Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10: Luận văn
Thực trạng và một số biện pháp
nhằm duy trì và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm tại
Công ty cổ phần Dệt 10-10
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 40 năm chịu ảnh hưởng của cơ chế kế
hoạch hoá quan liêu bao cấp, nay đã và đang thích nghi với cơ chế mới - cơ chế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Nhìn lại chặng đường của sự đổi mới đó cũng thấy rất nhiều điều phải ghi
nhận. Đó là đơn vị kinh tế quốc doanh do quen với phương thức làm ăn cũ
không bắt kịp cùng với phương thức làm ăn mới mà thị trường đang đòi hỏi, đã
lâm vào tình trạng thua lỗ, có những doanh nghiệp dẫn đến giải thể hay phá sản.
Song bên cạnh đó lại có rất nhiều doanh nghiệp rất năng động, tích cực nghiên
cứu học hỏi, áp dụng đúng phương thức đầu tư kinh doanh mới nên không
những đứng vững trên thị trường mà còn phát triển ngày càng với quy mô lớn
và lợi nhuận thu về ngày càng cao. Trong số đó ngày càng nhiều các doanh
nghiệp mới xuất hiện.
Mỗi doanh nghiệp là ...
74 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 951 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và một số biện pháp
nhằm duy trì và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm tại
Công ty cổ phần Dệt 10-10
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 40 năm chịu ảnh hưởng của cơ chế kế
hoạch hoá quan liêu bao cấp, nay đã và đang thích nghi với cơ chế mới - cơ chế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Nhìn lại chặng đường của sự đổi mới đó cũng thấy rất nhiều điều phải ghi
nhận. Đó là đơn vị kinh tế quốc doanh do quen với phương thức làm ăn cũ
không bắt kịp cùng với phương thức làm ăn mới mà thị trường đang đòi hỏi, đã
lâm vào tình trạng thua lỗ, có những doanh nghiệp dẫn đến giải thể hay phá sản.
Song bên cạnh đó lại có rất nhiều doanh nghiệp rất năng động, tích cực nghiên
cứu học hỏi, áp dụng đúng phương thức đầu tư kinh doanh mới nên không
những đứng vững trên thị trường mà còn phát triển ngày càng với quy mô lớn
và lợi nhuận thu về ngày càng cao. Trong số đó ngày càng nhiều các doanh
nghiệp mới xuất hiện.
Mỗi doanh nghiệp là tế bào cơ bản tạo nên hệ thống kinh tế quốc dân của
mỗi nước. Doanh nghiệp có làm ăn khá mới giúp cho đất nước được phồn vinh
phát triển. Vì vậy các chủ doanh nghiệp phải biết cách kinh doanh, để làm giầu
cho bản thân, cho doanh nghiệp và tổ quốc.
Muốn được kết quả như vậy các doanh nghiệp phải tìm cho mình một thị
trường tiêu thụ sản phẩm thích hợp. Các doanh nghiệp muốn tiêu thụ được nhiều
sản phẩm thì thị trường của doanh nghiệp phải được mở rộng. Chính vì vậy
trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để duy trì thị trường
truyền thống và mở rộng thị trường mới.
Thị trường ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp, cơ chế
thị trường là cơ chế cạnh tranh có đào thải, ai hiểu rõ được về thị trường, nắm
bắt được các cơ hội của thị trường thì sẽ dành thắng lợi trong kinh doanh. Doanh
nghiệp nào sản xuất ra được các sản phẩm thị trường cần và phù hợp với nhu
2
cầu thị hiếu khách hàng thì doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh và đứng
vững trên thị trường.
Như vậy thị trường là rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Nhất là trong giai đoạn này và trong tương lai.
Cũng như những doanh nghiệp công nghiệp khác. Công ty cổ phần Dệt 10-10
Hà nội cũng rất quan tâm tới vấn đề tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm của Công ty trong môi trường vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Thị
trường ngành Dệt đang có những cơn sóng gió lớn. Việc tìm ra giải pháp hữu
hiệu để đứng vững và phát triển luôn là vấn đề mà Công ty hết sức quan tâm và
là bài toán phải giải quyết.
Vận dụng lý luận đã học, những vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ
sản phẩm kết hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời được
sự giúp đỡ của thầy giáo Mai Văn Bưu em chọn đề tài :
“Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10 “.
Do trình độ còn hạn chế, thời gian thực tập chưa nhiều lên luận văn không
thể chánh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của ban lãnh
đạo Công ty, của thầy giáo hướng dẫn để luận văn của em phong phú về lý luận
và sát với thực tế hơn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm 3 phần:
Phần I : Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là nhiệm cơ bản
và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Phần II : Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần
Dệt10-10.
Phần III : Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm tại Công ty Dệt 10-10.
3
Phần I
DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM LÀ
NHIỆM VỤ CƠ BẢN VÀ LÂU DÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG :
1. Khái niệm về thị trường.
Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là môi trường để
tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại của mọi doanh
nghiệp công nghiệp. Trong một xã hội phát triển, thị trường không nhất thiết chỉ
là địa điểm cụ thể gặp gỡ trực tiếp giữa người mua và người bán mà doanh
nghiệp và khách hàng có thể chỉ giao dịch, thoả thuận với nhau thông qua các
phương tiện thông tin viễn thông hiện đại. Cùng với sự phát triển của sản xuất
hàng hoá, khái niệm thị trường ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Có
một số khái niệm phổ biến về thị trường như sau:
1) Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt
động mua bán giữa người mua và người bán.
2) Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các
quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của
các doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và quyết định của
người lao động về việc làm là bao lâu, cho ai đều được quyết định bằng giá cả.
3) Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu, trong đó những người mua
và người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán
nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Việc xác định nên
mua hay bán bàng hoá và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do quan hệ
cung cầu quyết định. Từ đó ta thấy thị trường còn là nơi thực hiện sự kết hợp
giữa hai khâu sản xuất và tiêu dùng hàng hoá.
4) Thị trường là phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ
bản của thị trường được thể hiện qua 3 nhân tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau
4
nhu cầu hàng hoá dịch vụ, cung ứng hàng hoá dịch vụ và giá cả hàng hoá dịch
vụ.
5) Khái niệm thị trường hoàn toàn không tách rời khái niệm phân công lao
động xã hội. Các Mác đã nhận định “hễ ở đâu và khi nào có sự phân công lao
động xã hội và có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy sẽ có thị trường. Thị
trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công lao động xã hội và do đó có thể
phát triển vô cùng tận ”
6) Thị trường theo quan điểm Maketing, được hiểu là bao gồm tất cả
những khách hàng tiềm ẩn cùng có nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và
có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Tóm lại, thị trường được hiểu là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một loại
hàng hoá, dịch vụ hàng hoá hay cho một đối tác có giá trị. Ví dụ như thị trường
sức lao động bao gồm những người muốn đem sức lao động của mình để đổi lấy
tiền công hoặc hàng hoá. Để công việc trao đổi trên được thuận lợi, dần đã xuất
hiện những tổ chức kiểu văn phòng, trung tâm giới thiệu, xúc tiến việc làm cho
người lao động. Cũng tương tự như thế, thị trường tiền tệ đem lại khả năng vay
mượn, cho vay tích luỹ tiền và bảo đảm an toàn cho các nhu cầu tài chính của
các tổ chức, giúp họ có thể hoạt động liên tục được. Như vậy điểm lợi ích của
người mua và người bán hay chính là gía cả được hình thành trên cơ sở thoả
thuận và nhân nhượng lẫn nhau giữa cung và cầu.
2. Phân loại và phân đoạn thị trường :
2.1. Phân loại thị trường :
Một trong những điều kiện cơ bản để sản xuất kinh doanh có hiệu quả là
doanh nghiệp phải hiểu biết thị trường và việc nghiên cứu phân loại thị trường là
rất cần thiết. Có 4 cách phân loại thị trường phố biến như sau:
Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
- Thị trường địa phương: Bao gồm tập hợp khách hàng trong phạm vi địa
phương nơi thuộc địa phận phân bố của doanh nghiệp.
5
- Thị trường vùng: Bao gồm tập hợp những khách hàng ở một vùng địa lý
nhất định. Vùng này được hiểu như một khu vực địa lý rộng lớn có sự đồng nhất
về kinh tế - xã hội.
- Thị trường toàn quốc: Hàng hoá và dịch vụ được lưu thông trên tất cả
các vùng, các địa phương của một nước.
- Thị trường quốc tế: Là nơi diễn ra các giao dịch buôn bán hàng hoá và
dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau.
Phân loại theo mối quan hệ giữa người mua và người bán
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người mua và
nhiều người bán cùng một loại hàng hoá, dịch vụ. Hàng hoá đó mang tính đồng
nhất và giá cả là do thị trường quyết định.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người
mua và người bán cùng một loại hàng hoá, sản phẩm nhưng chúng không đồng
nhất. Điều này có nghĩa loại hàng hoá sản phẩm đó có nhiều kiểu dáng, mẫu mã,
bao bì, nhãn hiệu kích thước... khác nhau. Giá cả hàng hoá được ấn định một
cách linh hoạt theo tình hình tiêu thụ trên thị trường.
- Thị trường độc quyền: Trên thị trường chỉ có một nhóm người liên kết
với nhau cùng sản xuất ra một loại hàng hoá. Họ có thể kiểm soát hoàn toàn số
lượng dự định bán ra trên thị trường cũng như giá cả của chúng.
Phân loại theo mục đích sử dụng của hàng hoá
- Thị trường tư liệu sản xuất: Đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường là các loại tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu, năng lượng, động lực,
máy móc thiết bị...
- Thị trường tư liệu tiêu dùng: Đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường là các vật phẩm tiêu dùng phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của dân cư
như quần áo, các loại thức ăn chế biến, đồ dùng dân dụng...
Phân loại theo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp
- Thị trường đầu vào: Là nơi doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhằm
mua các yếu tố đầu vào cần thiết cho sản xuất. Có bao nhiêu yếu tố đầu vào thì
6
sẽ có bấy nhiêu thị trường đầu vào (thị trường lao động, thị trường tài chính -
tiền tệ, thị trường khoa học công nghệ, thị trường bất động sản...).
- Thị trường đầu ra: Là nơi doanh nghiệp tiến hành các giao dịch nhằm
bán các sản phẩm đầu ra của mình. Tuỳ theo tính chất sử dụng sản phẩm của
doanh nghiệp mà thị trường đầu ra là tư liệu sản xuất hay thị trường tư liệu tiêu
dùng.
2.2. Phân loại thị trường :
Hiện nay, dân số trên thế giới đã đạt con số 6 tỷ người - một con số khổng
lồ và được phân bố trên phạm vi rộng với những sở thích thói quen khác nhau.
Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng làm cho tất cả mọi người ưa thích
sản phẩm của mình ngay là một điều không tưởng và không thể được. Trước hết,
họ cần phải khôn khéo tập trung vào phục vụ một bộ phận nhất định của thị
trường, tìm mọi cách hấp dẫn và chinh phục nó. Từ đó xuất hiện khái niệm
“Phân đoạn thị trường”. Nó được hiểu việc phân chia thị trường thành những
nhóm người mua hàng khác nhau theo độ tuổi giới tính, mức thu nhập, tính
cách, thói quen, trình độ học vấn ...
Không hề có một công thức phân đoạn thị trường thống nhất cho tất cả
các doanh nghiệp mà họ buộc phải thử các phương án phân đoạn khác nhau
trên cơ sở kết hợp các tham biến khác nhau theo ý tưởng của riêng mình. Tuy
nhiên, có thể tóm lại 4 nguyên tắc phân đoạn các thị trường tiêu dùng như sau :
Nguyên tắc địa lý
- Nguyên tắc này đòi hỏi chia cắt thị trường thành các khu vực địa lý khác
nhau như quốc gia, tỉnh, thành phố, thị xã, miền..., thành các khu vực có mật độ
dân số khác nhau như thành thị, nông thôn, thành các khu vực có trình độ dân trí
khác nhau như miền núi, đồng bằng...
Nguyên tắc nhân khẩu học
Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc nhân khẩu học là việc phân chia thị
trường thành những nhóm căn cứ vào biến nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác,
quy mô gia đình, giai đoạn của chu kỳ gia đình, mức thu nhập, loại nghề nghiệp,
trình độ văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng và dân tộc. Đây là các biến phổ biến nhất
7
làm cơ sở để phân biệt các Phân đoạn thị trường theo phương pháp nhân khẩu
học là việc phân chia thị trường thành những nhóm căn cứ vào biến nhân khẩu
như giới tính, mức thu nhập, tuổi tác, quy mô gia đình, giai đoạn của chu kỳ gia
đình, loại nghề nghiệp, trình độ học vấn tôn giáo, tín ngưỡng và dân tộc. Đây là
các biến phổ biến nhất làm cơ sở để phân biệt các nhóm người tiêu dùng. Điều
này có thể lý giải bởi sở thích, mong muốn hay nhu cầu của khách hàng có liên
quan chặt chẽ tới đặc điểm nhân khẩu học. Hơn nữa các biến này dễ đo lường,
đơn giản và dễ hiểu hơn các biến khác.
- Biến giới tính: Đã được áp dụng từ lâu trong việc phân đoạn các thị
trường thời trang quần áo, mỹ phẩm, sách báo... Ở đây có sự khác biệt khá rõ nét
trong thị hiếu tiêu dùng giữa nam và nữ.
- Tuổi tác khác nhau cũng dẫn đến những nhu cầu khác nhau. Ví dụ như
thị trường kem đánh răng đối với trẻ em: cần chú ý một số tiêu thức như độ ngọt
cao, có thể nuốt được và chống sâu răng, đối với thanh niên cần có nhu cầu về
làm bóng, trắng răng và hương thơm, đối với người già nổi bật là nhu cầu làm
cứng và chắc răng...
- Cuối cùng, việc doanh nghiệp có tiêu thụ được sản phẩm của mình được
hay không lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng có nhu cầu.
Mức thu nhập của người dân có cao thì khả năng thanh toán mới lớn. Nhiều
doanh nghiệp đã áp dụng phương pháp giá phân biệt cho các tầng lớp lao động
trong xã hội và đã thu được nhiều thành công.
Nguyên tắc hành vi
Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc hành vi là việc phân chia người mua
thành nhiều nhóm khác nhau theo các biến lý do mua hàng, lợi ích mong muốn
thu được, tình trạng người sử dụng, cường độ tiêu dùng, mức độ trung thành,
mức độ sẵn sàng chấp nhận hàng và thái độ với món hàng đó.
Có nguyên tắc này bởi vì người tiêu dùng quyết định mua hàng hoá nhằm
thoả mãn một lợi ích mong đợi nào đó. Nếu sản phẩm đủ sức hấp dẫn, họ sẽ trở
thành khách hàng thường xuyên và trung thành của doanh nghiệp. Một doanh
nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì điều cần thiết không phải là đẩy
mạnh tiêu thụ mà phải nhận biết, hiểu kỹ lưỡng hành vi của khách hàng để đáp
8
ứng đúng thị hiếu của từng nhóm khách hàng một và từ đó sản phẩm sẽ tự được
tiêu thụ trên thị trường.
