Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp triển khai công tác chi trả Bảo hiểm xã hội ở huyện Cẩm xuyên Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002: Luận văn
Thực trạng và giải phỏp triển
khai cụng tỏc chi trả Bảo
hiểm
xó hội ở huyện Cẩm xuyờn -
Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002
Luận văn tốt nghiệp Phạm Thị Quế
1
LỜI MỞ ĐẦU
Chớnh sỏch bảo hiểm xó hội đó được Đảng, Nhà nước ta thực hiện từ năm 1960
của thế kỉ XX. Kể từ đú đến nay, chớnh sỏnh bảo hiểm xó hội đó được phỏt huy, đúng
vai trũ quan trọng trong cuộc sống của những người lao động. Bảo hiểm xó hội
(BHXH) luụn cú mặt khi người lao động gặp những rủi ro: ốm đau, bệnh tật, tai nạn,
tuổi già và những khú khăn khỏc trong cuộc sống.
Từ khi Bộ luật lao động ra đời, BHXH được thực hiện theo điều lệ BHXH đó
thực sự đi vào đời sống xó hội, kinh tế và chớnh trị, cú tỏc dụng tớch cực trong mối quan
hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tổ chức BHXH đó khẳng định
được hiệu quả hoạt động và vị thế của mỡnh trong nước, đạt được những kết quả rất
đỏng khớch lệ. Bờn cạnh những thành tớch đú BHXH Việt Nam vẫn cũn cú rất nhiều
điểm chưa phự hợp đặ...
46 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp triển khai công tác chi trả Bảo hiểm xã hội ở huyện Cẩm xuyên Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và giải pháp triển
khai công tác chi trả Bảo
hiểm
xã hội ở huyện Cẩm xuyên -
Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
1
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách bảo hiểm xã hội đã được Đảng, Nhà nước ta thực hiện từ năm 1960
của thế kỉ XX. Kể từ đó đến nay, chính sánh bảo hiểm xã hội đã được phát huy, đóng
vai trò quan trọng trong cuộc sống của những người lao động. Bảo hiểm xã hội
(BHXH) luôn có mặt khi người lao động gặp những rủi ro: ốm đau, bệnh tật, tai nạn,
tuổi già và những khó khăn khác trong cuộc sống.
Từ khi Bộ luật lao động ra đời, BHXH được thực hiện theo điều lệ BHXH đã
thực sự đi vào đời sống xã hội, kinh tế và chính trị, có tác dụng tích cực trong mối quan
hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tổ chức BHXH đã khẳng định
được hiệu quả hoạt động và vị thế của mình trong nước, đạt được những kết quả rất
đáng khích lệ. Bên cạnh những thành tích đó BHXH Việt Nam vẫn còn có rất nhiều
điểm chưa phù hợp đặc biệt là trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Trước thực tế đó, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài : "Công tác chi trả Bảo hiểm
xã hội ở huyện Cẩm xuyên - Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002 Thực trạng và giải pháp"
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn này được thực hiện với mục đích nêu lên sự cần thiết của BHXH đối
với người lao động làm rõ những vấn đề lý luận về công tác chi trả tại BHXH huyện,
những kết quả đạt được, và những tồn tại cần giải quyết để từ đó có những giải pháp
nhằm thực hiện tốt công tác chi trả BHXH tại BHXH huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Kết cấu luận văn ngoài lời nói đầu và kết luận gồm phần
Chương I : Lý luận chung về BHXH
Chương II : Công tác chi trả các chế độ BHXH tại huyện Cẩm Xuyên –Hà
Tỉnh giai đoạn 2000-2002.
Chương III : Một số kiến nghị.
Luận văn đề cập đến một số vấn đề trong công tác chi trả BHXH, đưa ra một số
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác chi trả, đáp ứng được
yêu cầu của người lao động trong công cuộc đổi mới đất nước.
Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ rất tận tình của các thầy cô giáo
chuyên ngành, của Trung tâm Thông tin - Thư viện trường Đại học QL và KD - HN.
Đặc biệt là có sự hướng dẫn trực tiếp, nhiệt tình của Giảng viên - Thạc sĩ : Đoàn Thị
Thu Hương.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. SỰ CẦN THIẾT, ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA BHXH ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI
1.1 Sự cần thiết của BHXH.
Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề thuê mướn nhân công diễn ra
càng phổ biến, mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng gia tăng. Đặc biệt khi người lao
động không may gặp rủi ro, sự cố như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, mất việc
làm…phải nghỉ việc. Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết không
những không mất đi mà còn tăng lên, thậm chí còn phát sinh ra nhiều nhu cầu mới như:
cần được khám chữa bệnh, điều trị khi ốm đau; cần người nuôi dưỡng, chăm sóc khi
gặp tai nạn, thương tật… Tổng thời gian nghỉ việc người chủ không trả lương, làm cho
người lao động càng gặp nhiều khó khăn hơn và không yên tâm làm việc. Vì vậy, lúc
đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động nhưng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo
đảm cho người lao động có một số thu nhập nhất định để họ trang trải khi không may
gặp những khó khăn đó.
Trong thực tế, nhiều khi các rủi ro trên không xẩy ra và người chủ không phải chi
ra đồng nào nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một khoản tiền rất
lớn mà họ không muốn. Do đó mâu thuẫn chủ thợ càng trở nên vô cùng gay gắt. Khi
những mâu thuẫn này kéo dài nhà nước phải đứng ra can thiệp bằng cách: buộc giới
chủ phải có trách nhiệm hơn đối với người lao động mà mình sử dụng, thể hiện ở việc
phải trích ra một phần thu nhập của mình để hình thành quỹ. Sau đó dùng nguồn quỹ
này để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động không may gặp
những rủi ro và sự cố bất ngờ. Đồng thời Nhà nước đứng ra bảo trợ cho quỹ. Bằng cách
đó cả chủ và thợ đều thấy mình có lợi và tự giác thực hiện, cuộc sống của người lao
động được đảm bảo.Người chủ được bảo vệ việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết.
Mối quan hệ ba bên nêu trên được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội
(BHXH) cho người lao động. Như vậy BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người
lao động, bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ sự
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (nếu có), sự tài trợ của Nhà
nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
3
bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc tử vong…
1.2 Đặc trưng cơ bản của BHXH.
BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động do
vậy BHXH có những đặc trưng cơ bản sau:
- BHXH đảm bảo cho người lao động trong và sau quá trình lao động.
- Các rủi ro của người lao động liên quan đến thu nhập của họ như : ốm đau, tai
nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết…Do những rủi
ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập, họ cần phải có khoản thu
khác bù vào để ổn định cuộc sống, thông qua BHXH nguồn thu nhập này được đảm
bảo.
- Sự đóng góp của các bên tham gia BHXH: Người lao động muốn được quyền
hưởng trợ cấp BHXH phải có nghĩa vụ đóng BHXH; người sử dụng lao động cũng phải
có nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Quỹ BHXH dùng để
chi trả các trợ cấp khi có nhu cầu phát sinh về BHXH.
- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ
BHXH cũng do luật định, Nhà nước bảo hộ các hoạt động của BHXH.
1.3 Ý nghĩa của BHXH:
Ra đời và phát triển cùng với nền kinh tế thị trường, BHXH đã có mặt ở hầu hết
các nước trên thế giới. Trình độ phát triển của BHXH được quyết định bởi mức độ phát
triển của nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển thì mức độ hoàn thiện của BHXH
ngày càng cao và với những đặc trưng riêng có của mình BHXH đã có ý nghĩa thiết
thực đối với sự phát triển kinh tế xã hội như sau:
Đối với người lao động:
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công
nghiệp hoá- hiện đại hoá thì những "rủi ro" như ốm đau, tai nạn lao động- bệnh nghề
nghiệp, thai sản, mất việc làm…lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày càng phổ
biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây khó khăn cho người lao
động vế cả vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả cộng đồng.
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH
sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng
cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi…giúp
họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
4
góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc
cho xí nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nó chung.
• Đối với xã hội :
Quỹ BHXH là một nguồn tài chính độc lập ngoài ngân sách Nhà nước do các bên
tham gia BHXH đóng góp nhằm phân phối lại theo luật định cho mọi thành viên khi bị
ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra do tạm thời hay vĩnh viễn mất khả năng lao động.
Quỹ BHXH không những tác động tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước mà còn
góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới cho người lao
động, từ đó giải quyết tình trạng thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động … dưới
nhiều hình thức khác nhau như hình thức đầu tư phát triển phần "nhàn rỗi" của quỹ.
Như vậy, BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng không thể
thiếu của mỗi quốc gia nhằm ổn định đời sống kinh tế- xã hội và góp phần làm vững
chắc thể chế chính trị.
2. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA BHXH
2.1. Quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH
2.1.1 Người lao động
* Quyền hạn
- Được nhận sổ BHXH.
- Được nhận lương hưu hoặc trợ cấp kịp thời, đầy đủ thuận tiện khi có đủ điều
kiện hưởng BHXH theo quy định tại Điều lệ này.
- Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động
hoặc tổ chức BHXH có hành vi vi phạm Điều lệ BHXH.
* Trách nhiệm
- Đóng BHXH theo đúng quy định.
- Thực hiện đúng các quy định về việc lập hồ sơ để hưởng chế độ BHXH.
- Bảo quản, sử dụng sổ BHXH và hồ sơ về BHXH đúng quy định.
2.1.2 Người sử dụng lao động
*Quyền hạn
- Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng với quy định của Điều lệ BHXH.
- Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cơ quan BHXH có hành vi
vi phạm Điều lệ BHXH.
* Trách nhiệm
- Đóng BHXH theo đúng quy định.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
5
- Trích tiền lương của người lao động để đóng BHXH đúng quy định.
- Xuất trình các tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin liên quan khi có kiểm tra,
thanh tra về BHXH của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2.1.3 Cơ quan bảo hiểm xã hội
* Quyền hạn
- Trình thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy
định để quản lí việc thu, chi BHXH và để xác nhận đối tượng hưởng các chế độ BHXH
quy định tại Điều lệ này.
- Tổ chức phương thức quản lý quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH có hiệu quả.
- Tuyên truyền, vận động để mọi người tham gia thực hiện BHXH.
- Từ chối việc chi trả chế độ BHXH cho các đối tượng được hưởng chế độ
BHXH khi có nghi vấn và có khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
hành vi man trá, làm giả hồ sơ, tài liệu.
* Trách nhiệm
- Tổ chức thu, quản lý, sử dụng quỹ BHXH đúng quy định.
- Thực hiện các chế độ BHXH đúng quy định tại điều lệ này.
- Tổ chức việc chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH kịp thời, đầy đủ, thuận tiện.
- Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về BHXH.
- Thông báo định kỳ hàng năm về tình hình thực hiện BHXH đối với người sử
dụng lao động và người lao động.
2.2. Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người tham gia
BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được hưởng
BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm.
Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó
vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất
quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những rủi ro của
tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi ro được
thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại
kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách nhà nướcvà ngân
sách gia đình.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
6
Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trước hết đó là phần đóng góp
của người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng
lớn nhất và cơ bản của quỹ. Thứ hai là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối
của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời. Thứ ba là phần
nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Phần lớn các
nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên
phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia có khác nhau.
* Về phương thức đóng góp
BHXH của người lao động và người sử dụng lao động vẫn còn hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan đơn vị.
Quan điểm thứ hai: căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối
chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng.
* Về mức đóng góp
Nhìn chung mức đóng góp BHXH ở các nước rất khác nhau, phụ thuộc vào sự
phát triển của xã hội và khả năng kinh tế. Ở các nước phát triển thì tỉ lệ đóng cao,
thường từ 40-50% tổng quỹ tiền lương. Ở các nước đang phát triển tổng mức đóng từ
15-25% tổng quỹ tiền lương, trong đó người sử dụng lao động đóng khoảng 2/3 và
người lao động khoảng 1/3. Có một số nước mức đóng góp thấp từ 6-10% tổng quỹ tiền
lương.
