Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển các hoạt động của công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
112 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển các hoạt động của công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và một số giải
pháp nhằm phát triển các
hoạt động của CTCP chứng
khoán Bảo Việt
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 1 - Trêng §HKTQDHN
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu của mỗi dân tộc mỗi đất
nước phải trải qua. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề
quan trọng. Trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá.
Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế chính sách và
biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn có hiệu quả. Một
trong những biện pháp thực hiện huy động mọi nguồn vốn có thể huy động
được khơi động mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích dân chúng tiết
kiệm và thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ
nước ngoài, đó là TTCK.
Đối với chúng ta, đây là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì
vậy để có một TTCK hợp lý, đem lại hiệu quả cao đòi hỏi chúng ta có nhận
thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề này.
Nhằm góp phần vào lĩnh vực phát triển của TTCK của Việt Nam.
Em chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài là: “Giải pháp phát triển các
hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCP chứng khoán Bảo
Việt”.
Bố cục chuyên đề gồm 3 Chương:
Chương I : Những vấn đề chung về hoạt động của CTCK
Chương II : Thực trạng hoạt động của CTCK Bảo Việt
Chương III: Giải pháp nhằm phát triển các hoạt động của
CTCP chứng khoán Bảo Việt
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình
của Cô giáo - ThS. Lê Hương Lan và các cán bộ phòng Ngiệp vụ I tại
CTCP chứng khoán Bảo Việt đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 2 - Trêng §HKTQDHN
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CTCK
1.1.1. SỰ HÌNH THÀNH CTCK
TTCK có tổ chức hoạt động không phải trực tiếp do những người
muốn mua hay muốn bán chứng khoán thực hiện, mà do những người môi
giới trung gian thực hiện, đó là nguyên tắc trung gian, nguyên tắc căn bản
nhất của TTCK có tổ chức. Từ đó trên TTCK, xuất phát từ nhu cầu gặp gỡ
giữa người mua và bán hình thành nên nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
TTCK hình thành, để đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh có
hiệu quả, yêu cầu các loại chứng khoán giao dịch là những loại chứng
khoán thực, đảm bảo lợi ích cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư. Xuất phát
từ nhu cầu những nhà đầu tư có tiền nhưng không có kinh nghiệm, không
biết đầu tư vào đâu và vào loại chứng khoán nào bởi vì họ không thể dự
đoán được một cách chính xác giá trị trong tương lai của nó. Nếu không có
những người trung gian tư vấn, có trình độ và có sự phân tích cần thiết về
những chứng khoán dựa trên những căn cứ xác đáng để có những nhận xét
kỹ lưỡng, thì người đầu tư có thể bị lầm lẫn hoặc bị lường gạt. Do đó trên
thị trường hình thành nên nghiệp vụ tư vấn đầu tư.
Các Công ty, tổ chức đại diện làm trung gian giúp thị trường hoạt
động lành mạnh và hiệu quả cũng có nhu cầu kinh doanh trên trên thị
trường để thu lợi nhuận cho chính Công ty thông qua hành vi mua bán
chứng khoán với khách hàng. Từ đó hình thành nên nghiệp vụ tự doanh
trong Công ty.
Xuất phát từ nhu cầu của các tổ chức phát hành, để thực hiện thành
công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi phải cần đến các
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 3 - Trêng §HKTQDHN
Công ty tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện Bảo lãnh, phân phối chứng
khoán ra công chúng. Từ đó hình thành nên nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành.
Khi thị trường phát triển, đòi hỏi Công ty đại diện cho khách hàng
hay nói cách khác khách hàng uỷ thác cho Công ty thay mặt mình quyết
định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng
chấp thuận. Từ nhu cầu đó, nghiệp vụ Quản lý danh mục đầu tư hình thành.
Từ những nhu cầu và điều kiện trên đòi hỏi phải có một tổ chức hoặc
một Công ty đại diện thực hiện các nghiệp vụ đó một cách thống nhất, có
tổ chức giúp cho TTCK hoạt động lành mạnh và có hiệu quả. Từ đó CTCK
được hình thành.
Các CTCK ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của TTCK. Ở
các nước có TTCK phát triển CTCK hoạt động rất tấp lập và chính họ là
tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của
TTCK nói riêng.
Ngày nay, kể cả các nước đang phát triển, các CTCK ra đời rầm rộ
và phổ biến, chiếm lĩnh phần lớn các giao dịch chứng khoán trên thị
trường. Nhờ các CTCK mà các trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu
của các CTCP được lưu thông, buôn bán với doanh số lớn trên TTCK. Qua
đó một lượng vốn lớn được tập trung vào để đầu tư từ những lượng vốn
nhỏ trong dân chúng, tổ chức đoàn thể hay doanh nghiệp.
1.1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CTCK
Một CTCK trên thị trường tuỳ thuộc vào quy định của từng nước
hoặc khả năng của Công ty mà có thể kinh doanh trên một lĩnh vực nhất
định hoặc có thể kinh doanh trên tất cả các lĩnh vự. Căn cứ vào các nghiệp
vụ kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh hoặc tuỳ từng nước mà tên các Công
ty này có thể là CTCK hoặc Công ty môi giới chứng khoán hay Công ty
kinh doanh chứng khoán…
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 4 - Trêng §HKTQDHN
Tại Việt Nam theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày
13/10/1998 của UBCKNN, CTCK là CTCP, Công ty TNHH thành lập hợp
pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một
số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Công ty Môi giới chứng khoán: là Công ty thực hiện việc trung gian,
mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng .
Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán : là CTCK có lĩnh vực
hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ Bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh
lệch giá.
Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK thực hiện nghiệp vụ
kinh doanh, nghĩa là tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
Công ty trái phiếu: là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
CTCK không tập trung: là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị
trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Tuy có nhiều định nghía khác nhau về CTCK nhưng có thể có một
khái niệm chung về CTCK như sau:
CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các hoạt động
kinh doanh trên TTCK.
Qua khái niệm trên ta có thể thấy đặc điểm của các CTCK như
sau:
CTCK là một định chế tài chính trung gian. Một định chế trung gian
trên Thị trường tài chính là cầu nối giữa người cho vay và người đi vay.
Khi một người cho vay tìm ra được một người muốn vay, người đó gặp
phải khó khăn là chi phí thời giờ và tiền bạc cho những cuộc kiểm tra tín
nhiệm để biết liệu người vay có thể hoàn trả vốn và lãi cho mình không.
Ngoài các chi phí thông tin này, quá trình thực tế cho vay hoặc mua chứng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 5 - Trêng §HKTQDHN
khoán cần đến các chi phí giao dịch. Các trung gian tài chính này giúp cho
những người đi vay và người cho vay giảm được chi phí và thời gian tìm
kiếm, giao dịch. Vì vậy, không có trung gian tài chính thì Thị trường tài
chính không thể có được lợi ích trọn vẹn. Trên thị trường tài chính nói
chung và TTCK nói riêng có nhiều trung gian tài chính và các CTCK là
một trong các trung gian quan trọng trên TTCK.
CTCK thực hiện các hoạt động kinh doanh như bất cứ một tổ chức
kinh doanh nào khác trong nền kinh tế, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, đều nhằm mục đích thu lợi nhuận từ các
hoạt động kinh doanh mua, bán chứng khoán.
1.1.3. PHÂN LOẠI CTCK
1.1.3.1. Theo tính chất sở hữu
Hiện nay có 3 loại hình tổ chức cơ bản của CTCK, đó là Công ty
hợp danh, Công ty TNHH và CTCP.
CTCP
- CTCP là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu Công ty là các
cổ đông.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra
công chúng theo quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.
Công ty TNHH
- Thành viên của Công ty chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty TNHH không được phép phát hành Cổ phiếu.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 6 - Trêng §HKTQDHN
Công ty hợp danh
- Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở nên.
- Thành viên của Công ty bao gồm: Thành viên góp vốn và thành
viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Các thành viên góp
vốn không tham gia điều hành Công ty, họ phải chịu trách nhiệm hữu hạn
trong phần vốn góp của mình với những khoản nợ của Công ty.
- Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ
một loại chứng khoán nào.
Do các ưu điểm của loại hình CTCP và Công ty TNHH so với Công
ty hợp danh, vì vậy hiện nay chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hình
thức Công ty TNHH và CTCP.
1.1.3.2. Theo mô hình kinh doanh
Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các
doanh nghiệp sản xuất thương mại thông thường vì CTCK là một định chế
tài chính đặc biệt. Vì vậy, vẫn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của
CTCK cũng có những điểm khác nhau và vận dụng cho các khối thị trường
có mức độ phát triển khác nhau (thị trường cổ điển; thị trường mới nổi; thị
trờng các nước chuyển đổi). Tuy nhiên, có thể khái quát mô hình tổ chức
kinh doanh chứng khoán của CTCK theo 2 nhóm (Mô hình CTCK đa năng
và Mô hình CTCK chuyên doanh).
CTCK chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng)
Theo mô hình này, CTCK là Công ty chuyên doanh độc lập, các
NHTM và các tổ chức tài chính khác không được phép tham gia vào hoạt
động kinh doanh chứng khoán.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 7 - Trêng §HKTQDHN
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống Ngân hàng
do những ảnh hưởng tiêu cực của TTCK, và các Ngân hàng không được sử
dụng vốn huy động để đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán; Mặt khác, với sự
chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Điển hình của mô
hình này là các CTCK ở Mỹ, Nhật, Hàn Quốc,… có sự tách bạch giữa hoạt
động Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ
nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh
vực tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm, nhưng được tổ chức thành Công ty mẹ,
Công ty con và có sự quản lý giám sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc
lập với nhau.
CTCK đa năng
Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp
dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các Công ty hoạt động với tư cách
là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô
hình này được biểu hiện dưới 2 hình thức sau:
CTCK đa năng một phần: Các Công ty muốn hoạt động trong lĩnh
vực chứng khoán phải thành lập Công ty con-CTCK, hoạt động độc lập.
Mô hình này được áp dụng ở Anh và những nước có quan hệ gần gũi với
Anh như Canada, Úc.
Mô hình này có ưu điểm là các Công ty được kết hợp kinh doanh các
lĩnh vực khác và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh
về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của Công ty.
Bên cạnh đó, bởi vì có qui định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên
cho nên hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai thị
trường. Đặc biệt, mô hình này phù hợp với những nước mới thành lập
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 8 - Trêng §HKTQDHN
TTCK, khi mà cần có các tổ chức tài chính lành mạnh tham gia vào thị
trường và khi hệ thống luật, kiểm soát còn nhiều mặt hạn chế.
CTCK đa năng hoàn toàn: Mô hình này không có sự tách bạch nào
giữa hoạt động Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, NHTM không
những được hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ mà còn được hoạt động trong
lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. Nó được áp dụng ở các nước Bắc Âu,
Hà Lan, Thụy Sĩ, Áo...
Khác với mô hình chuyên doanh, ưu điểm của mô hình này là Công
ty có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó mà giảm bớt rủi ro cho
hoạt động kinh doanh chung và có khả năng về tài chính chịu đựng các
biến động của TTCK. Tuy nhiên, mô hình đa năng hoàn toàn có một số hạn
chế: TTCK phát triển chậm vì hoạt động chủ yếu của hệ thống Ngân hàng
dùng vốn để cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán, do đó Ngân hàng thường
quan tâm đến lĩnh vực Ngân hàng hơn là lĩnh vực chứng khoán. Điều này
đã thể hiện sự kém phát triển của TTCK Châu Âu so với TTCK Mỹ.
Bên cạnh đó, nó còn có nhược điểm là trong trường hợp biến động
của TTCK, hậu quả có thể tác động tiêu cực đến lĩnh vực kinh doanh tiền
tệ nếu không có sự tách biệt giữa hai loại hình kinh doanh này, thực tế đã
chứng minh thông qua cuộc đại khủng hoảng 1929 -1933, hay vụ phá sản
Ngân hàng Barings của Anh năm 1995. Ngược lại, trong trường hợp thị
trường tiền tệ biến động có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng
khoán của các Ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan
là một minh chứng.
1.1.4. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA CTCK
Do vai trò của CTCK đối với TTCK, vì nó là một loại hình kinh
doanh ảnh hưởng nhiều đến lợi ích công chúng và rất dễ bị lợi dụng nhằm
kiếm lợi riêng, luật pháp các nước đều quy định rất chặt chẽ đối với các
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 9 - Trêng §HKTQDHN
hoạt động của CTCK. có rất nhiều quy định nguyên tắc đối với hoạt động
của CTCK nhưng nhìn chung trên thế giới các CTCK phải tuân thủ một số
nguyên tắc nhất định để bảo vệ cho các nhà đầu tư.
1.1.4.1. Nhóm nguyên tắc đạo đức
- CTCK phải bảo đảm giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích
của khách hàng.
- Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy có tinh thần trách nhiệm.
- Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của Công ty.
- Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ các thông
tin về tài khoản khách hàng khi chưa được khách đồng ý bằng văn bản trừ
khi có yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước.
- CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp thông tin đầy
đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng phải
gánh chịu, đồng thời họ không được khẳng định về lợi nhuận các khoản
đầu tư mà họ tư vấn.
