngân hàng sử sụng. Nguồn vốn uỷ thác này rất lớn thể hiện được uy tín và vị
thế của chi nhánh trên thương trường.
2.2.1.2. Về kỳ hạn huy động vốn
Xét về mặt thời gian Ngân hàng huy động vốn theo hai loại : không kỳ
hạn và có kỳ hạn. Hình thức có kỳ hạn của Ngân hàng rất đa dạng, đáp ứng
được mọi nhu cầu của người gửi. Năm 2002, chi nhánh mở thêm thời hạn huy
động mới là 2 tháng và hiện nay Ngân hàng đang huy động với các thời hạn
sau: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng và trên 12 tháng.
Thời hạn đa dạng đã đáp ứng mọi mục đích của người gửi tiền: gửi với mục
đích sinh lợi, gửi với mục đích thanh toán, gửi với mục đích an toàn... Ngân
hàng tạo mọi thuận lợi cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng nhận được sự tán
thưởng, đánh giá cao của khách hàng thể hiện qua kết quả huy động:
Bảng 2.4. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG THEO KỲ HẠN (đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Chỉ tiêu
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Vốn không
kỳhạn
166.108 7,12 353.416 8,22 464.485 9,18
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Vốn ngắn
hạn
1.785.224 76,42 3.566.086 82,97 3.889.729 76,86
Vốn trung
và dài hạn
384.564 16,46 378.490 8,81 706.475 13,96
Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồng vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Nguồn huy động không kỳ hạn của Ngân hàng qua các năm đều tăng.
Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn ngày càng được tăng cường một cách khá đều
đặn. Trong cơ cấu của nguồn tiền gửi không kỳ hạn này thì chủ yếu là tiền
gửi của các tổ chức kinh tế, chiếm khoảng 95%. Nguồn tiền gửi của khu vực
dân cư rất ít. Nó phản ánh đặc điểm của nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn
tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu được các tổ chức kinh tế sử dụng với mục đích
phục vụ cho việc thanh toán. Còn đối với dân cư, mục đích chủ yếu là để lấy
lãi, nên họ gửi vào các khoản mục có kỳ hạn.
Trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng tính theo thời gian, thì
nguồn vốn ngắn hạn luôn rất lớn, chiếm khoảng 75 - 80% tổng nguốn vốn.
Nguồn vốn ngắn hạn này huy động từ dân cư, doanh nghiệp và được các ngân
hàng khác điều chuyển đến. Ngày nay các doanh nghiệp cũng có xu hướng
gửi tiền vào các khoản mục ngắn hạn: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng... thay vào
chỉ gửi vào tiền gửi không kỳ hạn như trước kia. Các doanh nghiệp đã tính
toán kỹ lưỡng chu kỳ kinh doanh của mình, từ đó tìm ra giải pháp tối ưu để
tối đa hoá lợi nhuận.
Khoản tiền huy động từ nguồn trung và dài hạn là quan trọng đối với
bất cứ Ngân hàng nào. Đây là nguồn chủ yếu để Ngân hàng tiến hành cho
vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn rất cao, từ đó Ngân
hàng kiếm dược nhiều lợi nhuận. Lấy nguồn huy động trung và dài hạn để
cho vay trung và dài hạn là một cách để giảm bớt rủi ro thanh khoản và rủi ro
lãi suất. Nguồn vốn trung và dài hạn của Ngân hàng không nhiều, chiếm một
tỷ trọng nhỏ. Năm 2001 nguồn này còn bị giảm sút so với năm 2000 và có
tăng trong năm 2002. Tuy nhiên so với các khoản cho vay trung và dài hạn
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thì không tương xứng. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của chi nhánh ngày
càng tăng và đến năm 2002 đạt mức cao hơn so với cho vay ngắn hạn. Ngân
hàng đã áp dụng việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Đây là một con dao hai lưỡi
và Ngân hàng phải hết sức quan tâm tới an toàn tín dụng.
2.2.1.3. Về chi phí huy động vốn
Trên con đường hội nhập và phát triển, nguồn vốn cần cho đầu tư, phát
triển kinh tế là luôn cần thiết. Trong khi các đơn vị khác, việc huy động vốn
gặp khó khăn và để tăng sức cạnh tranh, họ luôn tăng lãi suất huy động.