Nhà nước chỉ giảm thuế đối với các khoản đóng BHXH hoặc hỗ trợ về tiền
lương đối với người lao động khó khăn.
Ở nước ta, theo quy định tại Điều 149 - Chương XII- BHXH của Bộ luật Lao
động và được cụ thể hoá ở Điều 36- chương III của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo
Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ thì mức đóng góp tỉ lệ 20% tổng quỹ
tiền lương, trong đó :
- Người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lương
- Người lao động đóng 5% tiền lương.
Quỹ BHXH càng phát triển thì gánh nặng chi trả BHXH từ ngân sách Nhà nước
hiện nay sẽ giảm dần, điều đó cũng có nghĩa là ngân sách Nhà nước có thêm nguồn để
thực hiện tăng quỹ lương cho người lao động, giúp họ chăm lo toàn diện đời sống của
mình và đầu tư xây dựng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.3. Nội dung chi của quỹ BHXH
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
7
Tại hội nghị quốc tế về lao động hàng năm, tổ chức quốc tế về lao động (ILO) đã
thông qua công ước 102 (6/1952), công ước đầu tiên về những quy phạm tối thiểu của
BHXH gồm 9 chế độ trợ cấp như sau:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp tuổi già
4. Trợ cấp thất nghiệp
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp thai sản
8. Trợ cấp tàn tật
9. Trợ cấp tử tuất.
Công tác BHXH đã hình thành và phát triển ở từng nước khác nhau, không phải
nước nào cũng thực hiện đủ 9 chế độ trên và không phải nước nào cũng có đủ đối
tượng, phạm vi áp dụng, nguồn hình thành quỹ giống nhau mà tuỳ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị - xã hội của từng nước để áp dụng cho phù hợp.
Nội dung chi trả quỹ BHXH ở nước ta hiện nay, theo điều 2 chương 1 - nguyên
tắc chung của điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của
Chính phủ quy định các chế độ sau:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
3. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hưu trí
5. Chế độ tử tuất.
2.4 Quản lý chi Bảo hiểm xã hội
Tổng giám đốc BHXH Việt Nam đã ban hành Quy định chung về Quản lý chi
trả các chế độ BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam kèm theo Quyết định số
2903/1999/QĐ-BHXH ngày 24/12/1999 như sau :
(1) BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là BHXH
tỉnh), BHXH các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là BHXH huyện)
là cơ quan tổ chức chi trả BHXH theo đúng chế độ, chính sách của Nhà nước, đảm bảo
chi trả kịp thời, đầy đủ cho các đối tượng hưởng BHXH.
(2) Việc chi trả các chế độ BHXH do BHXH tỉnh, huyện chi trả trực tiếp hoặc
uỷ quyền cho đại diện chi trả ở xã, phường và đơn vị sử dụng lao động phải đảm bảo
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
8
đúng nguyên tắc quản lý tài chính. Cơ quan BHXH có trách nhiệm quản lý chặt chẽ các
đối tượng hưởng BHXH, tình hình biến động tăng, giảm đối tượng, số tiền chi trả theo
từng tháng và đảm bảo an toàn nguồn tiền mặt trong quá trình chi trả. BHXH tỉnh huyện
phía chấp hành chế độ kế toán, thống kê theo quy định của Nhà nước, quy định của tổng
giám đốc BHXH Việt Nam.
(3) BHXH các cấp có quyền ngừng hoặc từ chối chi trả cho đối tượng hưởng
BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi sai phạm để
hưởng BHXH.
(4) Đơn vị sử dụng lao động, đại diện chi trả ở xã, phường được cơ quan BHXH
uỷ quyền chi trả các chế độ BHXH cho người lao động đảm bảo chi trả kịp thời, đầy đủ.
Thực hiện thanh quyết toán với cơ quan BHXH, quản lý lưu giữ chứng từ kế toán theo
các quy định hiện hành của Nhà nước và của BHXH Việt Nam, có trách nhiệm cung
cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ chi trả BHXH khi có yêu cầu kiểm tra, phúc tra, thanh tra
chi trả BHXH của các cơ quan thuộc hệ thống BHXH Việt Nam và các cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước.
• Quy trình chi BHXH
Đảm bảo những quy định chung về quản lý chi, phòng Kế hoạch Tài chính đã
thực hiện chi BHXH như sau :
* Phân cấp chi trả :
- Chi lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng
+ BHXH tỉnh không trực tiếp chi trả.
+ BHXH huyện thực hiện theo 2 mô hình :
• Ký hợp đồng với phường, xã để chi trả lương hưu, mất sức lao động (MSLĐ),
tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN), tử tuất, người phục vụ TNLĐ-BNN,
cán bộ xã phường (CBXP).
• BHXH huyện phải thực hiện tổng hợp những đối tượng chết, hết thời hạn
hưởng (chế độ tử tuất, MSLĐ), vi phạm pháp luật, vắng mặt quá thời gian quy định
không rõ lý do, gửi BHXH tỉnh lập danh sách cho tháng sau.
- Chi chế độ BHXH một lần
+ BHXH huyện trực tiếp chi trả trợ cấp một lần cho : Người đang làm việc
trong các đơn vị sử dụng lao động BHXH huyện quản lý và thân nhân của những đối
tượng là hưu công nhân viên chức, hưu quân đội đã qua đời.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
9
+ BHXH tỉnh uỷ quyền cho BHXH huyện chi trả toàn bộ chế độ trợ cấp một lần,
cho các đối tượng đang làm việc trong các đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh trực
tiếp quản lý.
- Chi trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức
+ BHXH tỉnh, huyện không trực tiếp chi cho đối tượng được hưởng
trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức mà uỷ quyền thông qua đơn vị sử
dụng lao động tổ chức chi trả. Đơn vị sử dụng lao động có quyền quản lý
chứng từ gốc.
+ Hàng quý, sau khi đã cấp tiền thanh toán cho đơn vị sử dụng lao
động, BHXH huyện lập báo cáo tổng hợp chi ốm đau, thai sản, dưỡng sức
kèm theo danh sách lao động nghỉ hưởng lương trợ cấp ốm đau, thai sản đã
được thẩm định. Trên cơ sở báo cáo của BHXH các huyện, thị và biểu tổng
hợp chi ốm đau, thai sản, dưỡng sức đối với những đơn vị sử dụng lao động
tỉnh trực tiếp quản lý, BHXH tỉnh lập báo cáo tổng hợp ốm đau, thai sản,
dưỡng sức trên địa bàn toàn tỉnh để gửi về BHXH Việt Nam.
+ BHXH tỉnh chịu trách nhiệm chi đóng Bảo hiểm y tế vào tháng 1
hàng năm cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng, hàng quý
căn cứ vào danh sách đối tượng tăng, giảm đóng bổ sung hoặc giảm số thẻ
Bảo hiểm y tế cho quý sau. Cuối năm, căn cứ vào sổ đối tượng hàng tháng
được cấp thẻ Bảo hiểm y tế của các quý trong năm đối chiếu thanh lý hợp
đồng. BHXH huyện thực hiện tiếp nhận và cấp thẻ Bảo hiểm y tế theo
danh sách của BHXH tỉnh:
+ Đối tượng là những người đã nghỉ việc hưởng hưu trí, MSLĐ,
TNLĐ - BNN, trước 01/01/1995 hay được giải quyết hưu và trợ cấp
BHXH từ 01/01/1995 trở đi nhưng do nguồn ngân sách cấp theo quy định,
được tính bằng 3% tổng số tiền lương hưu, trợ cấp (không tính phụ cấp
khu vực).
+ Đối tượng là những người đã nghỉ việc hưởng hưu trí, TNLĐ -
BNN từ 01/01/1995 trở đi do nguồn quỹ BHXH chi, được tính bằng 3%
tổng số tiền lương hưu, trợ cấp (không tính phụ cấp khu vực).
* Lập, xét duyệt dự toán chi BHXH:
Dự toán chi BHXH cho đối tượng hưởng BHXH được lập hàng năm phản
ánh đầy đủ nội dung từng khoản chi:
- Chi các chế độ BHXH từ nguồn ngân sách Nhà nước
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
10
+ Chi hàng tháng (thường xuyên): Lương hưu cho đối tượng là hưu
quân đội và hưu công nhân viên chức, trợ cấp BHXH cho đối tượng hưởng
chế độ MSLĐ, trợ cấp theo Quyết định số 91 TNLĐ - BNN, người phục
vụ TNLĐ - BNN, người hưởng tuất (tuất cơ bản và tuất nuôi dưỡng)
+ Trợ cấp một lần: Trợ cấp tuất đối với người hưởng chế độ hưu
(quân đội, công nhân viên chức), MSLĐ, TNLĐ - BNN, mai táng phí đối
với người hưởng chế độ hưu (quân đội, công nhân viên chức), MSLĐ,
TNLĐ - BNN.
+ Chi đóng Bảo hiểm y tế cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH
hàng tháng (hưu trí, MSLĐ, TNLĐ -BNN).
+ Trang cấp dụng cụ phục hồi chức năng cho người bị tai nạn lao động
+ Lệ phí chi trả.
+ Chi khác (nếu có).
- Chi các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH
+ Chi hàng tháng: lương hưu (quân đội, công nhân viên chức), trợ
cấp BHXH cho đối tượng hưởng chế độ TNLĐ - BNN, người phục vụ
TNLĐ - BNN, cán bộ xã phường (CBXP), người hưởng tuất (tuất cơ bản
và tuất nuôi dưỡng).
+ Trợ cấp một lần: Trợ cấp cho người lao động nghỉ việc nhưng
chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hàng tháng (theo Điều 28 Điều lệ BHXH ban
hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ), trợ
cấp cho người lao động có thời gian đóng BHXH trên 30 năm, trợ cấp một
lần cho cán bộ xã phường, trợ cấp TNLĐ - BNN, trợ cấp tử tuất một lần
đối với người đang lao động, người hưởng chế độ hưu (quân đội, công
nhân viên chức).
+ Mai táng phí đối với: người lao động, người hưởng chế độ hưu
(quân đội, công nhân viên chức), TNLĐ - BNN, cán bộ xã phường
(CBXP) theo NĐ 09.
+ Chi trợ cấp ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức cho người lao động
đang làm việc.
+ Chi đóng bảo hiểm y tế cho đối tượng hưởng chế độ BHXH bằng
tháng (hưu trí,TNLĐ - BNN).
+ Trang cấp dụng cụ phục hồi chức năng cho người bị TNLĐ.
+ Lệ phí chi trả.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
11
+ Chi khác (nếu có).
Dự toán phải kèm theo thuyết minh vế số lượng đối tượng đang
hưởng dự kiến đối tượng tăng, giảm và nhu cầu chi khác trong năm. Hàng
năm, BHXH tỉnh lập dự toán chi các chế độ BHXH trên địa bàn toàn tỉnh
theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Dự toán chi hàng năm của BHXH
tỉnh được lập trên cơ sở tổng hợp dự toán chi BHXH được duyệt của
BHXH huyện và số chi trực tiếp tại BHXH tỉnh, lập thành 4 bản : 1 bản
lưu tại tỉnh, 1 bản gửi kho bạc nhà nước tỉnh, 1 bản gửi Bộ Tài chính, 1
bản gửi BHXH Việt Nam trước ngày 15/9 năm trước. Dự toán chi hàng
năm của BHXH tỉnh là chính thức khi được BHXH Việt Nam và Hội đồng
quản lý BHXH Việt nam duyệt.
* Tổ chức chi trả BHXH:
Chi trả BHXH cũng được thực hiện bằng chuyển khoản. Hàng
tháng, căn cứ vào bản sao quyết định hưởng chế độ BHXH và danh sách
của đối tượng tăng, giảm do phòng Quản lý chế độ Chính sách chuyển
sang và danh sách báo giảm do BHXH huyện gửi đến, phòng Kế hoạch Tài
chính kiểm tra lại số liệu (đối tượng, số tiền) để lập danh sách chi trả lương
hưu và trợ cấp BHXH, tổng hợp danh sách chi trả, danh sách đối tượng
hưởng trợ cấp một lần và truy lĩnh, lập chi tiết cho từng đối tượng và tách
riêng thành 2 nguồn (ngân sách Nhà nước, Quỹ BHXH).
