Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới: II
Luận văn
Thực trạng và một số
giải pháp chủ yếu nhằm
thúc đẩy hoạt động kinh
doanh xuất khẩu hàng
nông sản của công ty
VILEXIM trong thời
gian tới
-1-
MỤC LỤC.
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 3
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ KINH
DOANH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN. 4
I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu 4
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: 4
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 4
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 8
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 10
5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa 16
II. Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng
nông sản. 22
1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản. 22
2. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới 24
3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam 26
CHƯƠNG II:
Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty VILEXIM 36
I. Giới thiệu sơ lược về công ty. 36
1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty 36
2. Lịch sử hình t...
92 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 987 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II
Luận văn
Thực trạng và một số
giải pháp chủ yếu nhằm
thúc đẩy hoạt động kinh
doanh xuất khẩu hàng
nông sản của công ty
VILEXIM trong thời
gian tới
-1-
MỤC LỤC.
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 3
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ KINH
DOANH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN. 4
I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu 4
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: 4
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 4
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 8
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 10
5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa 16
II. Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng
nông sản. 22
1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản. 22
2. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới 24
3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam 26
CHƯƠNG II:
Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty VILEXIM 36
I. Giới thiệu sơ lược về công ty. 36
1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty 36
2. Lịch sử hình thành công ty 36
3. Cơ cấu tổ chức của công ty 37
4. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty 39
5. Nội dung hoạt động của công ty. 40
II .Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty
VILEXIM giai đoạn 1996 - 2000. 41
1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty. 42
2. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của công ty. 45
3. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty. 48
4. Giá cả hàng nông sản xuất khẩu của công ty 51
-2-
5. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty. 53
6. Công tác thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường của công ty 59
7. Thị trường tiêu thụ hàng nông sản của công ty 61
8. Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty 64
III. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của
công ty. 65
1. Thành tựu. 65
2. Tồn tại và nguyên nhân 65
CHƯƠNG III :
Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất
khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới . 71
I. Định hướng phát triển của công ty giai đọan 2001 - 2005. 71
II. Giải pháp và kiến nghị. 71
A. Giải pháp đối với công ty 71
1. Tổ chức tốt công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường và
xúc tiến thương mại 72
2. Lựa chọn thị trường trọng điểm. 73
3. Xây dựng chính sách sản phẩm thích hợp. 74
4. Đẩy mạnh xâm nhập thị trường 75
5. Huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinhdoanh 75
6. Tổ chức tốt công tác thu mua hàng xuất khẩu. 77
7. Đầu tư vào công tác chế biến, bảo quản 79
8. Nâng cao chất lượng người lao động 80
B. Kiến nghị với nhà nước. 80
1. Đẩy mạnh hoạt động sản xuất chế biến hàng nông sản. 80
2. Trợ giúp cho công ty xuất khẩu hàng nông sản. 82
3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu 83
KẾT LUẬN 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
-3-
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động
thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động
xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao
động, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
và đặc biệt là tạo công ăn, việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện
thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh xuất
khẩu, mở cửa nền kinh tế thì Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành công
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống nhân dân.
Từ đặc điểm có nền kinh tế của một nước nông nghiệp với dân số chủ yếu
tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông
sản là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần
thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy, nhà nước đã tạo điều kiện
thuận lợi khuyến khích sự tham gia của các công ty trong lĩnh vực xuất khẩu
hàng nông sản. Mặt hàng nông sản là mặt hàng chính được Công ty XNK với
Lào ( VILEXIM ) hết sức chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của mình.
Trên lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản công ty đã đạt được những thành công,
song bên cạnh những thành công đó vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy,
đề tài : “Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
của công ty VILEXIM” đã được chọn để nghiên cứu trong chuyên đề thực tập.
Đề tài này đã tổng kết được những lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu, phân
tích và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Công ty. Trên cơ sở đó
đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
hàng nông sản của Công ty.
CHƯƠNG 1:
-4-
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ KINH
DOANH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa (hoặc dịch vụ) cho nước ngoài trên cơ sở
dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán theo nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở
đây có thể là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong mối quan hệ này.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc
gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hóa mang lại lợi ích
cho các quốc gia do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động
này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã
xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh
vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị,
tư liệu sản xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động
xuất khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho các quốc gia tham
gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về không gian lẫn
thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn song cũng có thể kéo dài
hàng năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay
nhiều quốc gia khác nhau.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
a. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia.
Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân tố đó là:
vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Song không phải quốc gia nào cũng có
đầy đủ cả 4 yếu tố này đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển và chậm
phát triển. Mô hình:
-5-
Thiếu vốn
Khả năng sản xuất kém Công nghệ lạc hậu
Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển đều thiếu
vốn thế nên họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể
đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp.
Ngược lại trình độ sản xuất thấp lại chính là nguyên nhân làm cho quốc gia này
thiếu vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang phát
triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này buộc các quốc gia
này phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất
được và nâng cao trình độ nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng sản xuất.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia là: Làm thế nào để có một
lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng cho nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu này
các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau:
Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Nguồn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vay nợ, viện trợ.
Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân hàng , du lịch.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển chậm lại như hiện nay
thì các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc huy động được nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ
và các dịch vụ thu ngoại tệ. Thêm vào đấy, với các nguồn vốn này các quốc gia
phải chịu những thiệt thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy
nguồn vốn quan trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu từ
hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
-6-
Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia thường phải lựa chọn
các mặt hàng sản xuất ở quốc gia đó có lợi thế hơn so với sản xuất tại các quốc
gia khác. Đây chính là những mặt hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào,
lao động rẻ, ứng dụng nền sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất
khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau: Giả sử trong nền kinh tế thế giới chỉ
có hai quốc gia Việt Nam và Đài Loan sản xuất hai loại mặt hàng là thép và vải.
Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Quốc gia
Hàng hóa
Việt Nam Đài Loan
Thép ( kg/1 công ) 1 6
Vải ( m/1h công ) 4 3
Qua bảng số liệu trong ta thấy: trong ngành sản xuất thép năng suất lao
động của Đài Loan lớn hơn năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên trong
ngành sản xuất vải thì Việt Nam lại có năng suất lao động lớn hơn. Do vậy Việt
Nam có lợi thế trong sản xuất thép còn Đài Loan có lợi thế trong sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu Việt Nam
chuyên môn hoá sản xuất vải còn Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép. Sau
đấy hai nước sẽ mang trao đổi một phần sản phẩm cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi
bằng tỷ lệ trao đổi nội địa của mỗi quốc gia thì một trong hai quốc gia sẽ từ chối
trao đổi. Do vậy tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm ở khoảng giữa. Tức là: 6/3 >
Tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/vải) > 1/4. Giả sử tỷ lệ trao đổi của Việt Nam và Đài
Loan là 6 thép lấy 6 vải. Khi đó, Đài Loan sẽ được lợi 3 mét vải tương đương
với tiết kiệm được một giờ công lao động. Việt Nam sẽ được lợi 18 mét vải
tương đương với tiết kiệm được 4,5 giờ công lao động. Qua phân tích ở trên cho
thấy hoạt động xuất khẩu sẽ phát tạo cơ hội cho một quốc gia phát huy được lợi
của mình.
-7-
Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu những mặt
hàng có lợi thế của đất nước. Khi lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt hàng ấy
càng lớn thì số người tập trung vào sản xuất mặt hàng ấy ngày càng nhiều. Do
vậy cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra
trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành hàng xuất
khẩu. VD: khi hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển thì nó kéo theo sự
phát triển của ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải; ngành công nghiệp thực
phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt chăn nuôi phát triển; ngành dệt may
phát triển kéo theo ngành trồng bông đay cũng phát triển.
Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập,
nâng cao mức sống và trình độ của người lao động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi
nhuận lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy số lượng lao
động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không ngừng
tăng. Hàng năm ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao
động. Thêm vào đó do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức
quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nên trình độ của người lao động cũng
được cải thiện để đáp ứng với yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế
Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào 4 điều kiện
đó là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Hoạt động xuất khẩu
đem lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán do vậy là
một trong bốn điều kiện đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia : Cao
hơn nữa hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của một quốc gia và có
thể biến quốc gia trở thành quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh
toán cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt động xuất khẩu,
hàng hóa của quốc gia được bày bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương
tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra hoạt động xuất khẩu làm tiền
-8-
đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư,
hợp tác liên doanh...và làm cho quan hệ giữa các nước trở nên chặt chẽ hơn.
b. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào cuộc
cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hóa trên thị trường thế giới.
Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo hơn, phải không
ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang
thiết bị... để tự hoàn thiện mình.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ
buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp
có thể nâng cao năng lực chuyên môn của mình, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm
quản lý của đối tác.
Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để mở rộng
và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho
người lao động trong doanh nghiệp.
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
a. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hóa hoặc dịch vụ do
doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các
khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức
xuất khẩu này là : Các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với
khách hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu cầu của khách hàng và
tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Ngoài ra hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp do
giảm chi phí trung gian.
b. Xuất khẩu ủy thác.
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu
một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao
-9-
theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Ưu điểm của hình
thức này là: Đơn vị có hàng xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do đó rủi ro trong kinh doanh là không cao. Tuy
nhiên họ lại không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị trường nước ngoài
nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra họ thường
phải đáp ứng những yêu sách của bên nhận ủy thác.
c. Buôn bán đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng hàng hóa mang trao
đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích ở đây không nhằm thu về một
khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được một lô hàng có giá trị tương
đương với lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh
được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi
khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
d. Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước
giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho
chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ.
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong
việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức
này thường không có rủi ro trong thanh thư.
e. Xuất khẩu tại chỗ.
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới
quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. Ở hình thức này doanh nghiệp
không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà
chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được
những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển,
không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp dụng đối với
-10-
quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc
gia đó.
f. Gia công quốc tế.
Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập nguyên liệu hoặc bán
thành phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia công) để chế tạo ra
thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản lệ phí
như thỏa thuận của cả hai bên. Trong hình thức này bên nhận gia công thường là
các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên
nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động,
có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn
đối với nước đặt gia công họ khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ
liệu khác từ nước nhận gia công.
g. Tái xuất khẩu.
Với hình thức này một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa đã nhập từ một
nước khác sang nước thứ ba. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể
thu được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào
trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp dụng
khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của
môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp song cũng có thể tạo ra những
khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu - một trong những hoạt động quan trọng của
thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng
trở nên mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế các yếu tố thuộc môi trường
kinh doanh rất phong phú và phức tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc
-11-
môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
thành các nhóm sau:
Các nhân tố vĩ mô:
a. Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế.
Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương mại khác nhau
thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các
hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia mình. Để
nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại
thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ chính sách
chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này gồm:
Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị
hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản
lý hoạt động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình. Công
cụ này thường chỉ được áp dụng với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ
sung cho ngân sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ nhu cầu
tiêu dùng mặt hàng ấy trong nước.
Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu cũng có tác động đến hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là thuế quan mà nước
nhập khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ làm tăng gía bán
hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tại thị trường nhập khẩu. Vì vậy hàng xuất
khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh.