- CTCK không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các
khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình.
- Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các CTCK không
được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính
mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
- Ở nhiều nước, các CTCK phải đóng góp tiền vào quỹ bảo vệ nhà
đầu tư chứng khoán để báo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp
CTCK mất khả năng thanh toán.
Các CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho
khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng
khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 10 - Trêng §HKTQDHN
1.1.4.2. Nhóm nguyên tắc tài chính.
- Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán
báo cáo quy định của UBCKNN. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết
kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
- CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính
để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp đó được dùng phục vụ cho giao dịch
của khách hàng.
- CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài
sản của mình. CTCK không được dùng chứng khoán của khách hàng làm
vật thế chấp vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn
bản.
1.1.5. VAI TRÒ CỦA CTCK
Các CTCK ra đời và phát triển một cách nhanh chóng như vậy là do
chúng đóng một vai trò rất quan trọng trên TTCK. Để hiểu rõ sự cần thiết
của các CTCK trên TTCK chúng ta xem xét vai trò của các CTCK đối với
từng đối tượng, chủ thể khác nhau trên TTCK.
1.1.5.1. Đối với các tổ chức phát hành
Mục tiêu tham gia vào TTCK của các tổ chức phát hành là huy động
vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt
động đại lý phát hành, Bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ
chế huy động vốn phục vụ cho các nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc
trung gian. Nguyên tắc yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành
không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung
gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả người đầu
tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này CTCK đã tạo ra cơ
chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 11 - Trêng §HKTQDHN
1.1.5.2. Đối với các nhà đầu tư
Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh
mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do
đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường,
mua bán qua trung gian sẽ làm sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người
bán. Tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến động thường xuyên của giá cả
chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém
chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu
tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín
nghề nghiệp sẽ giúp cho các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một
cách hiệu quả.
1.1.5.3. Đối với TTCK
Với TTCK, CTCK thể hiện hai vai trò:
Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường:
Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa
ra mức giá cuối cùng, người mua và bán phải thông qua các CTCK vì họ
không được trực tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các CTCK là những
thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị
trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng các nhà
phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng
khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK, các CTCK còn
thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những
khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều
CTCK đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình
ổn thị trường.
Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 12 - Trêng §HKTQDHN
TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các
tài sản tài chính và các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó, vì
CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp một, do
thực hiện các nghiệp vụ như Bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các
CTCK không những huy động được nguồn vốn đưa vào sản xuất, kinh
doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản
tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua
bán giao dịch trên thị trường cấp hai. Điều này làm giảm rủi ro, tạo nên tâm
lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp hai, do thực hiện giao dịch
mua và bán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành
tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh
khoản của những tài sản tài chính.
1.1.5.4. Đối với các cơ quan quản lý thị trường:
Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị TTCK cho các cơ
quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó các CTCK thực hiện
được vai trò này bởi vì họ vừa là người Bảo lãnh phát hành cho các chứng
khoán mới, vừa là trung gian mau bán chứng khoán và thực hiện các giao
dịch trên thị trường, do vậy họ nắm được tình hình tài chính cũng như hoạt
động kinh doanh của các tổ chức phát hành như là các nhà đầu tư trên
TTCK.
Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin cần phải được
công khai hoá dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường. Việc cung
cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc
nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải minh bạch và công khai
trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin
về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các nhà đầu tư...Nhờ
các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống
các hiện tượng thao túng, lũng đoạn bóp méo thị trường.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 13 - Trêng §HKTQDHN
Như vậy, các CTCK với vai trò có ảnh hưởng rộng rãi tới các chủ
thể trên TTCK: Tạo ra cơ chế huy động vốn, cung cấp cơ chế giá cả cho
giao dịch, tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán và góp phần điều tiết
bình ổn thị trường là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng, do đó nó có một vị trí quan trọng
trên TTCK.
1.2. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CTCK
1.2.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH
1.2.1.1. Hoạt động Môi giới chứng khoán
Bản chất hoạt động môi giới
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian đại diện mua bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hao hồng. Theo đó CTCK đại diện
cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK
hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với
kết quả giao dịch của mình. Rủi ro mà Nhà môi giới hay gặp phải là các
khách hàng của mình hoặc Nhà môi giới giao dịch khác có thể không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn.
Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng
những sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán
chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán và trong những trường hợp
nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những
lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư,
giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
Những quy định cần thiết trong hoạt động môi giới
Trong quá trình thực hiện các bước của lệnh theo yêu cầu của khách
hàng, CTCK và khách hàng đặt lệnh phải tuân thủ những quy định trong
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 14 - Trêng §HKTQDHN
quy chế CTCK hay pháp luật của Nhà nước về chứng khoán và giao dịch
chứng khoán. Bao gồm các quy định sau:
+ CTCK phải thực hiện chính xác các lệnh của khách hàng. Mọi sai
sót gây ra từ phía CTCK, dẫn đến việc thực hiện sai lệnh gây thiệt hại cho
khách hàng. CTCK và nhân viên CTCK phải chịu trách nhiệm hoàn toàn
về mặt tài chính và pháp luật.
+ Theo yêu cầu của khách hàng, hàng tháng, hàng quý CTCK sẽ gửi
bản báo cao chứng khoán đến khách hàng để đối chiếu số tiền và chứng
khoán trên tài khoản của khách hàng.
+ CTCK có trách nhiệm tổ chức việc sắp xếp, theo dõi thực hiện các
lệnh của khách hàng một cách cố hiệu quả nhất. Trong trường hợp chứng
khoán của khách hàng mang tên CTCK, CTCK phải tổ chức theo dõi và
cung cấp các thông tin khi khách hàng yêu cầu, cũng như việc chuyển cổ
tức đến khách hàng.
+ Việc CTCK vay mượn chứng khoán hay tiền của khách hàng trên
tài khoản tại CTCK, phải được ghi rõ trong hợp đồng giao dịch chứng
khoán. Nếu điều này không ghi trong hợp đồng, CTCK không được sử
dụng chứng khoán hay số tiền nói trên, mọi việc vi phạm đều sử theo luật
định.
+ CTCK phải thông báo kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng
chậm nhất là ngày làm việc kế tiếp ngày thực hiện giao dịch. Nếu thông
báo chậm trễ, CTCK phải chịu trách nhiệm về việc thanh toán và chuyển
giao chậm trễ của khách hàng.
+ Khách hàng có trách nhiệm thanh toán hay chuyển giao số chứng
khoán khi CTCK thực hiện đúng những yêu cầu của khách hàng.
+ Khi muốn sửa đổi hay hủy bỏ lệnh đã đặt, khách hàng phải thông
báo cho CTCK biết để kịp thời điều chỉnh. Trong trường hợp lệnh đã được
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 15 - Trêng §HKTQDHN
thực hiện thì việc sửa đổi hay hủy bỏ sẽ không có giá trị, khách hàng có
trách nhiệm thanh toán hay chuyển giao số chứng khoán đã được thực hiện.
+ Khi khách hàng uỷ quyền cho CTCK hay một ngươiì môi giới toàn
quyền sử dụng tài khoản của mình để mua bán chứng khoán, khách hàng
phải làm giấy uỷ quyền cho CTCK hay người môi giới đó. Trình tự và thủ
tục theo đúng pháp luật hiện hành và phải có sự đồng ý của CTCK hoặc
Ngân hàng, nơi khách hàng mở tài khoản.
+ Khi nhận được thông báo kết quả giao dịch, nếu không đồng ý với
kết quả này, khách hàng phải thông báo cho CTCK tra soát.
+ Mọi thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán từ chủ cũ
sang chủ mới do CTCK liên hệ trực tiếp với Công ty phát hành chứng
khoán hoặc thông qua Trung tâm bảo quản chứng khoán để thực hiện.
+ Mức hoa hồng cho các hoạt động môi giới chứng khoán thường
được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên tổng số giao dịch và theo nguyên tắc
doanh số giao dịch càng lớn thì tỷ lệ hoa hồng càng thấp. Mức tối thiểu và
tối đa về hoa hồng cho hoạt động môi giới chứng khoán sẽ do UBCKNN
quy định.
Kỹ năng của người môi giới chứng khoán thể hiện trên các
khía cạnh sau
Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề Môi giới chứng khoán đòi hỏi phải
có phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng trong công việc và với thái độ công
tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không
được xúi dục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên
đưa ra lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho
khách hàng.
+ Kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của người
môi giới với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 16 - Trêng §HKTQDHN
ràng tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực hiện giao dịch. Để
thành công trong việc bán hàng người môi giới phải đặt khách hàng lên
trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt
trong hoạt động dịch vụ tài chính và phải được thể hiện ngay từ khi tiếp
xúc với khách hàng.
+ Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: Có nhiều phương pháp để tìm
kiếm khách hàng nhưng nhìn chung có thể được gộp vào nhóm 6 phương
cách sau: những đầu mối được gây dựng từ Công ty hoặc tài khoản chuyển
nhượng lại; những lời giới thiệu khách hàng; mạng lưới kinh doanh; các
chiến dịch viết thư; các cuộc hội thảo; gọi điện làm quen.
Quy trình thực hiện hoạt động môi giới
+ Bước 1: Mở tài khoản
Trước khi nhận lệnh của khách hàng, CTCK phải yêu cầu khách
hàng mở tài khoản giao dịch. Tài khoản đó có thể là tài khoản tiền mặt hay
tài khoản ký quỹ. Tài khoản giao dịch để dùng cho các giao dịch thông
thường còn tài khoản ký quỹ dùng cho giao dịch ký quỹ. Sở dĩ phải có hai
loại tia khoản như vậy là vì yêu cầu quản lý đối với giao dịch ký quỹ khách
yêu cầu quản lý đối với giao dịch thông thường.
+ Bước 2: Nhận đơn đặt hàng
Sau khi tài khoản được mở, khách hàng có thể ra lệnh mua, bán cho
Công ty môi giới. Hình thức đặt lệnh có thể bằng điện thoại, telex hay bằng
phiếu lệnh.
Nếu là lệnh bán Công ty sẽ đề nghị khách hàng xuất trình số chứng
khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện đơn hàng hoặc đề nghị
phải ký quỹ một phần số chứng khoán theo một tỷ lệ do UBCKNN quy
định.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 17 - Trêng §HKTQDHN
Nếu là lênh đặt mua, Công ty phải đề nghị khách hàng mức tiền ký
quỹ nhất định trên tài khoản khách hàng ở Công ty. Khoản tiền này thường
bằng 40% trị giá mua theo lệnh.
Phòng môi giới chứng khoán của Công ty sau khi phân loại các lệnh
mua bán và hoàn tất thủ tục ban đầu thoả thuận với khách hàng như: Mức
ký quỹ, hoa hồng, lệ phí… sẽ thông báo bằng điện thoại, telex hoặc Fax
cho thư ký văn phòng đại diện của Công ty có mặt tại quầy giao dịch trong
SGDCK hoặc tại TTCK không tập trung.
+ Bước 3: Chuyển lênh tới thị trường phù hợp để thực hiện
Những người đại diện có giấy phép của CTCK hoạt động với vai trò
trung gian giữa khách hàng với Công ty. Trước đây, người đại diện gửi tất
cả lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng tới bộ phận thực hiện lệnh
hoặc phòng kinh doanh giao dịch của Công ty. ở đây, một thư ký sẽ kiểm
tra xem chứng khoán đó được mua bán trên thị trường nào (phi tập trung
hay tập trung). Sau đó người thư ký sẽ gửi lệnh này tời thị trường để thực
hiện.
Ngày nay, những CTCK có mạng lưới thông tin trực tiếp từ các trụ
sở chính và các phòng giao dịch. Vì vậy, các lệnh mua bán chứng khoán
không còn được chuyển đến phòng thực hiện lệnh nữa mà được chuyển
trực tiếp tới phòng giao dịch của SGDCK.
+ Bước 4: Xác nhận cho khách hàng
Sau khi lệnh đã được thực hiện sau, CTCK gửi cho khách hàng một
phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh.
Thông thường, các Công ty môi giới chứng khoán gửi xác nhận
trong ngày làm việc hôm sau so với ngày mua bán chứng khoán. Xác nhận
này cũng giống như một hoá đơn hẹn ngày thanh toán với khách hàng.
+ Bước 5: thanh toán bù trừ giao dịch
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 18 - Trêng §HKTQDHN
Hoạt động thanh toán bù trừ giao dịch bao gồm việc đối chiếu giao
dịch và bù trừ các kết quả giao dịch.
Hiện nay các nước áp dụng đối chiếu cố định (look in): SGDCK sẽ
tiến hành bù trừ giao dịch trên cơ sở nội dung lệnh của các CTCK chuyển
vào hệ thống, những sai sót của CTCK tự sửa chữa. Phương pháp này sẽ
giảm thiểu rất nhiều các hoạt động đối chiếu điều chỉnh giao dịch.