Nguyên tắc tâm lý
Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc tâm lý là việc phân chia người mua
thành những nhóm theo đặc điểm giai tầng xã hội, lối sống và đặc tính nhân
cách.
Nguồn gốc giai tầng có ảnh hưởng mạnh đến sở thích của con người đặc
biệt là đối với quần áo, đồ dùng dân dụng, thói quen nghỉ ngơi, đi du lịch, đọc
sách báo... Những người thuộc tầng lớp trung lưu thường đi tìm những sản phẩm
hàng đầu, hàm chứa nhiều giá trị thẩm mĩ độc đáo và thậm chí cả cách chơi chữ,
còn những người thuộc tầng lớp hạ lưu lại vừa lòng với thông thường nhất, phù
hợp với túi tiền ít ỏi của mình. Ngoài ra phong cách hay lối sống hàng ngày
cũng được thể hiện khá rõ trong cách tiêu dùng của người dân. Những người “cổ
hủ“ thường thích những chiếc quần bò với kiểu cách giản dị, tiện lợi, hay những
người năng động, lại là những người thích các loại xe ô tô dáng thể thao khoẻ
mạnh. Nhiều doanh nghiệp khi thiết kế sản xuất hàng hoá dịch vụ đã đưa vào
những tính chất và đặc tính làm vừa lòng chính những người này.
3. Vai trò và chức năng của thị trường
3.1. Vai trò của thị trường
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp góp phần vào việc thoả mãn
các nhu cầu của thị trường, kích thích sự ra đời của các nhu cầu mới và nơng cao
chất lượng nhu cầu... Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, thị trường có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị
trường vừa là động lực, vừa là điều kiện, vừa là thước đo kết quả và hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp
- Là động lực: Thị trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh
nghiệp nếu muốn tồn tại được phải luông nắm bắt được các nhu cầu đó và định
hướng mục tiêu hoạt động cũng phải xuất phát từ những nhu cầu đó. Ngày nay,
mức sống của người dân được tăng lên một cách rõ rệt do đó khả năng thanh
toán của họ cũng cao hơn. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh thay nhau
9
ra đời cạnh tranh dành giật khách hàng một cách gay gắt bởi vì thị trường có
chấp nhận thì doanh nghiệp mới tồn tại được nếu ngược lại sẽ bị phá sản. Vậy
thị trường là động lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Là điều kiện: Thị trường bảo đảm cung ứng có hiệu quả các yếu tố cần
thiết để doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Nếu
doanh nghiệp có nhu cầu về một loại yếu tố sản xuất nào đó thì tình hình cung
ứng trên thị trường sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tiêu cực hoặc tích cực tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy thị trường là điều kiện sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Là thước đo: Thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả
của các phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong qua trình hoạt
động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các trường
hợp khó khăn đỏi hỏi phải có sự tính toán cân nhắc trước khi ra quyết định. Mỗi
một quyết định đều ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các doanh
nghiệp. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có ưa chuộng sản phẩm hàng hoá
của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án kinh doanh đó là có hiệu
quả và ngược lại. Vậy thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Như vậy thông qua thị trường (mà trước hết là hệ thống giá cả) các doanh
nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực. Trên thị trường, giá cả
hàng hoá và dịch vụ, giá cả các yếu tố đầu vào (như máy móc thiết bị, nguyên
vật liệu đất đai lao động, vốn... ) luôn luôn biến động nên phải sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực để tạo ra các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng kịp thời nhu cầu
hàng hoá của thị trường và xã hội.
3.2. Chức năng của thị trường
Chức năng thừa nhận
Nếu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ được trên thị trường, tức là
khi đó hàng hoá của doanh nghiệp đã được thị trường chấp nhận, lúc ấy sẽ tồn
tại một lượng khách hàng nhất định có nhu cầu và sãn sàng trả tiền để có hàng
10
hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đó và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp nhờ
đó mà cũng được thự hiện. Thị trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá và
dịch vụ đưa ra giao dịch, tức thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng của chúng,
chuyển giá trị cá biệt thành giá trị xã hội. Sự phân phối và phân phối lại các
nguồn lực nói nên sự thừa nhận của thị trường.
Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh
doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường. Xác định cho
được thị trường cần gì với khối lượng bao nhiêu...
Chức năng thực hiện của thị trường
Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người bán và người mua
thực hiện được các mục tiêu của mình. Người bán nhận tiền và chuyển quyền sở
hữu cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để có được giá trị
sử dụng của hàng hoá. Tuy nhiên, sự thể hiện về gía trị chỉ xảy ra khi thị trường
đã chấp nhận giá trị sử dụng của hàng hoá. Do đó, khi sản xuất hàng hoá và dịch
vụ doanh nghiệp không chỉ tìm mọi cách để giảm thiểu các chi phí mà còn phải
chú ý xem lợi ích đem lại từ sản phẩm có phù hợp với nhu cầu thị trường hay
không.
Như vậy thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá và
dịch vụ hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân
phối các nguồn lực.
Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường
Cơ chế thị trường sẽ điều tiết việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , tức là kích
thích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào các lĩnh vực có mức lợi nhuận
hấp dẫn, có tỷ suất lợi nhuận cao, tạo ra sự di chuyển sản xuất từ ngành này sang
ngành khác. Thể hiện rõ nhất của chức năng điều tiết là sự đào thải trong quy
luật cạnh tranh. Doanh nghiệp nào, bằng chính nội lực của mình, có thể thoả
mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường, phản ứng một cách kịp thời, linh hoạt, sáng
tạo với các biến động của thị trường thì sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại sẽ bị
11
phá sản. Ngoài ra thị trường còn hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng theo mục
đích có lợi nhất nguồn ngân sách của mình.
Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt cho được chu kỳ
sống của sản phẩm, để xem sản phẩm đang ở giai đoạn nào, tức lã xem sét mức
độ hấp dẫn của thị trường đến đâu để từ đó có các chính sách phù hợp.
Chức năng thông tin của thị trường
Chức năng này được thể hiện ở chỗ, thị trường chỉ cho người sản xuất biết
nên sản xuất hàng hoá và dịch vụ nào, bằng cách nào và với khối lượng bao
nhiêu để đưa vào thị trường tại thời điểm nào là thích hợp và có lợi nhất, chỉ cho
người tiêu dùng biết nên mua những loại hàng hoá và dịch vụ tại những thời
điểm nào là có lợi cho mình.
Thị trường sẽ cung cấp cho người sản xuất và người tiêu dùng những
thông tin sau: Tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu cung và cầu, quan hệ cung cầu
đối với từng loại hàng hoá và dịch vụ, các điều kiện tìm kiếm hàng hoá và dịch
vụ, các đơn vị sản xuất và phân phối...Đây là những thông tin quan trọng cho cả
người sản xuất và người tiêu dùng để đề ra quyết định thích hợp đem lại lợi ích
hiệu quả cho họ.
Để có những thông tin này doanh nghiệp phải tổ chức tốt hệ thống thông
tin của mình bao gồm các ngân hàng thống kê và ngân hàng mô hình cũng như
các phương pháp thu thập xử lý thông tin nhằm cung cấp những thông tin về thị
trường cho lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch chiến lược, kế hoạch
phát triển thị trường.
II. VAI TRÒ CỦA VIỆC DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP :
1. Thế nào là duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm.
Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là việc duy trì và mở
rộng nơi trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ, thực chất nó là giữ vững và tăng
thêm khách hàng của doanh ngiệp.
12
Mở rộng thị trường theo chiều rộng nghĩa là lôi kéo khách hàng mới,
khách hàng theo vùng địa lý, tăng doanh số bán với khách hàng cũ.
Mở rộng thị trường theo chiều sâu nghĩa là phân đoạn cắt lớp thị trường
để thoả mãn nhu cầu muôn hình, muôn vẻ của con người. Mở rộng theo chiều
sâu là qua sản phẩm để thoả mãn từng lớp nhu cầu, để từ đó mở rộng theo vùng
địa lý. Đó là vừa tăng số lượng sản phẩm bán ra, vừa tạo nên sự đa dạng về
chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Đó là việc mà doanh
nghiệp giữ vững, thậm trí tăng số lượng sản phẩm cũ đã tiêu trên thị trường,
đồng thời tiêu thụ được những sản phẩm mới trên thị trường đó. Sự đa dạng về
chủng loại mặt hàng và nâng cao số lượng bán ra là mở rộng thị trường theo
chiều sâu.
Tóm lại mở rộng thị trường theo chiều rộng hay chiều sâu cuối cùng phải
dẫn đến tăng tổng doanh số bán hàng, tiến tới công suất thiết kế và xa hơn nữa là
vượt công suất thiết kế. Doanh nghiệp có thể đầu tư phát triển theo quy mô mới.
2. Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là một tất yếu
khách quan đối với doanh nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, duy trì và mở rộng thị trường là khách quan đối
với các doanh nghiệp, là điều kiện để cho các doanh nghiệp có thể tồn tại và
phát triển.
Trong kinh doanh, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp thay đổi rất nhanh
cho nên mở rộng thị trường khiến cho doanh nghiệp tránh được tình trạng bị tụt
hậu. Cơ hội chỉ thực sự đến với các doanh nghiệp nhạy bén, am hiểu thị trường.
Mở rộng thị trường giúp doanh nghiệp đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, khai
thác triệt để tiềm năng của thị trường, nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh,
tăng lợi nhuận và khẳng định vai trò của doanh nghiệp trên thị trường. Cho nên
duy trì và mở rộng thị trường là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của mỗi doanh
nghiệp kinh doanh trên thị trường.
Sơ đồ 1: Cấu trúc thị trường sản phẩm A
Thị trường lý thuyết sản phẩm A: Tập hợp các đối tượng có nhu cầu
13
Thị trường tiềm năng của Doanh nghiệp sản phẩm A
Thị trường hiện tại sản phẩm A
Thị trường
các đối thủ cạnh
tranh
Thị trường
của Doanh nghiệp
Người
không tiêu dùng
tương đối
Người
không tiêu dùng
tuyệt đối
Trên thực tế đã có nhiều ví dụ cụ thể về sự nỗ lực của doanh nghiệp trong
duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cô ca và Pepsi là hai hãng sản
suất nước ngọt lớn trên thế giới, chiếm thị phần gần như tuyệt đối trong thị
trường về nước ngọt. Bao thập kỷ qua đã diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa hai
nhà sản xuất này. Kết quả là có những lúc thị phần của Coca tăng còn Pepsi
giảm và ngược lại. Qua nhiều cuộc thử nghiệm trưng cầu ý kiến của khách hàng
thì về chất lượng sản phẩm của hai hãng này gần như tương đương nhau. Cho
nên để cạnh tranh với nhau nhằm tăng thị phần của mình, hai hãng này đã dành
chi phí lớn cho quảng cáo.
Mục đích của các hãng đó đều là giữ vững thị phần, thị trường đã có của
doanh nghiệp và mở rộng sang chiếm lĩnh phần thị trường của các đối thủ cạnh
tranh cùng ngành nhằm chinh phục thị trường hiện tại của sản phẩm và xa hơn
nữa là mở rộng phần thị trường tiềm năng của sản phẩm đó.
Tăng thêm phần thị trường, tức là tăng tỷ lệ phần trăm bộ phận thị trường
doanh nghiệp nắm giữ trên toàn bộ thị trường sản phẩm đó, là mục tiêu rất quan
trọng của doanh nghiệp. Duy trì và mở rộng thị trường làm rút ngắn thời gian
sản phẩm nằm trong quá trình lưu thông, do đó làm tăng tốc tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, góp phần vào việc đẩy nhanh chu kỳ tái sản xuất mở rộng, tăng vòng
quay của vốn, tăng lợi nhuận. Tăng nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, khiến cho
các doanh nghiệp có điều kiện tăng nhanh tốc độ khấu hao máy móc thiết bị,
giảm bớt hao mòn vô hình và do đó có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đổi
mới kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất. Đến lượt nó kỹ thuật mới lại
14
góp phần vào việc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, duy trì và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ
TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP.
Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm đồng thời cũng là
các nhân tố ảnh hưởng đến việc duy trì và mở rộng thị trường. Thị trường là một
lĩnh vực kinh tế phức tạp cho nên các nhân tố ảnh hưởng tới nó cũng rất phong
phú và phức tạp, thường là những nhân tố sau:
1. Quan hệ cung cầu - giá cả trên thị trường:
Đây là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến việc duy trì và mở rộng thị trường.
Các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ
của quy luật cung cầu và giá cả. Trong cơ chế thị trường, giá cả là một nhân tố
động, các doanh nghiệp muốn thắng đối thủ cạnh tranh của mình đều phải có
những chính sách giá cả mềm mỏng, linh hoạt phù hợp với từng giai đoạn,
trường hợp. Việc định ra chính sách giá bán phù hợp với cung - cầu trên thị
trường sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh. Tuy nhiên bản thân
công cụ giá trong kinh doanh chứa đựng nội dung phức tạp, hay biến động do
phụ thuộc vào nhiều yếu tố nên trong thực tế khó có thể lường hết được các tình
huống có thể xảy ra. Các doanh nghiệp hiện nay tuỳ thuộc từng trường hợp sử
dụng một số chính sách định giá sau:
- Chính sách định giá theo thị trường
- Chính sách định giá thấp
- Chính sách định giá cao
- Chính sách ổn định giá bán
- Chính sách bán phá giá.
2. Nhịp độ phát triển sản xuất kinh doanh của các ngành kinh tế quốc
dân:
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến thị trường. Sự phát triển của
sản xuất sẽ tác động đến cung - cầu hàng hoá, thị trường ngày càng mở rộng.
Ngoài ra, nhịp độ phát triển của các ngành khoa học kỹ thuật, văn hoá - nghệ
15
thuật cũng tác động đến thị trường. Khi khoa học phát triển, tạo ra thiết bị công
nghệ mới, chất lượng cao hạ giá thành sản phẩm. Từ đó hàng hoá sản xuất ra sẽ
đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng và đáp ứng được khả
năng thanh toán của họ, làm tăng sức mua trên thị trường, và kết quả là thị
trường được được mở rộng.
3. Mức thu nhập bình quân trong một thời kỳ của các tầng lớp dân
cư:
Điều này cũng làm ảnh hưởng tới thị trường, thu nhập tăng hay giảm làm
ảnh hưởng tới sức mua của người lao động. Khi thu nhập tăng, khả năng thanh
toán của người dân được bảo đảm thị trường tiêu thụ sẽ có cơ hội mở rộng và
phát triển.
4. Nhân tố kỹ thuật công nghệ .
Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của
các lĩnh vực, ngành cũng như nhiều doanh nghiệp. Thực tế trên thế giới đã
chứng kiến sự biến đổi công nghệ làm chao đảo nhiều lĩnh vực nhưng đồng thời
cũng lại xuất hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, hoàn thiện hơn. Thế kỷ 21 là
thế kỷ của khoa học công nghệ, do đó việc phán đoán sự biến đổi công nghệ là
rất quan trọng và cấp bách hơn lúc nào hết. Doanh nghiệp trong công tác duy trì
và mở rộng thị trường cần theo dõi thường xuyên và liên tục vấn đề này để có
những chiến lược thích ứng.