(1) BHXH huyện chi trả cho các đối tượng là người lao động đang
làm việc gồm: đối tượng hưởng trợ cấp một lần theo Điều 28 Điều lệ
BHXH, người bị tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp hưởng chế độ 1 lần,
mai táng phí, tuất một lần và trợ cấp một lần đối với người nghỉ hưu có
trên 30 năm đóng BHXH ở các đơn vị sử dụng lao động thuộc BHXH tỉnh
tổ chức quản lý thu và ghi sổ BHXH. Đồng thời BHXH huyện thực hiện
uỷ nhiệm chi cho kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng NN &PTNT huyện
Cẩm Xuyên theo yêu cầu.
(2) Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng NN & PTNT huyện Cẩm
Xuyên thực hiện lệnh chuyển tiền theo yêu cầu của BHXH tỉnh về kho bạc
Nhà nước hoặc Ngân hàng NN&PTNT của huyện.
(3) BHXH huyện có thể trực tiếp hoặc thông qua đại lý chi trả cho
người lao động đang làm việc được BHXH tỉnh uỷ quyền và các đối tượng
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
12
hưởng trợ cấp BHXH một lần thuộc các đơn vị BHXH huyện trực tiếp
quản lý.
(4) Hoặc có thể uỷ nhiệm chi cho Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân
hàng NN&PTNT các huyện chuyển tiền về tài khoản của đơn vị sử dụng
lao động.
(5) Các đơn vị sử dụng lao động trực tiếp chi trả cho các đối tượng.
* Lập báo cáo thanh quyết toán chi :
- BHXH tỉnh chỉ đạo BHXH huyện thực hiện .
+ Hàng tháng lập 2 bộ gồm : báo cáo chi lương hưu và trợ cấp
BHXH, danh sách thu hồi kinh phí chi quản BHXH, danh sách đối tượng
chưa nhận hưu và trợ cấp BHXH, danh sách không phải trả lương hưu và
trợ cấp BHXH, danh sách báo giảm hưởng BHXH. Trong đó một 1 gửi
BHXH tỉnh trước ngày 30 hàng tháng, một bộ lưu lại huyện.
+ Hàng quý căn cứ để chi trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức ; lập 2
bản báo cáo chi ốm đau, thai sản, dưỡng sức kèm theo danh sách đối tượng
nghỉ hưởng chế độ tính đến tháng cuối quý trên địa bàn huyện quản lý.
Một bản lưu lại huyện, bản còn lại gửi BHXH tỉnh trước ngày 5 đầu tháng
sau.
BHXH tỉnh lập báo cáo quyết toán trên cơ sở tổng hợp quyết toán
của BHXH các huyện, thị và việc chi thực tế của BHXH tỉnh :
+ Lập 2 bộ báo cáo chi lương hưu và trợ cấp BHXH tách nguồn đảm
bảo, kèm theo biểu thuyết minh đối tượng tăng (giảm) hưởng BHXH do 2
nguồn đảm bảo. Một bộ gửi ban quản lý chi BHXH Việt Nam, một bộ lưu
lại tỉnh.
+ Hàng tháng, căn cứ vào danh sách không phải trả lương hưu và trợ
cấp BHXH của BHXH các huyện, thị lập biểu tổng hợp không phải trả
lương hưu và trợ cấp BHXH toàn tỉnh và lưu lại tỉnh.
+ Hàng quý, tổ chức xét duyệt báo cáo chi ốm đau, thai sản, dưỡng
sức do BHXH huyện duyệt chi báo cáo chi trả trực tiếp cho các đối tượng
BHXH tỉnh quản lý để lập : 2 bản báo cáo tổng hợp chi ốm đau, thai sản,
dưỡng sức ; 2 bản báo cáo thu hồi kinh phí (nếu có) và biểu thống kê số
chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức, một bản lưu lại BHXH tỉnh,
một bản gửi ban quản lý chi BHXH Việt Nam trước ngày 15 tháng đầu của
quý sau.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
13
+ Hàng quý BHXH tỉnh lập báo cáo tổng hợp đóng Bảo hiểm y tế
cho đối tượng hưởng BHXH theo quy định, để làm căn cứ thanh toán và
cuối năm thanh lý hợp đồng Bảo hiểm y tế.
* Thẩm định, xét duyệt chi các chế độ BHXH :
Hàng tháng hoặc quý, BHXH tỉnh xét duyệt, quyết toán chi các chế
độ BHXH cho BHXH huyện theo các chế độ kế toán quy định. Đồng thời
căn cứ vào kết quả thẩm định của các đối tượng hưởng chế độ, chính sách
BHXH do phòng chế độ chính sách chuyển đến, Phòng Kế hoạch Tài
chính có trách nhiệm kiểm tra trước khi chuyển tiền cho BHXH huyện
hoặc chủ sử dụng lao động chi trực tiếp cho đối tượng hưởng BHXH.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
14
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHI TRẢ BHXH
Ở HUYỆN CẨM XUYÊN TỪ NĂM 2000 - 2002
I. Vài nét khái quát về BHXH ở Huyện Cẩm xuyên
1. Quá trình hình thành và phát triển BHXH huyện Cẩm xuyên
Chính sách BHXH đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và tổ chức thực hiện
ngay từ khi thành lập nước, trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 quy định về các
chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước.
Giai đoạn này (1945), đất nước trong hoàn cảnh kháng chiến, kinh tế - xã hội còn nhiều
khó khăn, thiếu thốn nên BHXH mới thực hiện được một số chế độ cơ bản với mức trợ
cấp thấp, mức hưởng còn mang tính bình quân, chưa có tính chất lâu dài. Chính sách
BHXH chưa có quỹ riêng để thực hiện, 100% nguồn quỹ lấy từ ngân sách. Tuy vậy,
trong suốt những năm kháng chiến chống xâm lược, chính sách BHXH nước ta cũng đã
góp phần ổn định về mặt thu nhập ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân
nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức người sức của cho thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước. Và khi Bộ luật lao động
được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/7/1995
cho các đối tượng hưởng BHXH là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang. Nhưng
kể từ ngày 1/1/1995 các chế độ BHXH được thực hiện theo quy định của Bộ lao động
và được cụ thể hoá bằng Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày
26/1/1995 của Chính phủ. Nhưng nghị định này được bổ sung bằng NĐ số 01/2003/NĐ
- CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ
Bảo Hiểm Xã Hội ban hành.
Hệ thống BHXH Việt Nam ra đời có 61 cơ quan tại 61 tỉnh, thành trong cả nước.
Ngày 11/7/1995, BHXH huyện Cẩm Xuyên chính thức được thành lập theo quyết
định của BHXH tỉnh Hà Tĩnh và BHXH Việt Nam, cơ sở biên chế từ công đoàn Lao
động và Phòng thương binh xã hội chuyển sang, chịu sự quản lý theo ngành dọc:
• Bảo hiểm xã hội Việt Nam
• Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
• Bảo hiểm xã hội huyện thị, thành phố thuộc tỉnh.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
15
BHXH tỉnh nói chung và BHXH Huyện Cẩm Xuyên nói riêng là đơn
vị dự toán cấp 3 của hệ thống BHXH Việt Nam, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo
trực tiếp của BHXH tỉnh Hà Tĩnh.
2. Cơ cấu tổ chức của BHXH Huyện Cẩm Xuyên.
BHXH huyện Cẩm Xuyên có cơ cấu tổ chức theo sơ đồ sau:
Sơ đồ tổ chức của BHXH Huyện Cẩm Xuyên
Giám đốc BHXH
- Làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân
chủ.
- Là người chịu trách nhiệm trước nhà nước và cơ quan cấp trên về
việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kế hoạch được giao.
- Tổ chức, chỉ đạo và đề ra các biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện kế hoạch được
giao.
Bộ phận phụ trách kế toán, có chức năng:
Tiếp nhận chuyển đến, chuyển đi của các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH.
- Duyệt chế độ ốm đau, thai sản
- Duyệt hồ sơ hưu trí
- Duyệt chế độ tử tuất.
Bộ phận kế toán chi:
- Lập dự toán chi hàng năm tích duyệt cấp trên
BHXH Tỉnh
BHXH Huyện
Giám đốc BHXH
Huyện
Bộ phận thu Bộ phận chi Bộ phận phụ
trách kế toán
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
16
- Tổ chức chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH, chế độ thai sản, nghỉ
dưỡng sức
- Đầu mối ngân hàng để tiền mặt chi trả hàng tháng theo kế hoạch cụ thể
và thực hiện thanh quyết toán với BHXH cấp trên.
Bộ phận kế toán thu:
Thu BHXH các đơn vị trực thuộc thành phố, tổ chức thực hiện để hoàn thành kế
hoạch hàng năm và phấn đấu thu năm sau cao hơn năm trước, tận thu các đơn vị tồn
đọng nợ…
3. Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của BHXH huyện Cẩm Xuyên.
Huyện Cẩm Xuyên có địa bàn gồm 27 xã có đối tượng hưởng lương hưu và trợ
cấp BHXH hàng tháng hơn 11.555 người, trên 85 đơn vị tham gia BHXH.
Nhiệm vụ:
BHXH huyện Cẩm Xuyên là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh Hà Tĩnh, thực hiện
nhiệm vụ do BHXH tỉnh giao, bao gồm:
- Tiếp nhận đăng ký hưởng chế độ BHXH do BHXH tỉnh chuyển đến.
- Thực hiện việc đôn đốc, theo dõi nộp BHXH đối với người sử dụng lao động
và người lao động trên địa bàn huyện.
- Tổ chức mạng lưới hoặc trực tiếp chi trả các chế độ BHXH cho người được
hưởng trên địa bàn huyện.
Quyền hạn:
- Tạm ngừng hoặc từ chối chi trả cho đối tượng hưởng BHXH khi có kết luận
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi sai phạm để hưởng chế độ BHXH.
- Uỷ quyền cho đơn vị sử dụng lao động chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản.
4. Khó khăn, thuận lợi
Khó khăn:
– Là đơn vị có đông đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp hàng tháng
(hơn 15.579 người) lại thường xuyên biến động.
– BHXH của huyện chưa nắm chắc tình hình tăng , giảm đối tượng,
nhất là khi đối tượng hết hạn hưởng chế độ hoặc khi đã chết. Các trường
hợp sai, hưởng khống.
– Việc chi trả cho các chế độ ngắn hạn đang diễn ra tràn lan do chưa
có các quy định cần thiết.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
17
– Quá trình chi trả cũng có nhiều bất cập, một số địa phương mới chú
tâm đến việc chi trả cho đối tượng mà chưa quan tâm đến các yếu tố khác
để quản lí đối tượng. Như vậy BHXH vẫn chưa đi sâu đi sát thực tế.
Thuận lợi:
– Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của BHXH tỉnh Hà Tĩnh, huyện
ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân huyện .
– Sự phối hợp của các ban ngành hữu quan các đơn vị sử dụng lao
động, các phường xã trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
– Sự nổ lực phấn đấu của tập thể cán bộ công chức khắc phục khó
khăn hoàn thành kế hoạch được giao.
5. Những kết quả đạt được
Qua những năm thực hiện chính sách BHXH đổi mới, đến nay có thể
khẳng định rằng những quan điểm, nội dung và phương pháp đổi mới chính
sách BHXH của Đảng và Nhà nước ta đã hoàn toàn đúng đắn phù hợp với
mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước. Công tác BHXH đã từng bước khẳng
định tầm quan trọng và vị thế của mình đối với việc phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước nói chung và BHXH huyện Cẩm Xuyên nói riêng, cũng
như việc đảm bảo quyền lợi về BHXH cho người lao động bằng những kết
quả cụ thể. Trong những năm vừa qua, BHXH huyện Cẩm Xuyên đã đạt
được những thành tích chủ yếu sau :
Về đối tượng tham gia BHXH.