NHCT Hoàn Kiếm với lãi suất huy động không cao hơn, song lại huy động
được một nguồn vốn lớn, đã chứng tỏ được uy tín của mình đối với khách
hàng, tạo vị thế phát triển vững chắc.
Chi phí huy động bao gồm ngoài phần lãi phải trả còn có những khoản
khác như: lương nhân viên, trang bị máy đếm tiền, máy soi tiền, tiền thuê trụ
sở, các chi phí hành chính khác... Trong đó phần lãi phải trả là bộ phận chủ
yếu của chi phí huy động. NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn theo khung lãi
suất do Tổng giám đốc NHCT Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Khác
với các Ngân hàng cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, lãi suất luôn
được điều chỉnh theo kiểu phá giá. Lãi suất huy động của chi nhánh không
cao hơn song vẫn thu hút được đông đảo khách hàng. Chi nhánh luôn nghiên
cứu tìm ra các biện pháp để giảm các chi phí khác trong chi phí huy động.
Mục tiêu đặt ra là phải làm sao để tốc độ tăng của lợi nhuận phải lớn hơn tốc
độ tăng cuả chi phí. Và Ngân hàng đã thực hiện một cách xuất sắc mục tiêu
trên. Kết quả là, năm 2000 lợi nhuận hạch toán là 23 tỷ đồng và đến năm
2002 là 42,2 tỷ đồng. Ngân hàng xác định thế mạnh trong cạnh tranh sẽ là ở
khâu dịch vụ. Từ đó Ngân hàng nâng cao chất lượng các dịch vụ, hấp dẫn, lôi
cuốn đuợc nhiều khách hàng mới đồng thời luôn quan tâm, giữ chân các
khách hàng truyền thống.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
2.2.2. Các hình thức huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm
2.2.2.1. Huy động vốn từ các quỹ
NHCT Hoàn Kiếm là một trong số 115 chi nhánh trên toàn quốc của
NHCT Việt Nam. Là một Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước, NHCT Việt
Nam có vốn pháp định do Nhà Nước cấp. ở cấp chi nhánh song hàng năm
NHCT Hoàn Kiếm vẫn có những khoản vốn huy động được từ chính các quỹ
tại đơn vị. Ngân hàng trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như: quỹ dự trữ
bổ xung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ
khen thưởng... Nguồn huy động từ các quỹ này có ý nghĩa rất lớn. Đây là
nguồn của chính đơn vị, đơn vị sử dụng nên không phải trả lãi như các nguồn
huy động khác. Hơn nữa nguồn này còn thể hiện tình hình hoạt động kinh
doanh hiệu quả của đơn vị. Tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, nguồn vốn huy
động từ các quỹ trong các năm qua như sau:
Bảng 2.5. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TỪ CÁC QUỸ (đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Nguồn vốn huy động từ các quỹ 129 275 417
Lượng vốn gia tăng giữa các năm +146 +142
Tỷ lệ gia tăng giữa các năm (%) 113,17 49,81
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
So sánh với tổng nguồn vốn huy động, vốn huy động từ các quỹ tại chi
nhánh chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuy nhiên nguồn vốn này đang ngày càng
gia tăng với tốc độ khá nhanh. Năm 2002, nguồn vốn huy động từ cac quỹ
tăng hơn gấp đôi năm 2000 (khoảng 113,17%) . Năm 2002, vốn huy động từ
các quỹ lại tăng gấp rưỡi so với năm 2001. ở đây ta chưa xét đến khía cạnh
tuyệt đối mà chỉ nói đến khía cạnh tương đối. Nó chứng tỏ một điều rằng
NHCT Hoàn Kiếm đang kinh doanh rất có lãi. Bởi nguồn của các quỹ này là
từ lợi nhuận sau thuế, Ngân hàng dùng khoản này để kinh doanh vừa kinh tế
lại vừa an toàn cho chính Ngân hàng. Hơn nữa ta thấy tốc độ gia tăng của các
quỹ khác này rất đáng kể. Điều này chứng tỏ ngoài việc cố gắng hết sức việc
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
huy động vốn từ bên ngoài, Ngân hàng cũng hết sức chú ý việc phát huy nội
lực của chính mình. Đây là một điều đúng với tất cả các doanh nghiệp. Đặc
biệt với Ngân hàng, việc kinh doanh gặp nhiều rủi ro không lường trước được
thì lại càng quan trọng.