IV. YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ
TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP:
1. Yêu cầu:
- Đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm:
Yêu cầu này xuất phát từ quan hệ qua lại giữa tốc độ tiêu thụ sản phẩm
với việc duy trì và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Đẩy nhanh tốc độ tiêu
thụ sản phẩm có nghĩa là tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ, rút ngắn thời gian
luân chuyển của một đời sản phẩm. Khi thị phần của doanh nghiệp tăng nên do
số lượng người tiêu dùng sản phẩm của doamh nghiệp tăng thì cũng tức là thị
trường của doanh nghiệp được mở rộng.
16
Đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tức là rút ngắn thời gian thực hiện giá
trị của sản phẩm trên thị trường để bắt đầu chu kỳ mới của sản phẩm, rút ngắn
thời gian hoàn vốn, giảm chi phí sử dụng vốn đồng thời tăng vòng quay của vốn.
Do đó các doanh nghiệp phải coi trọng công tác tiếp cận thị trường, lập phương
án giao dịch và tuyên truyền quảng cáo.
- Mở rộng mặt hàng:
Muốn duy trì và mở rộng thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn phải mở
rộng mặt hàng cả về chiều rộng và về chiều sâu. Tức là cần phải đa dạng hoá sản
phẩm, mẫu mã kiểu dáng, nâng cao chất lượng của bao gói, đáp ứng ngày càng
nhiều hơn những nhu cầu đa dạng của thị trường. Trên cơ sở đó, việc mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được thuận lợi.
- Có chính sách giá hợp lý:
Trong nhiều trường hợp cần phải đảm bảo thị trường đó có một giá bán có
thể chấp nhận được để có hiệu quả. Duy trì thị trường tiêu thụ sản phẩm hiện có
của doanh nghiệp đã có điều khó nhưng mở rộng thị trường lại là điều càng khó
hơn. Nguyên nhân của tình trạng này là do bức rào cản khá mạnh của đối thủ
cạnh tranh, thói quen tiêu dùng sản phẩm của một doanh nghiệp, của người tiêu
dùng. Lợi nhuận đem lại từ chính sách giá đó phải lớn hơn hoặc cùng lắm là
phải bằng lãi suất nếu sử dụng vốn đó để gửi vào ngân hàng mà không kinh
doanh. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là một nguyên tắc bất di bất dịch
mà trong nhiều trường hợp tuỳ thuộc vào sản phẩm đang ở trong giai đoạn nào
của chu kỳ sống mà người kinh doanh có thể chấp nhận bán với mức lợi nhuận
thấp hơn lãi suất ngân hàng. Nhìn chung, trong quá trình cạnh tranh các doanh
nghiệp đều phải chấp nhận những thua thiệt trong thị trường nhằm giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra vị thế trên thị trường.
- Phải đảm bảo giữ được uy tín trên thị trường:
“ Chữ tín quý hơn vàng “ là phương châm của giới kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường. Đó cũng là bí quyết nhằm dành thắng lợi trong cạnh tranh của
các doanh nghiệp lớn. Thực tế đã chứng minh rằng một số doanh nghiệp có tốc
độ tiêu thụ giảm sút, phần thị trường bị thu hẹp, do bị các đối thủ cạnh tranh
17
xâm chiếm. Điều này một phần là do dịch vụ sau bán hàng tồi, như dịch vụ bảo
hành miễn phí nhưng thời gian sửa chữa kéo dài, thái độ nhân viên phục vụ kém
hoà nhã đối với khách hàng... một phần khác là do chất lượng sản phẩm không
đúng với lời quảng cáo của công ty.
2. Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm đã
có .
Sơ đồ 2: phương hướng mở rộng thị trường của doanh nghiệp
2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ là một biện pháp chủ
yếu nhằm duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm. Có những sản phẩm mới ra
đời được thị trường chấp nhận nhanh chóng do kiểu dáng, mẫu mã mới và việc
tiêu dùng như một “ Mốt ” nhưng vòng đời của sản phẩm chỉ được kéo dài khi
sản phẩm đó có chất lượng cao.
Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ được đề cập rõ ở
phần sau mục này chỉ nghiên cứu xem chất lượng sản phẩm hiện nay được định
nghĩa như thế nào.
“ Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp tất cả các
tính chất biểu thị giá trị sử dụng, phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những
điều kiện kinh tế xã hội nhất định, đảm bảo yêu cầu của người sử dụng nhưng
Thị trường sản phẩm
liên quan trong sản
Thị trường sản phẩm
liên quan trong TD
Thị trường sản phẩm
CMH
Thị trường sản phẩm mới
Thị trường sản phẩm
có thể thay thế
Thị trường sản phẩm
CMH được cải tiến
18
cũng phải bảo đảm các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước “
- TCNN - 99 - ISO-9000 “ tiêu chuẩn về hệ thống chất lượng “ ( trang 5).
“ Chất lượng sản phẩm công nghiệp là vấn đề tổng hợp về kinh tế kỹ thuật
xã hội... Chất lượng sản phẩm được tạo nên từ tất cả các yếu tố và điều kiện có
liên quan trong quá trình sống của sản phẩm chất lượng sản phẩm được tạo
thành từ ngay phương án sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình
chuẩn bị sản xuất và sản xuất. Chất lượng sản phẩm còn được duy trì trong khâu
lưu thông và khâu sử dụng trong quá trình sử dụng tất cả những gì là chất lượng
sẽ được bộc lộ một cách đầy đủ nhất “ - “ Một số vấn đề về quản lý chất lượng “
- trang 4 - Cục TC đo lường CLNN.
Nói tóm lại “ Chất lượng sản phẩm là một hệ thống những tính nội tại sản
phẩm được xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được,
phù hợp với những điều kiện kỹ thuật hiện tại và thoả mãn được những yêu cầu
nhất định của xã hội “ – “ Quản lý DNCN “ – trang 51 – NXBĐH & GD chuyên
nghiệp.
Nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi mới
công nghệ. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, đổi mới công nghệ phải có trọng
điểm, chú trọng những khâu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Các doanh nghiệp phải lựa chọn công nghệ thích hợp với điều kiện của mình
cùng với việc nâng cao năng lực công nghệ nội sinh để làm chủ được công nghệ
được chuyển giao. Việc trợ giúp các doanh nghiệp khắc phục được khó khăn về
vốn cho đổi mới công nghệ cần được thực hiện bằng cách tăng vốn tín dụng
chung và dài hạn với lãi xuất ưu đãi, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua.
2.2. Hạ giá thành sản phẩm.
Hạ giá thành sản phẩm làm tăng thêm sức mạnh cho doanh nghiệp trong
cạnh tranh. Giá thành hạ doanh nghiệp có thể giảm giá đi một chút mà vẫn đảm
bảo được lợi nhuận và do đó được người tiêu dùng dễ chấp nhận hơn, đẩy
nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm thị trường được mở rộng. Muốn hạ được giá
thành sản phẩm thì cần coi trọng công tác quản trị chi phí nhất là khi mua các
yếu tố đầu vào. Ngoài ra đổi mới các công nghệ có trọng điểm ảnh hưởng trực
19
tiếp đến giá thành sản phẩm. Tuy nhiên đảm bảo giá thành sản phẩm nhưng
cũng cần phải bảo đảm chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp mới có thể đứng
vững được. Đổi mới công nghệ một mặt nâng cao năng suất lao động một mặt
giảm được số lượng phế phẩm trong quá trình sản xuất, tiết kiệm được chí phí
nguyên vật liệu và do đó giảm giá thành sản phẩm.
2.3. Nâng cao chất lượng của công tác dự báo nghiên cưú nhu cầu thị
trường:
Thị trường tạo môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp mà trong đó
doanh nghiệp nào cũng đặt ra yêu cầu là phải mở rộng thị trường của mình. Do
vậy, để đảm bảo khả năng thắng lợi trong cạnh tranh, để tránh những rủi do bất
trắc trong kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải hiểu biết cặn kẽ thị trường và
khách hàng trên thị trường ấy. Nghĩa là doanh nghiệp phải làm tốt công tác
nghiên cứu thị trường.
Mục tiêu của nghiên cứu thị trường là xác định khả năng tiêu thụ các sản
phẩm của doanh nghiệp, các sản phẩm này bao gồm các sản phẩm doanh nghiệp
đang sản xuất (đã có trong cơ cấu sản phẩm) và các sản phẩm dự định sẽ sản
xuất và do vậy có ý định thâm nhập thị trường ở phạm vi rộng lớn hơn. Việc
nghiên cứu thị trường chính là nghiên cứu các cơ hội kinh doanh để đưa ra các
quyết định kinh doanh hợp lý nó có tầm quan trọng đặc biệt đến việc xác định
đúng đắn phương hướng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
Xác định nhu cầu thị trường, tìm người mua và xác định nhu cầu của từng
người mua hay nói cách khác doanh nghiệp sẽ bán hàng hóa ở đâu và số lượng
là bao nhiêu để có được doanh thu lớn nhất. Để xác định được nhu cầu thị
trường và tìm kiếm được thị trường tiêu thụ các doanh nghiệp cần phải tổ chức
hợp lý việc thu nhập các nguồn thông tin và nghiên cứu các loại thị trường, phân
tích và xử lý đúng đắn các loại thông tin về nhu cầu thị trường, xác định nhu cầu
của thị trường mà doanh nghiệp có thể đáp ứng, cuối cùng trả lời được các câu
hỏi sau :
- Những loại thị trường nào có triển vọng nhất đối với sản phẩm và dịch
vụ của doanh nghiệp?
20
- Mặt hàng nào có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn nhất phù hợp với
năng lực hiện có của doanh nghiệp?
- Giá cả bình quân trên thị trường đối với từng loại hàng hóa trong thời kỳ
ra sao?
- Những yêu cầu chủ yếu của thị trường đối với các loại hàng hoá trong kỳ
ra sao?
- Những yêu cầu chủ yếu của thị trường đối với các loại hàng hoá có khả
năng tiêu thụ như chất lượng mẫu mã bao gói...
Từ đó doanh nghiệp mới có cơ sở để xây dựng chiến lược sản phẩm chính
sách giá cả, tiêu thụ phù hợp.
Nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường
tức là thấy rõ tầm quan trọng của công tác này. Các thông tin thị trường về sản
phẩm của doanh nghiệp phải chuẩn xác nhanh nhạy. Hơn nữa việc xử lý thông
tin cần phải kịp thời hữu hiệu. Ngoài ra cần có một đội ngũ chuyên gia giỏi, giầu
kinh nghiệm trong thu thập và xử lý thông tin thị trường và phải giành một phần
nguồn lực tài chính của doanh nghiệp cho công tác này.
2.4. Xây dựng chính sách tiêu thụ sản phẩm hợp lý:
Xuất phát từ thực trạng của các doanh nghiệp nước ta hiện nay thì tình
trạng bỡ ngỡ thiếu kinh nghiệm hoạt động thị trường là tình trạng khá phổ biến.
Bởi vậy trong trao đổi hàng hoá, trong đó các hoạt động thị trường quốc tế gặp
nhiều thua thiệt. Cho nên nâng cao năng lực hoạt động thị trường là điều rất cần
thiết đối với các doanh nghiệp. Trên cơ sở chiến lược phát triển sản xuất kinh
doanh, trong đó cốt lõi là chiến lược sản phẩm, các doanh nghiệp cần phải xác
định được chính sách thương mại của mình. Chính sách thương mại đó xác định
những vấn đề có tích chất nguyên tắc chi phối sự ứng xử của doanh nghiệp trên
thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.
Xây dựng chính sách tiêu thụ hợp lý là phải khắc phục được những yếu
kém sau:
- Người tiêu dùng chưa hiểu sản phẩm của doanh nghiệp hay sản phẩm
của doanh nghiệp công nghiệp không tiếp cận được người tiêu dùng. Cho nên
21
chính sách tiêu thụ hợp lý phải có các hoạt động hỗ trợ bán hàng phù hợp với
điều kiện của doanh nghiệp nhằm phát huy ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị
trường.
- Địa điểm bán hàng không phù hợp, hệ thống bán hàng hẹp.
- Phương pháp bán hàng cứng nhắc, nhân viên bán hàng không biết thuyết
phục khách hàng, thái độ bán cửa quyền.
- Dịch vụ sau bán hàng kém.
22
Phần II
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐANG ĐƯỢC THỰC HIỆN NHẰM
DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY 10-10
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY:
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty:
Công ty Dệt 10-10 trước đây là xí nghiệp Dệt 10-10 được thành lập ngày
10-10-1974 theo quyết định số 262 ngày 23-12-1973 của UBND-TP-Hà Nội và
đến ngày 16-3-1993 xí nghiệp đổi tên thành Công ty Dệt 10-10 theo quyết định
số 2580 ngày 10-7-1993 của UBND-TP-Hà Nội.
Đây là một cơ sở công nghiệp địa phương do SCN-Hà Nội quản lý. Sản
phẩm của Công ty là: Vải tuyn, Màn tuyn các loại, Rèm che cửa và một số sản
phẩm phụ khác.Trong đó Màn tuyn là sản phẩm truyền thống đem lại thành
công và uy tín cho Công ty trong những năm qua.Danh hiệu cao quý nhất trong
những năm gần đây là Công ty đẫ được công nhận huy hiệu vàng TOPTEN
1997 và 10 huy chương vàng hội chợ công nghiệp thương mại quốc tế.
Đến nay Công ty có 3 cơ sở sản xuất tại Hà Nội:
- 6 Ngô Văn Sở - trụ sở chính
- 26 Trần Quý Cáp
- 203 Minh Khai
Và hai chi nhánh tại TP-Hồ Chí Minh:
- 181A Phạm Phú Thứ, Phường 11 Quận Tân Bình
- 49 Đường Cộng Hoà, Phường 4 Quận Tân Bình
Qua trình xây dựng và phát triển của Công ty có thể chia làm 4 giai đoạn
sau:
Giai đoạn 1:
Đây là giai đoạn chế thử từ đầu năm 1973 đến tháng 6-1975.
Đầu năm 1973 SCN giao cho một nhóm gồm 14 cán bộ công nhân viên
thành lập ban nghiên cứu sợi KoKet sản xuất vải tuyn trên cơ sở nguyên vật liệu
23
và thiết bị Cộng Hoà Dân Chủ Đức do SCN cung cấp. Sau một hời gian ngán
chế thử thành công, SCN đề nghị UBND-TP-Hà Nội đầu tư nên cở vật chất,
thiết bị kĩ thuật, lao động và quản lý thành lập xí nghiệp vào ngày giải phóng thủ
đô 10-10-1974, lấy tên là xí nghiệp Dệt 10-10.Trủ chính tại số 6 Ngô Văn Sở Hà
Nội với tổng diện tích mặt bằng là 550m2.