Việc bù trừ các kết quả giao dịch sẽ kết thúc bằng việc in ra các
chứng từ thanh toán. Các chứng từ này sẽ được gửi cho các CTCK và là cơ
sở để thực hiện thanh toán và giao dịch chứng khoán.
+Bước 6: Thanh toán và giao hàng
Ngày nay với hệ thống thanh toán hiện đại, hầu như tất cả đều được
thực hiện thông qua hệ thống chuyển khoản.
Đến ngày thanh toán, người mua sẽ nhận được một giấy chứng nhận
quyền sở hữu về số chứng khoán do Công ty bảo quản chứng khoán xác
nhận, số chứng khoán này nằm trong tài khoản lưu trữ chứng khoán mà
CTCK đã mở tại Công ty Bảo quản.
Đối với người bán chứng khoán sẽ nhận được một giấy báo cáo trên
tài khoản của mình ở CTCK hoặc thông qua Ngân hàng đại diện của khách
hàng.
Phí môi giới
Hoạt động với tư cách là nhà đại lý, nên CTCK được hưởng hoa
hồng môi giới. Tiền hoa hồng thường được tính phần trăm trên tổng giá trị
một giao dịch. Số tiền mua bán càng nhỏ thì số phần trăm hoa hồng càng
lớn. TTCK Tokyo là một trong những số ít TTCK phát triển hiện còn giữ
nguyên tắc hoa hồng cố định cho các môi giới chứng khoán. Theo đó mức
hoa hồng cao thấp tuỳ thuộc vào giá trị hợp đồng (nhưng mức cao nhất là
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 19 - Trêng §HKTQDHN
1,15%). Có một số nước hiện nay vẫn duy trì tỷ lệ hoa hồng cố định như ở
Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan.
Thông thường, các CTCK đều có một chế độ hoa hồng của mình và
thỉnh thoảng lại điều chỉnh cho thích hợp. Các Công ty nhỏ thường phải
chờ xem những hãng lớn như Merril Luynch (Mỹ), Nomura (Nhật)… cho
biết tỷ suất hoa hồng của họ rồi mới công bố tỷ suất của mình.
Thuế giao dịch chứng khoán
Cũng như tất cả các loại hình kinh doanh khá, các CTCK phải nộp
các loại thuế đối với hoạt động kinh doanh của mình. Doanh thu chịu thuế
sẽ phụ thuộc vào từng hoạt động mà Công ty thực hiện. Đối với hoạt động
môi giới hay Bảo lãnh, thuế sẽ được đánh trên cơ sở tổng mức hoa hồng
hay triết khấu mà Công ty thực hiện. Đối với hoạt động tự doanh, thuế
được đánh trên mức lãi vốn, tức là chênh lệch giữa giá mua và giá bán
chứng khoán. Ngoài ra, các CTCK còn phải chịu thuế lợi tức trong trường
hợp Công ty kinh doanh có lãi.
Tuy nhiên, để khuyến khích mọi người tham gia mua Trái phiếu
Chính phủ, các nước thường có quy định không đánh thuế lãi vốn hay thuế
đối với các khoản lãi nhận được từ việc đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ.
1.2.1.2. Hoạt động Tự doanh.
Bản chất hoạt động tự doanh
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng
khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện
thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số
thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá hoạt động tự doanh của CTCK
được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK
đóng vai trò nhà tạo lập thị trường nắm giữ một số chứng khoán nhất định
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 20 - Trêng §HKTQDHN
của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các
khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính
Công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp
vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao
dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục cho chính mình, vì vậy trong quá
trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch
cho khách hàng và cho bản thân Công ty. Do đó, luật pháp của các nước
đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự
doanh, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực
hiện của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định hai loại
hình CTCK là Công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới
chứng khoán và CTCK có chức năng tự doanh.
Khác với nghiệp vụ mô giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện
lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh bằng
chính nguồn vốn của Công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất
lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và
đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò
các nhà tạo lập thị trường.
Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh
+ Giao dịch gián tiếp: Tức là CTCK đặt các lệnh mua và bán của
mình trên sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với khách hàng nào
không xác định trứơc.
+ Giao dịch trực tiếp: Tức là giao dịch tay đôi giữa 2 CTCK hay
giữa CTCK với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng giao
dịch loại này thường là các loại trái phiếu, các cổ phiếu đăng ký giao dịch
trên thị trường OTC.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 21 - Trêng §HKTQDHN
Yêu cầu đối với CTCK
+ Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ
tự doanh và nghiệp vụ moi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong
hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người, quy
trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và Công ty.
+ Ưu tiên khách hàng: CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưutiên
khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh
giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của Công ty.
Nguyên tắc này đảm bạơ công bằng cho khách hàng trong quá trình giao
dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ
động trên thị trường nên các CTCK có thể dự đoán trước được diễn biến
của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có
nguyên tắc trên.
+ Góp phần bình ổn thị trường: Các CTCK hoạt động tự doanh
nhằm góp phầnlàm bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt
động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các CTCK phải
dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt
động bình ổn thị trường. Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá
chứng khoán bị giảm và bán ra khi chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng
khoán ổn định.
+ Hoạt động tạo thị trường: Khi được phát hành, các chứng khoán
mới chưa có thị trường giao dịch. Để tại thị trường cho các chứng khoán
mới này các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng
khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK
phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua và bán chứng
khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những
báo giá để mua hoăc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 22 - Trêng §HKTQDHN
khoán khác. Như vậy họ sẽ duy trì một thị trường liên tục với chứng khoán
mà họ kinh doanh.
1.2.1.3. Hoạt động Bảo lãnh phát hành.
Bản chất Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra chông
chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt
phát hành và thực hiện Bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng.
Đây là nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành của các CTCK và là nghiệp vụ
chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của CTCK.
Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng Bảo
lãnh(tổ chức Bảo lãnh) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước
khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp
bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên
TTCK, tổ chức Bảo lãnh phát hành không chỉ có các CTCK mà còn bao
gốm các định chế tài chính khác như Ngân hàng đầu tư, nhưng thông
thường việc CTCK nhận Bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân
phối chứng khoán, còn lại Ngân hàng đầu tư thường đứng ra Bảo lãnh phát
hành (hoặc thành lập tổ hợp Bảo lãnh phát hành) sau đó chuyên phân phối
chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác.
Các hình thức Bảo lãnh phát hành
+ Bảo lãnh chắc chắn: Là hình thức Bảo lãnh mà Công ty Bảo lãnh
phát hành nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của Công
ty phát hành, sau đó sẽ bán ra công chúng. Giá mua của Công ty Bảo lãnh
là một giá được ấn điịnh. Thường là thấp hơn giá thị trường, giá bán của
Công ty Bảo lãnh là giá thị trường. Hoặc toàn bộ chứng khoán với một giá
nhất định cho đến lúc không còn ai mua thì Công ty sẽ nhận mua toàn bộ
số chứng khoán còn lại. Đây là hình thức Công ty Bảo lãnh hoạt động kinh
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 23 - Trêng §HKTQDHN
doanh, hoạt hoạt động cho chính họ và sẵn sàng chịu mọi rủi ro. Phương
thức này thông dụng khi việc mua bán chứng khoán trở nên phổ biến và
các CTCK có thể dự đoán được một cách khá chính xác kết quả của nghiệp
vụ nhận bán chứng khoán.
+ Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức Bảo lãnh mà Công ty Bảo
lãnh phát hành hứa sẽ cố gắng đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán
cần phát hành cho Công ty phát hành. Trường hợp không bán hế, số chứng
khoán còn lại được trả về cho Công ty phát hành. Người Bảo lãnh được
hưởng hoa hồng trên số chứng khoán đã được bán ra.
Đây là phương thức nhận bán ít mạo hiểm hơn so với phương thức
trên thường được các CTCK mới thành lập, không muốn phiêu lưu nhiều,
nên chỉ đơn giản muốn thu lợi nhuận từ hoa hồng được hưởng do bán hộ.
+ Bảo lãnh đảm bảo tất cả hoặc không: Đây là trường hợp áp dụng
kho Công ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết
một mục tiêu nhất định. Nếu huy động được đủ số vốn cần thiết đó thì sẽ
thực hiện phát hành, nếu không huy động đủ thì sẽ huỷ bỏ. Cũng có thể, để
cho việc chào bán có hiệu quả, nhẹ nhàng hơn trong trách nhiệm của người
Bảo lãnh, Công ty phát hành yêu cầu phải phát hành được một số lượng
chứng khoán tối thiểu nào đó trong tổng số chứng khoán cần phát hành,
nếu đạt đươc số tối thiểu này thì số còn lại sẽ phát hành tiếp, nếu không đạt
được số tối thiểu đó thì sẽ huỷ bỏ toàn bộ.
Quy trình Bảo lãnh
+ Lập nghiệp đoàn Bảo lãnh
Lập nghiệp đoàn: Nếu Công ty phát hành là một Công ty nhỏ, giá trị
chứng khoán phát hành không lớn, thì có thể chỉ cần một CTCK đứng ra
Bảo lãnh phát hành. Nhưng nếu đó là một Công ty lớn, số chứng khoán
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 24 - Trêng §HKTQDHN
phát hành vượt quá khả năng Bảo lãnh của một CTCK thì một nghiệp đoàn
bao gồm một số CTCK và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập.
Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức Bảo lãnh
chắc chắn. Trong nghiệp đoàn, sẽ có một Công ty Bảo lãnh chính hay còn
gọi là người quản lý, thường là người khởi đầu cuộc giao dịch này, đứng ra
ký kết và giải quyết các thủ tục giấy tờ với Công ty phát hành. Nó cũng
quyết định CTCK nào sẽ được mời tham gia nghiệp đoàn cũng như sẽ chi
trả phí Bảo lãnh cho các Công ty khác trong nghiệp đoàn.
Nhóm bán: Trong những trường hợp cần thiết, nghiệp đoàn Bảo lãnh
có thể tổ chức thêm một “nhóm bán” để giải quyết việc bán chứng khoán
nhanh hơn. Nhóm bán gồm những CTCK không nằm trong nghiệp đoàn
Bảo lãnh, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không chịu trách nhiệm về
những chứng khoán không bán được. Vì thế, thường thù lao cho họ ít hơn
so với CTCK là thành viên của nghiệp đoàn.
+ Phân tích, đánh giá chứng khoán
Định giá chứng khoán cho một đơth phát hành mới là một nghệ
thuật, một khoa học. Giá của cổ phiếu cũng như lãi suất của trái phiếu
không được định trước ngày chứng khoán được phép bán ra cho công
chúng. Giá thị trường của chứng khoán rất bất thường, có thể hấp dẫn vào
buổi sáng nhưng có thể không hấp dẫn vào buổi chiều nữa.
Đối với trái phiếu, việc định giá có đơn giản hơn, vì trên thị trường
đã có sẵn lãi suất chuẩn và giá yết của những người mua, bán chứng khoán
cho những loại trái phiếu tương tự.
Định giá cho một cổ phiếu, việc định giá rất phức tạp. Ở đây người
quản lý vấp phải một vấn đề nan giải: Một mặt, người phát hành cổ phiếu
muốn nhận càng nhiều tiền càng tốt từ đợt bán này mặt khác, người quản lý
muốn định giá sao cho có thể bán được và bán càng nhiều càng tốt. Nếu giá
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 25 - Trêng §HKTQDHN
cao quá công chúng sẽ không muốn mua nữa, nếu thấp quá thì chứng
khoán sẽ mau chóng chuyển nên giá cao hơn ở thị trường thứ cấp và người
phát hành sẽ bị thiệt.
Thông thường, việc định giá một cổ phiếu tuỳ thuộc vào việc định
lượng nhiều yếu tố: Lợi nhuận của Công ty, dự kiến lợi tức cổ phần, số
lượng cổ phiếu chào bán, tỷ lệ giá cả-lợi tức so với những Công ty tương tự
và tình hình thị trường lúc chào bán.
+ Ký hợp đồng Bảo lãnh
Sau khi nghiệp đoàn được thành lập xong, đồng thời tiến hành một
số công việc như phân tích định giá chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân
phối chứng khoán…, nghiệp đoàn Bảo lãnh sẽ ký một hợp đồng với Công
ty phát hành, trong đó xác định: Phương thức Bảo lãnh, phương thức thanh
toán và khối lượng Bảo lãnh phát hành.
+ Đăng ký phát hành chứng khoán (Nộp đơn xin Bảo lãnh và Bản
cáo bạch).
Sau khi ký hợp đồng Bảo lãnh, nghiệp đoàn phải trình lên cơ quan
quản lý đơn xin đăng ký phát hành cùng một Bản cáo bạch thị trường, có
đầy đủ chữ ký của đơn vị phát hành, Công ty Bảo lãnh, Công ty luật. Bản
cáo bạch là thông báo của tổ chức phát hành trình bày tình hình tài chính,
hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng số tiền thu được từ việc phát
hành giúp công chúng đánh giá và đưa ra quyết định mua chứng khoán.
Thường thì cơ quan quản lý xem xét tính trung thực và hợp lệ của
Bản cáo bạch để chấp thuận cho phép phát hành hay từ chối trong thời hạn
30 ngày.
