Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc: viii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-----------------------------------------------
Đỗ Thị Hƣơng Lan
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN
TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp
Mã số: 60-31-10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
Tiến sĩ Bùi Đình Hoà
Thái nguyên, năm 2008
viii
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển
ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc”, chuyên ngành Kinh tế
Nông nghiệp là công trình của riêng tôi. Luận văn đã sử dụng thông tin từ
nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, các thông tin có sẵn đã được trích rõ nguồn
gốc.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu đã được trong
luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đề...
145 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1009 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
viii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-----------------------------------------------
Đỗ Thị Hƣơng Lan
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN
TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp
Mã số: 60-31-10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
Tiến sĩ Bùi Đình Hoà
Thái nguyên, năm 2008
viii
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển
ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc”, chuyên ngành Kinh tế
Nông nghiệp là công trình của riêng tôi. Luận văn đã sử dụng thông tin từ
nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, các thông tin có sẵn đã được trích rõ nguồn
gốc.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu đã được trong
luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Hƣơng Lan
viii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn :’’ Thực trạng và một số giải pháp
nhằm phát triển ngành Nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc” tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của nhiều cá nhân và tập thể, tôi
xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, Sở
Nông nghiệp và PTNT Vĩnh Phúc, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập, nghiên cứu để tôi
hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo hướng dẫn
khoa học: Tiến sĩ Bùi Đình Hoà - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến quý báu của
các nhà khoa học, của các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy cô giáo trong
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên cùng các đơn vị khác.
Để hoàn thành được luận văn, tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ và
cộng tác của các hộ nông dân và UBND các xã: Đồng Thịnh (huyện Lập
Thạch), xã Vĩnh Thịnh (huyện Vĩnh Tường) và xã Đồng Tĩnh (huyện Tam
Dương) tỉnh Vĩnh phúc.
Tôi xin cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp
đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Hƣơng Lan
viii
MỤC LỤC Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục các bảng vi
Danh mục các hình viii
MỞ ĐẦU 1
1 – Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
2 – Mục tiêu nghiên cứu 2
3 – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4 – Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn 3
5 – Bố cục của Luận văn 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
4
1.1.Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 4
1.1.1. Cơ sở lý luận 4
1.1.2. Cơ sở thực tiễn 8
1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 21
1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết 21
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu 22
1.2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 25
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP
THỦY SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
27
2.1. Điều kiện tự nhiên 27
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 36
2.3. Tình hình công nghiệp hoá và đô thị hoá 42
2.4. Thực trạng sản xuất nông lâm nghiệp tỉnh Vĩnh phúc giai 47
viii
đoạn 2003-2007
2.4.1. Kết quả sản xuất ngành nông nghiệp 49
2.4.2. Kết quả sản xuất ngành lâm nghiệp 66
2.4.3. Kết quả sản xuất ngành thuỷ sản 69
2.5.4. Hợp tác xã nông nghiệp 72
2.4.5. Kinh tế trang trại 76
2.4.6 - Tình hình phát triển kinh tế hộ và hiệu quả sản xuất nông
lâm nghiệp thuỷ sản
78
2.4.7 - Đánh giá chung về hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp
thuỷ sản tỉnh Vĩnh phúc
83
2.4.8. Đánh giá chung về thực trạng phát triển ngành nông lâm
nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc
84
Chƣơng 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN
XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP THỦY SẢN TỈNH VĨNH PHÚC
GIAI ĐOẠN 2008-2015
88
3.1. Quan điểm-phƣơng hƣớng-mục tiêu 88
3.1.1. Quan điểm 88
3.1.2. Phương hướng 88
3.1.3. Dự kiến một số mục tiêu chủ yếu ngành nông lâm nghiệp
thuỷ sản đến năm 2015
89
3.2. Các giải pháp chủ yếu 116
3.2.1. Nhóm các giải pháp chung 116
3.2.2. Các giải pháp cho từng vùng sinh thái 121
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 123
1 – Kết luận 123
2 – Kiến nghị 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 126
PHỤ LỤC
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Đất đai phân công dụng kinh tế 32
Bảng 2.2 Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2003-2007
37
Bảng 2.3 Cân đối lao động xã hội có đến 1/7 hàng năm 39
Bảng 2.4 Một số chỉ tiêu xã hội chủ yếu tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2003-2007
41
Bảng 2.5 Giá trị sản xuất, giá trị gia tăng ngành nông lâm
nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-
2007(giá so sánh 94)
47
Bảng 2.6 Cơ cấu ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh
Phúc giai đoạn 2003-2007
49
Bảng 2.7 Cơ cấu gieo trồng diện tích cây hàng năm tỉnh Vĩnh
Phúc giai đoạn 2003-2007
51
Bảng 2.8 Diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực tỉnh
Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007
53
Bảng 2.9 Diện tích, năng suất, sản lượng cây thực phẩm tỉnh
Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007
55
Bảng 2.10 Diện tích, năng suất, sản lượng cây công nghiệp hàng
năm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007
57
Bảng 2.11 Diện tích, sản lượng một số cây ăn quả tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2003-2007
59
Bảng 2.12 Kết quả ngành chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2003-2007
62
Bảng 2.13 Kết quả sản xuất lâm nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2003-2007
67
Bảng 2.14 Kết quả sản xuất thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2003-2007
71
Bảng 2.15 Một số chỉ tiêu về hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Vĩnh
Phúc năm 2006
74
Bảng 2.16 Các chỉ tiêu tổng hợp của trang trại tỉnh Vĩnh Phúc
năm 2006
77
Bảng 2.17 Biểu tổng hợp kết quả điều tra hộ 80
Bảng 2.18 Bảng tính toán hiệu quả sản xuất của các hộ được điều
tra
82
viii
Bảng 3.1 Dự kiến giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp thuỷ
sản tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2015
99
Bảng 3.2 Dự kiến diện tích, năng suất, sản lượng một số cây
trồng chủ yếu tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2008-2015
103
Bảng 3.3 Dự kiến kết quả ngành chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2008-2015
106
Bảng 3.4 Dự kiến kết quả sản xuất ngành thuỷ sản tỉnh Vĩnh
Phúc giai đoạn 2008-2015
107
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1 Giá trị gia tăng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản giai
đoạn 2003-2007
48
Hình 2.2 Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn
2003-2007
50
Hình 3.1 Dự kiến cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
năm 2010 và năm 2015
99
viii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
----------------------------------------
Đỗ Thị Hƣơng Lan
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN
TỈNH VĨNH PHÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1 – Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau khi tách tỉnh năm 1997, Vĩnh Phúc là tỉnh thuần nông với tỷ trọng
ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm 44,35% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh,
với dân số nông nghiệp chiếm tới trên 80% dân số toàn tỉnh. Từ năm 1997
đến năm 2007, ngành công nghiệp phát triển mạnh, đặc biệt là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản
chỉ còn chiếm 14,25% trong cơ cấu kinh tế, nhưng dân số nông nghiệp vẫn
còn rất lớn(chiếm 57%). Với một lượng khá lớn dân số sống phụ thuộc vào
nông nghiệp thì việc phát triển nông lâm nghiệp thuỷ sản là một yêu cầu bức
thiết nhằm xoá đói giảm nghèo và ổn định xã hội [2].
Cùng với sự phát triển mạnh của ngành công nghiệp, thì tốc độ đô thị
hoá của Vĩnh Phúc cũng tăng nhanh trong những năm gần đây, nhu cầu về
tiêu dùng và chế biến các sản phẩm nông nghiệp ngày càng lớn, đòi hỏi ngành
nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh phải phát triển nhanh hơn nữa nhằm đáp
ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh.
Những năm qua, phát triển nông lâm nghiệp thuỷ sản ở Vĩnh Phúc đã có
được những thành tựu đáng kể so với trước kia, nhưng sản xuất vẫn còn ở tình
trạng quy mô nhỏ, sản lượng hàng hoá ít, chất lượng chưa đáp ứng được nhu
cầu thị trường, giá thành sản xuất còn cao,... Một số địa phương trong tỉnh
phát triển cây, con còn theo “phong trào”, chưa tính đến lợi thế của từng
vùng và nhu cầu thị trường. Do vậy không ít tình trạng”trồng -chặt”, sản xuất
thua lỗ diễn ra đã gây thiệt hại không nhỏ cho bà con nông dân, như cây dâu
năm 2004 và cây thanh hao hoa vàng năm 2006.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đây là một cơ hội lớn đối với nền kinh
tế Việt Nam nói chung, tuy nhiên với riêng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
thì đây lại là thách thức không nhỏ do quy mô sản xuất nhỏ lẻ , lạc hậu. Do
vậy, cần thiết phải có những giải pháp để phát triển sản xuất nông lâm
nghiệp thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá với quy mô lớn , chất lượng
cao có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Để đề xuất được những
giải pháp có tính khoa học và thực tiễn về phát triển nông lâm nghiệp thuỷ
sản tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm tới, tôi đã chọn đề tài” Thực trạng
và một số giải pháp phát triển ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh
Vĩnh phúc” để nghiên cứu.
2 – Mục tiêu nghiên cứu
a – Mục tiêu chung:
Nghiên cứu thực trạng, những thuận lợi, khó khăn của sản xuất nông
nghiệp tỉnh Vĩnh phúc để từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển ngành
nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc nhằm đáp ứng nhu cầu thị
trường trong và ngoài tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh;
b - Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề phát triển kinh tế
nông lâm nghiệp thuỷ sản;
- Phân tích đánh giá thực trạng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh
Vĩnh Phúc giai đoạn 2003-2007;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển ngành nông lâm nghiệp
thuỷ sản của tỉnh Vĩnh Phúc từ 2008-2015.
3 - Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng: Là các chỉ tiêu, số liệu, các vấn đề về sản xuất nông
lâm nghiệp - thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và kết quả , tình hình
sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản của các hộ nông dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi khách thể: Luận văn nghiên cứu về kết quả sản xuất nông lâm
nghiệp thuỷ sản chung trên địa bàn toàn tỉnh; Đồng thời sẽ đi sâu đánh giá
thực trạng sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản của các hộ nông dân để từ đó
rút ra những thuận lợi, khó khăn của sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản trên
địa bàn toàn tỉnh.
+ Phạm vi không gian: luận văn nghiên cứu thực trạng sản xuất của
ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản trên toàn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; Tiến hành
điều tra tại 3 xã đại diện cho 3 vùng: đồng bằng, trung du và miền núi của tỉnh.
+ Về thời gian: Phần đánh giá về kết quả phát triển của ngành nông lâm
nghiệp-thuỷ sản toàn tỉnh được nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2007; Phần
định hướng phát triển và các giải pháp được đề ra đến năm 2015.
4 –Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn là công trình có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực; là tài
liệu tham khảo giúp tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc từ nay đến năm 2015 một
cách có cơ sở khoa học.
5 – Bố cục của Luận văn
Mở đầu
Chương I: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương II: Thực trạng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2003-2007.
Chương III: Định hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành
nông lâm nghiệp thuỷ sản đến năm 2015.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1.1.CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Vị trí, vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh
tế quốc dân. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống
sinh học-kỹ thuật. Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng
trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản.
Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã
hội: Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong
phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển là
những nước còn nghèo, đại bộ phận dân số sống bằng nghề nông. Tuy nhiên
ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng nông
nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và
không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cho đời
sống của nhân dân nước đó. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính
chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế xã hội
của đất nước mà hiện nay, mặc dù trình độ khoa học – công nghệ ngày càng
phát triển nhưng vẫn chưa ngành nào có thể thay thế được.
Xã hội càng phát triển, đời sống con người ngày càng cao thì nhu cầu
của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng về số lượng,
chất lượng và chủng loại. Các nhà kinh tế học đều thống nhất cho rằng, điều
kiện tiên quyết cho sự phát triển là tăng cung lương thực cho nền kinh tế quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
dân bằng sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực. Có thể chọn con đường nhập
khẩu lương thực để giành nguồn lực làm việc khác có lợi hơn, nhưng điều đó
chỉ phù hợp với các nước như Singapore, Ả rập Saudi hay Brunei mà không
dễ gì đối với các nước như Inđônêxia, Trung Quốc, Ấn Độ hay Việt Nam là
những nước đông dân. Các nước đông dân muốn nền kinh tế phát triển, đời
sống của nhân dân ổn định thì phần lớn lương thực tiêu dùng phải sản xuất
trong nước. Thực tiễn lịch sử của các nước trên thế giới đã chứng minh, chỉ
có thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có
an ninh lương thực. Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn
định chính trị và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển thì
sẽ khó thu hút được đầu tư để phát triển bền vững, lâu dài.
Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu
vào cho phát triển công nghiệp và khu vực thành thị, đặc biệt là ở các nước
đang phát triển. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư
sống bằng nông nghiệp và tập trung ở khu vực nông thôn. Vì thế khu vực
nông nghiệp nông thôn thực sự là nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho phát
triển công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, một mặt
tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động nông
nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp được giải
phóng ngày càng nhiều. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển
công nghiệp và đô thị. Đó là xu hướng có tính quy luật của mọi quốc gia
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khu vực nông nghiệp
còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và quý cho công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm
nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản
hàng hoá, mở rộng thị trường. Khu vực nông nghiệp còn là nguồn cung cấp
vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, trong đó có công nghiệp, nhất là giai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì nông nghiệp là khu vực lớn nhất, xét cả
về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được
tạo ra từ thuế nông nghiệp, tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động
phi nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản, … Những điển
hình thành công về sự phát triển ở nhiều nước đều đã sử dụng tích luỹ từ nông
nghiệp để đầu tư cho công nghiệp. Ngoài ra cần phải khai thác các nguồn
khác một cách hợp lý, không nên cường điệu quá vai trò của vốn tích luỹ
trong nông nghiệp.