Cuối năm1974 xí nghiệp đã hoàn thành phần lớn công tác, về xây dựng
mặt bằng sản xuất. Địa điểm sản xuất được chia thành 2 cở gồm: Ngô Văn Sở
làm khu văn phòng và khu vực sản xuất chính, Trần Quý Cáp được đặt máy
văng sấy làm nhiệm vụ tẩy, định hình vải với diện tích là 355m2.
Giai đoạn 2:
Từ tháng 7-1975 đến năm 1985 đây là giai đoạn bước vào sản xuất kinh
doanh thực hiện tất cả các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao.
Bắt đầu từ tháng 7-1975 xí nghiệp chính thức nhận chỉ tiêu pháp lệnh nhà
nước giao. Trong thời gian này xí nhgiệp luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch
nhà nước với toàn bộ nguồn vật tư, nguyên liệu đều được nhà nước cung cấp
theo chỉ tiêu. Đồng thời xí nghiệp giao nộp sản phẩm theo mức cảu nhà nước
hướng dẫn.
Giai đoạn 3:
Từ năm 1986 đến cuối năm 1999 đây là giai đoạn Công ty tự kinh doanh.
Đến năm 1986 do tình hình kinh tế của cả nước gặp khó khăn và có nhiều
biến đổi lớn nên các hoạt động của xí nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể cho
phù hợp. Nguồn nguyên liệu đầu vào của xí nghiệp không còn được nhà nước
cấp phát như trước. Xí nghiệp phải dùng nguồn vốn tự có và nguồn vốn đi vay
(chủ yếu là vay nhà nước). Mặc dầu vậy do tình hình chung lúc đó nên từ năm
1986-1990 xí nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm đồng thời
trong cả công tác sản xuất sản phẩm. Nhận thức được điều này xí nghiệp đã tự
vận động dưới nhiều hình thức để tồn tại, phát triển, mở rộng sản xuất và thay
thế dần các thiết bị máy móc đã cũ.
24
Với vật chất kỹ thuật đã có. Năm 1983 mặt bằng được mở rộng, Công ty
được cấp thêm 1000m2 đất ở số 203 Minh Khai để chuyển toàn bộ các phân
xưởng sản xuất gồm phân xưởng dệt, phân xưởng văng sấy, phân xưởng cơ điện,
bộ phận bảo dưỡng, kho nguyên vật liệu, bộ phận chế thử. Còn khu vực Ngô
Văn Sở được dành cho khu văn phòng, phân xưởng cắt may và kho thành phẩm.
Theo quy định của nhà nước sau khi đăng ký kinh doanh lại. Ngày 10-7-
1993 xí nghiệp đổi tên thành Công ty Dệt 10-10 theo quyết định số 2580/QĐ-
UB của UBND-TP-Hà Nội.
Giai đoạn 4
Đến cuối năm 1999, đầu năm 2000 theo chủ trương cổ phần hoá một số
doanh nghiệp nhà nước. Ngày 1-1-2000 Công ty chuyển thành Công ty cổ Phần
với sự tổ chức xắp xếp, quy định lại chức năng nhiệm vụ của một số phòng
nghiệp vụ và các quy định khác liên quan về quyền hạn, trách nhiệm của các cấp
quản lý, nội quy, lề lối làm việc của cán bộ công nhân viên, thay đổi phương
thức quản lý vốn, trả lương thưởng...vv.
Theo đánh giá lại của SCN thì vốn ban đầu của Công ty là 8 tỷ. Trong đó
vốn của nhà nước là 2,4 tỷ, vốn của doanh nghiệp là 5,6 tỷ. Là một doanh
nghiệp nhỏ nhưng với ý chí vươn lên, với lòng nhiệt tình gắn bó, với tinh thần
hăng say lao động sáng tạo của toàn thể cán bộ công nhân viên. Công ty Dệt 10-
10 đã đứng vững và ngày càng phát triển, uy tín được nâng cao, sản phẩm làm ra
ngày một lớn về số lượng và chất lượng.
Trên 25 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty đã phát triển nhanh
chóng về mọi mặt kể cả cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ quản lý, trình độ sản
xuất, cũng như uy tín trên thị trường. Công ty có một đội ngũ công nhân lành
nghề đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất. Đến nay Công ty đã có 465 người (năm
2000) và là Công ty đầu tiên đạt mức vượt kế hoạch về giá trị sản xuất do SCN
Hà Nội đề ra.
2. Mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ của Công ty Dệt 10-10:
Mục tiêu:
25
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty đóng góp ngày càng
nhiều cho nhà nước đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội của Công ty.
Định hướng lâu dài:
Trở thành cơ sở sản xuất hàng dệt chất liệu Valide hàng đầu tại Việt Nam,
xây dựng một mô hình Công ty cổ phần mới trong điều kiện chung của nền kinh
tế theo điều kiện xã hội chủ nghĩa trong đó người lao động trở thành chủ nhân
thực sự của Công ty
Định hướng trước mắt:
- Để thực hiện được định hướng lâu dài đó điều cần thiết là phải khai thác
triệt để các nguồn lực cũng như các lợi thế sẵn có của doanh nghiệp. Đó là đội
ngũ công nhân lành nghề, có kinh nghiệm lâu năm, uy tín của Công ty trên thị
trường từ những năm 70 được sự ủng hộ và tạo điều kiện giúp đỡ của nhà
nước...
- Tạo việc làm đầy đủ, ổn định và dần nâng cao mức thu nhập của người
lao động trong Công ty.
- Đặc biệt chú trọng các thị trường truyền thống, tạo dựng các thị trường
mới.
- Đa dạng hoá sản phẩm để vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu
dùng vừa khai thác hiệu quả năng lực sản xuất của Công ty.
- Chú trọng các sản phẩm cấp trung phục vụ nhu cầu sản phẩm thiết yếu,
triệt để khai thác tính kính tế nhờ quy mô.
Để thấy rõ hơn quá trình xây dựng và trưởng thành của Công ty ta có thể
tham khảo tình sản xuất kinh doanh được thể hiện thông qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty
Đơn vị:1.000.000đ
STT Chỉ tiêu 1998 1999 2000
1 Giá trị sản xuất CN 37.400 37.300 40.100
26
2 Doanh thu 37.057 35.297 38.000
3 Lao động (người) 467 471 465
4 Tiền lương bình quân 1,260 1,347 1,050
5 Tổng chi phí 33.892 31.243 34.429
6 Lợi nhuận 2.015 2.150 2.286
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG TỚI
VIỆC DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG
TY:
1. Đặc điểm về sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm
Đặc điểm về sản phẩm hàng hoá:
Đây là đặc điểm có ảnh hưởng lớn đến công tác duy trì và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm “Màn” là hàng dùng cho mọi gia đình và nó
là phương tiện quan trọng để bảo vệ cho con người khỏi muỗi và các loại côn
trùng trong khi ngủ.
- Sản phẩm chính của công ty là Màn tuyn và màn cửa các loại. Nhìn
chung, chất lượng sản phẩm tốt nhưng gía khá cao, hình thức mẫu mã đẹp nhưng
chưa phong phú.
- Thông thường thì sản phẩm màn thích hợp với những vùng ẩm nóng,
nhiều muỗi và ít phương tiện chống rét. Khách hàng là tổ chức nhà nước luôn
mua với số lượng lớn, ngoài ra còn một số doanh nghiệp thương mại, siêu thị,
cửa hàng bách hoá tổng hợp ở các tỉnh Hà nội, Hải phòng, Nam định, Vinh...và
một số nước Châu âu.
- Càng ngày, chất lượng, kiểu dáng sản phẩm của công ty càng sang trọng
và đẹp hơn so với các cơ sở khác. Hơn nữa, chúng ngày càng được hoàn thiện
nhờ có sự quan tâm thích đáng đối với công tác kỹ thuật và thiết kế mẫu. Các
cuộc thí nghiệm và kiểm định chất lượng thường xuyên được tổ chức nhằm tiếp
tục hoàn thiện tính năng của sản phẩm.
27
- Giá bán tương đối cao do chi phí nguyên vật liệu đắt. Địa điểm sản xuất
phân tán làm tăng chi phí vận chuyện hàng hoá. Hơn nữa giá nhân công cũng
cao do ở trung tâm thành phố.
Kết cấu sản phẩm
- Doanh nghiệp đang thực hiện đa dạng hóa sản phẩm sản xuất về màu
sắc, mẫu mã, kích cỡ, kiểu dáng nhưng còn nhiều hạn chế. Hiện nay, sản phẩm
của Công ty gồm vải tuyn rèm cửa, màu các loại với giá bán trên thị trường như
bảng giá sau:
Bảng 2: Giá bán sản phẩm
STT Tên sản phẩm ĐVT
Giá
trước
thuế
Giá sau
thuế
1 Màn đôi trắng quây đ/cái 40.450 44.500
2 Màn đôi trắng có cửa - 44.091 48.500
3 Màn đôi xanh quây - 41.364 45.500
4 Màn đôi xanh có cửa - 45.000 49.000
5 Màn đôi hoa trắng quây - 57.727 63.500
6 Màn đôi hoa trắng có cửa - 63.182 69.500
7 Màn đôi hao xanh quây - 58.636 64.500
8 Màn hoa trắng có cửacó rèm - 70.455 77.500
9 Màn đổi trắng trơn vòng mây - 85.909 94.500
10 Màn đôi trắng hoa vòng mây - 100.100 110.000
11 Màn đôi xanh trơn vòng mây - 86.818 95.500
12 Màn đình tròn trắng trơn 56 gọng sắt - 60.454 66.500
13 Màn đình tròn trắng hoa 56 gọng sắt - 79.091 87.000
14 Màn cá nhân trắng trơn - 33.636 37.000
15 Màn cá nhân xanh trơn - 34.545 38.000
16 Vải tuyn trắng trơn - 2.455 2.700
17 Vải tuyn xanh trơn - 2.545 2.800
28
18 Rèm hoa khổ 1.5 mét trắng đ/mét 5.000 5.500
19 Rèm hoa phổ 1.5 mét màu - 5.091 5.600
20 Rèm hoa phổ 1.8 mét trắng - 6.363 7.000
21 Rèm hoa phổ 1.8 mét màu - 6.455 7.100
22 Vải lưới khổ 1.5 mét sợi 750 - 3.636 4.000
23 Vải lưới khổ 1.8 mét sợi 750 - 4.545 5.000
24 Màn đôi xanh hoa vòng mây đ/cái 100.909 111.000
Đặc điểm về thị trường:
Hiện tại thị trường của Công ty có mặt ở hầu hết các tỉnh trong nưởc.
Trong đó đặc biệt phải nói tới các tỉnh Hà Nội, Hải phòng và Nam Định. Đây là
thị trường có sức tiêu thụ lớn nhất (về doanh thu và mức lợi nhuận lớn nhất).
Ngoài ra trước năm1997 thị trường ngoài nước đối với Công ty còn chưa có
nhưng đến năm 1997 thì Công ty đã bắt đầu có thị trường ngoài nước ở các nước
châu Âu đặc biệt là Đan Mạch hay một số nước như: Kenya, Châu phi. Trong đó
Công ty xác định thị trường Châu phi là thị trường tiềm năng trong tương lai. Vì
ở đây có đặc điểm khí hậu rất phù hợp để cho sản phẩm Màn có thể tiêu thụ
được khối lượng lớn. Tuy nhiên một điều rất bất lợi cho Công ty là hiện nay
Công ty chưa có đại diện chính thức ở bên đó do vậy vẫn phải bán qua trung
gian là Đan Mạch... vì vậy mà giá cả đến các thị trường đó là cao dẫn đến làm
giảm tính cạnh tranh sản phẩm của Công ty.
2. Đặc điểm về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh:
Bộ máy quản lý của Công ty được chỉ đạo thống nhất từ trên xuống dưới,
dưới sự lãnh đạo trực tiếp chặt chẽ của Hội Đồng Quản Trị Công ty. Đây là cơ
cấu quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng.
Toàn bộ Công ty gồm : Ban giám đốc, các phòng chức năng và các phân
xưởng sản xuất.
Ban Giám đốc gồm:
- Giám đốc phụ trách chung
29
- Một phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật
- Một phó Giám đốc phụ trách kinh doanh
Phòng kế hoạch
- Tiếp nhận các yêu cầu đặt hàng trong nước và ngoài nước, xây dựng các
kế hoạch ngắn hạn, dài hạn trình Giám đốc và Hội Đồng Quản Trị, điều độ và
đôn đốc thực hiện kế hoạch đó.
- Xây dựng chiến lược phát triển mặt hàng mới, đầu tư công nghệ mới.
Phòng kỹ thuật cơ điện
- Xây dựng và kiểm tra các quy trình kỹ thuật, quy trình công nghệ, xác
định mức vật tư kỹ thuật.
- Xây dựng và phối hợp chỉ đạo thực hiện chương trình tiến bộ kỹ thuật,
kế hoạch sửa chữa máy móc định kỳ.
- Nghiên cứu các biện pháp đảm bảo môi trường sản xuất và làm việc.
- Tổ chức chế thử sản phẩm, quản lý thí nghiệm, nghiên cứu khoa học.
Phòng quản lý chất lượng
- Soạn thảo văn bản và theo dõi những vấn đề có liên quan, quản lý chất
lượng sản phẩm, tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm, vật tư, hàng hoá...
Phòng kinh doanh
- Tổ chức cung ứng vật tư, nguyên liệu cần thiết cho quá trình sản xuất
kinh doanh
- Tổ chức bán hàng, theo dõi kiểm tra các đại lý tiêu thụ, các kho tàng,
phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh tiếp thị.
Phòng tổ chức - Bảo vệ
- Xây dựng và theo dõi thực hiện các quy chế, nội quy khen thưởng, kỷ
luật, kế hoạch tiền lương, định mức lao động...
- Sắp xếp điều độ nhân lực, xây dựng kế hoạch đào tạo bảo vệ an toàn
người và tài sản của Công ty.
- Quản lý hồ sơ các cổ đông và nhân sự trong Công ty.
Phòng tài vụ
30
- Thực hiện nghiệp vụ tài chính, kế toán theo dõi các quy định về chế độ
chi tiêu, quản lý tiền hàng, công nợ, kiểm kê
- Xây dựng giá thành sản phẩm
Phòng hành chính - Y tế
- Quản lý hành chính, văn thư, các phương tiện phục vụ sinh hoạt, làm
việc, Tổ chức phục đời sống vật chất, tinh thần và chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ
công nhân viên.
Các phân xưởng sản xuất
- Phân xưởng Dệt 1,2
- Phân xưởng văng sấy
- Phân xưởng cắt
31
- Phân xưởng may 1,2
- Phân xưởng cơ- điện
Tại mỗi phân xưởng đều có quản đốc và phó quản đốc chịu trách nhiệm
quản lý và điệu hành sản xuất trong phân xưởng
Với bộ máy tổ chức việc quản lý của công ty được tập trung nhưng vẫn
bảo đảm được tính linh hoạt của các đơn vị.