Bảng 1 : Số lao động đóng BHXH ở huyện Cẩm Xuyên 2000-2002
Năm 2000 2001 2002
Số lao động(người) 3.196 3.260 3300
(Nguồn số liệu : BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Dựa vào bảng số liệu trên có thể thấy, số lao động tham gia BHXH ở
huyện Cẩm Xuyên tăng dần qua các năm. Năm 2001 tăng 64 người so với
năm 2000 tương ứng với tỷ lệ tăng là 2%, còn năm 2002 tăng 40 người so
với năm 2001 tức là tăng 1.2%. Nguyên nhân của sự tăng thêm này là do
nền kinh tế xã hội phát triển. Mặt khác do sự tuyên truyền hướng dẫn tận
tình của cán bộ trong cơ quan mà mọi người lao động cũng như người sử
dụng lao động hiểu rõ tầm quan trọng của BHXH và sẵn sàng tham gia
đóng BHXH.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
18
Về đối tượng được hưởng BHXH.
Từ khi mới thành lập, BHXH Cẩm Xuyên được tỉnh Hà tĩnh giao cho
quản lý gần 7000 lao động thuộc địa bàn huyện Cẩm Xuyên. Và tính đến
nay số đối tượng hưởng BHXH thường xuyên trên địa bàn huyện được thể
hiện dưới bảng thống kê sau :
Bảng 2 : Số lao động hưởng BHXH ở huyện cẩm Xuyên 2000-2002
Năm 2000 2001 2002
Số lao động (người) 10.681 10. 940 11.555
(Nguồn số liệu : BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy, số lượng đối tượng hưởng BHXH ở
huyện Cẩm Xuyên biến đổi qua các năm. Sự biến đổi không ngừng của số
lượng đối tượng hưởng BHXH do những nguyên nhân chính sau :
- Hàng năm, có những người trong độ tuổi lao động đến tuổi nghỉ hưu
do quy định của Bộ luật lao động (nam : 60, nữ : 55 ) về hưu và hưởng trợ
cấp hưu trí.
- Có những người đang trong độ tuổi lao động có tham gia BHXH
không may gặp phải những tai nạn rủi ro trong qua trình lao động, làm
giảm hoặc mất khả năng lao động cũng được hưởng trợ cấp tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp theo điều lệ BHXH Việt Nam....
Nhìn chung, sự biến đổi này là không nhiều lắm và tăng dần qua các
năm.
Công tác thu BHXH
Từ tháng 1/1995 đến tháng 9/1995, nhiệm vụ thu BHXH do ngành
thuế và tài chính thu, chỉ đến tháng 10/1995 BHXH huyện Cẩm Xuyên mới
trực tiếp thu. Theo điều lệ BHXH, bộ phận thu phải theo nghi chép đóng
của từng đơn vị chính xác đến từng người, từng tháng. Đây là nghiệp vụ
mới đặt ra mà trước đây chưa có nên bước đầu thực hiện gặp rất nhiều khó
khăn. Nhận thức được nhiệm vụ quan trọng đó BHXH huyện Cẩm Xuyên
đã đề ra những biện pháp sau :
- Cử cán bộ thường xuyên bám sát cơ sở, nắm vững chắc tình hình lao
động- quỹ lương, tình hình sản xuất kinh doanh, tận tình hướng dẫn các chế
độ và các biểu mẫu mới.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
19
- Đối chiếu thu hàng quý cũng như thanh toán chế độ ốm đau, thai sản
kịp thời, chính xác được cơ sở ghi nhận.
- Kết hợp chặt chẽ với phòng Lao động- Thương binh và Xã hội
huyện, Công đoàn lao động huyện và uỷ ban nhân dân các xã trong việc
vận động hướng dẫn cơ sở tư nhân có sử dụng từ 10 lao động trở lên thực
hiện chế độ BHXH theo qui định của pháp luật.
Nhờ những biện pháp trên, BHXH đã xác định tương đối đầy đủ số
đơn vị đóng trên địa bàn huyện cùng với số lao động và tổng quỹ tiền
lương để xác định được số thu BHXH. Nhìn chung, công tác thu đạt được
kết quả tốt, tổng thu BHXH năm sau cao hơn năm trước. Số đơn vị và số
lao động tham gia BHXH tăng lên cũng là một nguyên nhân cơ bản làm
cho số thu của huyện Cẩm xuyên tăng lên. Thực tế, số thu của BHXH
huyện Cẩm xuyên trong những năm qua như sau :
Bảng 3 : Công tác thu BHXH ở huyện Cẩm Xuyên 2000-2002
Năm Kế hoạch thu
(đơn vị : triệu VNĐ)
Số tiền thu được
(đơn vị : triệu VNĐ)
2000 3.017 3.014
2001 3.610 3.613
2002 3.660 3.590
(Nguồn số liệu : BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Bằng những cố gắng, BHXH huyện Cẩm xuyên đã thực hiện công tác
thu với một kết quả khả quan. Hàng năm, tổng thu luôn xấp xỉ bằng chỉ tiêu
kế hoạch đã đề ra. Cụ thể, năm 2000, số tiền thu BHXH là hơn 3 tỉ đồng,
đạt tỉ lệ 99,90% so với kế hoạch đã đề ra.Năm 2002, con số này lên tới gần
3,6 tỉ đồng, đạt 98,09% so với kế hoạch đã đề ra. Đặc biệt năm 2001, số
tiền thu được là hơn 3,6 tỉ, vượt mức kế hoạch đã đề ra là 0,08%.
Công tác chi trả các chế độ BHXH.
Đây là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của ngành BHXH. Trong 3
năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng cơ quan vẫn không ngừng
phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bảng 4 : Tình hình chi trả BHXH ở huyện Cẩm Xuyên 2000-2002
Năm 2000 2001 2002
Tổng chi (đơn vị : triệu VNĐ) 17.212,829 19.793,537 20.298,888
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
20
(Nguồn số liệu : BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2002, số tiền đã chi trả BHXH cho
các đối tượng là hơn 57,3 tỉ. Số chi BHXh tăng dần qua các năm là một
dấu hiệu cho thấy số người tham gia BHXH ngày càng tăng. Nếu năm
2000, tổng chi BHXH chỉ đạt hơn 17,2 tỉ đồng thì đến năm 2002 tổng chi
lên đến gần 20,3 tỉ đồng.Tỷ lệ chi BHXH thông qua hai nguồn thể hiện
qua bảng thống kê sau.
Bảng 5 : Bảng thống kê các nguồn chi BHXH ở huyện Cẩm Xuyên
2000-2002
Chỉ
tiêu
năm
Chi từ ngân sách
Nhà nước
(đơn vị:
triệuVNĐ)
Chi từ
quỹ BHXH
(đơn vị :
triệuVNĐ)
Tỉ lệ chi từ ngân
sách so với tổng chi
(đơn vị:triệuVNĐ)
2000 16.110,875 1.101,954 93,60%
2001 18.661,953 1.131,584 94,28%
2002 18.689,492 1.609,396 92,07%
(Nguồn số liệu : BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Công tác đối chiếu tờ khai và cấp sổ BHXH.
Thực hiện theo kế hoạch chỉ đạo của BHXH huyện cẩm xuyên, BHXH
huyện tập trung đôn đốc cơ sở hoàn thiện tờ khai cấp sổ BHXH đã được
đối chiếu, viết bổ sung sổ BHXH đã được cấp và tiếp tục đối chiếu tờ khai
cấp sổ BHXH ở những đơn vị còn đông người lao động chưa được cấp sổ
BHXH.
Đến ngày 31/12/2002, toàn huyện đã :
- Đối chiếu được 2.955 tờ khai cấp sổ BHXH đạt 89,54% so
với số lao động đóng BHXH năm 2002.
- Đã cấp được 2.843 sổ BHXH, đạt 86,15% so với số lao động
đóng BHXH năm 2002.
Qua công tác cấp sổ BHXH, công tác quản lý lao động, quản lý hồ sơ
của các đơn vị sử dụng lao động cũng được chấn chỉnh, kiện toàn và được
quan tâm hơn trước.
6. Một số điểm còn tồn tại:
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
21
Bên cạnh những kết quả đạt được công tác chi trả còn một số tồn tại
cần được khắc phục.
- Quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế
thị trường kéo theo sự chuyển đổi cơ chế BHXH. Sự chuyển đổi này gây ra
một số vướng mắc trong việc giải quyết quyền lợi một số chính sách cũ và
chính sách mới, giữa thời gian đóng bảo hiểm và thời gian hưởng…mặt
khác, trong quy định về BHXH còn những điểm chưa thật sự phù hợp như
tuổi nghỉ hưu- giữa nam và nữ, giữa các nhóm lao động…Điều này gây khó
khăn trong tổ chức thực hiện của BHXH huyện với các đơn vị, với người
lao động khi đi giải quyết quyền lợi cụ thể của họ.
- Số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh nhưng số người tham gia
BHXH chỉ chiếm khoảng 40% tống số lao trong địa bàn huyện. Phần lớn số
người tham gia BHXH đều nằm trong đối tượng bắt buộc. Các chủ sử dụng
lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tìm cách tránh né
hoặc cố tình vi phạm luật lao động, kí hợp đồng ngắn hạn, thậm chí không
kí hợp đồng lao động, kí quyết định lương thấp hơn mức hưởng để không
thực hiện tốt việc trích nộp BHXH hoặc thực hiện hiện ở mức tượng trưng
nhằm đối phó.
- Nhận thức của người lao động còn hạn chế, chưa thấy rõ được ý
nghĩa của 5% tiền lương đóng BHXH để hưởng cao hơn do có phần của
chủ sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ lương và được Nhà nước hỗ trợ,
là lợi ích thiết thực lâu dài như ốm đau, thai sản…Bên cạnh đó còn nhiều
cơ quan chầy ỳ, né tránh nợ BHXH ý thức chấp hành điều lệ BHXH còn
lỏng lẻo. Do đó cần phải có những luật định chặt chẽ hơn.
- Địa bàn huyện rộng lớn, số đơn vị đóng trên địa bàn nhiều, số lao
động đông trong khi số cán bộ làm việc tại BHXH huyện còn rất ít, nơi làm
việc chật hẹp… các đơn vị sử dụng, thường ỷ vào cán bộ BHXH (trong
việc tăng giảm và đối chiếu mức đóng) nên cán bộ công nhân ở phòng
BHXH phải làm việc rất căng thẳng.
Tất cả những khó khăn đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra ảnh hưởng
không nhỏ đến việc thực hiện công tác BHXH trên địa bàn huyện.
7. Phương hướng phát triển BHXH của huyện Cẩm Xuyên trong
thời gian tới.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
22
Nhằm phát triển BHXH huyện Cẩm Xuyên năm 2003 cơ quan cố
gắng phấn đấu để hoàn thành tốt những kế hoạch đã đề ra, cụ thể :
- Công tác đốc thu đạt chỉ tiêu tỉnh giao.
- Công tác chi lương đảm bảo an toàn đúng đối tượng, chính sách và
xong trước ngày 15 hàng tháng.
- 100% người lao động được đối chiếu tờ khai và cấp sổ BHXH.
- Xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ đó BHXH huyện Cẩm Xuyên phải
tiếp tục hoàn thiện mình nâng cao uy tính chất lượng phục vụ, luôn tự đổi
mới để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế phát
triển sẽ thu hút nhiều lao động, thu nhập của họ tăng lên, tạo điều kiện
thuận lợi việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tăng nguồn đóng góp
vào quỹ. Ngoài sự nổ lực của bản thân BHXH huyện Cẩm Xuyên cũng cần
đến sự phối hợp của các ngành có liên quan, của BHXH tỉnh Hà Tĩnh cũng
như sự khuyến khích hỗ trợ của nhà nước để BHXH ngày càng phát triển
bền vững.