Hạn ngạch
Hạn ngạch được hiểu như là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất
một mặt hàng hay một nhóm hàng doanh nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập
khẩu. Quốc gia xuất khẩu sẽ quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm điều chỉnh
lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập khẩu sẽ quy
định hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong nước,
bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh
-12-
toán. Tương tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể gây
tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn kỹ thuật
Ngoài hai công cụ thuế quan và hạn ngạch, một công cụ khác tinh vi hơn
ngày càng được nhiều quốc gia sử dụng đó là việc đề ra các tiêu chuẩn chất
lượng, kỹ thuật cho sản phẩm nhập khẩu. Đây là biện pháp phi thuế quan cũng
nhằm mục đích hạn chế lượng hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến
khích xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức
mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối
lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh thanh toán quốc tế. Trong
thanh toán quốc tế người ta thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để
thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so với
nội tệ khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá
hối đoái giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy,
mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp
này thường được nhiều quốc gia sử dụng vì: Khi xâm nhập vào thị trường nước
ngoài doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong nước.
Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều hình thức như:
trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất vốn vay, hoặc cho bạn hàng nước
ngoài vay ưu đãi đẻ họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình...
Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại
Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ góp phần củng
cố lòng tin của đối tác nước ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia
trên trường quốc tế. Biện pháp để quốc gia có thể giữ cán cân thanh toán, cán
cân thương mại có thể là: Khuyến khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế
nhập khẩu hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình thức cấm nhập
-13-
khẩu là cân bằng tiêu cực, gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc
gia. Chính vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại các
quốc gia không còn con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó
chú trọng tới mặt hàng chủ lực.
Như vậy nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân
thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của
quốc gia.
b. Các quan hệ kinh tế quốc tế.
Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động
thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động tới hoạt động
thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế chính
vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp xâm nhập được vào thị trường của một
quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với các rào
cản thương mại từ quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, các tiêu
chuẩn kỹ thuật sản phẩm.... Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay
các rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu chặt chẽ hay nới lỏng
hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa quốc gia xuất
khẩu và quốc gia nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều hiệp
định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế
đã được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia,
giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu
là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì quốc
gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không phải, chính các hiệp
định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc
xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
-14-
Tóm lại, có được những mối quan hệ mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo
tiền đề cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
c. Ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế.
Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến lượng cung hàng
xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, khả năng cung ứng hàng xuất
khẩu sẽ tăng lên, giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh nghiệp sẽ
gặp thuận lợi trong khâu đầu vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong nước bị
giảm sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn để chọn được hàng hóa có chất lượng cao, đồng loại phục vụ cho xuất
khẩu.
Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại. Khi nền sản xuất nước ngoài
phát triển, nhu cầu nhập khẩu sẽ ít đi, khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp
vào thị trường của họ sẽ bị hạn chế. Ngược lại, khi nền sản xuất của họ bị giảm
sút, nhu cầu nhập khẩu của họ cao. Đây sẽ là thới cơ để doanh nghiệp thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của mình.
Vấn đề không đơn thuần chỉ có các yếu tố cung, cầu, giá cả mới tác động
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Rất nhiều các yếu tố khác cũng tác
động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như: chất lượng, mẫu mã,
chủng loại của sản phẩm. Khi các yếu tố này đều tốt thì khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường quốc tế sẽ cao. Đây là một sự thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế
cũng góp phần hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu vì nó quyết định đến sự chu
chuyển hàng hóa trong nội bộ nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế thế
giới.
d. Trình độ phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, thông tin liên lạc,
cơ sở hạ tầng quốc gia.
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát triển khá mạnh và có can
thiệp rất lớn tới hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực
-15-
dù doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào và hoạt động trong lĩnh vực
nào. Một hệ trong thống ngân hàng phát triển không đơn thuần chỉ là nơi cấp
vốn cho doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp trong việc thanh toán
một cách thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. Đây là một trong những yếu tố
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng góp phần thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác và nhanh chóng cho doanh nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng có tác động rất lớn tới hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống phát
triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả năng tham gia của doanh
nghiệp vào thị trường thương mại quốc tế. Đặc biệt các bến bãi, các nhà ga, các
cảng biển có tác động trực tiép tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu
hệ thống này được đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của thị trường
quốc tế sẽ là nhân tố tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp. Ngược lại, hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối
thiểu về kỹ thuật sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài và rất có thể
doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh.
Các nhân tố vi mô
a. Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy
con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét đến các vấn đề liên quan
đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh
nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động
của thị trường và đặc biệt có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lý
tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn
nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì
doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh doanh kém hiệu quả. Như
-16-
vậy, nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn
hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn đội ngũ lao động
thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lý nhằm tạo động
lực cho người lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu quả.
b. Khả năng tài chính
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của
doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh
nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao,
mở rộng quy mô hoạt động. Ngoài ra khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp
có trong thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua việc cấp tín dụng
cho khách hàng qua hình thức mua trả chậm.
Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh
hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp.
c. Vị trí địa lý
Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga cảng biển, doanh nghiệp sẽ giảm được
chi phí vận chuyển - đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách
địa lý nhà cung ứng yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể thường xuyên xuống cơ
sở sản xuất tạo lập mối quan hệ nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ
hoạt động xuất khẩu. Như vậy để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả doanh
nghiệp cần lựa chọn vị thế tối ưu phù hợp với khả năng và điều kiện của mình.
d. Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp chính là tình cảm, là sự tin tưởng mà khách hàng
dành cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có uy tín cao, đối với khách hàng
nhiều khi họ mua hàng dựa trên uy tín của doanh nghiệp chứ không hoàn toàn
dựa trên chất lượng hàng của doanh nghiệp. Vì vây, uy tín cũng quyết định đến
vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
-17-
5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ ngoại thương có những nét đặc
trưng, phức tạp hơn nhiều so với hoạt động thương mại trong nước. Vì vậy
doanh nghiệp xuất khẩu muốn tiến hành hoạt động của mình có hiệu quả thì phải
tuân theo các bước sau:
a. Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Công việc này bao gồm nghiên cứu hàng hóa thế giới, lựa chọn mặt hàng,
nắm bắt dung lượng thị trường và giá cả hàng hóa.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông
hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường.
Như vậy, thị trường có thể nhìn thấy cũng có thể không nhưng nó bao gồm các
quan hệ mua bán hàng hóa , dịch vụ và dung lượng thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa để các nhà kinh doanh biết được các quy
luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hóa cụ thể có những quy luật
riêng, quy luật này thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng
hóa trên thị trường. Nắm vững các quy luật thị trường hàng hóa để vận dụng và
giải quyết các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường đối
với hàng hóa, hình thức và biện pháp thâm nhập thị trường.
Trong nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới, đặc biệt là khi muốn kinh
doanh xuất khẩu thành công công việc nhận biết sản phẩm phù hợp với thị
trường và năng lực xuất khẩu là không thể thiếu được đối với doanh nghiệp.
Muốn vậy doanh nghiệp phải xác định được các vấn đề sau:
Mặt hàng thị trường đang cần là mặt hàng gì?
Điều này đòi hỏi phải bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà ta
có. doanh nghiệp xuất khẩu cần phải tìm hiểu nhu cầu thị trường nước ngoài về
mạt hàng, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, chủng loại, số lượng.
Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
-18-
Mặt hàng được người tiêu dùng mua theo thói quen và được thể hiện ở: thời gian
tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu mặt hàng
đó...Có nắm vững được điều này thì doanh nghiệp mới có thể đáp ứng được nhu
cầu của thị trường.
Mặt hàng đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Mỗi mặt hàng đều có một khoảng thời gian tồn tại mhất định, mỗi khoảng thời
gian này được thể hiện qua bốn pha của chu kỳ sống của sản phẩm bao gồm:
+ Pha triển khai: Về cơ bản chưa có sản phẩm và đơn vị cạnh tranh. Do vậy
doanh nghiệp cần phải nỗ lực làm cho khách hàng biết tới sản phẩm của mình.
+ Pha tăng trưởng: sản phẩm được thị trường chấp nhận, doanh nghiệp cần
phải đẩy nhanh quá trình kinh doanh để đưa sản phẩm có tính độc đáo của mình
vào thị trường, qua đó tạo được môi trường tốt, tăng mở rộng thị trường cho sản
phẩm.
+ Pha bão hoà: Lúc này có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đơn vị tham gia
vào thị trường. Khi đó nếu doanh nghiệp cần dựa vào nguồn vốn tích luỹ để
triển khai chiến lược, mặt hàng khác biệt tiến tới kinh doanh mặt hàng đặc biệt.
+ Pha suy thoái: Mặt hàng trong giai đoạn này hầu như không còn bán được
trên thị trường. Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp là phải dự đoán được khoảng
thời gian lão hoá của sản phẩm để thay thế bằng sản phẩm mới khác chặn đứng
tình trạng suy thoái.
Doanh nghiệp phải biết được mặt hàng kinh doanh đang ở giai đoạn nào thì mới
xác định được các biện pháp thích hợp để nâng cao doanh thu.
Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao?
Doanh nghiệp phải nắm vững tình hình cung cầu mặt hàng doanh nghiệp đang
quan tâm. Đặc biệt doanh nghiệp phải tập trung vào yếu tố cung hàng hóa các
yếu tố đó bao gồm: khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, việc áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất mặt hàng đó.
Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
-19-
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên phạm vi
thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Dung lượng thị trường
thường biến động do chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau:
Nhóm các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Gồm:
sự vận động của tình hình kinh tế các nước xuất khẩu, tính thời vụ trong sản
xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và
tiêu dùng là khác nhau nên ảnh hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường hàng
hóa cũng rất đa dạng về phạm vi và mức độ.
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường như: các
nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều , chúng ảnh hưởng đến dung lượng thị trường
rất dài. VD: tiến bộ khoa học cong nghệ, chế độ chính sách của nhà nước, thị
hiếu và tập quán của người tiêu dùng
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời đến dung lượng thị trường.
Bao gồm sự đầu cơ trên thị trường làm đột biến tình hình cung, cầu trên thị
trường , sự biến động của các chính sách chính trị - xã hội, sự biến động của
thiên nhiên.
Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Giá cả hàng hóa trên thị trường sẽ phản
ánh quan hệ cung cầu hàng hóa đó trên thị trường thế giới. Xác định đúng đắn
giá cả hàng hóa có ý nghĩa to lớn đối với kết quả kinh doanh xuất khẩu. Trong
kinh doanh quốc tế việc xác định giá cả hàng hóa rất phức tạp do việc buôn bán
diễn ra trong một thời gian dài, hàng hóa vận chuyển qua nhiều nước khác nhau
với chính sách thuế khác nhau. Để đạt được hiệu quả cao trên thương trường
quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh phải theo dõi, nghiên cứu sự biến động của
giá cả đồng thời phải có biện pháp tính toán, xác định giá một cách chính xác,
khoa học để giá thực sự trở thành một công cụ trong kinh doanh quốc tế. Thông
thường các nhà kinh doanh xuất khẩu xác định giá bán hàng hóa dựa trên ba căn
cứ:
Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác (chi phí vận chuyển, mua bảo
hiểm, chi phí bao bì, đóng gói...).