Ban giám đốc thương xuyên hội ý về các mặt công tác hàng tháng, hàng
tuần và trao đổi các báo cáo kịp thời các mặt công tác quan trọng phát sinh trong
quá trình điều hành. Các phó giám đốc điều hành có trách nhiệm điều tra đôn
đốc các mặt công tác nghiệp vụ theo lĩnh vực mình được phân công.
Các trưởng phòng, quản đốc chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Phải thường xuyên thỉnh
thị, báo cáo về phụ trách lĩnh vực nghiệp vụ của phòng mình, khi có yêu cầu thì
mức độ thực hiện nhiệm vụ, kết hoạch của bộ phận mình trước hội đồng quản trị
và hội đồng cổ đông.
Các trưởng phòng, quản đốc phải chủ động linh hoạt phối hợp với nhau
trong các công việc khắc phục khó khăn hoàn thành các mặt công tác được giao.
Trong quá trình điều hành nếu phân xưởng, phòng nghiệp vụ nào không
thực hiện nhiệm vụ, chất lượng hiệu quả công tác không tốt, gây lãng phí, gây
phiền hà, để công nhân, nhân viên vi phạm nội quy, kỷ luật lao động, vi phạm
quy trình công nghệ, tuỳ theo mức độ khách quan hay chủ quan đều bị quy trách
nhiệm trong việc quản lý điều hành, đình chỉ nhiệm vụ quản lý, nếu vi phạm để
xảy ra hậu quả nghiêm trọng sẽ bị xử lý kỷ luật.
3. Đặc điểm về công nghệ và kỹ thuẫt sản xuất:
Sản phẩm chính của Công ty là Vải tuyn và Màn tuyn. Trong điều kiện
hiện nay, Công ty vẫn áp dụng công nghệ sản xuất truyền thống của ngành dệt,
may. Quy trình chế tạo các sản phẩm đều được thực hiện theo các công đoạn
sau:
- Công đoạn mắc sợi:
32
Sợi Petex nhập ngoại dưới dạng búp được đưa vào máy mắc để mắc lên
các bôbin theo quy cách thích hợp tuỳ theo nhu cầu dệt các loại vải khác nhau,
sau khi mắc song thì sang phân xưởng dệt.
- Công đoạn dệt nhuộm:
Tại đây các bôbin được đặt lên các máy dệt thích hợp để dệt thành vải
tuyn có khổ từ 1,2m đến 1,8m. Vải tuyn dệt song được chuyển qua bộ phận
kiểm mộc, loại vải đủ tiêu chuẩn sẽ được chuyển sang bộ phận tẩy trắng hoặc
nhuộm tuỳ theo yêu cầu của sản xuất và chuyển tiếp qua phân xưởng văng sấy.
- Công đoạn văng sấy:
Vải tuyn được đưa vào máy văng sấy và định hình vải (tạo các loại vải
tuyn với mắt tròn, vuông, dọc, tăng...) thành sản phẩm vải tuyn tại đây.Đối với
loại vải tuyn bán theo đơn đặt hàng thì chuyển sang KCS vải kiểm tra và đóng
gói nhập kho. Đối với loại vải tuyn để cắt may thành màn sẽ chuyển sang phân
xưởng cắt.
- Công đoạn cắt:
Vải tuyn được cắt thành các loại Màn theo kích cỡ quy định sau đó
chuyển sang bộ phận may.
- Công đoạn may:
Thực hiện việc may hoàn chỉnh thành Màn sau đó chuyển samg bộ phận
KCS may để kiểm tra.
- Công đoạn đóng gói:
Sản phẩm đạt yêu cầu sẽ được đóng gói và sau công đoạn này là các loại
Màn tuyn hoàn chỉnh đồng thời cũng kết thúc một vòng sản xuất
Mặc dù có công nghệ sản xuất thích hợp song thực tế tình trạng máy móc
thiết bị ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng sản phẩm.
Sơ đồ 4: Quy trìng công nghệ sản xuất
Búp
sợi
Mắc
sợi
Dệt Kiểm
mộc
Tẩy
nhuộm
văng sấy
May
KCS
Cắt
Đóng gói Kho thành KCS vải
33
4. Đặc điểm về máy móc thiết bị:
Trước đây, để doanh nghiệp dệt các vải sợi tổng hợp và màn tuyn. Sở
công nghiệp Hà Nội đẫ đầu tư nhập máy móc, thiết bị của Cộng Hoà Dân Chủ
Đức. Dây chuyền công nghệ này sử dụng máy dệt kim đan dọc là loại máy sản
xuất từ những năm 60-70 đẫ lạc hậu và không đồng bộ nên còn nhiều khâu thủ
công như cắt, may , đóng gói theo dõi máy chạy và nối sợi. Vì vậy năng suất
thấp và chất lượng sản phẩm không đồng đều, phụ thuộc chủ yếu vào tay nghề
và sự khéo léo của người công nhân.
Để khắc phục tình trạng này, cần đầu tư thay thế các máy móc thiết bị cũ
bằng hệ thống máy móc thiết bị hiện đại. Tuy nhiên do điều kiện về tài chính
còn hạn chế nên trướcmắt Công ty đẫ phải thực hiện chiến lược kết hợp cải tiến
với thay thế, tăng cường dầu tư bộ phận máy móc thiết bị cũ.
Vì vậy năm 1990 Công ty đã mua một máy văng sấy, hoạt động với công
suất 6.000.000m/năm. Năm 1993 song song vơi sự gia công đầu tư Công ty đẫ
vay vốn nhà nước để mua 2 máy dệt U4 của Đức và một máy nhuộm cao áp hiện
đại của Hông Công. Ngoài ra Công ty còn đầu tư thêm các phương tiện, dụng cụ
làm việc máy khâu, hệ thống pa-lăng cho dệt để đa dạng hoá mặt hàng và khép
kín dây truyền công nghệ. Năm 1994, công ty mua thêm 4 máy dệt rèm cao cấp
Karlmayer 24 kim của Đức vào năm 1997 mua một dây truyền dệt kim hoa nổi
trị giá 11 tỷ đồng. Với những thiết bị máy móc này, chất lượng sản phẩm của
Công ty được nâng lên dõ ràng.
5. Đặc điểm về nguyên liệu:
Nguyên vật liệu cần cho sản xuất của Công ty cũng không phải là quá
phức tạp song lại đòi hỏi phải cung cấp kịp thời,đúng chủng loại để đảm bảo
chất lượng sản phẩm, nếu chất lượng sợi không đạt yêu cầu sẽ ảnh hưởng tới quá
34
trình kéo sợi cũng như sẽ ảnh hưởng đến độ săn độ đàn hồi và sự dai của sợi.
Tuy vậy toàn bộ nguyên liệu chính là sợi Petex vàcácloại hoá chất, thuốc nhuộm
tạo nên thành phẩm màn tuyn có giá cả không ổn định và phải mua của nước
ngoài nên sản xuất của Công ty cũng bị động, ảnh hưởng tới khâu dệt và hoàn
tất sản phẩm.
Tình hình náy móc thiết bị thiếu đồng bộ và nguyên liệu, vật tư và nhất là
nhu cầu vốn bị động như trình bày trên đâycũng không cho phép Công ty tạo ra
được những sản phẩm đặc thu riêng của mình có ưu thế cạnh tranh hơn hẳn về
chất lượng, giá cả so với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Vì vậy phải biế
tổ chức sản xuất tốt mới phát huy được mọi yếu tố sản xuất.
6. Đặc điểm về quản lý chất lượng sản phẩm:
Đây là một công việc rất quan trọngvì nó liên qua đến việc tiêu hao
nguyên liệu, chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và giá thành sản phẩm của
Công ty. Do đó trong những năm qua, Công ty đã tập trung kiện toàn công tác
này. Nhiệm vụ quản lý kỹ thuật và quản lý chất lượng sản phẩm được giao cho
bộ phận quản lý kỹ thuật (phòng đảm bảo chất lượng) và các đơn vị phân xưởng
trong toàn Công ty.
Công tác quản lý chất lượng sản phẩm, bao gồm quản lý chất lượn,
nguyên liệu vật tư, hóa chất đều được quan tâm đúng mức. Do vậy đã góp phần
vào việc tiết kiệm nguyên vật liệu chất lượng sản phẩm được đồng đều hơn, giúp
cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
7. Đặc điểm về lao động:
Hiện nay Công ty có 465 người, trong đó lao động nữ chiếm khoảng 48%
đây là một đặc điểm quan trọng trong qua trình hoạt động của Công ty.
Chất lượng lao động:
Tổng số lao động có trình độ trở nên 32 người. Tuy nhiên trình độ truyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý vẫn chưa cao, chưa bắt kịp với thời
đại bùng nổ thông tin hiện nay. Có những nhiệm vụ vẫn còn khá thủ công thô sơ
35
đặc biệt là trong công tác kế toán và lập kế hoạch. Điều này ảnh hưởng tới hiệu
quả và độ chính xác của công việc.
Với quá trình mở rộng quy mô sản xuất và trang bị máy móc thiết bị như
nói trên, số lượng lao động trong Công ty cũng phải tăng nhiều hơn. Song trong
những năm gần đây lao động cũng được bố trí lại và hợp lý hoá dần nên đã
giảm. Có thể nói đặc điểm này vừa là ưu thế vừa là khó khăn của Công ty.
Nhưng việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác, đó là sự kết hợp của toàn bộ các bộ phận các phòng ban chức năng
của Công ty.
III. TÌNH HÌNH CHIẾM LĨNH THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY DỆT 10-10 :
1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của
Công ty:
Việc phân tích tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh của Công ty là yêu
cầu đặt ra là yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp. Trước kia trong cơ chế
bao cấp, kế hoạch hoá sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thường do nhà
nước giao xuống, do vậy việc phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất
kinh doanh chủ yếu là so sánh với các chỉ tiêu pháp lệnh mà nhà nước giao cho.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ sản
xuất kinh doanh nên việc lậo và tổ chức thực hiện. Chính vì vậy mà việc phân
tích kết quả sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện kế hoạch là hết sức quan
trọng nó giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp, hiểu biết nắm bắt được thực
trạng của qúa trình sản xuất, đồng thời kết hợp với những thông tin rút ra từ kết
quả sản xuất sẽ giúp cho họ lập kế hoạch chính xác, tổ chức thực hiện tốt kế
hoạch đó.
Hàng năm Công ty lập kế hoạch sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở sau:
- Phân tích kế hoạch sản xuất từ năm trước
- Phân tích công tác tiêu thụ từ năm trước
36
- Nghiên cứu nhu cầu thị trường và hệ số liên quan
- Nghiên cứu thị trường của các đối thủ cạnh tranh tình hình thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt Hà Nội trong một số năm gần đây
được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Một số chỉ tiêu đã thự hiện trong giai đoạn 1998-2000 của Công ty
Dệt 10-10.
Đơn vị:1.000.000đ
1998 1999 2000
Chỉ tiêu
TH
% so
KH98
% so
TH97
TH
% so
KH99
% so
TH98
TH
% so
KH00
% so
TH98
1.Giá trị sản lượng 37.400 113.4 115.1 37.300 100 99.7 40100 100 107.5
2.Doanh thu 37.057 126.0 125.9 35297 97.4 95.3 38000 100 107.7
3.Nộp ngân sách 1.430 89.4 83.8 1004 118.6 70.2 1539 100 59.1
4.TL bình quân 1.26 109.8 124.2 135 103.5 107.1 1.05 100 77.8
5.Xuất khẩu 7948 1746.8 2981.2 907 986 114.13 16441 357.6 181.24
6.Lợi nhuận 2015 113.5 112.3 2160 110.2 107.2 2286 102.4 105.83
Nguồn: Giá trị sản xuất kinh doanh năm 1998, 1999,2000 của Công ty Dệt
10-10.
Phân tích sản xuất kinh doanh năm 1998:
Năm 1998 là một năm thành công nhất của Công ty cổ phần Dệt 10-10.
Trong giai đoạn này sản xuất và kinh doanh của Công ty rất ổn định. Mặc dù
mặt bằng sản xuất của Công ty còn chật hẹp song doanh thu của Công ty đạt
tương đối cao 37,057 tỉ đồng, đạt 125,9 % so với thực hiện 1997, về giá trị sản
37
lượng tăng 115,1% so với năm1997 đem lại lợi nhuận cho Công ty là 2,015 tỉ
đồng.
Phân tích sản xuất kinh doanh năm1999.
Trong năm1999 do gặp phải nhiều biến động lớn về thị trường do đó các
chỉ tiêu mà Công ty đặt ra đều không hoàn thành được một cách trọn vẹn. Cụ thể
là doanh thu của Công ty chỉ đạt có 37,29 tỉ đồng đạt 97,4% so với kế hoạch và
đạt 95,3% so với thực hiện của năm 1998. Mặc dù các chỉ tiêu còn lại như giá trị
sản lượng đạt100% so với kế hoạch nhưng vẫn giảm so với năm trước (đạt
99,7% so với năm1998). Tuy nhiên lợi nhuận của Công ty vẫn đạt 2,160 tỉ đồng.
Phân tích sản xuất kinh doanh năm 2000.
Bước sang năm 2000 là năm đầu tiên Công ty chuyển sang Công ty cổ
phần do vậy Công ty được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho dự án đầu tư
mở rộng sản xuất, do đó Công ty được phép miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp trong hai năm đầu. Vì vậy trong hai năm đầu 2000 và 2001 Công ty
không phải nộp thuế thu nhập. Do vậy nộp ngân sách của Công ty là 593 triệu
đồng chỉ 59,1 % nộp ngân sách năm 1999. Do năm 2000 là năm Công ty đầu
tiên Công ty thực sự tự do trong việc kinh doanh vì vậy cán bộ công nhân viên
của Công ty đều phấn đấu hết mình trong lao động sản xuất đồng thới họ đưa ra
các chiến lược mới đó là Công ty phấn đấu tăng doanh thu xuất khẩu. Năm 2000
doanh thu xuất khẩu đạt 17,5 tỉ đồng đạt 156,7% so với năm 1999.
Doanh thu thực hiện so với kế hoạch năm là 38 tỉ đồng đạt 100% kế hoạch
đề ra và 107,7% so với năm 1999. Đem lại lợi nhuận cho Công ty là 2,286 tỷ
đồng.
Sơ đồ 5: Một số chỉ tiêu chính đã thực hiện trong giai đoạn 1998-
2000 của Công ty.
32000
33000
34000
35000
36000
37000
38000
39000
40000
41000
1998 1999 2000
GTSL
DT
38
Đạt được những thành tựu trên trong năm 2000 công ty đã đạt được doanh
thu và giá trị sản lượng cao nhất từ trước tới nay. Đây là một thắng lợi lớn nó đã
củng cố vai trò của Công ty Dệt 10-10 trên thị trường. Nguyên nhân quan trọng
nhất là Công ty đã tạo được thế cạnh tranh thuận lợi với ưu thế trên thị trường
bằng cách đa dạnghoá sản phẩm, đảm bảo chất lượng, cung ứng kịp thời theo
nhu cầu của thị trường, uy tín của Công ty tiếp tục tăng nên và thị trường của
Công ty được mở rộng cả chiều rộng và chiều sâu và sự tín nhiệm của người tiêu
dùng đối với Công ty.