2.2.2.2. Huy động vốn từ các khoản tiền gửi
a. Tiền gửi thanh toán
Đứng ở cấp độ một chi nhánh, có thể nói NHCT Hoàn Kiếm là một
chi nhánh đứng hàng đầu trong việc quan hệ với các khách hàng lớn. Đây
không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của một chiến lược huy động vốn lâu
dài, trong đó rất coi trọng đến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Các khách
hàng lớn là những tổng công ty, các tổ chức kinh tế có tình hình tài chính
lành mạnh, quy mô làm ăn lớn. Có thể kể ra như: Tổng công ty Than Việt
Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, các tổng công ty 90, 91, công ty đầu
tư và phát triển Nhà Hà Nội, Điện lực Hà Nội... Ngoài ra số lượng khách
hàng là các công ty vừa và nhỏ rất nhiều: Công ty thương mại và dịch vụ
Thái Dương, HTX bốc xếp Đồng Xuân, Công ty Quyết Thắng CCB, Công ty
TNHH Liên Thao... Đây là những tổ chức kinh tế đóng góp phần lớn nguồn
tiền gửi không kỳ hạn cho Ngân hàng. Ta xem bảng sau:
Bảng 2.6. NGUỒN TIỀN GỬI THANH TOÁN THEO ĐỐI TƯỢNG
(đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Chỉ tiêu
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Tiền gửi thanh
toán của các tổ
chức kinh tế
158.391 95,36 344.273 97,42 455.168 98
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Tiền gửi thanh
toán của dân cư
7.717 4,64 9.143 2,58 9.317 2
Cộng 166.108 100 353.416 100 464.485 100
Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Qua bảng ta có thể thấy được nguồn tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng
hầu như là của các tổ chức kinh tế. Điều này là phù hợp với đặc điểm của
nguônd. Các tổ chức kinh tế trong quá trình kinh doanh của mình, nguồn tiền
đến và đi rất bất chợt, khó đoán trước. Các tổ chức kinh tế thay vì giữu tiền
tại cơ quan, họ mang đến gửi Ngân hàng. Tại đây họ thực hiện các dịch vụ
thanh toán của Ngân hàng, tiết kiệm thời gian cho mình. Đồng thời họ vẫn
được hưởng một khoản lãi nhỏ (hiện nay Ngân Hàng quy định lãi suất không
kỳ hạn đối vơí VND là 0,2%/tháng). Điều này giải thích vì sao nguồn tiền gửi
thanh toán chủ yếu là của các tổ chức kinh tế. Tiền gửi thanh toán của dân cư
chủ yếu là của một số ít hộ dân buôn bán cá thể (các hộ buôn bán ở chợ Đồng
Xuân, một số cửa hàng vàng, bạc trên địa bàn quận). Các hộ này cũng có nhu
cầu như các tổ chức kinh tế song qua ccác năm, số này nhỏ dần trong tỷ
trọng. Năm 2000 chiếm 4,64% nhưng đến năm 2002 chỉ còn 2%. Trong khi
đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế ngày càng tăng, đến năm 2002, chiếm
98% tổng tiền gửi thanh toán. Đây có lẽ là xu hướng chung cho một nền kinh
tế mở cửa, khi mà quá trình lưu thông hàng hoá giữa các vùng, giữa các nước
ngày càng được mở rộng, thúc đẩy mạnh mẽ.