-20-
Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
Căn cứ và gía cả của hàng hóa cạnh tranh.
b. Lựa chọn đối tác giao dịch.
Lựa chọn đối tác giao dịch bao gồm các vấn đề lựa chọn nước để giao dịch
và lựa chọn thương nhân để giao dịch.
Khi lựa chọn nước để làm đối tượng xuất khẩu hàng hóa chúng ta phải tìm
hiểu tình hình sản xuất tiêu thụ hàng hóa của nước đó, nhu cầu nhập khẩu thuộc
đối tượng mặt hàng nghiên cứu, tình hình dự trữ ngoại tệ để biết được khả năng
nhập khẩu, phương hướng nhập khẩu của nước này và có thể dự đoán đối thủ
cạnh tranh. Doanh nghiệp phải đưa ra chính sách thương mại đối với nước lựa
chọn làm đối tác giao dịch để lường trước mọi việc có thể xảy ra.
Chọn thương nhân để giao dịch. Trong điều kiện cho phép thì lựa chọn
những người nhập khẩu trực tiếp sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả cao
nhất. Tuy nhiên trong trường hợp muốn thâm nhập vào thị trường mới thì việc
giao dịch qua trung gian với tư cách là đại lý hay môi giới lại rất có ý nghĩa.
Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở các nghiên cứu sau:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh của thương nhân.
+ Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
+ Thái độ và quan điểm kinh doanh.
+ Uy tín và các mối quan hệ của thương nhân.
Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để dẫn tới thành
công trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
c. Lập kế hoạch kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu gom được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận
thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án
này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới mục tiêu xác định trong kinh
doanh. Việc xây dựng phương án bao gồm:
-21-
Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá đó doanh nghiệp sẽ phác
hoạ nên bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó
khăn.
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa
chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
Đề ra mục tiêu cụ thể như: Sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán bao nhiêu,
thâm nhập vào thị trường nào.
Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được những mục tiêu. Đó có
thể là các biện pháp trong nước (Đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, chất lượng
sản phẩm...) và những biện pháp ngoài nước (quảng cáo, tăng cường lập chi
nhánh ở nước ngoài tăng cường quan hệ bạn hàng...).
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên sự phân tích chuẩn xác và
đúng đắn về thị trường, bạn hàng cũng như nội lực của doanh nghiệp sẽ quyết
định nhiều đến thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp.
d. Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và
đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Khi đã ký
kết hợp đồng có nghĩa giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác cùng
ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định trong hợp đồng. Một
trong hai bên nếu vi phạm sẽ bị sử lý, chính vì vậy khi ký kết hợp đồng với đối
tác cần phải căn cứ vào:
Các định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách, chế độ và các chuẩn
mực kinh tế hiện hành.
Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hợp đồng kinh tế
của mỗi bên.
Nhu cầu của thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng của bạn hàng.
-22-
Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm bảo về tài sản của mỗi
bên khi ký kết.
Một hợp đồng xuất khẩu hàng hóa phải bao gồm các nội dung sau:
Số hợp đồng.
Ngày, tháng, năm và nơi ký hợp đồng.
Các điều khoản của hợp đồng trong đó có những điều kiện bắt buộc.
Điều1: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, bao bì, ký mã hiệu.
Điều2: Giá cả, tên giá, tổng giá trị.
Điều3: Thời gian, địa điểm và phương tiện giao hàng.
Điều4: Điều kiện xếp hàng, cơ chế thưởng phạt.
Điều5: Giám định hàng hóa.
Điều6: Những chứng từ cần thiết cho lô hàng xuất khẩu.
Điều7: Điều kiện thanh toán.
Điều8: Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng.
Điều9: Thủ tục giải quyết tranh chấp.
Điều10: Thời gian hiệu lực của hợp đồng.
Khi ký kết các hợp đồng cần phải lưu ý các vấn đề sau:
Hợp đồng phải được trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội dung phản ánh đúng,
đầy đủ các vấn đề đã thỏa thuận.
Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ phổ biến mà cả hai bên
cùng thông thạo.
Các điều khoản của hợp đồng phải tuân thủ đúng pháp luật quốc tế cũng như
pháp luật của các bên tham gia ký hợp đồng.
Người ký kết hợp đồng phải có đủ thẩm quyền chịu trách nhiệm về nội dung
đã ký.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi lý hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện
hợp đồng mình đã ký. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành
sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp
đồng.
-23-
Sơ đồ các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
II. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN.
1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản.
Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ.
Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất
lượng khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ hàng nông
sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Chính vì vậy,
đối với mối doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông sản, việc nghiên cứu thị
trường (cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài) từ đó đưa ra những
dự báo phục vụ cho quá trình thu mua dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng
vào lúc trái vụ là thực sự cần thiết. Nếu doanh nghiệp đáp ứng được đơn đặt
hàng vào lúc trái vụ thì lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được so với lúc chính vụ
sẽ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động
thu hoach hàng nông sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Với đặc
tính này buộc doanh nghiệp phải có mạng lưới thu mua rộng khắp và phải chuẩn
bị đủ vốn để thực hiện công tác thu mua có hiệu quả.
Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết. Nếu năm
nào, khu vực nào có mưa thuận gió hoà, thì cây cối phát triển, cho năng suất cao,
hàng nông sản sẽ tràn ngập trên thị trường và giá rẻ. Ngược lại, nếu năm nào,
khu vực nào có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường
xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có chất lượng không cao, gía cao. Căn
cứ vào đặc tính này các doanh nghiệp có thể tìm ra cơ hội kinh doanh cho mình.
Chẳng hạn: Khu vực thị trường nào có các doanh nghiệp xuất khẩu cùng một
Chuẩn bị
hàng
Xin giấy phép
xuất khẩu
Thuê
tàu
Kiểm
ngiệm
Làm thủ
tục hải
Giải quyết
khiếu nại
Hoàn
thành bộ
Mua bảo
hiểm
Giao hàng
lên tàu
-24-
mặt hàng với doanh nghiệp, là đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thời tiết,
khí hậu khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên thì khu vực ấy sẽ bị
mất mùa hàng nông sản. Doanh nghiệp phải tận dụng ngay cơ hội này để đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu.
Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng
của người tiêu dùng. Chính vì vậy nó luôn là yếu tố đầu tiên được người tiêu
dùng quan tâm. Tại các quốc gia phát triển nhập khẩu hàng nông sản, ngày càng
có nhiều yêu cầu được đặt ra đối với hàng nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng,
vệ sinh, an toàn toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ.... Vì vậy để xâm nhập vào
các thị trường khó tính này buộc doanh nghiệp phải đáp ứng được những yêu
cầu mà họ đặt ra.
Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì: Giá
cả hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng
nông sản không những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều
vào khâu bảo quản và chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản
xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh nghiệp đặc biệt
quan tâm. Ngoài ra, với tính chất dễ ẩm, mốc, biến chất của hàng nông sản buộc
các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải quan tâm tới điều khoản thời hạn giao
hàng bởi điều khoản này sẽ quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất
lượng hàng nông sản khi có vấn đề phát sinh.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của
cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự
đánh giá về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau. Chẳng
hạn: Đối với mặt hàng gạo. Trên thị trường thế giới hiện nay có 6 loại gạo chính,
mỗi loại gạo trên lại có thể phân chia thành hai hay nhiều nhóm. Mỗi nhóm
thích ứng với từng thị trường riêng. Cụ thể: Thị trường Châu âu và quen tiêu
dùng gạo ngon, hạt dài song thị trường Châu Á lại quen tiêu dùng gạo chất
lượng trung bình, hạt dài. Thị trường Châu Phi quen tiêu dùng gạo hấp (luộc sơ)
có chất lượng không cao song loại gạo này lại không được chấp nhận ở các thị
trường còn lại. Thị trường Trung Đông quen tiêu dùng gạo thơm, thị trường Lào
quen tiêu dùng gạo nếp...
-25-
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có thể được ưa thích ở thị
trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở thị
trường này song lại rất thấp ở thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng
nông sản đối với một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu, thị
trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp.
2. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới.
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu ăn, uống của con
người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhu cầu hàng
nông sản có phẩm cấp cao ngày càng tăng, nhu cầu hàng có phẩm cấp thấp ngày
càng giảm xuống. Tuy nhiên hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của
con người vẫn giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối với sự tồn tại
của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng nông sản.
nhưng các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ
yếu. Tuy nhiên hàng nông sản được xuất khẩu từ các nước này chủ yếu là các
mặt hàng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên có gía trị xuất khẩu chưa cao.
Những nước không có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp là
những nước chính nhập khẩu hàng nông sản. Đây có thể là các nước chậm phát
triển, đang phát triển hoặc phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của mỗi nước đối với
hàng nông sản rất khác nhau. Thông thường các nước chậm phát triển và đang
phát triển có nhu cầu nhập khẩu một số lượng lớn sản phẩm lương thực. Những
sản phẩm này có yêu cầu về chất lượng không cao, giá rẻ và chỉ cần một sự thay
đối nhỏ về giá cả sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành vi tiêu dùng của người
dân tại các nước này. Ngược lại, tại các nước phát triển, người tiêu dùng chỉ
chấp nhận sản phẩm có chất lượng cao mặc dù giá đắt.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị thu hẹp lại. Hiện tại các
nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới. Tuy
nhiên các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến và sâu rộng chế độ
trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường nông sản nội
địa dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: Năm 1995,1996 số tiền trợ giá cho nông
-26-
sản xuất khẩu chỉ riêng của EU đã bằng 80% tổng số tiền trợ giá của tất cả các
thành viên thuộc WTO. Cơ chế trợ cấp và trợ giá quá cao cho hàng nông sản ở
các nước đang phát triển đã gây sự bóp méo giá cả hàng nông sản xuất khẩu, hạn
chế tác động của quy luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh tranh hàng nông sản
của các nước đang phát triển vốn nhờ vào lao động rẻ. Cơ chế này không những
làm tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của các nước này mà còn hạn chế
nhập khẩu nông sản của các nước này. Đây thực tế là một bất lợi lớn đối với sản
xuất nông nghiệp và xuất khẩu khẩu nông sản của các nước đang phát triển
(trong đó có Việt Nam).
Trước sức ép của xu hướng tự do hoá thương mại buộc các nước phát triển
phải nhất trí sự cần thiết giảm trợ giá cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu, mở
rộng tự do hoá thị trường nông sản thế giới ở một cuộc họp tại Mỹ vào tháng 11
năm 1999. Điều này dường như dẫn tới một tương lai sáng sủa hơn cho sản xuất
nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, giờ
đây sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển lại
phải đối mặt với những rào chắn khác, đó là những quy định chặt chẽ về vệ sinh
an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái mà trong nhiều trường hợp người ta
xem đó là hình thức bảo hộ trá hình nhằm ngăn cản hàng nông sản của các nước
đang phát triển tràn vào thị trường các nước phát triển.