Trong thời gian này, có thể Công ty Bảo lãnh cùng Công ty Phát
hành sẽ phải cung cấp thêm tài liệu để giải trình các chi tiết chưa đủ, chưa
rõ trong Bản cáo bạch.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 26 - Trêng §HKTQDHN
+ Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng ký
Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát Bản cáo bạch
và phiếu đăng ký mua chứng khoán và đợi khi đăng ký phát hành chứng
khoán có hiệu lực, CTCK (Hoặc nghiệp đoàn Bảo lãnh) sẽ tiến hành phân
phối chứng khoán.
Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể phân phối chứng
khoán ra công chúng bằng các hình thức: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư
tập thể, như các quỹ đầu tư, quỹ Bảo hiểm, quỹ hưu trí…, bán trực tiếp cho
các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát
hành, bán ra công chúng.
+ Thanh toán
Đến đúng ngày theo hợp đồng, Công ty Bảo lãnh phát hành phải
giao tiền cho Công ty phát hành. Số tiền phải giao là giá trị chứng khoán
phát hành trừ đi thù lao cho Công ty Bảo lãnh.
Thù lao cho Công ty Bảo lãnh có thể là một khoản phí đối với hình
thức Bảo lãnh chắc chắn hoặc hoa hồng đối với các hình thức Bảo lãnh
khác. Mức phí Bảo lãnh cao hay thấp tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát
hành cùng điều kiện thị trường lúc phát hành, do hai bên thoả thuận nói
chung, nếu đó là đợt phát hành lần đầu thì mức phí và hoa hồng phải cao
hơn lần phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu, phí và hoa hồng Bảo lãnh
còn tuỳ thuộc vào lãi suất trái phiếu (Nếu lãi suất cao thì dễ bán, chi phí sẽ
thấp và ngược lại).
Hoa hồng: là một tỷ lệ cố định (%) đối với một loại chứng khoán
nhất định. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng cho các thành viên trong
nghiệp đoàn là do các thành viên thương lượng với nhau.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 27 - Trêng §HKTQDHN
Phí Bảo lãnh: Là mức chênh lệch giữa giá chứng khoán trên thị
trường cho người đầu tư (người đầu tư phải trả) và số tiền Công ty phát
hành nhận được.
1.2.1.4. Hoạt động Quản lý danh mục đầu tư.
Bản chất hoạt động quản lý danh mục đầu tư
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào
chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng
trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh
mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm
theo đầu tư khách hàng uỷ thác tiền cho CTCK thay mặt mình quyết định
đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp
thuận hoặc theo yêu cầu .
Nghiệp vụ này bao gồm các bước sau
+ Bước 1, xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: CTCK và khách hàng
tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn tư đó đưa ra các
yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác. Đồng thời, Công ty phải chứng minh cho
khách hàng thấy được khả năng của mình, đặc biệt là khả năng chuyên
môn và khả năng kiểm soát nội bộ, đây là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất
của Công ty khi tham gia nghiệp vụ này. khả năng chuyên môn của Công
ty chính là khả năng đầu tư vốn đem lại lợi nhuận cho khách hàng còn khả
năng kiểm soát nội bộ là việc Công ty có thể đảm bảo an toàn tài sản cho
khách hàng, chống lại những thất thoát do vô ý hay cố tình của nhân viên
Công ty.
+ Bước 2, Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đồng quản lý giữa
khách hàng và Công ty theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ
thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên phí quản lý danh
mục đầu tư.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 28 - Trêng §HKTQDHN
+ Bước 3,Thực hiện các hợp đồng quản lý: CTCK thực hiện đầu tư
vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải bảo
đảm tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách
hàng và chính Công ty.
+ Bước 4, Kết thúc hợp đồng quản lý: Khách hàng có nghĩa vụ
thanh toán các khoản chi phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các
trường hợp khi CTCK bị nhưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản. Khi đến
hạn kết thúc hợp đồng hay trong một số trường hợp Công ty giải thể, phá
sản, ngừng hoạt động…Công ty phải cùng với khách hàng bàn bạc và
quyết định xem có tiếp tục gia hạn hay thanh lý hợp đồng. Trong trường
hợp CTCK phá sản, tài sản uỷ thác của khách hàng phải được tách riêng và
không được dùng để trả các nghĩa vụ nợ của CTCK.
Thực hiện nghiệp vụ này cho khách hàng, CTCK vừa bảo quản hộ
chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán. Thông thường CTCK nhận được
phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm trên số lợi nhuận thu về cho khách
hàng.
1.2.1.5. Hoạt động Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Bản chất hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Cũng như những loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư là việc CTCK
thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình
huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến
phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Phân loại hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính có thể do bất kỳ CTCK hay
cá nhân nào tham gia hoạt động. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân
loại theo các tiêu chí sau:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 29 - Trêng §HKTQDHN
+ Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn trực tiếp
(Gặp trực tiếp khách hàng hoặc qua thư từ điện thoại) và tư vấn gián tếp
(thông qua ấn phẩm sách báo) để tư vấn cho khách hàng.
+ Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: Bao gồm tư vấn gợi ý và TVUQ
+ Theo đối tượng của hoạt động tư vấn bao gồm:
Tư vấn cho người phát hành hay còn gọi là tư vấn tài chính Công ty.
CTCK có thể sử dụng các kỹ năng của mình để tư vấn cho các Công ty về
việc sát nhập, thâu tóm, cơ cấu vốn của Công ty để đạt mức độ hoạt động
tối ưu và các vấn đề liên quan để thu phí tư vấn. Khi nghiệp vụ này đi kèm
với nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành (Cách thức, hình thức phát hành, xây
dựng hồ sơ, Bản cáo bạch) càng có hiệu quả cao
Tư vấn đầu tư, đó là việc CTCK xác định các đặc tính và điều kiện
chứng khoán, đánh giá TTCK, phân tích tình hình tài chính Công ty phát
hành để cho việc mua bán chứng khoán được thành công. CTCK đưa ra
những lời khuyến nghị, thường phải phù hợp với tình hình tài chính và mục
tiêu của nhà đầu tư. Nghiệp vụ này, muốn đưa lại hiệu quả cao cho nhà đầu
tư để từ đó CTCK cũng thu được tiền hoa hồng thoả đáng đòi hỏi CTCK có
đội ngũ nhân viên nhiều kiến thức và kỹ năng chuyên môn cao.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là
vốn chất xám họ bỏ ra để kinh doanh đem lại lợi nhuận cho khách hàng.
Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyến
cáo đối với khách hàng, vì với lời khuyến đó khách hàng có thể thu về lợi
nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho
mình khoản phí về dịch vụ tư vấn (Bất kể dịch vụ đó thành công hay
không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 30 - Trêng §HKTQDHN
+ Không bảo đảm chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng
khoán không phải là một số cố đinh nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh
tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường.
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa
trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ,.
Có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối
cùng trong việc sử dụng thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ
không chịu trách nhiệm thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
+ Không đựơc dụ dỗ, mời chào khách hàng mau hay bán một loại
chứng khoán nào đó những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở
khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các
vấn đề nghiên cứu
1.2.2. CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤ TRỢ
1.2.2.1. Hoạt động Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua
các tài khoản lưu ký chứng khoán đây là quy định bắt buộc trong giao dịch
chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình
thức giao dịch ghi số, khách hàng phải mở tài khoản lưu ky chứng khoán
tại các CTCKhoặc ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký
chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu
ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
1.2.2.2. Hoạt động Quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ
theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ
thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách
hàng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 31 - Trêng §HKTQDHN
1.2.2.3. Hoạt động Tín dụng
Đối với các TTCK phát triển bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ
cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc
cho khách hàng vay tiền để họ thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ.
Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng
của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật
thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một lần, số còn lại
sẽ do CTCK ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận khách hàng
phải trả hoàn đủ cả gốc và lãi cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả
được nợ thì Công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
1.2.2.4. Hoạt động Quản lý quỹ
Ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép CTCK được thực
hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của mình
để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư chứng
khoán. CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA CTCK
1.3.1. NHÂN TỐ CHỦ QUAN
1.3.1.1. Yếu tố tổ chức quản lý
Ta đã biết hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp khác hẳn
với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì CTCK là
một định chế tài chính đặc biệt. Vì vây, ứng với các TTCK khác nhau, các
CTCK khác nhau sẽ có hệ thống tổ chức quản lý khác nhau. Sở dĩ như vậy,
vì việc tổ chức quản lý của một CTCK sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả
hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng của Công ty. Nếu
tổ chức quản lý không khoa học sẽ làm cho việc thực hiện các nghiệp vụ
không đồng bộ, ăn khớp dẫn đến sai sót và kết quả là ảnh hưởng đến toàn
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 32 - Trêng §HKTQDHN
bộ hoạt động khác của Công ty. Do các nghiệp vụ của CTCK có đặc thù là
độc lập với nhau nhưng vẫn có những ảnh hưởng nhất định với nhau, vì
vậy tổ chức quản lý của CTCK phải đáp ứng được yêu cầu này. Các phòng
ban phải tổ chức hợp lý sao cho vừa đảm bảo nghiệp vụ được thực hiện
nhanh chóng, chính xác, vừa bảo mật thông tin. Có như vậy thì CTCK mới
có thể tiến hành hoạt động kinh doanh một cách an toàn và ổn đinh.
1.3.1.2. Yếu tố con người
Yếu tố con người ở đây chủ yếu là nói đến đội ngũ nhân viên của
CTCK. Chứng khoán là một lĩnh vực đòi hỏi người nhân viên phải có
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có khả năng phân tích đánh giá cũng
như khả năng nhạy bén đối với các thông tin của thị trường. Vì vậy có thể
nói nhân viên của CTCK phải là những chuyên gia trong lĩnh vực mình
phụ trách. Nếu họ nhận đinh sai một thông tin nào đó sẽ dẫn đến việc các
nhà đầu tư mất lòng tin vào Công ty. Trong trường hợp sai sót đó còn nhỏ
thì khách hàng sẽ từ bỏ Công ty này sang Công ty khác, nhưng nếu sai sót
lớn thì không những hình ảnh của Công ty bị ảnh hưởng mà nó còn tác
động đến thị trường, bởi khách hàng sẽ gây ra phản ứng dây truyền nhanh
chóng và khó có thể dự đoán điều gì xảy ra.
Ngoài ra cũng không thể phủ nhận ảnh hưởng của các nhà quản lý
các CTCK trong yếu tố về con người, họ là người quyết định các chính
sách, chiến lược của Công ty, ngoài việc phải am hiểu tổng thể các nghiệp
vụ, họ còn cần có khả năng tổ chức lãnh đạo. Vì vậy đối với CTCK, yêu
cầu đối với một người quản lý là rất cao.
1.3.1.3. Yếu tố tài chính
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vấn đề tài chính cũng là vấn
đề rất quan trọng. Tình hình tài chính của Công ty tốt tức là Công ty làm ăn
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 33 - Trêng §HKTQDHN
hiệu quả, có lãi. Nó sẽ quyết định định hướng cũng như quy mô hoạt động
kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo của Công ty.
Nếu tài chính không tốt, không những hoạt động kinh doanh của
Công ty không thể mở rộng được mà còn làm giảm sút uy tín và lòng tin
của khách hàng đối với Công ty. Mà đối với CTCK ảnh hưởng của Công
ty đối với khách hàng là rất quan trọng. Vì trong chức năng hoạt động kinh
doanh của Công ty thực chất là phải cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các yêu
cầu về chứng khoán của khách hàng, nếu không có đủ năng lực tài chính để
đưa ra các tiện ích phục vụ khách hàng thì sẽ không còn ai muốn hợp tác
với Công ty nữa.
Riêng đối với Việt Nam thì yếu tố tài chính còn đặc biệt quan trọng
bởi số vốn điều lệ của Công ty quyết định cả các nghiệp vụ mà Công ty
được phép hoạt động. Hơn nữa, do khách hàng mở tài khoản tại CTCK nên
Công ty không những phải coi trọng tài chính của mình mà còn phải quan
tâm tới các tài khoản của khách hàng. Công ty phải mở và quản lý tài sản
của khách hàng tách biệt với nhau.
1.3.1.4. Yếu tố công nghệ
Cuộc sống ngày càng phát triển nên công nghệ đối với tất cả các
ngành nghề đều rất quan trọng. Nhưng đối với ngành chứng khoán thì thời
gian gắn liền với tiền bạc nếu thông tin không nhanh chóng, chính xác thì
sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Do CTCK là trung gian nên họ là cầu
nối giữa các chủ thể của thị trường, vì vậy thông tin họ cập nhật được cũng
như phải công bố lại cho nhiều đối tượng, nhiều địa điểm. Vậy nếu không
có công nghệ hiện đại, thông tin không truyền đến được với các nhà đầu tư,
hay TTGD không thể chuyển thông tin cho các CTCK thì khách hàng bị
thua lỗ, CTCK cũng thua lỗ và thị trường khó có thể hoạt động lành mạnh
được. Ngay trong nội bộ một Công ty, việc trang bị công nghệ để thông tin
giữa các phòng ban, nhân viên cũng là một yếu tố tác động không nhỏ tới
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 34 - Trêng §HKTQDHN
hiệu quả hoạt động của Công ty. Ở những nước có TTCK phát triển, công
nghệ của họ vô cùng hiện đại vì vậy họ có thể mở rộng thị trường, rút ngắn
mọi khoảng cách giữa các quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới phát
triển hơn. Còn đối với một TTCK mới đi vào hoạt động chưa lâu như ở
nước ta thì vấn đề công nghệ có ảnh hưởng rất lớn và là yếu tố cần thiết
hiện nay cho các CTCK để có thể phát triển các nghiệp vụ của mình.