Nông nghiệp và nông thôn còn là thị trường tiêu thụ lớn của công
nghiệp và dịch vụ. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp
bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào
thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự
thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp nông thôn sẽ có tác động trực tiếp
đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông nghiệp,
nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực
nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tăng, thúc đẩy
công nghiệp và dịch vụ phát triển.
Nông nghiệp còn là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các
loại nông lâm thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các sản
phẩm công nghiệp. Vì thế ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có
ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông lâm thuỷ sản. Xu hướng chung ở các
nước trong quá trình công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu, giá trị xuất khẩu nông
lâm thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng
đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế.
Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là sơ sở trong sự phát triển
bền vững của môi trường vì sản xuất nông nghiệp gắn liền trực tiếp với môt
trường tự nhiên: đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn. Nông nghiệp sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
nhiều hoá chất như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu,... làm ô nhiễm đất và
nguồn nước. Dư lượng độc tố trong sản phẩm tăng ảnh hưởng đến sức khoẻ
con người. Nếu rừng bị tàn phá, đất đai sẽ bị xói mòn, thời tiết, khí hậu thuỷ
văn thay đổi xấu sẽ đe doạ đời sống của con người. Vì thế trong quá trình phát
triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm ra các giải pháp thích hợp để duy trì và
tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường[8].
1.1.1.2– Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng và phát triển
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng lên về số lượng và sự cải thiện về
chất lượng của sản phẩm xã hội và các yếu tố sản xuất ra sản phẩm xã hội.
Tăng trưởng là sự gia tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân, hoặc thu
nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Nếu như sản phẩm
hàng hoá trong một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng cũng được áp dụng để đánh giá cụ thể đối với từng ngành sản
xuất, từng vùng sản xuất của một quốc gia. Do vậy, để biểu thị tăng trưởng
kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính
toàn bộ hay tính bình quân đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước, đó
là mức tăng % hay tuyệt đối hàng năm, hay tính bình quân trong một giai
đoạn.
Tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai
đoạn nhất định sẽ cho khái niệm tốc độ tăng trưởng, đó là sự tăng thêm sản
lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, phát triển bao gồm tăng trưởng
cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu nền kinh tế, phát triển là việc
nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo
dục, sức khoẻ và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển
kinh tế có thể hiểu là quá trình chuyển biến theo hướng tiến bộ về mọi mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm tăng trưởng về
của cải vật chất và sự tiến bộ xã hội.
Tóm lại: phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một chuyển
biến của nền kinh tế từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn. Để phản ánh
mức độ phát triển kinh tế của một ngành trong từng thời kỳ cụ thể, chúng ta
phải sử dụng các nhóm chỉ tiêu như giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, cơ cấu
các ngành và cơ cấu nội bộ ngành, ....
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
1.1.2.1 – Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở một số nước trên thế
giới
Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và bền vững
là bước đi thích hợp của nhiều nước trên thế giới trong chiến lược phát triển
kinh tế. Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, không có một
công thức phát triển chung cho quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
đối với tất cả các nước. Mỗi nước có cách đi riêng, tùy theo những đặc điểm,
điều kiện cụ thể của mình, dưới đây là kinh nghiệm phát triển nông nghiệp
của một số nước ở Châu Á :
* Phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Trung Quốc:
Trung Quốc là nước có nền nông nghiệp lớn và lâu đời nhất thế giới,
đồng thời là một trong những chiếc nôi của nền nông nghiệp thế giới. Do đó,
nền nông nghiệp Trung Quốc đã tích lũy nhiều kinh nghiệm thâm canh cổ
truyền với một hệ thống công cụ sản xuất thủ công phong phú, đa dạng, tận
dụng nguồn lao động dồi dào ở nông thôn, bảo đảm sản xuất nông nghiệp tự
túc, tự cấp có hiệu quả cao. Kể từ khi tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa
đến nay, nền nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, phát triển theo
hướng hiện đại hóa và bền vững. Kinh tế nông nghiệp Trung Quốc đã có sự
chuyển dịch cơ cấu tích cực nhằm tạo ra năng suất cây trồng, vật nuôi cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
như hiệu quả lao động cao, sản xuất nhiều nông sản hàng hóa. Nông nghiệp,
nông thôn Trung Quốc đã có những bước thay đổi to lớn và đạt được những
thành tựu đáng kể, đời sống nông dân được cải thiện từng bước, một bộ phận
dân cư đã có đời sống khá giả.
Là nước có diện tích đất canh tác khan hiếm và eo hẹp, tỷ lệ lao động
trong nông nghiệp cao, Trung Quốc chủ trương nâng cao hiệu quả sử dụng đất
và cải tạo đất trồng, giải quyết vấn đề dôi dư lao động. Vì vậy, quốc gia này
đã thực hiện thu hẹp kiểu kinh doanh cần nhiều lao động, mở rộng việc kinh
doanh tập trung vốn và kỹ thuật. Đó là điều có lợi cho nông dân, cho công
cuộc cải cách nông thôn và việc phân bổ tối ưu các nguồn lực trong sản xuất
nông nghiệp. Thực tế cho thấy, phương thức kinh doanh trên những mảnh
ruộng manh mún cổ truyền trước đây không còn phù hợp với việc thâm canh
bằng tập trung vốn và kỹ thuật. Chỉ có phương thức kinh doanh với quy mô
lớn mới tạo tiền đề cho việc đầu tư nhiều vốn và kỹ thuật nhằm đạt tới một
nền sản xuất hiện đại và bền vững.
Hiện nay, nông nghiệp vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng và đóng
góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Tổng kết kinh
nghiệm 20 năm cải cách và phát triển kinh tế nông thôn, Đảng Cộng sản
Trung Quốc chỉ rõ: "Không có sự ổn định của nông thôn sẽ không có sự ổn
định của cả nước, không có sự sung túc của nông dân sẽ không có sự sung túc
của nhân dân cả nước, không có hiện đại hóa nông nghiệp sẽ không có hiện
đại hóa của toàn bộ nền kinh tế quốc dân". Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng
định rằng, hiện nay và trong một thời gian dài nữa, nông nghiệp Trung Quốc
vẫn giữ vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế; hiện đại hóa nông
nghiệp là một bộ phận trọng yếu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Quan điểm trên xuất phát từ thực tế là ở Trung Quốc, nông
nghiệp có vai trò mà không một ngành kinh tế nào có thể thay thế được. Tuy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
nhiên, trên thực tế, nông nghiệp Trung Quốc vẫn chưa đạt tới trình độ hiện đại
hóa và bảo đảm sự phát triển bền vững. Vì vậy, hiện đại hóa nông nghiệp
nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển trở thành đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ
hết. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành một loạt chính sách
có lợi cho việc giải quyết vấn đề "tam nông" như: thực hiện xóa bỏ thuế nông
nghiệp và phụ thu thuế nông nghiệp; trợ cấp cho nông dân sản xuất lương
thực; thực hiện chế độ khám chữa bệnh loại hình mới trong cả nước, trong đó
có việc giải quyết khám chữa bệnh cho nông dân...
Qua hơn 20 năm cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo
hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững, Trung Quốc đã thu được những
bài học kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn. Đó là: Bảo đảm đầy đủ quyền
tự chủ, phát huy tính tích cực của nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu
kinh tế, trong đó công hữu là chủ thể, thực hiện sở hữu tập thể đối với ruộng
đất kinh doanh khoán gia đình, tách quyền sử dụng với quyền sở hữu; cải
cách theo hướng thị trường, tạo ra sức sống mới cho kinh tế nông thôn; xây
dựng địa vị chủ thể của trang trại trong kinh doanh tự chủ của các nông hộ,
khuyến khích nông dân phát triển sản xuất hàng hóa hướng về thị trường; tôn
trọng tinh thần sáng tạo của nông dân, thúc đẩy sự nghiệp cải cách, khoán chế
độ trách nhiệm đến hộ gia đình và phát triển các xí nghiệp hương trấn; kiên trì
đường lối căn bản “từ quần chúng mà ra, đi vào quần chúng"; coi trọng cao độ
nông nghiệp, kết hợp cải cách nông thôn và cải cách thành thị...
* Thái Lan với chiến lược xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao,
sức cạnh tranh mạnh:
Thái Lan là nước có nền nông nghiệp chiếm địa vị chi phối, dân số
nông thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong
hàng thập kỷ qua đã chứng tỏ vai trò quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân. Chính phủ Thái Lan xác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
định hướng chiến lược là xây dựng nền nông nghiệp với chất lượng cao, có
sức cạnh tranh mạnh. Do đó, những năm gần đây, Thái Lan tập trung mũi
nhọn phát triển mạnh hàng chế biến nông sản và công nghiệp phục vụ nông
nghiệp. Hiện Thái Lan có tới hơn 1/4 số xí nghiệp gia công sản phẩm được
xây dựng ngay tại nông thôn, nhờ đó đã tạo dựng sự vững mạnh và ổn định về
kinh tế cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân. Bên
cạnh đó, Chính phủ còn chú trọng xây dựng các tổ chức nông nghiệp và phát
triển hệ thống điều hành nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở sử dụng tài
nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý hướng tới phát triển bền
vững.
Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp
dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò các cá nhân và các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao
trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt
động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công
tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp;
giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo đảm rủi ro cho nông dân. Đối
với các sản phẩm nông sản, Nhà nước tăng cường sức cạnh tranh của hàng
hóa nông sản bằng việc tăng khả năng tổ chức và tiếp thị thị trường. Phân bổ
khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý, ngăn chặn tình
trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài
nguyên đã bị suy thoái. Giải quyết tốt những mâu thuẫn về tư tưởng trong
nông dân có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai,
đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Về xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà
nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy
lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu
hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông
thôn với các dự án thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước.
Một trong những tiêu chí để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền
vững và hiện đại hóa là cơ giới hóa nông nghiệp và áp dụng các quy trình kỹ
thuật sản xuất tiên tiến. Thái Lan chú trọng phát triển cơ giới hóa nhằm đưa
nông nghiệp đi vào thâm canh, cải tạo và xây dựng nông thôn. Phát triển
mạng lưới xí nghiệp cơ khí nhỏ và vừa của tư nhân ở các thành phố, thị trấn
và nông thôn. Khuyến khích nông dân mua máy móc do các xí nghiệp cơ khí
trong nước chế tạo, có cơ chế bảo hành và sửa chữa miễn phí trong vòng từ 1
đến 3 năm. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cải tạo đất, áp dụng công nghệ
sinh học để lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; thực hiện việc chuyển giao công
nghệ nuôi cấy phôi; nghiên cứu các công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Thái Lan còn chú trọng phát triển các ngành mũi nhọn như hàng nông,
hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản
cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang các nước khác, nhất là các nước
công nghiệp phát triển. Hiện nay, ngoài mặt hàng xuất khẩu truyền thống như
gạo, ngô, cao su, đường, nông nghiệp Thái Lan còn có nhiều mặt hàng xuất
khẩu mới như hải sản đông lạnh, gia cầm, hoa quả tươi, chế biến rau xanh và
sắn củ. Nhờ có chính sách khuyến khích nông nghiệp phát triển mạnh, Thái
Lan đã đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo (khoảng 5 triệu tấn/năm), là nước
xuất khẩu thực phẩm mạnh nhất khu vực Đông - Nam Á.
Giáo dục và đào tạo cũng hướng vào nông nghiệp, nông thôn với các
chương trình đào tạo phát triển kỹ năng cho nông dân và người quản lý đất
đai, quản lý kinh doanh, bảo vệ môi trường và an toàn sức khỏe. Ngoài ra, còn
có những hoạt động đào tạo truyền thống như tạo công ăn việc làm trong lĩnh
vực hoạt động nông nghiệp nhằm góp phần thu hút lực lượng lao động đông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
đảo là thanh niên. Thái Lan thực hiện chính sách "ưu đãi nông nghiệp - nông
thôn - nông dân" nhằm ổn định chính trị - xã hội.
* Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Nhật Bản:
Nhật Bản là nước có diện tích đất đai canh tác có hạn, số lượng người
đông, đơn vị sản xuất nông nghiệp chính tại Nhật Bản vẫn là các hộ gia đình
nhỏ, mang đậm tính chất của nền văn hóa lúa nước. Với đặc điểm tự nhiên và
xã hội, trong phát triển nông nghiệp Nhật Bản đã đề ra một chiến lược khôn
khéo và hiệu quả, như tăng năng suất nền nông nghiệp quy mô nhỏ (bằng
cách thâm canh tăng năng suất trên đơn vị diện tích và trên đơn vị lao động để
nông nghiệp Nhật Bản cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu
của nhân dân); dưỡng sức dân, tạo khả năng tích lũy và phát huy nội lực;
thâm canh tăng năng suất; xuất khẩu nông, lâm sản (nguồn thu ngoại tệ quan
trọng) để nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ công nghiệp hóa; phi tập trung
hóa công nghiệp, đưa sản xuất công nghiệp về nông thôn, gắn nông thôn với
công nghiệp, gắn nông thôn với thành thị. Những bước đi thích hợp này là
những điều kiện quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản
theo hướng hiện đại hóa.
