Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam

Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam: 1 Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam 2 Lời nói đầu Trong bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là phát triển, đang phát triển hay chậm phát triển thì sự đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp luôn luôn tồn tại. Bên cạnh những doanh nghiệp lớn vốn thường được xem như những đầu tàu phát triển của nền kinh tế, người ta không thể không nhắc tới một số lượng đáng kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà vị trí và vai trò của nó đã được khẳng định qua thực tế phát triển kinh tế của rất nhiều quốc gia, rất nhiều nền kinh tế. Sự phát triển của các DNVVN đã và đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra động lực tăng trưởng của từng quốc gia và trên cơ sở đó, việc phát triển DNVVN đã trở thành chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của mỗi quốc gia trên thế giới. Tại Việt nam, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, h...

pdf108 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam 2 Lời nói đầu Trong bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là phát triển, đang phát triển hay chậm phát triển thì sự đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp luôn luôn tồn tại. Bên cạnh những doanh nghiệp lớn vốn thường được xem như những đầu tàu phát triển của nền kinh tế, người ta không thể không nhắc tới một số lượng đáng kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà vị trí và vai trò của nó đã được khẳng định qua thực tế phát triển kinh tế của rất nhiều quốc gia, rất nhiều nền kinh tế. Sự phát triển của các DNVVN đã và đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra động lực tăng trưởng của từng quốc gia và trên cơ sở đó, việc phát triển DNVVN đã trở thành chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của mỗi quốc gia trên thế giới. Tại Việt nam, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, không thể không kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN. Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chính sách, biện pháp, định hướng chiến lược nhằm hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN phát triển. Trong điều kiện hiện nay của Việt nam, phát triển tốt DNVVN không những sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định về chính trị-xã hội thông qua tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, giảm đói, nghèo và tăng phúc lợi xã hội... Hơn nữa, các DNVVN có lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ dàng thích ứng với sự biến động của thị trường, phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh của phần lớn chủ doanh nghiệp nước ta hiện nay. Do vậy, ở một nước mà phần lớn lao động làm nông nghiệp như nước ta thì chính DNVVN là tác nhân và là động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ở nước ta, các DNVVN tuy cũng đã có môi trường để phát triển khá thuận lợi và đã đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả ấy chưa tương xứng với vị trí và vai trò của DNVVN. Thực tế đó đòi hỏi những 3 chiến lược thông minh nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam. Để đóng góp phần vào việc tìm ra những giải pháp tích cực hỗ trợ phát triển các DNVVN nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp đại học của mình. Cũng xuất phát từ đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu rộng của đề tài, và với sự giới hạn của khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp đại học nên mục tiêu của tôi khi viết về đề tài này là qua đây tạo ra một cái nhìn chung, một đánh giá chung về thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam. Do đó tôi chỉ tiếp cận đến những vấn đề chung nhất, bức xúc nhất và mang tính thời sự nhất và qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản khắc phục những tồn tại của loại hình doanh nghiệp này. Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương với những nội dung sau: Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam Môi trường kinh tế luôn luôn biến động. Do đó, trong một thời gian nghiên cứu ngắn và với những hạn chế chủ quan khác như thời gian nghiên cứu, kinh nghiệm thực tế còn ít ỏi và bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu, nên khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Tôi cũng mong nhận được sự đóng góp để bài khoá luận thêm hoàn chỉnh. Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ 4 A. Khái niệm và tiêu chí xác định 1.Khái niệm ở một số nước trên thế giới. Khái niệm DNVVN tuy có mặt ở rất nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhưng lại không có một điểm chung thống nhất giữa các quốc gia thế nào là một DNVVN, điều này thể hiện sự khác nhau giữa các điều kiện hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội giữa các quốc gia, đồng thời thể hiện sự khác nhau trong các chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DNVVN giữa các quốc gia. Việc xác định thế nào là một DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng để xác định đúng đối tượng hỗ trợ. Nếu xác định rộng thì các chính sách ưu đãi lại không đủ sức bao quát, tác dụng hỗ trợ theo đó giảm đi rất nhiều. Ngược lại, nếu xác định hẹp khái niệm DNVVN thì tác dụng của sự hỗ trợ lại ít có tác dụng đến nền kinh tế. Dưới đây là cách xác định DNVVN ỏ một số quốc gia và khu vực: a.Khu vực EU Đây là khu vực phát triển rất mạnh các DNVVN ( 80% số doanh nghiệp EU có số lượng dưới 100 người). Tiêu chí xác định DNVVN ở EU căn cứ vào 3 yếu tố chính là: số lao động được sử dụng thường xuyên, doanh số bán hàng năm và vốn đầu tư cho sản xuất Bảng 1: Phân loại DNVVN của khu vực EU Tiêu thức phân loại Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa Số lao động tối đa 50 250 Doanh thu/ năm tối đa 7 triệu EURO 40 triệu EURO Tồng kết tài sản/ năm tối đa 5 triệu EURO 27 triệu EURO Nguồn: SMEs definition, www.modcontractsuk.com Sự phân định như vậy chưa xác đáng vì không phân biệt các doanh nghiệp giữa các ngành trong khi có một thực tế là đặc điểm kinh tế giữa các ngành nhiều khi quyết định qui mô doanh nghiệp. b.Khu vựcASEAN 5 Tại các nước ASEAN, khái niệm về DNVVN còn có sự khác nhau. Song nhìn chung các nước Singapore, Malaixia, Inđônêxia, Thái lan, Philippin đều dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định một doanh nghiệp thuộc quy mô vừa, nhỏ hay lớn, đó là: số lượng lao động được sử dụng và vốn đầu tư. Ví dụ: với Singapore, quan niệm DNVVN là những doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 100 người và vốn đầu tư dưới 1,2 triệu đô la Singapore. Với Malaixia, DNVVN là những doanh nghiệp có số lao động dưới 200 người và vốn đầu tư dưới 2,5 triệu đô la Malaixia. Còn với Inđônêxia, Thái lan và Philippin thì có sự phân loại chi tiết hơn thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp cực nhỏ trong đó doanh nghiệp cực nhỏ thường là những hộ kinh doanh trong phạm vi gia đình. Như vậy quan niệm thế nào là một DNVVN ở một số nước ASEAN còn có sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương đối và chủ yếu căn cứ vào quy mô về vốn và lao động của nó. Do đó cách xác định DNVVN cũng mắc phải một số nhược điểm như cách phân loại một số nước trong khu vực EU, Tức là chưa xét đến yếu tố đặc điểm kinh tế ngành. c.Nhật Bản Khái niệm DNVVN tại Nhật bản được xác định trong “Luật cơ bản về DNVVN” ban hành năm 1963, được sửa đổi năm 1973 và 1999. Trong Luật này các tiêu chuẩn xác định DNVVN đã phần nào khắc phục được những nhược điểm trên. Cụ thể là, việc phân định DNVVN ở nước này đã có sự khác biệt giữa các ngành. Tùy theo từng ngành nghề mà DNVVN và doanh nghiệp loại nhỏ được phân loại khác nhau xét theo vốn pháp định và số lượng lao động như sau: Bảng 2 : Phân loại DNVVN của Nhật Bản Ngành Doanh nghiệp vừa Doanh 6 Năm 1963 Năm 1973 Năm 1999 nghiệp nhỏ Vốn (triệu Yên) Lao động Vốn (triệu Yên) Lao động Vốn (triệu Yên) Lao động Lao động Công nghiệp, khai khoáng ≤50 ≤300 ≤300 ≤100 ≤300 ≤300 ≤20 Bán buôn ≤10 ≤30 ≤100 ≤30 ≤100 ≤100 ≤5 Bán lẻ ≤50 ≤10 ≤50 ≤50 Dịch vụ ≤10 ≤50 Nguồn: Tổng cục DNVVN Nhật Bản, www.chusho.miti.go.jp d.Mỹ Tại Mỹ, nơi mà khi nhắc tới, người ta nghĩ ngay đến những tập đoàn kinh tế hùng mạnh thì vai trò của các DNVVN cũng được rất đề cao ở đây. Việc phân loại các DNVVN cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên cạnh những tiêu chuẩn về mặt định lượng như : Lợi nhuận với mức tăng trưởng hàng năm dưới 150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại; hay các tiêu chuẩn về lao động để phân loại quy mô DNVVN tùy thuộc vào từng ngành riêng biệt như sau: - Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Tổ chức có từ 250 lao động trở xuống được coi là doanh nghiệp nhỏ. - Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại bán lẻ: doanh nghiệp có dưới 100 lao động thì được coi là nhỏ; từ 100-1.000 lao động được coi là vừa và từ 1.000 lao động trở lên được coi là lớn và rất lớn. Luật DNVVN của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn về mặt định tính như: DNVVN là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong ngành của mình liên quan. Theo khái niệm của Mỹ, các DNVVN không phải là công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn . Điều này khác hẳn với các DNVVN ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh thuộc công ty lớn vẫn được hưởng những đặc quyền của các DNVVN. 7 e.Hàn quốc: Khái niệm DNVVN của Hàn quốc được quy định tại “Đạo luật cơ bản về DNVVN của Hàn Quốc” ban hành năm 1966 và đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung. Theo đó, việc phân loại DNVVN được thực hiện theo hai nhóm ngành: -Trong ngành chế tạo, khai thác và xây dựng: các doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600.000 USD và số lao động thường xuyên từ 200-300 người là doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên là doanh nghiệp nhỏ. -Trong thương mại: DNVVN là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000 USD/ năm. Doanh nghiệp có từ 6 tới 20 lao động là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp có lao động dưới 5 người được coi là doanh nghiệp nhỏ,. Nhận xét chung: Khái niệm DNVVN chỉ nên được hiểu một cách tương đối, bởi sự quan niệm về các DNVVN ở các quốc gia và các khu vực trên thế giới là không đồng nhất hoàn toàn do ảnh hưởng của các nhân tố vốn không hề giống nhau giữa các khu vực và quốc gia, đó là trình độ phát triển kinh tế xã hội, tính chất nghề nghiệp, cơ cấu vùng lãnh thổ, tính lịch sử, mục đích phân loại… Qua những khái niệm DNVVN đã và đang được áp dụng rộng rãi trên thực tế ở nhiều nước, có thể thấy rằng nhóm tiêu chí phân loại “lao động” và “vốn” đầu tư được sử dụng khá phổ biến. Và tuỳ theo điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của mỗi nước mà các thước đo này cao hoặc thấp, và có thể đi kèm thêm các tiêu chí phân loại khác. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, Việt Nam có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm tổ chức và quản lý DNVVN của các nước trên thế giới và trong khu vực. 2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam. 8 ở Việt Nam, những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu nhận thức và quan tâm đến tầm quan trọng của DNVVN. Ngày 29/11/2000. Tại Hà nội, Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo: “ Việt nam 2010 tiến vào thế kỷ 21” với đề xuất đưa ra 6 trụ cột của chiến lược phát triển nền kinh tế Việt nam thì trụ cột đầu tiên là : “Tạo dựng môi trường giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN”. Tuy nhiên, cho đến trước năm 1998 khái niệm về DNVVN chưa được một văn bản pháp lý nào của Nhà nước công nhận cụ thể. Quan niệm về DNVVN ở Việt nam vì vậy mà rất khác nhau. Cụ thể là: +Ngân hàng công thương Việt Nam đưa ra qui định DNVVN là doanh nghiệp có giá trị tài sản dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, số lao động thường xuyên dưới 500 người và doanh thu dưới 20 tỷ đồng/năm . +Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội và Bộ Tài chính quy định tiêu chí xác định DNVVN tại Thông tư số 21/LĐTT ngày 17/6/1993, theo đó, DNVVN là doanh nghiệp có số lao động thường xuyên duới 100 người, doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ, vốn pháp định dưới 10 tỷ. +Thành phố Hồ Chí Minh xác định doanh nghiệp qui mô vừa là doanh nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động có trên 100 người, doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng. Doanh nghiệp qui mô nhỏ có các tiêu thức dưới mức trên + Dự án VIE/ US/ 95/ 004 hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam do UNIDO tài trợ coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người, vốn đăng ký dưới 0,1 triệu USD.Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 30 người đến 200 người và vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD +Qũy hỗ trợ DNVVN thuộc chương trình Việt Nam-EU coi DNVVN là những DN có số lao động từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000 USD đến 300.000 USD tức từ khoảng 650 triệu đồng đến 3,9 tỷ đồng Việt Nam. …và còn nhiều cách quan niệm khác nữa. Như vậy, mỗi tổ chức, mỗi dự án đều có một cách xác định riêng cho mình về DNVVN. Điều này tạo ra sự thiếu nhất quán và khó khăn cho 9 Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách ưu đãi một cách công bằng và hiệu quả và cũng tạo ra khó khăn cho chính các DNVVN khi thực hiện chính sách hỗ trợ. Đến ngày 20/6/1998. Thủ tướng Chính phủ đã có qui định tại Công văn số 681/CP-KTN xác định tiêu thức DNVVN tạm thời qui định trong giai đoạn hiện nay là : “DNVVN là những doanh nghiệp có vốn điều lệ trung bình dưới 5 tỷ VND và có số lao động trung bình dưới 200 người” . Tuy mới chỉ là tiêu chí quy ước tạm thời mang tính hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN nhưng có thể coi đây chính là bước đi đầu tiên của chính phủ trong việc xây dựng 1 cơ sỏ pháp lý chính thức là cơ sở hoạch định và triển khai các chính sách và biện pháp phát triển DNVVN tại Việt nam. Cũng theo qui định này, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người và vốn dưới 1 tỷ VND. Doanh nghiệp vừa là các doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ VND đến 5 tỷ VND. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp thì doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ VND trở xuống, các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ thì số lao động dưới 30 người. Đến ngày 23/11/2001. Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực. Xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/CP-NĐ về việc trợ giúp và phát triển DNVVN. Theo đó, DNVVN được hiểu là: “cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký < 10 tỷ VND hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, các chương trình trợ giúp, có thể áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu đó. Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn 2 tiêu thức trên đều được coi là DNVVN. Theo cách phân loại này, Tại Việt nam hiện nay, số DNVVN hiện vào khoảng 60.300 doanh nghiệp,chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp. Bên 10 cạnh đó là hơn 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, 16.000 hợp tác xã, hàng trăm nghìn trang trại tư nhân. B. Đặc điểm của DNVVN 1.Tính tất yếu cuả việc tồn tại các DNVVN Sự tồn tại và phát triển DNVVN là một tất yếu trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, điều đó được phản ánh thông qua những lí do chủ yếu sau: - Nền kinh tế của một quốc gia là tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN- điển hình nhất là con đường thành công của Đài Loan. Quy luật đi từ nhỏ lên lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú, linh hoạt, vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên, lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế. -Trong nền kinh tế mỗi nước luôn luôn, tồn tại sự phát triển của phân công lao động xã hội không đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực và các vùng. Sự phát triển không đồng đều này biểu hiện ra bên ngoài bằng những hình thức tổ chức sản xuất với những qui mô khác nhau. Sự tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp với các qui mô khác nhau vì vậy là tất yếu. -Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những ưu và nhược điểm kể cả các doanh nghiệp có qui mô lớn. Các doanh nghiệp lớn không thể tồn tại một mình mà có thể bao quát hết cả những nhu cầu đa dạng và phong phú trên thị trường một cách có hiệu quả. Yêu cầu hiệu qủa kinh tế tạo điều kiện cho sự xuất hiện và tồn tại đồng thời trong mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau 11 giữa doanh nghiệp lớn và DNVVN như những lực lượng bổ sung, hỗ trợ cùng nhau phát triển có hiệu quả hơn. -Do những lợi ích mà các DNVVN mang lại, đặc biệt là trong việc giải quyết những mục tiêu xã hội quan trọng như việc làm, thu nhập và sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Các DNVVN được sử dụng như một giải pháp phát triển nhằm thực hiện những nhiệm vụ đó. Như vậy, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế không thể không có các doanh nghiệp quy mô lớn, vốn nhiều, kĩ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn thật cần thiết, chúng ta còn phải thực hiện những biện pháp để tăng khả năng tích tụ và tập trung của các DNVVN, tạo điều kiện cho chúng có thể nhanh chóng vươn lên trở thành những doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp trong từng ngành, cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển DNVVN là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với xuất phát điểm về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy, phát triển mạnh các DNVVN với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng chiến lược quan trọng của qúa trình phát triển kinh tế Việt nam, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. 2. Đặc điểm chung của các DNVVN -Nhạy cảm, linh hoạt, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường: Thông thường, các DNVVN năng động và linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh qua hệ thống tổ chức sản xuất, quản lí gọn nhẹ, công việc điều hành mang tính trực tiếp, đồng thời DNVVN có khả năng đổi mới nhanh trang thiết bị kỹ thuật, thích ứng nhanh với thị trường biến động. -Vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều: Do là loại hình doanh nghiệp có quy mô sản xuất không lớn về mặt bằng sản xuất, số lao động, doanh số...nên vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều, có thể bằng vốn tự có hay vay mượn nhỏ. Do đó chúng tạo ra cơ hội đầu tư đối với nhiều người, tạo 12 điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân trong nước dù ở điều kiện văn hoá, giáo dục khác nhau đều có thể tìm kiếm cơ hội lập nghiệp. Chính vì thế mà ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, số lượng DNVVN tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế. -Hoạt động nhanh chóng và thu hồi vốn nhanh: Các DNVVN chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến thực phẩm, thương mại dịch vụ...vốn là những ngành thu hồi vốn nhanh. Theo thống kê, ở các nước phát triển các DNVVN hàng năm có thể khấu hao đến 50-60% giá trị tài sản cố định và thời gian hoàn vốn không quá 2 năm. ở các nước đang phát triển, việc thu hồi vốn cũng tương đối nhanh, tuỳ thuộc vào khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp và đặc điểm từng lĩnh vực kinh doanh cũng như chính sách khấu hao tài sản cố định của Nhà nước. -Sử dụng các loại máy móc công nghệ trung bình và mang tính trung gian, đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Các DNVVN gắn liền với các công nghệ trung gian vốn là cầu nối giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Và lợi thế đặc biệt của công nghệ trung gian là sử dụng nhiều lao động, từ đó tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân. Điều này không những cần thiết đối với các nước đang phát triển như Việt nam mà còn cần thiết đối với các nước phát triển. -Quan hệ chủ thợ tốt đẹp: Quan hệ giữa người lao động và người quản lí trong các DNVVN khá chặt chẽ, gần gũi thân thiết so với các doanh nghiệp lớn. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. -Khả năng hợp tác với các doanh nghiệp lớn là rất tốt: Các DNVVN dễ dàng nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, sản phẩm, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, thích hợp với sự biến động đa dạng của thị trường, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Từ đó tạo ra cơ hội hợp tác, cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn là rất cao. -ít chịu ảnh hưởng của khủng hoẳng kinh tế và ngược lại cũng ít ảnh hưởng đến nền kinh tế khi rơi vào khủng hoẳng: DNVVN ít chịu ảnh 13 hưởng, tác động của các cuộc khủng hoẳng kinh tế dây chuyền. Sự đình trệ, thua lỗ, thậm chí phá sản của các DNVVN có ảnh hưởng không đáng kể đến đời sống kinh tế xã hội. - DNVVN cần diện tích nhỏ, đòi hỏi về cơ sở hạ tầng không quá cao. Vì thế nó có thể được đặt ở nhiều nơi trong nước, từ thành thị cho tới các vùng nông thôn, miền núi và hải đảo... Đó chính là đặc điểm quan trọng nhất của DNVVN để có thể giảm bớt sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các vùng trong một nước, giảm bớt luồng chảy lao động tập trung vào các thành phố, để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn. Bên cạnh đó, DNVVN cũng có một số yếu điểm như: - Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như bổ sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc phát triển mở rộng sản xuất, kinh doanh. DNVVN khó có khẳ năng tiếp cận đến các nguồn vốn của ngân hàng vì bản thân doanh nghiệp thiếu tài sản thế chấp, khó xây dựng phương án kinh doanh, chưa tạo được sự tin cậy tín dụng (creditworthiness) cần thiết xuất phát từ quy mô kinh doanh nhỏ của mình. - Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ kỹ thuật công nghệ còn yếu kém, lạc hậu, khó có khả năng đầu tư công nghệ mới do vốn lớn, qua đó ảnh hưởng đến năng suất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường. -Trình độ quản lý nói chung và quản trị các mặt theo các chức năng còn hạn chế. Đa số các chủ doanh nghiệp nhỏ chưa được đào tạo cơ bản, đặc biệt là những kiến thức về kinh tế thị trường, về quản trị kinh doanh, họ quản lý bằng kinh nghiệm, thực tiễn là chủ yếu. DNVVN thường thiếu những nhà quản lý có trình độ, thiếu đội ngũ lao động lành nghề, thiếu chuyên gia cố vấn cho doanh nghiệp. - Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp cận thị trường của các DNVVN bị hạn chế rất nhiều. DNVVN khó cập nhật được các thông tin trong kinh doanh và dễ bị các công ty lớn thôn tính. - Hoạt động của các DNVVN phân tán, rải rác nên khó quản lý và hỗ trợ. 14 - Các DNVVN có năng suất lao động và sức cạnh tranh về kinh tế thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. DNVVN thiếu khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế, khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với bên ngoài. Tại Việt nam, ngoài những đặc điểm của các DNVVN nói chung như đã đề cập ở trên, các DNVVN Việt nam còn có một số đặc điểm riêng cần nhấn mạnh, nổi bật là: - Các DNVVN ở Việt nam rất đa dạng về loại hình tổ chức kinh doanh, về lĩnh vực kinh doanh, về hình thức sở hữu, về địa bàn hoạt động. Trước kia trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp, các DNVVN tồn tại chủ yếu dưới hai loại là DNNN và HTX thì hiện nay chúng tồn tại, phát triển ở mọi thành phần kinh tế như DNNN, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần… -Tuy tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau nhưng khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành, phát triển các thành phần kinh tế của nước ta, đại bộ phận các DNVVN đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh mà điển hình nhất là kinh tế tư nhân. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh-trong đó chủ yếu là khu vực tư nhân-mang tính đại diện cho các DNVVN Việt nam. Các con số thống kê về DNVVN tại Việt nam không có riêng biệt mà chủ yếu tổng kết cho khu vực ngoài quốc doanh- mà đại diện là khu vực kinh tế tư nhân. -Các DNVVN Việt nam hiện nay gắn liền với công nghệ lạc hậu, trình độ nhân lực không cao, khả năng tiếp cận thông tin chưa tốt. -Môi trường pháp lý cho sự phát triển của các DNVVN Việt nam đang trong quá trình hoàn thiện nền còn nhiều sự chồng chéo- chẳng hạn như quan niệm về thế nào là DNVVN trước năm 1998 của rất nhiều cơ quan, tổ chức, dự án. Thêm vào đó, giới hạn dưới của DNVVN không được quy định rõ và lúc đó rất có thể coi các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh ở Việt nam-một số lượng rất nhiều- là các DNVVN, lúc đó thì sẽ khó khăn trong việc thực 15 hiện chính sách hỗ trợ do sự dàn trải do số lượng quá đông. Do vậy nên chăng cần có quy định giới hạn tối thiểu cho DNVVN. C.Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân. Nếu như trước kia trong giai đoạn trỗi dậy của các tập đoàn kinh tế khổng lồ ở các cường quốc như Anh, Mỹ, Nhật như Dupont, General Motor, Ford, IBM… thì một suy nghĩ hình thành là hiệu quả đồng nghĩa với qui mô lớn, một doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ chỉ được xem như một doanh nghiệp kém hiệu quả, tiền công thấp và cơ sở sản xuât lạc hậu. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, sự đi lên của thời đại trí thức, trong môi trường cạnh tranh gay gắt và không ngừng biến đổi như hiện nay, Khái niệm “lớn là hiệu quả “ đã được thay bằng khái niệm “nhỏ là đẹp”( small is beautiful). “Nền kinh tế thế giới càng lớn và rộng mở thì các công ty nhỏ và trung bình sẽ càng thống trị nhiều hơn”(Theo Nghịch lý toàn cầu-John Naisbitt, tr 27-28). Điều đó được hiểu qua việc các DNVVN cung cấp nhiều việc làm cho xã hội, chúng hoạt động với một cơ cấu tổ chức linh hoạt, chúng đem lại một sự hiệu quả trong quan hệ hợp tác- cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn và DNVVN cũng có thể xem như những mầm mống của khả năng đổi mới, là hạt giống hình thành các ngành công nghiệp tương lai. Với số lượng doanh nghiệp đông đảo bao gồm mọi thành phần kinh tế, DNVVN đã và đang có những đóng góp không thể phủ nhận vào sự phát triển kinh tế đất nước và giải quyết các vấn đề xã hội. ý nghĩa kinh tế-xã hội to lớn này không chỉ các nước phát triển mà cả nước đang phát triển cũng đều thấy rõ. Từ thực tế khách quan bên ngoài, có thể thấy rằng vị trí quan trọng của DNVVN đối với quá trình phát triển của hầu như tất cả các nền kinh tế trên thế giới đã và đang được khẳng định, đặc biệt trong điều kiện sản xuất nhỏ, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu như ở Việt Nam hiện nay. 16 1. Các DNVVN chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các doanh nghiệp ở các nước, cung cấp một khối lượng đáng lớn, đa dạng và phong phú về sản phẩm, đóng góp một phần đáng kể và thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế Chiếm đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế, với khả năng thích nghi cao và nhiều lợi thế quy mô khác, DNVVN phân bố trong hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và có mặt trên mọi khu vực lãnh thổ. Ta có thể thấy tình hình DNVVN ở một số nước như sau: Bảng 4:Tỷ lệ DNVVN trong tổng số doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới Nước Tỷ lệ DNVVN / Tổng số DN Tỷ lệ Lao động (%) Tỷ lệ tổng giá tri sản lượng (%) Đài Loan 98,6 78,0 50 Canada 98,1 70,0 50 Nhât Bản 99,1 79,2 51,8 Pháp 98,2 73,5 52 Hồng kông 98 60 57 Phi-lip-pin 95,4 73,5 52 Đức 98,6 75 45,5 Hàn Quốc 98 77,8 50,2 Hoa Kỳ 98 78,5 50 ấn Độ 90 80,2 50 Thái Lan 80 80 52 Nguồn: PTS Lê Thanh Hà-Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển DNVVN ở VN-Tạp chí phát triển kinh tế số 12 - Tháng 10/96, Trang 36. Qua đó, có thể thấy rằng các DNVVN chiếm tỷ trọng đa số tuyệt đối trong tổng số doanh nghiệp, tạo ra một tỷ lệ việc làm đáng kể và chiếm > 50% GDP, đóng góp lớn lao cho sự phát triển kinh tế. Tại Việt nam, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Quản lí Kinh tế Trung ương (CIEM) thì hiện nay khu vực DNVVN vào khoản 60.300 doanh nghiệp, chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp, 95% lao động, chiếm 17 53% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. 78% mức bán lẻ xã hội, 64% tổng khối lượng hàng hoá lưu chuyển.70% giá trị xuất khẩu. 2.Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, góp phần ổn định xã hội. Tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với việc giải quyết những khó khăn, bức xúc trong xã hội mà trong số đó không thể không kể đến khó khăn về thất nghiệp trong nền kinh tế- một trong những khó khăn lớn nhất. Từ thực tế phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, có thể thấy rằng số lượng các lao động trong các DNVVN chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số lượng các lao động trong các doanh nghiệp như xét thấy từ bảng trên. Tại hầu hết các quốc gia, mặc dù quy mô nhỏ nhưng theo quy luật số lớn, DNVVN tạo ra khoảng 70% việc làm trong xã hội. So với các doanh nghiệp lớn thì các DNVVN có tốc độ thu hút lao động cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Điều này được hiểu phần nào qua việc các DNVVN có thể thu hút nhiều lao động thuộc nhiều thành phần, nhiều trình độ chuyên môn, tay nghề khác nhau, trong khi các doanh nghiệp lớn nhìn chung thường thu hút các lao động lành nghề thì một bộ phần không nhỏ( nếu như không muốn nói là phần lớn) các lao động chưa lành nghề khác lại có cơ hội phát huy khả năng nghề nghiệp ở các DNVVN. Một cách tương tự, khi mà các doanh nghiệp lớn thu hút các lao động thường trong một số lĩnh vực phổ biến, với những đòi hỏi khắc nghiệt về khả năng thì các DNVVN lại không quá phải có( chứ không phải không cần thiết) những lao động như vậy. Các DNVVN có thể thu hút nhiều loại lao động ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ công nghệ hiện đại đến thủ công truyền thống, những lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo, những lao động có nhiều khả năng hay thậm chí cả các lao động có khả năng còn hạn chế. Thêm vào đó khi sự sa thải nhân công ở các doanh nghiệp lớn xảy ra do kết quả của khủng hoẳng kinh tế hay những nguyên nhân tương tự như vậy thì lúc này các DNVVN lại chính là nơi thu hút lực lượng lao động dư thừa đó để tạo thế cân bằng trong nền kinh tế và tạo sự ổn định trong nền kinh tế xã hội. 18 Sự tăng trưởng lâu dài và ổn định về số lượng việc làm do các DNVVN tạo ra góp phần làm cho mức thu nhập của người dân nói chung được giữ vững hoặc nâng cao, sức mua xã hội được duy trì và cải thiện, tăng cường tính linh hoạt và thích ứng với nền kinh tế, làm dịu bớt những khó khăn, tạo điều kiện cho một sự phát triển ổn định và bền vững trong nền kinh tế. Tại Việt nam, cũng theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Quản lí kinh tế Trung ương thì chi phí để tạo ra một việc làm trong các DNVVN(740.000) nhỏ hơn nhiều so với chi phí tạo ra một việc làm ở các doanh nghiệp lớn( khoảng 5-10 triệu VND). Hiện tại số lao động của các DNVVN trong lĩnh vực phi nông nghiệp là vào khoảng 7,8 triệu người chiếm 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp, còn tống số lao động trong các DNVVN thì chiếm tới 90% số lao động của cả nước. Trong tình trạng tỷ lệ thất nghiệp của Việt nam tương đối cao và không ổn định như hiện nay thì khu vực DNVVN đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động đó- nhất là ở khu vực nông thôn và khu vực doanh nghiệp nhà nước dôi ra khi tiến hành cổ phần hoá, cho thuê, phá sản… 3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp huy động vốn và tận dụng các nguồn lực xã hội khác. Vốn là nhân tố cơ bản trong quá trình sản xuất, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp nói riêng.Vốn là yếu tố tiền đề để từ đó có thể kết hợp với các yếu tố khác như lao động, đất đai, công nghệ quản lí. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như nâng cao tay nghề cho người lao động và mở rộng quy mô sản xuất. Tuy vậy, thực tế lại cho thấy rằng ở một số nền kinh tế trong đó có Việt nam là các doanh nghiệp hiện đang thiếu rất nhiều vốn trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi tiềm ẩn chưa được huy động trong nền kinh tế vẫn còn khá nhiều. Việc khởi sự một DNVVN với lợi thế vốn nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh, tính chất phân tán rải rác đi sâu vào nhiều vùng, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ là cơ hội để huy động được các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh doanh. 19 Chẳng hạn hình thức doanh nghiệp tư nhân, các hộ gia đình, hợp tác xã vừa huy động nguồn vốn tự có của cá nhân vùa tận dụng được các nguồn đầu tư đa dạng trong nền kinh tế. Từ đó dần dần tạo ra tập quán dùng tiền vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh thay vì chỉ để tiền nhàn rỗi. Hơn nữa, với quy mô nhỏ gọn của mình, các DNVVN thường sử dụng nguyên vật liệu tại địa phương để làm xuất phát điểm tiến hành sản xuất kinh doanh, điều này rất thiết thực đối với các ngành thủ công truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, DNVVN vì thế có thể góp phần huy động các nguồn lực xã hội. 4.DNVVN có vai trò quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân đối, từng bước chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Quá trình phát triển kinh tế luôn đi kèm với những mặt trái của nó trong đó nổi lên là sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, sự mất cân bằng cơ cấu trong nền kinh tế. Chênh lệch cơ cấu thể hiện ở sự mất cân đối giữa các vùng, giữa các ngành và giữa các thành phần kinh tế trong một quốc gia. Từ đó gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế. Lúc này chính các DNVVN là lực lượng doanh nghiệp có vai trò tích cực trong việc hạn chế và từng bước xoá đi sự mất cân đối đó. Hơn nữa, việc phát triển các DNVVN lại có ý nghĩa to lớn đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế của DNVVN thể hiện ở -Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế được tăng cường, doanh nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại, kinh doanh có hiệu quả hơn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng cả về số lượng lẫn chất lượng. -Cơ cấu ngành thay đổi: DNVVN phân bố trong hầu hết các ngành trong nền kinh tế, cả ngành nghề hiện đại và ngành nghề truyền thống theo phương thức lấy hiệu quả làm thước đo, làm thay đổi cơ cấu ngành theo hướng tích cực. -Cơ cấu lãnh thổ thay đổi: DNVVN phân bố ở hầu hết mọi khu vực lãnh thổ trong đất nước, đặc biệt tại các vùng, các địa bàn mà các doanh 20 nghiệp lớn bỏ qua hay các vùng kém lợi thế. DNVVN góp phần đáng kể vào quá trình đô thị hoá phi tập trung thông qua việc phát triển DNVVN ở nông thôn cho phép giảm dần lực lượng lao động trong nông nghiệp chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ mà không có hiện tượng di dân lên khu vực đô thị. Song song đó là xu hướng hình thành những khu vực tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ nhỏ ngay tại khu vực nông thôn, tiến tới hình thành các đô thị ngay trong lòng nông thôn, đó chính là hiệu quả đô thị hoá phi tập trung mà việc phát triển các DNVVN mang lại. Tuy nhiên, DNVVN ở Việt nam chưa phát huy lợi thế này mà vẫn còn tập trung quá nhiều ở một lĩnh vực, ở một địa bàn hoạt động- chủ yếu tập trung ở các khu đô thị. 5. Các DNVVN góp phần làm năng động, linh hoạt và tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế Phát triển DNVVN-với lợi thế là một loại hình doanh nghiệp năng động, linh hoạt và sáng tạo trong kinh doanh-làm cho số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời chúng có khả năng làm tăng số lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng vì giá cả hợp lý, nhất là các