1.3.1.5. Kiểm soát nội bộ
Nguyên tắc bảo mật thông tin của các CTCK là một nguyên tắc sẽ
quyết định yếu tố thắng lợi trong cạnh tranh của Công ty. Vì vậy công tác
kiểm soát nội bộ là rất cần thiết. Tất nhiên không phải chỉ có thông tin mới
cần kiểm soát, ngay từ các quy trình nghiệp vụ, các thủ tục tiến hành
nghiệp vụ của CTCK đều phải được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo không
vi phạm pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động của Công ty. Để lộ
thông tin hay vi phạm pháp luật đều dẫn đến kết quả là Công ty sẽ thất bại
trọng hoạt động kinh doanh.
1.3.2. NHÂN TỐ KHÁCH QUAN
1.3.2.1. Sự phát triển của nền kinh tế
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính của một quốc gia hay
nói rộng ra nó là một bộ phận của nền kinh tế. Vì vậy sự phát triển của nền
kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của TTCK. Và
dĩ nhiên CTCK cũng chịu sự tác động rất nhiều của nền kinh tế. Nếu kinh
tế phát triển các doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều lợi nhuận, họ mong
muốn được mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó họ cần vốn và phương
pháp hữu hiệu để có nguồn vốn trung và dài hạn là huy động trên TTCK.
Khi đó họ đã trở thành những nhà phát hành. Nếu là cá nhân bạn có thể
dùng thu nhập nhiều hơn do kinh tế phát triển để đầu tư chứng khoán thu
lợi nhuận. Tất cả những hoạt động đó CTCK đều có thể đứng ra thực hiện
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 35 - Trêng §HKTQDHN
cho họ vì đó là chức năng của CTCK. CTCK phát triển sẽ thúc đẩy TTCK
phát triển và TTCK lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là ảnh hưởng
tích cực. Ngược lại, nếu kinh tế không phát triển mọi điều trên không xảy
ra, không có nhà đầu tư thì không có thị trường và cũng không có CTCK.
1.3.2.2. Yếu tố pháp lý
Đây là yếu tố không thể thiếu đối với TTCK nói chung và với CTCK
nói riêng. Như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, CTCK cần phải
tuân thủ pháp luật của mỗi quốc gia mà trong đó nó được thành lập. Có thể
coi yếu tố pháp lý ở đây là những luật định của các cơ quan quản lý và
giám sát TTCK của mỗi quốc gia. Họ có quyền cao nhất trong việc ra các
quyết định đối vơi thị trường và vì vậy những quyết định đó có ảnh hưởng
trực tiếp tới thị trường. Nếu họ thay đổi một số quy định, giả sử về thủ tục
phát hành,về phiên giao dịch, về hình thức khớp lệnh hay về thuế một cách
tiêu cực hay tích cực đều có những tác động tương ứng ngay tới các
CTCK. CTCK sẽ hoạt động thuận tiện hơn, có hiệu quả hơn hay sẽ bị bó
buộc, làm ăn thua lỗ một phần phụ thuộc vào yếu tỗ pháp lý do các cơ quan
quản lý và giám sát thị trường ban hành.
1.3.2.3. Sự phát triển của TTCK.
CTCK không thể tồn tại và tách rời khỏi TTCK. Sự phát triển của
TTCK ở đây là sự phát triển cả cung và cầu chứng khoán, các thành viên
tham gia thị trường cùng sự phát triển của các trung gian tài chính và các
hoạt động khác. Một thị trường không có hàng hoá thì không tồn tại vì
không có gì để mua và bán. Nếu TTCK không phát triển thì CTCK cũng
không phát triển được vì CTCK là một chủ thể chính tham gia trên TTCK.
TTCK phát triển cùng với hệ thống công bố thông tin, hệ thống đăng ký, hệ
thống công bố công khai của nó đã cung cấp cho các nhà đầu tư các thông
tin đầy đủ và chính xác liên quan đến chứng khoán, tăng độ tin cậy cho thị
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 36 - Trêng §HKTQDHN
trường và giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng và rủi ro đạo đức. Từ
đó, nhà đầu tư có niềm tin tham gia đầu tư, mà CTCK là cầu nối cho họ.
1.3.2.4. Tâm lý nhà đầu tư
Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của
CTCK. Một CTCK không thể hoạt động tốt nếu các nhà đầu tư có tâm lý
không tốt về TTCK nói chung và CTCK nói riêng. Từ đó các CTCK luôn
phải tìm cách tạo những hình ảnh tốt trong các nhà đầu tư để từ đó họ tin
tưởng vào sự phát triển của TTCK và hoạt động của CTCK giúp cho hoạt
động của CTCK trở lên thuận lợi và có hiệu quả hơn.
Trên đây là những vấn đề chung về hoạt động của CTCK, sau đây
chúng ta sẽ đi tìm hiểu về thực trạng hoạt động của CTCK Bảo Việt.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 37 - Trêng §HKTQDHN
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CTCP CHỨNG KHOÁN BẢO VIỆT
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CTCK BẢO VIỆT
2.1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CTCK BẢO
VIỆT
2.1.1.1. Lịch sử hình thành Bảo Việt
Quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam đòi hỏi một khối lượng vốn lớn
nhất là nguồn vốn dài hạn, mà trong điều kiện hiện nay thị trường mới chỉ
đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Xuất phát từ
đòi hỏi đó. TTCK với tư cách là kênh huy động vốn quan trọng cho quá
trình CNH-HĐH đã trở thành một nhu cầu cấp thiết, khách quan trong tình
hình hiện nay, một nhân tố quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước.
Tuy nhiên, TTCK muốn thiết lập được thì cần phải tạo hàng hoá và
đồng thời phải có những trung gian nhằm tạo thị trường, mua bán, giao
dịch các loại hàng hoá đó. Trong các trung gian tài chính không thể không
nhắc đến vai trò quan trọng không thể thiếu của các CTCK. Như vậy, sự ra
đời của TTCK cũng đồng nghĩa với việc thành lập các CTCK.
Để chuẩn bị cho sự ra đời của các CTCK, sau khi thành lập
UBCKNN, Chính phủ đã ra nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về
chứng khoán và TTCK, trong đó có những quy định vê CTCK. Trong nghị
định có quy định: một CTCK muốn được cấp giấy phép hoạt động kinh
doanh chứng khoán phải là CTCP hoặc Công ty TNHH đáp ứng các điều
kiện sau:
- Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội và phát triển ngành chứng khoán.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 38 - Trêng §HKTQDHN
- Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh
chứng khoán.
- Có mức vốn pháp định đáp ứng được quy định của từng loại hình
kinh doanh như sau:
+ Môi giới chứng khoán : 3 tỷ đồng
+ Tự doanh chứng khoán : 12 tỷ đồng
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán : 22 tỷ đồng
+ Tư vấn đầu tư chứng khoán : 3 tỷ đồng
+ Quản lý danh mục đầu tư : 3 tỷ đồng
Như vậy, nếu CTCK muốn thực hiện cả 5 nghiệp vụ thì phải có khả
năng tài chính tối thiểu là 43 tỷ đồng (vốn pháp định).
Các CTCK ở Việt nam được hình thành dưới dạng Công ty tài chính
độc lập hoặc Công ty con trực thuộc doanh nghiệp nhà nước, Ngân hàng
thương mại, các CTCP, Công ty TNHH có tư cách pháp nhân riêng, hạch
toán độc lập. Việc bắt buộc các CTCK là CTCP hoặc Công ty TNHH nhằm
bảo vệ lợi ích cho khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm, thao túng doanh
nghiệp nhằm phục vụ lợi ích riêng của một số người. Ngoài ra, CTCP hay
TNHH phải tuân thủ chế độ báo cáo thông tin chặt chẽ hơn, cũng như phải
đáp ứng yêu cầu quản lý cao hơn hoặc loại hinh doanh nghiệp khác. Như
vậy, có thể nói ở Việt nam hiện nay chưa tồn tại hình thức CTCK quốc
doanh. Sở dĩ như vậy là vì theo các quy định hiện hành của nước ta thì các
doanh nghiệp Nhà nước muốn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng
khoán cũng phải thành lập Công ty con kinh doanh độc lập dưới dạng
CTCP hoặc Công ty TNHH.
CTCP chứng khoán Bảo Việt (BVSC) là CTCK đầu tiên được thành
lập tại Việt Nam, cổ đông sáng lập là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 39 - Trêng §HKTQDHN
(BẢO VIỆT) và chính thức được phép tham gia hoạt động kể từ ngày
26/11/1999 theo giấy phép hoạt động số 01/GPHĐKD do UBCKNN cấp.
Trong giai đoạn đầu của TTCK Việt Nam, số lượng các CTCK chưa
nhiều và cũng chưa có sự xuất hiện của các CTCK nước ngoài. Tính đến
nay, Việt Nam có 13 CTCK được cấp giấy phép hoạt động. Trong đó
BVSC là CTCK đầu tiên được thành lập.
2.1.1.2. Tên gọi và hình thức Công ty
Tên gọi
- Tên Tiếng Việt: CTCP Chứng khoán Bảo Việt.
Gọi tắt là : CTCK Bảo Việt.
- Tên tiếng Anh : Bao Viet Join stock securities Company.
Gọi tắt là : Bao Viet Securities.
- Tên viết tắt : BVSC
Hình thức Công ty
- CTCK Bảo Việt là CTCP, tổ chức hoạt động theo luật doanh
nghiệp được Quốc hội nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá X thông qua ngày 12/6/1999, các văn bản hướng dẫn thi
hành, Pháp luật TTCK.
- BVSC được thành lập trên cơ sở tự nguyện tham gia góp vốn của
các chủ sở hữu.
- BVSC là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính.
2.1.1.3. Trụ sở và các chi nhánh trực thuộc:
Trụ sở chính: Tầng 2 và 5, Toà nhà 94–Bà Triệu, Q. Hoàn Kiếm,
Hà Nội.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 40 - Trêng §HKTQDHN
Chi nhánh: Số 1A–Nam Kỳ Khởi nghĩa, Quận I, TP. HCM
Mạng lưới các Đại lý giao dịch chứng khoán: Tại Hải Phòng, Đà
Nẵng, TP.Biên Hoà-Đồng Nai, Tx.Tân An–Long An, TX.Bỉm
Sơn–Thanh Hoá.
2.1.1.4. Tôn chỉ và nguyên tắc hoạt động
Uy tín là tài sản quan trọng nhất của Công ty
Đạo đức nghề nghiệp là phẩm chất quan trọng nhất của nhân viên
Thận trọng triển khai hoạt động từng bước theo định hướng phát
triển của Nhà nước; theo nhu cầu của thị trường.
Triển khai hoạt động đúng đắn, lành mạnh từ thời gian đầu hoạt
động.
Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển
2.1.1.5. Vốn kinh doanh
Tổng tài sản tính đến 31/12/2003: 86.071.920.188 đồng
Vốn chủ sở hữu: 43.657.364.986 đồng
Vốn điều lệ: 43.000.000.000 đồng
Cơ cấu cổ đông và tỷ lệ sỡ hữu:
Tổng Công ty Bảo Hiểm Việt Nam(Bảo Việt) góp 31,39 tỷ đồng
tiển mặt tương đương 73% Vốn điều lệ Công ty.
Các cổ đông thể nhân (bao gồm 1456 cổ đông) góp 11,61 tỷ đồng
tiền mặt tương đương 27% Vốn Điều lệ Công ty.
2.1.1.6. Mục tiêu hoạt động
Đáp ứng tốt nhất nhu cầu đầu tư vào chứng khoán của khách
hàng là các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 41 - Trêng §HKTQDHN
Đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các tổ chức. Bao gồm từ công
tác định giá các doanh nghiệp để thực hiện phát hành chứng
khoán huy động vốn, định giá trong việc chuyển đổi hình thức sở
hữu doanh nghiệp, lập hồ sơ theo đúng chuẩn mực đến việc tổ
chức phân phối chứng khoán phát hành qua việc đại lý và/ hoặc
Bảo lãnh phát hành. Đặc biệt chú trọng tham gia vào hoạt động
Tư vấn CPH doanh nghiệp Nhà nước bao gồm Tư vấn xây dựng
phương án CPH, xây dựng điều lệ tổ chức hoạt động, Định giá
doanh nghiệp; Tổ chức đấu giá chào bán cổ phần ra công chúng.
Đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong việc đại chúng hoá Công
ty thông qua việc niêm yết cổ phiếu trên Thị trường Chứng
khoán tập trung. Hỗ trợ doanh nghiệp đạt được mục tiêu niêm yết
chứng khoán và mục tiêu phát hành chứng khoán đại chúng để
tiến tới niêm yết trên TTCK.
Cung cấp các dịch vụ khác có liên quan nhằm hỗ trợ cho các
doanh nghiệp cổ phần; bao gồm tư vấn quản trị, tư vấn tài chính,
tư vấn hình thức cổ phiếu và quản lý sổ cổ đông, đại lý chuyển
nhượng và thực hiện các quyền liên quan đến cổ phiếu.
Tham gia quảng bá, giới thiệu về đầu tư và TTCK nhằm gia tăng
sự hiểu biết của công chúng.
2.1.1.7. Các hoạt động của Công ty
BVSC đã đăng ký và được phép thực hiện tất cả các loại hình hoạt
động kinh doanh trên chứng khoán theo qui định của pháp luật về chứng
khoán và TTCK. Công ty được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động cho
những loại hình nghiệp vụ sau:
Môi giới, Tự doanh, Quản lý danh mục đầu tư, Bảo lãnh phát hành,
Lưu ký chứng khoán, Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 42 - Trêng §HKTQDHN
2.1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC, NHÂN SỰ CỦA BVSC.
2.1.2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy của BVSC
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT
P.TỔNG HỢP
P.KTLK
ĐẠI DIỆN TẠI TTGDCK
CHI NHÁNH TẠI TP.HCM
P.KTTH P.GIAO DỊCH P.TƯ VẤN
BAN GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
P.TVTD
P.PH&QLDMĐT
P.GIAO DỊCH
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 43 - Trêng §HKTQDHN
2.1.2.2. Đội ngũ cán bộ
Tập hợp và xây dựng được một đội ngũ cán bộ mạnh là một nhân tố
quan trọng đảm bảo sự thành công và chất lượng của dịch vụ tư vấn; do
vậy, công tác nhân sự luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của HĐQT và
Ban giám đốc Công ty. Hơn nữa, với vị trí là CTCK hàng đầu tại Việt
Nam, BVSC đã thu hút được những cá nhân có trình độ, năng lực và kinh
nghiệm trong lĩnh vực Tài chính-Ngân hàng-Chứng khoán và đầu tư tham
gia các hoạt động của Công ty.
Bên cạnh đó, BVSC cũng đã tạo dựng và thường xuyên duy trì mối
quan hệ hợp tác chặt chẽ các cơ quan quản lý Nhà nước và với đội ngũ
cộng tác viên giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực cải cách Doanh nghiệp
nhà nước, Tài chính doanh nghiệp, kế toán, kiểm toán trong và ngoài nước.
Qua kinh nghiệm của 3 năm hoạt động, với việc tham gia vào nhiều
dự án tư vấn khác nhau, BVSC đã nhận thấy tầm quan trọng đồng thời đã
xây dựng được phương thức trao đổi thông tin, phương thức hợp tác hữu
hiệu trong nội bộ Công ty và giữa BVSC với khách hàng tư vấn nhằm đem
laị hiệu quả và lợi ích tối đa cho khách hàng.
2.1.3. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA CÔNG TY
2.1.3.1. Những điều kiện thuận lợi
BVSC là CTCK đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, cổ đông sáng
lập là Tổng Công ty Bảo Hiểm Việt Nam (BẢO VIỆT) và chính thức được
phép tham gia hoạt động từ ngày 26/11/1999; Công ty đã không trông chờ
vào sự xuất hiện của thị trường tập trung mà đã có những hoạt động rất tích
cực được nhiều khách hàng, nhà đầu tư biết đến.
Là CTCK hoạt động hiệu quả và có nhiều kinh nghiệm, nhất là trong
lĩnh vực tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu, tư vấn niêm yết và phát hành
chứng khoán. Là CTCK đầu tiên tham gia vào lĩnh vực hỗ trợ CPH.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 44 - Trêng §HKTQDHN
BVSC có khả năng cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn chuyên
nghiệp và trọn gói; bao gồm tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh
nghiệp, tư vấn tài chính doanh nghiệp, quản lý sổ cổ đông - tổ chức thực
hiện quyền và đại lý chuyển nhượng cổ phần, xác định giá trị doanh
nghiệp, tư vấn niêm yết cổ phiếu, tư vấn và định giá phát hành chứng
khoán huy động vốn, đại lý và Bảo lãnh phát hành chứng khoán - những
hình thức tư vấn trọn gói này chỉ có thể được thực hiện bởi BVSC vừa có
chức năng tư vấn, vưa có chức năng Bảo lãnh phát hành.
Là đơn vị kinh doanh chứng khoán có mối quan hệ rộng rãi với các
tổ chức đầu tư, mạng lưới giao dịch rộng khắp và đầu tư trang thiết bị đồng
bộ, hiện đại; đồng thời BVSC luôn có thể sẵn sàng tận dụng mạng lưới các
Công ty Bảo Việt có mặt tại tất cả 61 tỉnh thành, thành phố để triển khai
mạng lưới phân phối chứng khoán đến cá nhân nhà đầu tư trong cả nước.
BVSC có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có nhiều kinh nghiệm và
những cộng tác viên là những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực tài chính.
2.1.3.2. Những khó khăn của Công ty
TTCK đã trải qua gần 4 năm hoạt động cùng với những biến động
lên xuống. Cũng như Thị trường, CTCK Bảo Việt cũng phải đối mặt đối
với không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời kỳ đầu của thị trường
tuy thị trường hết sức sôi động nhưng quy mô còn quá bé, còn quá ít Công
ty quan tâm đến TTCK và công chúng thì hiểu biết không nhiều về chứng
khoán vì thế mà việc triển khai các đại lý cũng như các hoạt động tư vấn
của Công ty không đạt được hiệu quả cao như kế hoạch đề ra. Hơn nữa
khung pháp lý chưa hoàn thiện vì thế cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động
kinh doanh của Công ty. Sang nữa cuối năm 2001 đến gần cuối 2003
TTCK đi vào tình trạng gần như “đóng băng”. Tuy Công ty có nhiều hoạt
động tích cực song do giá chứng khoán giảm sút qua mạnh, vì thế nhiều
Công ty đang có xu hướng muốn tham gia niêm yết đã dừng ngay ý định;
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 45 - Trêng §HKTQDHN
và nhiều rất nhiều tài khoản của các nhà đầu tư gần như đóng băng không
có giao dịch trong thời gian dài. Vì thế mà doanh thu từ các hoạt động môi
giới cũng như tư vấn, lưu ký, Bảo lãnh phát hành giảm sút.
Kể từ cuối năm 2003 và sang đầu năm 2004 cho đến nay thị trường
đã bước sang giai đoạn đi vào hoạt động ổn định biểu hiện ở giá chứng
khoán có xu hướng đi lên và độ biến động giá ổn định song quy mô của thị
trường còn nhỏ, lượng hàng hoá còn chưa nhiều.
Về đối thủ cạnh tranh, hiện nay đã có 13 CTCK đi vào hoạt động,
các CTCK khác cũng đang gấp rút cho việc quảng bá thương hiệu của
mình và thu hút khách hàng. Các hoạt động của các Công ty cũng đã và
đang được hoàn thiện, nâng cao và ngày càng đa dạng cũng là một thách
thức của Công ty.
2.1.4. KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY
Bảng 2.1.4: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (2001-2003)
Đơn vị: 1000VND
Chỉ tiêu Năm2000 Năm2001 Năm2002 Năm2003
Doanh thu KDCK 3.657.179 7.627.510 6.648.708
Thu lãi đầu tư 33.450 117.891 732.174
Tổng doanh thu 3.690.629 7.745.401 7.380.882 6.705.405
Chi phí KDCK 223.069 1.480.396 1.256.959
Chi phí QLDN 2.428.548 4.070.858 5.778.432
Tổng chi phí 2.651.617 5.551.254 7.035.391 6.061.201
Tổng LN trước thuế 1.039.012 2.194.147 345.491 644.204
Thuế TNDN - 332.205 7.027 80.756
Lợi nhuận sau thuế 1.039.012 1.861.942 338.464 563.448
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 46 - Trêng §HKTQDHN
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CTCP CHỨNG KHOÁN
BẢO VIỆT
Được sự quan tâm của Chính Phủ, ngay từ những tháng đầu năm
2003 chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 đã được thông
qua, mở ra định hướng rõ ràng cho việc phát triển TTCK.
UBCKNN đã có nhiều nỗ lực vực dậy TTCK sau một thời gian trầm
lắng kéo dài suốt từ năm 2002 bằng việc áp dụng một loạt các giải pháp kỹ
thuật mới và tổ chức “Tuần lễ Chứng khoán” nhằm hâm nóng thị trường,
quảng bá và tập trung thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng đầu tư
đến với TTCK. Tuy nhiên, những cố gắng này hầu như chưa đủ lực để vực
dậy thị trường.
Trong năm 2003, môi trường pháp lý đã được cải thiện khá nhiều với
việc sửa đổi bổ sung và ban hành một số quy định pháp lý quan trọng.
Quyết định số 146/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nâng tỷ lệ nắm
giữ của Người đầu tư nước ngoài từ 20% lên 30%, Người đầu tư nước
ngoài được mở tài khoản trực tiếp tại các CTCK; Nghị định số
144/2003/NĐ-CP của Chính phủ thay thé cho Nghị định số 48/1998/NĐ-
CP trước đây nhằm hoàn thiện khung pháp lý đảm bảo hành lang pháp lý
được đầy đủ, cụ thể hơn, tạo ra môi trường thông thoáng hơn cho các chủ
thể tham gia vào thị trường, cùng với những thay đổi này, việc ra đời của
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt nam(VASP) và các Công ty quản lý
quỹ... những điều đó đã tạo thêm niềm tin và tập trung hơn sự quan tâm
của đông đảo công chúng đầu tư tham gia vào TTCK, đặc biệt là các Nhà
đầu tư nước ngoài.
Năm 2003 là năm đầu tiên chúng ta bắt đầu bước vào tiến trình hội
nhập, do vậy đa số người đầu tư đều có tâm lý chờ đợi xem tình hình khả
năng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết sẽ
ra sao, lãi suất huy động tín dụng tăng quá nóng khiến lực hút vào TTCK bị
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 47 - Trêng §HKTQDHN
giảm mạnh đồng thời cùng với những ảnh hưởng từ vụ việc xảy ra đối với
một số Công ty niêm yết như BiBiCa, HalongCanfooco,Tribeco.. đã lại
càng làm cho lòng tin của người đầu tư bị giảm sút.
Từ những yếu tố ảnh hưởng đó, trong năm 2003 lần đầu tiên chỉ số
VNI đã giảm xuống mức kỷ lục và chỉ còn 130,9 điểm ( Ngày24/10/2003 );
một số cổ phiếu giao dịch dưới mệnh giá; nhưng điều đáng mừng là những
tháng cuối năm người đầu tư có tổ chức và người đầu tư nước ngoài tham
gia vào thị trường ngày càng đông hơn góp phần làm cho chỉ số VNI dần
hồi phục và đóng của một năm giao dịch ở mức 166,94 điểm( Giảm 9% so
với mức đóng cửa năm 2002).
Trong những tháng đầu năm 2004, có những phiên giao dịch chỉ số
VNI lên đến 282 điểm, đây là dấu hiệu khả quan của TTCKVN. Sự phục
hồi trở lại của chỉ số VNI đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư quay lại
với thị trường, hứa hẹn thị trường sẽ có những bước đột phá khởi sắc hơn
rất nhiều trong năm 2004.
2.2.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH
2.2.1.1. Hoạt động môi giới
Không chỉ trông chờ vào hoạt động của Thị trường giao dịch tập
trung, ngay từ đầu năm 2000, BVSC đã tổ chức thực hiện thu mua công
trái thông qua các đại lý thu là các Công ty Bảo Hiểm trong hệ thống Bảo
Việt cho hợp đồng quản lý danh mục của Công ty Bảo Hiểm Việt Nam.
Việc thực hiện quản lý danh mục này đã góp phần đáp ứng được nhu
cầu đầu tư vốn dài hạn cho Tổng Công ty Bảo Hiểm Việt Nam. Thông qua
hoạt động thu mua công trái, hoạt động của CTCK Bảo Việt đã được đông
đảo công chúng đầu tư biết đến.
Trong năm Công ty đã đặc biệt chú trọng và đầu tư thích đáng về cơ
sỏ vật chất để phục vụ và đáp ứng nhu cầu đầu tư của tổ chức, cá nhân.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 48 - Trêng §HKTQDHN
Công ty đã đầu tư trang thiết bị bảng điện tử giúp cho các nhà đầu tư cập
nhật và theo dõi diễn biến giá giao dịch của toàn thị trường.
Đồng thời BVSC đã triển khai tin học hoá trong quản lý tài khoản
của khách hàng, xây dựng hệ thống thông tin của Công ty để cung cấp cho
khách hàng những thông tin cập nhật nhất về chứng khoán và các thông tin
liên quan, giúp cho khách hàng kiểm tra các thông tin về chứng khoán cũng
như tra cứu thông tin về số dư tài khoản cũng như đặt lệnh giao dịch.