Các nước Châu Phi cũng có nhu cầu nông sản lớn nhưng khả năng thanh
toán hạn hẹp. Trong khi đó Liên Hợp Quốc chỉ còn hỗ trợ nhập khẩu lương thực
cho những nước có khủng hoảng chính trị.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong khi nguồn cung
cấp nông sản khá dồi dào ở các nước Châu Á, Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc Mỹ đã
đẩy kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình trạnh cạnh tranh quyết
liệt khiến cho giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, gây bất lợi
cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những nước xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích ở trên, thị trường nông sản thế giới đang bị thu hẹp,
nguồn cung cấp hàng nông sản trên thị trường thế giới ngày càng dồi dào, cạnh
tranh giữa các nước xuất khẩu nông sản nguyên liệu diễn ra ngày càng gay gắt
buộc các nước đang phát triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu cho các
-27-
nước phát triển với giá thấp (các nước đang phát triển sẽ chế biến lại để xuất
khẩu). Mặt khác hàng nông sản chế biến sâu của các nước đang phát triển lại
phải cạnh tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở
thế yếu hơn do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công nghệ
chế biến nông sản xuất khẩu. Trong những điều kiện này, ưu thế cạnh tranh trên
thị trường thế giới thuộc về các nước phát triển. Các nước này đã trở thành
người chi phối và chiếm ưu thế trong quan hệ buôn bán nông sản trên thị trường.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang phát triển. Tuy nhiên theo
đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) với
tốc độ phát triển như hiện nay (dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ cao nhưng
đất đai sử dụng cho nông nghiệp lại giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá
làm cho tốc độ tăng bình quân nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp lớn hơn
tốc độ tăng bình quân sản lượng nông sản trên thị trường thế giới) thì đến năm
2010 cầu về hàng nông sản trên thị trường thế giới sẽ vượt xa cung. Điều này
mở ra một cơ hội mới cho các nước đang phát triển xuất khẩu nông sản nói
chung và Việt Nam nói riêng có thể đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong tương
lai.
3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam.
a. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam.
Việt Nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng nông sản, nếu như
được đầu tư một cách đồng bộ, lâu dài, khắc phục những yếu kém trong khâu
thu mua, chế biến thì Việt Nam có thể trở thành một trung tâm sản xuất hàng
nông sản lớn. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam thể hiện ở các
điểm sau:
Về đất đai:
Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của nước
ta là 10 - 11,157 triệu ha với 8 triệu ha cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng
5,4 triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm) hiện nay nước ta mới chỉ sử dụng
65% quỹ đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây
-28-
lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước.
Chúng ta có một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc Bộ
5% tổng diện tích, Khu 4 cũ 35% tổng diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng
diện tích. Nếu chúng ta đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc
phát triển cây công nghiệp dài ngày như Cao su, hạt tiêu, cà phê.
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích
đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng
nhưng hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông
nghiệp còn lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy chúng ta vẫn có
thể khai thác được vùng Đồng Bằng màu mỡ này nếu biết đầu tư phát triển sản
xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác
cũng cần tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp.
Đất Việt Nam có tầng dầy tơi xốp với chất dinh dưỡng cao kết hợp với sự
đa dạng và phong phú về chủng loại (có 64 loại thuộc 14 nhóm) đây là một điều
kiện rất tốt cho nhiều loại cây trồng phát triển.
Về khí hậu.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ
gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc
vào miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và
Đồng Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam Á. Đây là điều kiện khí hậu
thuận lợi để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ẩm
và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt
của nước ta được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ
lớn, độ ẩm tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2000
Mỹ/nămlà điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Vị trí địa lý và các cảng khẩu.
Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế
bằng đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương thức vận tải này có
nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn.
-29-
Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam
có nhiều thuận lợi nổi bật. Đường biển nước ta có hình chữ “S”, hệ thống cảng
biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung,
Nam, có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á,
Thái Bình Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số cảng có khả
năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho bảo quản tốt. Và gần đường
hàng hải quốc tế.
Về nguồn nhân lực.
Dân số nước ta là gần 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ với trên 80% sống
bằng nghề nông. Đây là một lực lượng lao động hùng hậu cung cấp cho khu vực
nông nghiệp. Mặc dù chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp hơn so với
nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng con người Việt Nam với bản chất cần cù
sáng tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất lượng lao động ngành
nông nghiệp Việt Nam.
Tình hình kinh tế của Việt Nam với các chính sách nông nghiệp.
Với mục đích hoà nhập vào đời sống kinh tế thế giới và tiến tới việc mở
rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam đã tích cực tham
gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực.
Tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
ASEAN và đã ký kết các văn kiện của hiệp hội như hiệp định khung về tăng
cường hợp tác ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
gia nhập WTO. Ngoài ra Việt Nam còn tiến hành các cơ quan xúc tiến thương
mại nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin đầy đủ về thị trường
xuất khẩu như trung tâm xúc tiến thương mại OSAKA và ROMA.
Ngoài những điều kiện thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và nhà nước
Việt Nam, xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nên việc sản xuất, chế biến,
xuất khẩu hàng nông sản cũng được chú trọng và quan tâm. Việc ưu đãi đầu tư
trong và ngoài nước nước vào lực lượng sản xuất nông sản đã và đang tạo được
động lực mới cho sự phát triển của ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng tạo được những bước đột phá.
-30-
Tóm lại, với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động kết hợp với
đường lối, chủ trương đúng đắn của nhà nước hoạt động sản xuất và xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam trong những năm tới chắc chắn sẽ đạt được những
bước lớn góp phần quan trọng của sự phát triển đất nước.
b. Tình hình sản xuất hàng nông sản Việt Nam.
Sau hơn 15 năm thực hiện theo đường lối đổi mới, ngành nông nghiệp
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Sản xuất nông nghiệp phát triển
toàn diện, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Trong sự
phát triển chung ấy nổi bật nhất là sự phát triển trong sản xuất lương thực.
Những năm qua sản xuất lương thực có tốc độ tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng
trưởng bình quân là 5%/năm do vậy không những đáp ứng được đầy đủ nhu cầu
tiêu dùng trong nước, đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia mà còn
biến nước ta từ một nước nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ
2 trên thế giới.
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, việc đa dạng hoá cây trồng,
mở rộng diện tích trồng trọt, thực hiện theo phương châm đất nào trồng cây ấy
trong những năm qua đã mang lại hiệu quả kinh tế cao trong nông nghiệp.
Chẳng hạn: Đối với cây cà phê năm 1986 diện tích trồng mới là 65,6 nghìn ha
trong đó chỉ có 19 nghìn ha cho sản phẩm có sản lượng là 18,5 nghìn tấn thì các
năm sau đó sản lượng tăng rất nhanh. Năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt 92 nghìn
tấn, năm 1995 sản lượng đạt 218 nghìn tấn thì đến năm 1997 sản lượng đã đạt
400 nghìn tấn; Đối với cây cây cao su. Năm 1986 sản lượng mới chỉ đạt 50 ngìn
tấn thì năm 1998 sản lượng đã là 190 nghìn tấn, tăng gấp 3,8 lần so với năm
1986; Đối với cây chè năm 1997 diện tích đạt 78,6 nghìn ha cho sản lượng
47000 tấn chè búp khô thì năm 1998 sau khi thanh lý 7982 ha, trồng mới 26000
ha thì diện tích chè còn khoảng 73000 ha, cho sản lượng trên 50.000 tấn chè búp
khô.
Trình độ thâm canh, ứng dụng khoa học vào trong sản xuất nông nghiệp đã
được cải thiện do vậy năng suất cây trồng đã tăng đáng kể. Rõ ràng nhất là đối
với cây lúa. Năm 1986 năng suất lúa mới chỉ đạt 28,1 tạ/ha thì năm 1998 năng
-31-
suất đã là 39,6 tạ/ha, cao hơn năng suất trung bình 38,05 tạ/ha của thế giới và
23tạ/ha của Thái Lan. Năng suất cao su của Việt Nam năm 1998 đạt 1tấn/ha cao
hơn mức 916 tạ/ha của thế giới, gấp 1,3 lần năng suất của Indonexia. Năng suất
cà phê của Việt Nam cao gấp 1,5 lần của Brasin, gấp 1,7 lần Colombia và gấp
2,17 lần Indonexia.
Tuy đã có những tiến bộ như đã nêu ở trên song ngành sản xuất nông
nghiệp ở nước ta vẫn còn không ít hạn chế. Điển hình là: Chất lượng hàng nông
sản của ta chưa cao, hiện nay còn nhiều vùng, nhiều địa phương nông dân còn
chạy theo năng suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng sản phẩm. Việc mở
rộng quá mức diên tích trồng lúa vụ 3 ở Đông Bằng Sông Cửu Long, cũng như
sử dụng lúa lai ở Trung Quốc cho năng suất cao nhưng chất lượng thấp ở các
tỉnh phía Bắc, sử dụng quá nhiều phân bón hoá học và thuốc kích thích tăng
trưởng trong sản xuất cũng là một trong những lý do làm cho chất lượng hàng
nông sản của Việt Nam chưa cao.
c. Tình hình chế biến một số mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Chế biến đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt
động chế biến hàng nông sản phục vụ cho xuất khẩu chủ yếu được thực hiện bởi
những người sản xuất với phương tiện chế biến thô sơ lạc hậu, nên có năng suất
thấp. Hoạt động này chưa được thực hiện một cách hợp lý, đồng bộ, chưa được
quan tâm một cách đúng mức nên sản phẩm tạo ra thường có phẩm cấp thấp do
tạp chất nhiều, ngoại hình không hấp dẫn, chất lượng không cao. Những yếu
kém trong khâu chế biến được xem là nổi cộm nhất hiện nay và là một trong
những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
d. Tình hình xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam.
Có thể nói rằng từ năm 1990 trở lại đây, hơn 10 thực hiện chủ trương phát
triển xuất khẩu, ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng
nông sản nói riêng đã có những chuyển biến lớn. Điều đó được thể hiện ở một số
nét sau:
-32-
Hoạt động xuất khẩu nông sản có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và ổn định.
Đặc biệt là ở các mặt hàng Gạo, cà phê, cao su. Sản lượng xuất khẩu của các mặt
hàng này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt
Nam giai đoạn 1995 - 2000
ĐV: 1000 tấn
Năm
Mặt hàng
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Gạo 2058 3047 3682 3800 4500 3500
Cà phê 248,1 281,4 391,6 382 487,5 640
Cao su 138,1 194,5 195 197 265 325
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT,
2000.
Hiện nay các mặt hàng này đã vươn lên trở thành các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam. So với tốc độ phát triển bình quân trên thế giới thì ba mặt
hàng trên của Việt Nam có tốc độ phát triển cao và có nhiều mặt hàng đã vươn
lên đứng vị trí cao trong số các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Chẳng hạn: từ năm 1997, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ về xuất khẩu gạo, chỉ
đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng
xuất khẩu, vươn lên đứng vị trí số 3 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau
Brasin và Colombia. Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng
đầu của thế giới.
Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam trong những năm qua cũng tăng lên rõ rệt. Tỷ trọng gạo 25% tấm
giảm từ 60% như trước đây xuống còn 30% như hiện nay, gạo chất lượng cao
5% tấm tăng từ 20% lên 50-60% trong thời gian tương ứng, cà phê loại một tăng
từ 15% năm 1994 lên 72% năm 1998. Chất lượng hàng xuất khẩu tăng lên làm
cho gía hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua cũng tăng. Chênh lệch
-33-
giữa giá gạo Việt Nam với Thái Lan giảm từ 50 đến 60 USD/tấn năm 1995
xuống còn xuống còn 10 đến 15 USD/tấn năm 1998, chênh lệch giá với cà phê
Braxin từ 600 USD/tấn năm 1995 xuống còn 150 USD/tấn năm 1998.
Trong những năm qua số lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
ngày càng tăng, chất lượng hàng xuất khẩu ngày càng được cải thiện tuy nhiên
do chịu sự tác động lớn của tình hình cung, cầu hàng nôngsản trên thị trường thế
giới nên kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng, giảm không
ổn định.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu giai đoạn
1995 - 2000.
ĐV: triệu USD
Năm
Mặt hàng
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Gạo 530 868 891 1100 1080 668
Cà phê 595,5 420 497,5 593,8 592 480
Cao su 193,51 163,3 194,6 127,5 145 178
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT.
Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ngày càng mở rộng.
Nếu những năm trước đây hàng nông sản của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu
sang Liên Xô và các nước Đông Âu thì nay hàng nông sản của Việt Nam đã có
mặt ở khắp các châu lục. Hàng nông sản của Việt Nam đã gây được sự chú ý và
đã bắt đầu thâm nhập vào những thị trường khó tính như Anh, Thuỵ Sĩ, Nhật
Bản, Pháp, Hồng Kông...và những thị trường xa lạ như Mỹ la tinh và Châu Phi.
Ngoài ra một số mặt hàng nông sản của Việt Nam đã xây dựng được mối quan
hệ hợp tác, liên doanh, liên kết được với một số cơ sở chế biến nông sản nổi
tiếng trên thế giới. VD: Cà phê đã xây dựng được mối quan hệ với 60 khách
hàng thuộc 40 quốc gia, trong đó có sự hiện diện của các hãng cà phê nổi tiếng
như Nestle (Mỹ), Newman (Đức), ED và Fman (Anh), Vocate (Thuỵ Sĩ), Adirat
-34-
(Pháp), Itochu (Nhật Bản); cao su đã xây dựng thành công mối quan hệ truyền
thống với 20 khách hàng từ các quốc gia Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Nhật Bản,
Hàn Quốc và Trung Quốc.
Trên đây là những thành tựu mà ngành nông sản xuất khẩu Việt Nam đã
đạt được trong thời gian qua. Tuy nhiên ngành vần còn không ít những tồn tại
trong quá trình hoạt động của mình. Những tồn tại gồm:
Tuy tốc độ tăng trưởng ở một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
tương đối cao nhưng so với tiềm năng phát triển của ngành và so với kết qủa
xuất khẩu hàng nông sản của một số quốc gia khác trên thế giới thì kết quả đạt
được như trên còn quá khiêm tốn. Chẳng hạn: Năm 1998. Đối với mặt hàng Cà
phê lượng xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ bằng 38,35% lượng xuất khẩu của
Braxin và bằng 60% lượng xuất khẩu của Colombia; Đối với Cao su lượng xuất
khẩu mới chỉ bằng 12% của Indonexia và bằng 10,75% lượng xuất khẩu của
Thái Lan.
Nam nhưng số lượng thị trường nhập khẩu truyền thống chỉ khoảng 10
quốc gia trong đó hầu hết là các quốc gia Châu Á. Đa số thị trường nhập khẩu
hàng nông sản Việt Nam là những thị trường nhập khẩu với khối lượng nhỏ,
không ổn định.
Trên thị trường thế giới hàng nông sản Việt Nam chủ yếu tồn tại ở dạng thô
hoặc mới chỉ qua sơ chế, bao bì, mẫu mã lạc hậu, thiếu sức hấp dẫn nên gía hàng
nông sản Việt Nam không cao, hàng nông sản Việt Nam còn phải chấp nhận lấy
mức giá trung bình trên thị trường thế giới làm tiêu chuẩn và mức phấn đấu của
mình. Thêm và đó, hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam rất yếu nên
khả năng thâm nhập vào những thị trường chính ngạch (thị trường đòi hỏi chất
lượng cao, tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt) của hàng nông sản của Việt Nam rất
thấp, hàng Việt Nam chưa có chỗ đứng trong siêu thị của các thị trường này.
Chình vì vậy, trong thời gian qua hàng nông sản Việt Nam chủ yếu phải xuất
khẩu qua môi giới trung gian, tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp rất thấp.
-35-
Hoạt động thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường còn bộc lộ nhiều yếu
kém. Thông tin thu thập được chưa cập nhật, biến động giá cả, tình hình cung,
cầu trên thị trường chưa nắm được nên lúc giá trên thị trường cao thì lại không
có hàng xuất khẩu còn khi giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư thừa dẫn
đến việc bị hách hàng ép giá, phải xuất khẩu với giá thấp, hiệu quả xuất khẩu
không cao.
Qua phân tích tình hình sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam thời gian qua ta thấy những thành tựu mà ngành đạt được trong thời
gian qua thật đáng khích lệ ... Tuy nhiên vẫn còn không ít các vấn đề tồn tại cần
được giải quyết. Chính vì vậy, trong thời gian tới để tiếp tục phát triển Việt Nam
phải phát huy những thành tựu đã đạt được và tìm ra giải pháp cho những tồn tại
của mình.
e. Vai trò của hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản.
Trong hơn 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã
hội, nông nghiệp nước ta đã đóng vai trò quan trọng vào thắng lợi chung của sự
nghiệp đổi mới, là nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển trong những
năm tiếp theo. Vai trò của hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta
trong những năm qua được thể hiện ở một số điểm sau:
Hoạt động sản xuất nông sản góp phần quan trọng vào việc đảm bảo nhu
cầu tiêu thụ hàng nông sản trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đóng góp phần đáng kể vào việc tích
luỹ vốn cho quá trình công nghiệp hoá đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh
toán cũng như nhu cầu ngoại tệ.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đã tác động trực tiếp đến đời sống của
người nông dân trên nhiều phương diện. Khi thực hiện xuất khẩu, một lượng
hàng nông sản dư thừa trên thị trường nội địa sẽ được giải quyết, lập lại quan hệ
cung cầu ở mức giá cao hơn, nông dân không những bán được nông sản mà còn
-36-
bán được giá. Hoạt động này làm cho nông dân có thu nhập cao hơn từ đó làm
tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn với 80% dân số.
Đây chính là một động lực thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản sẽ khai thác tối đa lợi thế của Việt
Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên đất nước, nguồn nhân lực... Hơn nữa hiện
nay Đảng và nhà nước ta đang thực hiện xây dựng các mô hình kinh tế mới như
kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới ...
thì hoạt động xuất khẩu nông sản càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, hoạt
động này sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy các mô hình kinh tế mới phát triển.
-37-
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA
CÔNG TY VILEXIM .
I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY.
1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty.
a. Tên gọi.
Tên Việt Nam: Công ty xuất nhập khẩu với Lào.
Tên tiếng Anh: Việt Nam National Import-Export with Laos.
b. Trụ sở.
Trụ sở chính của công ty tại 4A - Đường Giải Phóng - Hà Nội.
Ngoài trụ sở chính tại Hà Nội công ty còn có các chi nhánh và văn phòng đại
diện đặt tại các tỉnh, thành phố sau:
Chi nhánh tại thành phố HCM: 6/59 Bis đường Cao Thắng quận 3.
Đại diện ở Đông Hà Quảng Trị.
Đại diện tại Vientinate - Cộng hòa nhân dân Lào.
c. Nguồn vốn hoạt động của công ty.
Vốn điều lệ: 9.717.179.746 đồng.
Vốn lưu động: 5.757.471.539 đồng.
Vốn cố định: 3.959.708.207 đồng.
Trong những năm tiếp theo tùy theo yêu cầu của công ty, công ty sẽ tiếp tục tăng
thêm nguồn vốn bằng cánh bổ sung thêm từ lợi nhuận của công ty.
-38-
2. Lịch sử hình thành công ty.
Công ty VILEXIM Hà Nội trực thuộc Bộ Thương Mại được thành lập ngày
24-12-1987 theo quyết định số 82/VNG-TCCB của Bộ Ngoại Thương (nay là
Bộ Thương Mại). Tiền thân của công ty là công ty xuất nhập khẩu biên giới
được thành lập năm 1967 thực hiện nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa của các nước
XHCN chi viện cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Lào. Từ năm 1976
đến năm 1987 ngoài nhiệm vụ vận chuyển hàng viện trợ cho Lào, công ty còn
được Bộ Thương Mại giao cho tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp
với Lào và trong thời gian này công ty đổi tên thành công ty xuất nhập khẩu với
Lào. Trước chính sách mở cửa nền kinh tế của đất nước, để tồn tại và tiếp tục
phát triển công ty đã không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh doanh với
nhiều tổ chức, công ty kinh doanh của nước ngoài. Đến nay công ty đã có quan
hệ ngoại giao với khoảng 40 nước và quan hệ kinh doanh với khoảng trên 23
nước trên thế giới.
3. Cơ cấu tổ chức của công ty .
Công ty xuất nhập khẩu với Lào là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc
Bộ Thương Mại. Cơ cấu của công ty là một thể thống nhất từ trên xuống. Được
thể hiện ở sơ đồ sau:
Phòng tổ chức
hành chính
Phòng kế toán
tài vụ
Phòng kế hoạch
tổng hợp
Phó giám đốc
Phòng dịch vụ
đầu tư
Giám đốc Các phòng XKN
-39-
từ 1-4
Đại diện
Đông Hà -Quảng Trị
Chi nhánh
tại TP.HCM
Phó giám đốc
Đại diện
tại Viênchăn-Lào
Ban lãnh đạo công ty: Là bộ phận đứng đầu công ty.
Giám đốc công ty là đồng chí Nguyễn Khánh Kiền, được Bộ trưởng Bộ
Thương Mại bổ nhiệm. Giám đốc là đại diện hợp pháp cho mọi quyền lợi và
nghĩa vụ của công ty trước pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nước. Giám đốc
sẽ trực tiếp điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng, có quyền quyết định
mọi hoạt động kinh doanh của công ty sao cho có hiệu quả đồng thời là người
chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ thương Mại và tập thể cán bộ công nhân
viên trong công ty.
Tham mưu cho giám đốc là hai phó giám đốc.
Phó giám đốc: Tăng Văn Cường - phụ trách công tác xuất nhập khẩu, hành
chính ở các kho Cổ Loa, kho Pháp Vân, kho 139 Lò Đúc, kho và cơ quan đại
diện tại Đông Hà, liên doanh đầu tư và công tác đời sống cho cán bộ công nhân
viên.
Phó giám đốc: Nguyễn Trường Sơn - Phụ trách chi nhánh tại Thành Phố
HCM và văn phòng đại diện tại Viên Chăn Lào.