2. Phân tích tình hình duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm của
Công ty Dệt 10-10 trong những năm qua.
Đặc điểm về thị trường tiêu thụ:
Thị trường tiêu thụ là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
mọi doanh nghiệp, ý thức được vấn đề này Công ty đã quyết định thành lập một
phòng kinh doanh năm 1997 tách ra từ phòng kế hoạch vật tư. Toàn bộ thị
trường có thể có của các doanh nghiệp đựpc phân chia thành như sau:
Sơ đồ 6 : Các loại thị trường của doanh nghiệp.
Thị trường hiện
tại của các đối thủ
cạnh tranh
Thị trường hiện tại
của Công ty
Phần thị trường
không tiêu dùng
tương đối
Phần thị trường
không tiêu dùng
tuyệt đối
Thị trường mục tiêu
Thị trường tiềm năng
Thị trường lý thuyết
Tổng số thị trường hiện có
Thị trường hiện có cũng như thị trường truyền thống của Công ty ở trong
nước bao gồm một số tỉnh miền Bắc và miền Trung như: Hà Nội, Hải Phòng,
Thanh Hoá, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Vinh... và một thị
trường quốc tế có mối quan hệ làm ăn lâu dài dối với Công ty như Kenya, một
39
số nước Châu Phi. Thị trường các nước Châu Phi phải xuất khẩu qua trung gian
là Đan Mạch chứ chưa thể tự tìm khách hàng trực tiếp. Đây là thị trường truyền
thống của Công ty, uy tín của Công ty được xây dựng từ lâu.
Theo số liệu năm 2000 thì thị trường nội địa của Công ty chiếm tới
56,79% duy trì tiêu thụ sản phẩm và 43,27% là thị trường quốc tế. Khách hàng
của Công ty Dệt 10-10 chủ yếu là cơquan nhà nước, các doanh nghiệp thương
mại, khu bách hoá tổng hợp siêu thị... Chiến lược thị trường của Công ty là tiếp
xúc trực tiếp với khách hàng qua phòng kinh doanh và một số đại lý ở các khu
vực nhằm nắm bắt đầy đủ chính xác các yêu cầu, phàn nàn và đề xuất của khách
hàng từ đó có kế hoạch sản xuất tiêu thụ phù hợp.
Khi nghiên cứu về thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty không thể bỏ
qua việc phân tích các đói thủ cạnh tranh để tìm ra đâu là điểm mạnh, đâu là
điểm yếu của họ. Một số đói thụ cạnh tranh của Công ty cổ phần Dệt 10-10 là
Textimex, Viện Dệt, Dệt Phước Long, Dệt Đông phương, Dệt Châu Á, Dệt
Minh Khai, các cơ sở sản xuất tư nhân và một số nước láng riềng như Trung
Quốc, Thái Lan.
Mỗi đơn vị kể trên đều có những lợi thế của mình so với các đối thủ khác.
Viện Dệt thuộc Tổng Công ty Dệt may có thế mạnh về vốn và thị trường đầu ra
do được hỗ trợ của cơ quan chủ quản cấp trên. Sản phẩm Trung Quốc hay các cơ
sở sản xuất tư nhân đều có mức giá hấp dẫn với mọi tầng lớp nhân dân. Tại phía
Nam: Công ty Dệt Châu Á có thị trường truyền thống từ lâu và lợi thế vận
chuyển nên rất khó cạnh tranh.
Ngoài Dệt Phước Long, Châu Á có thị trường truyền thống ở Miền Nam
thì thị trường của một số đối thủ này cũng cùng một khu vực với Công ty Dệt
10-10 cho nên cạnh tranh diễn ra khá gay gắt. Chỉ cần một sai lầm nhỏ cũng
khiến cho quy mô khách hàng ở đây bị thu hẹp lại và chuyển sang thị trường của
các đối thủ cạnh tranh.
Bảng 4 : Doanh của thu các thị trường
Đơn vị: 1.000.000đ
Thị trường Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
40
Doanh
thu
%
Doanh
thu
% Doanh thu %
I. Nội địa
1. Hà Nội
2. Tp. Hồ Chí Minh
3. Hải phòng
4. Vinh
5. Đà Nẵng
6. Hưng Yên
7. Hải Dương
8. Thanh Hoá
9. Thái Bình
10. Nam Định
II. Xuất Khẩu
III. Tổng
9.953
74
4.576
976
60
935
589
3.923
3.011
5.012
7.948
37.057
26,9
0,2
12,4
2,37
0,16
2,44
1,59
10,1
8,15
13,6
21,6
100
9.506
70
4.237
652
58
713
509
3.128
3.007
4.310
9.071
35.297
26,8
0,2
12,1
1,84
0,16
2,29
1,55
8,83
8,49
12,2
25,6
100
8.592
60
3.051
630
50
854
600
2.615
2.945
2.162
16.441
38.000
22,1
0,15
7,8
1,61
0,13
2,2
1,54
6,69
7,45
5,53
43,3
100
Qua bảng số liệu trên ta thấy sản phẩm của Công ty được tiêu thụ rải rác ở
nhiều tỉnh thành trong cả nước đặc biệt là các tỉnh phía Bắc mà chủ yếu tập
trung ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá, Thái Bình (chiếm khoảng
70% trong tổng số doanh thu). Doanh thu ở thị trường Hà Nội luôn đạt mức cao
nhất chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu: Năm 1998 đạt 9,953 tỉ đồng
chiếm tỷ trọng 26,9%. Năm 1999 đạt 9,505 tỷ chiếm tỷ trọng 26,8%. Năm 2000
đạt 8,592 tỷ chiếm 22,1%. Doanh thu thấp nhất là ở thị trường Đà Nẵng và ở
thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2000 doanh thu trên các thị trường đã giảm đều
(trừ thị trường xuất khẩu) nhưng tỷ trọng ít thay đổi. Năm 1997 là năm Công ty
bắt đầu có doanh thu xuất khẩu và tỷ trọng của thị trường này ngày càng tăng
nên rõ rệt (năm 1997 chiếm 1,05%, năm 1998 chiếm 21,6%, năm 1999 chiếm
25,6%, năm 2000 chiếm 43,27%). Điều này cho thấy xuất khẩu sang các thị
trường Châu Phi là một bước đi đúng đắn của Công ty. Đây là thị trường tiềm
năng của Công ty cần khai thác trong thời gian tới. So với thị trường xuất khẩu,
thị trường của các tỉnh trong nước có tốc độ tăng trưởng chậm hơn rất nhiều thể
hiện qua bảng sau.
41
Bảng 5: Tốc độ tăng trưởng doanh thu ở một số thị trường chủ yếu.
Thị trường
Tốc độ tăng doanh
thu 98/97(%)
Tốc độ tăng doanh
thu 99/98(%)
Tốc độ tăng doanh
thu 2000/99(%)
1. Nam Định 10,93 -14,00 -49,83
2. Thái Bình -33,95 -0,138 -2,06
3. Thanh Hoá 4,31 -20,27 -16,40
4. Hải Phòng 9,4 -6,62 -28,6
5. Hà Nội 4,12 -4,49 -9,6
Nam Định, Thanh Hoá, Hải Phòng, Hà Nội có tốc độ tăng trưởng khá ổn
định trong các năm 1997, 1998 nhưng đến năm 1999, 2000 ở các thị trường này
tốc độ tăng doanh thu đều giảm sút. Bên cạnh đó thị trường Nam Định có tốc độ
giảm sút mạnh nhất là vào năm 1999/1998 (giảm 14%), năm 2000/1999 (giảm
49,83%). Điều này xảy ra là do nhiều hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu của Công ty
được bán với giá rất thấp dẫn đến thiệt hại lớn cho Công ty.
Xét hiệu quả của các thị trường
Bảng 6: Lợi nhuận của các thị trường
Đơn vị : 1.000.000
Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
Thị trường
Lợi nhuận % Lợi nhuận % Lợi nhuận %
I. Nội địa
1. Hà Nội
2. TP. Hồ Chí
Minh
3. Hải phòng
4. Vinh
5. Đà Nẵng
6. Hưng Yên
7. Hải Dương
646,945
3,843
261,785
21,494
4,246
37,129
25,069
125,68
32,11
0,19
12,99
1,07
0,21
1,84
1,24
6,24
668,272
4,144
276,89
21,06
4,07
32,12
23,48
131,376
30,94
0,19
12,82
0,97
0,19
1,49
1,09
6,08
631,15
2,87
235,41
17,03
3,82
34,15
25,64
102,78
27,6
0,13
10,3
0,74
0,17
1,49
1,12
4,49
42
8. Thanh Hoá
9. Thái Bình
10. Nam Định
II. Xuất Khẩu
Tổng
112,363
302,115
481,585
2015
5,58
14,99
23,9
100
157,94
269,375
571,473
2160,2
7,31
12,47
26,45
100
140,23
145,56
948,12
2286,76
6,13
6,37
41,96
100
Căn cứ vào số liệu bảng trên ta thấy Công ty sản xuất kinh doanh đạt hiệu
quả cao và tăng dần ở các năm 1998-2000. Trong đó lợi nhuận lớn nhất là ở Hà
Nội và thấp nhất là hai thành phố Nam Định và thành phố Hồ Chí Minh. Còn ở
xuất khẩu, do sản lượng xuất khẩu tăng mạnh dẫn đến lợi nhuận từ phía xuất
khẩu rất cao tăng gần gấp đôi (năm 2000 so với năm 1999).
Khả năng sinh lời của các thị trường.
Để thấy được khả năng sinh lời của thị trường, chúng ta hãy xem tỷ suất
lợi nhuận qua bảng.
Bảng 7: Tỷ suất (lợi nhuận/doanh thu) của các thị trường:
Thị trường
L N/D T
Năm 1998 (%)
L N/D T
Năm 1999 (%)
L N/D T
Năm 2000 (%)
I. Nội địa
1. Hà Nội
2. Tp.Hồ Chí Minh
3. Hải phòng
4. Vinh
5. Đà Nẵng
6. Hưng Yên
7. Hải Dương
8. Thanh Hoá
6,5
5,19
5,72
2,20
7,08
3,97
4,26
3,2
7,03
5,92
6,48
3,23
7,0
4,5
4,61
4,2
7,35
4,78
7,72
2,70
7,64
4,0
4,27
3,93
43
9. Thái Bình
10. Nam Định
II. Xuất Khẩu
Tổng
3,37
6,03
6,06
5,44
5,25
6,25
6,3
6,12
4,76
6,73
5,77
6,02
Tỷ suất lợi nhuận cho chúng biết cứ 100 đồng doanh thu tạo ra thì sẽ đem
lại cho chúng ta bao nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 1998 cứ 100 đồng doanh thu
cho ta 5,44 đồng lợi nhuận con số này tăng nên đáng kể trong năm 1999 và năm
2000 (tương ứng cho các năm 6,12 và 6,02 đồng lợi nhuận). Hà Nội và Hải
Phòng là thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao nhất và cũng là hai thị trường có
doanh thu cao nhất. Công ty nên tập trung khai thác, hấp dẫn hai thị trường này
cùng với một số thị trường khác nữa như: Nam Định , Thái Bình.
Bên cạnh đó thị trường Đà Nẵng tuy có lợi nhuận và doanh thu nhỏ nhất
nhưng sức sinh lời lại khá cao, thiết nghĩ Công ty không nên bỏ sót thị trường
này. Thị trường xuất khẩu đang hứa hẹn một tiềm năng lớn giúp Công ty mở
rộng thị trường của mình.
3. Một số giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường mà Công ty
Dệt10-10 đã thực hiện trong những năm qua.
3.1 Hạ gía thành sản phẩm.
Nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của hạ gía thành sản phẩm
nhằm duy trì và ngày càng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Công ty Dệt
10-10 thường xuyên phát động phong trào tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành
sản phẩm. Ví dụ như phân xưởng dệt, các công nhân cố gắng sử dụng tối đa
phần nỗi của vải tuyn để làm các phần phụ cho màn hay các rèm cửa.
Một số biện pháp nhằm hạ giá thành của Công ty:
- Công ty đã tập trung và việc nghiên cứu đổi mới công nghệ sản xuất.
Trước mắt công ty đã sản xuất thêm được nhiều sản phẩm mới phù hợp với nhu
cầu của khách hàng và phù hợp với điều kiện sản xuất của Công ty, thực hiện
chính sách “lấy ngắn nuôi dài”.
- Thực hiện “mua tận gốc - bán tận ngọn” giảm bớt số kênh trong phân
phối.
44
- Quản lý sát sao nhận mua đầu vào các sợi Petex và các nguyên liệu phụ
khác để giảm giá thành sản phẩm.
- Giảm chi phí nhất là khâu chi phí quản lý.
3.2 Nghiên cứu để tạo ra mẫu mã sản phẩm mới:
Mở rộng thị trường có nghĩa là phải đáp ứng nhu cầu thị trường ngày một
đa dạng, có chuyên gia kinh tế đã nhận xét rằng thị trường tiêu thụ sản phẩm
ngày càng trở nên “khó tính”. Công ty Dệt 10-10 nhằm mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm đã nghiên cứu, thiết kế tạo ra kịp thời những sản phẩm mới phục
vụ khách hàng trong nước và ngoài nước tạo thêm việc làm cho người lao động
trong Công ty. Đó là những sản phẩm như vải Tuyn trơn, Tuyn hoa, Rèm cửa,
Màn xuất khẩu , MT02, Màn đôi, Màn đơn... được người tiêu dùng ưa chuộng
do giá cả phải chăng, chất lượng sản phẩm tốt mẫu mã đa dạng.
3.3 Xác định vị trí chiến lược của mặt hàng qua công tác tiêu thụ sản
phẩm tại Công ty.
Xuất phát từ một doanh nghiệp nhà nước, nhưng Công ty Dệt 10-10 có
quy mô sản xuất không phải là lớn, hạn chế về nguồn lực tài chính cho nên công
tác duy trì và mở rộng thị trường gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình phức tạp
và biến động của thị trường, Công ty phải luôn xác định vị trí chiến lược mặt
hàng qua công tác tiêu thụ sản phẩm tại Công ty để từ đó giành những nhuồn lực
về tài chính, lao động cho mặt hàng đó nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường đặt
ra.nếu như mặt hàng Màn đôi là mặt hàng chính của Công ty chiếm tới 55,8%
tổng doanh thu thì sản phẩm Màn cá nhân chiếm 31,8% còn lại là Rèm hoa và
một số các loại khác. Do đặc điểm cơ cấu sản phẩm của Công ty như trên nên
Công ty đẫ tập trung vào việc sản xuất các mặt hàng Màn đôi để phục vụ cho
nhu cầu của thị trường nội địa hay xuất khẩu. Trong năm qua Công ty đã tổ
chức 3 ca liên tục đảm bảo về chất lượng sản phẩm, cũng như về số lượng sản
phẩm đã ký kết, bởi đây cũng là sản phẩm chiến lược của Công ty.Sản phẩm
Rèm hoa của Công ty mặc dù chỉ chiếm có 11,2% tổng số doanh thu nhưng đây
là mặt hàng mới hưá hẹn sự tiến tới của Công ty trong những năm sau này.
