Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang: Luận văn
Thực trạng và giải phỏp thỳc
đẩy tiến trỡnh cổ phần hoỏ ở
Cụng ty thực phẩm xuất khẩu
Bắc Giang
Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
1
MỤC LỤC
Trang
Mục lục 1
Lời núi đầu 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NễNG NGHIỆP
7
1. Vị trớ, vai trũ của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong
nụng nghiệp
7
1.1. Khỏi niệm kinh tế Nhà nước trong nụng nghiệp 8
1.2. Vị trớ, vai trũ của kinh tế Nhà nước trong nụng nghiệp 8
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoỏ và Cụng ty cổ phần 10
2.1. Khỏi niệm cổ phần hoỏ 10
2.2. Khỏi niệm về Cụng ty cổ phần 11
3. Những đặc điểm cơ bản của cổ phần hoỏ trong nụng nghiệp 11
3.1. Trong cỏc doanh nghiệp nụng nghiệp giỏ trị của đất đai chiếm một tỷ
trọng lớn trong giỏ trị doanh nghiệp
12
3.2. Nụng nghiệp từ lõu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kộm
hiệu quả đời sống của cỏn bộ cụng nhõn cũn gặp nhiều khú khăn
...
93 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1102 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và giải pháp thúc
đẩy tiến trình cổ phần hoá ở
Công ty thực phẩm xuất khẩu
Bắc Giang
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
1
MỤC LỤC
Trang
Mục lục 1
Lời nói đầu 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NÔNG NGHIỆP
7
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong
nông nghiệp
7
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp 8
1.2. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp 8
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và Công ty cổ phần 10
2.1. Khái niệm cổ phần hoá 10
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần 11
3. Những đặc điểm cơ bản của cổ phần hoá trong nông nghiệp 11
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ
trọng lớn trong giá trị doanh nghiệp
12
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân còn gặp nhiều khó khăn
12
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học 13
4. Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp 13
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức trong và ngoài
nước để phát triển kinh tế
16
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp 17
4.3. Nâng cao tiềm lực kinh tế Nhà nước 17
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước trong nông nghiệp
18
4.5. Tạo động lực mới trong quản lí doanh nghiệp 18
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
2
5. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá
và quá trình thực hiện
19
5.1. Những chủ trương chính sách 19
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện 29
6. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới 35
6.1. CPH ở Trung Quốc 35
6.2. CPH ở các nước ASEAN 37
6.3. Những kinh nghiệm quốc tế về CPH có thể áp dụng trong việc thực
hiện CPH DNNN chế biến thực phẩm xuất khẩu
38
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở CÔNG
TY THỰC PHẨM XUẤT KHẨU BẮC GIANG
40
I. Chủ trương của Tỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước
40
1. Mục tiêu của tỉnh Bắc Giang về sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn Tỉnh quản lý
40
2. Những biện pháp thực hiện 41
II. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất
khẩu Bắc Giang
43
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 43
1.1. Quá trình hình thành và phát triển 43
1.2. Bộ máy tổ chức 44
1.3. Hoạt động chính của Công ty hiện nay 44
1.4. Nguồn lực hiện tại của Công ty 45
1.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 47
2. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của Công ty có ảnh hưởng đến tiến
trình CPH
47
2.1. Vị trí địa lí của Công ty 47
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
3
2.2. Đặc điểm về lao động 48
2.3. Đặc điểm về ngành nghề kinh doanh 49
2.4. Đặc điểm về bộ máy quản lí 50
3. Thực trạng quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm
xuất khẩu Bắc Giang
50
3.1. Sự cần thiết phải tiến hành CPH ở Công ty TP XK Bắc Giang 50
3.2.Quá trình thực hiện CPH 54
3.3.Những kết quả đạt được, những vướng mắc và những vấn đề đặt ra khi
thực hiện CPH
55
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ Ở
CÔNG TY THỰC PHẨM XUẤT KHẨU BẮC GIANG
69
I. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu cổ phần hoá của Công ty 69
1. Quan điểm của Công ty 69
2. Phương hướng và mục tiêu cổ phần hoá của Công ty 69
2.1. Phương hướng CPH của Công ty 69
2.2. Mục tiêu CPH của Công ty 70
II. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty
thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
70
1. Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên trong Công ty 70
2. Lành mạnh hoá vấn đề tài chính của Công ty trước khi cổ phần hoá 72
2.1. Công khai hoá những vấn đề tài chính 72
2.2. Cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp 73
2.3. Tiến hành thị trường hoá các khoản nợ 75
3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp 75
4. Giải quyết vấn đề lợi ích cho người lao động 78
5.Tổ chức thực hiện đúng quy trình cổ phần hoá theo các văn bản hiện
hành
80
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
4
6. Hoàn thiện cơ chế chính sách 80
6.1. Cần làm rõ hơn những ưu đãi với doanh nghiệp và người lao động trong
các doanh nghiệp CPH
81
6.2.Thay đổi cơ cấu cổ phần trong các doanh nghiệp CPH hiện nay 81
6.3. Đơn giản hoá quy trình thực hiện CPH 82
6.4. Chọn hình thức CPH phù hợp 83
6.5. Tạo môi trường thúc đẩy CPH 83
7. Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu cổ phần hoá 84
Kết luận 88
Danh mục tài liệu tham khảo 89
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
5
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tiến trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, sự đa dạng hoá các hình
thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng phổ biến hơn trong toàn xã
hội. Những thành tựu của công cuộc đổi mới cho phép đông đảo quần chúng
nhận thức ngày càng rõ hơn rằng bên cạnh hình thức sở hữu Nhà nước, các hình
thức sở hữu khác (tư nhân hay hỗn hợp) nếu được tạo điều kiện thuận lợi cũng
phát huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Đồng thời việc đa dạng hoá các
hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế, nâng cao
quyền tự chủ tài chính và khả năng tự chủ quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao
tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người quản lý
doanh nghiệp.