Các phó giám đốc có quyền triển khai các quyết định của giám đốc, giúp
giám đốc điều hành công ty, tạo sự nhịp nhàng, thống nhất và chịu trách nhiệm
trước giám đốc về nghiệp vụ chuyên môn và lập báo cáo định kỳ lên giám đốc.
Dưới ban lãnh đạo là các phòng ban chức năng, các chi nhánh và văn phòng
đại diện. Cụ thể:
-40-
Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho giám đốc quản lý nhân sự trong
công ty. Gồm: Sắp xếp, tuyển chọn, thuyên chuyển, lập kế hoạch đào tạo cán bộ,
đánh giá chất lượng cán bộ, xét duyệt định mức tiền lương lao động trong công
ty. Ngoài ra còn quản lý công văn, giấy tờ trong các quan hệ đối nội và đối
ngoại của công ty.
Phòng kế toán tài vụ: có chức năng huy động vốn và các nguồn lực khác
phục vụ cho công tác kinh doanh của công ty, tiến hành nhận vốn và tài sản của
nhà nước giao cho công ty, tổ chức hạch toán kinh doanh, kiểm tra, kiểm soát
việc chấp hành các chế độ quản lý tài chính của các đơn vị thành viên trong
công ty, lập các báo cáo tài chính định kỳ, tổng hợp và công khai tình hình tài
chính của công ty, cung cấp số liệu, tài liệu liên quan đến tình hình tài chính của
công ty cho giám đốc cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng.
Phòng kế hoạch tổng hợp: Thực hiện chức năng tổng hợp, báo cáo tình
hình hoạt động của công ty. Qua đó, ban giám đốc sẽ đề ra phương án sản xuất
kinh doanh phù hợp.
Phòng kinh doanh: Gồm 6 phòng, trong đó có 4 phòng thực hiện chức năng
xuất nhập khẩu, 1 phòng đầu tư có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi tình hình
triển khai của các dự án đầu tư, đồng thời lập kế hoạch đầu tư trình ban giám
đốc, 1 phòng dịch vụ nhận các dịch vụ thuộc phạm vi kinh doanh của công ty
theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước .
Chi nhánh và văn phòng đại diện: Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện
có quyền ra quyết định và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh và
văn phòng đại diện, có quan hệ với các cơ quan chủ quản cấp trên, với các đơn
vị kinh tế trong và ngoài nước. Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện có
nhiệm vụ báo cáo hoạt động kinh doanh của mình lên phó giám đốc điều hành
chi nhánh, văn phòng đại diện đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước
ban giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên về quá trình điều hành sản xuất
và kinh doanh của mình.
4. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty .
a. Nhiệm vụ.
-41-
Nghiên cứu khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường để thông qua hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu đẩy mạnh quan hệ thương mại, hợp tác đầu tư
và các quan hệ khác có liên quan đến kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các
nước khác, đặc biệt là với Lào để thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng và nhà
nước đề ra - là cầu nối liền tình đoàn kết giữa hai nước Việt - Lào.
Hoạt động theo pháp luật hiện hành của nước CHXHCN Việt Nam và
những quy định riêng của toàn công ty. Cụ thể: xây dựng và tổ chức thực hiện
các kế hoạch sản xuất kinh doanh theo cơ chế hiện hành để thực hiện mục tiêu
và nội dung hoạt động như đã quy định trong điều lệ công ty; tuân thủ các chính
sách, chế độ luật pháp của nhà nước về quản lý kinh tế tài chính; thực hiện
nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế mà công ty đã ký; quản lý và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn nhằm thực hiện tốt các hoạt động kinh doanh; nhập
khẩu và thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao chất lượng và khả năng
cạnh tranh của hàng hóa.
b. Quyền hạn.
Được chủ động giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng mua
bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế và các văn bản về hợp tác liên doanh với
các bạn hàng trong và ngoài nước theo nội dung hoạt động của công ty.
Được vay vốn ở trong và ngoài nước, được hợp tác liên doanh với các tổ
chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước theo quy chế của
pháp luật hiện hành của nhà nước.
Được tham gia vào các hội chợ triển lãm, quảng cáo hàng hóa, tham gia các
hội nghị, hội thảo chuyên đề có liên quan đến hoạt động của công ty trong và
ngoài nước.
Được cử cán bộ của công ty đi công tác nước ngoài hoặc mời bên nước
ngoài vào Việt Nam để giao dịch, đàm phán, ký kết các vấn đề thuộc nội dung
hoạt động của công ty .
5. Nội dung hoạt động của công ty.
a. Các lĩnh vực hoạt động của công ty.
-42-
Công ty trực tiếp xuất nhập khẩu hàng hóa với Lào và một số nước khác hoặc
nhận ủy thác xuất nhập khẩu và dịch vụ thuộc phạm vi kinh doanh của công ty
theo yêu cầu của khách hàng. Công ty có thể sản xuất gia công các mặt hàng để
xuất khẩu hoặc liên doanh liên kết với các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước. Ngoài ra, công ty có thể làm đại lý tiêu thụ hoặc lắp ráp,
bảo hành, sửa chữa xe máy, các lĩnh vực dịch vụ hàng hóa quá cảnh qua Việt
Nam.
b. Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty.
Hàng nông sản, lâm sản có: lạc, chè, cà phê, hạt tiêu, gỗ, sắn lát, đậu.
Hàng bông vải sợi may mặc có: hàng dệt kim,các loại sợi, các loại vải thêu
ren, khăn mặt...
Hàng thủ công mỹ nghệ: Đồ gốm, sứ, sơn mài.
Dược liệu: Sa nhân, quế, các cây thuốc dân tộc.
Công ty đã nhập khẩu các mặt hàng: Kim loại đen và kim loại màu, dây cáp
nhôm, đồng, kẽm.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA CÔNG
TY VILEXIM GIAI ĐOẠN 1996 - 2000.
Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển
vượt bậc. Trong sự phát triển chung ấy không thể không nhắc đến những kết quả
mà ngành nông nghiệp đã đạt được. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và kinh
doanh xuất khẩu hàng nông sản. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, phải
nhập khẩu lương thực, cảnh đói ăn trong nhân dân xảy ra thường xuyên thì đến
nay Việt Nam không những không còn cảnh đói ăn mà còn là một trong những
nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Có được những thành tựu to lớn ấy
là nhờ vào sự nỗ lực không ngừng của mọi cá nhân, mọi đơn vị trong toàn
ngành. Trong sự phát triển chung của ngành nông nghiệp Việt Nam cũng có sự
đóng góp của công ty VILEXIM.
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong những ngày đầu mới thành lập như:
Bị hạn chế trong chức năng kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật vừa yếu lại vừa
thiếu, cán bộ công nhân viên trong công ty mới chỉ được tiếp xúc với khái niệm
-43-
cơ chế thị trường trong một thời gian ngắn nên có rất ít kinh nghịêm về thị
trường, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên còn non kém, cơ chế
chính sách của nhà nước lại thường xuyên thay đổi. Nhưng vượt lên những khó
khăn, cùng với ban lãnh đạo đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty đã nổ
lực không ngừng để tìm ra các thức kinh doanh có hiệu quả nhất. Trên thực tế
những kết quả mà công ty đã đạt được trong thời gian qua thật đáng khích lệ.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty, đặc biệt là đối với hàng nông sản
ngày càng tăng, các mặt hàng ngày càng đa dạng, khả năng thu mua hàng nông
sản xuất khẩu, duy trì thị trường cũ và tiếp cận thị trường mới đang dần được cải
thiện. Ngoài ra hàng năm từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản công ty giải
quyết công ăn việc làm, mang lại thu nhập ổn định cho nhiều lao động trong và
ngoài công ty đồng thời đóng góp hàng chục tỷ đồng vào ngân sách nhà nước.
Để hiểu rõ hơn về kết quả kinh doanh hàng nông sản của công ty trong thời gian
qua ta sẽ đi sâu nghiên cứu một số chỉ tiêu sau:
1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường thế giới, tuy
gặp rất nhiều khó khăn để tăng kim ngạch xuất khẩu nhưng những năm qua mặt
hàng nông sản xuất khẩu của công ty đã có những bước tiến vượt bậc, kim
ngạch xuất khẩu không ngừng tăng và đến nay mặt hàng nông sản đã trở thành
mặt hàng xuất khẩu chủ kực của công ty.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM giaiđoạn
1996 - 2000. ĐV: USD
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Giá trị 5.244.000 3.286.816,2 4.387.264,6 5.695.007 8.740.900
Tốc độ TT -37,3% 33,48% 29, 8% 53,48%
Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
-44-
Qua bảng số liệu trên: Nếu năm 1996 giá trị xuất khẩu hàng nông sản của
công ty đạt 5.244.000 USD thì năm 2000 giá trị xuất khẩu đạt 8.740.900 USD.
Tăng về giá trị tuyệt đối là 3.496.900 USD tương đương với 66,69%. Tuy nhiên
nếu xét riêng từng năm ta thấy:
Năm 1997: là một năm đầy rẫy khó khăn đối với công ty. Kim ngạch
xuất khẩu hàng nông sản của công ty giảm sút đáng kể. Nếu năm 1996 giá trị
xuất khẩu hàng nông sản của công ty đạt 5.244.000 USD thì năm 1997 giá trị
xuất khẩu hàng nông sản của công ty chỉ đạt 3.286,18 USD, giảm 37,3% so với
năm 1996 (đây là một con số khá lớn đối với công ty).
Nguyên nhân chính làm kim ngạch xuất khẩu năm 1997 giảm so với năm
1996 là do: Cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra ở các nước ASEAN (là những thị
trường tiêu thụ sản phẩm chính của công ty) vào tháng 7/1997 đã làm cho nhu
cầu hàng nông sản trên thị trường các nước ASEAN giảm nghiêm trọng. Do vậy
sản phẩm của công ty tiêu thụ ở thị trường này rất chậm, thậm chí trong năm
công ty đã phải ngừng xuất khẩu một số mặt hàng truyền thống tại những trường
tiêu thụ truyền thống của công ty. Thêm vào đấy, cuộc khủng hoảng tài chính đã
làm cho đồng tiền của các nước trong khu vực rẻ tương đối so với đồng tiền Việt
Nam nên sức cạnh trang về giá sản phẩm của công ty rẻ hơn nhiều so với sản
phẩm cùng loại của của nước trong khu vực. Trong năm công ty đã phải hạ giá
hầu hêt các sản phẩm của mình song sản phẩm của công ty tiêu thụ vẫn rất
chậm, giá trị hàng tồn kho lớn. VD: Năm 1996: Giá lạc nhân của công ty là:
550 USD/tấn thì năm 1997 giá giảm xuống còn 536 USD/tấn; giá hạt điều giảm
từ 1200 USD/tấn xuống còn 1150 USD/tấn; giá vừng giảm từ 580USD/tấn
xuống còn 500USD/tấn.