Bên cạnh việc thõa mãn nhu cầu của các nhà đầu tư ở Hà Nội và
Tp.HCM và để cung cấp các dịch vụ cho các nhà đầu tư ở các tỉnh lẻ,
BVSC đã phối hợp với các thành viên của Bảo Việt nhanh chóng mở ra các
đại lý giao dịch ở Hải Phòng và Long An.
Trong năm 2000, BVSC đã phối hợp với Bảo Việt để triển khai cho
vay ứng trước tiền bán chứng khoán với các thủ tục thuận lợi, giúp cho
khách hàng khi cần có thể nhận ngay được tiền bán chứng khoán cùng
ngày bán chứng khoán. Ngoài ra, BVSC đã phối hợp với Bảo Việt nghiên
cứu cung cấp dịch vụ tiện ích cho vay cầm cố chứng khoán và sẽ triển khai
vào năm 2001, giúp khách hàng chủ động cân đối nguồn tài chính giữa đầu
tư và tiêu dùng.
Với những nỗ lực kể trên, Công ty đã giành được những kết quả khả
quan về doanh số và thị phần giao dịch. Trong số 7 Công ty hoạt động giao
dịch chứng khoán tính đến thời điểm cuối năm 2000, Công ty đã thực hiện
giao dịch cho khách hàng khoảng 45 tỷ VND, chiếm 24% thị phần, đã mở
được hơn 1000 tài khoản cho nhà đầu tư tổ chức, cá nhân và số dư ký quỹ
tiền và chứng khoán gần 100 tỷ.
Điểm nổi bật trong hoạt động năm 2001 của BVSC là sự cải tiến,
hoàn thiện, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ, đưa ra hàng loạt
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 49 - Trêng §HKTQDHN
các dịch vụ hỗ trợ giao dịch cho khách hàng, giúp khách hàng tối đa hoá
việc sử dụng nguồn vốn, tăng khả năng nắm bắt cơ hội đầu tư. Đó là:
Ứng trước tiền bán chứng khoán
Cầm cố chứng khoán cho vay
Cho vay hỗ trợ tiền mua chứng khoán
Ngoài ra, BVSC cũng nghiên cứu và triển khai phương thức giao
dịch qua điện thoại nhằm giúp người đầu tư không có thời gian đặt lệnh
trực tiếp tại Công ty vẫn có thể thực hiện giao dịch qua điện thoại. Phương
thức giao dịch này sẽ được BVSC áp dụng chính thức trong nủa đầu năm
2002. Góp phần tạo thuận lợi cho khách hàng khi giao dịch, trong năm
2001, BVSC đã hợp tác với Bảo Việt triển khai các dịch vụ cho vay hỗ trợ
giao dịch như dịch vụ cho vay ứng trước, cho vay cầm cố.
Việc cung cấp thông tin cho khách hàng cũng được BVSC đặc biệt
chú trọng. Bên cạnh những thông tin được cập nhật liên tục về tình hình đặt
mua chào bán, giá và khối lượng khớp lệnh dự kiến của các chứng khoán
trong các phiên giao dịch, BVSC còn phát hành bản tin tuần và bản tin
hàng tháng nhằm cung cấp thêm kiến thức, thông tin cho khách hàng và
đồng thời để tiến tới hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán một cách
chuyên nghiệp hơn.
Tính đến cuối năm 2001, doanh số và thị phần giao dịch của BVSC
đã tăng lên đáng kể. Tổng số tài khoản giao dịch chứng khoán tại BVSC là
2522 tài khoản cá nhân và 27 tài khoản tổ chức, tăng 1679 tài khoản cá
nhân và 11 tài khoản tổ chức so với năm 2000. Tổng giá trị giao dịch qua
BVSC năm 2001 đạt trên 533 tỷ đồng, chiếm 26% thị phần toàn thị trường,
tăng 1,8% so với năm 2000. Phí giao dịch đạt gần 2,3 tỷ đồng, tăng 14% so
với kế hoạch đặt ra. Doanh thu hoạt động ứng trước và cầm cố chứng
khoán hỗ trợ giao dịch đạt 181 triệu đồng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 50 - Trêng §HKTQDHN
Trong năm 2002, BVSC đã phát triển các đại lý giao dịch chứng
khoán rộng thêm ở Đà Nẵng, Đồng Nai. Đây là việc làm rất cần thiết tạo
điều kiện cho những nhà đầu tư ở xa Hà Nội và Tp.HCM vẫn có thể tham
gia giao dịch một cách thuận lợi, góp phần làm gia tăng lượng người đầu tư
tham gia vào TTCK Việt Nam. Công ty luôn quan tâm đến việc nâng cao
chất lượng dịch vụ hoạt động môi giới, cùng với việc không ngừng cải tiến,
hoàn thiện và đa dạng hoá các dịch vụ hỗ trợ giao dịch. Phương thức "Đặt
lệnh từ xa “ qua điện thoại hoặc Fax và thực hiện “Ủy quyền rộng” đã
được đưa ra để phục vụ cho những khách hàng không có điều kiện đặt lệnh
trực tiếp. Đặt lệnh từ xa cho phép khách hàng không cần đến sàn giao dịch
mà vẫn đặt được lệnh giao dịch một cách nhanh chóng và chính xác. Ủy
quyền rộng cho phép Người được ủy quyền dễ dàng thực hiện mọi giao
dịch trên tài khoản của Người ủy quyền hơn.
Việc cung cấp thông tin cho khách hàng luôn được đặc biệt chú
trọng. BVSC đã tiến xa hơn ở năm trước đó là đưa ra bản tin hàng ngày
nhằm cung cấp thông tin một cách cập nhật nhất cho nhà đầu tư, giúp
khách hàng có đầy đủ thông tin để có quyết định chính xác trong lưa chọn
đầu tư của mình.
Ngoài ra, để cung cấp thông tin cho các khách hàng mà không có
điều kiện đến trụ sở của BVSC, Công ty đã cung cấp thông tin trên trang
tin điện tử: hoặc qua Email hay tin nhắn SMS.
Các dịch vụ hỗ trợ giao dịch tiếp tục được cải tiến, hoàn thiện và
luôn được đa dạng hoá. Thủ tục ứng trước tiền bán chứng khoán được thực
hiện hết sức nhanh gọn với chi phí hợp lý. Quy trình cho vay cầm cố chứng
khoán và cho vay hỗ trợ tiền mua chứng khoán luôn có những cải tiến đáng
kể, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình cầm cố, giải toả
và xử lý tài sản cầm cố trong điều kiện thị trường hết sức nhạy cảm.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 51 - Trêng §HKTQDHN
Với tất cả những nỗ lực trên, doanh số và thị phần giao dịch của
BVSC vẫn luôn được duy trì ở mức cao. Năm 2002, số tài khoản mở tại
BVSC tăng 42% tương đương với khoảng 3698 tài khoản cá nhân và 32 tài
khoản là của khách hàng là tổ chức, tổng giá trị giao dịch qua BVSC đạt
576 tỷ đồng, chiếm 26,3% thị phần toàn thị trường. Phí giao dịch đạt trên
2,1 tỷ đồng.
Tổng số tài khoản của Công ty tính đến ngày 31/12/2003 là 3.807 tài
khoản gồm 3.775 cá nhân và 32 tổ chức trong đó tại văn phòng Công ty là
1.911 tài khoản ( 17 tài khoản tổ chức ) và tại chi nhánh là 1896 tài khoản (
15 tài khoản tổ chức ). Như vậy so với thời điểm cuối năm 2002, số tài
khoản giao dịch đã tăng thêm 193 tài khoản (Mở mới 243 tài khoản, đóng
30 tài khoản).
Kết quả hoạt động môi giới thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản sau:
Đơn vị: 1000VND
Giá trị giao dịch Phí giao dịch Thị phần
GTGD
So với
2002
Trị giá
So với
2002
So với
KH
2003
GDKL
chung
GDKL
KH
Toàn
Công ty
305.502 56,08% 768,388 36,62% 28,46% 20,7% 18,8%
Trụ sở 97.290 39,35% 328,789 36,76% 27,39% 11,3% 9,4%
Chi
nhánh
208.212 69,98% 439,598 36,54% 29,30% 9,4% 9,4%
Để đáp ứng cho việc áp dụng các giải pháp kỹ thuật mới, Công ty đã
khẩn trương chỉnh sửa phần mềm BOSC nhằm phục vụ ở mức tốt nhất mọi
nhu cầu của người đầu tư, nỗ lực đẩy mạnh việc cung cấp thông tin cho các
nhà đầu tư qua các bản tin định kỳ, điện thoại, Email, tin nhắn, xây dựng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 52 - Trêng §HKTQDHN
lại trang Web mới và thường xuyên cập nhật thông tin trên trang Web
đồng thời việc cung cấp thông tin cho khách
hàng tổ chức các thông tin về giao dịch cổ phiếu cũng được triển khai hiệu
quả.
Chuẩn bị lại các tài liệu giới thiệu và ấn phẩm phục vụ người đầu tư
trong nước, hoàn thiện quy trình giao dịch của người đầu tư nước ngoài,
chuẩn bị đầy đủ các tài liệu giới thiệu về ấn phẩm bằng Tiếng Anh và
Tiếng Trung để phục vụ người đầu tư nước ngoài. Thông qua mạng lưới
Đại lý giao dịch, các cộng tác viên và tổ chức có mối quan hệ, các tài liệu
ấn phẩm giới thiệu về BVSC và giao dịch chứng khoán đã được triển khai
tới tận tay các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
Mặc dù có những cố gắng nói trên, nhưng trong điều kiện chung của
thị trường liên tục sụt giảm về giá cả và khối lượng giao dịch, kết quả hoạt
động môi giới trong năm đạt được vẫn ở mức rất hạn chế. Tuy nhiên Công
ty vẫn duy trì được thị phần chung về giao dịch khớp lệnh cổ phiếu ở mức
20,7% và thị phần giao dịch khớp lệnh cổ phiếu của khách hàng ở mức
18,8% mức thị phần giao dịch cổ phiếu này có giảm nhưng hầu như không
đáng kể so với năm 2002 và cơ bản hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.
Trong năm 2003, giao dịch tại các Đại lý giao dịch của Công ty cũng
bị đóng băng như tình hình thị trường chung, tuy nhiên Công ty cũng luôn
quan tâm rà soát để củng cố hỗ trợ triển khai các dịch vụ tiện ích đến Đại
lý giao dịch để hoạt động của các Đại lý được duy trì ổn định và mang lại
hiệu quả hơn.
Đơn vị: 1000VND
Hải Phòng Đà Nẵng Đồng Nai Long An Tổng cộng
Giá trị đặt lệnh 1.122.052 2.596.043 240.338 499.700 4.458.133
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 53 - Trêng §HKTQDHN
Giá trị giao dịch 689.003 1.086.090 166.480 137.255 2.072.828
Phí môi giới 3.445 5.430 802 686 10.364
2.2.1.2. Hoạt động tư vấn
Thị trường trầm lắng kéo dài đã tạo ra cho các doanh nghiệp một
tâm lý ngại niêm yết và sợ phát hành chứng khoán. Trong năm, Công ty đã
tiến hành hoàn tất hồ sơ niêm yết và hồ sơ phát hành cho một số doanh
nghiệp (Transimex, Brico, Cartour) nhưng do điều kiện không thuận lợi
nên các doanh nghiệp này đều quyết định tạm gác lại việc triển khai hoàn
thiện công việc theo hợp đồng.
Năm 2003, Chính phủ đã phê duyệt xong phương án tổng thể sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của các Bộ, Ngành và các địa
phương, bên cạnh đó việc chính phủ ban hành Nghị định số 38/2003/NĐ-
CP về việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành
CTCP đã tạo những điều kiện hết sức thuận lợi và mở ra cơ hội lớn cho
việc triển khai hoạt động tư vấn, đặc biệt là tư vấn CPH. Tuy nhiên cạnh
tranh trong lĩnh vực tư vấn CPH cực kỳ gay gắt nhiều CTCK và Công ty
kiểm toán cũng tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn CPH, nên giá bỏ thầu tại
các đợt đấu thầu lựa chọn tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp để
CPH liên tục giảm và nằm ở mức rất thấp.
Trước tình hình đó ngay từ đầu năm 2003, Công ty đã xác định tập
trung chuyển hướng mạnh sang mảng tư vấn CPH với chủ trương cung cấp
dịch vụ trọn gói cho đến khi hoàn thành chuyển giao doanh nghiệp nhà
nước thành CTCP, trong năm Công ty đã ký được 13 hợp đồng tư vấn tài
chính và CPH trong đó chỉ có 1 hợp đồng tư vấn CPH và niêm yết chứng
khoán cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Taya), ký 6 hợp đồng
tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu cho các doanh nghiệp nhà nước CPH
và một hợp đồn tư vấn thành lập doanh nghiệp cổ phần mới cho Bộ giao
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 54 - Trêng §HKTQDHN
thông vận tải. Ngoài ra Công ty cũng đã triển khai ký kết thêm một số Hợp
đồng tư vấn vào thời điểm cuối năm để gối đầu thực hiện trong năm 2004.