Bảng 8: Tỷ lệ cơ cấu mặt hàng (doanh thu)
Mặt hàng Đơn vị 1998 1999 2000
45
Màn đôi % 55,9 55,9 56,2
Màn đơn - 31,7 31,7 32,5
Rèm hoa - 12,4 11 10,2
Loại Khác - 1,4 1,4 1,1
Nguồn Tính theo doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Sản phẩm Màn đôi vốn là những sản phẩm chính tỷ trọng lớn trong cơ cấu
sản phẩm của Công ty. Trong những năm qua theo xu hướng ngày càng gia tăng
do đó có uy tín với khách hàng về chất lượng cao, giá cả phải chăng.Trong
những năm qua mặt hàng truyền thống của Công ty cũng phát triển nhanh cả về
chất lượng cũng như số lượng. Năm 1998 Công ty chỉ có 18 mặt hàng Màn khác
nhau trong tổng số 29 mặt hàng thì tới năm 2000 Công ty đã có hơn 25 sản
phẩm trong tổng số 35 mặt hàng. Trong những năm tới, Công ty dự kiến sẽ
nghiên cứu mở rộng mẫu mã các loại Màn hơn nữa và đặc biệt đi vào nghiên
cứu các loại Rèm cửa có mẫu mã đẹp hơn.
Sơ đồ 7: Tỷ lệ cơ cấu mặt hàng.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC DUY TRÌ VÀ
MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY DỆT 10-10.
1. Những thành tích mà Công ty đã đạt được:
Chất lượng:
Điều đáng tự hào nhất đối với Công ty cổ Phần Dệt 10-10 trong suốt mấy
chục năm qua là chất lượng luôn nhận được sự tín nhiệm của người tiêu dùng và
được các tổ chức đánh giá là khá cao. Càng ngày càng có nhiều mẫu mã sản
phẩm mới màu sắc đẹp mắt được tung ra thị trường. Đây chính là thành quả nỗ
n¨m 1999
55.9%1.4%11.0%
31.7%
Mµn ®«i Mµn ®¬n RÌm hoa Lo¹i kh¸c
n¨m 2000
32.5%
10.2% 1.1%
56.2%
46
lực không mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty.Hơn nữa
nó cũng là kết quả của sự đầu tư thay mới máy móc thiết bị và đào tạo tay nghề
cho công nhân cũng như trình độ quản lý cho cán bộ.
Giá thành:
Do áp dụng nhiều biện pháp hạ giá thành nên so với những sản phẩm
đồng chất lượng thì giá thành của Công ty gần như ngang và thấp hơn. Đây được
coi là một trong những yếu tố cạnh tranh hiệu quả với các sản phẩm ngoại nhập
từ đó đã tạo điều kiện cho Công ty vượt nên chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ trong
nước. Những biện pháp đó như là: Tìm nguyên vật liệu thay thế, giảm giá, tiết
kiệm các yếu tố đầu vào, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sử dụng máy.
Cơ chế bán:
Cơ chế bán ngày càng hoàn thiện đã tạo mọi điều kiện trong việc mua bán
vận chuyển giao nhận hàng cho khách hàng.
Thị trường:
Thị trường truyền thống của Công ty, các khu vực phía Bắc Việt Nam
không ngừng được củng cố. Gần đây Công ty cũng rất thành công khi mở rộng
hướng xuất khẩu sang các nước Châu Phi. Thị trường tuy rất khó tính nhưng đã
bị khuất phục bởi chất lượng, hình dáng cũng như giá cả của Công ty. Trong
tương lai đây là một thị trường tiềm năng to lớn cần được khai thác, mức sống
của họ chưa hẳn là cao lại thuộc vùng khí hậu nóng bức, nhiều muỗi ít phương
tiện chống sốt rét nên nhu cầu về màn là rất lớn.
Doanh thu và lợi nhuận:
Trong những năm qua doanh thu và lợi nhuận tăng lên đáng kể cao nhất là
năm 2000 doanh thu đạt 38 tỷ đồng. Đời sống cán bộ công nhân viên trong Công
ty đã được cải thiện đáng kể, luôn có việc làm ổn định được quan tâm nhiều hơn
đến cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Lợi thế cạnh tranh:
47
So với các đơn vị sản xuất Màn tuyn trong nước mới ra đời thì khả năng
cạnh tranh của Công ty cổ Phần Dệt 10-10 là cao hơn nhờ uy tín lâu năm trong
ngành. Hơn nữa Công ty luôn có mức giá cả, chất lượng hấp dẫn, đây là một lợi
thế vô cùng to lớn.
2. Một số tồn tại về việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm .
Chất lượng:
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm
nhưng vẫn không chánh khỏi những sản phẩm bị lỗi được đưa ra thị trường. Thị
trường trong nước khá dễ tính nên thường chấp nhận những lỗi nhỏ, ngược lại
thị trường quốc tế rất khắt khe, chỉ cần có một lỗi nào đó dù nhỏ hay lớn, dù có
khắc phục được hay không cũng bị coi là vi phạm hợp đồng. Vừa qua 24 lô hàng
màn đôi xuất khẩu sang Kenya đã bị trả lại gây thiệt hại không nhỏ cho Công ty.
Công nghệ:
Hầu hết máy móc của Công ty được nhập từ Đức trước thập kỷ 80 nên đã
lạc hậu, thường xuyên hỏng hóc vặt làm tăng chi phí và giảm năng suất lao
động. Hơn nữa công nghệ cũ kỹ đã không cho phép doanh ngiệp đa dạng hoá
sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Vốn:
Cũng như đa số các doanh nghiệp khác Công ty cổ Phần Dệt 10-10 luôn
thiếu vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh như mua sắm nguyên vật liệu, các
yếu tố đầu vào để đổi mới công nghệ... Số vốn thiếu hụt phải đi vay từ Nhà
nước, ngân hàng, từ liên doanh liên kết... việc sử dụng và huy động vốn vẫn
không đạt hiệu quả cao.
Nguyên vật liệu:
Nguyên vật liệu chính của Công ty là sợi tổng hợp được nhập khẩu từ Đài
Loan và giá cả nguyên vật liệu thường không ổn định do phụ thuôc nhiều vào
các yếu tố bên ngoài đặc biệt là giá dầu mỏ và tỷ giá hối đoái. Các nguyên vật
48
liệu khác thì được mua ngay trong nước nhưng chất lượng không đồng đều làm
ảnh hưởng tới quá trình sản xuất.
Địa điểm sản xuất:
Bố trí cơ cấu sản xuất phân tán tại ba nơi làm tăng chi phí vận chuyển,
kém linh hoạt, kéo dài thời gian sản xuất do thiếu đồng bộ giữa các cơ sở
Đặc điểm sản xuất:
Bị ảnh hưởng bởi yếu tố mùa vụ, thời kỳ cao điểm thường là tháng
3,4,5,6,7 và Công ty sản xuất dựa trên yêu cầu của các đơn đặt hàng. Điều này
cho thấy tính thiếu chủ động trong kinh doanh của Công ty. Công tác tiêu thụ
còn bị động theo diễn biến của thị trường thiếu linh hoạt. Đặc biệt khi tham gia
đấu thầu do giá dự thầu cao nên tỷ lệ chúng thầu rất thấp.
Tình hình cạnh tranh:
Nhiều Công ty mới ra đời có lợi thế hơn về công nghệ kỹ thuật đang cạnh
tranh gay gắt với Công ty cổ phần Dệt 10-10. Bên cạnh đó là các cở sản xuất
hàng giả làm ảnh hưởng tới uy tín của Công ty dẫn đến việc giảm sức tiêu thụ
hàng hoá trên thị trường.
Công tác Marketing chưa có hiệu quả hiệu:
Do doanh nghiệp có quy mô vừa - nhỏ nên bộ phận Marketing chưa có,
vì vậy mọi hoạt động về Marketing đều do phòng kinh doanh của Công ty quyết
định. Hàng năm hoặc đột xuất phòng kinh doanh phối hợp với phòng tài vụtổ
chức hội nghị khách hàng nhằm thu thập đánh giá, nhận xét về chất lượng, kiểu
dáng mẫu mã sản phẩm của Công ty sau đó kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
Cũng như nhiều doanh nghiệp ở nước ta. Công ty Dệt 10-10 dành một chi
phí rất nhỏ cho công tác Marketing cho nên trên thực tế công tác Marketing của
Công ty chưa phát huy hiệu quả cao. Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị
trường, điều đó cũng có nghĩa là tồn tại sự cạnh tranh gay gắt khốc liệt do việc
đẩy mạnh hoạt động Marketing trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra vấn đề cấp
bách với các doanh nghiệp nước ta nói chung cũng như Công ty Dệt 10-10 nói
riêng. Theo nghiên cứu số lượng đơn hàng thì thấy số lượng đơn hàng hàng
49
năm, hàng quý, hàng tháng là không đều nhau thậm chí chênh lệch rất lớn khiến
cho đôi lúc sản xuất bị gián đoạn, công nhân phải nghỉ. Công ty chưa chủ động
tìm kiếm đơn hàng, chưa chủ động tìm kiếm thị trường, đội ngũ làm công tác
Marketing còn thiếu kinh nghiệm hoạt động thị trường.
3. Nguyên nhân của những tồn tại về việc duy trì và mở rộng thị
trường:
3.1 Nguyên nhân chủ quan:
- Công tác quảng cáo giới thiệu sản phẩm mới chưa nhiều và chưa năng
động. Các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ như: Quảng cáo, khuếch trương, khuyến mại
còn ít, yếu kém và thiếu đồng bộ (chưa đạt yêu cầu đặt ra).
- Chưa có phòng thị trường với đầy đủ các ngiệp vụ và quyền hành theo
đúng nghĩa của nó. Chỉ có phòng kinh doanh nhưng hoạt động chưa có hiệu quả
do không được đầu tư kinh phí. Do đó hoạt động nghiên cứu thị trường chưa có
hiệu quả cao, chưa đánh giá đúng vị trí của từng loại sản phẩm trên từng khu
vực của thị trường.
- Số lượng lao động thừa đặc biệt số lượng lao động gián tiếp đã ảnh
hưởng tới khoản mục chi phí sản xuất chung làm hạn chế khả năng hạ giá thành
sản phẩm và khả năng tăng tỷ lệ phần thị trường của Công ty. Thêm vào đó trình
độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
của công tác sản xuất và tiêu thụ.
- Lượng vốn lưu động nhỏ, đôi khi còn thiếu để mua các nguyên liệu đầu
vào cho sản xuất hoặc là lợi nhuận sẽ quá ít do phải trả lãi suất tiền vay.
- Chưa có văn phòng đại diện tại Châu Phi nên việc xuất khẩu hoàn toàn
phải qua trung gian là Đan Mạch.
- Không kiểm tra chặt chẽ trong hạch toán kế toán hay trong cân đối thu
chi.
- Chưa đầu tư thích đáng cho công tác tạo mẫu mã làm đa dạng hoá sản
phẩm.
- Không đổi mới dây truyền công nghệ mà chỉ thay mới một số máy móc
thiết bị.
50
- Chưa tiếp cận được với các tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc tế như
ISO-9000, 9001...
3.2 Nguyên nhân khách quan:
- Tỷ giá hối đoái, gía xăng dầu thường xuyên biến động làm ảnh hưởng
tới việc tính giá thành và định gía bán sản phẩm của Công ty.
- Các thủ tục xuất nhập khẩu còn khá phức tạp, tốn thời gian.
- Nhà nước chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn hàng giả, hàng nhái
hàng nhập lậu. Trên thị trường vẫn còn tồn tại một khối lượng lớn các loại Màn
giả có cùng nhãn mác song chất lượng kém làm ảnh hưởng tới uy tín sản phẩm
của Công ty. Do đó làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tác động xấu
tới hoạt động duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
- Môi trường cạnh tranh không được thuận lợi.
-...
51
phần III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG
TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY DỆT 10-10.
Trong cơ chế thị trường với sự canh tranh gay gắt như hiện nay, việc duy
trì thị trường cũng là một vấn đề khó khăn chứ chưa nói đến việc mở rộng thị
trường. Tuy nhiên cũng có khi phải hi sinh thị trường hiện tại để tìm kiếm những
thị trường mới có tiềm năng hơn. Nếu chúng ta chỉ dựa trên lý thuyết về thị
trường để vạch ra các kế hoạch, định hướng cho doanh nghiệp thì đó chỉ là thứ
kế hoạch giấy tờ. Rút ra từ thực tế công việc kinh doanh của Công ty Dệt 10-10
thông qua việc phân tích tìm ra các tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại từ đó
làm cơ sở để tìm ra các biện pháp khắc phục giúp cho sản phẩm của Dệt 10-10
ngày càng khẳng định vị thế và sự phát triển trên thị trường. Một số biện pháp
chủ yếu là:
I. XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC THỊ TRƯỜNG:
Một triết lý luôn là tâm huyết với các doanh nghiệp ngày nay, đó là “sản
xuất những thứ thị trường cần chứ không phải những thứ mình có”. Đây là quan
điểm cơ bản cần thiết nhất đối với bất kỳ một nhà kinh doanh nào muốn thành
công trên thị trường. Một cách đơn giản thì có thể hiểu quan điểm này luôn
hướng nhà kinh doanh nhìn ra thị trường, bởi thị trường là nơi đo lường chính
xác nhất ưu nhược điểm của doanh nghiệp là phong vũ biểu để doanh nghiệp soi
mình. Điều này không chỉ thức tỉnh ý thức thị trường của chủ doanh nghiệp mà
đòi hỏi trong doanh nghiệp từ giám đốc, trưởng phòng, công nhân viên, người
lao động đến cả những người bảo vệ phải luôn nhận thức rằng những việc mình
làm là đang hướng vào việc phục vụ nhu cầu của thị trường. Muốn vậy, xây
dựng cho Công ty một chiến lược thị trường là điều quan trọng hơn bao giờ hết.
Đối với Công ty cổ Phần Dệt 10-10 thì nó lại càng có ý nghĩa hơn vì đây là một
doanh nghiệp có truyền thống kinh doanh từ khá lâu, họ được hoạt động trong cả
hai thời kỳ kinh tế của đất nước: Kinh tế kế hoạch tập trung và kinh tế thị trường
thêm vào họ lại là doanh nghiệp đi tiên phong trong ngành Dệt về cổ phần hoá.