Sang năm 1998: cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực tiếp tục tác
động gay gắt đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Thị trường tiêu thụ
sản phẩm của công ty tiếp tục bị thu hẹp, giá một số mặt hàng chủ lực tiếp tục
giảm mạnh. Tuy nhiên rút kinh nghiệm từ năm 1997, ban lãnh đạo công ty đã đề
ra phương hướng và những biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình hiện tại đưa
công ty vượt lên những khó khăn để tồn tại và tiếp tục phát triển. Trên thực tế,
-45-
kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty đã có sự cải thiện rõ rệt. Năm
1998 kim ngạch xuất khẩu đã tăng so với năm 1997 là 1.100.448,45USD, tương
đương với 33,49%. Một số biện pháp mà công ty đã áp dụng cho phù hợp với
tình hình mới đó là: Bổ sung và hoàn chỉnh cơ chế khoán kinh doanh với mức
phí thích hợp, đảm bảo vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh thông qua việc
tranh thủ các mối quan hệ ngân hàng để vay vốn, đôn đốc bàn hàng tốn kho để
vay vốn...
Sang năm 1999 và năm 2000, cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực đã
tạm ngưng, nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực đã bắt đầu hồi phục nên
cầu về hàng nông sản của công ty đã bắt đầu tăng trở lại. Do vậy kim ngạch xuất
khẩu của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 tiếp tục được cải thiện.
Năm 1999 giá trị xuất khẩu hàng nông sản tăng so với năm 1998 là
1.307.742,34USD tương đương với 29,8%. Tuy xét về giá trị tăng tương đối của
năm 1999 so với năm 1998 nhỏ hơn giá trị tăng của năm 1998 so với năm 1997
nhưng xét về giá trị tăng tuyệt đối thì giá trị tăng của năm 1999 so với 1998 vẫn
lớn hơn giá trị tăng của năm 1998 so với 1997.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu xuất khẩu nông sản của công ty đã tăng so
với năm 1999 là 3.045.893,03 USD tương đương với 53,48%. Ngoài nguyên
nhân chính là nền kinh tế trong khu vực đã hồi phục còn phải kể đến một số
nguyên nhân khác làm kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng đáng kể trong hai
năm 1999 và 2000 là:
Mặt hàng xuất khẩu của công ty trong thời gian qua đã được mở rộng.
Số lượng từng mặt hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước.
Nghiệp vụ thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của cán bộ công nhân viên
trong công ty đã hoàn thiện hơn nên chất lượng hàng cao hơn, tiết kiệm được chi
phí hơn do vậy lợi nhuận thu được từ mỗi thương vụ xuất khẩu cũng cao hơn.
Trong hai năm 1999 và 2000 công ty đã gặp nhiều thuận lợi hơn so với các
năm trước đó nhưng vẫn còn không ít khó khăn mà công ty gặp phải. Đó là số
lượng các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu hàng nông sản ngày
-46-
càng tăng làm cho tình trạng tranh mua, tranh bán xảy ra phổ biến. Giá hàng
nông sản thu mua trong nước bị đẩy lên cao song khi ra thị trường nước ngoài
thì doanh nghiệp lại bị ép bán hàng với giá rẻ bởi hàng nông sản được xuất khẩu
ồ ạt ra thị trường và các doanh nghiệp đều mong muốn hàng của mình được tiêu
thụ nhanh chóng nên chấp nhận bán với giá cạnh tranh hơn so với đối thủ cạnh
tranh.
Trong thời gian qua, không những kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của
công ty tăng mà tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu của công ty cũng tăng. Hàng
nông sản đang có xu hướng trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Bảng 5: Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu của công ty VILEXIM giai đoạn
1996 - 2000. ĐV: USD.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
KNXKN
S
5.244.000 3.286.818,2 4.387.264,6 5.695.007 8.740.900
TKNXK 7.225.000 6.570.523,4 8.437.047,4 10.546.310 12.000.000
Tỷ trọng 72,58% 50% 52% 54% 72,84%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu hàng nông
sản của công ty chiếm 72,58% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên trong
3 năm 1997, 1998, 1999 giá trị này lại giảm xuống còn 50%, 52%, 54%.
Nguyên nhân của sự giả sút này chính là những khó khăn mà công ty gặp phải
như đã phân tích ở phần trên. Đến năm 2000, hàng nông sản của công ty đã có
ưu thế trở lại trong cơ cấu hàng xuất khẩu và đã chiếm tới 72,84% tổng giá trị
xuất khẩu của công ty. Hiện tại và trong thời gian tới, hàng nông sản đang có xu
hướng trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiến lược của công ty.
2. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
Bảng 5: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty giai đoạn 1996 - 2000.
-47-
-48-
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
Năm 1996: Lạc nhân là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng vị trí số
một của công ty. Tiếp theo sau là hạt điều, sắn lát, vừng, đậu. Đối với mặt hàng
lạc nhân, khối lượng xuất khẩu năm 1996 là 7800 tấn, tăng so với năm 1995 là
4800 tấn, tương đương với 160% song về kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng so với
năm 1995 là 2,4triệu USD, tương đương với 78,75%. Như vậy, tốc độ tăng về
-49-
khối lượng lớn hơn tốc độ tăng về kim ngạch. Nguyên nhân của hiện tượng tốc
độ tăng về kim ngạch không theo kịp tốc độ tăng về khối lượng là do giá lạc
nhân của công ty trong năm giảm mạnh (giá lạc nhân năm 1996 giảm 80
USD/tấn so với năm 1995). Sau khi mất đi vị trí của mình trong danh sách các
mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty năm 1995, năm 1996 mặt hàng sắn lắt
đã được xuất khẩu trở lại. Tuy nhiên các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của
công ty như cà phê, ngô, hạt tiêu, hành, tỏi lại không có trong danh sách các mặt
hàng xuất khẩu.
Các năm 1997, 1998, 1999: mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty
giống nhau. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu năm 1996, các mặt hàng cà phê, hạt
tiêu, hành, tỏi đã tìm lại được chỗ đứng của mình. Ngoài ra công ty còn xuất
khẩu thêm một số mặt hàng khác như gạo, kê, che, lá tre và nâng tổng số mặt
hàng xuất khẩu của công ty là 12. Lạc nhân vẫn là mặt hàng được xuất khẩu với
số lượng lớn nhất trong 3 năm 1997, 1998, 1999. Tiếp theo đó là hạt tiêu, hạt
điều, gạo, cà phê. Tuy nhiên các mặt hàng này có một chút sự thay đổi vị trí xếp
hạng trong từng năm.
Năm 2000, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty có sự biến động mạnh
so với các năm trước đó. Điển hình là sự tăng đột biến trong xuất khẩu gạo. Mặt
hàng gạo từ chỗ đứng vị trí thứ 3 trong kim ngạch xuất khẩu năm 1997, thứ 2
năm 1998 và năm 1999, chiếm tỷ trọng khẩu trên 10% trong tổng kim ngạch
xuất hàng nông sản thì đến năm 2000 gạo đã vươn lên đứng vị trí thứ nhất với tỷ
trọng trên 40%. Ngoài ra số lượng mặt hàng nông sản đã bị thu hẹp xuống còn 8
với sự biến mất của cà phê, hạt điều, kê, lá tre và sự trở lại của sắn lát, sự xuất
hiện của mặt hàng mới (hoa hồi).
Nguyên nhân làm cho hai mặt hàng cà phê, hạt điều (các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực các năm trước của công ty) biến khỏi danh sách hàng nông sản xuất
khẩu năm 2000 là: cung các mặt hàng này trên thị trường thế giới tăng nhưng
cầu lại giảm mạnh. Do đó hàng của công ty không thể cạnh tranh để tiêu thụ ở
thị trường thế giới.
-50-
Qua phân tích cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty thời gian
qua thấy có một số vấn đề tồn tại sau:
Mặt hàng xuất khẩu của công ty tương đối rộng, công ty xuất khẩu dàn trải
ở nhiều mặt hàng song do tiềm lực về tài chính và nhân lực của công ty có hạn
nên số lượng xuất khẩu ở từng mặt hàng không cao, kim ngạch xuất khẩu thu
được ở từng mặt hàng cũng không cao.
Có sự bất ổn định lớn trong xuất khẩu ở một số mặt hàng có tiềm năng sản
xuất và xuất khẩu của Việt Nam (mặt hàng ấy cũng được xem là mặt hàng chủ
lực và chiến lược của công ty) VD: Hai mặt hàng điều và cà phê, là những mặt
hàng đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho công ty ở các năm 1997, 1998, 1999
nhưng lại không còn được xuất khẩu ở năm 2000.
3. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
a. Khái quát chung chất lượng hàng nông sản của công ty.
Công ty VILEXIM là một công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu. Công ty
không tổ chức sản xuất và chế biến hàng nông sản xuất khẩu nên chất lượng
hàng nông sản xuất khẩu của công ty phụ thuộc vào quá trình sản xuất, chế biến,
bảo quản hàng nông sản chung của cả nước thông qua nghiệp vụ thu mua tạo
nguồn hàng xuất khẩu.
Trong thời gian qua, nhà nước ta đã quan tâm song chưa thực sự hiệu quả
vấn đề giúp đỡ nhân dân có nguồn vốn ban đầu để trang trải cho việc mở rộng
diện tích gieo trồng, thay đổi giống cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nên nông dân nhiều khi phải trồng những loại cây thoái hoá, lẫn
tạp, chất lượng không đồng bộ hoặc chạy theo những giống cây trồng cho năng
suất cao nhưng chất lượng lại thấp.
Quá trình chế biến, hàng nông sản của cả nước cũng tác động đến chất
lượng hàng xuất khẩu của công ty. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến
hàng nông sản của nước ta chưa thực sự được chú trọng đầu tư phát triển nên
hàng xuất khẩu của công ty chủ yếu là sản phẩm thô hoặc mới chỉ qua sơ chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường thế giới.
-51-
Ngoài ra, với tính chất dễ mốc, ẩm, biến chất thì khâu bảo quản cũng đóng
vai trò quan trọng quyết định chất lượng hàng xuất khẩu. Hiện nay hệ thống sân
phơi, kho bãi, phòng sấy và các thiết bị khác phục vụ công tác bảo quản hàng
nông sản nhìn chung vẫn còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng. Hệ thống
kho tàng mới chỉ là nơi chứa hàng chứ chưa đủ điều kiện là nơi bảo quản, chống
mối, mọt, nấm...cho hàng. Các nhà máy sấy còn thiếu, quy mô nhỏ, chủ yếu là
sử dụng các biện pháp thủ công với nguyên liệu chính là than củi nên năngsuất
chế biến thấp, chất lượng không đảm bảo.
Tóm lại hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của công ty
nói riêng còn thấp. Vì vậy hàng nông sản xuất khẩu của công ty gặp phải nhiều
khó khăn khi cạnh tranh với các đối thủ xuất khẩu sản phẩm cùng loại.
b. Chất lượng một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Chất lượng lạc nhân xuất khẩu.
Khí hậu nhiệt đới nước ta là điều kiện thuận lợi cho cây lạc phát triển. Với
đặc điểm là cây công nghiệp ngắn ngày (85-90 ngày), cây lạc đặc biệt phù hợp
với những vùng hay bị thiên tai, hạn hán. Vì vậy, miền Trung và Trung Du là hai
nguồn cung cấp lạc chủ yếu của nước ta.