Trong cơ cấu tiền gửi thanh toán chủ yếu là đồng nội tệ, đồng ngoại tệ
chiếm một tỷ trọng nhỏ:
Bảng 2.7. NGUỒN TIỀN GỬI THANH TOÁN THEO LOẠI TIỀN
(đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Chỉ tiêu
Số dư
Tỷ trọng
(%)
Số dư
Tỷ trọng
(%)
Số dư
Tỷ trọng
(%)
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
1.VND 156.221 94.04 344.485 97,47 455.631 98,09
2.Ngoại tệ 9.887 5,96 8.931 2,53 8.854 1,91
Tổng 166.108 100 353.416 100 464.485 100
Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Đồng nội tệ trong tiền gửi thanh toán có xu hướng tăng qua các năm.
Về số tuyệt đối thì tăng khoảng gấp rưỡi, còn về tỷ trọng thì tăng từ 94,04%
năm 2000 lên 98,09% vào năm 2002. Đồng ngoại tệ thì ngày càng giảm đi về
tỷ trọng từ 5,96% năm 2000 xuống còn 1.91% vào năm 2002. Điều này đặt ra
cho Ngân Hàng một vấn đề lớn: Ngân Hàng phải tăng cường quan hệ với các
công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài...Ngân Hàng cũng phải
tìm kiếm, thu hút những doanh nghiệp XNK. Bởi nếu khách hàng là những
người làm ăn với nước ngoài nhiều thì Ngân Hàng sẽ có một số lượng lớn
ngoại tệ trong tay, sử dụng vào các mục đích của mình. Đây là cách huy động
ngoại tệ rấy hay lại đỡ tốn kém hơn các hình thức khác.
Nguồn tiền gửi thanh toán của chi nhánh ngày càng có vai trò quan
trọng. Số lượng tăng lên rất nhanh. Đó là do các dịch vụ của Ngân Hàng được
thực hiện rất tốt. Việc thanh toán được thực hiện theo phương châm: Nhanh-
chính xác- an toàn. Để nguồn tiền gửi thanh toán tăng trưởng một cách vững
chắc , trong thời gian tới Ngân Hàng cần quan tâm nhiều đối với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, hoàn thiện mọi dịch vụ để thực sự trở thành: "Kho
giữ tiền" của mọi doanh nghiệp trên điạ bàn quận.
b. Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Nguồn tiền gửi này xét về mặt tiện ích thì không bằng tiền gửi thanh
toán, song lại có lãi cao hơn hẳn. Người gửi tiền ở đây khôngđược quyền rút
tiền bất cứ lúc nào mà chỉ được rút tiền khi đến hạn. Các doanh nghiệp, tổ
chức xã hội có nhu cầu chi trả tiền theo một chu kỳ xác định: 1 tháng, 2
tháng... Họ có thể gửi vào khoản mục này vừa đáp ứng cho nhu cầu của mình
vừa có lãi cao. Ngày nay các doanh nghiệp chuyển bớt từ khoản mục tiền gửi
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thanh toán sang tiền gửi ngắn hạn ngaỳ càng nhiều. Kết quả là các Ngân
Hàng thu được nguồn này rất lớn, cụ thể tại chi nhánh như sau:
Bảng 2.8. NGUỒN TIỀN GỬI CÓ KỲ HẠN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP,
TỔ CHỨC KINH TẾ THEO KỲ HẠN (đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Chỉ tiêu
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trong
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
1.Ngắn hạn
(dưới12 tháng)
213.171 99,85 720.538 99,95 1.000.463 99,95
2.Trung, dài hạn
(trên12tháng)
285 0,14 347 0,05 571 0,05
Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Tiền gửi có kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao song trong cơ
cấu của nguồn này thì gần như toàn bộ là ngắn hạn. Đây là một điều dễ giải
thích. Doanh nghiệp là doanh nghiệp, có nghĩa là vốn có được phải được
dùng để sản xuất kinh doanh chứ không đơn thuần là chỉ để gửi Ngân Hàng
lấy lãi. Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong kinh doanh lớn hơn lãi suất của
Ngân Hàng. Các khách hàng của chi nhánh, ví dụ như tổng công ty Điện Lực
Việt Nam gửi ngắn hạn sau đó họ lấy từng tháng để trả lương. Đây lầ một
hình thức vô cùng thuận tiện. Với hình thức này Ngân hàng đã khắc phục
được yếu điểm của tiền gửi thanh toán. Đó là nguyên nhân vì sao chỉ sau một
năm, từ 2000 đến 2001, nguồn tiền gửi ngắn hạn của doanh nghiệp đã tăng
3,38 lần từ 213 tỷ lên 720 tỷ đồng. Năm 2002 nguồn này đạt hơn 1000 tỷ
đồng. Có thể khẳng địng đây sẽ là xu hướng trong thời gian tới. Các doanh
nghiệp sẽ vừa kinh doanh, vừa tính toán sao cho đạt được lợi nhuận tối đa với
nguồn vốn của mình. Đây cũng khẳng định uy tín của chi nhánh với các
doanh nghiệp trên địa bàn. Trên quận Hoàn Kiếm, trụ sở của các Ngân Hàng,
các chi nhánh Ngân Hàng khác rất nhiều nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
đến với Ngân Hàng thể hiện qua số dư tiền gửi của doanh nghiệp ngày càng
tăng. Năm 2002 so với năm 2001 tăng 38,86% và so với năm 2000 tăng hơn
5 lần. Quả thật là một con số trong mơ đối với nhiều chi nhánh, đơn vị khác.