nhu cầu nhỏ lẻ phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng của từng địa phương. Ngoài ra, các DNVVN có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNVVN trong nền kinh tế một mặt có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn thông qua các hợp đồng phụ làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, cung cấp nguyên liệu, thâm nhập vào các ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, mặt khác, với số lượng đông đảo trong nền kinh tế, sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế, giảm bớt khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, DNVVN với mạng lưới rộng khắp sẽ góp phần làm cho phân bố doanh nghiệp hợp lý hơn, giảm bớt sức ép về dân số của thành phố lớn. 6.Các DNVVN là nơi gieo mầm cho các tài năng kinh doanh 21 DNVVN chính là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp và chính ngưới lao động. Kinh doanh với quy mô nhỏ sẽ chính là trường đào tạo tốt nhất cho các nhà doanh nghiệp để từng bước tiếp cận đến kinh doanh với quy mô tầm cỡ hơn. Khởi sự từ hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ và thông qua quá trình điều hành quản lí kinh doanh với quy mô nhỏ, các nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên những nhà doanh nghiệp tài ba, biết cách làm thế nào để doanh nghiệp của mình đi lên và phát triển. Các tài năng được hình thành từ trong các DNVVN. Đây là vấn đề có tính thực tiễn khá cao không chỉ đối với nhiều nước trên thế giới mà ngay cả đối với Việt nam, vốn trong nhiều năm chìm trong cơ chế quan liêu bao cấp với đội ngũ cán bộ quản lí với cơ chế nặng nề và các nhà doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm với cơ chế thị trường. Sự phát triển của các DNVVN có tác dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách qua thực tế những người có khả năng thực sự để trở thành những nhà lãnh đạo tài năng cho sự nghiệp phát triển kinh tế cho cả quốc gia cũng như cho mục tiêu riêng của từng doanh nghiệp. 7. Các DNVVN góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống Hiện tại, theo thống kê, Việt nam hiện có trên 1400 làng nghề truyền thống có từ hàng trăm năm nay, đó không chỉ là một phần bản sắc văn hoá dân tộc mà có là cơ sở để có thể phát huy hiệu quả kinh tế vùng và của cả đất nước. Xuất phát từ thực tế là các ngành nghề truyền thống thường không tập trung ở một vùng nhất định nào mà nó hình thành và phát triển ở nhiều địa phương khác nhau. Sự đa dạng và tính linh hoạt trong hoạt động của các DNVVN có thể đáp ứng tốt nhất điều kiện này Sản phẩm truyền thống chủ yếu lại không được sản xuất hàng loạt mà chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ. Nhiều sản phẩm truyền thống chỉ có thể được tạo ra bằng những đôi bàn tay khéo léo với sự sáng tạo của các nghệ nhân mang tính chất cha truyền con nối. Hơn nữa, vốn đầu tư vào hoạt động phát triển thường là không nhiều nên phù hợp với quy mô sản xuất và vốn cũng như các tổ chức quản lí của DNVVN. 22 Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại việt nam A.Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN tại Việt nam Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ khá lâu, trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường khác nhau mà nhìn chung là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính là cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm chính trị thời kỳ hậu chiến tranh. Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống trị của thực dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh nghiệp mà lúc đó là các cơ sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng cũng đáp ứng được nhu cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ, thậm chí nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy giờ. Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả ở vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng lại đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh được khuyến khích phát triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân thì bị loại trừ, trong khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII. Điểm đáng lưu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế tư nhân là hình thức bị kỳ thị và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân 23 buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dưới dạng khác như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bước ngoặt, Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau, thay đổi quan điểm với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại ra đời và phát triển. Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình; Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân mà nay hai Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999), Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật đầu tư nước ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(CIEM), Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ DNVVN đã được tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế, các dự án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich Ebert (FES) của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật 24 bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó, Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà nội( HASMEC) ở số 418 Bạch Mai… Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp không ít những khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của đất nước, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 về chính sách trợ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy định rõ khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ còn giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa phương tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách phát triển DNVVN”, đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và phê duyệt . Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển DNVVN; thành lập “Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN” làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN” thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm thực hiện các chương trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả; khuyến khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nước ngoài để trợ giúp một cách thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị mở rộng 25 thị trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN. Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN trong khu vực Nhà nước giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng lao động trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ trọng trong tổng đầu tư xã hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế tư nhân cũng có nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư tưởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế tiêu cực, là tàn dư của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế tư nhân thực sự đã được coi là “một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam”. Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư nhân và hộ cá thể, đã trải qua 2 bước ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bước ngoặt thứ nhất có thể xem như cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999, mỗi năm nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp. Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân (đại diện cho các DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính như số lượng các doanh nghiệp tư nhân, số lượng và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GPP), đầu tư phát triển mức độ đóng góp vào đầu tư phát triển cả nước trong vài năm gần đây theo bảng dưới đây. Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư nhân có thể xem như đại diện cho các DNVVN, vì như nói từ phần đặc điểm các DNVVN tại Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. 26 Bảng 5: Số liệu kinh tế về khu vực kinh tế tư nhân (đại diện cho các DNVVN). Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân évt 1996 1997 1998 1999 2000 1. Số lượng đơn vị 1.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN 20.272 21.032 20.578 22.767 29.519 - Cụng nghiệp DN 5.832 6.073 5.927 6.049 6.979 - Thương nghiệp dịch vụ DN 12.695 13.010 12.494 14.234 17.506 - Cỏc ngành khỏc DN 1.745 1.949 2.157 2.484 5.034 1.2. Hộ cỏ thể hộ 2.016.259 1.949.836 1.981.306 2.054.178 2.137.713 - Cụng nghiệp hộ 616.855 608.250 583.352 608.314 645.801 - Thương nghiệp dịch vụ hộ 1.102.619 1.022.385 1.058.542 1.088.606 1.109.293 - Cỏc ngành khỏc hộ 296.785 319.201 339.412 357.258 382.619 2. Lao động - Tổng số người 3.865.163 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844 - Tỷ lệ so với tổng lao động xó hội % 11,2 10,3 10,3 10,9 12 2.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN 354.328 395.705 435.907 539.533 841.787 - Cụng nghiệp DN 233.078 252.657 273.819 322.496 498.847 - Thương nghiệp dịch vụ DN 60.936 63.050 62.470 96.720 151.433 - Cỏc ngành khỏc DN 60.314 79.998 99.618 120.317 191.507 2.2 Hộ cỏ thể DN 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057 - Cụng nghiệp DN 1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381 - Thương nghiệp dịch vụ DN 1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391 - Cỏc ngành khỏc DN 454.489 479.214 575.532 592.273 595.285 3. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) - Tổng số toàn quốc tỉ đồng 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140 Trong đó doanh nghiệp của tư tỉ 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337 27 nhân và cá thể đồng Tỷ lệ trong tổng GDP toàn quốc % 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87 3.1 Doanh nghiệp tỉ đồng 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733 - Cụng nghiệp tỉ đồng 4.609 5.278 6.367 7.179 8.626 - Thương nghiệp dịch vụ tỉ đồng 7.565 8.564 10.238 11.203 12.397 - Cỏc ngành khỏc tỉ đồng 7.428 8.078 8.699 9.593 10.710 - Tỷ lệ trong tổng GDP % 7,21 6,44 7,01 6,99 7,14 3.2 Cỏ thể tỉ đồng 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604 - Cụng nghiệp tỉ đồng 9.261 10.658 11.804 12.662 15.491 - Thương nghiệp dịch vụ tỉ đồng 17.381 19.728 22.878 24.865 27.393 - Cỏc ngành khỏc tỉ đồng 31.237 35.169 38.639 40.527 44.720 - Tỷ lệ trong tổng GDP % 21,28 20,90 20,31 19,52 19,72 4. Vốn đầu tư phát triển - Tổng số toàn xó hội tỉ đồng 131.171 147.633 Trong đó: Doanh nghiệp của tư nhân và cá thể tỉ đồng 31.542 35.894 Tỷ lệ trọng tổng số toàn xó hội % 24,05 24,31 4.1 Doanh nghiệp của tư nhân tỉ đồng 5.628 6.627 % Trong tổng số toàn xó hội % 4.29 4.49 4.2. Cỏ thể tỉ 25.914 29.267 28 đồng Tỷ lệ trong tổng số toàn xó hội % 19,76 19,82 Nguồn: Tổng cục Thống kờ Bước ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực có 14.417 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký đến hơn 24.000 tỷ (tương đương với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp đang hoạt động, tức là tăng hơn ba lần nếu xét về số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm 2001, có thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp, tăng 1,46 lần so với năm 2000, tổng số vốn huy động được của các doanh nghiệp đạt khoảng 35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm 2000. Có thể thấy tình hình năm 2001 như sau: Bảng 6: Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân dến năm 2001 Loại DN 31/12/98 31/12/99 Đên 31/12/2000 Đến 30/9/2001 Tổng số đăng ký Đang hoạt động Báo nghỉ KD Tổng số đăng ký Đang hoạt động Báo nghỉ KD Cty TNHH 9.375 13.850 21.031 20.255 776 29.160 28.356 804 Cty cổ phần 582 933 1.718 1.668 50 2.986 2.928 58 DNTN 18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 33.925 32.459 1.466 Tổng số 28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 66.071 63.743 2.328 Nguồn: Bộ Tài chính Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử kinh tế xã hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế, 29 trong đó phần lớn tập trung trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp, các DNVVN trong thương mại dịch vụ và các DNVVN hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên cứu cụ thể các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kể trên. 1.Các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế quốc doanh. Số lượng DNVVN cũng tăng dần. Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ Miền Nam Việt nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm 12,6% tổng số các DNVVN trong công nghiệp. Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại ở 4 nhóm ngành chính sau là +Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời gian qua đã có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa đã hình thành, những mặt hàng của ngành này đã trở thành một trong các mặt hàng có thế mạnh của Việt nam. Tuy nhiên do góc độ truyền thống và văn hóa, sự hội nhập của nhóm ngành này hạn chế bởi tính chất manh mún, quy mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên thị trường xuất khẩu rất khó khăn đòi hỏi phải tìm được những phân đoạn thị trường ngách. +Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: như khoáng sản, hải sản, lâm sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung, DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-đây là thực trạng cần được đánh giá và điều chỉnh để hình thành chiến lược cơ cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập. Việc tham gia hội nhập bằng tài nguyên khai thác một mặt đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, mặt khác còn làm cho nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo bị suy kiệt, ảnh hởng nghiêm trọng cân bằng sinh thái. 30 +Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội trong việc tạo ra nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hưởng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở giá trị gia công (phải mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ đó, tác dụng tích lũy, thúc đẩy nền kinh tế hạn chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều rủi ro của các biến động tiền tệ của khu vực và quốc tế. +Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử, hóa chất, thiết bị đo lường, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại nhóm ngành này còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư tài chính, công nghệ kỹ thuật và trình độ quản lý của nước ngoài. DNVVN thuộc lĩnh vực công nghiệp Việt Nam còn thể hiện sự đuối sức ở nhóm ngành này, bởi không chỉ lý do tài chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong chiến lược lâu dài của quá trình hội nhập cần được đặc biệt quan tâm. Chúng cần được phân công và hợp tác một cách khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất nguồn lực vào quá trình cạnh tranh khu vực và quốc tế Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công nhân< 100 người( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì trong lĩnh vực sản xuất cơ bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động. Trong lĩnh vực xây dựng là 51%. Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh nghiệp Việt nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ thấp. Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu công nghệ, đổi mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản phẩm mới cũng không tốt. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà nước cũng như ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu tư nướ ngoài) tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm. Trong đó, bộ phận bộ phận DNVVN ngoài quốc doanh tạo ra 25% giá trị sản lượng công nghiệp. 31 Bảng 7: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1998 Doanh nghiệp trong công nghiệp Tổng số (Tỷ đồng) Ước tính phần của DNVVN trong từng loại doanh nghiệp Doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp 69.588,4 20% 12.917,7 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 33.148,2 60% 19.888,9 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 47.948,0 5% 2.397,4 Tổng 150.684,6 31% 46.712,04 Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn Đình Hương chủ biên-NXB chính trị quốc gia. Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trước (tốc độ tăng trởng công nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%, khu vực nhà nước là 11,7%, khu vực nước ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy tình hình đóng góp của các DNVVN qua tình hình đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 8 tháng đầu năm 2002 như sau: Bảng 8: Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng sản lượng công nghiệp 8 tháng đầu năm 2002 Thực hiện (Tỷ đồng) Thỏng 8/2002 so với thỏng 8/2001 8 tháng đầu năm 2002 so với cùng kỳ 2001 (%) 7 tháng đầu năm 2002 ước tính tháng 8/2002 Cộng dồn 8 tháng đầu năm 2002 Tổng số 149219 23636 172855 114.2 114.0 Phõn theo khu vực và thành phần kinh tế Khu vực doanh nghiệp Nhà nước 59798 9379 69177 111.1 111.7 Trung ương Địa Phương 39634 20164 6212 3617 45846 23331 111.7 109.7 112.6 110.2 32 Khu vực ngoài quốc doanh 35846 5792 41638 119.6 119.2 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 53575 8465 62040 114.2 113.1 Dầu mỏ và khí đốt 15402 2100 17502 87.7 96.1 Cỏc ngành khỏc 38173 6365 44538 126.8 121.6 Nguồn Về thị trường: Một thị trường nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là cơ hội rất tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu tràn lan như hiện nay thì cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói chung và các DNVVN trong công nghiệp nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo nghĩa cạnh tranh đối với hàng nhập lậu với giá rẻ, và cạnh tranh với cả doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.Thêm vào đó là khả năng tiếp cận thị trường chưa cao, chất lượng sản phẩm hạn chế . Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc gia đang phát triển nói riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh nghiệm giữa Việt nam và các nước không ngừng được tăng cường và củng cố. Việt nam hiện đã có nhiều quan hệ với các nước về phát triển lĩnh vực DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, Nhật…Ngày 22/5/2000, tại Hà nội đã diễn ra “Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp-kinh nghiệm của Italia và Việt nam” do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện của UNIDO và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ với Việt nam những kinh nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển DNVVN" Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm xúc tiến hợp tác quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên 33 minh Châu Âu và Liên đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia (Confartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn 140.000 EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo ra một liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của Việt nam.Qua dự án này, các DNVVN sẽ nắm bắt được những thông tin cần thiết về hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn của các nước EU, mở ra hướng mới cho xuất khẩu của Việt nam sang EU. 2.Các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Ngành thương mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó như vốn đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trường đa dạng...đã và đang thu hút được một số lượng không nhỏ các DNVVN. Về vốn: Với đặc trưng là thị trường cung ứng vốn chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có, hoặc vay mượn của ban bè, người thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất nhiều trong vấn đề vốn. Các DNVVN trong dịch vụ cũng nằm trong tình trạng chung của các DNVVN là khó có khả năng tiếp cận đến nguồn vốn của ngân hàng. Về lao động: Nếu như một trong những đặc điểm nổi bật của các DNVVN nói chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại không hoàn toàn như vậy. Xuất phát từ tính đặc thù của ngành thương mại dịch vụ là ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN chưa thực sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết lực lượng lao động dư thừa nhiều ở nước ta hiện nay. Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tuy chưa phải là cao nhưng lại cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 1998 thì trong khi bình quân một lao động trong các DNVVN công nghiệp tạo ra doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại các DNVVN thương mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng 407% và 125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù 34 doanh thu rất cao nhưng lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN công nghiệp. Về cơ cấu: Các DNVVN thương mại dịch vụ tập trung quá đông ở các thành phố, đô thị và kinh doanh một số ngành như nhau. Một số các công ty đi sâu chuyên doanh mặt hàng ngành hàng nhưng vẫn còn trùng lặp. Một số các công ty thực hiện chuyên doanh ổn định, còn tuyệt đại đa số thì kinh doanh tổng hợp. Về kinh doanh:Thiếu sự hợp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản lí chồng chéo không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả kinh doanh thấp. Hoạt động của các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp tác mà mang tính cạnh tranh gay gắt do sự tập trung quá đông các DNVVN tại cùng một địa điểm, cùng một lĩnh vực kinh doanh. 3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn. Với đặc trưng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là trong chiến lược phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì vai trò của các DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng. Bộ mặt của các DNVVN đã thay đổi phần nào qua dự án VIE/816 do UNDP tài trợ trong vòng 4 năm từ 11/1997 đến 2001.Hiện nay, các ngành nghề nông thôn thu hút hơn 5 triệu lao động nông nhàn và 11 triệu lao động phi nông nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000 tỷ đồng giá trị sản lượng, 90% tiêu thụ nội địa và 10% xuất khẩu. Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh nghiệp hộ gia đình và các doanh nghiệp tư nhân Về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối so với các DNVVN nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn đề xã hội-NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội,1998 thì :Với doanh nghiệp hộ gia đình vốn bình quân là 921 USD, với doanh nghiệp tư nhân thì là 2.153 USD, vốn thấp không chỉ hiểu là như cầu về vốn ở các DNVVN khu vực nông thôn thấp mà còn hiểu ở sự thiếu hỗ trợ tín dụng. Về thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Thị trường chủ yếu được phân làm hai loại là thị trường địa phương và thị trường ở các thành phố lớn. 35 Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn, nhằm bắt tay vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày 16/8/2002 tại Hà nội, Đại hội thành lập “ Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn Việt nam” do VCCI tổ chức đã khai mạc với sự tham gia của hơn 100 DNVVN khu vực nông thôn. “Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn” ra đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển ngành nghề nông thôn, hỗ trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học, thông tin kinh tế, thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư, thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại trong nước và quốc tế, giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền thống, đầu tư thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua nhiệm kỳ 2002-2007, tập trung vào một số lĩnh vực phổ biến như thông tin kinh tế, trao đổi góp ý về các cơ chế, chính sách, đào tạo và tư vấn, tổ chức phát triển DNVVN ở các địa phương, tạo nhịp cầu giao thương phát triển. B.Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các DNVVN Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và phát triển của các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trường hành lang pháp lý cho hoạt động của các DNVVN. Dưới đây là những nét chính khái quát về ảnh hưởng của một số chính sách vĩ mô đến hoạt động và phát triển của DNVVN Việt nam. 1.Tác động của chính sách thương mại Trước hết, về vấn đề khởi sự tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các DNVVN cũng đã được “cởi trói” qua quy định mới về việc tiến hành đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp được quy định tại Luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999, có hiệu lực từ 1/1/2000 đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp theo hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chỉ đăng ký kinh doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trước khi thành lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị 36 trường, việc giám sát kiểm tra của nhà nước chuyển sang giai đoạn sau đăng ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề ( chỉ còn áp dụng đối với một số ngành nghề như Ngân hàng, Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp. Kế đó, sự đổi mới chính sách thương mại theo hướng “mở cửa”, không ngừng đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài với chiến lược vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đã là một trong những nhân tố quyết định trong đổi mới kinh tế, đóng góp đáng kể vào tình hình đổi mới kinh tế ở Việt nam trong những năm gần đây. Chính sách thương mại của Việt nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt với sự ra đời của Luật Thương mại có hiệu lực từ 1-1-1998 và nghị định số 57/CP hướng dẫn thi hành Luật Thương mại ngày 31/7/1998 đã cải thiện đáng kể các điều kiện tiếp cận thương mại quốc tế của các DNVVN. Thêm vào đó là việc tham gia vào hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới như ASEAN(1995), APEC(1998)…và đặc biệt là ký được Hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ vào 20/7/2001 và mở đường cho việc gia nhập WTO đã được cụ thể hoá bằng nhiều biện pháp cải tổ thương mại theo hướng tự do hơn, hội nhập hơn cũng là những thuận lợi và cũng là chứa đựng những thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. a.Điều kiện tham gia xuất nhập khẩu của các DNVVN được cải thiện theo cơ chế thông thoáng hơn. Điều kiện tham gia hoạt động xuât nhập khẩu đã thực sự được mở ra cho tất cả các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Nghị định 57/CP đã cho phép tất cả các doanh nghiệp được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi kinh doanh đã đăng ký mà không cần phải có giấy phép xuất nhập khẩu. Có thể xem đây là một bước tiến tích cực của Việt nam trong quá trình tự do hoá thương mại. 37 Trước đó, Theo quy định của Nghị định 33/TTG của Thủ tướng chính phủ về quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu ban hành ngày 19/4/1994, các DNVVN muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có giấy phép mà muốn có giấy phép thì phải đáp ứng các điều kiện như:Thứ nhất, phải là một pháp nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành và hoạt động đúng theo phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng ký.Thứ hai, mức vốn lưu động không được dưới 200.000 USD vào thời điểm đăng ký kinh doanh, trừ những doanh nghiệp ở miền núi và ở những vùng kinh tế khó khăn khác, hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu được khuyến khích đòi hỏi mức vốn thấp. Trong những trường hợp đó, số vốn lưu động phải tương đương 100.000 USD.Thứ ba, có bằng chứng xác nhận rằng doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có đủ khả năng thích hợp để ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thương. Thêm vào đó, trước khi Nghị định 57/CP được ban hành thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân muốn được thành lập như tổ chức xuất nhập khẩu thì phải có giấy phép của Thủ tướng Chính phủ theo Điều 11 của Luật công ty. Rất nhiều các DNVVN không đáp ứng được các điều kiện kể trên và chỉ có thể xuất khẩu các sản phẩm cuả mình thông qua một công ty được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh việc phải trả cho công ty xuất nhập khẩu trung gian này một khoản phí thông thường là từ 0,5% đến 1% giá trị hợp đông xuất nhập khẩu, Các DNVVN còn phải chịu thêm rủi ro khi tiết lộ thông tin quan trọng và bí mật về các hợp đồng ngoại thương và họ thậm chí còn bị các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu đó chiếm mất đối tác nước ngoài. Nghị định 57/CP chỉ yêu cầu các DNVVN phải tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng ký.Với một số lượng lớn các công ty có khả năng tham gia trực tiếp vào thương mại quốc tế thì những chi phí và khó khăn trong giao dịch sẽ được giảm đáng kể. Đến ngày 2/8/2001 thì tất cả mọi pháp nhân ( doanh nghiệp và cá nhân) đã được xuất khẩu hầu hết mọi hàng hoá mà không phải xin 38 phép qua việc Chính phủ ban hành sửa đổi nghị định thực hiện Luật thương mại theo Nghị định 44/2001/ND-CP, ngày 2-8-2001. Bên cạnh đó, cũng trong năm 2001 Chính phủ đã tiếp tục tăng cường hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN qua Quyết định 133/2001/QD-TTg ngày 10/9/2001 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển nhằm hỗ trợ các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân tham gia xuất khẩu. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương của các DNVVN. Nhưng nó cũng có những thiếu sót, những tồn tại mà chưa thực sự hỗ trợ các DNVVN. Điển hình là việc Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan đã ban hành ngay sau nghị định 57/CP thông tư hướng dẫn quy định các doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có mã số hải quan, muốn có mã số hải quan thì phải nộp đơn đăng ký cho Bộ Tài chính, từ đó phát sinh thêm nhiều thủ tục khó khăn. b.Cơ chế tự do hoá thương mại qua việc nới lỏng kiểm soát phi thuế quan. Bên cạnh những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN thể hiện trong điều kiện tham gia, Nhà nước cũng quản lí xuất nhập khẩu bằng cách ban hành các danh mục hàng hoá thương mại bị cấm, hoặc hạn chế nhập khẩu theo hạn ngạch, hoặc ban hành các danh mục hàng hoá bị tạm ngừng xuất nhập khẩu, quy định mới nhất về các loại hàng hoá xuất nhập khẩu được nêu rõ tại Nghị định 73/2002/NDCP ngày 20/8/2002 của Chính phủ về danh mục các loại hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu phfu hợp với tinh thần nêu rõ trong Nghị định 57/CP về danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu quản lí bằng hạn ngạch, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu cần có giấy phép đặc biệt( danh mục sẽ được điều chỉnh theo từng năm). Bên ngoài những loại hàng hoá nêu trên là các hàng hoá được phép xuất nhập khẩu. Như vậy, nguyên tắc ở đây là nguyên tắc không cấm( ngoài những mặt hàng cấm thì được tự do xuất nhập khẩu) chứ không như trước kia, chỉ ban hành các mặt hàng được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho 39 các DNVVN trong việc tìm hiểu nguồn hàng, mặt hàng để kinh doanh xuất nhập khẩu thành công. Qua đó càng thấy rằng Nghị định 57/CP thực sự là một bước tiến quan trọng của chính phủ trong việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng trong việc tiếp cận thị trường quốc tế. Điều nổi bật gần đây nhất là vào năm 2001, Chính phủ đã công bố kế hoạch quản lí xuất nhập khẩu trong 5 năm thay vì kế hoạch xuất nhập khẩu trong từng năm như các năm trước đó, điều này tạo điều kiện ổn định và thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của các DNVVN. Quy định mới nhất đó là Quyết định 46/2001 ngày 4/4/2001 của Chính phủ về kế hoạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2001- 2005. Thủ tục kiểm tra Hải quan đã có một số cải tiến, lúc này doanh nghiệp tự kê khai tính thuế xuất nhập khẩu, tự chịu trách nhiệm, thời gian giải phóng hàng đã được rút ngắn, đã thực hiện hệ thống “hành lang xanh” với các nước ASEAN qua việc Tổng cục Hải quan hướng dẫn áp dụng tại Thông báo số 1184/TCHQ-GSQL ngày 20/1/1996 và 1599/TCHQ-KTTT ngày 13/8/1996). Để phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và tiến trình hội nhập CEPT/AFTA nói riêng. Chính phủ đã phê chuẩn lộ trình tham gia giảm thuế AFTA trong giai đoạn 2001-2006, theo đó hầu hết các dòng thuế sẽ được giảm xuống còn 20% vào cuối 2003 và xuống còn 5% vào 2006. Ngày 4/9/2002, Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 1062/2002/QĐ-BTM về việc bổ sung Phụ lục 3 quy chế cấp C/O hàng hoá ASEAN của Việt nam–Form D để hưởng các ưu đãi của Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung( CEPT). Đây thực sự là một bước tiến đáng kể vì như vậy hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam trong đó phần lớn là các DNVVN sẽ được hưởng thêm những ưu đãi để tăng tính cạnh tranh trên thương trường khu vực. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang tiến hành xây dựng lại Biểu thuế xuất nhập khẩu để áp dụng cho tất cả 40 hàng hoá xuất nhập khẩu vào Việt nam, chuẩn bị áp dụng “Danh mục thế quan áp dụng trong ASEAN”-AHTA (ASEAN Hamornised Tariff Nomenclature). Hai mặt hàng chủ chốt là gạo và phân bón trong hoạt động xuất nhập khẩu đã được Chính phủ công khai cho phép tự do hoá xuất nhập khẩu vào năm 2001. Trước đó, việc xuất nhập khẩu hai mặt hàng này chủ yếu được thực hiện qua các doanh nghiệp nhà nước được uỷ quyền. Đến năm 1998, Bộ Thương mại đã cho phép các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tham gia xuất nhập khẩu phân bòn, và đến năm 1999, Bộ Thương mại đã công khai việc lựa chọn các doanh nghiệp để có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu gạo qua Quyết định 273/1999/Qđ-TTg ngày 24/12/1999 cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Và mới nhất là quyết định bãi bỏ phân bổ hạn ngạch xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón theo Quyết định 46/2001/QD-TTg ngày4/4/2001. Việc tự do hoá là một cơ hội rất lớn cho các DNVVN, Xét về gạo, Việt nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và gạo được xem như mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Còn về phân bón, có ý nghĩa rất quan trọng với một nước với 75% dân số làm nông nghiệp như Việt nam. Bên cạnh những động thái tích cực như vậy vẫn có một số vấn đề phát sinh như:Thứ nhất, hiện nay Việt nam vẫn áp dụng mức tính giá tối thiểu với 20 nhóm mặt hàng, chưa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định hợp tác Hải quan ASEAN và phương pháp xác định giá trị tính thuế nhập khẩu theo nguyên tắc của GATT.Thứ hai, việc Chính phủ ban hành danh mục các mặt hàng bị cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu tạm thời quá bất ngờ mà không báo trước hoặc nêu lí do một cách thoả đáng gây nên những cơn sốt về cầu ( như xe máy), đồng thời làm các DNVVN bị động trong công tác xuất nhập khẩu, mất uy tín trên thị trường thế giới. Thứ ba, việc quy định ngữ nghĩa của một số mặt hàng chưa được rõ ràng, gây khó hiểu, hiểu lầm thậm chí hiểu sai. Chẳng hạn như “đồ chơi trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và nhân cách”, “ hàng tiêu dùng đã qua sử dụng” gây ra sự bất đồng vì một số nhân viên hải quan coi một số hàng hoá đã qua tân trang là mới mặc dù 41 chúng đã qua sử dụng. Đó là những vấn đề mà có thể nói sẽ không bao giờ hết, Nhưng nhìn chung thì mặt tích cực của Nghị định 57/CP vẫn là nổi bật, hỗ trợ đáng kể cho các DNVVN trong việc tiếp cận thị trường quốc tế. c. Việc kiểm soát ngoại hối theo hướng nới lỏng dần. Việc nới lỏng kiểm soát ngoại hối trong những năm gần đây phần nào đã tác động tích cực tới khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của các DNVVN Việt nam. Cụ thể là theo quy định thi ngoại tệ vào Việt nam được chuyển đổi thành VND, hoặc giữ trong một tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Quyết định 173 yêu cầu các DNVVN bán 80% ngoại tệ cho ngân hàng, sau đó nếu yêu cầu cần ngoại tệ thì phải mua lại và thông thường với giá cao hơn đáng kể. Đến năm 1999, Tỷ lệ kết hối ngoại tệ đã được giảm xuống 50% thu nhập ngoại tệ theo Quyết định số 180/1999/QD-NHNN1 ngày 30/3/1999, tiếp đó là giảm xuống 40% thu nhập ngoại tệ vào năm 2001 theo Quyết định 61/2001/QD-TTg ngày 25-4-2001, đó thể hiện những nỗ lực của Chính theo hướng tự do hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNVVN trong ngoại hối, nhưng điều đó vẫn còn phải được cải thiện hơn. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhỏ là để có ngoại tệ nhập khẩu, các DNVVN phải giải trình việc mình tham gia vào việc sản xuất các loại sản phẩm nằm trong danh sách các mặt hàng thay thế nhập khẩu hoặc cho các dự án cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp có liên quan thì được phép còn những doanh nghiệp khác thì đương nhiên không đưọc phép mua ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu. 2.Tác động của chính sách tài chính tiền tệ: a.Chính sách đầu tư: Về đầu tư trong nước: Luật khuyến khích đầu tư trong nước( ban hành ngày 22/6/1994, sửa đổi ngày 20/5/1998) và Nghị định hướng dẫn Luật đã đề ra nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước nói chung và các DNVVN nói riêng, là một đối trọng quan trọng đối với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Luật đã có những quy định, những điều khoản khuyến khích đầu tư trong nước, tạo điều kiện cho các DNVVN tiến hành đầu tư như qua việc 42 mở rộng chủ thể đầu tư sang cả người Việt nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu tại Việt nam (Trước đó, theo Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty 1990 giới hạn chủ thể chỉ là công dân Việt nam, tổ chức kinh tế xã hội; Luật hợp tác xã giới hạn chỉ là công dân Việt nam và hộ gia đình) hay là qua việc cho phép người nước ngoài, tổ chức kinh tế nước ngoài được phép góp vốn, mua cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp Việt nam( không qúa 30% vốn điều lệ). Bên cạnh đó là việc thành lập các quỹ hỗ trợ như Quỹ hỗ trợ đầu tư cho vay với lãi suất ưu đãi ( hiện đã hoạt động trên 4 năm), Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ. Luật đã qui định rõ những lĩnh vực đầu tư, các vùng được ưu đãi kèm theo các chính sách ưu đãi như hỗ trợ mặt bằng kinh doanh, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế, đào tạo. Bước đầu các DNVVN đã tiếp cận được một số nguồn hỗ trợ để phát triển sản xuất. Năm 2000, khu vực này đã được cấp khoảng 1.600 giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, trên 1.100 dự án được vay tín dụng từ quĩ hỗ trợ phát triển, 400 dự án được giao đất, cho thuê đất, hơn 200 dự án được miễn giảm tiền thuế sử dụng đất hoặc giảm tiền thuê đất. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại như việc so với thực tế cần hỗ trợ của DNVVN thì còn nhỏ bé và dàn trải. Vẫn còn thiếu cơ chế pháp lý để khuyến khích đầu tư trong nước đối với thành phần kinh tế trang trại là các DNVVN ở nông thôn. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước chưa tạo cơ hội cho doanh nghiệp ít vốn, khả năng tài chính chưa cao mà chỉ quan tâm đến các chủ thể kinh doanh những ngành nghề mà nhàn nước khuyến khích, một số quy định tồn tại mà chỉ có DNNN và một số doanh nghiệp có điều kiện mới thực hiện được. Còn các DNVVN nói chung thì rất khó tiếp cận. Về đầu tư nước ngoài: Trong điều kiện phát triển kinh tế Việt nam hiện nay, việc khai thác và tận dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài như nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nguồn vốn viện trợ phát triển của các tổ chức tài chính quốc tế... có vai trò rất quan trọng. Và Chính phủ cũng có những chính sách, những quan điểm khẳng định tầm quan trọng của nguồn vốn bên ngoài. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành tại Việt nam vào năm 43 1989, được sửa đổi vào các năm 1992, 1994, 1996 và bên cạnh đó là rất nhiều văn bản, thông tư hướng dẫn mà mới nhất là Nghị định số 24/2000/ND-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi thành Luật đầu tư nước ngoài. Tất cả cũng đã tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ tối đa để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Bên cạnh đó không thể không nhắc tới nỗ lực của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc hợp tác với Tổ chức đảm bảo đầu tư đa biên (MIGA) để tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho cả đầu tư trong và ngoài nước, thành quả có thể kể đến là trang web www.khoahoc.vnn.vn/mpi_website vào 1/2002 nhằm cung cấp những thông tin cần thiết, đầy đủ, cập nhật phục vụ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt, địa chỉ này còn cung cấp phương tiện xin phép đầu tư qua mạng. Nhưng thực tế cần xét tới ở đây là bên góp vốn liên doanh với các công ty liên doanh nước ngoài chủ yếu vẫn là nhà nước và rất ít các DNVVN góp vốn liên doanh. Thành phần kinh tế tư nhân-phần lớn là các DNVVN-chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong vốn liên doanh với bên ngoài và vẫn chưa có chính sách tích cực khuyến khích khu vực các DNVVN tham gia nhiều hơn vào các dự án liên doanh nước ngoài. b.Chính sách tín dụng Hoạt động hỗ trợ tín dụng của nhà nước đối với các DNVVN được quy định cụ thể tại Nghị định 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, đây chính là một bước tiến quan trọng trong việc thống nhất cơ chế, thể lệ tín dụng và đầu mối cho vay đầu tư phát triển Nhà nước, theo Nghị định này, tín dụng đầu tư phát triển cho DNVVN của nhà nước được thực hiện thông qua Qũy hỗ trợ phát triển( được Chính phủ thành lập theo Nghị định 50/1999/ND-CP ngày 8/7/1999) dưới ba hình thức đầu tư hỗ trợ DNVVN là : Cho vay đầu tư : Đối tượng được vay là các dự án phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp bao gồm những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo danh mục ban hành kèm theo, các dự án nuôi trồng thủy sản, dự 44 án về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, các dự án có sử dụng vốn ODA.Thời hạn vay tối đa là 10 năm Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Là hình thức Nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn để đầu tư dự án sau khi dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đối tượng được hỗ trợ là các dự án được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Bảo lãnh tín dụng đầu tư : Là cam kết của quỹ hỗ trợ phát triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Quỹ hỗ trợ sẽ có trách nhiệm khi bên đi vay không trả được nợ. Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới chỉ được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Tiếp cận của DNVVN với tín dụng cũng ược cải thiện hơn thông qua việc tự do hoá lãi suất trong năm 2001. Vao tháng 6/2001, trần lãi suất cho vay đã được xoá bỏ và được phép vay trên mức lãi suất cơ bản áp dụng đã cải thiện việc tiếp cận tín dụng của các DNVVN. Dưới 3 hình thức đó, nhiều các DNVVN đã tận dụng có hiệu quả và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Tuy nhiên một thực tế là dẫu rằng các DNVVN được quyền vay vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình nhưng trên thực tế thì các DNVVN ngoài quốc doanh có rất ít cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn tín dụng cho giai đoạn đầu mới thành lập vì theo các điều kiện, các thể lệ tín dụng thì họ phải có những tài sản cầm cố hoặc thế chấp cho những khoản vay này. Các DNVVN vẫn gặp những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục định giá tài sản cầm cố, thế chấp. Trong khi đó những doanh nghiệp quốc doanh không hề phải ký quỹ cho những khoản vay tín dụng tương tự. Những thể lệ tín dụng này tạo sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Hơn nữa, khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng của ngân hàng còn hạn chế, hoạt động tín dụng của họ rất khó mở rộng trong khi các khoản nợ xấu đang ngày càng tăng lên. 45 DNVVN cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng từ bên ngoài trong khi mà thị trường chứng khoán ở Việt nam còn chưa hoạt động. Các nguồn vốn hỗ trợ như khoản hỗ trợ từ Dự án hỗ trợ tài chính cho các DNVVN của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật bản(JBIC), Dự án hỗ trợ DNVVN do phía Italy, Dự án UNDP rõ ràng là có hiệu quả nhưng chưa có nhiều. Khả năng huy động vốn trong nước còn hạn chế, các khoản tín dụng trung và dài hạn dường như nằm ngoài tầm với của các DNVVN ngoài quốc doanh, các nguồn vốn tín dụng ngắn hạn cũng không hoàn toàn thuận lợi. Chính vì lí do đó mà nguồn vốn của các DNVVN chủ yếu lại đến từ các nguồn tín dụng không chính thức. c.Chính sách thuế. Sự đổi mới trong chính sách thuế của Chính phủ đối với doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng thể hiện rõ nhất ở việc thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng (VAT) kể từ ngày 1/1/1999. Theo đó, 1/3 số lượng hàng hoá dịch vụ chịu mức thuế suất 5%, 62% chịu mức thuế suất 10%, 5% chịu mức thuế suất 20%, tính bình quân trung bình thì mức thuế trung bình như vậy là khá hợp lý. Tại 2 kỳ họp của Quốc hội( kỳ họp 10-1998 và kỳ họp 4-1999), đã ra đời những nghị quyết xử lí kịp thời, tháo gỡ khó khăn cho các DNVVN là giảm 50% mức thuế suất cho ngành du lịch, khách sạn, ăn uống và 7 nhóm hàng hoá cơ bản khác và một số mặt hàng cơ khí phục vụ nông nghiệp. Việc áp dụng thuế VAT là cần thiết nhưng thời điểm bắt đầu áp dụng lại là lúc nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoẳng tài chính khu vực 1997-1998, các doanh nghiệp nói chung lúc đó đang gặp khó khăn. Như vậy chưa hợp lý lắm và chưa tận dụng hiệu qủa triệt để của thuế VAT. Hơn nữa, sự chuẩn bị cho quy trình áp dụng thuế VAT chưa kỹ lưỡng ở cả 3 cấp độ là cơ quan ban hành, cơ quan hành thu và đối tượng chịu thuế. Mặc dù đã ban hành hơn 200 văn bản giải trình hướng dẫn nhưng cơ quan hành thu vẫn thực hiện khá vất vả, khó khăn vẫn chưa được giải quyết tận gốc. Đối tượng nộp thuế chủ yếu là các DNVVN, trình độ quản lí của hệ thống thuế và cả người tiêu dùng cũng thấp, nhưng thuế lại đưa ra yêu cầu quá cao, 46 quản lí thu đối với toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh, đa mục tiêu như thu ngân sách, thúc đẩy xuất khẩu, ưu tiên cho một số ngành và một số ưu tiên cho tiêu dùng mang tính xã hội... Sự phức tạp này khiến VAT chưa thực sự phù hợp với các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Hơn nữa, trong một số trường hợp thì thuế VAT còn cao hơn thuế doanh thu đối với các DNVVN do việc khấu trừ VAT đầu vào chưa đầy đủ. Vì vậy có khá nhiều DNVVN phải thu hẹp hoạt động sủa xuất kinh doanh do thiếu vốn vì phải nộp thuế VAT trước nhưng khâu hoàn thuế lại tiến hành quá chậm. DNVVN bị thiệt hại đáng kể do số vốn bị chiếm dụng này trong khi họ vẫn phải nộp lãi suất ngân hàng ( vốn vay ngân hàng chiếm tới 70%- 80% tổng vốn của các DNVVN). Cụ thể như trường hợp quy định hàng nhập khẩu phải chịu thuế VAT ngay khi mới nhập về đã khiến cho giá thành sản xuất bị đội lên ở những mặt hàng có nguyên liệu nhập khẩu. Những nỗ lực về hỗ trợ thuế cho DNVVN còn phải nói đến các ưu đãi về thuế được quy định tại Nghị định số 51/1999/ND-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước( đã sửa đổi). Tại đó, các mức thuế ưu đãi được thể hiện ở các danh mục A, B, C về dự án đầu tư. Tại đó cũng chi tiết những quy định về thời hạn miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Điển hình là các trường hợp miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, đối với các dự án BOT, BTO, đối với sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Ngoài ra còn có quy định miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập cá nhân, miễn giảm thuế sử dụng đất. 3.Tác động của chính sách đất đai Luật đất đai được ban hành và trực tiếp điều chỉnh vấn đề đất đai với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ năm 1993. Một vấn đề nổi lên hàng đầu hiện nay là nếu mỗi doanh nghiệp có một giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất thì sẽ giảm bớt được tính mập mờ về tính hợp pháp của đất và cho phép được sự dụng đất để thế chấp vay.Tuy vậy, hiện