Trong những năm qua, nhận thức rõ vai trò của cây lạc trong sản xuất và
xuất khẩu nông nghiệp, các địa phương trong nước đã tích cực thực hiện công
tác khuyến nông, từng bước đưa giống lạc mới có năng suất và chất lượng cao
vào gieo trồng đồng thời áp dụng một số tiến bộ khoa học vào sản xuất. Vì vậy
chất lượng lạc nhân xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của công ty
VILEXIM nói riêng đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, so với một số nước
khác cũng sản xuất lạc trên thế giới thì chất lượng lạc của VILEXIM còn kém
hơn nhiều. VD: So sánh về cỡ hạt: Lạc nhân Việt Nam có cỡ hạt khoảng 60 - 70
hạt / ounce trong khi đó lạc nhân của Mỹ chỉ khoảng 40 hạt / ounce.
Ngoài yếu tố giống, phương pháp gieo trồng, công tác chế biến và bảo quản
cũng có tác động trực tiếp đến chất lượng Lạc xuất khẩu của công ty.
-52-
Thông thường hạt Lạc tươi chiếm khoảng 40% độ ẩm. Theo yêu cầu chung
của thị trường thế giới thì sau khi phơi khô hàm lượng này chỉ còn 10% hoặc ít
hơn, khi bảo quản Lạc phải có độ ẩm <10%. Hiện nay chúng ta thường nhờ
nắng, gió làm khô Lạc. Tuy rằng biện pháp này rất kinh tế song lại không chủ
động, gặp lúc trời mưa hay nắng yếu phải phơi kéo dài. Đây là dịp tốt để các
sinh vật có hại phát triển trên hạt Lạc. Những quá trình sinh lý bất lợi như (hô
hấp, tự bốc nóng) cũng sẽ xảy ra và làm giảm chất lượng Lạc. Đặc biệt là việc
phơi lạc dưới nắng Hè quá lâu (như trong điều kiện nắng và gió Lào Nghệ
Tĩnh) sẽ gây hiện tượng chảy dầu và dễ bị vỡ khi bóc vỏ, làm giảm chất lượng
Lạc.
Như vậy, có thể thấy khí hậu nhiệt đới của nước ta không những là điều
kiện khí hậu tuyệt vời cho cây nông nghiệp phát triển mà cũng là điều kiện
thuận lơi cho các loại sâu, mọt, nấm, mốc ... phát triển. Chính vì vậy công tác
bảo quản phải được công ty đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên trong thời gian qua,
hệ thống kho tàng bảo quản của công ty vẫn chưa được đầu tư thích đáng,
phương tiện bảo quản còn thiếu và yếu kém nên đã gây ảnh hưởng dến chất
lượng lạc xuất khẩu của công ty.
Chất lượng gạo xuất khẩu.
Gạo là mặt hàng mới được công ty xuất khẩu trong những năm gần đây
song đã là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, được đánh gía là có triển vọng và góp
phần quan trọng vào sự phát triển của công ty. Cũng như lạc nhân, chất lượng
gạo xuất khẩu của công ty phụ thuộc vào chất lượng sản xuất và chế biến lúa
gạo của cả nước.
Trong những năm qua, nước ta đã có sự tập trung đầu tư lớn vào việc sản
xuất gạo. Cụ thể: Giống gieo trồng đã được tuyển chọ kỹ lưỡng hơn, đã thu thập
thêm được nhiều giống mới cho chất lượng và năng suất cao phù hợp với điều
kiện sản xuất và thời gian sinh trưởng ngắn ngày, đã đầu tư vào một số dây
truyền xay xát hiện đại, công tác tổ chức bảo quản được thực hiện chu đáo hơn.
Vì vậy chất lượng gạo Việt Nam trong những năm qua đã có sự cải thiện rõ rệt,
nhiều loại gạo đã đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường thế giới.
-53-
Tuy nhiên trong những năm qua, gạo xuất khẩu của công ty đa số là loại
gạo có phẩm cấp chưa cao. Điều này không hẳn là công ty không có khả năng
cung ứng gạo có phẩm cấp cao ra thị trường thế giới mà ngược lại, đó chính là
chiến lược ứng xử hợp lý trong chiến lược kinh doanh xuất khẩu của công ty căn
cứ vào giá cả và nhu cầu thực tế của thị trường thế giới. Trong điều kiện giá tăng
mạnh, nhiều nước nghèo thường tập trung tiêu dùng loại gạo có chất lượng thấp
nên đẩy giá gạo loại này tăng nhiều hơn so với giá loại gạo có chất lượng cao.
Do vậy việc xuất khẩu loại gạo có phẩm cấp thấp là cách ứng xử tình huống
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Đương nhiên trong chiến lược
phát triển lâu dài, công ty phải chủ trương tăng tỷ trọng xuất khẩu loại gạo có
chất lượng cao theo xu hướng phát triển chung của thị trường gạo thế giới.
4. Giá cả hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
Trong thời gian qua mặc dù đã rất cố gắng nâng cao số lượng, chủng loại
hàng nông sản xuất khẩu song hiệu quả kinh tế mà công ty thu được từ hoạt
động này vẫn chưa cao, tốc độ tăng trưởng về số lượng luôn lớn hơn về tốc độ
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do
giá hàng nông sản xuất khẩu của công ty chưa cao, giá của một số mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của công ty còn thấp hơn rất nhiều so với giá xuất khẩu bình quân
của thị trường thế giới và so với giá của các đối thủ cạnh tranh của công ty.
Một số nguyên nhân làm cho gía hàng xuất khẩu của công ty chưa cao đó là:
Hiện nay hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty vẫn còn mang
tính chất từng chuyến, từng đợt nên khó tìm được bạn hàng tiêu thụ ổn định.
Hàng nông sản xuất khẩu của công ty đến với khách hàng quốc tế thường phải
qua trung gian nên bị ghìm giá, ép giá. Mặt khác, với sự bán hàng một cách ồ ạt,
bán hàng bằng mọi giá, thiếu sự liên kết của các doanh nghiệp trong nước như
hiện nay cũng là một kẽ hở để khách hàng nước ngoài ghìm giá, ép giá.
Do thiếu hợp đồng gối đầu, thiếu thông tin về thị trường và các kinh
nghiệm kinh doanh nên tiến độ hàng xuất khẩu của công ty ngược với sự biến
động giá thị trường quốc tế. Có những mặt hàng khi giá trên thị trường thế giới
-54-
tăng mạnh thì công ty lại chưa có hàng xuất khẩu, khi công ty có hàng xuất khẩu
thì lại là lúc giá trên thị trường thế giới giảm nhiều.
Công ty tham gia xuất khẩu hàng nông sản khi thị trường hàng nông sản thế
giới đã được phân chia cho một số lượng lớn các doanh nghiệp trong và ngoài
nước xuất khẩu nông sản. Sự biến động tình hình cung cầu hàng nông sản trên
thị trường thế giới trong thời gian qua (cung thường lớn hơn cầu) Và một số yếu
tố khác như: Quy cách, chất lượng sản phẩm thấp, không đồng đều, cơ sở hạ
tầng phục vụ xuất khẩu còn yếu kém, các hoạt động kiểm phẩm, xông trùng...có
độ tin cậy không cao, nguồn hàng cung cấp không ổn định, hầu như chỉ xuất
khẩu theo giá FOP cũng là những nguyên nhân làm giảm giá hàng nông sản xuất
khẩu của công ty.
Bảng 6: Giá một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty trong giai đoạn
1996 - 2000. ĐV:USD/tấn
Năm
Mặt hàng
1996 1997 1998 1999 2000
Lạc nhân 550 536 492 500 546
Gạo 197
Cà Phê
Hạt điều 1.200 1.150 1.000
Vừng 580 500 650 600
Ngô 95 100 100 100
Sắn lát 70 60 65 70 100
Hạt tiêu 4.200 4.300 4.000
Tỏi 700
Bột sắn 300
Đậu 280 280 300
-55-
Hoa hồi 250 4.070
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
5. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty.
a. Các hình thức thu mua tạo nguồn của công ty.
Là một đơn vị kinh tế thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, song công ty
không trực tiếp sản xuất ra hàng để xuất khẩu. Chính vì vậy việc thu gom tạo
nguồn hàng xuất khẩu được công ty chú trọng. Hiện nay có ba hình thức được
công ty sử dụng để thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đó là: Thu mua theo
hình thức mua đứt bán đoạn, hình thức hàng đổi hàng và hình thức ủy thác xuất
khẩu. Sau đây ta sẽ đi sâu phân tích cụ thể từng hình thức.
Thu mua hàng theo hình thức mua đứt bán đoạn.
Đây là hình thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong hoạt động thu mua
hàng nông sản xuất khẩu của công ty. Với hình thức này công ty phải ký hai hợp
đồng . Đó là: Hợp đồng mua hàng và hợp đồng xuất khẩu. Công ty sẽ dựa trên
yêu cầu của hợp đồng xuất khẩu để đưa ra các điều kiện phù hợp cho hợp đồng
thu mua về chất lượng, số lượng, mẫu mã, phương thức thanh toán... Khi công ty
và người cung ứng thỏa thuận xong các điều khoản thì sẽ hai bên sẽ tiến hành ký
hợp đồng. Hợp đồng chính là một công cụ để đảm bảo rằng công ty sẽ có hàng
để xuất khẩu. Thông thường, công ty sẽ trả tiền cho người bán sau khi nhận
được đủ hàng hóa như đã ghi trong hợp đồng. Nhưng trong trường hợp ký hợp
đồng với các nhà cung ứng đáng tin cậy đã có quan hệ truyền thống với mình thì
công ty ứng trước một khoản tiền nhỏ để đáp ứng tâm lý của người bán hàng là
muốn thu tiền nhanh gọn. Với hình thức thu mua này, công ty có thể so sánh
được giá mua và giá bán cũng như các giá mua với nhau, tính toán được chính
xác được chi phí lưu thông hàng hóa, từ đó công ty sẽ chọn được nhà cung ứng
tối ưu.
Tuy có nhiều ưu điểm song hình thức này cũng có nhiều nhược điểm. Đó là
khả năng rủi ro công ty gặp phải cao bởi công ty có thể bị thua lỗ, thua thiệt vì
-56-
những biến động bất thường mà công ty không thể kiểm soát được. Chẳng hạn:
công ty ký hợp đồng với khách hàng ở một mức giá thấp nhưng khi đi thu mua
hàng xuất khẩu lại không mua được với giá thấp hơn giá đã ký do những biến
động bất thường; công ty phải giao hàng với mức giá thấp như trong hợp đồng
đã ký với nhà nhập khẩu tại thời điểm giá thị trường lên cao; chất lượng hàng
hóa không đều và không cao do nguồn cung cấp hàng của công ty không ổn
định, công ty có thể phải mua hàng của nhiều nhà cung ứng; công ty có thể bị
nhiều nhà cung ứng đồng loạt ép tăng gía mua hàng khi công ty đã gần đến thời
hạn giao hàng. Hơn nữa, khi kết thúc mỗi thương vụ làm ăn thì sự ràng buộc
giữa công ty và nhà cung ứng cũng mất đi. Vì vậy trước hiện tượng tranh mua,
tranh bán như hiện nay, công ty sẽ gặp nhiều khó khăn trong các lô hàng tiếp
theo.
Hình thức hàng đổi hàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới.pdf