Số dư tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội
không lớn. Số dư này chủ yếu là của một số công ty do trong năm không tìm
được hướng đầu tư, để tránh tìng trạng ứ đọng vốn, đã gửi vào Ngân Hàng.
Nguồn này tuy cũng tăng qua các năm song tỷ trọng ngày càng nhỏ dần. Năm
2000 chiếm 0,14% nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức
xã hội. Năm 2001 chiếm 0,05% và năm 2002 cũng vậy. Đứng ở địa vị Ngân
Hàng thì Ngân Hàng mong ngày càng có nhiều nguồn này. Bởi vì Ngân Hàng
có thể sử dụng một cách dễ dàng do kỳ hạn cố định. Hơn nữa số tiền nay lại ở
trong một số ít các công ty, không phức tạp nhỏ lẻ như tiền gửi tiết kiệm nên
có điều kiện làm giảm các chi phí khác trong chi phí huy động.
Trong các năm qua Ngân Hàng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho các doanh nghiệp. Tiền gửi có kỳ hạn có lãi suất cao hơn so với tiền gửi
thanh toán. các doanh nghiệp đã tận dụng điều này và đã nghiên cứu, tính
toán chu kỳ kinh doanh của mình để chuyển một phần tiền gửi thanh toán
sang tiền gửi có kỳ hạn. Ngân hàng có một lượng tiền để có thể sử dụng một
cách ổn định hơn và doanh nghiệp có lãi hơn. Đây là một trong nhiều cách
thức nhằm đa dạng hoá hình thức huy động, thu hút thật nhiều nguồn vốn của
chi nhánh. Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong
tổng nguồn vốn huy động tăng lên rất nhanh. Năm 2000 trong tổng nguồn
vốn huy động 2.335.896 triệu đồng thì tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp
chiếm 9,13%. Năm 2001 con số này là 16,77%, năm 2002 là 19,78%. điều
đáng nói ở đây là trong khi tổng nguồn vốn huy động tăng lên gấp hơn hai
lần tử năm 2000 đến năm 2002 thì tỷ trọng cũng tăng lên hơn hai lần. Điều
này càng khẳng định tầm quan trọng của nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Tuy nhiên cũng như tiền gửi thanh toán,
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
nguồn tiền gửi này lại có sự chênh lệch rất lớn giữa các loại tiền.
Bảng 2.9. NGUỒN TIỀN GỬI CÓ KỲ HẠN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI THEO LOẠI TIỀN (đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Chỉ tiêu
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trong
(%)
Số dư
Tỷ
trong
(%)
1.VND 188.368 88,24 690.873 95,84 962.916 96,20
2.Ngoại tệ 25.088 11,76 30.012 4,16 38.118 3,8
Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Trong số khách hàng- doanh nghiệp của chi nhánh, hầu hết là các
doanh nghiệp có môi trường làm ăn ở trong nước. Các khách hàng lớn như
tổng công ty Điện lực Việt Nam cũng ít làm ăn với nước ngoài. Điều này
được thể hiện qua tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp chủ yếu là nội tệ.