Để tạo cơ sở thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng và phát huy tác dụng
máy móc, thiết bị và hóa chất cho quá trình cơ giới hóa và hóa học hóa nông
nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao trong nông nghiệp, Nhật Bản đã chú
trọng phát triển, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, hệ thống năng lượng
và thông tin liên lạc hoàn chỉnh, phân bổ các ngành công nghiệp chế biến
dùng nguyên liệu nông nghiệp (như tơ tằm, dệt may...), các ngành cơ khí, hóa
chất trên địa bàn nông thôn toàn quốc. Tạo việc làm cho lao động nông thôn,
ngăn chặn làn sóng lao động rời bỏ nông thôn ra thành thị. Chính phủ Nhật
Bản thường xuyên có chính sách trợ giá nông sản cho các vùng nông nghiệp
mũi nhọn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững và hiện đại hóa
hiện là xu thế tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế các nước. Trung
Quốc, Thái Lan, Nhật Bản đều thực hiện chính sách lấy nông nghiệp làm nền
tảng ổn định xã hội và tích lũy cho công nghiệp, thu hút vốn đầu tư, phát triển
công nghiệp hướng vào xuất khẩu... làm tăng nhanh tiềm lực kinh tế đất nước.
Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và phát
triển bền vững của các nước này là bài học kinh nghiệm để chúng ta tham
khảo và học tập[6].
1.1.2.2 – Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở Việt Nam
Trước năm 1980, sản xuất nông nghiệp nước ta lâm vào tình trạng đình
đốn do mô hình hợp tác kiểu cũ và cơ chế kế hoạch hoá tập trung không phù
hợp. Vào những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ XX, mức sản xuất
lương thực bình quân đầu người liên tục giảm, lượng gạo hàng năm nhập
khẩu tăng lên gần 1 triệu tấn, tình trạng khoán chui diễn ra phổ biến. Chỉ thị
100/CT-TW ngày 13/01/1981 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã bước
đầu giải phóng lao động nông dân, gắn trách nhiệm và lợi ích của họ với sản
phẩm cuối cùng trên ruộng khoán, khuyến khích đầu tư thêm lao động, phân
bón, vật tư để thu thêm nhiều sản phẩm vượt khoán. Kết quả đã đem lại 6-7
vụ được mùa liên tiếp, sản lượng lương thực tăng gần 1 triệu tấn/năm.
Bắt đầu từ cuối năm 1983 đến 1984, động lực khoán sản phẩm đến nhóm
và người lao động có dấu hiệu suy giảm, bởi lẽ khoán sản phẩm mới chỉ điều
chỉnh cơ chế phân phối và cơ chế quản lý giữa người lao động và hợp tác xã,
giữa công nhân lao động và nông trường, chưa thiết lập đầy đủ quyền làm chủ
cho các hộ nông dân. Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 về đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp đã chính thức thừa nhận vai trò của kinh tế hộ và coi
kinh tế hộ là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Đồng thời nhiều chính
sách khác được thực hiện như xoá bỏ chế độ độc quyền thu mua nông sản,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
xoá bỏ chế độ 2 giá, thực hiện chính sách khuyến khích nông dân tăng sản
lượng để bán ra thị trường, cải cách chế độ thuế và hỗ trợ đối với nông
nghiệp, từng bước cải cách pháp lý để hỗ trợ kinh tế thị trường phát triển
trong nông nghiệp,... Kết quả là đến năm 1995, lần đầu tiên hầu hết các chỉ
tiêu kế hoạch 5 năm 1991-1995 trong đó có chỉ tiêu nông nghiệp, đều hoàn
thành và hoàn thành vượt mức, đưa nước ta thành nước xuất khẩu trên dưới 3
triệu tấn gạo/năm.
Từ năm 1995 đến nay, đối mới trong nông nghiệp tiếp tục được thực
hiện để tăng trưởng và hội nhập. Tháng 11/1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết
số 06-NQ/TW về một số vấn đề nông nghiệp và kinh tế nông thôn, trong đó
khẳng định vấn đề trọng yếu là kinh tế trang trại. Tháng 2/2000, Chính phủ ra
nghị quyết 03 về phát triển kinh tế trang trại,... Những văn bản chính sách về
khuyến khích phát triển nông nghiệp tiếp tục được hoàn thiện tạo động lực
cho nông nghiệp nước ta phát triển và đã đạt được những thành tựu quan
trọng:
+ Sản xuất lương thực tiếp tục tăng cả về số lượng và chất lượng, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Đến năm 2007, sản lượng lương
thực có hạt cả nước đạt 40 triệu tấn (trong đó lúa là 35,9 triệu tấn) nâng mức
lương thực có hạt bình quân đầu người từ 444 kg năm 2000 lên 469,5 kg năm
2007. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng để một nước đang phát triển có thể
thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá thực sự. Trong vòng 10 năm, sản xuất
lương thực tăng hơn 13 triệu tấn, mỗi năm tăng hơn 1 triệu tấn. Giai đoạn
2001-2007, các sản phẩm trồng trọt khác đều tăng với tốc độ khá như chè búp
khô tăng 51,5%, cao su mủ khô tăng 61%, hạt tiêu 172,67%, đỗ tương 84%,
lạc 42%, ... Một số cây trồng có lợi thế cạnh tranh là gạo, cà phê, cao su, tiêu
và điều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Sản lượng các loại cây trồng đều tăng nhanh, trong khi đó diện tích gieo
trồng các loại cây lương thực giảm từ 8,44 triệu ha năm 2000 xuống còn 8,27
triệu ha năm 2007, riêng diện tích trồng lúa giảm mạnh từ 7,66 triệu ha xuống
còn 7,2 triệu ha. Về cơ bản đã khắc phục được tình trạng độc canh cây lúa
trên phần lớn diện tích, làm giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác tăng từ 17
triệu đồng năm 2000 lên trên 30 triệu đồng năm 2007; Riêng ở đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đạt xấp xỉ 40 triệu đồng /ha. Diện
tích đạt trên 50 triệu đồng/ha đã tăng từ 10% lên 20%.
Chăn nuôi phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá. Từ năm
2000 đến 2007, ngành chăn nuôi đạt tốc độ tăng trưởng khá, tăng cao nhất là
năm 2005 đạt 11,4%, năm 2007 tăng 4,6%. Sản lượng thịt lợn hơi xuất
chuồng năm 2007 đạt 2,55 triệu tấn, tăng 80,4% so năm 2000. Chăn nuôi trâu
bò tương đối ổn định qua các năm, tính bình quân giai đoạn 2000-2007, sản
lượng thịt trâu, bò tăng bình quân 9,8%/năm. Đàn bò sữa phát triển nhanh,
năm 2005 cả nước có 104 ngàn con, sản lượng sữa đạt 198 ngàn tấn, tăng gấp
4 lần so năm 2000 và tăng bình quân trên 30%/năm. Chăn nuôi gia cầm tăng
trưởng bình quân 7,6%/năm giai đoạn 2000-2003. Đến năm 2007, tổng đàn
gia cầm cả nước đạt 226 triệu con, đạt 358,8 ngàn tấn thịt hơi. Về cơ bản,
ngành chăn nuôi nước ta đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và
một phần xuất khẩu.
Ngành lâm nghiệp phát triển và đạt được một số thành tựu: Tốc độ tăng
trưởng của ngành lâm nghiệp bình quân đạt 1,4%/năm. Với thành tựu bảo
toàn và phát triển được vốn rừng. Độ che phủ của rừng năm 1990 là 27,7%,
đến năm 2005 đạt 37,3%. Từ năm 2000 đến nay, bình quân hàng năm trồng
được gần 200 ngàn ha rừng. Các khâu khoanh nuôi tái sinh, khoán quản lý
bảo vệ rừng theo phương thức”giao đất khoán rừng” đều đạt và vượt kế
hoạch. Thành tựu đáng ghi nhận trong việc khai thác và chế biến lâm sản từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
rừng là tỷ lệ gỗ khai thác từ trồng đã tăng lên, từ 47,4% năm 1998 lên 62,4%
năm 2000 và đạt cao hơn trong những năm gần đây.
Ngành thuỷ sản đang vươn lên thành ngành mũi nhọn trong nông lâm
thuỷ sản. Đến năm 2007, sản lượng thuỷ sản cả nước đạt hơn 4,15 triệu tấn,
tăng gấp 2,6 lần so với năm 2000. Thành tựu đáng chú ý nhất là diện tích và
sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tăng trưởng ở mức cao. So với năm 2000, năm
2007 diện tích nuôi tăng gấp 1,57 lần và sản lượng tăng gấp hơn 3,5 lần, đạt
2.085,2 ngàn tấn. Trong quá trình phát triển, các hoạt động khai thác, nuôi
trồng và chế biến thuỷ sản đã gắn kết chặt chẽ. Các khâu trọng yếu về hạ tầng
kỹ thuật phục vụ nuôi trồng, khai thác, chế biến đã được đầu tư, từng bước
hiện đại hoá.
Hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến.
Nghị định số 03/NĐ-CP năm 2000 của Chính phủ đã tạo điều kiện pháp lý
thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển. Năm 2006 cả nước có 72,02 ngàn
hộ trang trại, tăng 16 ngàn hộ so với năm 2000, thu hút khoảng 240 ngàn lao
động. Kinh tế hợp tác xã ngày càng phát triển, năm 2006 có 6.971 hợp tác xã,
trong đó có 5.847 hợp tác xã cũ chuyển đổi, 1.124 hợp tác xã mới thành lập.
Các hình thức liên doanh liên kết đã tạo ra những năng lực phát triển mới
mang lại hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản phát triển sau đổi mới đã làm cho
kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng nhanh chóng, năm 2007 đạt trên 12
tỷ USD với 1.229,2 ngàn tấn cà phê, 152,5 ngàn tấn hạt điều, 82,9 ngàn tấn
hạt tiêu, 114,5 ngàn tấn chè, cao su thiên nhiên đạt 714,9 ngàn tấn, thuỷ sản
đạt 3,8 tỷ USD, tăng gấp 2,53 lần so năm 2000. Thị trường xuất khẩu được đa
dạng hơn, có nhiều thị trường mới cho hàng nông, lâm, thuỷ sản.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp nông thôn nước ta còn
gặp một số khó khăn, thách thức, đó là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển dịch chậm so với yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp thuỷ
sản trong GDP cả nước đã chậm lại, năm 1990, tỷ trọng này là 38,74%, năm
2000 còn 24,53%, bình quân mỗi năm giảm 1,4%, nhưng giai đoạn 2001-
2007 chỉ giảm dưới 0,8%/năm, còn 20,3% năm 2007.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn thể hiện tính độc canh, tự túc, phân tán
và quy mô nhỏ. Chăn nuôi chiếm tỷ trọng 24% và không vững chắc. Phương
thức chăn nuôi phân tán dưới hình thức hộ gia đình với kỹ thuật thủ công và
chăn nuôi tận dụng vẫn là phổ biến. Số trang trại chăn nuôi tuy có tăng lên
nhưng mới chỉ chiếm khoảng 3% số trang trại cả nước và sản phẩm chăn nuôi
của trang trại cũng chỉ chiếm khoảng 10% tổng sản phẩm chăn nuôi. Các sản
phẩm trồng trọt xuất khẩu ngoài gạo, cao su, cà phê chỉ đạt mấy chục ngàn
tấn/năm. Nhiều loại sản phẩm xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức tiểu ngạch
sang Trung Quốc như rau, quả, cao su,...
Dân số và lực lượng lao động còn lưu lại trong nông nghiệp nông thôn
khá cao. Năm 2007, trong số trên 30 triệu lao động nông thôn, lao động sản
xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm tới 23,89 triệu người và chưa có dấu
hiệu thuyên giảm do tình trạng thất nghiệp (tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
nông thôn mới đạt trên 80% năm 2007) và tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm.
Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam còn thấp. Chất lượng
nông sản thấp, nguyên nhân chính là chúng ta chưa có đủ bộ giống cây trồng
và vật nuôi cho sản phẩm chất lượng cao. Công nghệ bảo quản và chế biến
nông sản chậm được đổi mới và chưa đồng bộ là nguyên nhân cố hữu nhất,
tồn tại lâu nhất làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. Giá thành nông sản
còn cao do nhiều nguyên nhân như giống kém, trình độ thâm canh còn hạn
chế, tỷ lệ hao hụt trong các khâu thu hoạch, vận chuyển, bảo quản, chế biến
khá cao; Sản xuất nông nghiệp phân tán với 9,78 triệu hộ nông nghiệp (năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
2006). Cơ sở hạ tầng dịch vụ thương mại hàng nông sản còn hạn chế, chi phí
cao.
Nạn chặt phá rừng và tình trạng cháy rừng chưa được ngăn chặn hữu
hiệu. Giai đoạn 2001-2007, bình quân mỗi năm bị cháy hơn 5,5 ngàn ha rừng
và bị chặt phá 3,32 ngàn ha gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế xã hội, môi
trường. Mỗi năm vẫn còn tới hàng chục ngàn vụ vi phạm lâm luật về bảo vệ
và phát triển rừng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như hoạt
động của lực lượng kiểm lâm còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật của
người dân còn kém,... nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là người dân chưa sống
được nhờ nghề rừng.
Thu nhập từ nông nghiệp giảm, phân hoá giàu nghèo trong nông thôn
diễn ra với khoảng cách ngày càng xa hơn. Chất lượng tăng trưởng nông
nghiệp thấp, mặc dù giá trị sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng 5,5%/năm
nhưng chi phí sản xuất cao nên giá trị gia tăng của toàn ngành chỉ tăng 4%.
Tỷ lệ giá trị gia tăng/giá trị sản xuất nông nghiệp giảm dần. Thu nhập bình
quân/hộ giảm do giá cả các loại vật tư nông nghiệp ngày càng cao, gây bất lợi
cho sản xuất nông nghiệp và các hộ nông dân[dt 8], [10].
