Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc

Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc: viii ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ----------------------------------------------- Đỗ Thị Hƣơng Lan THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp Mã số: 60-31-10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Bùi Đình Hoà Thái nguyên, năm 2008 viii LỜI CAM ĐOAN Luận văn Thạc sĩ “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc”, chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp là công trình của riêng tôi. Luận văn đã sử dụng thông tin từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, các thông tin có sẵn đã được trích rõ nguồn gốc. Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu đã được trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đề...

pdf145 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 998 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
viii ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ----------------------------------------------- Đỗ Thị Hƣơng Lan THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp Mã số: 60-31-10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Bùi Đình Hoà Thái nguyên, năm 2008 viii LỜI CAM ĐOAN Luận văn Thạc sĩ “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc”, chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp là công trình của riêng tôi. Luận văn đã sử dụng thông tin từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, các thông tin có sẵn đã được trích rõ nguồn gốc. Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu đã được trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2008 Tác giả luận văn Đỗ Thị Hƣơng Lan viii LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận văn :’’ Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành Nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc” tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của nhiều cá nhân và tập thể, tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập và nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, Sở Nông nghiệp và PTNT Vĩnh Phúc, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập, nghiên cứu để tôi hoàn thành bản luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Bùi Đình Hoà - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến quý báu của các nhà khoa học, của các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy cô giáo trong Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên cùng các đơn vị khác. Để hoàn thành được luận văn, tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ và cộng tác của các hộ nông dân và UBND các xã: Đồng Thịnh (huyện Lập Thạch), xã Vĩnh Thịnh (huyện Vĩnh Tường) và xã Đồng Tĩnh (huyện Tam Dương) tỉnh Vĩnh phúc. Tôi xin cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2008 Tác giả luận văn Đỗ Thị Hƣơng Lan viii MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa i Lời cam đoan ii Lời cảm ơn iii Mục lục iv Danh mục các bảng vi Danh mục các hình viii MỞ ĐẦU 1 1 – Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1 2 – Mục tiêu nghiên cứu 2 3 – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4 – Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn 3 5 – Bố cục của Luận văn 3 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4 1.1.Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 4 1.1.1. Cơ sở lý luận 4 1.1.2. Cơ sở thực tiễn 8 1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 21 1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết 21 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu 22 1.2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 25 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP THỦY SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 27 2.1. Điều kiện tự nhiên 27 2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 36 2.3. Tình hình công nghiệp hoá và đô thị hoá 42 2.4. Thực trạng sản xuất nông lâm nghiệp tỉnh Vĩnh phúc giai 47 viii đoạn 2003-2007 2.4.1. Kết quả sản xuất ngành nông nghiệp 49 2.4.2. Kết quả sản xuất ngành lâm nghiệp 66 2.4.3. Kết quả sản xuất ngành thuỷ sản 69 2.5.4. Hợp tác xã nông nghiệp 72 2.4.5. Kinh tế trang trại 76 2.4.6 - Tình hình phát triển kinh tế hộ và hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản 78 2.4.7 - Đánh giá chung về hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh phúc 83 2.4.8. Đánh giá chung về thực trạng phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc 84 Chƣơng 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP THỦY SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2008-2015 88 3.1. Quan điểm-phƣơng hƣớng-mục tiêu 88 3.1.1. Quan điểm 88 3.1.2. Phương hướng 88 3.1.3. Dự kiến một số mục tiêu chủ yếu ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản đến năm 2015 89 3.2. Các giải pháp chủ yếu 116 3.2.1. Nhóm các giải pháp chung 116 3.2.2. Các giải pháp cho từng vùng sinh thái 121 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 123 1 – Kết luận 123 2 – Kiến nghị 124 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 126 PHỤ LỤC viii DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1 Đất đai phân công dụng kinh tế 32 Bảng 2.2 Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 37 Bảng 2.3 Cân đối lao động xã hội có đến 1/7 hàng năm 39 Bảng 2.4 Một số chỉ tiêu xã hội chủ yếu tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 41 Bảng 2.5 Giá trị sản xuất, giá trị gia tăng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003- 2007(giá so sánh 94) 47 Bảng 2.6 Cơ cấu ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 49 Bảng 2.7 Cơ cấu gieo trồng diện tích cây hàng năm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 51 Bảng 2.8 Diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 53 Bảng 2.9 Diện tích, năng suất, sản lượng cây thực phẩm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 55 Bảng 2.10 Diện tích, năng suất, sản lượng cây công nghiệp hàng năm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 57 Bảng 2.11 Diện tích, sản lượng một số cây ăn quả tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 59 Bảng 2.12 Kết quả ngành chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 62 Bảng 2.13 Kết quả sản xuất lâm nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 67 Bảng 2.14 Kết quả sản xuất thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007 71 Bảng 2.15 Một số chỉ tiêu về hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc năm 2006 74 Bảng 2.16 Các chỉ tiêu tổng hợp của trang trại tỉnh Vĩnh Phúc năm 2006 77 Bảng 2.17 Biểu tổng hợp kết quả điều tra hộ 80 Bảng 2.18 Bảng tính toán hiệu quả sản xuất của các hộ được điều tra 82 viii Bảng 3.1 Dự kiến giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2015 99 Bảng 3.2 Dự kiến diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2015 103 Bảng 3.3 Dự kiến kết quả ngành chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2015 106 Bảng 3.4 Dự kiến kết quả sản xuất ngành thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2015 107 viii DANH MỤC CÁC HÌNH Trang Hình 2.1 Giá trị gia tăng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản giai đoạn 2003-2007 48 Hình 2.2 Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2003-2007 50 Hình 3.1 Dự kiến cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp năm 2010 và năm 2015 99 viii ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ---------------------------------------- Đỗ Thị Hƣơng Lan THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Thái Nguyên, năm 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1 – Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Sau khi tách tỉnh năm 1997, Vĩnh Phúc là tỉnh thuần nông với tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm 44,35% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, với dân số nông nghiệp chiếm tới trên 80% dân số toàn tỉnh. Từ năm 1997 đến năm 2007, ngành công nghiệp phát triển mạnh, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chỉ còn chiếm 14,25% trong cơ cấu kinh tế, nhưng dân số nông nghiệp vẫn còn rất lớn(chiếm 57%). Với một lượng khá lớn dân số sống phụ thuộc vào nông nghiệp thì việc phát triển nông lâm nghiệp thuỷ sản là một yêu cầu bức thiết nhằm xoá đói giảm nghèo và ổn định xã hội [2]. Cùng với sự phát triển mạnh của ngành công nghiệp, thì tốc độ đô thị hoá của Vĩnh Phúc cũng tăng nhanh trong những năm gần đây, nhu cầu về tiêu dùng và chế biến các sản phẩm nông nghiệp ngày càng lớn, đòi hỏi ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh phải phát triển nhanh hơn nữa nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh. Những năm qua, phát triển nông lâm nghiệp thuỷ sản ở Vĩnh Phúc đã có được những thành tựu đáng kể so với trước kia, nhưng sản xuất vẫn còn ở tình trạng quy mô nhỏ, sản lượng hàng hoá ít, chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường, giá thành sản xuất còn cao,... Một số địa phương trong tỉnh phát triển cây, con còn theo “phong trào”, chưa tính đến lợi thế của từng vùng và nhu cầu thị trường. Do vậy không ít tình trạng”trồng -chặt”, sản xuất thua lỗ diễn ra đã gây thiệt hại không nhỏ cho bà con nông dân, như cây dâu năm 2004 và cây thanh hao hoa vàng năm 2006. Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đây là một cơ hội lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung, tuy nhiên với riêng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 thì đây lại là thách thức không nhỏ do quy mô sản xuất nhỏ lẻ , lạc hậu. Do vậy, cần thiết phải có những giải pháp để phát triển sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá với quy mô lớn , chất lượng cao có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Để đề xuất được những giải pháp có tính khoa học và thực tiễn về phát triển nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm tới, tôi đã chọn đề tài” Thực trạng và một số giải pháp phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh phúc” để nghiên cứu. 2 – Mục tiêu nghiên cứu a – Mục tiêu chung: Nghiên cứu thực trạng, những thuận lợi, khó khăn của sản xuất nông nghiệp tỉnh Vĩnh phúc để từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh; b - Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề phát triển kinh tế nông lâm nghiệp thuỷ sản; - Phân tích đánh giá thực trạng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007; - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh Vĩnh Phúc từ 2008-2015. 3 - Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng: Là các chỉ tiêu, số liệu, các vấn đề về sản xuất nông lâm nghiệp - thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và kết quả , tình hình sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản của các hộ nông dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi khách thể: Luận văn nghiên cứu về kết quả sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản chung trên địa bàn toàn tỉnh; Đồng thời sẽ đi sâu đánh giá thực trạng sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản của các hộ nông dân để từ đó rút ra những thuận lợi, khó khăn của sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản trên địa bàn toàn tỉnh. + Phạm vi không gian: luận văn nghiên cứu thực trạng sản xuất của ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản trên toàn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; Tiến hành điều tra tại 3 xã đại diện cho 3 vùng: đồng bằng, trung du và miền núi của tỉnh. + Về thời gian: Phần đánh giá về kết quả phát triển của ngành nông lâm nghiệp-thuỷ sản toàn tỉnh được nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2007; Phần định hướng phát triển và các giải pháp được đề ra đến năm 2015. 4 –Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn Luận văn là công trình có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực; là tài liệu tham khảo giúp tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc từ nay đến năm 2015 một cách có cơ sở khoa học. 5 – Bố cục của Luận văn Mở đầu Chương I: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Chương II: Thực trạng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007. Chương III: Định hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản đến năm 2015. Kết luận. Tài liệu tham khảo. Phụ lục. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1.CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1.1. Vị trí, vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học-kỹ thuật. Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản. Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã hội: Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển là những nước còn nghèo, đại bộ phận dân số sống bằng nghề nông. Tuy nhiên ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cho đời sống của nhân dân nước đó. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà hiện nay, mặc dù trình độ khoa học – công nghệ ngày càng phát triển nhưng vẫn chưa ngành nào có thể thay thế được. Xã hội càng phát triển, đời sống con người ngày càng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại. Các nhà kinh tế học đều thống nhất cho rằng, điều kiện tiên quyết cho sự phát triển là tăng cung lương thực cho nền kinh tế quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 dân bằng sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực. Có thể chọn con đường nhập khẩu lương thực để giành nguồn lực làm việc khác có lợi hơn, nhưng điều đó chỉ phù hợp với các nước như Singapore, Ả rập Saudi hay Brunei mà không dễ gì đối với các nước như Inđônêxia, Trung Quốc, Ấn Độ hay Việt Nam là những nước đông dân. Các nước đông dân muốn nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân ổn định thì phần lớn lương thực tiêu dùng phải sản xuất trong nước. Thực tiễn lịch sử của các nước trên thế giới đã chứng minh, chỉ có thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh lương thực. Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định chính trị và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển thì sẽ khó thu hút được đầu tư để phát triển bền vững, lâu dài. Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho phát triển công nghiệp và khu vực thành thị, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp và tập trung ở khu vực nông thôn. Vì thế khu vực nông nghiệp nông thôn thực sự là nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho phát triển công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp được giải phóng ngày càng nhiều. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công nghiệp và đô thị. Đó là xu hướng có tính quy luật của mọi quốc gia trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và quý cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường. Khu vực nông nghiệp còn là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, trong đó có công nghiệp, nhất là giai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì nông nghiệp là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra từ thuế nông nghiệp, tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản, … Những điển hình thành công về sự phát triển ở nhiều nước đều đã sử dụng tích luỹ từ nông nghiệp để đầu tư cho công nghiệp. Ngoài ra cần phải khai thác các nguồn khác một cách hợp lý, không nên cường điệu quá vai trò của vốn tích luỹ trong nông nghiệp. Nông nghiệp và nông thôn còn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp và dịch vụ. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tăng, thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ phát triển. Nông nghiệp còn là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông lâm thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các sản phẩm công nghiệp. Vì thế ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông lâm thuỷ sản. Xu hướng chung ở các nước trong quá trình công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu, giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế. Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là sơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường vì sản xuất nông nghiệp gắn liền trực tiếp với môt trường tự nhiên: đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn. Nông nghiệp sử dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 nhiều hoá chất như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu,... làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Dư lượng độc tố trong sản phẩm tăng ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Nếu rừng bị tàn phá, đất đai sẽ bị xói mòn, thời tiết, khí hậu thuỷ văn thay đổi xấu sẽ đe doạ đời sống của con người. Vì thế trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm ra các giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường[8]. 1.1.1.2– Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng và phát triển Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng lên về số lượng và sự cải thiện về chất lượng của sản phẩm xã hội và các yếu tố sản xuất ra sản phẩm xã hội. Tăng trưởng là sự gia tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân, hoặc thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Nếu như sản phẩm hàng hoá trong một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng cũng được áp dụng để đánh giá cụ thể đối với từng ngành sản xuất, từng vùng sản xuất của một quốc gia. Do vậy, để biểu thị tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước, đó là mức tăng % hay tuyệt đối hàng năm, hay tính bình quân trong một giai đoạn. Tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định sẽ cho khái niệm tốc độ tăng trưởng, đó là sự tăng thêm sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, phát triển bao gồm tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu nền kinh tế, phát triển là việc nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển kinh tế có thể hiểu là quá trình chuyển biến theo hướng tiến bộ về mọi mặt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm tăng trưởng về của cải vật chất và sự tiến bộ xã hội. Tóm lại: phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một chuyển biến của nền kinh tế từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn. Để phản ánh mức độ phát triển kinh tế của một ngành trong từng thời kỳ cụ thể, chúng ta phải sử dụng các nhóm chỉ tiêu như giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, cơ cấu các ngành và cơ cấu nội bộ ngành, .... 1.1.2. Cơ sở thực tiễn 1.1.2.1 – Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở một số nước trên thế giới Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và bền vững là bước đi thích hợp của nhiều nước trên thế giới trong chiến lược phát triển kinh tế. Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, không có một công thức phát triển chung cho quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đối với tất cả các nước. Mỗi nước có cách đi riêng, tùy theo những đặc điểm, điều kiện cụ thể của mình, dưới đây là kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước ở Châu Á : * Phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Trung Quốc: Trung Quốc là nước có nền nông nghiệp lớn và lâu đời nhất thế giới, đồng thời là một trong những chiếc nôi của nền nông nghiệp thế giới. Do đó, nền nông nghiệp Trung Quốc đã tích lũy nhiều kinh nghiệm thâm canh cổ truyền với một hệ thống công cụ sản xuất thủ công phong phú, đa dạng, tận dụng nguồn lao động dồi dào ở nông thôn, bảo đảm sản xuất nông nghiệp tự túc, tự cấp có hiệu quả cao. Kể từ khi tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa đến nay, nền nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, phát triển theo hướng hiện đại hóa và bền vững. Kinh tế nông nghiệp Trung Quốc đã có sự chuyển dịch cơ cấu tích cực nhằm tạo ra năng suất cây trồng, vật nuôi cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 như hiệu quả lao động cao, sản xuất nhiều nông sản hàng hóa. Nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc đã có những bước thay đổi to lớn và đạt được những thành tựu đáng kể, đời sống nông dân được cải thiện từng bước, một bộ phận dân cư đã có đời sống khá giả. Là nước có diện tích đất canh tác khan hiếm và eo hẹp, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp cao, Trung Quốc chủ trương nâng cao hiệu quả sử dụng đất và cải tạo đất trồng, giải quyết vấn đề dôi dư lao động. Vì vậy, quốc gia này đã thực hiện thu hẹp kiểu kinh doanh cần nhiều lao động, mở rộng việc kinh doanh tập trung vốn và kỹ thuật. Đó là điều có lợi cho nông dân, cho công cuộc cải cách nông thôn và việc phân bổ tối ưu các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy, phương thức kinh doanh trên những mảnh ruộng manh mún cổ truyền trước đây không còn phù hợp với việc thâm canh bằng tập trung vốn và kỹ thuật. Chỉ có phương thức kinh doanh với quy mô lớn mới tạo tiền đề cho việc đầu tư nhiều vốn và kỹ thuật nhằm đạt tới một nền sản xuất hiện đại và bền vững. Hiện nay, nông nghiệp vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Tổng kết kinh nghiệm 20 năm cải cách và phát triển kinh tế nông thôn, Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ: "Không có sự ổn định của nông thôn sẽ không có sự ổn định của cả nước, không có sự sung túc của nông dân sẽ không có sự sung túc của nhân dân cả nước, không có hiện đại hóa nông nghiệp sẽ không có hiện đại hóa của toàn bộ nền kinh tế quốc dân". Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định rằng, hiện nay và trong một thời gian dài nữa, nông nghiệp Trung Quốc vẫn giữ vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế; hiện đại hóa nông nghiệp là một bộ phận trọng yếu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm trên xuất phát từ thực tế là ở Trung Quốc, nông nghiệp có vai trò mà không một ngành kinh tế nào có thể thay thế được. Tuy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 nhiên, trên thực tế, nông nghiệp Trung Quốc vẫn chưa đạt tới trình độ hiện đại hóa và bảo đảm sự phát triển bền vững. Vì vậy, hiện đại hóa nông nghiệp nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển trở thành đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ hết. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành một loạt chính sách có lợi cho việc giải quyết vấn đề "tam nông" như: thực hiện xóa bỏ thuế nông nghiệp và phụ thu thuế nông nghiệp; trợ cấp cho nông dân sản xuất lương thực; thực hiện chế độ khám chữa bệnh loại hình mới trong cả nước, trong đó có việc giải quyết khám chữa bệnh cho nông dân... Qua hơn 20 năm cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững, Trung Quốc đã thu được những bài học kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn. Đó là: Bảo đảm đầy đủ quyền tự chủ, phát huy tính tích cực của nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu kinh tế, trong đó công hữu là chủ thể, thực hiện sở hữu tập thể đối với ruộng đất kinh doanh khoán gia đình, tách quyền sử dụng với quyền sở hữu; cải cách theo hướng thị trường, tạo ra sức sống mới cho kinh tế nông thôn; xây dựng địa vị chủ thể của trang trại trong kinh doanh tự chủ của các nông hộ, khuyến khích nông dân phát triển sản xuất hàng hóa hướng về thị trường; tôn trọng tinh thần sáng tạo của nông dân, thúc đẩy sự nghiệp cải cách, khoán chế độ trách nhiệm đến hộ gia đình và phát triển các xí nghiệp hương trấn; kiên trì đường lối căn bản “từ quần chúng mà ra, đi vào quần chúng"; coi trọng cao độ nông nghiệp, kết hợp cải cách nông thôn và cải cách thành thị... * Thái Lan với chiến lược xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao, sức cạnh tranh mạnh: Thái Lan là nước có nền nông nghiệp chiếm địa vị chi phối, dân số nông thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong hàng thập kỷ qua đã chứng tỏ vai trò quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân. Chính phủ Thái Lan xác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 định hướng chiến lược là xây dựng nền nông nghiệp với chất lượng cao, có sức cạnh tranh mạnh. Do đó, những năm gần đây, Thái Lan tập trung mũi nhọn phát triển mạnh hàng chế biến nông sản và công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Hiện Thái Lan có tới hơn 1/4 số xí nghiệp gia công sản phẩm được xây dựng ngay tại nông thôn, nhờ đó đã tạo dựng sự vững mạnh và ổn định về kinh tế cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân. Bên cạnh đó, Chính phủ còn chú trọng xây dựng các tổ chức nông nghiệp và phát triển hệ thống điều hành nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý hướng tới phát triển bền vững. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò các cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo đảm rủi ro cho nông dân. Đối với các sản phẩm nông sản, Nhà nước tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản bằng việc tăng khả năng tổ chức và tiếp thị thị trường. Phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý, ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái. Giải quyết tốt những mâu thuẫn về tư tưởng trong nông dân có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Về xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với các dự án thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước. Một trong những tiêu chí để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững và hiện đại hóa là cơ giới hóa nông nghiệp và áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Thái Lan chú trọng phát triển cơ giới hóa nhằm đưa nông nghiệp đi vào thâm canh, cải tạo và xây dựng nông thôn. Phát triển mạng lưới xí nghiệp cơ khí nhỏ và vừa của tư nhân ở các thành phố, thị trấn và nông thôn. Khuyến khích nông dân mua máy móc do các xí nghiệp cơ khí trong nước chế tạo, có cơ chế bảo hành và sửa chữa miễn phí trong vòng từ 1 đến 3 năm. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cải tạo đất, áp dụng công nghệ sinh học để lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; thực hiện việc chuyển giao công nghệ nuôi cấy phôi; nghiên cứu các công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Thái Lan còn chú trọng phát triển các ngành mũi nhọn như hàng nông, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang các nước khác, nhất là các nước công nghiệp phát triển. Hiện nay, ngoài mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, ngô, cao su, đường, nông nghiệp Thái Lan còn có nhiều mặt hàng xuất khẩu mới như hải sản đông lạnh, gia cầm, hoa quả tươi, chế biến rau xanh và sắn củ. Nhờ có chính sách khuyến khích nông nghiệp phát triển mạnh, Thái Lan đã đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo (khoảng 5 triệu tấn/năm), là nước xuất khẩu thực phẩm mạnh nhất khu vực Đông - Nam Á. Giáo dục và đào tạo cũng hướng vào nông nghiệp, nông thôn với các chương trình đào tạo phát triển kỹ năng cho nông dân và người quản lý đất đai, quản lý kinh doanh, bảo vệ môi trường và an toàn sức khỏe. Ngoài ra, còn có những hoạt động đào tạo truyền thống như tạo công ăn việc làm trong lĩnh vực hoạt động nông nghiệp nhằm góp phần thu hút lực lượng lao động đông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 đảo là thanh niên. Thái Lan thực hiện chính sách "ưu đãi nông nghiệp - nông thôn - nông dân" nhằm ổn định chính trị - xã hội. * Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Nhật Bản: Nhật Bản là nước có diện tích đất đai canh tác có hạn, số lượng người đông, đơn vị sản xuất nông nghiệp chính tại Nhật Bản vẫn là các hộ gia đình nhỏ, mang đậm tính chất của nền văn hóa lúa nước. Với đặc điểm tự nhiên và xã hội, trong phát triển nông nghiệp Nhật Bản đã đề ra một chiến lược khôn khéo và hiệu quả, như tăng năng suất nền nông nghiệp quy mô nhỏ (bằng cách thâm canh tăng năng suất trên đơn vị diện tích và trên đơn vị lao động để nông nghiệp Nhật Bản cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu của nhân dân); dưỡng sức dân, tạo khả năng tích lũy và phát huy nội lực; thâm canh tăng năng suất; xuất khẩu nông, lâm sản (nguồn thu ngoại tệ quan trọng) để nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ công nghiệp hóa; phi tập trung hóa công nghiệp, đưa sản xuất công nghiệp về nông thôn, gắn nông thôn với công nghiệp, gắn nông thôn với thành thị. Những bước đi thích hợp này là những điều kiện quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản theo hướng hiện đại hóa. Để tạo cơ sở thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng và phát huy tác dụng máy móc, thiết bị và hóa chất cho quá trình cơ giới hóa và hóa học hóa nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao trong nông nghiệp, Nhật Bản đã chú trọng phát triển, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, hệ thống năng lượng và thông tin liên lạc hoàn chỉnh, phân bổ các ngành công nghiệp chế biến dùng nguyên liệu nông nghiệp (như tơ tằm, dệt may...), các ngành cơ khí, hóa chất trên địa bàn nông thôn toàn quốc. Tạo việc làm cho lao động nông thôn, ngăn chặn làn sóng lao động rời bỏ nông thôn ra thành thị. Chính phủ Nhật Bản thường xuyên có chính sách trợ giá nông sản cho các vùng nông nghiệp mũi nhọn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững và hiện đại hóa hiện là xu thế tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế các nước. Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản đều thực hiện chính sách lấy nông nghiệp làm nền tảng ổn định xã hội và tích lũy cho công nghiệp, thu hút vốn đầu tư, phát triển công nghiệp hướng vào xuất khẩu... làm tăng nhanh tiềm lực kinh tế đất nước. Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững của các nước này là bài học kinh nghiệm để chúng ta tham khảo và học tập[6]. 1.1.2.2 – Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở Việt Nam Trước năm 1980, sản xuất nông nghiệp nước ta lâm vào tình trạng đình đốn do mô hình hợp tác kiểu cũ và cơ chế kế hoạch hoá tập trung không phù hợp. Vào những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ XX, mức sản xuất lương thực bình quân đầu người liên tục giảm, lượng gạo hàng năm nhập khẩu tăng lên gần 1 triệu tấn, tình trạng khoán chui diễn ra phổ biến. Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/01/1981 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã bước đầu giải phóng lao động nông dân, gắn trách nhiệm và lợi ích của họ với sản phẩm cuối cùng trên ruộng khoán, khuyến khích đầu tư thêm lao động, phân bón, vật tư để thu thêm nhiều sản phẩm vượt khoán. Kết quả đã đem lại 6-7 vụ được mùa liên tiếp, sản lượng lương thực tăng gần 1 triệu tấn/năm. Bắt đầu từ cuối năm 1983 đến 1984, động lực khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động có dấu hiệu suy giảm, bởi lẽ khoán sản phẩm mới chỉ điều chỉnh cơ chế phân phối và cơ chế quản lý giữa người lao động và hợp tác xã, giữa công nhân lao động và nông trường, chưa thiết lập đầy đủ quyền làm chủ cho các hộ nông dân. Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã chính thức thừa nhận vai trò của kinh tế hộ và coi kinh tế hộ là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Đồng thời nhiều chính sách khác được thực hiện như xoá bỏ chế độ độc quyền thu mua nông sản, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 xoá bỏ chế độ 2 giá, thực hiện chính sách khuyến khích nông dân tăng sản lượng để bán ra thị trường, cải cách chế độ thuế và hỗ trợ đối với nông nghiệp, từng bước cải cách pháp lý để hỗ trợ kinh tế thị trường phát triển trong nông nghiệp,... Kết quả là đến năm 1995, lần đầu tiên hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991-1995 trong đó có chỉ tiêu nông nghiệp, đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức, đưa nước ta thành nước xuất khẩu trên dưới 3 triệu tấn gạo/năm. Từ năm 1995 đến nay, đối mới trong nông nghiệp tiếp tục được thực hiện để tăng trưởng và hội nhập. Tháng 11/1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 06-NQ/TW về một số vấn đề nông nghiệp và kinh tế nông thôn, trong đó khẳng định vấn đề trọng yếu là kinh tế trang trại. Tháng 2/2000, Chính phủ ra nghị quyết 03 về phát triển kinh tế trang trại,... Những văn bản chính sách về khuyến khích phát triển nông nghiệp tiếp tục được hoàn thiện tạo động lực cho nông nghiệp nước ta phát triển và đã đạt được những thành tựu quan trọng: + Sản xuất lương thực tiếp tục tăng cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Đến năm 2007, sản lượng lương thực có hạt cả nước đạt 40 triệu tấn (trong đó lúa là 35,9 triệu tấn) nâng mức lương thực có hạt bình quân đầu người từ 444 kg năm 2000 lên 469,5 kg năm 2007. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng để một nước đang phát triển có thể thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá thực sự. Trong vòng 10 năm, sản xuất lương thực tăng hơn 13 triệu tấn, mỗi năm tăng hơn 1 triệu tấn. Giai đoạn 2001-2007, các sản phẩm trồng trọt khác đều tăng với tốc độ khá như chè búp khô tăng 51,5%, cao su mủ khô tăng 61%, hạt tiêu 172,67%, đỗ tương 84%, lạc 42%, ... Một số cây trồng có lợi thế cạnh tranh là gạo, cà phê, cao su, tiêu và điều. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Sản lượng các loại cây trồng đều tăng nhanh, trong khi đó diện tích gieo trồng các loại cây lương thực giảm từ 8,44 triệu ha năm 2000 xuống còn 8,27 triệu ha năm 2007, riêng diện tích trồng lúa giảm mạnh từ 7,66 triệu ha xuống còn 7,2 triệu ha. Về cơ bản đã khắc phục được tình trạng độc canh cây lúa trên phần lớn diện tích, làm giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác tăng từ 17 triệu đồng năm 2000 lên trên 30 triệu đồng năm 2007; Riêng ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đạt xấp xỉ 40 triệu đồng /ha. Diện tích đạt trên 50 triệu đồng/ha đã tăng từ 10% lên 20%. Chăn nuôi phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá. Từ năm 2000 đến 2007, ngành chăn nuôi đạt tốc độ tăng trưởng khá, tăng cao nhất là năm 2005 đạt 11,4%, năm 2007 tăng 4,6%. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng năm 2007 đạt 2,55 triệu tấn, tăng 80,4% so năm 2000. Chăn nuôi trâu bò tương đối ổn định qua các năm, tính bình quân giai đoạn 2000-2007, sản lượng thịt trâu, bò tăng bình quân 9,8%/năm. Đàn bò sữa phát triển nhanh, năm 2005 cả nước có 104 ngàn con, sản lượng sữa đạt 198 ngàn tấn, tăng gấp 4 lần so năm 2000 và tăng bình quân trên 30%/năm. Chăn nuôi gia cầm tăng trưởng bình quân 7,6%/năm giai đoạn 2000-2003. Đến năm 2007, tổng đàn gia cầm cả nước đạt 226 triệu con, đạt 358,8 ngàn tấn thịt hơi. Về cơ bản, ngành chăn nuôi nước ta đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và một phần xuất khẩu. Ngành lâm nghiệp phát triển và đạt được một số thành tựu: Tốc độ tăng trưởng của ngành lâm nghiệp bình quân đạt 1,4%/năm. Với thành tựu bảo toàn và phát triển được vốn rừng. Độ che phủ của rừng năm 1990 là 27,7%, đến năm 2005 đạt 37,3%. Từ năm 2000 đến nay, bình quân hàng năm trồng được gần 200 ngàn ha rừng. Các khâu khoanh nuôi tái sinh, khoán quản lý bảo vệ rừng theo phương thức”giao đất khoán rừng” đều đạt và vượt kế hoạch. Thành tựu đáng ghi nhận trong việc khai thác và chế biến lâm sản từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 rừng là tỷ lệ gỗ khai thác từ trồng đã tăng lên, từ 47,4% năm 1998 lên 62,4% năm 2000 và đạt cao hơn trong những năm gần đây. Ngành thuỷ sản đang vươn lên thành ngành mũi nhọn trong nông lâm thuỷ sản. Đến năm 2007, sản lượng thuỷ sản cả nước đạt hơn 4,15 triệu tấn, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2000. Thành tựu đáng chú ý nhất là diện tích và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tăng trưởng ở mức cao. So với năm 2000, năm 2007 diện tích nuôi tăng gấp 1,57 lần và sản lượng tăng gấp hơn 3,5 lần, đạt 2.085,2 ngàn tấn. Trong quá trình phát triển, các hoạt động khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản đã gắn kết chặt chẽ. Các khâu trọng yếu về hạ tầng kỹ thuật phục vụ nuôi trồng, khai thác, chế biến đã được đầu tư, từng bước hiện đại hoá. Hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến. Nghị định số 03/NĐ-CP năm 2000 của Chính phủ đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển. Năm 2006 cả nước có 72,02 ngàn hộ trang trại, tăng 16 ngàn hộ so với năm 2000, thu hút khoảng 240 ngàn lao động. Kinh tế hợp tác xã ngày càng phát triển, năm 2006 có 6.971 hợp tác xã, trong đó có 5.847 hợp tác xã cũ chuyển đổi, 1.124 hợp tác xã mới thành lập. Các hình thức liên doanh liên kết đã tạo ra những năng lực phát triển mới mang lại hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản phát triển sau đổi mới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng nhanh chóng, năm 2007 đạt trên 12 tỷ USD với 1.229,2 ngàn tấn cà phê, 152,5 ngàn tấn hạt điều, 82,9 ngàn tấn hạt tiêu, 114,5 ngàn tấn chè, cao su thiên nhiên đạt 714,9 ngàn tấn, thuỷ sản đạt 3,8 tỷ USD, tăng gấp 2,53 lần so năm 2000. Thị trường xuất khẩu được đa dạng hơn, có nhiều thị trường mới cho hàng nông, lâm, thuỷ sản. Bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp nông thôn nước ta còn gặp một số khó khăn, thách thức, đó là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển dịch chậm so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp thuỷ sản trong GDP cả nước đã chậm lại, năm 1990, tỷ trọng này là 38,74%, năm 2000 còn 24,53%, bình quân mỗi năm giảm 1,4%, nhưng giai đoạn 2001- 2007 chỉ giảm dưới 0,8%/năm, còn 20,3% năm 2007. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn thể hiện tính độc canh, tự túc, phân tán và quy mô nhỏ. Chăn nuôi chiếm tỷ trọng 24% và không vững chắc. Phương thức chăn nuôi phân tán dưới hình thức hộ gia đình với kỹ thuật thủ công và chăn nuôi tận dụng vẫn là phổ biến. Số trang trại chăn nuôi tuy có tăng lên nhưng mới chỉ chiếm khoảng 3% số trang trại cả nước và sản phẩm chăn nuôi của trang trại cũng chỉ chiếm khoảng 10% tổng sản phẩm chăn nuôi. Các sản phẩm trồng trọt xuất khẩu ngoài gạo, cao su, cà phê chỉ đạt mấy chục ngàn tấn/năm. Nhiều loại sản phẩm xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức tiểu ngạch sang Trung Quốc như rau, quả, cao su,... Dân số và lực lượng lao động còn lưu lại trong nông nghiệp nông thôn khá cao. Năm 2007, trong số trên 30 triệu lao động nông thôn, lao động sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm tới 23,89 triệu người và chưa có dấu hiệu thuyên giảm do tình trạng thất nghiệp (tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt trên 80% năm 2007) và tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm. Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam còn thấp. Chất lượng nông sản thấp, nguyên nhân chính là chúng ta chưa có đủ bộ giống cây trồng và vật nuôi cho sản phẩm chất lượng cao. Công nghệ bảo quản và chế biến nông sản chậm được đổi mới và chưa đồng bộ là nguyên nhân cố hữu nhất, tồn tại lâu nhất làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. Giá thành nông sản còn cao do nhiều nguyên nhân như giống kém, trình độ thâm canh còn hạn chế, tỷ lệ hao hụt trong các khâu thu hoạch, vận chuyển, bảo quản, chế biến khá cao; Sản xuất nông nghiệp phân tán với 9,78 triệu hộ nông nghiệp (năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 2006). Cơ sở hạ tầng dịch vụ thương mại hàng nông sản còn hạn chế, chi phí cao. Nạn chặt phá rừng và tình trạng cháy rừng chưa được ngăn chặn hữu hiệu. Giai đoạn 2001-2007, bình quân mỗi năm bị cháy hơn 5,5 ngàn ha rừng và bị chặt phá 3,32 ngàn ha gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế xã hội, môi trường. Mỗi năm vẫn còn tới hàng chục ngàn vụ vi phạm lâm luật về bảo vệ và phát triển rừng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như hoạt động của lực lượng kiểm lâm còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn kém,... nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là người dân chưa sống được nhờ nghề rừng. Thu nhập từ nông nghiệp giảm, phân hoá giàu nghèo trong nông thôn diễn ra với khoảng cách ngày càng xa hơn. Chất lượng tăng trưởng nông nghiệp thấp, mặc dù giá trị sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng 5,5%/năm nhưng chi phí sản xuất cao nên giá trị gia tăng của toàn ngành chỉ tăng 4%. Tỷ lệ giá trị gia tăng/giá trị sản xuất nông nghiệp giảm dần. Thu nhập bình quân/hộ giảm do giá cả các loại vật tư nông nghiệp ngày càng cao, gây bất lợi cho sản xuất nông nghiệp và các hộ nông dân[dt 8], [10]. Trong những năm tới, để phát triển nền nông nghiệp nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bền vững, cần phải xây dựng được một chiến lược phát triển nông nghiệp đúng đắn dựa trên các căn cứ khoa học sau: Thứ nhất, phải đánh giá một cách khách quan và sâu sắc chiến lược phát triển nông nghiệp trong giai đoạn trước, chỉ ra những thành tựu đã đạt được cũng như các hạn chế tồn tại. Thứ hai, phải căn cứ vào nguồn tài nguyên của đất nước, bao gồm tài nguyên về đất đai, thời tiết, khí hậu. Đất nước ta với nguồn tài nguyên phục vụ cho nông nghiệp có nhiều lợi thế, song cũng có những khó khăn lớn. Cần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 đánh giá đúng các lợi thế và những khó khăn trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nông nghiệp. Thứ ba, căn cứ vào cơ sở vật chất – kỹ thuật nông nghiệp bao gồm hệ thống công cụ máy móc, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Với hệ thống đạt ở mức nào, cần thiết phải điều chỉnh bổ sung và nâng cấp xây dựng nhằm hướng vào phục vụ chiến lược phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Thứ tư, căn cứ vào nguồn lao động và trình độ của người lao động: số lượng và chất lượng của nguồn lao động. Ở nước ta nguồn lao động nông nghiệp dồi dào, song chất lượng còn thấp, ít được đào tạo về kỹ thuật và quản lý, trình độ dân trí chưa cao. Thứ năm, căn cứ vào nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế về sản phẩm nông nghiệp. Ở từng giai đoạn, yêu cầu về số lượng, chất lượng và chủng loại các nông sản rất khác nhau ở trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Cần phân tích, đánh giá và dự báo về nhu cầu của thị trường một cách có căn cứ khoa học. Thứ sáu, căn cứ vào trình độ khoa học và công nghệ của thế giới, của nước ta và khả năng ứng dụng những thành tựu tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới vào điều kiện Việt Nam hiện nay và sắp tới. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đại hội X của Đảng đã chỉ ra chiến lược phát triển nông nghiệp của nước ta như sau: “Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn hướng tới xây dựng, phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành một nền nông nghiệp sạch, phấn đấu giá trị tăng thêm trong nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng 3-3,2%/năm”[7]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Từ chiến lược tổng quát trên, có thể xác định những nội dung chủ yếu là: + Phát triển một nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá có cơ cấu sản xuất ngày càng hợp lý. + Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, đa dạng có cơ cấu sản phẩm hàng hoá phong phú, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học -công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường. + Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành một nền nông nghiệp sạch. Mục tiêu phát triển: + Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và lâu dài. + Tăng nhanh sản xuất nông sản hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu. + Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư nông nghiệp và nông thôn. + Bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững[9]. 1.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết - Sau 5 năm (2003-2007) ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh đã đạt được những kết quả như thế nào (về tăng trưởng, cơ cấu ngành và nội bộ ngành, chỉ tiêu sản xuất?,... những vấn đề nào còn tồn tại hạn chế?,...) - Những nguyên nhân nào đưa tới kết quả trên và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế? Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 - Đặc thù và thế mạnh của ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh hiện nay là gì? - Hướng phát triển của ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh Vĩnh phúc trong 5-10 năm tới là gì? - Hệ thống giải pháp nào là quan trọng để ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh phát triển bền vững? 1.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 1.2.2.1 – Chọn địa điểm nghiên cứu - Vĩnh Phúc có đặc thù là địa hình có cả 3 vùng: miền núi, trung du và đồng bằng; Căn cứ vào đặc điểm địa hình của từng huyện, thành, thị và đặc trưng sản xuất của từng vùng, tác giả đã chọn 3 xã đại diện cho 3 vùng sinh thái để nghiên cứu. Mẫu chọn ra vừa phải đảm bảo tính đại diện cho từng vùng, vừa đại diện và suy rộng cho cả tỉnh. + Xã Vĩnh Thịnh - huyện Vĩnh Tường: Vĩnh Tường là huyện đồng bằng, 1 trong 2 huyện trọng điểm về lúa của tỉnh, năng suất lúa ở đây cao nhất tỉnh (60-65 tạ/ha). Xã Vĩnh Thịnh được chọn điều tra có thể đại diện cho vùng đồng bằng của tỉnh, số hộ điều tra chọn mẫu là 50 hộ. Xã Vĩnh Thịnh có diện tích 10,01 km2, dân số 8.909 người, tổng số hộ là 1.928 hộ. Sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Thịnh ngoài cây lúa, các hộ còn trồng các loại cây như ngô, lạc, đậu tương, các loại cây ăn quả như chuối, nhãn, hồng,...Chăn nuôi bò sữa là một thế mạnh của Vĩnh thịnh, ngoài ra các hộ còn chăn nuôi lợn, gia cầm,... + Xã Đồng Thịnh - huyện Lập Thạch: là xã miền núi, có lợi thế về phát triển đồi rừng, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc. Với diện tích là 11,35 km2, dân số năm 2006 là 8.178 người, số hộ là 1.867 hộ. Sản xuất nông nghiệp ở Đồng Thịnh chủ yếu tập trung vào cây lúa, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 một phần nuôi trồng thuỷ sản ở diện tích chiêm trũng nhưng không đáng kể. Số hộ điều tra chọn mẫu là 50 hộ. + Xã Đồng Tĩnh - huyện Tam Dương: là xã thuộc vùng trung du có lợi thế về phát triển cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm. Đồng Tĩnh có diện tích 10,29 km2, dân số 10.377 người và 2.796 hộ. Dân số chủ yếu sống bằng nghề nông và làm thuê vào những tháng nông nhàn, do vậy đời sống của nhân dân trong xã còn nghèo, thu nhập thấp. Số hộ điều tra chọn mẫu là 50 hộ. 1.2.2.2 – Thu thập số liệu a - Thu thập số liệu đã công bố Thu thập và tính toán từ những số liệu đã công bố của các cơ quan thống kê Trung ương, các báo chí chuyên ngành và những báo cáo khoa học đã được công bố, các số liệu đã công bố của Cục Thống kê tỉnh và phòng Thống kê của các huyện, các số liệu của sở Nông nghiệp và PTNT, sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc. b - Thu thập số liệu mới Được thực hiện qua các phương pháp sau: - Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA): Đi thực tế để đánh giá thực trạng, thu thập những thông tin qua những người dân và cán bộ ở vùng nghiên cứu, thu thập những tài liệu, thông tin đã có tại nơi nghiên cứu. - Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA): Trực tiếp tiếp xúc với người dân tại nơi nghiên cứu, tạo điều kiện và thúc đẩy sự tham gia của người dân vào những vấn đề cần nghiên cứu, đàm thoại với họ để thu thập những thông tin nhằm nắm được thực trạng sản xuất, những khó khăn, mong muốn, .... của người dân trong việc phát triển sản xuất, tăng thu nhập của hộ,... - Phương pháp điều tra hộ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 - Chọn hộ điều tra: áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên (chọn điểm, chọn hộ), từ 3 vùng chọn ra 3 xã đại diện, đây là các xã cơ bản là thuần nông, mỗi xã chọn 50 hộ. Phân ra các loại hộ: hộ nông nghiệp, hộ thuỷ sản, hộ ngành nghề dịch vụ. Tỷ lệ giữa các loại hộ được lấy theo tỷ lệ các loại hộ của từng huyện (theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn năm 2006 của Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc), - Nội dung phiếu điều tra: Phiếu điều tra có các thông tin chủ yếu như nhân khẩu, lao động, tuổi, trình độ văn hoá của chủ hộ; các nguồn lực của hộ như ruộng đất, tư liệu sản xuất; Tình hình sản xuất các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản, ngành nghề,... Chi phí sản xuất từng ngành, thu nhập,... - Phương pháp điều tra: sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp linh hoạt với hộ nông dân, đàm thoại với họ thông qua một loạt các câu hỏi mở phù hợp với tình hình thực tế, sử dụng linh hoạt và thành thạo các dạng câu hỏi: như thế nào, bao nhiêu? ... Phỏng vấn số hộ đã chọn, kiểm tra tính thực tiễn của thông tin thông qua quan sát trực tiếp. 1.2.2.3 – Phương pháp phân tích - Phương pháp duy vật biện chứng: Phương pháp chung và tổng quát cho toàn bộ luận văn là sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các lý luận kinh tế học. Với các phương pháp phân tích, tổng hợp, suy diễn và quy nạp sẽ giúp xem xét, đánh giá các sự việc, hiện tượng trong mối liên hệ hệ thống có liên quan, có tác động ảnh hưởng đến nhau trong quá trình chuyển biến và phát triển, từ đó rút ra những kết luận có tính chất quy luật, thực chất và bản chất của từng vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở các lý luận, phạm trù kinh tế học hiện nay, luận văn còn sử dụng các quan điểm về lợi thế, tiềm năng, nguồn lực, các yếu tố đầu vào, đầu ra, năng suất, sản lượng, chi phí và kết quả, hiệu quả kinh tế,... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 - Phương pháp thống kê kinh tế: Phương pháp này giúp cho việc thu thập điều tra được những tài liệu mang tính đại diện cao, phản ánh chân thực hiện tượng nghiên cứu, giúp cho việc tổng hợp tài liệu, nghiên cứu các chỉ tiêu được đúng đắn, khoa học và khách quan, phản ánh đúng nội dung kinh tế cần nghiên cứu. Các phương pháp phân tổ, số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân trong thống kê được vận dụng như là những phương pháp chủ yếu để nghiên cứu, học tập. - Phương pháp hàm tăng trưởng: Yt = Y0(1+r1)(1+r2)(1+r3).....(1+rt). Được sử dụng để dự kiến các chỉ tiêu trong những năm tương lai, trong đó : Yt : là giá trị của chỉ tiêu dự kiến năm t, Y0 : là giá trị của chỉ tiêu năm gốc. rt: là tốc độ tăng trưởng dự kiến của năm t. - Phương pháp chuyên gia: Được sử dụng nhằm tranh thủ ý kiến đánh giá của các chuyên gia về kinh tế, kỹ thuật, thông qua các tài liệu nghiên cứu và ý kiến trực tiếp của học làm căn cứ cho việc đánh giá tiềm năng, định hướng và những giải pháp cho phát triển kinh tế nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc. 1.2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 1.2.3.1 – Các chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản như: - Giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chia ra các lĩnh vực: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. Giá trị sản xuất/đơn vị diện tích;... - Giá trị gia tăng toàn ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chia ra các lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. - Tổng đàn gia súc, gia cầm,... - Năng suất, sản lượng cây trồng, sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, khai thác; Sản lượng thịt hơi xuất chuồng, sản lượng gỗ khai thác;... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 - Thu nhập = Tổng thu – Tổng chi. + Trong trồng trọt: Tổng thu trên 1 đơn vị diện tích = sản lượng trên 1 đơn vị diện tích x đơn giá (giá thực tế) Tổng chi trên 1 đơn vị diện tích: bao gồm chi phí mua giống cây, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công lao động, chi khác,... + Đối với chăn nuôi: Tổng thu(tính cho 1 loại vật nuôi) = sản lượng thịt hơi xuất chuồng x đơn giá (giá thực tế) Tổng chi bao gồm chi phí mua giống con, chi phí mua thức ăn, chi phí về thú y, chi phí chuồng trại, công lao động, ... 1.2.3.2 – Các chỉ tiêu phản ánh phân bổ và hiệu quả sử dụng nguồn lực - Diện tích đất nông nghiệp, diện tích tưới, tiêu, diện tích trồng cây hàng năm, cây lâu năm, diện tích nuôi trồng thuỷ sản, diện tích trồng rừng,..... - Diện tích trồng rừng tập trung, diện tích trồng cây phân tán, diện tích rừng chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, sản lượng gỗ, củi khai thác,.... -................ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA TỈNH VĨNH PHÚC 2.1.1. Vị trí địa lý Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng có toạ độ địa lý 21 008’ - 21019’ độ vĩ Bắc và 105009’ - 105047’ độ kinh Đông. Địa giới hành chính: - Phía bắc: Giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang. - Phía nam: Giáp tỉnh Hà tây. - Phía đông: Giáp thành phố Hà nội. - Phía tây: Giáp tỉnh Phú Thọ. 2.1.2. Địa hình Là tỉnh đồng bằng, nhưng Vĩnh Phúc có đủ 3 vùng địa hình là: Đồng bằng, trung du và miền núi. Phía bắc của tỉnh có dãy núi Tam Đảo với đỉnh Đạo Trù cao 1.592m, phía Tây Nam được bao bọc bởi 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Lô tạo nên địa thế của tỉnh thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Nhìn chung, về địa hình, tỉnh Vĩnh Phúc có thể chia thành 3 vùng lớn như sau: Vùng đồng bằng: Bao gồm tiểu vùng đồng bằng phù sa mới ven sông Hồng và sông Lô có địa hình khá bằng phẳng, chạy dài từ các xã nam Lập Thạch, qua huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, huyện Mê Linh và tiểu vùng phù sa cũ lượn sóng chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ phía bắc huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, vùng giữa Mê Linh và nam Bình Xuyên. Vùng đồi gò lượn sóng xen kẽ ruộng bậc thang: Tập trung thành vùng rộng lớn, thuộc phía bắc các huyện Mê Linh, Bình Xuyên, Lập Thạch và phần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 lớn diện tích huyện Tam Dương, thành phố Vĩnh Yên, có độ dốc phổ biến từ 15 0 – 250. Vùng đồi núi: Tập trung ở phía bắc của tỉnh, chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, từ Quang Yên (Lập Thạch) đến Ngọc Thanh (Mê Linh), vùng này có độ dốc trung bình > 250. 2.1.3. Khí tƣợng thuỷ văn - Khí hậu: Tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đặc trưng về mùa đông thì lạnh, khô và ít mưa, mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều. Theo số liệu của Trung tâm khí tượng thuỷ văn Vĩnh Phúc: - Nhiệt độ: + Nhiệt độ TBNN: 230C. + Nhiệt độ cao nhất trong năm: 39,40C. + Nhiệt độ thấp nhất trong năm: 3,70C. + Nhiệt độ TBNN của vùng núi Tam Đảo: 180C -190C. - Độ ẩm, lượng bốc hơi: + Độ ẩm TBNN: 81,2% + Độ ẩm cao nhất: 100% + Độ ẩm thấp nhất: 14% + Tổng lượng bốc hơi TBNN: 1.119mm. + Lượng bốc hơi tháng thấp nhất TBNN: 63 mm (tháng2). + Tổng lượng bốc hơi tháng cao nhất TBNN: 155,7mm (tháng 5) - Số giờ nắng: + Số giờ nắng TBNN: 1.072 giờ /năm. + Số giờ nắng tháng cao nhất TBNN: 240 giờ (tháng 7) + Số giờ nắng tháng thấp nhất TBNN: 52 giờ (tháng2) - Lượng mưa: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Vĩnh Phúc nằm trong vùng trung tâm mưa lớn của miền Bắc. Lượng mưa lớn nhất đo được tại tâm mưa Tam Đảo là 2.757 mm; các vùng đồng bằng như Yên Lạc, Vĩnh Tường, Mê Linh lượng mưa TBNN từ 1.500- 1.600mm. Theo số liệu của Trung tâm khí tượng thuỷ văn Vĩnh Phúc: + Lượng mưa TBNN: 1.679mm. + Lượng mưa năm cao nhất: 2.638mm (1997). + Lượng mưa năm thấp nhất: 817,8 mm (năm 1998). Lượng mưa phân phối không đều trong năm, chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm từ 80 - 85% lượng mưa cả năm; số còn lại vào mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. 2.1.4. Thuỷ văn, sông ngòi: Hệ thống sông suối, hồ ao trên địa bàn tỉnh khá phong phú nhưng chế độ thuỷ văn phụ thuộc chủ yếu hai sông chính là: Sông Hồng: Bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc, đoạn chảy qua địa phận Vĩnh Phúc dài khoảng 47km, lưu lượng nước trung bình cả năm là 3.730m 3 /s (cao nhất là 22.000 m3/s - số liệu năm 1971; thấp nhất 1.010 m3/s - số liệu năm 1994). Vào mùa lũ mực nước sông tại Việt Trì theo cấp báo động I: 13,63m; báo động II: 14,85m; báo động III: 15,85m. Như vậy, mực nước bình thường trong mùa lũ đã cao hơn mặt đất tự nhiên trong nội đồng từ 3 - 5m, nên việc tiêu nước tự chảy ra sông Hồng vào mùa lũ là không thể thực hiện được và tiêu bằng động lực cũng gặp khó khăn. Sông Lô: Bắt nguồn từ Vân Nam(Trung Quốc), chảy qua địa phận Vĩnh Phúc với chiều dài khoảng 35km. Lưu lượng nước trung bình cả năm là 1.245m 3 /s (cao nhất là 7.530 m3/s - năm 2002; thấp nhất 90,8 m3/s - năm 2005). Do nằm ở khu vực có địa hình cao thấp không đều, khúc khuỷu, lòng sông hẹp nên lũ sông Lô lên xuống nhanh. Mực nước mùa lũ cao hơn mặt đất tự nhiên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 trong nội đồng nên việc tiêu tự chảy của khu vực Lập Thạch về mùa lũ không thể thực hiện được. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn một số con sông nhỏ như: - Sông Phó Đáy: Bắt nguồn từ các dãy núi huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) và cửa ra tại Bạch Hạc với tổng chiều dài 152 km. Sông Phó Đáy có độ dốc lớn, thường gây xô lũ nhanh, tác hại lớn vào mùa mưa. - Sông Phan: Chiều dài tính từ cống 3 cửa An Hạ (An Hoà - Tam Dương) đến Hương Canh là 58km. Lưu lượng dòng chảy chủ yếu do mưa trong lưu vực và nước hồi quy của hệ thống thuỷ nông Liễn Sơn. Về mùa khô lưu lượng rất nhỏ, nhưng về mùa mưa lũ thì mực nước dâng lên rất cao (đối với thượng nguồn và đoạn giữa từ 11,0m - 12,0m, ở đoạn cuối sông từ 8,0m - 8,5m), vì vậy có tới 70% diện tích canh tác trong khu vực không có khả năng tiêu tự chảy được. Mặt khác, do sông gấp khúc, nhiều đoạn bị bồi lấp thu hẹp dòng chảy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ tiêu thoát lũ nội đồng. - Sông Cà Lồ: Là một chi lưu của sông Cầu, bắt nguồn từ Hương Canh - Bình Xuyên chảy qua Phúc Yên, Mê Linh và huyện Sóc Sơn (Hà Nội) đổ ra sông Cầu tại cửa Phúc Lập Phương. Tổng chiều dài 90 km (tính trong địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc), chủ yếu có tác dụng cung cấp nước tưới cho diện tích đất canh tác ven sông. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn nhiều sông, suối nhỏ bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo và núi Sáng Sơn như: sông Tranh (Tam Dương) dài 21 km; sông Cầu Tôn (Bình Xuyên) dài 19,5 km; sông Bá Hanh (Bình Xuyên, Mê Linh) dài 19,5 km; Ngòi Cầu Ngạc (Lập Thạch) dài 10,7 km; Ngòi Cầu Đọ (Lập Thạch) dài 11,2 km; Ngòi Cầu Mai (Lập Thạch) dài 7 km; Ngòi Cầu Triệu (Lập Thạch) dài 9,3 km. Bên cạnh đó, hệ thống hồ, đầm như: Hồ Đại Lải, hồ Làng Hà, hồ Xạ Hương, hồ Vĩnh Thành, hồ Vân Trục, đầm Rưng, đầm Vạc...có tác dụng trữ nước tưới, nuôi trồng thuỷ sản, điều hoà khí hậu, tạo cảnh quan môi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 trường sinh thái, phục vụ du lịch, điều tiết lũ cho tiểu vùng trong mùa mưa lũ. 2.1.5. Đất đai, thổ nhƣỡng 2.1.5.1. Đất đai theo công dụng kinh tế Vĩnh Phúc là tỉnh có diện tích thuộc loại trung bình trong cả nước với tổng diện tích đất tự nhiên 137.340,96 ha. Phân bố các loại đất theo công dụng kinh tế như sau: * Đất nông lâm nghiệp thuỷ sản: 94.445,48 ha chiếm 68,77% tổng diện tích đất toàn tỉnh, chia ra: - Đất sản xuất nông nghiệp: 58.923,7 ha, trong đó: đất trồng cây hàng năm là 50.288,14 ha, đất trồng cây lâu năm: 8.635,57 ha. - Đất nuôi trồng thuỷ sản: 2.611,69 ha. - Đất lâm nghiệp: Có tổng diện tích 32.879,07 ha, bằng 23,94% tổng diện tích đất tự nhiên. * Đất phi nông nghiệp: 39.433,79 ha, chiếm 28,7% diện tích tự nhiên, gồm đất ở, đất chuyên dùng, đất sông suối,... * Đất chưa sử dụng: 3.461,69 ha, chiếm 2,5% tổng diện tích đất tự nhiên. Nhìn chung, diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Vĩnh Phúc thấp so với các tỉnh lân cận và cả nước. Bình quân diện tích đất trồng cây hàng năm chỉ đạt 422,4 m2/người, ruộng đất manh mún, số hộ có diện tích đất sản xuất nông nghiệp dưới 0,5 ha chiếm tới 95,64% tổng số hộ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp. Do tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hoá nhanh, nên diện tích đất canh tác cây hàng năm giảm khá nhanh (năm 2006 giảm 845 ha, năm 2007 giảm 876,4 ha). Đây là một áp lực không nhỏ đối với phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp - thuỷ sản của tỉnh trong những năm tới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Bảng 2.1: ĐẤT ĐAI PHÂN THEO CÔNG DỤNG KINH TẾ Đơn vị tính: ha Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh 07/06(%) TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN 137224,14 137224,14 137340,96 100,1 I. Đất nông nghiệp 96298,7 95380,4 94445,5 98,1 1. Đất sản xuất nông nghiệp 60679,21 59814 58923,7 97,1 1.1. Đất trồng cây hàng năm 52009,96 51164,6 50288,1 96,7 1.2. Đất trồng cây lâu năm 8669,25 8649,42 8635,57 99,6 2. Đất lâm nghiệp 33089,12 33013,7 32879,1 99,4 2.1. Đất rừng sản xuất 10948,82 10879,1 10824,6 98,9 2.2. Đất rừng phòng hộ 6703,07 6697,37 6617,21 98,7 2.3. Đất rừng đặc dụng 15437,23 15437,5 15437,2 100,0 3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 2498,53 2520,88 2611,69 104,5 4. Đất nông nghiệp khác 31,84 31,84 31,01 97,4 II. Đất phi nông nghiệp 37400,48 38295,4 39433,8 105,4 1. Đất ở 8404,56 8607,2 8689,15 103,4 2. Đất chuyên dùng 18808,12 19631,6 20684,5 110,0 3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng 161,77 165,66 166,65 103,0 4. Đất nghĩa trang nghĩa địa 984 900,18 931,99 94,7 5. Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 9117,01 8975,73 8945,96 98,1 6. Đất phi nông nghiệp khác 15,02 15,02 15,56 103,6 III. Đất chƣa sử dụng 3524,96 3548,38 3461,69 98,2 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2.1.5.2- Đặc điểm thổ nhưỡng Với địa hình khá phức tạp đã tạo nên sự đa dạng về phân loại và chất lượng đất. Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất và đánh giá đất tỉnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Vĩnh Phúc theo phương pháp phân loại và đánh giá đất của FAO/UNESCO (Thực hiện năm 2003) thì toàn bộ diện tích đất canh tác nông lâm nghiệp của tỉnh được phân thành 6 nhóm đất cấp I, 12 loại đất cấp II và 47 loại đất phụ (cấp III). a - Nhóm đất phù sa: Có diện tích 29.830,15 ha,( bằng 21,74% tổng diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh), được phân bố ở tất cả các huyện trên địa bàn tỉnh và được chia thành 2 nhóm nhỏ như sau: - Đất phù sa trung tính ít chua: Có diện tích là 15.636, 77 ha. Phân bố ở các huyện Mê Linh; Bình Xuyên; Tam Dương; Yên Lạc; Vĩnh Tường. Đất được hình thành do sự bồi tụ phù sa của hệ thống sông Hồng. Thích hợp trồng các loại cây lương thực (lúa, ngô), cây màu và cây công nghiệp (đậu tương, dâu, mía), cây rau, hoa, nuôi trồng thuỷ sản (vùng có địa hình thấp trũng). - Đất phù sa chua: Có diện tích 14.193, 38 ha. Phân bố ở các huyện Mê Linh; Bình Xuyên; Lập Thạch; Tam Dương; Yên Lạc; Vĩnh Tường. Đất được hình thành chủ yếu do sự bồi tụ phù sa của sông Lô, sông Phó Đáy. Thích hợp trồng các loại cây lương thực(lúa, ngô), cây màu và cây công nghiệp(đậu tương, lạc), cây rau, hoa, nuôi trồng thuỷ sản(vùng có địa hình thấp trũng). b - Nhóm đất Glây: Tổng diện tích đất Glây trong toàn tỉnh là 3.685,91 ha(bằng 2,69 % tổng diện tích đất tự nhiên). Phân bố ở các huyện Mê Linh; huyện Bình Xuyên; huyện Lập Thạch; huyện Tam Dương; huyện Yên Lạc; huyện Vĩnh Tường; thành phố Vĩnh Yên. Đất được hình thành ở vùng có địa hình thấp trũng, bị ngập nước quanh năm. Thích hợp với nuôi trồng thuỷ sản hoặc kết hợp trồng lúa và nuôi trồng thuỷ sản. c - Nhóm đất cát: Có tổng diện tích là 4.236,58 ha(bằng 3,09 % tổng diện tích đất tự nhiên). Phân bố ở các huyện: Mê Linh; Bình Xuyên; Lập Thạch; Tam dương; thị xã Vĩnh Yên. Đất được hình thành do sự bồi tụ tại chỗ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 sản phẩm thô được rửa trôi từ đồi núi. Thích hợp với các loại cây rau, màu (ngô, đậu tương, lạc). d - Nhóm đất loang lổ: Có tổng diện tích là 11.887,3 ha(bằng 8,67% diện tích đất tự nhiên). Phân bố chủ yếu ở các huyện Bình Xuyên, Tam Dương, Yên Lạc và Vĩnh Yên. Đất được hình thành trên nền phù sa cũ có sản phẩm feralitic. Thích hợp với các loại cây rau, hoa, cây công nghiệp ngắn ngày(lạc, đậu tương), cây dược liệu(thanh hao hoa vàng...). e - Nhóm đất xám: Có tổng diện tích là 42.435,27 ha, bằng 30,94% diện tích đất tự nhiên. Phân bố chủ yếu ở các huyện Mê Linh, Bình Xuyên, Lập Thạch, Tam Dương. Đất được hình thành chủ yếu do sự bồi tụ các sản phẩm rửa trôi ở các thung lũng xen kẽ trong vùng đồi núi và hình thành trên nền phù sa cổ, đá nai, phiến thạch, granit, quăczit, cuội kết…. ở vùng đồng bằng thích hợp với trồng lúa và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồi núi thích hợp với trồng cây ăn quả(độ dốc < 150 ), cây lâm nghiệp theo phương thức sản xuất nông lâm kết hợp với hình thức trang trại. f - Nhóm đất tầng mỏng: Có tổng diện tích là 1.264,78 ha(bằng 0,92% diện tích đất tự nhiên). Phân bố ở các huyện Mê Linh, Lập Thạch, Tam Dương, thành phố Vĩnh Yên. Đất được hình thành chủ yếu trên nền đá phiến thạch. Có thể cải tạo trồng cây ăn quả với đất có độ dốc < 150 và trồng cây lâm nghiệp với đất có độ dốc > 150[12]. Nhận xét chung: - Đất đai của Vĩnh Phúc đa dạng nhưng được phân bố khá tập trung, là điều kiện thuận lợi để có thể phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng vừa đa canh vừa chuyên canh với nhiều loại cây trồng khác nhau như: Cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây rau hoa, cây dược liệu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 - Đối với đất ruộng: Đa số diện tích đất có địa hình vàn và cao(bằng 81%), được tưới tiêu chủ động (85.88%), đất có thành phần cơ giới trung bình và nhẹ. Độ phì đất ở mức trung bình là chủ yếu với diện tích là 45.355,78 ha, phần lớn các yếu tố đất đai khá thuận lợi cho sản xuất. Tuy vậy diện tích đất ruộng cũng có một số hạn chế là: Một phần khá lớn diện tích đất được phân loại thuộc những nhóm đất xấu, có thành phần cơ giới nhẹ, hạn chế trong thâm canh, tăng năng suất cây trồng, bao gồm đất loang lổ chua bạc màu, đất xám bạc màu, đất cát. - Đối với đất đồi núi: có diện tích là 39.470,07 ha. Nhìn chung các yếu tố đất đai của đất đồi núi là không thuận lợi trong quá trình sử dụng. Yếu tố hạn chế cơ bản trong sử dụng là độ dốc của đất đồi núi trong tỉnh khá lớn, tầng đất canh tác mỏng(diện tích có độ dày tầng đất <50 cm là 24.879,02 ha, bằng 63,03% diện tích đất đồi núi). 2.1.6. Tài nguyên rừng Vĩnh Phúc có 27.827,84 ha rừng, chiếm 84,6% diện tích đất lâm nghiệp, trong đó rừng tự nhiên là 9.436,27 ha chiếm 34% diện tích đất có rừng, rừng trồng 18.391,06 ha, chiếm 66%[14]. Rừng của Vĩnh phúc có số lượng động thực vật phong phú, nhiều loại lâm sản có giá trị, một số loài đặc hữu trong sách đỏ cần được bảo vệ và đang được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm. Phần lớn tài nguyên rừng có giá trị nằm trong khu rừng tự nhiên thuộc Vườn quốc gia Tam Đảo, núi Sáng; lâm sản còn lại ở rừng mới tái sinh và rừng trồng. Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, công tác lâm nghiệp của tỉnh có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái cho toàn vùng và thủ đô Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 2.2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI 2.2.1. Điều kiện kinh tế Sau khi được tái lập từ năm 1997 đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm liên tục ở mức cao so với mức bình quân chung của cả nước và các tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ, GDP bình quân giai đoạn 2003- 2007 đạt 18,8%/năm. Năm 2007 đạt 9.078,7 tỷ đồng, tăng gấp 2,37 lần so năm 2002. Kinh tế của tỉnh phát triển tương đối toàn diện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp - thuỷ sản. Đến năm 2007, Vĩnh Phúc đã trở thành tỉnh có cơ cấu công nghiệp xây dựng 61,06%, Dịch vụ 24,68% và Nông lâm nghiệp thuỷ sản 14,25%. Nhờ đó đời sống của nhân dân trong tỉnh từng bước được cải thiện, GDP bình quân đầu người năm 2007 đạt 7,63 triệu đồng, tăng 2,26 lần so năm 2002 (giá SS 94), tính theo giá thực tế năm 2007 đạt 15,27 triệu đồng, cao hơn mức trung bình cả nước là 13,7%[3]. Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm tăng nhanh, năm 2007 đạt 5.642,32 tỷ đồng, gấp 3,42 lần so năm 2002, tỷ lệ huy động vào ngân sách trên GDP đạt trung bình 31-32%[3]. Thu ngân sách của tỉnh tăng nhanh và mức độ tích luỹ trong dân cư khá đã tạo điều kiện huy động các nguồn vốn vào đầu tư cho sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh được đầu tư mạnh mẽ: hệ thống đường giao thông từ quốc lộ đến giao thông nông thôn được nâng cấp, cải tạo; Hệ thống điện được đầu tư mới đã nâng cao công suất cung cấp điện, đáp ứng đầy đủ cho sản xuất và tiêu dùng; Hệ thống trường học, trạm y tế, chợ, thuỷ lợi đê điều, các công trình trụ sở của các cơ quan Nhà nước từ tỉnh đến cơ sở được xây dựng mới,....đã làm thay đổi bộ mặt tỉnh lỵ và vùng nông thôn Vĩnh Phúc, tạo điều kiện phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Bảng 2.2: MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ CHỦ YẾU TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 Tốc độ tăng bình quân (2003-2007) % 1 Giá trị tăng thêm trên địa bàn theo giá thực tế Tỷ đồng 6498,13 9961,28 18184 28,2 + Công nghiệp-xây dựng " 3015,76 5223,87 11104 37,8 + Dịch vụ " 1843,55 2697,7 4488,6 24,4 + Nông lâm nghiệp thuỷ sản " 1638,83 2039,69 2591,5 11,5 2 Giá trị tăng thêm trên địa bàn theo giá so sánh 94 Tỷ đồng 4581,72 6220,98 9078,8 18,8 + Công nghiệp-xây dựng " 2074,48 3183,9 5204,1 26,4 + Dịch vụ " 1281,61 1667,1 2437,5 17,8 + Nông lâm nghiệp thuỷ sản " 1225,62 1369,96 1437,1 4,7 3 Cơ cấu kinh tế (giá thực tế) % 100,00 100,00 100,00 + Công nghiệp-xây dựng % 46,41 52,44 61,06 + Dịch vụ % 28,37 27,08 24,68 + Nông lâm nghiệp thuỷ sản % 25,22 20,48 14,25 3 Tổng thu ngân sách trên địa bàn Tỷ đồng 1813,95 3442,92 5642,3 27,9 Tỷ lệ huy động ngân sách/GDP % 27,91 34,56 31,03 4 Tổng chi ngân sách địa phƣơng Tỷ đồng 1230,77 1885,7 4356,2 39,2 5 Giá trị tăng thêm bình quân/ngƣời - Giá thực tế Triệu đồng 5,66 8,52 15,27 27,1 - Giá ss 94 " 3,99 5,32 7,63 17,7 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 2.2.2. Điều kiện xã hội 2.2.2.1- Dân số Dân số trung bình toàn tỉnh năm 2007 có 1.190,428 ngàn người, sống trên địa bàn 9 huyện, thị. Mật độ bình quân 867 người/km2, gấp 3 lần so với mức bình quân chung của cả nước và thấp hơn mức bình quân của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Mặc dù cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và kéo theo tốc độ tăng dân số thành thị khá nhanh(10,5%/năm giai đoạn 2003 – 2007), nhưng do đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh với xuất phát điểm là một tỉnh nông nghiệp, đến nay dân số sinh sống ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ cao(82,77%). Mặt khác, dân cư phân bố không đều giữa các vùng trong tỉnh. Vùng đồng bằng có mật độ dân cư cao nhất, bình quân 1.302 người/km2; vùng trung du bình quân 601 người/km2; miền núi bình quân 559 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên những năm qua đã giảm đáng kể, từ 11,72‰ năm 2002 xuống còn 11,45‰ năm 2007, tỷ lệ sinh giảm từ 15,87‰ năm 2002 xuống còn 15,54‰ năm 2007[3]. 2.2.2.2. Lao động và việc làm Năm 2007, tổng nguồn lao động của tỉnh có 804,18 nghìn người, chiếm 67,55% dân số, trong đó lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế trên địa bàn có 680,83 nghìn người. Chia theo các ngành nghề, lĩnh vực như sau: Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 375,14 nghìn người chiếm tỷ lệ 55,1%; Công nghiệp - xây dựng 140,92 nghìn người chiếm tỷ lệ 20,7%; Thương mại - dịch vụ 164,77 nghìn người chiếm tỷ lệ 24,2%[3]. Quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế những năm qua đã làm cho lực lượng lao động trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp - thuỷ sản giảm, lao động công nghiệp, dịch vụ tăng dần. Giai đoạn 2003 – 2007, lao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Bảng 2.3: CÂN ĐỐI LAO ĐỘNG XÃ HỘI CÓ ĐẾN 1/7 HÀNG NĂM Đơn vị tính: 1000 người Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 Tốc độ tăng bình quân (2003-2007)(%) A. Nguồn lao động (1a + 2) 731,17 765,42 804,18 2,41 1. Số người trong tuổi lao động 707,40 736,75 776 2,34 a. Có khả năng lao động 697,81 729,19 767,08 2,39 b. Mất khả năng lao động 9,59 7,56 8,92 -1,79 2. Số người ngoài tuổi lao động thực tế có tham gia lao động 33,36 36,23 37,1 2,69 - Trên độ tuổi lao động 27,01 31,42 33,75 5,73 - Dưới độ tuổi lao động 6,35 4,81 3,35 -14,77 B. Phân phối nguồn lao động 731,17 765,42 804,18 2,41 1. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 634,80 652,59 680,83 1,77 - Nông, lâm nghiệp, thủy sản 505,45 391,1 375,14 -7,18 - Công nghiệp, xây dựng 59,91 113,75 140,92 23,84 - Dịch vụ 69,44 147,74 164,77 24,11 2. Số người trong độ tuổi có khả năng lao động đang đi học 63,22 78,15 90,32 9,33 - Học phổ thông 45,66 53,02 53,47 4,03 - Học chuyên môn nghiệp vụ 17,56 25,13 36,85 20,36 3. Số người trong độ tuổi có khả năng lao động làm nội trợ 10,98 14,02 15,16 8,40 4. Số người trong độ tuổi có khả năng lao động không làm việc 5.Số người trong độ tuổi có khả năng lao động có nhu cầu làm việc đang không có việc làm 22,17 20,66 17,87 -5,25 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 động nông lâm nghiệp thuỷ sản giảm bình quân 5,8%/năm, lao động công nghiệp - xây dựng tăng 21,3%/năm, lao động dịch vụ tăng 20,3%/năm. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn nhìn chung còn chậm do các nhà máy hiện nay phần lớn áp dụng công nghệ cao, sử dụng ít lao động và đòi hỏi lao động có tay nghề, trong khi lao động nông nghiệp phần lớn chưa được qua đào tạo(90,42%)[10], chưa có tác phong công nghiệp, đây là khó khăn trong việc giải quyết lao động dư thừa ở khu vực nông thôn Vĩnh Phúc hiện nay. 2.2.2.3. Tình hình xã hội Song song với phát triển kinh tế, trong những năm qua tỉnh Vĩnh Phúc đã chú trọng, quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hoá - xã hội và đạt được những kết quả nhất định. Công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo được quan tâm, tỉnh đã áp dụng nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm như: Đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề, nhất là đào tạo nghề có địa chỉ tại địa phương nơi bị thu hồi đất để phát triển công nghiệp; Có cơ chế ưu tiên cho các doanh nghiệp tuyển dụng lao động tại địa phương; Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho các đối tượng gia đình chính sách, hộ nghèo,....; Cho vay tiền các đối tượng đi xuất khẩu lao động. Chính vì vậy bình quân mỗi năm, toàn tỉnh có trên 20 ngàn người được giải quyết việc làm; Công tác chăm sóc người có công với cách mạng, gia đình chính sách được quan tâm. Từ năm 2003 đến năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm, tính theo chuẩn mới, năm 2007 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 12,5%, giảm 2,4% so năm 2006. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 20%, giảm 8,6% so năm 2002. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị ngày càng giảm, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn ngày càng tăng lên. Công tác giáo dục đạt được kết quả khá, 100% các xã, phường, thị trấn đã hoàn thành chương trình phổ cập trung học cơ sở. 99,5% trẻ em 6 tuổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 được vào lớp 1;89,3% trẻ khuyết tật được đi học. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp toàn tỉnh hàng năm đều đạt từ 97-99%; 100% các trường học đã được kiên cố hoá, trong đó có trên 70% phòng học cao tầng. Công tác chăm sóc sức khoẻ và khám, chữa bệnh cho nhân dân được quan tâm. Các chương trình quốc gia về y tế được triển khai sâu rộng trên phạm vi toàn tỉnh và đạt kết quả tốt. Tỷ lệ trẻ em được tiêm đầy đủ 7 loại vacxin đạt trên 98,7%. Cơ sở vật chất ngành y tế từ tỉnh đến cơ sở được đầu tư, nâng cấp, đến cuối năm 2007, có 133/154(=87,5%) trạm y tế xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, 78,3% trạm y tế xã, phường có bác sĩ[3]. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững và ổn định. Bảng 2.4: MỘT SỐ CHỈ TIÊU XÃ HỘI CHỦ YẾU TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 Tốc độ tăng bình quân (2003-2007) % 1 Dân số trung bình ngàn người 1148,73 1168,889 1190,4 0,9 2 Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên % 1,128 1,205 1,145 -0,5 3 Mức giảm tỷ suất sinh % 0,044 0,075 0,058 -10,0 4 Số giường bệnh/vạn dân giường 9,75 17,67 21,7 17,6 5 Số bác sỹ/vạn dân bác sỹ 3,22 4,02 5,42 12,0 6 Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi % 27 23,4 20,5 -6,4 7 Tỷ lệ hộ nghèo % 8,7 18,04 12,5 5,2 8 Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 22,64 29,7 36,4 12,2 9 Số người được giải quyết việc làm ngàn người 18,5 21,5 24,2 5,9 10 Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị % 2,37 2,05 2 -4,4 11 Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn % 81,13 85,3 87,2 2,2 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 2.3. TÌNH HÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ VÀ ĐÔ THỊ HOÁ 2.3.1. Tình hình phát triển công nghiệp, dịch vụ 2.3.1.1. Về công nghiệp Sản xuất công nghiệp của tỉnh phát triển mạnh từ khi tỉnh được tái lập năm 1997. Giai đoạn 2003 – 2007, giá trị gia tăng ngành công nghiệp tăng bình quân 34,9%/năm, giá trị sản xuất tăng bình quân 29,8%/năm. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu gồm: xe ô tô, xe máy, phụ tùng ô tô, phụ tùng xe máy, gạch, ngói, cát, sỏi, thuốc chữa bệnh, quần áo,.... Công nghiệp phát triển nhanh đã góp phần tăng thêm của cải vật chất, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân, tạo vị thế mới cho tỉnh Vĩnh Phúc trong vùng và cả nước. Từ một tỉnh có cơ cấu kinh tế Nông nghiệp – Dịch vụ –Công nghiệp trước đây đã chuyển sang cơ cấu Công nghiệp – Dịch vụ - Nông nghiệp với công nghiệp chế tác là chủ đạo. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh tăng từ 42,65% năm 2002 lên 61,06% năm 2007 [3]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngành công nghiệp của tỉnh còn những hạn chế như: - Công nghiệp phát triển mạnh chủ yếu do công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tỷ trọng công nghiệp trong nước thấp, quy mô nhỏ bé, công nghệ lạc hậu. Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm chưa phát triển. - Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp manh mún và phát triển chậm, sản phẩm kém sức cạnh tranh, một số làng nghề đang bị mai một, mất dần. - Các doanh nghiệp nhà nước địa phương yếu kém về năng lực quản lý và gặp nhiều khó khăn về tài chính nên sức cạnh tranh thấp. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng, thương mại và vận tải, giải quyết được khá nhiều việc làm và lao động; song phần lớn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trình độ quản lý còn hạn chế, ít có khả năng cạnh tranh mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế. - Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như điện, đường, cấp nước, thông tin liên lạc, xử lý chất thải… tại các khu công nghiệp tuy đã được quy hoạch nhưng đầu tư còn thiếu đồng bộ và chưa hoàn chỉnh. Tiến độ triển khai của các dự án đầu tư trong và ngoài nước trên địa bàn còn chậm do công tác đền bù, giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn. 2.3.1.2. Về thương mại – dịch vụ Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, lĩnh vực thương mại dịch vụ của tỉnh cũng có tăng trưởng mạnh, các trung tâm thương mại tại các thị xã, thị trấn và chợ nông thôn được hình thành và đang từng bước được nâng cấp, cải tạo, đã tác động tích cực đến sản xuất và tiêu dùng. Từ năm 2003 đến năm 2007, giá trị gia tăng ngành dịch vụ tăng bình quân 17,8%/năm, năm 2007 chiếm 26,9% tổng GDP toàn tỉnh, Nhìn chung, ngành dịch vụ – thương mại trên địa bàn tỉnh bước đầu có sự phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Chất lượng các hoạt động dịch vụ được cải thiện, loại hình dịch vụ ngày càng phong phú. Song so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, ngành thương mại dịch vụ phát triển chậm và cũng còn nhiều vần đề tồn tại như: - Các loại hình dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh; chưa thu hút được nhiều lao động từ nông nghiệp. - Sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng dịch vụ chưa cao và chưa có sản phẩm du lịch dịch vụ đặc trưng của tỉnh. - Chất lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ còn thấp, chưa được đào tạo bài bản, do vậy phương pháp phục vụ còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 - Quy hoạch các khu du lịch còn thiếu đồng bộ. Thu hút vốn đầu tư cho các khu du lịch, khu vui chơi giải trí còn hạn chế. 2.3.2. Tình hình đô thị hoá Trước năm 2005, Vĩnh Phúc có 2 thị xã (Vĩnh Yên, Phúc Yên) là đô thị loại IV và 7 huyện, với dân số thành thị năm 2003 là 137,5 ngàn người. Đến năm 2006, Vĩnh Phúc có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 thị trấn huyện lỵ, trong đó thành phố Vĩnh Yên là đô thị loại III, là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị của tỉnh, dân số thành thị năm 2007 tăng lên là 205,1 ngàn người. Cấu trúc không gian mạng lưới đô thị tỉnh Vĩnh Phúc tương ứng với hệ thống tầng bậc của bộ máy quản lý hành chính: Thành phố, thị xã là đô thị trực thuộc tỉnh, thị trấn huyện lỵ trực thuộc huyện và các thị tứ trực thuộc xã. Đặc điểm mạng lưới đô thị Vĩnh Phúc là quy mô còn nhỏ, tỷ lệ dân số đô thị thấp (chiếm 17,2% năm 2007). Nhờ vị trí giáp với thủ đô Hà Nội, thuận lợi về giao thông nên Vĩnh Phúc đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước. Các khu, cụm công nghiệp được hình thành nhanh chóng kéo theo sự phát triển nhanh của các điểm dân cư đô thị, nhất là ở Vĩnh Yên, Phúc Yên, Mê Linh và Bình Xuyên. Tuy nhiên do tốc độ đô thị hoá nhanh, việc đầu tư kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp dẫn đến nhiều bất cập. Chất lượng đường phố kém, cấp điện, nước và chất lượng nước đạt tiêu chuẩn thấp và chưa đáp ứng đủ nhu cầu; hệ thống thoát nước chưa được đầu tư đồng bộ. Mặt khác, cơ cấu không gian hệ thống đô thị và thị tứ chưa cân đối, thể hiện: Dân cư đô thị tập trung nhiều ở hành lang giao thông Đông - Tây và vùng phía nam của tỉnh, chưa phát triển ở vùng phía bắc của tỉnh; Các đô thị của tỉnh chủ yếu mang chức năng trung tâm hành chính, chính trị, các chức năng về sản xuất, dịch vụ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 thương mại chưa phát triển. Có thể nói, quá trình đô thị hoá của Vĩnh Phúc chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh kể từ khi tái lập tỉnh đến nay. 2.3.3. Đánh giá tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đến phát triển nông nghiệp, nông thôn Quá trình đổi mới theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua đã làm cho nền kinh tế Vĩnh Phúc tăng trưởng với tốc độ cao và đã có tác động lớn đến phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Vĩnh Phúc, cụ thể như sau: Những tác động tích cực: - Công nghiệp, dịch vụ phát triển, nhu cầu tiêu dùng và chế biến các loại nông sản, thực phẩm tăng nhanh, trở thành yếu tố kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển. - Công nghiệp, dịch vụ phát triển đã tạo thêm nhiều việc làm, thu hút một lượng lớn lao động nhàn rỗi trong nông thôn. Từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn. - Thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh tăng, đời sống nông dân được cải thiện, có tích luỹ, tạo điều kiện cho tái sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Những hạn chế, thách thức: Do quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh, sản xuất nông nghiệp đang đứng trước sức ép rất lớn của việc giảm diện tích đất canh tác, của vấn đề giải quyết việc làm cho người nông dân mất đất do phát triển công nghiệp và đô thị, vấn đề ô nhiễm do chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, … ngày càng tăng: - Về đất canh tác: theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn năm 2006, đất sản xuất nông nghiệp trên toàn tỉnh giảm 4.150 ha so năm 2001, trong đó đất trồng cây hàng năm giảm 2.090 ha, đất cây lâu năm giảm 2.060 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 ha, chủ yếu chuyển sang đất giao thông, phát triển khu công nghiệp và đô thị. Diện tích này được dự báo có xu hướng giảm liên tục hàng năm đến năm 2010 (BQ trên 1.000 ha /năm), nhất là với đất trồng lúa [10]. - Lao động và việc làm nông thôn: Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá diễn ra tuy đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh nhưng vẫn còn chậm, chưa thu hút được nhiều lao động từ khu vực nông nghiệp nông thôn. Dân số nông thôn vẫn chiếm tới 82,8%, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp – thuỷ sản vẫn chiếm 55,1% tổng số lao động toàn tỉnh và có tới 97,43% lao động nông nghiệp trong độ tuổi chưa qua đào tạo và không có bằng chứng chỉ chuyên môn. Áp lực về giải quyết việc làm cho cả khu vực đô thị và nông thôn hiện nay còn rất lớn. - Một bộ phận nông dân bị mất đất đã không còn tư liệu sản xuất, trong khi việc chuyển đổi nghề đối với lao động trên 35 tuổi ở nông thôn là rất khó khăn. Kết hợp với quá trình đô thị hoá nhanh đã kéo theo tệ nạn xã hội phát triển, gây mất ổn định xã hội. - Là tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, công nghiệp, dịch vụ đã trở thành những ngành kinh tế chủ đạo, thu ngân sách trên địa bàn được xếp vào một trong những tỉnh hàng đầu của cả nước; Tuy nhiên, việc đầu tư trở lại cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân còn chưa tương xứng, chưa tạo điều kiện thuận lợi để nông nghiệp, nông thôn của tỉnh phát triển theo định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá; Nhiều dự án của nông nghiệp được đầu tư nhưng còn manh mún; đầu tư cho phát triển nông thôn còn mang nặng tính phong trào, chia đều, hiệu quả thấp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 2.4. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 Sau khi được tái lập đến nay, ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá: Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp thuỷ sản tăng nhanh, bình quân giai đoạn 2003-2007 đạt 5,2%/năm(giá cố định 94), trong đó; trồng trọt tăng bình quân 0,3%/năm, chăn nuôi tăng bình quân 14%/năm, thuỷ sản tăng bình quân 13%/năm. Bảng 2.5: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, GIÁ TRỊ GIA TĂNG NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 (Giá so sánh 94) Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Thực hiện Bình quân Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 2003- 2007 (%) I Giá trị sản xuất ngành Nông lâm nghiệp thuỷ sản 1942,0 2181,5 2307,7 5,2 1 Nông nghiệp 1840,5 2044,5 2168,1 5,1 Trong đó :+Trồng trọt 1190,6 1236,7 1167,1 0,3 + Chăn nuôi 550,8 702,2 869,9 14,0 + Dịch vụ sản xuất nông nghiệp 99,0 105,6 131,0 7,3 2 Lâm nghiệp 38,7 38,5 37,4 -2,9 3 Thuỷ sản 62,7 98,5 102,2 13,4 II Giá trị gia tăng ngành Nông lâm nghiệp thuỷ sản 1225,6 1370,0 1437,10 4,6 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 Giá trị gia tăng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản(giá cố định 94) giai đoạn 2003-2007 đạt tốc độ tăng bình quân 4,6%/năm, cao hơn mức trung bình cả nước. Mặc dù tỷ trọng GDP của ngành trong cơ cấu kinh tế của tỉnh giảm từ 28,63% năm 2002 xuống còn 14,25% năm 2007, nhưng vẫn tăng cao về giá trị tuyệt đối. 1437,101405,71370,0 1310,5 1145,0 1225,6 0,0 200,0 400,0 600,0 800,0 1000,0 1200,0 1400,0 1600,0 Năm Tỷ đồng 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Hình 2.1- GIÁ TRỊ GIA TĂNG NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 Cơ cấu trong nội ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi và thuỷ sản, giảm tỷ trọng trồng trọt. Tính theo thời điểm năm 2003 và năm 2007: Trồng trọt giảm từ 63,3% xuống còn 50,4%, chăn nuôi tăng từ 32,57% lên 45,08%; Lâm nghiệp giảm từ 1,82% còn 1,04%; Thuỷ sản tăng từ 2,92% lên 4,67%; cụ thể như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Bảng 2.6: CƠ CẤU NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 Đơn vị tính:% STT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 TỔNG SỐ 100,00 100,00 100,00 1 Nông nghiệp 95,26 93,35 94,29 Trong đó: +Trồng trọt 63,34 56,41 50,44 + Chăn nuôi 32,57 39,08 45,08 + Dịch vụ NN 4,09 4,51 4,48 2 Lâm nghiệp 1,82 1,39 1,04 3 Thuỷ sản 2,92 5,26 4,67 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2.4.1. Kết quả sản xuất ngành nông nghiệp 2.4.1.1. Kết quả sản xuất ngành trồng trọt Trồng trọt vẫn là ngành chính trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Tuy nhiên trồng trọt lại chịu tác động lớn nhất của thời tiết, do vậy từ năm 2003 đến nay, tốc độ tăng trưởng của trồng trọt không đều và có xu hướng giảm dần. Từ năm 2003 đến năm 2007, giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng bình quân 0,3%/năm do năm 2006, 2007 thời tiết diễn biến bất thường, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra mưa lũ, lốc xoáy,.. đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và sản lượng cây trồng. Mặt khác do phát triển công nghiệp và đô thị, diện tích gieo trồng có xu hướng giảm dần cũng làm giảm sản lượng trồng trọt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 32,6% 4,1% 63,3%Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ Năm 2003 50,4%45,1% 4,5% Trồng trọt Dịch vụ Chăn nuôi Năm 2007 Hình 2.2- CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Từ năm 2003 đến 2007, cơ cấu cây trồng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần diện tích các loại cây có giá trị kinh tế cao như rau, đậu tương, hoa, cây cảnh, cây thức ăn gia súc, cây dược liệu, một số loại cây ăn quả... giảm dần các loại cây trồng có giá trị kinh tế thấp như khoai lang, sắn. Bảng 2.7: CƠ CẤU GIEO TRỒNG DIỆN TÍCH CÂY HÀNG NĂM TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 Đơn vị tính: % STT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 TỔNG SỐ 100,0 100,0 100,0 1 Cây lúa 60,4 58,5 62,1 2 Cây ngô 15,2 13,9 13,7 3 Cây khoai lang 4,9 3,8 3,3 4 Cây sắn 1,8 2,1 2,2 5 Cây rau đậu 7,7 8,0 8,2 6 Cây đậu tương 4,6 7,1 3,9 7 Cây lạc 3,1 3,5 3,7 8 Hoa cây cảnh 0,9 1,2 1,1 9 Cây thức ăn gia súc 0,5 0,7 1,4 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc Đồng thời với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng thì việc chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống được thực hiện ngày càng rộng rãi và dần trở thành tập quán sản xuất. Đến nay ở Vĩnh Phúc diện tích lúa xuân muộn và mùa sớm được gieo cấy chiếm 90%, đã xuất hiện một số mô hình sản xuất trái vụ đem lại hiệu quả cao. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới về giống, về biện pháp thâm canh, về bảo quản và tiêu thụ nông sản sau thu hoạch... được áp dụng đã nâng cao hiệu quả và thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Đã hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 thành và ổn định tập quán sản xuất 3 vụ/năm trên diện tích canh tác cây hàng năm; bước đầu xuất hiện vùng sản xuất hàng hoá với một số cây trồng có thị trường tiêu thụ như rau, hoa, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức ăn gia súc... Nhiều mô hình trang trại chuyên canh và sản xuất kinh doanh tổng hợp được hình thành và phát triển. Kết quả trồng trọt cụ thể đạt được như sau: a - Nhóm cây lương thực có hạt (lúa, ngô) Là nhóm cây trồng chủ lực trên diện tích gieo trồng cây hàng năm của tỉnh. Từ năm 2002 đến nay, diện tích gieo trồng cây lương thực của tỉnh có xu hướng giảm dần, nguyên nhân do một phần diện tích đất nông nghiệp chuyển mục đích sử dụng để phát triển các ngành kinh tế khác; Một phần do chuyển dịch cơ cấu cây trồng sang các cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhờ áp dụng có hiệu quả các biện pháp kỹ thuật trong thâm canh nên mặc dù diện tích gieo trồng giảm nhưng năng suất, sản lượng cây lương thực của tỉnh không ngừng tăng năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt tăng từ 39,7 vạn tấn năm 2002 lên 43,67 vạn tấn năm 2004; năm 2005 đạt 41,3 vạn tấn. Sản lượng lương thực tăng, vừa đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn, dành một phần phục vụ phát triển chăn nuôi và bước đầu có hàng hoá phục vụ nhu cầu của các tỉnh, thành phố lân cận như Hà Nội, Việt Trì, Sơn Tây,... Kết quả đạt được như sau : - Cây lúa: diện tích gieo cấy bình quân đạt 68-70 ngàn ha/năm; Do tích cực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, kỹ thuật canh tác và đặc biệt do chuyển đổi cơ cấu mùa vụ từ chính vụ sang gieo cấy trà xuân muộn, mùa sớm nên năng suất lúa đã tăng từ 46,7 tạ/ha năm 2002 lên 50,53 tạ/ha năm 2005, năm 2007 đạt 45,77 tạ/ha. Nhờ vậy, sản lượng lúa không ngừng tăng qua các năm, năm 2004 đạt cao nhất là 36,45 vạn tấn[3]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Bảng 2.8: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT SẢN LƢỢNG CÂY LƢƠNG THỰC TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 STT Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện Bình quân tính Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 2003-2007 (%) I Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm Ngàn ha 122,81 118,85 111,06 -1,44 II Sản lƣợng lƣơng thực có hạt ngàn tấn 421,2 412,8 367,8 -1,56 III Giá trị sản xuất/1 ha đất cây hàng năm (Giá thực tế) Triệu đồng 25,76 29,17 35,44 8,77 IV Cây lƣơng thực ngàn ha 101,3 86,0 84,2 -3,00 1 Cây lúa + Diện tích Ngàn ha 74,19 69,5 69,0 -1,34 + Năng suất tạ/ha 48,2 50,52 45,82 -0,39 + Sản lượng Ngàn tấn 357,7 351,2 316,2 -1,73 2 Cây ngô + Diện tích Ngàn ha 18,72 16,49 15,24 -0,64 + Năng suất tạ/ha 34,0 37,38 33,86 0,20 + Sản lượng Ngàn tấn 63,6 61,6 51,6 -0,44 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc - Cây ngô: Sản xuất thâm canh ngô là thế mạnh của Vĩnh phúc, nhất là trồng ngô vụ đông. Đến nay, 100% diện tích ngô của tỉnh được gieo trồng bằng các giống ngô lai, chủ yếu là lai đơn, lai 3 cho năng suất cao. Tuy nhiên những năm qua, do hiệu quả từ trồng ngô thấp hơn các cây trồng khác nên diện tích ngô đông có xu hướng giảm dần. Nông dân chuyển sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn như rau, đậu tương,... Năm 2007 diện tích ngô chỉ đạt 15,24 ngàn ha, xấp xỉ bằng năm 2002 nhưng thấp hơn các năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 2003-2006. Năng suất ngô tăng từ 33,5 tạ/ha năm 2002 lên 38,54 tạ/ha năm 2004 [3]. b - Nhóm cây thực phẩm (rau, đậu các loại): Trong những năm gần đây Vĩnh Phúc là một trong những địa phương sản xuất rau với khối lượng sản phẩm lớn, cung cấp cho thị trường Hà Nội và các tỉnh miền núi phía bắc như Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang,... với sản lượng rau cung cấp ra tỉnh ngoài lên tới 80-90 ngàn tấn/năm. Do thị trường tiêu thụ lớn, mặt khác cây rau là loại cây trồng đem thu nhập khá cao và thường xuyên so với các loại cây khác nên được nông dân chú trọng phát triển. Năm 2007, diện tích gieo trồng cây thực phẩm đạt 9,1 ngàn ha, trong đó rau các loại 8,47 ngàn ha, đậu 437 ha, chiếm 8,2% tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm của tỉnh, được phân bố khá đều trên tất cả các huyện, thị. Về rau xanh: diện tích cây rau đạt trung bình 8,58 ngàn ha/năm, năm 2004 đạt cao nhất là 8,83 ngàn ha. Năng suất rau từ 153,8 tạ/ha năm 2002 tăng lên 170,38 tạ/ha năm 2007, bình quân tăng 2,1%/năm. Các loại rau chủ yếu được trồng là: rau muống sản lượng đạt khoảng 20 ngàn tấn/năm; rau cải các loại sản lượng đạt khoảng 25-26 ngàn tấn/năm; bầu bí các loại đạt 23-24 ngàn tấn/năm; hành tỏi 13-14 ngàn tấn/năm, dưa chuột 10-11 ngàn tấn/năm, cải bắp 9-10 ngàn tấn/năm, xu hào 8-9 ngàn tấn/năm, cà chua 10-11 ngàn tấn/năm,... Từ năm 2003, tỉnh Vĩnh Phúc đã quan tâm đầu tư xây dựng vùng rau sạch, rau an toàn, đẩy mạnh việc ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất rau, nhất là quản lý dịch hại tổng hợp trên rau (IPM), nên năng suất, chất lượng rau ngày càng được nâng cao. Bước đầu tỉnh đã xây dựng được vùng rau an toàn với quy mô trên 600 ha ở Vĩnh Yên, Vĩnh Tường và Yên Lạc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 Đối với đậu các loại, diện tích trung bình đạt 600-700 ha/năm, năng suất tăng nhờ đầu tư thâm canh, nhưng diện tích gieo trồng có xu hướng giảm do nhu cầu thị trường giảm. Bảng 2.9: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT SẢN LƢỢNG CÂY THỰC PHẨM TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007 STT Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện Bình quân tính Năm 2003 Năm 2003 Năm 2007 2003-2007 (%) Diện tích cây thực phẩm ngàn ha 9405,9 9454 9106,5 -0,58 1 Rau các loại + Diện tích Ha 8496,20 8626 8469,5 0,14 + Năng suất tạ/ha 162,3 171,96 170,38 2,07 + Sản lượng Ngàn tấn 137,9 148,3 144,3 2,21 2 Đậu các loại + Diện tích Ha 909,7 827,8 637 -7,94 + Năng suất tạ/ha 4,40 3,78 8,61 13,86 + Sản lượng Tấn 400,3 312,9 548,5 4,82 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc c - Nhóm cây công nghiệp hàng năm (lạc, đậu tương): Là nhóm cây trồng có khối lượng và giá trị sản phẩm hàng hoá lớn, có thị trường tiêu thụ. Năm 2007, toàn tỉnh có 8.549 ha cây công nghiệp hàng năm. Đây là nhóm cây có giá trị kinh tế khá cao, có thị trường tiêu thụ và có khả năng phát triển theo hướng thâm canh tăng năng suất, kết quả cụ thể từng loại cây như sau: + Cây lạc: diện tích lạc hàng năm khá ổn định ở mức 3,7 – 4,0 ngàn ha. Nhờ tăng cường đưa giống mới vào sản xuất nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTNU Do Thi Huong Lan.pdf
Tài liệu liên quan