nay chỉ có một số ít các DNVVN có giấy chứng nhận 47 quyền sử dụng đất. Trong các khu vực đô thị phát triển thì quyền sử dụng đất dài hạn lại chủ yếu được cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Các DNVVN hiện nay chủ yếu vẫn phải đi thuê đất. Về quy định thời hạn cho thuê đất còn chưa rõ ràng, cơ quan nhà nước thì cho rằng thời điểm cho thuê đất tính từ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cho thuê đất, còn doanh nghiệp thì lại cho rằng thời điểm xác định hạn thuê đất tính từ thời điểm thực tế doanh nghiệp nhận được đất thuê. Thực tế thì nền quy định tính từ thời điểm nhận được đất thuê là hợp lý trong việc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các văn bản pháp quy liên quan đến quyền sử dụng đất, thế chấp đất còn nhiều bất cập, phức tạp và không rõ ràng, có sự phân biệt đối xử giữa những doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Quyền sử dụng phần lớn đất đai chưa được xác định vì phải cung cấp một số lượng rất lớn các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, việc có được những giấy tờ đó hoàn toàn không dễ dàng. Hiện vẫn chưa có hệ thống công khai về các quyền hạn cho thuê và thế chấp. Giá trị của quyền sử dụng đất do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố xác định chứ không phải theo giá thị trường và được mỗi tỉnh áp dụng theo các cách khác nhau. Về vấn đề thời hạn cho thuê đất hiện hành áp dụng cho các DNVVN ngoài quốc doanh là 30 năm tạo một thiệt thòi cho các DNVVN trong nước và đẩy giá thành sản phẩm của các DNVVN này lên cao hơn so với giá sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn FDI- loại hình có thể thuê đất đến 50 năm. Bên cạnh đó, việc quy định giá trả tiền thuê hàng năm vào khoảng 0,5-0,7% giá trị quyền sử dụng đất như hiện nay rõ ràng là tác động hỗ trợ của Chính phủ trong việc giảm mức đầu tư ban đầu cho doanh nghiệp, Tuy nhiên lại tồn tại một nghịch lý là nhiều doanh nghiệp chỉ muốn nộp tiền thuê đất luôn một lần cho xong để yên tâm đầu tư( cho dù có phải đi vay) vì e ngại chính sách giá cho thuê đất hiện nay không ổn định. Cho ví dụ các doanh nghiệp sẽ phải trả một khoản tiền là A để được thuê đất trong 30 năm 48 và mỗi năm nộp 0,5%A, nhưng rất có thể do biến động mà các doanh nghiệp có thể phải nộp thêm một khoản B > A, lúc đó giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sẽ phải tính thế nào cho hợp lý? Do đó, cần quy định một giá thuê đất ổn định hoặc dao động trong một phạm vi cho phép trong suốt thời gian thuê. Đồng thời cũng cần hạ giá cho thuê đất tại các KCN, KCX để lấp đầy các khu này vì theo con số thống kê hiện nay thì các doanh nghiệp chỉ mới chiếm 19% tổng diện tích. Nhìn chung, Những vấn đề về đất đai cũng là một trong những thách thức lớn nhất đối với các DNVVN. Thách thức thể hiện ở việc rất khó có được đất dùng cho mục đích đầu tư, trong khi đó hệ thống xét duyệt của chính phủ đối với việc thực thi các quyền sử dụng đất là rất phức tạp và rắc rối. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển khi mà cá quyền sử dụng đất đối với các mục đích thương mại và công nghiệp không được quy định rõ ràng và các thủ tục dụng đất để thế chấp không được nới lỏng. 4.Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo. Về công nghệ: Việc tiếp cận đến công nghệ hiện đại có vai trò rất quan trọng trong việc các doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế. Tuy vậy, phần lớn các DNVVN Việt nam đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Máy móc trang thiết bị lạc hậu và thêm vào đó là trình độ quản lí, kỹ năng nghiệp vụ của lao động trong nước chưa đủ khả năng thành thạo với công nghệ hiện đại. Khó khăn trong tiếp cận công nghệ của các DNVVN Việt nam thể hiện ở:Thứ nhất, mặc dù vài năm gần đây đã có những bước tiến đáng kể nhưng phải thừa nhận là kinh phí cho giáo dục đào tạo hướng nghiệp của Việt nam luôn thấp hơn các nước khác trong khu vực, thiếu nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo để cho phép các sinh viên và công nhân Việt nam tiếp thu công nghệ mới.Thứ hai, các DNVVN khó tiếp cận đến các khoản tín dụng trung và dài hạn nhằm giúp họ đầu tư mua thiết bị mới, công nghệ mới, đào tạo người lao động. Ngoài ra, khung pháp lý với công nghệ còn nhiều bất cập: Thứ nhất, các quy định hạn chế nghiêm ngặt được quy định trong Luật Dân sự ở các 49 hợp đồng chuyển giao công nghệ phần nào ngăn cản việc chuyển giao công nghệ cao mà nước ta đang cần.Thứ hai, mỗi hợp đồng chuyền giao công nghệ được Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường phê duyệt phải mất12 tháng, thời gian này cũng đủ để công nghệ chuyển giao sắp lạc hậu. Thứ ba, Hệ thống cấp giấy phép công ty và đầu tư làm giảm sức cạnh tranh- vốn là một động cơ thúc đẩy đổi mới công nghệ- và làm nảy sinh tình trạng kinh doanh không ổn định-một khó khăn lớn đối với việc đổi mới công nghệ. Các quy định pháp lý hiện nay tạo ra nhiều khó khăn và tốn kém trong việc nhập khẩu vác thiết bị và máy móc đã qua sử dụng vào Việt nam. Theo quy định của Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường buộc các doanh nghiệp phải được sự chấp thuận từ cơ quan nhà nước có liên quan và chứng chỉ của một cơ quan giám định hợp pháp ( thường là VINACONTROL của Việt nam và SGS của Thuỵ sỹ) là thiết bị còn mới 80% giá trị, không phải phế liệu hoặc chát đốt tiêu thụ không được quá cao hơn 10% so với máy mới và các máy móc thiết bị đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn và môi trường. Các DNVVN, nếu không thể mua máy móc thiết bị mới, thì cũng chật vật trong việc nâng cấp lên thiết bị đã qua sử dụng. Đành rằng là cần tránh tình trạng biến Việt nam thành bãi rác công nghệ những nếu quy định qúa khắc nghiệt thì cũng rất khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ mới. Trong tình trạng như vậy thì hoạt động cho thuê tài chính (leasing)- một hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao, linh hoạt trong kinh doanh-có thể được xem như cứu cánh cho vấn đề công nghệ của các DNVVN, tuy vậy việc xúc tiến hoạt động này chưa phát triển lắm. Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 đã được Chính phủ ban hành về Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam nhằm mở đường cho các công ty cho thuê tài chính tiến hành hoạt động, tạo một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho các DNVVN, nhưng kết qủa vẫn chưa thu được bao nhiêu. Cho thuê tài chính ở Việt nam vẫn còn là một cái gì đó xa lạ. 50 Về giáo dục đào tạo, Những năm gần đây, Chính phủ cũng đã có rất nhiều cố gắng nỗ lực để tạo cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng một đội ngũ nhân lực có tay nghề và trình độ. Ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khoá, trường lớp với nhiều hình thức, phương thức đào tạo khác nhau. Mặc dù đó mới chỉ ban đầu hình thành do nhu cầu bức thiết của các DNVVN nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo đội ngũ nhân lực trong khu vực DNVVN tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được tổ chức ở khắp nơi trên cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như vậy còn chưa được thực hiện đúng mức, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu cho loại đối tượng này. Bên cạnh đó, cũng đã có một số trung tâm xúc tiến, hỗ trợ DNVVN được thành lập và thực hiện các hoạt động đào tạo và các hoạt động khác do các nguồn quỹ quốc tế tài trợ. Có thể kể đến trong số đó là Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) hình thành trên khuôn khổ dự án hợp tác giữa Liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), trung tâm liên tục tổ chức các lớp học trong đó bao gồm cả những lớp học đào tạo giảng viên. Ngoài ra còn có các lớp học liên tục được tổ chức tại Trung tâm hỗ trợ DNVVN của VCCI-SME PC với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các lớp học của Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng( SMEDEC). Tuy nhiên các trung tâm này không đủ để đáp ứng việc đào tạo hướng nghiệp và các dịch vụ tư vấn ở quy mô các DNVVN yêu cầu. Vấn đề là có một cơ quan Chính phủ ủng hộ hoạt động của các trung tâm này cũng như sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, như vậy các trung tâm đó mới thực sự phát huy vai trò hỗ trợ các DNVVN. 5.Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các DNVVN. Việt nam đang trong tiến trình hộp nhập kinh tế khu vực và nền kinh tế toàn cầu, thành công của tiến trình này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của khu vực doanh nghiệp mà chủ yếu là các DNVVN. Khu vực này chỉ 51 thực sự phát triển được nếu có sự hỗ trợ kịp thời, có những điều kiện ưu đãi thích hợp, không chỉ từ phía đối nội mà còn cần nhiều những hỗ trợ quý báu từ bên ngoài về nguồn vốn viện trợ phát triển, về các kinh nghiệm trong việc phát triển các DNVVN. Quan hệ hợp tác của Việt nam với nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều định chế tài chính vì vậy mà không ngừng được tăng cường và phát triển, dưói đây là một vài thành quả điển hình. Cùng chung một mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp thông qua những dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh cho các DNVVN. Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam(VCCI) và Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức(GTZ-German Technican Corporation) cùng hợp tác và xây dựng và phát triển những dịch vụ thông tin cập nhật với chất lượng cao. Văn bản hợp tác giữa VCCI và GTZ kí vào 10/2001, kế đó việc phát triển hướng đi của SMEnet( Small and Medium Enterprises) được ghi nhận và thông qua vào 11/2001 và kinh phí được hỗ trợ vào 12/2001. Sau đó SMEnet được thử nghiệm vào 3/2002 và chính thức hoạt động từ 4/2002. SMEnet-thành quả đầu tiên là trang Web vào tháng 4/2002, đây thực sự là một bước tiến lớn lao khi mà các DNVVN có thể tiếp cận được rất nhiều nguồn thông tin quý báu về hoạt động kinh doanh của mình, khi mà các thông tin về DNVVN được công bố công khai. Tại đó, các DNVVN có thể có những thông tin cập nhật về thị trường, sản phẩm, bạn hàng, đối tác, các thông tin về tư vấn pháp luật, khởi sự doanh nghiệp, và nhiều thông tin hữu ích khác qua đó các DNVVN Việt nam có thể tăng sức cạnh tranh của mình.Tuy mới hoạt động nhưng trang Web này thực sự đã là công cụ hiệu qủa cho phát triển DNVVN. Cũng theo kế hoạch hợp tác giữa VCCI và GTZ, Dự án thúc đẩy phát triển DNVVN sẽ dần dần chuyển giao SMEnet cho Trung tâm thông tin VCCI quản lí, trong quá trình chuyển giao đó, hai bên sẽ cùng hợp tác phát triển SMEnet như một cổng thông tin về kinh tế cho các DNVVN. Phía Việt nam cũng đã có sự hợp tác với Italia về phát triển các DNVVN, hai bên đã ký “Biên bản ghi nhớ về sự hợp tác về các DNVVN Việt nam- Italia” giữa Bộ công nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp 52 nước Cộng hoà Italia và Bộ công nghiệp nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam vào 5/10/1999. Italia cũng đã cụ thể hoá bằng nhiều chương trình hợp tác hỗ trợ, cụ thể là “Hội thảo DNVVN trong công nghiệp- kinh nghiệm của Italy và Việt nam” do bộ công nghiệp Việt nam, Đại sứ quán Italy tổ chức ngày 22/5/2002. Hay là dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN việt nam trong công nghiệp đá ốp lát, và nhiều hoạt động khác. Việt nam cũng luôn tham gia và thậm chí trực tiếp tổ chức các hội nghị quốc tế về phát triển các DNVVN. Điều này thể hiện quyết tâm thực sự của Chính phủ trong phát triển các DNVVN. Tại Bắc Kinh, việt nam tham gia Hội nghị cấp bộ trưởng APEC về các DNVVN ngày1/9/2001 với sự tham gia của 21 quốc gia APEC, hội nghị đã thông qua tuyên bố chung về phát triển các DNVVN. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8/10/2002 đã diễn ra “Hội nghị lần 7 các thành phố đối tác khu vực châu á-Thái Bình Dương về chính sách hỗ trợ DNVVN”. Hội nghị cũng thông qua chương trình hành động TP

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam.pdf
Tài liệu liên quan