Trong những năm tới, để phát triển nền nông nghiệp nước ta theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bền vững, cần phải xây dựng được
một chiến lược phát triển nông nghiệp đúng đắn dựa trên các căn cứ khoa học
sau:
Thứ nhất, phải đánh giá một cách khách quan và sâu sắc chiến lược
phát triển nông nghiệp trong giai đoạn trước, chỉ ra những thành tựu đã đạt
được cũng như các hạn chế tồn tại.
Thứ hai, phải căn cứ vào nguồn tài nguyên của đất nước, bao gồm tài
nguyên về đất đai, thời tiết, khí hậu. Đất nước ta với nguồn tài nguyên phục
vụ cho nông nghiệp có nhiều lợi thế, song cũng có những khó khăn lớn. Cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
đánh giá đúng các lợi thế và những khó khăn trong quá trình xây dựng và thực
hiện chiến lược phát triển nông nghiệp.
Thứ ba, căn cứ vào cơ sở vật chất – kỹ thuật nông nghiệp bao gồm hệ
thống công cụ máy móc, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông
nghiệp. Với hệ thống đạt ở mức nào, cần thiết phải điều chỉnh bổ sung và
nâng cấp xây dựng nhằm hướng vào phục vụ chiến lược phát triển nông
nghiệp trong giai đoạn hiện tại và tương lai.
Thứ tư, căn cứ vào nguồn lao động và trình độ của người lao động: số
lượng và chất lượng của nguồn lao động. Ở nước ta nguồn lao động nông
nghiệp dồi dào, song chất lượng còn thấp, ít được đào tạo về kỹ thuật và quản
lý, trình độ dân trí chưa cao.
Thứ năm, căn cứ vào nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế về sản
phẩm nông nghiệp. Ở từng giai đoạn, yêu cầu về số lượng, chất lượng và
chủng loại các nông sản rất khác nhau ở trong nước cũng như trên thị trường
quốc tế. Cần phân tích, đánh giá và dự báo về nhu cầu của thị trường một
cách có căn cứ khoa học.
Thứ sáu, căn cứ vào trình độ khoa học và công nghệ của thế giới, của
nước ta và khả năng ứng dụng những thành tựu tiến bộ khoa học và công
nghệ của thế giới vào điều kiện Việt Nam hiện nay và sắp tới.
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đại hội X của Đảng đã chỉ
ra chiến lược phát triển nông nghiệp của nước ta như sau:
“Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
hướng tới xây dựng, phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng,
phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh
cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình
thành một nền nông nghiệp sạch, phấn đấu giá trị tăng thêm trong nông lâm
nghiệp thuỷ sản tăng 3-3,2%/năm”[7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Từ chiến lược tổng quát trên, có thể xác định những nội dung chủ yếu
là:
+ Phát triển một nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá có cơ cấu sản xuất ngày càng hợp lý.
+ Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, đa
dạng có cơ cấu sản phẩm hàng hoá phong phú, đáp ứng nhu cầu thị trường
trong nước và hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời đẩy nhanh ứng dụng tiến
bộ khoa học -công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
+ Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững, đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành một nền
nông nghiệp sạch.
Mục tiêu phát triển:
+ Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và lâu dài.
+ Tăng nhanh sản xuất nông sản hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu.
+ Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư nông nghiệp và
nông thôn.
+ Bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền
vững[9].
1.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết
- Sau 5 năm (2003-2007) ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh đã
đạt được những kết quả như thế nào (về tăng trưởng, cơ cấu ngành và nội bộ
ngành, chỉ tiêu sản xuất?,... những vấn đề nào còn tồn tại hạn chế?,...)
- Những nguyên nhân nào đưa tới kết quả trên và nguyên nhân của
những tồn tại hạn chế?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
- Đặc thù và thế mạnh của ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh
hiện nay là gì?
- Hướng phát triển của ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản của tỉnh Vĩnh
phúc trong 5-10 năm tới là gì?
- Hệ thống giải pháp nào là quan trọng để ngành nông lâm nghiệp thuỷ
sản của tỉnh phát triển bền vững?
1.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
1.2.2.1 – Chọn địa điểm nghiên cứu
- Vĩnh Phúc có đặc thù là địa hình có cả 3 vùng: miền núi, trung du và
đồng bằng; Căn cứ vào đặc điểm địa hình của từng huyện, thành, thị và đặc
trưng sản xuất của từng vùng, tác giả đã chọn 3 xã đại diện cho 3 vùng sinh
thái để nghiên cứu. Mẫu chọn ra vừa phải đảm bảo tính đại diện cho từng
vùng, vừa đại diện và suy rộng cho cả tỉnh.
+ Xã Vĩnh Thịnh - huyện Vĩnh Tường: Vĩnh Tường là huyện đồng
bằng, 1 trong 2 huyện trọng điểm về lúa của tỉnh, năng suất lúa ở đây cao nhất
tỉnh (60-65 tạ/ha). Xã Vĩnh Thịnh được chọn điều tra có thể đại diện cho vùng
đồng bằng của tỉnh, số hộ điều tra chọn mẫu là 50 hộ.
Xã Vĩnh Thịnh có diện tích 10,01 km2, dân số 8.909 người, tổng số hộ
là 1.928 hộ. Sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Thịnh ngoài cây lúa, các hộ còn
trồng các loại cây như ngô, lạc, đậu tương, các loại cây ăn quả như chuối,
nhãn, hồng,...Chăn nuôi bò sữa là một thế mạnh của Vĩnh thịnh, ngoài ra các
hộ còn chăn nuôi lợn, gia cầm,...
+ Xã Đồng Thịnh - huyện Lập Thạch: là xã miền núi, có lợi thế về phát
triển đồi rừng, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc. Với diện tích là 11,35 km2,
dân số năm 2006 là 8.178 người, số hộ là 1.867 hộ. Sản xuất nông nghiệp ở
Đồng Thịnh chủ yếu tập trung vào cây lúa, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
một phần nuôi trồng thuỷ sản ở diện tích chiêm trũng nhưng không đáng kể.
Số hộ điều tra chọn mẫu là 50 hộ.
+ Xã Đồng Tĩnh - huyện Tam Dương: là xã thuộc vùng trung du có lợi
thế về phát triển cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm. Đồng Tĩnh có diện tích
10,29 km2, dân số 10.377 người và 2.796 hộ. Dân số chủ yếu sống bằng nghề
nông và làm thuê vào những tháng nông nhàn, do vậy đời sống của nhân dân
trong xã còn nghèo, thu nhập thấp. Số hộ điều tra chọn mẫu là 50 hộ.
1.2.2.2 – Thu thập số liệu
a - Thu thập số liệu đã công bố
Thu thập và tính toán từ những số liệu đã công bố của các cơ quan
thống kê Trung ương, các báo chí chuyên ngành và những báo cáo khoa học
đã được công bố, các số liệu đã công bố của Cục Thống kê tỉnh và phòng
Thống kê của các huyện, các số liệu của sở Nông nghiệp và PTNT, sở Kế
hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc.
b - Thu thập số liệu mới
Được thực hiện qua các phương pháp sau:
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA): Đi thực tế để đánh giá
thực trạng, thu thập những thông tin qua những người dân và cán bộ ở vùng
nghiên cứu, thu thập những tài liệu, thông tin đã có tại nơi nghiên cứu.
- Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân
(PRA): Trực tiếp tiếp xúc với người dân tại nơi nghiên cứu, tạo điều kiện và
thúc đẩy sự tham gia của người dân vào những vấn đề cần nghiên cứu, đàm
thoại với họ để thu thập những thông tin nhằm nắm được thực trạng sản xuất,
những khó khăn, mong muốn, .... của người dân trong việc phát triển sản xuất,
tăng thu nhập của hộ,...
- Phương pháp điều tra hộ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
- Chọn hộ điều tra: áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên (chọn
điểm, chọn hộ), từ 3 vùng chọn ra 3 xã đại diện, đây là các xã cơ bản là thuần
nông, mỗi xã chọn 50 hộ. Phân ra các loại hộ: hộ nông nghiệp, hộ thuỷ sản,
hộ ngành nghề dịch vụ. Tỷ lệ giữa các loại hộ được lấy theo tỷ lệ các loại hộ
của từng huyện (theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn năm 2006 của
Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc),
- Nội dung phiếu điều tra: Phiếu điều tra có các thông tin chủ yếu như
nhân khẩu, lao động, tuổi, trình độ văn hoá của chủ hộ; các nguồn lực của hộ
như ruộng đất, tư liệu sản xuất; Tình hình sản xuất các ngành trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản, ngành nghề,... Chi phí sản xuất từng ngành, thu
nhập,...
- Phương pháp điều tra: sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp linh
hoạt với hộ nông dân, đàm thoại với họ thông qua một loạt các câu hỏi mở
phù hợp với tình hình thực tế, sử dụng linh hoạt và thành thạo các dạng câu
hỏi: như thế nào, bao nhiêu? ... Phỏng vấn số hộ đã chọn, kiểm tra tính thực
tiễn của thông tin thông qua quan sát trực tiếp.
1.2.2.3 – Phương pháp phân tích
- Phương pháp duy vật biện chứng:
Phương pháp chung và tổng quát cho toàn bộ luận văn là sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các lý luận kinh tế học.
Với các phương pháp phân tích, tổng hợp, suy diễn và quy nạp sẽ giúp xem
xét, đánh giá các sự việc, hiện tượng trong mối liên hệ hệ thống có liên quan,
có tác động ảnh hưởng đến nhau trong quá trình chuyển biến và phát triển, từ
đó rút ra những kết luận có tính chất quy luật, thực chất và bản chất của từng
vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở các lý luận, phạm trù kinh tế học hiện nay, luận
văn còn sử dụng các quan điểm về lợi thế, tiềm năng, nguồn lực, các yếu tố
đầu vào, đầu ra, năng suất, sản lượng, chi phí và kết quả, hiệu quả kinh tế,...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
- Phương pháp thống kê kinh tế:
Phương pháp này giúp cho việc thu thập điều tra được những tài liệu
mang tính đại diện cao, phản ánh chân thực hiện tượng nghiên cứu, giúp cho
việc tổng hợp tài liệu, nghiên cứu các chỉ tiêu được đúng đắn, khoa học và
khách quan, phản ánh đúng nội dung kinh tế cần nghiên cứu. Các phương
pháp phân tổ, số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân trong thống kê được
vận dụng như là những phương pháp chủ yếu để nghiên cứu, học tập.
- Phương pháp hàm tăng trưởng: Yt = Y0(1+r1)(1+r2)(1+r3).....(1+rt).
Được sử dụng để dự kiến các chỉ tiêu trong những năm tương lai, trong đó :
Yt : là giá trị của chỉ tiêu dự kiến năm t,
Y0 : là giá trị của chỉ tiêu năm gốc.
rt: là tốc độ tăng trưởng dự kiến của năm t.
- Phương pháp chuyên gia:
Được sử dụng nhằm tranh thủ ý kiến đánh giá của các chuyên gia về
kinh tế, kỹ thuật, thông qua các tài liệu nghiên cứu và ý kiến trực tiếp của học
làm căn cứ cho việc đánh giá tiềm năng, định hướng và những giải pháp cho
phát triển kinh tế nông lâm nghiệp thuỷ sản tỉnh Vĩnh Phúc.
1.2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
1.2.3.1 – Các chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất nông
lâm nghiệp thuỷ sản như:
- Giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chia ra các lĩnh vực:
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. Giá trị sản xuất/đơn vị diện tích;...
- Giá trị gia tăng toàn ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chia ra các lĩnh
vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- Tổng đàn gia súc, gia cầm,...
- Năng suất, sản lượng cây trồng, sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, khai
thác; Sản lượng thịt hơi xuất chuồng, sản lượng gỗ khai thác;...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
- Thu nhập = Tổng thu – Tổng chi.
+ Trong trồng trọt:
Tổng thu trên 1 đơn vị diện tích = sản lượng trên 1 đơn vị diện tích x
đơn giá (giá thực tế)
Tổng chi trên 1 đơn vị diện tích: bao gồm chi phí mua giống cây, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, công lao động, chi khác,...
+ Đối với chăn nuôi:
Tổng thu(tính cho 1 loại vật nuôi) = sản lượng thịt hơi xuất chuồng x
đơn giá (giá thực tế)
Tổng chi bao gồm chi phí mua giống con, chi phí mua thức ăn, chi phí
về thú y, chi phí chuồng trại, công lao động, ...
1.2.3.2 – Các chỉ tiêu phản ánh phân bổ và hiệu quả sử dụng nguồn
lực
- Diện tích đất nông nghiệp, diện tích tưới, tiêu, diện tích trồng cây
hàng năm, cây lâu năm, diện tích nuôi trồng thuỷ sản, diện tích trồng rừng,.....
- Diện tích trồng rừng tập trung, diện tích trồng cây phân tán, diện tích
rừng chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, sản lượng gỗ, củi khai thác,....
-................
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA TỈNH VĨNH PHÚC
2.1.1. Vị trí địa lý
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng có toạ độ địa lý
21
008’ - 21019’ độ vĩ Bắc và 105009’ - 105047’ độ kinh Đông. Địa giới hành
chính:
- Phía bắc: Giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang.
- Phía nam: Giáp tỉnh Hà tây.
- Phía đông: Giáp thành phố Hà nội.
- Phía tây: Giáp tỉnh Phú Thọ.