Tỷ trọng này tăng nhanh trong năm 2001 và dần ổn định ở mức cao trong
năm 2002 (96,2%). Ngoại tệ thì ngày càng nhỏ đi từ 11,76% năm 2000 đến
4,16% năm 2001 và 3,8% năm 2002. Để thu hút nguồn ngoại tệ nhiều hơn
nữa, Ngân Hàng phải chú ý đến các đối tượng thuộc thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh. Một điều thuận tiện cho Ngân Hàng là trên địa bàn có rất nhiều
cửa hàng vàng bạc, rất nhiều khách du lịch nước ngoài. Ngân Hàng nếu lôi
cuốn đựoc hầu hêt số khách này thì chắc hẳn sẽ có một nguồn ngoại tệ dồi
dào dư sức đáp ứng cho các khách hàng là những đơn vị XNK. Đi đôi với
tăng nguồn ngoại tệ thu hút mạnh hơn nữa nguồn nội tệ cũng rất quan trọng.
Ngân Hàng phải đề ra các chính sách về giao tiếp khuếch trương, chính sách
về Marketing ngân hàng. ít nhất Ngân Hàng cũng phải thắng trên sân nhà, tức
là phải thu hút được hầu hết các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn làm
khách hàng của chi nhánh. Làm được điều này trong một môi trường có đọ
cạnh tranh rất cao như địa bàn Hoàn Kiếm là rất khó. Song có như vậy Ngân
Hàng mới thu hút được khoản tiền gửi có kỳ hạn của một lượng doanh
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
nghiệp, tổ chức xã hội rất lớn trên địa bàn. Từ đó chi nhánh có một nguồn
vốn dồi dào để thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay, gia tăng mức lợi
nhuận cho mình.
c. Tiền gửi tiết kiệm
Có thể nói nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ có đầu
tiên của bất cứ Ngân hàng nào từ xưa đến nay. Các tầng lớp dân cư đều có
khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều
kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm
thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc
biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các
Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và
tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức
huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các
kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng...). Chính vì vậy đây là
khu vực có mức độ cạnh tranh cao nhất giữa các Ngân hàng và các tổ chức
tín dụng khác.
Hiện nay, NHCT Hoàn Kiếm có 11 quỹ tiết kiệm, các quỹ này trực
thuộc phòng Nguồn vốn và được phân bố dải rác trên địa bàn. Ngay từ đầu
chi nhánh đã hết sức coi trọng công tác đặc biệt này. Nó được thể hiện qua
việc các quỹ tiết kiệm đều được ưu tiên trang bị các máy móc thiết bị, môi
trường sạch đẹp, khang trang... Ngay trong phòng Nguồn vốn về mặt nhân sự
có 54 người thì chỉ có 6 người làm trên phòng, còn lại tất cả đều xuống các
quỹ tiết kiệm. Ngân hàng thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo trình độ
nghiệp vụ cho các nhân viên ở các quỹ tiết kiệm. Về các mặt lương thưởng,
trợ cấp... chi nhánh cũng đều hết sức quan tâm, chú ý. Kết quả của những
việc làm trên là nguồn tiền gửi tiết kiệm ngày càng tăng, phát triển với một sự
vững chắc ổn định qua từng năm.
Bảng 2.10. TIỀN GỬI TIẾT KIỆM (đơn vị: triệu đồng)
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
1.Tiền gửi tiết kiệm 358.717 530.686 602.946 625.621
2.Lượng TGTK gia
tăng giữa các năm
+ 171.969 + 72.260 + 22.675
3.Tỷ lệ gia tăng giữa
các năm
47,94 13,61 3,71
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng là rất quan trọng. Nguồn này
đáp ứng phần lớn cho hoạt động tín dụng. Qua các năm nguồn tiền gửi tiết
kiệm của Ngân Hàng đều tăng song tốc độ tăng chậm dần. Nếu như năm
2000 so với năm 1999 tăng đến 47,94% thì năm 2002 so với năm 2001 chỉ
tăng 3,76%. Điều này phản ánh môi trường huy động tiền gửi tiết kiệm ngày
càng khó khăn. Những năm 2000 đổ về trước việc huy động tiền gửi tiết kiệm
của Ngân Hàng tương đối dễ dàng, đối thủ cạnh tranh của Ngân Hàng còn ít.