Kết quả hoạt động tư vấn thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản sau:
Đơn vị: 1000VND
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện So với KH So với 2002
Doanh thu 350.000 462.400 132,1% 369,9%
2.2.1.3. Hoạt động tự doanh
Là hoạt động BVSC đầu tư kinh doanh cho chính Công ty của mình
và vì mục tiêu thu nhập. Hoạt động Tự doanh là điều kiện bắt buộc phải có
để Công ty được phép thực hiện hoạt động Bảo lãnh phát hành, một hoạt
động quan trọng liên quan trực tiếp đến việc huy động vốn của các doanh
nghiệp trên TTCK.
Trong năm 2001, hoạt động tự doanh của Công ty chủ yếu tập trung
vào tự doanh mua lô lẻ và cổ phiếu niêm yết. Trong 7 tháng đầu năm, số
lượng Công ty niêm yết còn hạn chế nên có sự chênh lệch khá lớn giữa
cung và cầu về cổ phiếu đồng thời là nguyên nhân trực tiếp đẩy giá giao
dịch của các loại cổ phiếu lên cao.
Mặt khác chính sách ưu tiên lệnh của khách hàng trước lệnh tự
doanh của Công ty đã phần nào hạn chế việc triển khai hoạt động tự doanh
trong giai đoạn này. Tuy vậy với chiến lược đầu tư chủ động, hợp lý cùng
với những diễn biến thuận lợi trên TTCK đã giúp hoạt động tự doanh của
Công ty trong năm 2001 đạt được những kết quả nhất định.
Trong năm 2002, hoạt động tự doanh của BVSC chủ yếu tập trung
vào các cổ phiếu niêm yết bao gồm một phần tự doanh lô lẻ và chủ yếu là
giao dịch trên TTCK tập trung, bên cạnh đó Công ty vẫn duy trì thường
xuyên hoạt các động giao dịch trái phiếu. Trước tình hình thị trường không
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 55 - Trêng §HKTQDHN
thuận lợi, Công ty đã đề ra chiến lược kinh doanh theo hướng tận dụng các
cơ hội đầu tư phù hợp với các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, giảm thiểu rủi
ro nhằm bảo toàn vốn. Chiến lược thanh toán và cơ cấu lại danh mục đầu
tư tự doanh trên cơ sở kết hợp giữa hoạt động tự doanh chứng khoán dài
hạn và ngắn hạn đã phần nào đem lại những kết quả cho hoạt động tự
doanh nhằm tạo đà thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo. Ngoài ra, Công ty
cũng đã đúc kết thêm được nhiều kinh nghiệm quý báu trong hoạt động
kinh doanh khi đã trải qua những bước thăng trầm liên tiếp của thị trường.
Việc tiếp tục sụt giảm kéo dài về giá cả lẫn quy mô giao dịch từ cuối
năm 2002 và kéo dài theo hướng ngày càng xấu hơn trong gần như suốt cả
năm 2003 khiến cho việc triển khai thực hiện chiến lược tự doanh gặp
nhiều khó khăn. Công ty chủ trương bám sát diễn biến thị trường để triển
khai giao dịch quay vòng nhanh nhằm tìm kiếm lãi vốn và giảm giá chứng
khoán tự doanh hướng tới hoàn nhận dự phòng, tuy nhiên việc triển khai
khá bị đông và chỉ có thể thực hiện với quy mô rất nhỏ, công tác dự báo
tiếp tục không có nhiều cơ sở để đảm bảo độ chuẩn xác cao. Với những
diễn biến bất lợi của thị trường, kết quả hoạt động tự doanh bị sụt giảm khá
nhiều so với kế hoạch đề ra.
Kết quả hoạt động tự doanh thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản sau:
Đơn vị:1000VND
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện So với KH So với 2002
Lãi vốn 497.000 72.901 14,7% 37,2%
Thu nhập cổ tức, trái tức 612.000 1.296.552 205,2% 177,1%
Lỗ tự doanh - 2.284.681 - -
Dự phòng (818.000) (1.071.999) 131,1% -
Do xu hướng lãi suất huy động bắt đầu giảm từ cuối tháng 08/2003
Công ty đã nhanh chóng chuyển một số khoản đầu tư kỳ hạn tại các Ngân
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 56 - Trêng §HKTQDHN
hàng sang trái phiếu với lãi suất cao do vậy thu nhập về lãi trái phiếu tăng
đột biến so với kế hoạch và năm 2002. Bên cạnh đó tại các thời điểm tăng
giá những tháng cuối năm. Công ty tranh thủ đẩy mạnh bán ra một số cổ
phiếu tự doanh không hiệu quả và giá cao, thực hiện mua lại vào cuối năm
nên trong năm 2003, dự phòng giảm giá đã hoàn nhập hơn một tỷ đồng,
nhưng đồng thời phải hạch toán, ghi nhận nỗ lực tự doanh số cổ phiếu bán
ra hơn 2 tỷ đồng.
Số dư chứng khoán tự doanh đến hết ngày 31/12/2003 là
26.053.166.880 đồng trong đó chứng khoán niêm yết là 24.969.166.880
đồng (cổ phiếu 4.966.102.480 đồng), chứng khoán chưa niêm yết là
1.084.000.000 đồng.
2.2.1.4. Hoạt động Bảo lãnh, Đại lý và uỷ thác đấu thầu
Là hoạt động mà tổ chức Bảo lãnh phát hành giúp tổ chức phát hành
thực hiện các công việc cần thiết cho một đợt phát hành và có các cam kết
nhằm đảm bảo việc phát hành chứng khoán thành công. Ngoài ra trong
những trường hợp đợt phát hành không thực hiện theo phương thức Bảo
lãnh, BVSC có thể đóng vai trò là tổ chức đại lý phân phối chứng khoán,.
BVSC đã hợp tác với nhiều khách hàng khác nhau, từ những doanh
nghiệp đến những định chế tài chính của Nhà nước như Kho bạc Nhà
Nước, Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Nhà đồng bằng sông Cửu Long,
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam... để Bảo lãnh và đại lý phát hành cổ
phiếu, trái phiếu nhằm mục đích huy động vốn.
Kết thúc năm 2001, Doanh thu từ hoạt động Bảo lãnh phát hành, tư
vấn phát hành và đại lý phát hành của BVSC đạt 425 triệu đồng. Đặc biệt
BVSC đã tổ chức thành công đợt thành công đợt phát hành phát hành trái
phiếu chuyển đổi cho một Công ty hoạt động trong lĩnh vực Công nghệ
thông tin và BLPH thành công Trái phiếu Chính phủ cho Kho bạc Nhà
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 57 - Trêng §HKTQDHN
nước qua đó xây dựng vai trò tiên phong của BVSC trong lĩnh vực phát
hành chứng khoán.
Năm 2002 đánh dấu bước đột phá trong hoạt động đại lý và Bảo lãnh
phát hành của BVSC. Tổng khối lượng Trái phiếu Chính phủ BVSC nhận
Bảo lãnh phát hành là 376 tỷ đồng mang lại doanh thu 658 triệu đồng. Một
sự kiện quan trọng đó là, BVSC chính là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam Bảo
lãnh thành công loại trái phiếu có kỳ hạn dài 10 năm và 15 năm: Đây là
những loại trái phiếu dài hạn đầu tiên trên thị trường tài chính Việt Nam,
tạo tiền đề về lãi suất cho các loại chứng khoán có kỳ hạn dài hạn sau này.
BVSC cũng là thành viên tích cực tham gia vào thị trường đấu thầu trái
phiếu chính phủ với tổng khối lượng trúng thầu đạt 145 tỷ đồng, chiếm
38% tổng khối lượng trái phiếu phát hành qua hình thức đấu thầu tại
TTGDCKTP.HCM trong năm 2002.
Bên cạnh trái phiếu chính phủ, BVSC cũng đã tư vấn thành công và
làm đại lý phát hành cổ phiếu huy động vốn cho một số CTCP đồng thời
phát hành kỳ phiếu cho Ngân hàng Thương mại (NHTM) với tổng giá trị
phát hành trên 141 tỷ đồng, phí đại lý phát hành đạt gần 554 triệu đồng.
Ngoài ra BVSC cũng đã hoàn tất phương án và hướng tới phát hành trái
phiếu công trình cho Bộ giao thông vận tải nhằm mục đích huy động phát
triển mạng đường cao tốc Việt Nam. Tât cả những điều đó có thể nói lên
rằng BVSC đã và sẽ luôn khẳng định được vị thế hàng đầu trong lĩnh vực
Phát hành chứng khoán.
Cùng với việc một số loại trái phiếu công trình và trái phiếu doanh
nghiệp được phát hành trong năm qua, trái phiếu chính phủ phát hành trong
năm phát hành khá đa dạng và phong phú cả về cơ cấu kỳ hạn và phương
thức trả lãi, mặt bằng lãi suất phát hành dâng cao theo sát lãi suất huy động
của các Ngân hàng nên đã hấp dẫn được các tổ chức đầu tư vào trái phiếu.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 58 - Trêng §HKTQDHN
Mặc dù gặp phải sự cạnh tranh khá mạnh của các CTCK khác,
nhưng trong năm 2003 Công ty vẫn thực hiện được 11 đợt phát hành, tổng
giá trị Bảo lãnh là 582 tỷ đồng và doanh thu Bảo lãnh là đạt 877.383.561
đồng. Tuy nhiên, do nguồn vốn để lại Bảo lãnh trong suốt năm không thể
tập trung thành những khoản lớn, nên mức phí Bảo lãnh của Công ty được
hưởng chưa thực hiện hiệu quả, những tháng cuối năm Bảo Việt chuyển
hướng đầu tư nên nguồn đầu tư vào trái phiếu không thực hiện được kế
hoạch bổ trí đầu năm (giảm khoảng 100 tỷ).
Tiếp tục duy trì mối quan hệ sẵn có với Ngân hàng phát triển nhà
Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Trong năm Công ty thực hiện 2 đợt đại lý phát hành kỳ phiếu và
thanh toán tiền gốc, lãi kỳ phiếu cho Ngân hàng MHB đạt được doanh thu
392.832.216 đồng.
Việc triển khai mạnh công tác CPH doanh nghiệp nhà nước trong
năm cũng tạo ra cơ hội cho Công ty tham gia triển khai tổ chức bán đấu giá
cổ phần lần đầu cho các doanh nghiệp nhà nước và bước đầu đã có nguồn
thu nhất định từ nghiệp vụ Đại lý phat hành này để cải thiện doanh thu hoạt
động chung của Công ty.
Kết quả hoạt động Bảo lãnh, Đại lý phát hành thể hiện qua một số
chỉ tiêu cơ bản sau: Đơn vị: 1000VND
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện So với KH So với 2002
Doanh thu 1.330.000 1.325.404 99,7% 99,4%
2.2.1.5. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư
Là hoạt động mà BVSC nhận uỷ thác vốn từ các tổ chức và cá nhân
khác để thực hiện đầu tư cho họ theo những mục tiêu và tiêu chí đã được
thõa thuận trước. Hiện nay BVSC đang quản lý danh mục cho một số Công
ty bảo hiểm và tổ chức trung gian tài chính.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp TrÇn V¨n Sïng
Líp TTCK42B - 59 - Trêng §HKTQDHN
Năm 2000 giá trị tài sản của danh mục Công ty thực hiện quản lý
cho khách hàng đã lên tới 80 tỷ đồng. Đây là hoạt động để phục vụ khách
hàng đầu tư lớn, giúp khách hàng thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư
và phân tán rủi ro cũng như nâng cao tính thanh khoản của tài sản đầu tư để
có thể thực hiện thanh toán khi cần thiết. Đối với TTCK, dịch vụ này sẽ
giúp các nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là các Công ty Bảo Hiểm, các tổ chức
tài chính thực hiện bảo toàn và phát triển vốn. Với uy tín và kinh nghiệm,
BVSC sẽ từng bước nâng cao chất lượng để phát triển và mở rộng, đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Quản lý Danh mục đầu tư là một trong những
hoạt động nghiệp vụ được BVSC chú trọng phát triển nhằm đa dạng hoá,
nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Năm 2001, BVSC đã thực hiện Quản lý Danh mục đầu tư cho khách
hàng với tổng giá trị tài sản trên 45 tỷ đồng. Để nghiệp vụ Quản lý Danh
mục đầu tư đạt hiệu quả cao, BVSC đã chú trọng tới hoạt động phân tích
thị trường, phân tích tài chính và phân tích rủi ro của các Công ty niêm yết
để từ đó đề ra cơ cấu đầu tư hợp lý cho Danh mục. Tuy gặp nhiều khó khăn
khách quan như quy mô thị trường còn nhỏ, thị trường vận hành còn chưa
ổn định và hiệu quả, nhưng với kinh nghiệm tích lũy, quyết tâm cao và sự
phấn đấu không ngừng, BVSC đã thu được những thành quả khả quan
trong hoạt động Quản lý Danh mục đầu tư, đáp ứng được cầu của khách
hàng. Kết quả đạt đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển các hoạt động của CTCP chứng khoán Bảo Việt.pdf