2.1.2. Địa hình
Là tỉnh đồng bằng, nhưng Vĩnh Phúc có đủ 3 vùng địa hình là: Đồng
bằng, trung du và miền núi. Phía bắc của tỉnh có dãy núi Tam Đảo với đỉnh
Đạo Trù cao 1.592m, phía Tây Nam được bao bọc bởi 2 con sông lớn là sông
Hồng và sông Lô tạo nên địa thế của tỉnh thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Nhìn chung, về địa hình, tỉnh Vĩnh Phúc có thể chia thành 3 vùng lớn
như sau:
Vùng đồng bằng: Bao gồm tiểu vùng đồng bằng phù sa mới ven sông
Hồng và sông Lô có địa hình khá bằng phẳng, chạy dài từ các xã nam Lập
Thạch, qua huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, huyện Mê Linh và tiểu vùng phù sa
cũ lượn sóng chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ phía bắc huyện Vĩnh
Tường, Yên Lạc, vùng giữa Mê Linh và nam Bình Xuyên.
Vùng đồi gò lượn sóng xen kẽ ruộng bậc thang: Tập trung thành vùng
rộng lớn, thuộc phía bắc các huyện Mê Linh, Bình Xuyên, Lập Thạch và phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
lớn diện tích huyện Tam Dương, thành phố Vĩnh Yên, có độ dốc phổ biến từ
15
0
– 250.
Vùng đồi núi: Tập trung ở phía bắc của tỉnh, chạy theo hướng Đông
Bắc - Tây Nam, từ Quang Yên (Lập Thạch) đến Ngọc Thanh (Mê Linh), vùng
này có độ dốc trung bình > 250.
2.1.3. Khí tƣợng thuỷ văn
- Khí hậu: Tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
có đặc trưng về mùa đông thì lạnh, khô và ít mưa, mùa hạ nóng ẩm, mưa
nhiều. Theo số liệu của Trung tâm khí tượng thuỷ văn Vĩnh Phúc:
- Nhiệt độ:
+ Nhiệt độ TBNN: 230C.
+ Nhiệt độ cao nhất trong năm: 39,40C.
+ Nhiệt độ thấp nhất trong năm: 3,70C.
+ Nhiệt độ TBNN của vùng núi Tam Đảo: 180C -190C.
- Độ ẩm, lượng bốc hơi:
+ Độ ẩm TBNN: 81,2%
+ Độ ẩm cao nhất: 100%
+ Độ ẩm thấp nhất: 14%
+ Tổng lượng bốc hơi TBNN: 1.119mm.
+ Lượng bốc hơi tháng thấp nhất TBNN: 63 mm (tháng2).
+ Tổng lượng bốc hơi tháng cao nhất TBNN: 155,7mm (tháng 5)
- Số giờ nắng:
+ Số giờ nắng TBNN: 1.072 giờ /năm.
+ Số giờ nắng tháng cao nhất TBNN: 240 giờ (tháng 7)
+ Số giờ nắng tháng thấp nhất TBNN: 52 giờ (tháng2)
- Lượng mưa:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Vĩnh Phúc nằm trong vùng trung tâm mưa lớn của miền Bắc. Lượng
mưa lớn nhất đo được tại tâm mưa Tam Đảo là 2.757 mm; các vùng đồng
bằng như Yên Lạc, Vĩnh Tường, Mê Linh lượng mưa TBNN từ 1.500-
1.600mm. Theo số liệu của Trung tâm khí tượng thuỷ văn Vĩnh Phúc:
+ Lượng mưa TBNN: 1.679mm.
+ Lượng mưa năm cao nhất: 2.638mm (1997).
+ Lượng mưa năm thấp nhất: 817,8 mm (năm 1998).
Lượng mưa phân phối không đều trong năm, chủ yếu tập trung vào các
tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm từ 80 - 85% lượng mưa cả
năm; số còn lại vào mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
2.1.4. Thuỷ văn, sông ngòi:
Hệ thống sông suối, hồ ao trên địa bàn tỉnh khá phong phú nhưng chế độ
thuỷ văn phụ thuộc chủ yếu hai sông chính là:
Sông Hồng: Bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc, đoạn chảy qua địa
phận Vĩnh Phúc dài khoảng 47km, lưu lượng nước trung bình cả năm là
3.730m
3
/s (cao nhất là 22.000 m3/s - số liệu năm 1971; thấp nhất 1.010 m3/s - số
liệu năm 1994). Vào mùa lũ mực nước sông tại Việt Trì theo cấp báo động I:
13,63m; báo động II: 14,85m; báo động III: 15,85m. Như vậy, mực nước bình
thường trong mùa lũ đã cao hơn mặt đất tự nhiên trong nội đồng từ 3 - 5m, nên
việc tiêu nước tự chảy ra sông Hồng vào mùa lũ là không thể thực hiện được và
tiêu bằng động lực cũng gặp khó khăn.
Sông Lô: Bắt nguồn từ Vân Nam(Trung Quốc), chảy qua địa phận Vĩnh
Phúc với chiều dài khoảng 35km. Lưu lượng nước trung bình cả năm là
1.245m
3
/s (cao nhất là 7.530 m3/s - năm 2002; thấp nhất 90,8 m3/s - năm 2005).
Do nằm ở khu vực có địa hình cao thấp không đều, khúc khuỷu, lòng sông hẹp
nên lũ sông Lô lên xuống nhanh. Mực nước mùa lũ cao hơn mặt đất tự nhiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
trong nội đồng nên việc tiêu tự chảy của khu vực Lập Thạch về mùa lũ không
thể thực hiện được. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn một số con sông nhỏ như:
- Sông Phó Đáy: Bắt nguồn từ các dãy núi huyện Sơn Dương (Tuyên
Quang) và cửa ra tại Bạch Hạc với tổng chiều dài 152 km. Sông Phó Đáy có
độ dốc lớn, thường gây xô lũ nhanh, tác hại lớn vào mùa mưa.
- Sông Phan: Chiều dài tính từ cống 3 cửa An Hạ (An Hoà - Tam
Dương) đến Hương Canh là 58km. Lưu lượng dòng chảy chủ yếu do mưa
trong lưu vực và nước hồi quy của hệ thống thuỷ nông Liễn Sơn. Về mùa khô
lưu lượng rất nhỏ, nhưng về mùa mưa lũ thì mực nước dâng lên rất cao (đối
với thượng nguồn và đoạn giữa từ 11,0m - 12,0m, ở đoạn cuối sông từ 8,0m -
8,5m), vì vậy có tới 70% diện tích canh tác trong khu vực không có khả năng
tiêu tự chảy được. Mặt khác, do sông gấp khúc, nhiều đoạn bị bồi lấp thu hẹp
dòng chảy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ tiêu thoát lũ nội đồng.
- Sông Cà Lồ: Là một chi lưu của sông Cầu, bắt nguồn từ Hương Canh
- Bình Xuyên chảy qua Phúc Yên, Mê Linh và huyện Sóc Sơn (Hà Nội) đổ ra
sông Cầu tại cửa Phúc Lập Phương. Tổng chiều dài 90 km (tính trong địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc), chủ yếu có tác dụng cung cấp nước tưới cho diện tích đất
canh tác ven sông.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn nhiều sông, suối nhỏ bắt nguồn từ dãy
núi Tam Đảo và núi Sáng Sơn như: sông Tranh (Tam Dương) dài 21 km;
sông Cầu Tôn (Bình Xuyên) dài 19,5 km; sông Bá Hanh (Bình Xuyên, Mê Linh)
dài 19,5 km; Ngòi Cầu Ngạc (Lập Thạch) dài 10,7 km; Ngòi Cầu Đọ (Lập Thạch)
dài 11,2 km; Ngòi Cầu Mai (Lập Thạch) dài 7 km; Ngòi Cầu Triệu (Lập Thạch)
dài 9,3 km.
Bên cạnh đó, hệ thống hồ, đầm như: Hồ Đại Lải, hồ Làng Hà, hồ Xạ
Hương, hồ Vĩnh Thành, hồ Vân Trục, đầm Rưng, đầm Vạc...có tác dụng trữ
nước tưới, nuôi trồng thuỷ sản, điều hoà khí hậu, tạo cảnh quan môi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
trường sinh thái, phục vụ du lịch, điều tiết lũ cho tiểu vùng trong mùa
mưa lũ.
2.1.5. Đất đai, thổ nhƣỡng
2.1.5.1. Đất đai theo công dụng kinh tế
Vĩnh Phúc là tỉnh có diện tích thuộc loại trung bình trong cả nước với
tổng diện tích đất tự nhiên 137.340,96 ha. Phân bố các loại đất theo công
dụng kinh tế như sau:
* Đất nông lâm nghiệp thuỷ sản: 94.445,48 ha chiếm 68,77% tổng diện
tích đất toàn tỉnh, chia ra:
- Đất sản xuất nông nghiệp: 58.923,7 ha, trong đó: đất trồng cây hàng
năm là 50.288,14 ha, đất trồng cây lâu năm: 8.635,57 ha.
- Đất nuôi trồng thuỷ sản: 2.611,69 ha.
- Đất lâm nghiệp: Có tổng diện tích 32.879,07 ha, bằng 23,94% tổng
diện tích đất tự nhiên.
* Đất phi nông nghiệp: 39.433,79 ha, chiếm 28,7% diện tích tự nhiên,
gồm đất ở, đất chuyên dùng, đất sông suối,...
* Đất chưa sử dụng: 3.461,69 ha, chiếm 2,5% tổng diện tích đất tự
nhiên.
Nhìn chung, diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Vĩnh Phúc thấp so
với các tỉnh lân cận và cả nước. Bình quân diện tích đất trồng cây hàng năm chỉ
đạt 422,4 m2/người, ruộng đất manh mún, số hộ có diện tích đất sản xuất nông
nghiệp dưới 0,5 ha chiếm tới 95,64% tổng số hộ sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp. Do tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hoá nhanh, nên diện tích đất
canh tác cây hàng năm giảm khá nhanh (năm 2006 giảm 845 ha, năm 2007
giảm 876,4 ha). Đây là một áp lực không nhỏ đối với phát triển sản xuất nông
- lâm nghiệp - thuỷ sản của tỉnh trong những năm tới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Bảng 2.1: ĐẤT ĐAI PHÂN THEO CÔNG DỤNG KINH TẾ
Đơn vị tính: ha
Chỉ tiêu
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
So sánh
07/06(%)
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN 137224,14 137224,14 137340,96 100,1
I. Đất nông nghiệp 96298,7 95380,4 94445,5 98,1
1. Đất sản xuất nông nghiệp 60679,21 59814 58923,7 97,1
1.1. Đất trồng cây hàng năm 52009,96 51164,6 50288,1 96,7
1.2. Đất trồng cây lâu năm 8669,25 8649,42 8635,57 99,6
2. Đất lâm nghiệp 33089,12 33013,7 32879,1 99,4
2.1. Đất rừng sản xuất 10948,82 10879,1 10824,6 98,9
2.2. Đất rừng phòng hộ 6703,07 6697,37 6617,21 98,7
2.3. Đất rừng đặc dụng 15437,23 15437,5 15437,2 100,0
3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 2498,53 2520,88 2611,69 104,5
4. Đất nông nghiệp khác 31,84 31,84 31,01 97,4
II. Đất phi nông nghiệp 37400,48 38295,4 39433,8 105,4
1. Đất ở
8404,56 8607,2 8689,15 103,4
2. Đất chuyên dùng
18808,12 19631,6 20684,5 110,0
3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng
161,77 165,66 166,65 103,0
4. Đất nghĩa trang nghĩa địa
984 900,18 931,99 94,7
5. Đất sông suối và mặt nước
chuyên dùng
9117,01 8975,73 8945,96 98,1
6. Đất phi nông nghiệp khác
15,02 15,02 15,56 103,6
III. Đất chƣa sử dụng 3524,96 3548,38 3461,69 98,2
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
2.1.5.2- Đặc điểm thổ nhưỡng
Với địa hình khá phức tạp đã tạo nên sự đa dạng về phân loại và chất
lượng đất. Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất và đánh giá đất tỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Vĩnh Phúc theo phương pháp phân loại và đánh giá đất của FAO/UNESCO
(Thực hiện năm 2003) thì toàn bộ diện tích đất canh tác nông lâm nghiệp của
tỉnh được phân thành 6 nhóm đất cấp I, 12 loại đất cấp II và 47 loại đất phụ
(cấp III).
a - Nhóm đất phù sa: Có diện tích 29.830,15 ha,( bằng 21,74% tổng
diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh), được phân bố ở tất cả các huyện trên địa
bàn tỉnh và được chia thành 2 nhóm nhỏ như sau:
- Đất phù sa trung tính ít chua: Có diện tích là 15.636, 77 ha. Phân bố ở
các huyện Mê Linh; Bình Xuyên; Tam Dương; Yên Lạc; Vĩnh Tường. Đất
được hình thành do sự bồi tụ phù sa của hệ thống sông Hồng. Thích hợp trồng
các loại cây lương thực (lúa, ngô), cây màu và cây công nghiệp (đậu tương,
dâu, mía), cây rau, hoa, nuôi trồng thuỷ sản (vùng có địa hình thấp trũng).