Càng về sau với sự tham gia của nhiều tổ chức tín dụng trên địa bàn như:
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông Nghiệp, chi nhánh
Citibank...đã làm cho sự cạnh tranh ngày càng tăng. Tốc độ gia tăng tiền gửi
tiết kiệm của chi nhánh có giảm song về số tuyệt đối thì vẫn ở mức cao. Ngân
hàng vẫn khẳng định được vị thế vững chắc của mình trên địa bàn quận Hoàn
Kiếm. Nếu xét về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi tiết
kiệm có xu hướng ngày càng giảm dần. Năm 2000, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm
trong tổng nguồn vốn là 22,71%. Năm 2001, tỷ lệ này còn 14,02% và năm
2002 là12,36%. Như vậy tốc độ tăng của tiền gửi tiết kiệm không tăng nhanh
hơn tốc độ của nguồn vốn huy động. Đây là một vấn đề cần xem xét lại. Để
rõ hơn ta tìm hiểu về tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn:
Bảng 2.11. TIỀN GỬI TIẾT KIỆM THEO KỲ HẠN (đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
1.TGTK không kỳ
hạn
7.717 1,46 9.143 1,53 9.317 1,5
2.TGTK từ 1 đến
6 tháng
74.882 14,11 104.670 17,35 117.552 18,79
3.TGTK từ 6 đến
9 tháng
223.498 42,11 223.337 37,04 219.196 35,03
4.TGTK từ 12
tháng trở lên
224.589 42,32 265.796 44,08 279.556 44,68
Tổng 530.686 100 602.946 100 625.621 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Kỳ hạn của các khoản tiền gửi mà Ngân hàng đưa ra khá phong phú.
Hiện nay tại chi nhánh có các kỳ hạn sau: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12
tháng, 18 tháng, 24 tháng. Về tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, thực chất đây
là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Nguồn này có số dư không lớn và ít
biến động qua các năm ( khoảng 1,5% tiền gửi tiết kiệm). Hầu hết mục đích
của người gửi tiền vào đây là để lấy lãi nên họ gửi với kỳ hạn dài (thời hạn
càng dài lãi suất càng cao). Tiền gửi tiết kiệm từ 1- 3 tháng có xu hướng tăng
qua các năm. Năm 2000 đạt 14,11% tổng số tiền gửi tiết kiệm. Năm 2002 đạt
khoảng 18,7%. Điều này là kết quả của việc đa dạng các kỳ hạn gửi tiền.
Năm 2001, tiền gửi tiết kiệm không có kỳ hạn 2 tháng. Năm 2002, Ngân hàng
mở thêm kỳ hạn này và đã được khách hàng rất hoan nghênh. Nhờ đó nguồn
tiền gửi tiết kiệm đã tăng lên. Ta thấy tốc độ tăng khá đều đã khẳng định xu
thế của nguồn này sẽ tăng trong tương lai. Đối với tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn
6- 9 tháng thì lại ngược lại, đang có xu hướng giảm dần trong thời gian gần
đây. Từ 42,115 trong tổng số tiền gửi tiết kiệm năm 2000 xuống còn 37,04%
năm 2001 và 35,03% năm 2002. Tuy vậy số dư của nguồn này vẫn lớn. Hình
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thức này vẫn đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn quan trọng nhất trong tiền gửi tiết
kiệm là nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn. Đây là nguồn chủ yếu dể
dùng cho vay trung và dài hạn, mang lại lợi nhuận cao. Nguồn này có xu
hướng ngày càng tăng. Huy động được nhiều nguồn này chứng tỏ chi nhánh
đã có uy tín cao đối với khách hàng. Người dân có tin tưởng Ngân Hàng thì
họ mới gửi vốn trung và dài hạn, một bộ phận rất không an toàn do yếu tố
làm phát. Để gia tăng nguồn trung và dài hạn này đòi hỏi Ngân hàng phải
phục vụ tốt hơn nữa, mở rộng tuyên truyền, quảng cáo đến từng người dân để
thu hút sự chú ý, lòng tin của họ. Đây là cơ sở cho sự phát triển vững chắc
sau này.