II. Thực trạng công tác chi trả BHXH ở huyện cẩm Xuyên năm 2000-
2002.
Có thể nói rằng : chi trả là kết quả cuối cùng của quá trình thực hiện
chính sách BHXH, là khâu cuối cùng của công tác giải quyết các chính
sách BHXH liên quan đến người lao động bị suy giảm sức lao động, chế
độ TNLĐ- BNN, chế độ thai sản, ốm đau...cho đối tượng hưởng lương hưu
và trợ cấp BHXH khi hoàn thành nghĩa vụ.
Bảo đảm chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng đủ điều kiện thụ
hưởng đầy đủ và nhanh chóng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của
hệ thống
BHXH huyện Cẩm Xuyên. Hiện nay có 11.555 người hưởng BHXH. Đặc
biệt những người đã đóng góp rất nhiều công tác của mình cho sự nghiệp
xây dựng tổ quốc, phần lớn trong số họ cuộc sống hàng ngày do các chế độ
BHXH nhất là chế độ trợ cấp thường xuyên đảm bảo hiểu rõ vai trò quan
trọng đó, ngành BHXH huyện đã thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ
BHXH.
Để thấy rõ hơn về hoạt động này tại BHXH huyện Cẩm Xuyên chúng
ta cùng đi vào nghiên cứu các chế độ chi trả.
1. Tổ chức chi trả các chế độ BHXH tại huyện Cẩm Xuyên
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
23
Phần chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH sẽ giao cho UBND các xã
chịu trách nhiệm chi tận tay người hưởng.
Phần chi trả 3 chế độ ốm đau, thai sản và dưỡng sức chuyển cho người
lao động thông qua các chủ sử dụng lao động.
Còn danh sách bảng lương được lập trước một tháng và gửi lên BHXH
tỉnh Hà tĩnh để BHXH tỉnh quản lý chính xác số chi của huyện. Vào ngày 4
hàng tháng, cơ quan sẽ đi lĩnh tiền ở Kho bạc và chi trả lương hưu và trợ
cấp BHXH, BHXH huyện luôn tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của huyện
uỷ, uỷ ban nhân dân huyện, phối kết hợp chặt chẽ với các phường trong
việc rà soát, nắm chắc sự biến động của các đối tượng hưởng lương hưu và
trợ cấp BHXH, nhờ đó đã kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp hưởng
sai, hưởng quá thời gian...Đồng thời, cơ quan cũng phân công cán bộ theo
dõi chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH của từng xã, tổ chức kiểm tra luân
phiên việc chi trả lương hưu và trợ cấp của các xã, qua đó kịp thời cùng xã
giải quyết những phát sinh hoặc rút kinh nghiệm để tổ chức chi trả ngày
càng tốt hơn.
Mặc dù đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH đông, số tiền
chi trả lớn song BHXH huyện đã cùng với các xã có sự tham gia tích cực
các đồng chí công an trong huyện đã thực hiện chi trả kịp thời, đủ số, đúng
đối tượng, an toàn tuyệt đối, đảm bảo đến tận tay người hưởng trước ngày
10 hàng tháng.
2. Thực hiện chi trả các chế độ
a. Chi trả chế độ ốm đau.
Những người bị ốm đau, tai nạn (Không phải tai nạn lao động)
có xác nhận của y tế phải nghỉ việc thì được hưởng trợ cấp ốm đau thay
bằng tiền lương hoặc tiền công được quy định trong Nghị định 12/CP của
Chính phủ như sau :
Các trường hợp được nghỉ hưởng trợ cấp ốm đau:
- Bản thân người lao động có tham gia BHXH bị ốm
- Người lao động có con dưới 7 tuổi bị ốm
- Người lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
24
Điều kiện được hưởng trợ cấp
- Phải đóng BHXH, thời hạn hưởng trợ cấp phụ thuộc vào thời gian
đóng BHXH
- Có giấy xác nhận của tổ chức y tế (do Bộ y tế quy định)
Thời hạn trợ cấp và mức trợ cấp
Đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường
- 30 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm
- 40 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH từ 15 đến 30 năm
- 50 ngày trong một năm nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên.
Đối với người làm trong ngành nghề hoặc công việc nặng nhọc,
độc hại, làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0.7 trở lên được nghỉ dài
hơn 10 ngày so với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường
có thời gian tương ứng như trên.
Người lao động bị mắc các loại bệnh cần chữa trị dài ngày (theo
quy định của Bộ y tế) thì thời gian hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày không
phụ thuộc vào thời gian đã đóng BHXH. Trường hợp hết 180 ngày mà vẫn
tiếp tục điều trị thì được hưởng trợ cấp tiếp nhưng mức thấp hơn.
Người lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số thì
được nghỉ từ 7-20 ngày tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Người lao động được nghỉ chăm sóc con ốm 20 ngày trong năm
đối với con dưới 3 tuổi và 15 ngày trong năm đối với con từ 3- 7 tuổi.
Trong thời gian nghỉ theo quy định người lao động được hưởng trợ
cấp BHXH bằng 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH dưới 30
năm. Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bao gồm lương theo cấp bậc,
chức vụ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ (nếu có). Và
đây là kết quả mà BHXH huyện đạt được như bảng số liệu sau.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
25
Bảng6 : Chi trả chế độ ốm đau năm 2000-2002.
CHỈ TIÊU TĂNG GIẢM QUA
CÁC NĂM
NĂM
SỐ NGƯỜI ĐƯỢC
HƯỞNG CHI TRỢ CẤP
ỐM ĐAU (NGƯỜI)
SỐ TIỀN
ĐƯỢC
HƯỞNG
(ĐV : 1000
đồng)
SỐ TIỀN
(ĐV :1000
đồng)
TỶ
LỆ
(%)
2000 398 87.405 - -
2001 417 90.574 3.169 3,63
2002 662 121.973 31.399 34,67
(Nguồn số liệu : BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy:
Số tiền được hưởng của năm 2001 tăng 3.169.000 đồng tương ứng
với tỉ lệ 3,63% so với năm 2000.
Đặc biệt là năm 2002 số tiền được hưởng có sự tăng đột biến về số
tuyệt đối lên tới 31.399.000 đồng tức là tăng 34,67% so với năm 2001.
Sở dĩ qua các năm số tiền được hưởng đều tăng như vậy là do số
người được hưởng BHXH tăng lên, mà số người tăng lên là do Nhà nước
ngày càng quan tâm đến sức khoẻ của người lao động nên các khoản trợ
cấp được giải quyết nhanh và các khoản trợ cấp cũng được tăng lên.Bên
cạnh đó, số người tham gia vào BHXH càng nhiều nên khoản trợ cấp cũng
tăng lên. Một số người được hưởng vì phải chăm sóc con cái ốm đau, có
người được hưởng vì bận việc riêng của gia đình và còn một số người nữa
vì mắc bệnh cần điều trị dài ngày.
b. Chi trả chế độ thai sản.
Trong Nghị định 12/CP của Chính phủ quy định :
Các trường hợp được hưởng
- Lao động nữ có thai, sinh con thứ nhất, thứ hai.
- Lao động nữ nuôi con sơ sinh.
Điều kiện
- Có tham gia đóng góp BHXH.
Thời hạn hưởng và mức hưởng BHXH
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
26
Thời hạn.
- Khi có thai được nghỉ khám thai 3 lần, mỗi lần 1 ngày.
- Sẩy thai nghỉ từ 20 ngày đến 30 ngày tuỳ theo tháng thai.
- Khi sinh con được nghỉ từ 4 đến 6 tháng tuỳ theo điều kiện làm việc
- Sinh 1 lần nhiều con thì tính từ con thứ 2 trở đi, mỗi con sinh thêm
mẹ được nghỉ thêm 30 ngày.
- Trường hợp sau khi sinh con chết, người mẹ được nghỉ 75 ngày kể
từ ngày sinh, nếu con dưới 60 ngày tuổi bị chết thì người mẹ được nghỉ
thêm 15 ngày kể từ khi con bị chết nhưng không quá thời hạn nghỉ sinh
con theo quy định chung.
Nếu nuôi con sơ sinh thì người nuôi được nghỉ cho đến khi con đủ
4 tháng tuổi.
Mức trợ cấp
- Được hưởng trợ cấp bằng 100% mức tiền lương làm cơ sở đóng
BHXH trước khi nghỉ trong thời hạn đã nêu.
- Được trợ cấp thêm một tháng tiền lương.
Với đặc điểm là huyện tập trung nhiều nhà máy thuộc công nghiệp
dệt, may, thực phẩm…nên việc thực hiện chế độ trợ cấp thai sản là nhu
cầu đòi hỏi thường xuyên của người lao động bởi vì số lao động trong
huyện đa phần là nữ. Chế độ này nhằm giúp người lao động nữ có khoản
trợ cấp để thay thế cho khoản thu nhập bị mất đi do không làm việc vì sinh
con. Hơn nữa, việc quy định thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiện và
môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm
lao động khác nhau.Và đây là kết quả đạt được khi thực hiện chế độ này.
Bảng 7: Chi trả chế độ thai sản 2000 -2002 .
CHỈ TIÊU TĂNG GIẢM QUA
CÁC NĂM
NĂM
SỐ NGƯỜI ĐƯỢC
HƯỞNG (NGƯỜI)
SỐ TIỀN ĐƯỢC
HƯỞNG
(ĐV :1000 đồng)
SỐ TIỀN
(ĐV :1000
đồng)
TỶ
LỆ
(% )
2000 117 186.404 - -
2001 129 187.402 + 998 0,54
2002 119 275.378 + 87.976 46,95
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
27
(Nguồn số liệu: BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy:
Năm 2001 số tiền được hưởng tăng 998.000 đồng hay 0,54% điều này
là do số người được hưởng trợ cấp thai sản năm 2001 nhiều hơn năm 2000,
số người được hưởng tăng lên như vậy là do số lao động nữ trong độ tuổi
sinh đẻ và những người sinh con thứ nhất, thứ hai tương đối lớn cho nên
việc tăng số tiền chi trả trợ cấp thai sản cho người tham gia đóng BHXH
đó là điều tất yếu. Năm 2002 số tiền được hưởng tăng số tuyệt đối là
87.976.000 đồng tức 46,95%, nhưng số nguời được hưởng chế độ thai sản
giảm so với năm 2001. Số người được hưởng giảm đi mà số tiền được
hưởng lại tăng lên đột biến như vậy là do năm 2002 số người sinh con ít
hơn năm 2001 và đặc biệt là do điều kiện và trang thiết bị y tế, thuốc men
ngày càng hiện đại hơn, giá cả những trang thiết bị y tế ngày một đắt hơn,
và hơn nữa ngày càng có nhiều doanh nghiệp, xuất hiện trong nhiều thành
phần kinh tế, nên mức độ chi trả ngày một nhiều và tăng lên một cách
đáng kể.
c. Chi trả chế độ Dưỡng sức.
Điều kiện hưởng :
Người lao động đã đóng đủ BHXH theo quy định thì được nghỉ
dưỡng sức phục hồi sức khoẻ khi có trong 3 điều kiện sau đây :
- Có đủ 3 năm đóng BHXH trở lên tại đơn vị mà bị suy giảm sức khoẻ.
- Sau khi điều trị nội trú hoặc ngoại trú do ốm đau, tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp mà chưa phục hồi sức khoẻ.
- Lao động nữ yếu sức khoẻ sau khi nghỉ thai sản( kể cả trường hợp
nghỉ việc do sẩy thai). Đây là kết quả BHXH huyện đã chi trả.