- Đất phù sa chua: Có diện tích 14.193, 38 ha. Phân bố ở các huyện Mê
Linh; Bình Xuyên; Lập Thạch; Tam Dương; Yên Lạc; Vĩnh Tường. Đất được
hình thành chủ yếu do sự bồi tụ phù sa của sông Lô, sông Phó Đáy. Thích hợp
trồng các loại cây lương thực(lúa, ngô), cây màu và cây công nghiệp(đậu
tương, lạc), cây rau, hoa, nuôi trồng thuỷ sản(vùng có địa hình thấp trũng).
b - Nhóm đất Glây: Tổng diện tích đất Glây trong toàn tỉnh là 3.685,91
ha(bằng 2,69 % tổng diện tích đất tự nhiên). Phân bố ở các huyện Mê Linh;
huyện Bình Xuyên; huyện Lập Thạch; huyện Tam Dương; huyện Yên Lạc;
huyện Vĩnh Tường; thành phố Vĩnh Yên. Đất được hình thành ở vùng có địa
hình thấp trũng, bị ngập nước quanh năm. Thích hợp với nuôi trồng thuỷ sản
hoặc kết hợp trồng lúa và nuôi trồng thuỷ sản.
c - Nhóm đất cát: Có tổng diện tích là 4.236,58 ha(bằng 3,09 % tổng
diện tích đất tự nhiên). Phân bố ở các huyện: Mê Linh; Bình Xuyên; Lập
Thạch; Tam dương; thị xã Vĩnh Yên. Đất được hình thành do sự bồi tụ tại chỗ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
sản phẩm thô được rửa trôi từ đồi núi. Thích hợp với các loại cây rau, màu
(ngô, đậu tương, lạc).
d - Nhóm đất loang lổ: Có tổng diện tích là 11.887,3 ha(bằng 8,67%
diện tích đất tự nhiên). Phân bố chủ yếu ở các huyện Bình Xuyên, Tam
Dương, Yên Lạc và Vĩnh Yên. Đất được hình thành trên nền phù sa cũ có sản
phẩm feralitic. Thích hợp với các loại cây rau, hoa, cây công nghiệp ngắn
ngày(lạc, đậu tương), cây dược liệu(thanh hao hoa vàng...).
e - Nhóm đất xám: Có tổng diện tích là 42.435,27 ha, bằng 30,94% diện
tích đất tự nhiên. Phân bố chủ yếu ở các huyện Mê Linh, Bình Xuyên, Lập
Thạch, Tam Dương. Đất được hình thành chủ yếu do sự bồi tụ các sản phẩm
rửa trôi ở các thung lũng xen kẽ trong vùng đồi núi và hình thành trên nền phù
sa cổ, đá nai, phiến thạch, granit, quăczit, cuội kết…. ở vùng đồng bằng thích
hợp với trồng lúa và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồi núi thích hợp với
trồng cây ăn quả(độ dốc < 150 ), cây lâm nghiệp theo phương thức sản xuất
nông lâm kết hợp với hình thức trang trại.
f - Nhóm đất tầng mỏng: Có tổng diện tích là 1.264,78 ha(bằng 0,92%
diện tích đất tự nhiên). Phân bố ở các huyện Mê Linh, Lập Thạch, Tam
Dương, thành phố Vĩnh Yên. Đất được hình thành chủ yếu trên nền đá phiến
thạch. Có thể cải tạo trồng cây ăn quả với đất có độ dốc < 150 và trồng cây
lâm nghiệp với đất có độ dốc > 150[12].
Nhận xét chung:
- Đất đai của Vĩnh Phúc đa dạng nhưng được phân bố khá tập trung, là
điều kiện thuận lợi để có thể phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng vừa
đa canh vừa chuyên canh với nhiều loại cây trồng khác nhau như: Cây lương
thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây rau hoa, cây dược liệu, cây ăn quả, cây
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
- Đối với đất ruộng: Đa số diện tích đất có địa hình vàn và cao(bằng
81%), được tưới tiêu chủ động (85.88%), đất có thành phần cơ giới trung bình
và nhẹ. Độ phì đất ở mức trung bình là chủ yếu với diện tích là 45.355,78 ha,
phần lớn các yếu tố đất đai khá thuận lợi cho sản xuất. Tuy vậy diện tích đất
ruộng cũng có một số hạn chế là: Một phần khá lớn diện tích đất được phân
loại thuộc những nhóm đất xấu, có thành phần cơ giới nhẹ, hạn chế trong
thâm canh, tăng năng suất cây trồng, bao gồm đất loang lổ chua bạc màu, đất
xám bạc màu, đất cát.
- Đối với đất đồi núi: có diện tích là 39.470,07 ha. Nhìn chung các yếu
tố đất đai của đất đồi núi là không thuận lợi trong quá trình sử dụng. Yếu tố
hạn chế cơ bản trong sử dụng là độ dốc của đất đồi núi trong tỉnh khá lớn,
tầng đất canh tác mỏng(diện tích có độ dày tầng đất <50 cm là 24.879,02 ha,
bằng 63,03% diện tích đất đồi núi).
2.1.6. Tài nguyên rừng
Vĩnh Phúc có 27.827,84 ha rừng, chiếm 84,6% diện tích đất lâm
nghiệp, trong đó rừng tự nhiên là 9.436,27 ha chiếm 34% diện tích đất có
rừng, rừng trồng 18.391,06 ha, chiếm 66%[14].
Rừng của Vĩnh phúc có số lượng động thực vật phong phú, nhiều loại
lâm sản có giá trị, một số loài đặc hữu trong sách đỏ cần được bảo vệ và đang
được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm. Phần lớn tài
nguyên rừng có giá trị nằm trong khu rừng tự nhiên thuộc Vườn quốc gia Tam
Đảo, núi Sáng; lâm sản còn lại ở rừng mới tái sinh và rừng trồng.
Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, công tác lâm nghiệp
của tỉnh có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, bảo
vệ môi trường sinh thái cho toàn vùng và thủ đô Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
2.2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
2.2.1. Điều kiện kinh tế
Sau khi được tái lập từ năm 1997 đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt tốc độ
tăng trưởng kinh tế hàng năm liên tục ở mức cao so với mức bình quân chung
của cả nước và các tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ, GDP
bình quân giai đoạn 2003- 2007 đạt 18,8%/năm. Năm 2007 đạt 9.078,7 tỷ
đồng, tăng gấp 2,37 lần so năm 2002. Kinh tế của tỉnh phát triển tương đối
toàn diện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng
ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông
lâm nghiệp - thuỷ sản. Đến năm 2007, Vĩnh Phúc đã trở thành tỉnh có cơ cấu
công nghiệp xây dựng 61,06%, Dịch vụ 24,68% và Nông lâm nghiệp thuỷ sản
14,25%. Nhờ đó đời sống của nhân dân trong tỉnh từng bước được cải thiện,
GDP bình quân đầu người năm 2007 đạt 7,63 triệu đồng, tăng 2,26 lần so năm
2002 (giá SS 94), tính theo giá thực tế năm 2007 đạt 15,27 triệu đồng, cao
hơn mức trung bình cả nước là 13,7%[3].
Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm tăng nhanh, năm 2007 đạt
5.642,32 tỷ đồng, gấp 3,42 lần so năm 2002, tỷ lệ huy động vào ngân sách
trên GDP đạt trung bình 31-32%[3]. Thu ngân sách của tỉnh tăng nhanh và
mức độ tích luỹ trong dân cư khá đã tạo điều kiện huy động các nguồn vốn
vào đầu tư cho sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh được đầu tư mạnh mẽ: hệ
thống đường giao thông từ quốc lộ đến giao thông nông thôn được nâng cấp,
cải tạo; Hệ thống điện được đầu tư mới đã nâng cao công suất cung cấp điện,
đáp ứng đầy đủ cho sản xuất và tiêu dùng; Hệ thống trường học, trạm y tế,
chợ, thuỷ lợi đê điều, các công trình trụ sở của các cơ quan Nhà nước từ tỉnh
đến cơ sở được xây dựng mới,....đã làm thay đổi bộ mặt tỉnh lỵ và vùng nông
thôn Vĩnh Phúc, tạo điều kiện phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của
nhân dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Bảng 2.2: MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ CHỦ YẾU TỈNH VĨNH PHÚC
GIAI ĐOẠN 2003-2007
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2007
Tốc độ tăng
bình quân
(2003-2007)
%
1
Giá trị tăng thêm trên địa
bàn theo giá thực tế Tỷ đồng 6498,13 9961,28 18184 28,2
+ Công nghiệp-xây dựng " 3015,76 5223,87 11104 37,8
+ Dịch vụ " 1843,55 2697,7 4488,6 24,4
+ Nông lâm nghiệp thuỷ sản " 1638,83 2039,69 2591,5 11,5
2
Giá trị tăng thêm trên địa
bàn theo giá so sánh 94 Tỷ đồng 4581,72 6220,98 9078,8 18,8
+ Công nghiệp-xây dựng " 2074,48 3183,9 5204,1 26,4
+ Dịch vụ " 1281,61 1667,1 2437,5 17,8
+ Nông lâm nghiệp thuỷ sản " 1225,62 1369,96 1437,1 4,7
3 Cơ cấu kinh tế (giá thực tế) % 100,00 100,00 100,00
+ Công nghiệp-xây dựng % 46,41 52,44 61,06
+ Dịch vụ % 28,37 27,08 24,68
+ Nông lâm nghiệp thuỷ sản % 25,22 20,48 14,25
3
Tổng thu ngân sách trên địa
bàn Tỷ đồng 1813,95 3442,92 5642,3 27,9
Tỷ lệ huy động ngân
sách/GDP % 27,91 34,56 31,03
4
Tổng chi ngân sách địa
phƣơng Tỷ đồng 1230,77 1885,7 4356,2 39,2
5
Giá trị tăng thêm bình
quân/ngƣời
- Giá thực tế
Triệu
đồng 5,66 8,52 15,27 27,1
- Giá ss 94 " 3,99 5,32 7,63 17,7
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
2.2.2. Điều kiện xã hội
2.2.2.1- Dân số
Dân số trung bình toàn tỉnh năm 2007 có 1.190,428 ngàn người, sống
trên địa bàn 9 huyện, thị. Mật độ bình quân 867 người/km2, gấp 3 lần so với
mức bình quân chung của cả nước và thấp hơn mức bình quân của vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ. Mặc dù cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch
nhanh theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và kéo theo tốc độ tăng dân
số thành thị khá nhanh(10,5%/năm giai đoạn 2003 – 2007), nhưng do đặc
điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh với xuất phát điểm là một tỉnh nông
nghiệp, đến nay dân số sinh sống ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ
cao(82,77%). Mặt khác, dân cư phân bố không đều giữa các vùng trong tỉnh.
Vùng đồng bằng có mật độ dân cư cao nhất, bình quân 1.302 người/km2;
vùng trung du bình quân 601 người/km2; miền núi bình quân 559 người/km2.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên những năm qua đã giảm đáng kể, từ 11,72‰
năm 2002 xuống còn 11,45‰ năm 2007, tỷ lệ sinh giảm từ 15,87‰ năm 2002
xuống còn 15,54‰ năm 2007[3].
2.2.2.2. Lao động và việc làm
Năm 2007, tổng nguồn lao động của tỉnh có 804,18 nghìn người, chiếm
67,55% dân số, trong đó lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế trên
địa bàn có 680,83 nghìn người. Chia theo các ngành nghề, lĩnh vực như sau:
Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 375,14 nghìn người chiếm tỷ lệ 55,1%; Công
nghiệp - xây dựng 140,92 nghìn người chiếm tỷ lệ 20,7%; Thương mại - dịch
vụ 164,77 nghìn người chiếm tỷ lệ 24,2%[3].
Quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế những năm
qua đã làm cho lực lượng lao động trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp - thuỷ
sản giảm, lao động công nghiệp, dịch vụ tăng dần. Giai đoạn 2003 – 2007, lao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Bảng 2.3: CÂN ĐỐI LAO ĐỘNG XÃ HỘI CÓ ĐẾN 1/7 HÀNG NĂM
Đơn vị tính: 1000 người
Chỉ tiêu
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2007
Tốc độ
tăng bình quân
(2003-2007)(%)
A. Nguồn lao động (1a + 2) 731,17 765,42 804,18 2,41
1. Số người trong tuổi lao động 707,40 736,75 776 2,34
a. Có khả năng lao động 697,81 729,19 767,08 2,39
b. Mất khả năng lao động 9,59 7,56 8,92 -1,79
2. Số người ngoài tuổi lao động
thực tế có tham gia lao động 33,36 36,23 37,1 2,69
- Trên độ tuổi lao động 27,01 31,42 33,75 5,73
- Dưới độ tuổi lao động 6,35 4,81 3,35 -14,77
B. Phân phối nguồn lao động 731,17 765,42 804,18 2,41
1. Lao động đang làm việc
trong các ngành kinh tế 634,80 652,59 680,83 1,77
- Nông, lâm nghiệp, thủy sản 505,45 391,1 375,14 -7,18
- Công nghiệp, xây dựng 59,91 113,75 140,92 23,84
- Dịch vụ 69,44 147,74 164,77 24,11
2. Số người trong độ tuổi có khả
năng lao động đang đi học 63,22 78,15 90,32 9,33
- Học phổ thông 45,66 53,02 53,47 4,03
- Học chuyên môn nghiệp vụ 17,56 25,13 36,85 20,36
3. Số người trong độ tuổi có khả
năng lao động làm nội trợ 10,98 14,02 15,16 8,40
4. Số người trong độ tuổi có khả
năng lao động không làm việc
5.Số người trong độ tuổi có khả
năng lao động có nhu cầu làm
việc đang không có việc làm
22,17
20,66
17,87
-5,25
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
động nông lâm nghiệp thuỷ sản giảm bình quân 5,8%/năm, lao động công
nghiệp - xây dựng tăng 21,3%/năm, lao động dịch vụ tăng 20,3%/năm. Tuy
nhiên, chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn nhìn
chung còn chậm do các nhà máy hiện nay phần lớn áp dụng công nghệ cao,
sử dụng ít lao động và đòi hỏi lao động có tay nghề, trong khi lao động nông
nghiệp phần lớn chưa được qua đào tạo(90,42%)[10], chưa có tác phong công
nghiệp, đây là khó khăn trong việc giải quyết lao động dư thừa ở khu vực
nông thôn Vĩnh Phúc hiện nay.