Một trong những sáng tạo của chi nhánh là trong năm qua chi nhánh đã
đưa ra hình thức tiết kiệm dự thưởng. Đây là một hình thức mới đối với ngay
cả nhân viên trong Ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng đem lại những thành quả
bước đầu:
Tiết kiệm dự thưởng bằng VND (đơn vị: triệu đồng)
+ Kỳ hạn 6 tháng: 20.717
+ Kỳ hạn9 tháng: 447
+ Kỳ hạn 12 tháng: 7.178
Nguồn vốn thu được tuy không nhiều song quan trọng là qua đó, khách
hàng biết đến Ngân hàng nhiều hơn, một hình thức quảng cáo rất tốt. Nhưng
trong loại hình tiết kiệm dự thưởng, kỳ hạn Ngân hàng đưa ra còn chưa đa
dạng. Ngay cả đợt tiết kiệm dự thưởng hiện tại mà Ngân hàng đang mở ra từ
1/4/2003 đến 30/6/2003 cũng chỉ có kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. Ngân
hàng có thể mở thêm kỳ hạn hơn nữa để thu hút khách hàng. Đồng thời với
việc tăng thêm kỳ hạn, Ngân hàng có thể nghiên cứu đưa ra hình thức tiết
kiệm dự thưởng bằng USD. Có như vậy mới thu hút được nhiều nhất tiền gửi
tiết kiệm có thể.
Về loại tiền gửi tiết kiệm, năm 2000 chi nhánh đã có một bước đột phá
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
là nhận tiền gửi bằng EUR. Tiền gửi tiết kiệm bằng EUR có kỳ hạn 3 tháng, 6
tháng, 12 tháng. Đây là một bước tiến tới đa dạng các đồng tiền Ngân hàng
huy động.
Bảng 2.12. TGTK BẰNG EUR THEO THỜI HẠN (đơn vị: triệu đồng)
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Chỉ tiêu
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
Tỷ
trọng
(%)
1.TGTK
không kỳ hạn
2.TGTK ngắn
hạn
75.059 33,85 97.004 37,72 102.161 39,29
3.TGTK trung
và dài hạn
146.665 66,15 160.104 62,28 157.848 60,71
Tổng 221.714 100 257.108 100 260.009 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp
Có thể thấy mục đích chủ yếu của người gửi tiền là để hưởng lãi nên số
dư tiền gửi trung và dài hạn lớn hơn hẳn nguồn ngắn hạn. Thường là gần gấp
đôi. Nguồn tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn bằng ngoại tệ có xu hướng tăng dần,
năm 2000 chiếm 33,85% thì năm 2002 là 39,29%. Ngược lại nguồn tiền gửi
tiết kiệm trung và dài hạn bằng ngoại tệ lại có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên
vẫn còn ở mức cao. Trong số tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ , nguồn tiền gửi
không kỳ hạn là không có. Do vậy nguồn tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ có
tính ổn định rất cao. Trong tổng số 268949 tỷ đồng thu được thì nguồn tiền
gửi do dân cư chiếm phần lớn (khoảng 82,43%). Tỷ lệ này luôn ở mức cao và
chiếm tỷ trọng 86,84% vào năm 2001 và 84,69% vào năm 2002.
Đặc biệt hình thức tiết kiệm bằng EUR, tuy chỉ mới bắt đầu thực hiện
vào tháng 2/2002, nhưng đã thể hiện đây là một hình thức huy động đầy tiềm
năng trong tương lai.
Bảng 2.13. TGTK BẰNG EUR (đơn vị: EUR)
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Năm 2002
TGTK bằng EUR
Số dư Tỷ trọng (%)
1.Kỳ hạn 3 tháng 22.734,69 19,55
2.Kỳ hạn 6 tháng 53.825 46,24
3.Kỳ hạn 12 tháng 39.820 34,21
Tổng 116.379,69 100
Nguồn số liệu: Phòng nguồn v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm.pdf