Bảng 8: Chi trả chế dưỡng sức 2000-2002
CHỈ TIÊU TĂNG GIẢM QUA
CÁC NĂM
NĂM
SỐ NGƯỜI ĐƯỢC
HƯỞNG
( NGƯỜI)
SỐ TIỀN ĐƯỢC
HƯỞNG
(ĐV :1000 đồng)
SỐ TIỀN
(ĐV :1000
đồng)
TỶ
LỆ
(%)
2001 195 14.650 - -
2002 612 101.750 + 87.100 594,54
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
28
(Nguồn số liệu:BHXH huyện Cẩm Xuyên)
Từ bảng số liệu trên ta thấy:
Năm 2000 chưa có số liệu về chế độ dưỡng sức, vì chế độ này được
thực hiện vào năm 2001 khi có quyết định số 37/2001/QĐ- TTG của Chính
phủ. Còn 2 năm tiếp theo khi được thực hiện thì BHXH đă đạt được những
kết quả rất khả quan. Năm 2002 tăng rất mạnh so với năm 2001 là
87.100.000 đồng tức là tăng 594,54%( nghĩa là tăng gần 7 lần). Lí do số
tiền hưởng đạt được kết quả như vậy là do số người được nghỉ dưỡng sức
nhiều hơn, có sự thay đổi về số lượng người tham gia đóng BHXH. Và số
người lao động ốm đau, thai sản đều ảnh hưởng đến nhu cầu nghỉ dưỡng
sức của người lao động.
d. Chi trả chế độ Hưu trí.
Nghị định số 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26/01/1995 quy
định những đối tượng sau đây được hưởng chế độ hưu trí :
Điều kiện
Trong chế độ hưu trí điều kiện để hưởng trợ cấp gồm tuổi đời và sổ năm
đóng BHXH.
Trong chế độ hưu trí điều kiện để hưởng trợ cấp gồm tuổi đời và số
năm đóng BHXH.
Để được hưởng trợ cấp hưu trí đầy đủ thì về tuổi đời.
+ Nam phải đủ 60 tuổi trong điều kiện lao động bình thường và đủ
55 tuổi nếu làm ở ngành nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, hoặc ở
nơi khó khăn có phụ cấp khu vực với hệ số 0,7 trở lên, hoặc công tác ở
chiến trường B,C,K.
+ Nữ phải có đủ 55 tuổi trong điều kiện lao động bình thường hoặc
đủ 50 tuổi nếu làm ở các công việc và khu vực nêu trên như nam giới.
Về thời gian đóng BHXh có phải đủ 20 năm đóng đối với các
loại lao động và đối với các trường hợp giảm tiền thì trong đó phải có 15
năm ở ngành nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại hoặc ở nơi khó khăn
gian khổ có phụ cấp với hệ số 0,7 trở lên, hoặc công tác ở chiến trường B,
C, K.
Những người nghỉ hưu nhưng được hưởng trợ cấp thấp hơn với
các điều kiện sau :
+ Nam đủ 60 tuổi, nữ 55 tuổi nhưng có thời gian đóng BHXH đủ 15
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
29
năm đến dưới 20 năm.
+ Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi thời gian đóng BHXH đủ 20 năm
trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
+ Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại đã đóng BHXH đủ 20 năm mà bị suy giảm khả năng lao động
từ 61% trở lên, không phụ thuộc vào tuổi đời.
Sự thay đổi chế độ hưu
Ngày 12/11/1998 Chính phủ ban hành Nghị định 39/CP sửa đổi một
số quy định đối với chế độ hưu như sau :
- Đối với những người đủ 55 tuổi ( đối với nam ) và 50 tuổi (đối với
nữ) mà có đủ 30 năm đóng BHXH trở lên thì hưởng đủ 75% tiền lương
bình quân của 5 năm cuối mà không bị trừ tỷ lệ % như trước. Còn đối với
những người không đủ điều kiện được hưởng hưu đầy đủ thì thay vì trừ 2%
nay chỉ trừ 1%.
- Đối với những người đã từng có 15 năm làm công việc nặng nhọc
độc hại mà sau đó chuyển sang làm công việc khác có mức tiền lương thấp
hơn thì khi tính tiền lương bình quân, được tính bình quân của 5 năm liền
kề có mức lương cao nhất.
Chi trả lương hưu chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng chi của BHXH trong
các năm. Những người hưởng lương hưu được phân chia thành hai loại đối
tượng; hưu quân đội và hưu công nhân viên chức. Thông qua bảng thống
kê dưới đây chúng ta sẽ thấy rõ được thực trạng chi trả lương hưu của
BHXH huyện trong những năm qua.
Bảng 9: Chi trả chế độ hưu trí 2000-2002
CHỈ TIÊU SỐ TIỀN TĂNG GIẢM QUA CÁC NĂM
SỐ NGƯỜI
ĐƯỢC HƯỞNG
TRỢ CẤP
SỐ TIỀN TRỢ CẤP
(ĐV :1000 đồng)
SỐ TIỀN
(ĐV :1000 đồng)
TỶ LỆ(%)
NĂM
NSNN QBHXH NSNN QBHXH NSNN QBHXH NSNN QBHXH
2000 8.949 230 15.004.518 988.000 - - - -
2001 9.050 164 17.460.974 1.008.762 +2.456.456 +20.762 16,37 2,10
2002 9.066 140 17.282.937 1.447.302 -178.037 +438.540 1,01 43,47
(Nguồn số liệu: BHXH huyện Cẩm Xuyên)
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
30
Từ bảng số liệu trên ta thấy: Chi trả chế độ hưu trí BHXH lấy từ
nguồn ngân sách lớn hơn nhiều so với nguồn quỹ BHXH. Vì nguồn quỹ chỉ
dùng để chi trả cho các đối tượng nghỉ việc trước 01/01/1995 trở đi. Nếu so
sánh cụ thể số chi trong từng nguồn thì :
* Chế độ hưu trí BHXH chi trả từ Nguồn Ngân Sách :
Năm 2001 số tiền BHXH huyện Cẩm Xuyên chi trả lớn hơn năm 2000
là: 2.456.456.000 đồng tức tăng 16,37%. Đó là do có sự điều chỉnh lương
hưu theo NĐ 175/CP.
Năm 2002 số tiền hưởng trợ cấp giảm 178.037.000 đồng tức giảm
1,01%. Nguyên nhân giảm là do : những cán bộ hưu trí ở tuổi cao, già yếu,
ốm đau, bệnh tật chết tương đối lớn và BHXH huyện đã cắt giảm kịp thời,
và vì điều kiện hoàn cảnh gia đình nên số cán bộ hưu trí chuyển đi các tỉnh
khác.
* Chế độ Hưu trí BHXH chi trả từ nguồn quỹ:
Trong năm 2001 số tiền trợ cấp so với năm 2000 tăng 20.762.000
đồng tức là tăng 2,10% và năm 2002 cũng tăng so với năm 2001 là
438.540.000 đồng tức là tăng 43,47%. Nguyên nhân của việc tăng chi từ
quỹ là do tỷ lệ cán bộ công chức Nhà nước nghỉ hưu tăng tương đối lớn. Và
số cán bộ công chức nghỉ hưu trước tuổi tăng do quá trình sắp xếp lại các
doanh nghiệp Nhà nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp tinh giảm biên
chế và nghỉ theo các chế độ khác của Nhà nước.
e. Chế độ Tử tuất.
Nghị định 12/CP của Chính phủ quy định :
Các trường hợp
- Người lao động đang làm việc bị ốm đau bệnh tật hoặc tai nạn chết.
- Những người đang nghỉ chờ hưu bị chết.
- Những người đang hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng (như hưu, mất
sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) bị chết những trường
hợp trên thân nhân được hưởng chế độ trả trước.
Điều kiện hưởng
Tham gia BHXH dưới 15 năm mà chết thân nhân được hưởng trợ cấp 1
lần.
Tham gia BHXH từ 15 năm trở lên mà chết thì được hưởng trợ cấp
hàng tháng kèm theo các điều kiện của thân nhân.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
31
Các loại trợ cấp
- Mai táng phí : chung cho tất cả mọi người chết là bằng 8 tháng tiền
lương tối thiểu.
- Trợ cấp 1 lần : người lao động chưa đủ 15 năm đóng BHXH hoặc
thân nhân chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng. Mức trợ cấp là mỗi
năm đóng BHXH thì được một tháng tiền lương bình quân làm căn cứ đóng
BHXH nhưng không quá 12 tháng.
Đối với người đang hưởng hưu chết mà thân nhân không đủ điều kiện
trợ cấp hàng tháng thì nếu chết trong năm hưởng hưu thứ nhất thì được
hưởng 12 tháng lương hưu. nếu chết từ năm hưởng hưu thứ 2 trở đi, mỗi
năm đã hưởng BHXH giảm đi một tháng lương, nhưng tối thiểu cũng bằng
3 tháng lương hưu.
- Trợ cấp tuất hàng tháng : khi thân nhân của người đủ điều kiện
hưởng trợ cấp hàng tháng ở vào một trong các trường hợp sau:
+ Con chưa đủ 15 tuổi hoặc đến 15 tuổi nếu đang đi học.
+ Bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ chồng đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi, nữ
đủ 55 tuổi).
Mức trợ cấp được hưởng đối với mỗi thân nhân bằng 40% tiền lương
tối thiểu nhưng không quá 4 suất. Những người cô đơn, không người nuôi
dưỡng thì được trợ cấp bằng 70% tiền lương tối thiểu.
BHXH huyện còn chịu trách nhiệm quản lý đối tượng là người về
hưu, lão thành cách mạng và mất sức lao động. Khi những người này chết
thì thân nhân tiến hành làm hồ sơ xin hưởng tiền tuất tuỳ theo điều hưởng
một lần hoặc hàng tháng. Chi trả BHXH ở BHXH huyện chủ yếu là cho đối
tượng hưu là công nhân viên chức chiếm tỷ lệ lớn còn lại là hưu trí quân
đội và lão thành cách mạng chiếm tỷ lệ nhỏ. Các đối tượng hưởng chế độ
tuất trên địa bàn huyện như sau:
Bảng 10: Chi trả chế độ tử tuất 2000-2002
CHỈ TIÊU SỐ TIỀN TĂNG GIẢM QUA CÁC
NĂM
NĂM SỐ NGƯỜI
ĐƯỢC HƯỞNG
TRỢ CẤP
SỐ TIỀN TRỢ
CẤP
(ĐV :1000 đồng)
SỐ TIỀN
(ĐV :1000 đồng)
TỶ LỆ(%)
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
32
NSNN QBHXH NSNN QBHXH NSNN QBHXH NSNN QBHXH
2000 836 116 812.990 95.746 - - - -
2001 865 89 969.908 97.744 +156.918 + 1.980 19,30 2,07
2002 871 60 880.939 131.163 - 88.969 +33.419 9,17 34,19
(Nguồn số liệu: BHXH huyện Cẩm Xuyên.)
Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy từ nguồn ngân sách Nhà nước và
từ nguồn quỹ bảo hiểm xã hội :
Trong năm 2001 nguồn ngân sách Nhà nước chi trả lớn hơn nguồn
quỹ BHXH cụ thể là tăng 156.918.000 đồng tức là tăng 19,30 so với năm
2000 và nguồn quỹ BHXH cũng tăng nhưng với số tiền bé hơn là 1.980.000
đồng hay tăng 2,07% . Nguyên nhân hai nguồn này tăng lên là do chi trả
cho con của người lao động bị chết chưa đủ 15 tuổi hoặc bố, mẹ, vợ hoặc
chồng người nuôi dưỡng hợp pháp đã hết tuổi lao động.
Năm 2002 số tiền trợ cấp từ nguồn quỹ BHXH cũng tăng 33.419.000
đồng tức là tăng 34,19% so với năm 2001. Nhưng số tiền trợ cấp đối với
nguồn NSNN giảm 88.969.000 đồng hay giảm 9,17% (so với năm 2001).
Nguyên nhân giảm là qua quá trình rà soát hồ sơ của các đối tượng hưởng
tuất, BHXH huyện phát hiện và cắt giảm kịp thời một số lượng tương đối
lớn các đối tượng ở tuổi trưởng thành hết hạn hưởng.
g. Chế độ Tai nạn lao động và Bệnh nghề nghiệp (TNLĐ - BNN)
Nghị định 12/CP của Chính phủ quy định :
Trường hợp được xác định là TNLĐ và BNN.
- Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc và ngoài giờ làm việc
theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động.