2.2.2.3. Tình hình xã hội
Song song với phát triển kinh tế, trong những năm qua tỉnh Vĩnh Phúc
đã chú trọng, quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hoá - xã hội và đạt được
những kết quả nhất định. Công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo
được quan tâm, tỉnh đã áp dụng nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề
và giải quyết việc làm như: Đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề, nhất là
đào tạo nghề có địa chỉ tại địa phương nơi bị thu hồi đất để phát triển công
nghiệp; Có cơ chế ưu tiên cho các doanh nghiệp tuyển dụng lao động tại địa
phương; Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho các đối tượng gia đình chính sách,
hộ nghèo,....; Cho vay tiền các đối tượng đi xuất khẩu lao động. Chính vì vậy
bình quân mỗi năm, toàn tỉnh có trên 20 ngàn người được giải quyết việc làm;
Công tác chăm sóc người có công với cách mạng, gia đình chính sách được
quan tâm. Từ năm 2003 đến năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm, tính
theo chuẩn mới, năm 2007 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 12,5%, giảm 2,4% so
năm 2006. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 20%, giảm 8,6% so
năm 2002. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị ngày càng giảm, tỷ lệ sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn ngày càng tăng lên.
Công tác giáo dục đạt được kết quả khá, 100% các xã, phường, thị trấn
đã hoàn thành chương trình phổ cập trung học cơ sở. 99,5% trẻ em 6 tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
được vào lớp 1;89,3% trẻ khuyết tật được đi học. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp
toàn tỉnh hàng năm đều đạt từ 97-99%; 100% các trường học đã được kiên cố
hoá, trong đó có trên 70% phòng học cao tầng.
Công tác chăm sóc sức khoẻ và khám, chữa bệnh cho nhân dân được
quan tâm. Các chương trình quốc gia về y tế được triển khai sâu rộng trên
phạm vi toàn tỉnh và đạt kết quả tốt. Tỷ lệ trẻ em được tiêm đầy đủ 7 loại
vacxin đạt trên 98,7%. Cơ sở vật chất ngành y tế từ tỉnh đến cơ sở được đầu
tư, nâng cấp, đến cuối năm 2007, có 133/154(=87,5%) trạm y tế xã, phường
đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, 78,3% trạm y tế xã, phường có bác sĩ[3].
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ
vững và ổn định.
Bảng 2.4: MỘT SỐ CHỈ TIÊU XÃ HỘI CHỦ YẾU TỈNH VĨNH PHÚC
GIAI ĐOẠN 2003-2007
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2007
Tốc độ tăng
bình quân
(2003-2007)
%
1 Dân số trung bình
ngàn
người 1148,73 1168,889 1190,4 0,9
2 Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên % 1,128 1,205 1,145 -0,5
3 Mức giảm tỷ suất sinh % 0,044 0,075 0,058 -10,0
4 Số giường bệnh/vạn dân giường 9,75 17,67 21,7 17,6
5 Số bác sỹ/vạn dân bác sỹ 3,22 4,02 5,42 12,0
6
Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
dưới 5 tuổi % 27 23,4 20,5 -6,4
7 Tỷ lệ hộ nghèo % 8,7 18,04 12,5 5,2
8 Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 22,64 29,7 36,4 12,2
9
Số người được giải quyết
việc làm
ngàn
người 18,5 21,5 24,2 5,9
10 Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị % 2,37 2,05 2 -4,4
11
Tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn % 81,13 85,3 87,2 2,2
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
2.3. TÌNH HÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ VÀ ĐÔ THỊ HOÁ
2.3.1. Tình hình phát triển công nghiệp, dịch vụ
2.3.1.1. Về công nghiệp
Sản xuất công nghiệp của tỉnh phát triển mạnh từ khi tỉnh được tái lập
năm 1997. Giai đoạn 2003 – 2007, giá trị gia tăng ngành công nghiệp tăng
bình quân 34,9%/năm, giá trị sản xuất tăng bình quân 29,8%/năm. Sản phẩm
công nghiệp chủ yếu gồm: xe ô tô, xe máy, phụ tùng ô tô, phụ tùng xe máy,
gạch, ngói, cát, sỏi, thuốc chữa bệnh, quần áo,....
Công nghiệp phát triển nhanh đã góp phần tăng thêm của cải vật chất,
tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân, tạo vị thế mới cho tỉnh Vĩnh
Phúc trong vùng và cả nước. Từ một tỉnh có cơ cấu kinh tế Nông nghiệp –
Dịch vụ –Công nghiệp trước đây đã chuyển sang cơ cấu Công nghiệp – Dịch
vụ - Nông nghiệp với công nghiệp chế tác là chủ đạo. Tỷ trọng công nghiệp -
xây dựng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh tăng từ 42,65% năm 2002 lên 61,06%
năm 2007 [3].
Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngành công nghiệp của tỉnh còn những hạn
chế như:
- Công nghiệp phát triển mạnh chủ yếu do công nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài; tỷ trọng công nghiệp trong nước thấp, quy mô nhỏ bé, công nghệ
lạc hậu. Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm chưa phát triển.
- Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp manh mún và phát triển chậm,
sản phẩm kém sức cạnh tranh, một số làng nghề đang bị mai một, mất dần.
- Các doanh nghiệp nhà nước địa phương yếu kém về năng lực quản lý
và gặp nhiều khó khăn về tài chính nên sức cạnh tranh thấp. Các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng, thương
mại và vận tải, giải quyết được khá nhiều việc làm và lao động; song phần lớn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trình độ quản lý còn hạn chế, ít có
khả năng cạnh tranh mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như điện, đường, cấp nước, thông tin liên lạc,
xử lý chất thải… tại các khu công nghiệp tuy đã được quy hoạch nhưng đầu
tư còn thiếu đồng bộ và chưa hoàn chỉnh. Tiến độ triển khai của các dự án đầu
tư trong và ngoài nước trên địa bàn còn chậm do công tác đền bù, giải phóng
mặt bằng gặp nhiều khó khăn.
2.3.1.2. Về thương mại – dịch vụ
Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, lĩnh vực thương mại dịch
vụ của tỉnh cũng có tăng trưởng mạnh, các trung tâm thương mại tại các thị
xã, thị trấn và chợ nông thôn được hình thành và đang từng bước được nâng
cấp, cải tạo, đã tác động tích cực đến sản xuất và tiêu dùng. Từ năm 2003 đến
năm 2007, giá trị gia tăng ngành dịch vụ tăng bình quân 17,8%/năm, năm
2007 chiếm 26,9% tổng GDP toàn tỉnh,
Nhìn chung, ngành dịch vụ – thương mại trên địa bàn tỉnh bước đầu có
sự phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Chất lượng
các hoạt động dịch vụ được cải thiện, loại hình dịch vụ ngày càng phong phú.
Song so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, ngành thương mại dịch vụ
phát triển chậm và cũng còn nhiều vần đề tồn tại như:
- Các loại hình dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của
tỉnh; chưa thu hút được nhiều lao động từ nông nghiệp.
- Sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng dịch vụ chưa cao và
chưa có sản phẩm du lịch dịch vụ đặc trưng của tỉnh.
- Chất lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ còn thấp, chưa
được đào tạo bài bản, do vậy phương pháp phục vụ còn chưa đáp ứng được
nhu cầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
- Quy hoạch các khu du lịch còn thiếu đồng bộ. Thu hút vốn đầu tư cho
các khu du lịch, khu vui chơi giải trí còn hạn chế.
2.3.2. Tình hình đô thị hoá
Trước năm 2005, Vĩnh Phúc có 2 thị xã (Vĩnh Yên, Phúc Yên) là đô thị
loại IV và 7 huyện, với dân số thành thị năm 2003 là 137,5 ngàn người. Đến
năm 2006, Vĩnh Phúc có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 thị trấn huyện lỵ, trong đó
thành phố Vĩnh Yên là đô thị loại III, là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị
của tỉnh, dân số thành thị năm 2007 tăng lên là 205,1 ngàn người. Cấu trúc
không gian mạng lưới đô thị tỉnh Vĩnh Phúc tương ứng với hệ thống tầng bậc
của bộ máy quản lý hành chính: Thành phố, thị xã là đô thị trực thuộc tỉnh, thị
trấn huyện lỵ trực thuộc huyện và các thị tứ trực thuộc xã. Đặc điểm mạng
lưới đô thị Vĩnh Phúc là quy mô còn nhỏ, tỷ lệ dân số đô thị thấp (chiếm
17,2% năm 2007).
Nhờ vị trí giáp với thủ đô Hà Nội, thuận lợi về giao thông nên Vĩnh
Phúc đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước. Các khu, cụm
công nghiệp được hình thành nhanh chóng kéo theo sự phát triển nhanh của
các điểm dân cư đô thị, nhất là ở Vĩnh Yên, Phúc Yên, Mê Linh và Bình
Xuyên. Tuy nhiên do tốc độ đô thị hoá nhanh, việc đầu tư kết cấu hạ tầng
chưa đáp ứng kịp dẫn đến nhiều bất cập. Chất lượng đường phố kém, cấp
điện, nước và chất lượng nước đạt tiêu chuẩn thấp và chưa đáp ứng đủ nhu
cầu; hệ thống thoát nước chưa được đầu tư đồng bộ. Mặt khác, cơ cấu không
gian hệ thống đô thị và thị tứ chưa cân đối, thể hiện: Dân cư đô thị tập trung
nhiều ở hành lang giao thông Đông - Tây và vùng phía nam của tỉnh, chưa
phát triển ở vùng phía bắc của tỉnh; Các đô thị của tỉnh chủ yếu mang chức
năng trung tâm hành chính, chính trị, các chức năng về sản xuất, dịch vụ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
thương mại chưa phát triển. Có thể nói, quá trình đô thị hoá của Vĩnh Phúc
chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh kể từ khi tái lập tỉnh
đến nay.
2.3.3. Đánh giá tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị
hoá đến phát triển nông nghiệp, nông thôn
Quá trình đổi mới theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế những năm
qua đã làm cho nền kinh tế Vĩnh Phúc tăng trưởng với tốc độ cao và đã có tác
động lớn đến phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Vĩnh Phúc, cụ thể như sau:
Những tác động tích cực:
- Công nghiệp, dịch vụ phát triển, nhu cầu tiêu dùng và chế biến các
loại nông sản, thực phẩm tăng nhanh, trở thành yếu tố kích thích sản xuất
nông nghiệp phát triển.
- Công nghiệp, dịch vụ phát triển đã tạo thêm nhiều việc làm, thu hút
một lượng lớn lao động nhàn rỗi trong nông thôn. Từng bước chuyển dịch cơ
cấu lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn.
- Thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh tăng, đời sống nông dân
được cải thiện, có tích luỹ, tạo điều kiện cho tái sản xuất nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới.
Những hạn chế, thách thức:
Do quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh, sản xuất nông nghiệp
đang đứng trước sức ép rất lớn của việc giảm diện tích đất canh tác, của vấn
đề giải quyết việc làm cho người nông dân mất đất do phát triển công nghiệp
và đô thị, vấn đề ô nhiễm do chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, …
ngày càng tăng:
- Về đất canh tác: theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn năm
2006, đất sản xuất nông nghiệp trên toàn tỉnh giảm 4.150 ha so năm 2001,
trong đó đất trồng cây hàng năm giảm 2.090 ha, đất cây lâu năm giảm 2.060
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
ha, chủ yếu chuyển sang đất giao thông, phát triển khu công nghiệp và đô thị.
Diện tích này được dự báo có xu hướng giảm liên tục hàng năm đến năm
2010 (BQ trên 1.000 ha /năm), nhất là với đất trồng lúa [10].
- Lao động và việc làm nông thôn: Quá trình công nghiệp hoá, đô thị
hoá diễn ra tuy đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh nhưng vẫn
còn chậm, chưa thu hút được nhiều lao động từ khu vực nông nghiệp nông
thôn. Dân số nông thôn vẫn chiếm tới 82,8%, tỷ lệ lao động làm việc trong
lĩnh vực nông – lâm nghiệp – thuỷ sản vẫn chiếm 55,1% tổng số lao động
toàn tỉnh và có tới 97,43% lao động nông nghiệp trong độ tuổi chưa qua đào
tạo và không có bằng chứng chỉ chuyên môn. Áp lực về giải quyết việc làm
cho cả khu vực đô thị và nông thôn hiện nay còn rất lớn.
- Một bộ phận nông dân bị mất đất đã không còn tư liệu sản xuất, trong
khi việc chuyển đổi nghề đối với lao động trên 35 tuổi ở nông thôn là rất khó
khăn. Kết hợp với quá trình đô thị hoá nhanh đã kéo theo tệ nạn xã hội phát
triển, gây mất ổn định xã hội.
- Là tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, công nghiệp, dịch vụ đã trở
thành những ngành kinh tế chủ đạo, thu ngân sách trên địa bàn được xếp vào
một trong những tỉnh hàng đầu của cả nước; Tuy nhiên, việc đầu tư trở lại cho
nông nghiệp, nông thôn và nông dân còn chưa tương xứng, chưa tạo điều kiện
thuận lợi để nông nghiệp, nông thôn của tỉnh phát triển theo định hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá; Nhiều dự án của nông nghiệp được đầu tư nhưng
còn manh mún; đầu tư cho phát triển nông thôn còn mang nặng tính phong
trào, chia đều, hiệu quả thấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
2.4. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH
VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
Sau khi được tái lập đến nay, ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản đã đạt
được tốc độ tăng trưởng khá: Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp thuỷ
sản tăng nhanh, bình quân giai đoạn 2003-2007 đạt 5,2%/năm(giá cố định
94), trong đó; trồng trọt tăng bình quân 0,3%/năm, chăn nuôi tăng bình quân
14%/năm, thuỷ sản tăng bình quân 13%/năm.