52
Xây dựng chiến lượng thị trường là một việc làm rất khó khăn đòi hỏi tập
hợp được lực lượng kiến thức cũng như kinh nghiệm trong toàn Công ty. Để làm
được điều này Công ty phải tổ chức ban soạn thảo trong đó giám đốc hoặc phó
giám đốc làm trưởng ban, các thành viên phải được lựa chọn từ các phòng ban
và có sự tham khảo ý kiến của người lao động. Trong chiến lượng thị trường này
có một số điểm cần lưu ý đó là:
Nêu lên được tầm quan trọng của chiến lược thị trường để mọi người
trong toàn Công ty luôn ý thức và hành động vì nó. Trong mọi trường hợp, mọi
hoàn cảnh phải kiên quyết theo đuổi coi nó là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Nêu lên được tôn chỉ hành động của Công ty đó là: ”Công ty Dệt 10-10
hành động tất cả vì chất lượng cuộc sống cộng đồng”. Việc nêu lên được điều
này là rất cần thiết không chỉ cho bản thân các lực lượng lao động trong doanh
nghiệp mà còn là một tuyên bố hành động đối với khách hàng nói riêng và toàn
xã hội nói chung.
Tôn chỉ hành động đã được các Công ty, tập đoàn kinh doanh nổi tiếng
trên thế giới đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ 20 này. Một số tôn chỉ hành
động ta có thể tham khảo đó là:
- Người Nhật có triết lý rất rõ ràng, gọn nhẹ. Họ coi mục tiêu của kinh
doanh là phục vụ con người, xã hội, lợi nhuận là phần thưởng xứng đáng mà nhà
quản lý được hưởng thụ và vì vậy lợi nhuận là phương tiện để duy trì sự nghiệp
còn mục đích kinh doanh là phục vụ và phát triển con người.
- Hãng Honda: “Thế giới là thị trường của chúng ta, của hãng Honda”.
- Mutsushita: “Vì sự tiến bộ và phát triển nhanh chóng các phúc lợi của
chúng ta, Mutsushita phục vụ sự phát triển hơn nữa nền văn minh thế giới”.
- Các nhân viên IBM với bộ đồng phục xanh dương có mặt ở khắp các xí
nghiệp với triết lý: “IBM có nghĩa là phục vụ”
Xác định đối tượng khách hàng của Công ty là toàn bộ cộng đồng dân cư
cả 3 miền Bắc, Trung, Nam trong đó khách hàng ở khu vực Miền Bắc và Miền
Trung là khách hàng truyền thống và cũng là khách hàng mục tiêu của Công ty.
Còn khách hàng ở khu vực phía Nam và các nhóm khách hàng tại một số nước
53
Châu Phi là mục tiêu của sự mở rộng thị trường. Hiện nay tại thị trường Công ty
mới chỉ nắm khoảng 62% thị phần, điều này chưa phải là sự thoả mãn song với
tầm vóc của một Công ty với tiềm năng cũng như uy tín của mình Công ty có
thể vươn tới chiếm lĩnh 80% thị phần nếu Công ty tăng cường công tác quảng
cáo và thiết lập mạng lưới phân phối, hạ bớt giá bán.
Xác định một cơ cấu sản phẩm tối ưu trong đó mặt hàng Mành Rèm là
mục tiêu của sự đổi mới và phát triển sản xuất, Màn là mặt hàng truyền thống
của Công ty.
II. TĂNG TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM NHẰM DUY TRÌ ỔN ĐỊNH VÀ NÂNG CAO CLSP, TRÊN CƠ SỞ ĐÓ TĂNG
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY.
Một trong những nội dung của công tác quản lý kỹ thuật của mỗi doanh
nghiệp là thực hiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Trong doanh nghiệp
công nghiệp chất lượng sản phẩm luôn là một chỉ tiêu quan trọng bởi một số lý
do sau.
Thứ nhất: Chất lượng sản phẩm (CLSP) là tiêu chuẩn hàng đầu tạo nên
sức cạnh tranh của sản phẩm làm cho sản phẩm đó chiếm được sự mến mộ của
khách hàng.
Thứ hai: CLSP là điều kiện để đạt được sự tiết kiệm nguyên vật liệu thiết
bị và lao động trong quá trình sản xuất và sự tiết kiệm nhờ không lãng phí cho
sản xuất ra các sản phẩm hỏng có chất lượng kém. Nâng cao CLSP là con đường
ngắn nhất đem lại hiệu quả kinh doanh.
Thứ ba: Nâng cao CLSP giúp doanh nghiệp đạt được mức cao. Ngày nay
tuy cuộc sống có điệu kiện tốt hơn trước nhiều thì ngoài yếu tố giá cả, CLSP cao
khiến cho người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn và sẽ mua sản phẩm của doanh
nghiệp. Theo đánh giá của các nhà đánh giá thị trường quốc tế thì khi một doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao sẽ mang lại số lợi nhuận nhiều gấp 1,7
lần nếu sản xuất sản phẩm chất lượng trung bình và gấp 3,9 lần nếu sản xuất sản
phẩm chất lượng kém.
54
Thứ tư: Nâng cao CLSP còn là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện chiến
lượng Marketing mở rộng thị trường, tạo uy tín cho doanh nghiệp. Điều này rất
phù hợp với điều kiện hiện nay của Công ty Dệt 10-10 khi đang rất cần phát huy
vị thế của mình trên thương trường, thu hút các đơn hàng.
Như vậy CLSP là một trong những nhân tố tác động không nhỏ tới tốc độ
tiêu thụ sản phẩm, tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy
muốn trụ vững trên thị trường thì bắt buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến chất
lượng những sản phẩm mình sản xuất ra.
Đối với sản phẩm Màn tuyn thì chất lượng chính là kiểu dáng, màu sắc,
độ bóng, độ thông thoáng và độ bền... Hiện nay bên cạnh những sản phẩm Màn
tuyn chính phẩm đang còn tồn tại một số lượng lớn Màn tuyn thứ phẩm. Điều
này đã gây cản trở không nhỏ tới việc phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của
Công ty. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tỷ lệ Màn tuyn thứ phẩm Công
ty cần chú trọng các biện pháp sau:
- Kiểm tra nghiêm ngặt quy trình sản xuất, chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất,
phỉa xác định phương án sản phẩm, lập quy trình sản xuất cho sản phẩm, xác
định và chuẩn bị các thiết bị, nguyên vật liệu các tài liệu liên quan đến sản phẩm
(các thông số tiêu chuẩn kỹ thuật, mẫu mã bao gói... )
- Thực hiện đổi mới công nghệ, thay thế dây truyền công nghệ cũ nhằm đa
dạng hoá sản phẩm theo nhu cầu thị hiếu của khách hàng.
- Không ngừng đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho công nhân.
- Thực hiện chế độ khuyến khích cả về tinh thần lẫn lợi ích vật chất một
cách thoả đáng, thực hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh, rõ ràng công khai.
- Đối với nguyên vật liệu, đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu đúng quy
cách, chất lượng và thời gian cho các nơi làm việc, nguyên vật liệu phải được
kiểm tra chặt chẽ trước khi nhập kho.
- Quản đốc phân xưởng, tổ trưởng sản xuất thường xuyên kiểm tra sự
chấp hành quy định sản xuất của công nhân, tiến hành kiểm tra giám sát tất cả
các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất.
55
- Tiến hành bảo quản tốt thành phẩm tránh hiện tượng chất lượng bị giảm
sút trước và sau khi nhập kho.
Khi thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp Công ty khắc phục tình trạng sản
phẩm kém chất lượng bị tồn kho do không tiêu thụ được, nâng cao khả năng
cạnh tranh và uy tín của Công ty, góp phần quan trọng vào việc phát triển và mở
rộng thị trường đặc biệt là đối với những sản phẩm phải cạnh tranh bằng chất
lượng.
II. HOÀN THIỆN PHƯƠNG THỨC TIÊU THỤ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ
TRỢ TIÊU THỤ.
1. Hoàn thiện phương thức tiêu thụ.
Việc tiêu thụ sản phẩm đạt kết quả ở mức độ nào không chỉ phụ thuộc
vào các yếu tố cung cấp sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường mà còn phụ
thuộc rất lớn vào việc tổ chức mạng lưới và phương thức tiêu thụ chung. Doanh
nghiệp phải thấy rõ ưu, nhược điểm của từng kênh tiêu thụ và so sánh kênh tiêu
thụ của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh. Đối với mỗi thị trường doanh
nghiệp cũng cần tìm cho mình một phương thức tiêu thụ cũng như phương thức
thanh toán thích hợp. Điều này ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Các
quyết định sáng suốt trong lưu thông hàng hoá sử lý đơn hàng, tổ chức kho
hàng, dự trữ hàng, vận tải hàng hoá đến tay người mua, các chi phí cho các hoạt
động trên, việc phối hợp giữa các hoạt động trong khuôn khổ cơ cấu thống nhất
và xây dựng một hệ thống quản lý lưu thông hàng hoá sẽ đảm bảo đủ sức phục
vụ khách hàng mong muốn với tổng chi phí thấp nhất.
Một doanh nghiệp luôn sẵn sàng chuyển giao một phần công việc tiêu thụ
cho những người trung gian thông qua các kênh phân phốivìtính kinh tế và tính
hiệu quả của nó. Tuy lợi ích trước mắtcó bị giảm sút đi chút ít nhưng để đổi lại
doanh nghiệp sẽ thu được những thông tin quý giá để hoàn thiện sản phẩm và
chia sẻ những rủi ro đáng tiếc.
Công ty cổ Phần Dệt 10-10 có một mạng lưới kênh tiêu thụ rộng khắp. Tại
hầu hết các khu vực đều có các cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hoá tổng
hợp, hay các siêu thị cửa hàng giới thiệu sản phẩm... bày bán sản phẩm của
Công ty.
56
Tuy nhiên việc sử dụng các trung gian và các đại lý của Công ty chưa
thực sự có hiệu quả có thể do nhiều yếu tố tác động khác nhau. Nhưng yếu tố
dịch vụ và sau dịch vụ của Công ty là quan trọn. Trong thời gian tới ngoài việc
hoàn thiện hơn nữa mạng lưới các kênh tiêu thụ sản phẩm Công ty còn phải
nâng cao các dịch vụ và sau dịch vụ cung cấp hàng cho người tiêu dùng,các đại
lý các trung gian...
- Tăng thêm hoa hồng cho người trung gian
- Hỗ trợ họ về chi phí cho việc bảo quản, chuyên chở hàng hoá
- có chính sách thưởng thêm cho việc tiêu thụ sản phẩm trước thời hạn đối
với các đại lý hay các trung gian.
- Các kênh phân phối phải mở rộng như sau:
+ Kênh cấp 0:
Người tiêu dùng ở kênh này thường là các tổ chức nhà nước, tổ chức
phòng chống sốt rét.
+ Kênh cấp1:
Người bán lẻ là các cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hoá tổng
hợp, cac siêu thị, còn người tiêu dùng là mọi người dân có nhu cầu về loại
hàng hoá của Công ty.
+ Kênh cấp 2:
Người bán buôn là các tổ chức thương mại trong nước. Đối với các tổ
chức thương mại quốc tế thì phải qua trung gian môi giới là Đan Mạch:
Người
tiêu dùng
Công ty
Người
bán lẻ
Công ty Người
tiêu dùng
Người
bán buôn
Công ty Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Người
môi giới
Công ty Người
bán buôn
Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
57
Hiện nay trong các hình thức phân phối trên thì hình thức bán trực tiếp
chiếm 17% (doanh thu), bán buôn 48%, bán lẻ 35%.Trong tương lai Công ty cần
phải nâng hơn nữa tỷ lệ bán buôn và giảm dần tỷ lệ bán lẻ. Bởi vì trong nền kinh
tế thị trường khi mà sản xuất ngày càng phát triển thì giữa nhà sản xuất và người
tiêu dùng ngày càng cách xa nhau.
2. Những biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng:
2.1. Tăng cường thông tin quảng cáo.
Quảng cáo ngày nay càng trở nên phổ biến trong cuộc sống hàng ngày và
là hoạt động không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh nhằm đẩy nhanh tốc độ
tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường. Các nhà kinh doanh cho rằng quảng
cáo là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất trong công tác hỗ trợ tiêu thụ.
Trong 100% kết quả tiêu thụ có sự đóng góp 36% uy tín của Công ty + 24% do
quảng cáo + 10% do giá cả + 10% do chất lượng + 10% do bao gói + 10% do
các nhân tố khác. Qua đó cho thấy quảng cáo đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường.
Hiện nay Công ty Dệt 10-10 dành chi phí cho quảng cáo còn quá ít chiếm
tỷ lệ nhỏ so với doanh thu, các hình thức quảng cáo chưa thực sự phong phú,
hấp dẫn. Để giới thiệu về sản phẩm, tạo ra sức hấp dẫn thu hút người tiêu dùng
ngày càng nhiều hơn, trong thời gian tới Công ty nên dành nhiều kinh phí hơn
nữa để đẩy mạnh hoạt động quảng cáo. Công ty có thể sử dụng nhiều hình thức
khác nhau, song nên sử dụng các hình thức có tính đại chúng như: Báo chí, đài,
ti vi... Về nội dung quảng cáo Công ty nên nhấn mạnh đến chất lượng, kiểu dáng
Màn tuyn và đặc biệt phải làm sao tạo được dấu ấn về sản phẩm trong tâm trí
khách hàng, khi nói đến Màn tuyn là họ nói ngay đến Công ty Dệt 10-10. Trong
nội dung quảng cáo cũng nên đề cập đến những đặc điểm của sản phẩm nhằm
giúp khách phân biệt đâu là Màn tuyn thật, đâu là Màn tuyn giả, bởi vì trên thị
trường đang tràn ngập những sản phẩm nhái nhãn hiệu Màn tuyn của Công ty
ảnh hưởng lớn đến hình ảnh uy tín của Công ty.
58
Thực tế ngoài mặt hàng Màn tuyn - mặt hàng chính của Công ty-Công ty
còn có năng lực sản xuất Rèm cửa mà hiện nay nhu cầu về Rèm cửa là rất lớn
song trên thị trường hầu hết các nhà cung cấp là các cơ sở sản xuất thủ công.
Thế nhưng người tiêu dùng Việt Nam rất quen thuộc với sản Màn tuyn 10-10
còn Màn Rèm 10-10 vẫn còn là một nhãn hiệu khá xa lạ đối với họ. Thiết nghĩ
Công ty nên xác định một chỗ đứng vững chắc của mặt hàng này trong cơ cấu
hàng sản xuất của Công ty đông thới với việc tăng cường nghiên cứu, sản xuất
các mẫu mã mới công ty phải dùng các biện pháp quảng cáo nhanh mạnh mà
hiệu quả để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường mành Rèm hiện nay.
2.2. Tăng cường công tác chào hàng.
Tổ chức chào hàng là một biện pháp nhằm giới thiệu sản phẩm. Trong
điều kiện cạnh tranh hiện nay thì việc sử dụng các hình thức chào hàng là quan
trọng, nó góp phần giúp các doanh nghiệp thấy được vị trí đồng thời mở rộng
đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10.pdf