- Bị tai nạn lao động ngoài giờ làm việc theo yêu cầu của chủ sử dụng
lao động.
- Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc.
- Bị các bệnh nghề nghiệp do môi trường và điều kiện lao động. Danh
mục BNN do Bộ y tế và Bộ lao động- thương binh xã hội quy định.
Điều kiện được hưởng trợ cấp
- Có tham gia đóng BHXH
- Có giám định thương tật, bệnh tật theo quy định của pháp luật hiện
hành.
Các loại trợ cấp
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
33
Khi bị TNLĐ, BNN trong thời gian điều trị người lao động vẫn
được hưởng lương và các chi phí điều trị do chủ sử dụng lao động chi trả
(không thuộc trợ cấp BHXH).
Khi đã ổn định thương tật, được giám định thương tật thì được
hưởng trợ cấp BHXH tính từ khi ra viện, gồm :
- Trợ cấp 1 lần (nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 5-30% bằng từ
4 đến 12 tháng tiền lương tối thiểu).
- Trợ cấp hàng tháng( nếu bị suy giảm từ 31% trở lên) bằng từ 0,1-
1,6 lần mức lương tối thiểu tuỳ thuộc vào tỷ lệ suy giảm khả năng lao động.
- Được phụ cấp cho người phục vụ bằng 0,8 mức tiền lương tối thiểu
đối với những người mất khả năng lao động từ 81% trở lên và bị liệt cột
sống, mù hai mắt, cụt hai tay, tâm thần nặng.
- Nếu bị TNLĐ hoặc BNN mà chết thì gia đình được hưởng trợ cấp
một lần bằng 20 tháng tiền lương tối thiểu và được hưởng trợ cấp trước,
không phụ thuộc vào thời gian đóng BHXH.
- Người bị TNLĐ và BNN có đủ điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí.
Cùng với sự phát triển kinh tế, điều kiện lao động và cống tác an toàn
vệ sinh lao động trong các doanh nghiêp ở nước ta hiện nay đã có sự thay
đổi đáng kể. Mặc đã có nhiều cải cách nhưng để xoá bỏ hoàn toàn TNLĐ
và BNN là điều không thể. Vì vậy chế độ này được quan tâm đặc biệt ở
những nước thực hiện BHXH đối với người lao động.
Kết quả chi trả chế độ trợ cấp TNLĐvà BNN tại BHXH huyện như sau :
Bảng 11: Chi trả chế độ TNLĐ- BNN 2000-2002
CHỈ TIÊU SỐ TIỀN TĂNG GIẢM QUA CÁC
NĂM
SỐ NGƯỜI
ĐƯỢC HƯỞNG
TRỢ CẤP
SỐ TIỀN TRỢ
CẤP
(ĐV :1000 đồng)
SỐ TIỀN
(ĐV :1000 đồng)
TỶ LỆ(%)
NĂM
NSNN QBHXH NSNN QBHXH NSNN QBHXH NSNN QBHXH
2000 16 19 19.558 18.208 - - - -
2001 16 15 29.019 25.078 +9.461 +6.870 48,37 37,73
2002 15 10 26.515 30.931 -2.504 +5.853 8,63 23,34
(Nguồn số liệu: BHXH huyện Cẩm Xuyên.)
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
34
Qua số liệu trên chúng ta thấy: Số tiền chi trả qua các năm đều có sự
tăng, giảm khác nhau cụ thể :
Từ nguồn ngân sách, năm 2001 tăng là 9.46.000 đồng tức tăng
48,37% so với năm 2000. Nguyên nhân dẫn đến sự biến động trên là do có
sự điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH theo nghị định 176/CP. Năm
2002 giảm 8,63% hay giảm là 2.504.000 đồng so với năm 2001. Nguyên
nhân là do các đối tượng lao động di chuyển đến các tỉnh bạn, và có nhiều
trường hợp bị chết…
Nguồn quỹ: năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 6.870.000 đồng tức là
tăng 37,73% và năm 2002 tăng hơn năm 2001 là 5.853.000 đồng hay là
tăng 23,34%. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng số tiền chi trả qua các năm là
do số cán bộ công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, các xí nghiệp
sản xuất bị tai nạn ngày càng tăng vì gặp nhiều rủi ro trong lao động sản
xuất, chế độ bảo hộ lao động không đảm bảo an toàn trong quá trình làm
việc, công tác…
3. Đánh giá chung.
Trong những năm qua BHXH huyện Cẩm Xuyên đã gặt hái được
nhiều thành công đáng kể. Cụ thể là các khoản thu trong các năm qua tăng
dần. BHXH huyện Cẩm Xuyên đã có nhiều cố gắng nhằm đạt được những
chỉ tiêu đã đề ra. Nhìn chung các khoản chi từ ngân sách nhà nước vẫn
chiếm một khoản lớn trong tổng chi BHXH trong những năm qua. Tuy
nhiên, do điều kiện kinh tế huyện Cẩm Xuyên chưa phát triển mạnh so với
một số quận huyện khác trên toàn quốc nên tỷ lệ thu so với chi vẫn chưa
cao.
Ngoài ra, những hiện tượng tiêu cực trong cơ quan là không đáng kể
đội ngũ cán bộ trong cơ quan hết sức tận tình trong việc giải thích, hướng
dẫn những người làm chế độ. Công tác chi trả các chế độ BHXH ngày càng
được cải thiện, việc chi trả diễn ra nhanh chóng kịp thời, an toàn và chính
xác. Chính vì vậy đã được đông đảo những người hưởng chế độ hoan
nghênh, tạo niềm tin đối với BHXH tỉnh Hà Tĩnh.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
35
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
BHXH Việt Nam là ngành mới được thành lập theo NĐ 19/CP ngày
16/2/1995 của Chính phủ để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác
quản lý BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật
của Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, BHXH Việt nam đã
nhanh chóng ổn định tổ chức và từ ngày 01/10/1995 toàn bộ hệ thống
BHXH Việt nam đã chính thức đi vào hoạt động. Đến nay, mặc dù bước
đầu còn gặp nhiều khó khăn nhưng BHXH đã có nhiều cố gắng và đạt được
những thành tích nhất định, khẳng định được vị trí của mình, khẳng định
được sự tồn tại và phát triển thông qua các hoạt động của ngành. Đó là số
thu BHXH ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước, chi trả cho các chế
độ BHXH kịp thời, đúng đối tượng, đúng chế độ chính sách và đủ số
lượng, bước đầu đã có những biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ mang lại
hiệu quả.
Tuy nhiên, qua một thời gian ngắn hoạt động, BHXH Việt nam nhận
thấy còn có những thiếu sót tồn tại trong chính sách BHXH và trong quá
trình thực hiện.
Để chính sách BHXH bảo đảm tốt hơn đời sống cho người lao động,
góp phần tích cực vào việc ổn định an toàn xã hội và sự nghiệp phát triển
kinh tế. Dưới đây em xin đưa ra một số ý kiến của mình nhằm hoàn thiện
và đổi mới chính sách BHXH.
1.Về văn bản pháp luật
Chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với sự thay đổi trong
nội dung và đối tượng điều chỉnh các quan hệ xã hội – pháp luật nói chung
và chế độ BHXH nói riêng cũng có sự thay đổi. Tuy nhiên, trong các chế
định thì chế định pháp lí về BHXH dường như mang tính chất ổn định nhất,
điều này rất thuận lợi trong việc xây dựng lại hệ thống quy định về BHXH
cho tương lai. Tất nhiên, vẫn cần thiết phải có điều chỉnh trợ cấp cho phù
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
36
hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển kinh tế. Yêu cầu ở đây là
cần phải có chính sách lao động đồng bộ. Việc xây dựng chế độ BHXH
phải khắc phục được tính giải quyết tình thế vì chế độ BHXH ban hành
hôm nay không chỉ áp dụng để giải quyết các chế độ cho người lao động đã
làm việc trước đây nay về nghỉ chế độ mà còn áp dụng trong hiện tại và
tương lai. Mặt khác, sự sát nhập của BHXH và BHYT sẽ gây ra nhiều khó
khăn cho công tác quản lý hai nghiệp vụ này.Vì vậy, theo em cần sớm ban
hành Luật BHXH và hệ thống hoá văn bản về BHXH pháp quy về BHXH
ở mức cao hơn để thực hiện rõ tầm quan trọng của BHXH và có thể quản
lý thống nhât hai nghiệp vụ này.
Song song với việc ban hành Luật BHXH, chúng ta cũng nên thay đổi
lại tỉ lệ đóng BHXH. Hiện nay, do mức sống của xã hội ngày càng được
nâng cao đã làm cho tuổi thọ trung bình của con người cũng tăng theo.
Cách đây 30 năm, tuổi thọ trung bình của người Việt nam chỉ vào khoảng
50 –60 tuổi thì đến nay tuổi thọ trung bình của người Việt nam đã khoảng
75 tuổi. Tuổi thọ trung bình tăng lên sẽ làm cho số tiền chi trả lương hưu
tăng, điều này không đảm bảo nguyên tắc cân bằng thu – chi trong BHXH
bởi vì tỉ lệ thu BHXH như hiện nay la hơi thấp. Vì vậy theo tôi, tỷ lệ đóng
BHXH nên tăng lên 25% tổng quỹ lương và được phân chia như sau :
+ Người sử dụng lao động đóng góp 18% tổng quỹ lương.
+ Người lao động đóng góp 7% tổng quỹ lương.
2. Về đối tượng hưởng, chế độ hưởng BHXH
Do nhu cầu tham gia BHXH của các đối tượng lao động ngày càng
cao cho nên trong những năm gần đây BHXH Việt nam đã cho triển khai
loại hình BHXH tự nguyện (thí điểm ở 5 tỉnh, thành) song song với loại
hình BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, những quy định cụ thể về loại hình
BHXH tự nguyện vẫn chưa có và loại hình BHXH này cũng chưa được áp
dụng rộng rãi. Vì vậy, theo em BHXH Việt nam nên triển khai rộng rải loại
hình BHXH tự nguyện kèm theo những quy định cụ thể, rõ ràng để BHXH
huyện cũng như BHXH các huyện khác có thể nhanh chóng triển khai rộng
rãi loại hình BHXH này.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
37
Đối tượng tham gia BHXH là những người làm nông nghiệp, tiểu
thương, những người làm việc trong các đơn vị sử dụng dưới 10 người lao
động có một khoản thu nhập tương đối ổn định.
Các khoản đóng góp cho quỹ BHXH tự nguỵện chủ yếu dựa vào sự
đóng góp của người tham gia. Tuy nhiên tỷ lệ đóng góp này phải được đảm
bảo hợp lí.
Hiện nay chỉ nên triển khai BHXH tự nguyện cho 4 chế độ sau
Chi trả lương hưu
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thai sản
Trợ cấp tử tuất
Riêng 2 chế độ, chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thì chưa
nên triển khai vội, bởi vì chưa thể kiểm soát được rủi ro sẽ xẩy ra cũng như
khó quản lí đối tượng này. Còn chế đô dưỡng sức mới được đi vào hoạt
động (2001) nên chưa thể tìm ra được những nguyên nhân cụ thể để triển
khai nên cũng có thể triển khai sau.
3. Về chế độ, chính sách BHXH
a. Chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí là một chính sách lớn của xã hội, nó quyết định đời
sống của người lao động trong những năm còn lại của cuộc đời sau khi đã
về hưu. Vì vậy, các chế độ chính sách cần hoàn thiện song hành với sự
phát triển chung của toàn xã hội.
Hiện nay, tuổi thọ trung bình quân của ngừơi dân ở các nước có xu
hướng ngày càng tăng lên và mức sinh ngày càng giảm. Đa số các nước độ
tuổi nghỉ hưu được quy định tăng tương ứng nhằm giảm bớt gánh nặng xã
hội về chi BHXH cũng như tận dụng chất xám của người lao động.