Bảng 2.5: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, GIÁ TRỊ GIA TĂNG NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP
THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
(Giá so sánh 94)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
STT Chỉ tiêu Thực hiện
Bình
quân
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2007
2003-
2007
(%)
I
Giá trị sản xuất ngành Nông
lâm nghiệp thuỷ sản
1942,0 2181,5 2307,7 5,2
1 Nông nghiệp 1840,5 2044,5 2168,1 5,1
Trong đó :+Trồng trọt 1190,6 1236,7 1167,1 0,3
+ Chăn nuôi 550,8 702,2 869,9 14,0
+ Dịch vụ sản xuất nông nghiệp 99,0 105,6 131,0 7,3
2 Lâm nghiệp 38,7 38,5 37,4 -2,9
3 Thuỷ sản 62,7 98,5 102,2 13,4
II
Giá trị gia tăng ngành Nông
lâm nghiệp thuỷ sản 1225,6 1370,0 1437,10 4,6
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Giá trị gia tăng ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản(giá cố định 94) giai
đoạn 2003-2007 đạt tốc độ tăng bình quân 4,6%/năm, cao hơn mức trung bình
cả nước. Mặc dù tỷ trọng GDP của ngành trong cơ cấu kinh tế của tỉnh giảm
từ 28,63% năm 2002 xuống còn 14,25% năm 2007, nhưng vẫn tăng cao về giá
trị tuyệt đối.
1437,101405,71370,0
1310,5
1145,0
1225,6
0,0
200,0
400,0
600,0
800,0
1000,0
1200,0
1400,0
1600,0
Năm
Tỷ đồng
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Hình 2.1- GIÁ TRỊ GIA TĂNG NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
Cơ cấu trong nội ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng chăn nuôi và thuỷ sản, giảm tỷ trọng trồng trọt. Tính theo thời điểm năm
2003 và năm 2007: Trồng trọt giảm từ 63,3% xuống còn 50,4%, chăn nuôi
tăng từ 32,57% lên 45,08%; Lâm nghiệp giảm từ 1,82% còn 1,04%; Thuỷ sản
tăng từ 2,92% lên 4,67%; cụ thể như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Bảng 2.6: CƠ CẤU NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
Đơn vị tính:%
STT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007
TỔNG SỐ 100,00 100,00 100,00
1 Nông nghiệp 95,26 93,35 94,29
Trong đó: +Trồng trọt 63,34 56,41 50,44
+ Chăn nuôi 32,57 39,08 45,08
+ Dịch vụ NN 4,09 4,51 4,48
2 Lâm nghiệp 1,82 1,39 1,04
3 Thuỷ sản 2,92 5,26 4,67
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
2.4.1. Kết quả sản xuất ngành nông nghiệp
2.4.1.1. Kết quả sản xuất ngành trồng trọt
Trồng trọt vẫn là ngành chính trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Tuy
nhiên trồng trọt lại chịu tác động lớn nhất của thời tiết, do vậy từ năm 2003
đến nay, tốc độ tăng trưởng của trồng trọt không đều và có xu hướng giảm
dần. Từ năm 2003 đến năm 2007, giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng bình
quân 0,3%/năm do năm 2006, 2007 thời tiết diễn biến bất thường, trên địa bàn
tỉnh đã xảy ra mưa lũ, lốc xoáy,.. đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và
sản lượng cây trồng. Mặt khác do phát triển công nghiệp và đô thị, diện tích
gieo trồng có xu hướng giảm dần cũng làm giảm sản lượng trồng trọt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
32,6%
4,1%
63,3%Trồng trọt
Chăn nuôi
Dịch vụ
Năm 2003
50,4%45,1%
4,5%
Trồng trọt
Dịch vụ
Chăn
nuôi
Năm 2007
Hình 2.2- CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Từ năm 2003 đến 2007, cơ cấu cây trồng đã có sự chuyển dịch theo
hướng tăng dần diện tích các loại cây có giá trị kinh tế cao như rau, đậu
tương, hoa, cây cảnh, cây thức ăn gia súc, cây dược liệu, một số loại cây ăn
quả... giảm dần các loại cây trồng có giá trị kinh tế thấp như khoai lang, sắn.
Bảng 2.7: CƠ CẤU GIEO TRỒNG DIỆN TÍCH CÂY HÀNG NĂM
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
Đơn vị tính: %
STT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007
TỔNG SỐ 100,0 100,0 100,0
1 Cây lúa 60,4 58,5 62,1
2 Cây ngô 15,2 13,9 13,7
3 Cây khoai lang 4,9 3,8 3,3
4 Cây sắn 1,8 2,1 2,2
5 Cây rau đậu 7,7 8,0 8,2
6 Cây đậu tương 4,6 7,1 3,9
7 Cây lạc 3,1 3,5 3,7
8 Hoa cây cảnh 0,9 1,2 1,1
9 Cây thức ăn gia súc 0,5 0,7 1,4
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Đồng thời với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng thì việc chuyển dịch
cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống được thực hiện ngày càng rộng rãi và dần trở
thành tập quán sản xuất. Đến nay ở Vĩnh Phúc diện tích lúa xuân muộn và
mùa sớm được gieo cấy chiếm 90%, đã xuất hiện một số mô hình sản xuất
trái vụ đem lại hiệu quả cao. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới về giống, về biện
pháp thâm canh, về bảo quản và tiêu thụ nông sản sau thu hoạch... được áp
dụng đã nâng cao hiệu quả và thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Đã hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
thành và ổn định tập quán sản xuất 3 vụ/năm trên diện tích canh tác cây hàng
năm; bước đầu xuất hiện vùng sản xuất hàng hoá với một số cây trồng có thị
trường tiêu thụ như rau, hoa, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức ăn gia súc...
Nhiều mô hình trang trại chuyên canh và sản xuất kinh doanh tổng hợp được
hình thành và phát triển. Kết quả trồng trọt cụ thể đạt được như sau:
a - Nhóm cây lương thực có hạt (lúa, ngô)
Là nhóm cây trồng chủ lực trên diện tích gieo trồng cây hàng năm của
tỉnh. Từ năm 2002 đến nay, diện tích gieo trồng cây lương thực của tỉnh có xu
hướng giảm dần, nguyên nhân do một phần diện tích đất nông nghiệp chuyển
mục đích sử dụng để phát triển các ngành kinh tế khác; Một phần do chuyển
dịch cơ cấu cây trồng sang các cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Nhờ áp dụng có hiệu quả các biện pháp kỹ thuật trong thâm canh nên mặc dù
diện tích gieo trồng giảm nhưng năng suất, sản lượng cây lương thực của tỉnh
không ngừng tăng năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản lượng lương thực có
hạt tăng từ 39,7 vạn tấn năm 2002 lên 43,67 vạn tấn năm 2004; năm 2005 đạt
41,3 vạn tấn. Sản lượng lương thực tăng, vừa đảm bảo an ninh lương thực
trên địa bàn, dành một phần phục vụ phát triển chăn nuôi và bước đầu có hàng
hoá phục vụ nhu cầu của các tỉnh, thành phố lân cận như Hà Nội, Việt Trì,
Sơn Tây,...
Kết quả đạt được như sau :
- Cây lúa: diện tích gieo cấy bình quân đạt 68-70 ngàn ha/năm; Do tích
cực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, kỹ thuật canh tác và đặc biệt
do chuyển đổi cơ cấu mùa vụ từ chính vụ sang gieo cấy trà xuân muộn, mùa
sớm nên năng suất lúa đã tăng từ 46,7 tạ/ha năm 2002 lên 50,53 tạ/ha năm
2005, năm 2007 đạt 45,77 tạ/ha. Nhờ vậy, sản lượng lúa không ngừng tăng
qua các năm, năm 2004 đạt cao nhất là 36,45 vạn tấn[3].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Bảng 2.8: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT SẢN LƢỢNG CÂY LƢƠNG THỰC
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
STT Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện Bình quân
tính
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2007
2003-2007
(%)
I
Tổng diện tích gieo trồng cây
hàng năm
Ngàn
ha 122,81 118,85 111,06 -1,44
II Sản lƣợng lƣơng thực có hạt
ngàn
tấn 421,2 412,8 367,8 -1,56
III
Giá trị sản xuất/1 ha đất cây
hàng năm (Giá thực tế)
Triệu
đồng 25,76 29,17 35,44 8,77
IV Cây lƣơng thực ngàn ha 101,3 86,0 84,2 -3,00
1 Cây lúa
+ Diện tích
Ngàn
ha 74,19 69,5 69,0 -1,34
+ Năng suất tạ/ha 48,2 50,52 45,82 -0,39
+ Sản lượng
Ngàn
tấn 357,7 351,2 316,2 -1,73
2 Cây ngô
+ Diện tích
Ngàn
ha 18,72 16,49 15,24 -0,64
+ Năng suất tạ/ha 34,0 37,38 33,86 0,20
+ Sản lượng
Ngàn
tấn 63,6 61,6 51,6 -0,44
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
- Cây ngô: Sản xuất thâm canh ngô là thế mạnh của Vĩnh phúc, nhất là
trồng ngô vụ đông. Đến nay, 100% diện tích ngô của tỉnh được gieo trồng
bằng các giống ngô lai, chủ yếu là lai đơn, lai 3 cho năng suất cao. Tuy nhiên
những năm qua, do hiệu quả từ trồng ngô thấp hơn các cây trồng khác nên
diện tích ngô đông có xu hướng giảm dần. Nông dân chuyển sang trồng các
loại cây có giá trị kinh tế cao hơn như rau, đậu tương,... Năm 2007 diện tích
ngô chỉ đạt 15,24 ngàn ha, xấp xỉ bằng năm 2002 nhưng thấp hơn các năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
2003-2006. Năng suất ngô tăng từ 33,5 tạ/ha năm 2002 lên 38,54 tạ/ha năm
2004 [3].
b - Nhóm cây thực phẩm (rau, đậu các loại):
Trong những năm gần đây Vĩnh Phúc là một trong những địa phương
sản xuất rau với khối lượng sản phẩm lớn, cung cấp cho thị trường Hà Nội và
các tỉnh miền núi phía bắc như Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang,... với sản lượng
rau cung cấp ra tỉnh ngoài lên tới 80-90 ngàn tấn/năm. Do thị trường tiêu thụ
lớn, mặt khác cây rau là loại cây trồng đem thu nhập khá cao và thường xuyên
so với các loại cây khác nên được nông dân chú trọng phát triển. Năm 2007,
diện tích gieo trồng cây thực phẩm đạt 9,1 ngàn ha, trong đó rau các loại 8,47
ngàn ha, đậu 437 ha, chiếm 8,2% tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm của
tỉnh, được phân bố khá đều trên tất cả các huyện, thị.
Về rau xanh: diện tích cây rau đạt trung bình 8,58 ngàn ha/năm, năm
2004 đạt cao nhất là 8,83 ngàn ha. Năng suất rau từ 153,8 tạ/ha năm 2002
tăng lên 170,38 tạ/ha năm 2007, bình quân tăng 2,1%/năm. Các loại rau chủ
yếu được trồng là: rau muống sản lượng đạt khoảng 20 ngàn tấn/năm; rau cải
các loại sản lượng đạt khoảng 25-26 ngàn tấn/năm; bầu bí các loại đạt 23-24
ngàn tấn/năm; hành tỏi 13-14 ngàn tấn/năm, dưa chuột 10-11 ngàn tấn/năm,
cải bắp 9-10 ngàn tấn/năm, xu hào 8-9 ngàn tấn/năm, cà chua 10-11 ngàn
tấn/năm,... Từ năm 2003, tỉnh Vĩnh Phúc đã quan tâm đầu tư xây dựng vùng
rau sạch, rau an toàn, đẩy mạnh việc ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất rau, nhất là quản lý dịch hại tổng hợp trên rau (IPM), nên
năng suất, chất lượng rau ngày càng được nâng cao. Bước đầu tỉnh đã xây
dựng được vùng rau an toàn với quy mô trên 600 ha ở Vĩnh Yên, Vĩnh Tường
và Yên Lạc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Đối với đậu các loại, diện tích trung bình đạt 600-700 ha/năm, năng
suất tăng nhờ đầu tư thâm canh, nhưng diện tích gieo trồng có xu hướng giảm
do nhu cầu thị trường giảm.
Bảng 2.9: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT SẢN LƢỢNG CÂY THỰC PHẨM
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
STT Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện Bình quân
tính
Năm
2003
Năm
2003
Năm
2007
2003-2007
(%)
Diện tích cây thực
phẩm ngàn ha 9405,9 9454 9106,5 -0,58
1 Rau các loại
+ Diện tích Ha 8496,20 8626 8469,5 0,14
+ Năng suất tạ/ha 162,3 171,96 170,38 2,07
+ Sản lượng Ngàn tấn 137,9 148,3 144,3 2,21
2 Đậu các loại
+ Diện tích Ha 909,7 827,8 637 -7,94
+ Năng suất tạ/ha 4,40 3,78 8,61 13,86
+ Sản lượng Tấn 400,3 312,9 548,5 4,82
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
c - Nhóm cây công nghiệp hàng năm (lạc, đậu tương):
Là nhóm cây trồng có khối lượng và giá trị sản phẩm hàng hoá lớn, có
thị trường tiêu thụ. Năm 2007, toàn tỉnh có 8.549 ha cây công nghiệp hàng
năm. Đây là nhóm cây có giá trị kinh tế khá cao, có thị trường tiêu thụ và có
khả năng phát triển theo hướng thâm canh tăng năng suất, kết quả cụ thể từng
loại cây như sau:
+ Cây lạc: diện tích lạc hàng năm khá ổn định ở mức 3,7 – 4,0 ngàn ha.
Nhờ tăng cường đưa giống mới vào sản xuất nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TNU Do Thi Huong Lan.pdf