Quy định độ tuổi nghỉ hưu hợp lý sẽ hạn chế sự mất cân đối quỹ
BHXH, đồng thời thu hút lực lượng lao động có trình độ cao cống hiến cho
công cuộc xây dựng đất nước.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
38
Pháp luật cần có quy định mềm dẻo hơn trong chế độ này sao cho phù
hợp với tính chất nghề nghiệp, điều kiện kinh tế – xã hội, vừa khai thác
được hiệu quả tiềm năng và chất lượng lao động.
Cụ thể, những đề xuất của em đối với chế độ hưu trí như sau :
Nên quy định lại tuổi nghỉ hưu :
- Đối với những người làm trong điều kiện bình thường thì nên quy
định bắt buộc tuổi nghỉ hưu như sau :
+ Nam : 60 tuổi nghỉ hưu
+ Nữ : 60 tuổi nghỉ hưu
- Đối với những người làm việc trong môi trường độc hại, điều kiện
làm việc kém an toàn, nên điều chỉnh sao cho họ có thể nghỉ sớm hơn bình
thường từ 10 năm trở xuống (nếu họ muốn). Tuy nhiên họ phải đảm bảo
thời gian đóng BHXH là 25 năm.
Chính sách BHXH vẫn có đan xen với chính sách ưu đãi xã hội.
Những người đi B, C, K phải do pháp luật ưu đãi, xã hội điều chỉnh chứ
không phải do pháp luật BHXH điều chỉnh. Vì vậy cần phải tách chính
sách này ra khỏi chính sách BHXH để đảm bảo cho sự chi trả của quỹ
BHXH.
Mức trợ cấp BHXH chưa phù hợp với quan hệ đóng- hưởng giữa
các nhóm lao động trong việc quy định sau 30 năm đóng BHXH thì từ năm
thứ 31 mổi năm đóng thêm được hưởng một lần bằng 1/2 tháng lương
nhưng không quá 5 tháng. Việc quy định như vậy là không đảm bảo công
bằng xã hội. Vì vậy, theo em nên không nên khống chế số thời gian chi trả
lần đầu cho số tháng trên 30 năm là 5 tháng, mà tính chi trả tương ứng thời
gian đóng BHXH vượt trội trên 30 năm, mỗi năm 1/2 tháng lương bình
quân.
Việc tính lương hưu dựa vào mức lương bình quân 5 năm cuối
trước khi nghỉ hưu cũng nên xem xét lại, bởi vì có người trong 5 năm cuối
hệ số lương chỉ thay đổi 2 lần nhưng cũng có người hệ số lương trong 5
năm cuối lại thay đổi 3 lần. Nếu chỉ dựa vào mức lương bình quân trong 5
năm cuối để tính lương hưu cũng không đảm bảo công bằng xã hội.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
39
b. Chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản
Quy định rõ cơ sở y tế nào được khám chữa bệnh và điều trị bệnh cho
người lao động hưởng BHXH.
Đối với những người lao động có thời gian nghỉ nhiều hơn 180 ngày
thì mức hưởng trợ cấp BHXH là 65% hoặc70% mức lương đóng BHXH.
Thực tế, đây là những người thực sự gặp khó khăn, cần có sự hỗ trợ lớn về
thu nhập để đảm bảo đời sống. Vì vậy, để đảm bảo công bằng xã hội, Nhà
nước nên chăng quy định lại tỉ lệ hưởng trợ cấp với nhóm người này là75%
tiền lương đóng BHXH trước khi nghỉ không phân biệt số năm đóng
BHXH.
Quy định rõ trách nhiệm của y, bác sỹ, lương y xác nhận ngày nghỉ
ốm cho người lao động.
c. Chế độ Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ và BNN)
TNLĐ và BNN xẩy ra ngoài ý muốn của người lao động. Khi xét
hưởng trợ cấp BHXH chỉ căn cứ vào tỉ lệ suy giảm khả năng lao động thì
chưa đủ và thoả đáng vì chưa tính đến sự đóng góp của người lao động.
Người lao động bị tai nạn lao động là một thiệt thòi lớn đối với bản thân.
Vì vậy, mức hưởng BHXH không tính đến sự đóng cho quỹ BHXH sẽ làm
cho người lao động thiệt thòi hơn.
Vì vậy, một mặt Nhà nước nên chăng tính toán mức trợ cấp dựa trên
tỷ lệ tiền lương hiện hành mà người lao động đóng BHXH ; mặt khác, tiếp
tục nghiên cứu để có thể định tỷ lệ trợ cấp tỷ lệ thuận với tỷ lệ suy giảm
khả năng lao động để tránh tình trạng có người lợi dụng cơ sở để cố ý làm
sai.
d. Chế độ Tử tuất.
Ở đây chế độ tiền tuất hàng tháng còn có điểm chưa hợp, điều kiện hưởng
không căn cứ vào tình trạng kinh tế của gia đình và sự đóng góp của người chết
khi còn sống. Phần lớn thân nhân của người chết chưa đến tuổi lao động hoặc
quá tuổi lao động đều được hưởng trợ cấp, dẫn đến mức trợ cấp hàng tháng
thấp, không đảm bảo ý nghĩa nhân đạo của chế độ trợ cấp này.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
40
Vì vậy, nên chăng Nhà nước tính mức trợ cấp dựa trên mức lương
bình quân của người lao động trước khi chết ; mặt khác, Nhà nước quy định
đại diện đối tượng hưởng trợ cấp, chẳng hạn thân nhân có người nuôi
dưỡng trực tiếp có mức thu nhập lớn hơn 10 lần mức lương tối thiểu thì
không được hưởng trợ cấp tuất tháng.
4. Về tổ chức quản lí chi BHXH
- Từ nay đến những năm tiếp theo BHXH huyện Cẩm Xuyên trong đó
phòng Quản lý chế độ chính sách tiếp tục tăng cường quản lý đối tượng
được hưởng BHXH. Thực hiện chặt chẽ quy trình xét duyệt hưởng các chế
độ về thời gian, mức đóng góp... chỉ tiến hành giải quyết chi trả các chế độ
cho người lao động thông qua tổ chức sử dụng lao động( trừ chi lương
hưu). Không trực tiếp giải quyết với người lao động để đảm bảo sự công
tâm và tránh mọi biểu hiện gây phiền hà, tiêu cực.
- Rà soát lại hồ sơ của đối tượng để lập phiếu trung gian và đưa vào hệ
thống máy tính nhằm đáp ứng yêu cầu công tác và quản lý đối tượng thuận
tiện lâu dài và chính xác. Đặc biệt đối với đối tượng đang hưởng trợ cấp
mất sức lao động khi hết 1/2 thời gian hưởng trợ cấp phải cắt giảm kịp thời
theo quyết định số 60/HĐBT nay là Chính Phủ.
- BHXH huyện kết hợp với uỷ ban nhân dân xã, phường, thị hướng
dẫn uỷ ban nhân các xã, phường , thị trấn thực hiện tốt hợp đồng đã ký kết
về chi trả BHXH, quản lý an toàn tiền mặt trong thời gian chi trả lương hưu
và trợ cấp BHXH.
- Tổ chức chi trả chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức, tai nạn lao động
đúng nguyên tắc, đúng chứng từ gốc và đảm bảo đúng quy định hiện hành.
Thực hiện chi quản lý tiết kiệm hiệu quả.
- Tổ chức quản lý an toàn và đảm bảo sử dụng đúng mục đích nguồn
kinh phí chi BHXH tiếp tục gắn trách nhiệm thu nộp BHXH với việc xét
duyệt và chi trả.
- Năm 2002, BHXH và BH Y TẾ sát nhập thành một cơ quan thống
nhất từ trên xuống dưới. Vì vậy số cán bộ trong cơ quan sẽ tăng lên. Song,
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
41
trụ sở cơ quan chật hẹp, nếu có thể cơ quan nên xây dựng một trụ sở mới
rộng hơn, giúp cho cán bộ trong cơ quan có điều kiện làm việc thoải mái hơn.
5. Thực hiện công tác cấp sổ BHXH
Công tác này không chỉ có vai trò quan trọng đối với người lao động
mà còn đối với cơ quan BHXH. Đối với người lao động, nó ghi nhận sự
đóng góp vào quỹ BHXH của từng người, trong từng giai đoạn theo lương
tháng. Trên cơ sở đó tính mức lương hưởng BHXH theo chế độ, giúp người
lao động giám sát kết quả đóng BHXH của người sử dụng lao động, việc
thực hiện các chế độ của cơ quan BHXH thu được tiền đóng BHXH một
cách chính xác, đúng đối tượng. Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc trong công
tác cấp sổ BHXH là chưa chặt chẽ do những năm đầu ngành BHXH mới
thành lập. Sổ được cấp đồng loạt hoá với một số lượng lớn, nên việc thống
kê quản lý sổ đã cấp không chính xác gây nên một số trường hợp người lao
động tự ý tẩy xoá vào sổ, ghi sai mức lương, phụ cấp, chức danh nên sau
khi kiểm tra phát hiện phải đổi lại sổ gây mất thời gian, kinh phí cho người
lao động, chủ sử dụng lao động và cơ quan BHXH khi xét duyệt chế độ
chính sách.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý công tác cấp sổ BHXH :
- Về phía cơ quan sử dụng lao động : thống kê đầy đủ số lao động, tài
liệu về người lao động như tờ khai cấp sổ, hồ sơ trong cơ quan.
- Về phía cơ quan BHXH: Công tác thu, công tác quản lý sổ BHXH
phải đảm bảo chặt chẽ, thu, xác nhận sổ đúng chức danh, đúng mức lương,
phụ cấp của người lao động, khớp đúng giữa sổ BHXH với danh sách lao
động và quỹ lương trích nộp BHXH. Bên cạnh đó, bổ sung đội ngũ cán bộ
ngành BHXH, nâng cao kỹ năng thực hiện các nghiệp vụ BHXH. Chương
trình này có thể thông qua các chuyên đề chuyên sâu như : những nội dung
cơ bản của luật BHX, đầu tư các quỹ BHXH, quản lý hồ sơ trên máy vi tính
để nâng cao tốc độ cấp sổ.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
42
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
43
KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã
và đang phát huy vai trò hết sức to lớn đối với người lao động, góp phần ổn
định đời sống của hàng triệu người lao động và gia đình họ khi gặp phải
những trường hợp ốm đau, bệnh tật, khó khăn trong cuộc sống.
Có thể nói, BHXH luôn gắn liền trách nhiệm và quyền lợi của người
lao động và chủ sử dụng lao động với nhau. Đây cũng là tổng hợp các quan
hệ Kinh tế - Xã hội giữa các thành viên trong xã hội, giữa các cơ quan,
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác. Do đó, không thể không thực
hiện chính sách BHXH có hiệu quả.
Kể từ khi thành lập cơ quan BHXH huyện Cẩm Xuyên đã góp phần ổn
định ngân sách Nhà nước, giảm gánh nặng cho ngân sách, giúp Nhà nước
tập trung vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, giúp người lao động ổn định
cuộc sống, an tâm lao động…
Hoàn thành luận văn về hoạt động công tác chi BHXH- một vấn đề
lớn và quan trọng nên chắc chắn em không tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để luận văn
hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Đoàn Thị Thu Hương và cơ quan
BHXH huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn
thành luận văn này.
Hà nội, ngày…tháng…năm 2003
Sinh viên
Phạm Thị Quế
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
44
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình BHXH - Trường ĐH Quản lý và Kinh doanh Hà
Nội.
2. Hỏi đáp về những chính sách trợ cấp xã hội chủ yếu của Nhà
nước nhà xuất bản Lao động - Xã hội 2003
3. Báo Bảo Hiểm Xã Hội số 3/ 2003 .
4. Tạp chí Lao động Xã hội.
5. BHXH- Những điều cần biết - Nhà xuất bản Thống kê - Hà nội/ 2001
LuËn v¨n tèt nghiÖp Ph¹m ThÞ QuÕ
45
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và giải pháp triển khai công tác chi trả Bảo hiểm xã hội ở huyện Cẩm xuyên Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002.pdf