Trải qua hơn 10 năm thực hiện cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) những thành tựu đã đạt được đủ để chúng ta khẳng định rằng CPH là
một chủ trương đúng đắn và phù hợp với yêu cầu khách quan. Tuy nhiên xung
quanh vấn đề CPH còn khá nhiều tồn tại như: Cơ chế chính sách chưa đồng bộ,
quy trình CPH còn phức tạp, ưu đãi dành cho người lao động và doanh nghiệp
CPH chưa thoả đáng, việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH còn gặp
không ít khó khăn…. Vì vậy trong thời gian tới cần phải có giải pháp hoàn thiện
để thúc đẩy CPH DNNN.
Sau một quá trình thực tập tại Công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc
Giang, Công ty đang tiến hành CPH. Từ điều kiện thực tế cộng với kiến thức
hiểu biết của mình Em chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần
hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang” làm luận văn tốt nghiệp đại học.
Luận văn cố gắng đi sâu nghiên cứu lí luận và tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn của cổ phần hoá DNNN đặc biệt là cổ phần hoá trong lĩnh việc nông nghiệp.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
6
Đánh giá thực trạng quá trình CPH ở công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc
Giang làm nổi bật nên những thuận lợi và khó khăn của Công ty trong khi tiến
hành CPH. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy CPH ở
Công ty.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chủ trương, chính sách của Đảng và
Chính phủ về CPH DNNN, tình hình sản xuất kinh doanh và quá trình CPH ở
Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang. Thời gian nghiên cứu của đề tài là từ
sau đổi mới đến nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu người viết đã sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê,
phương pháp điều tra, phương pháp toán học, phương pháp đọc, phân tích và
tổng hợp tài liệu, phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của luận văn gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc CPH DNNN trong nông nghiệp
Chương II: Thực trạng quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang.
Do hạn chế về trình độ kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu nên đề tài khó
trách khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các
thầy, cô giáo và các bạn để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
7
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NÔNG NGHIỆP
Đổi mới, sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, trong đó
có CPH, đang là vấn đề nóng bỏng, hết sức bức súc ở Việt Nam. Mặc dù chủ
trương tiến hành CPH DNNN đã được đưa ra và thực hiện từ lâu, song đến nay
tiến độ thực hiện còn rất chậm, ngay cả khi Chính phủ giao chỉ tiêu CPH cụ thể
cho từng Bộ, ngành, địa phương. Chính vì vậy việc nghiên cứu về mặt lí luận,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn CPH DNNN trong và ngoài nước thời gian qua để
tìm ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
không chỉ góp phần thúc đẩy quá trình CPH mà còn góp phần lí giải định hướng
đổi mới DNNN và kinh tế Nhà nước nói chung.
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, DNNN trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng và phức tạp. Nó giữ vai
trò quan trọng, quyết định và không thể thiếu được trong phát triển kinh tế ở tất
cả các nước nhất là các nước đang phát triển. Các nhà kinh tế đã chứng minh
được rằng điều kiện để phát triển kinh tế đất nước là phải tăng được lượng cung
về lương thực, thực phẩm bằng cách trực tiếp sản xuất hoặc có thể nhập khẩu từ
các nước khác nếu không thể sản xuất hoặc không có lợi thế trong sản xuất nông
nghiệp. Tuy có vai trò quan trọng như vậy, nhưng lâu nay nông nghiệp vẫn được
coi là ngành sản xuất kém hiệu quả, vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, rủi ro
lớn. Vì vậy, sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp không hấp dẫn được nhiều
thành phần kinh tế tham gia đầu tư, cho nên việc tồn tại của kinh tế Nhà nước
trong lĩnh vực nông nghiệp là yêu cầu khách quan không chỉ vai trò của nông
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
8
nghiệp với sự phát triển của nền kinh tế mà còn là sự phát triển của hàng triệu hộ
nông dân.
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp do Nhà
nước thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu, là pháp nhân kinh
tế hoạt động theo phát luật, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước
giao.Từ khái niệm cho ta thấy những đặc trưng của kinh tế Nhà nước:
+ Là một tổ chức được Nhà nước thành lập bằng cánh đầu tư vốn (100%
hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối) để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước
giao.
+ DNNN do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong doanh nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nước.
+ DNNN có tư cách pháp nhân vì nó hội tụ đủ 4 điều kiện để trở thành pháp
nhân theo quy định của pháp luật (được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành
lập; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức khác
và tự chụi trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật một cách độc lập)
+ DNNN là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn nghĩa là nó tự chịu
trách nhiệm về nợ và cá nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi tài sản do doanh
nghiệp quản lí.
1.2. Vị trí vai trò của DNNN trong nông nghiệp
Trong nông nghiệp chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế mang tính chất
hỗn hợp, đa dạng và đan xen của nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực sản xuất
và dịch vụ, nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng tồn tại và phát triển trong
mối liên hệ hợp tác, liên kết cạnh tranh cùng nhau phát triển phù hợp với qui định
pháp luật. Trong đó, thành phần kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp luôn có vai
trò đầu tầu, định hướng phát triển để xây dựng một nền nông nghiệp phát triển
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
9
bền vững đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng nên của xã hội đối với các sản
phẩm nông nghiệp và không làm giảm khả năng cho sản phẩm trong tương lai.
Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp hiện nay có vị trí và vai trò chủ yếu sau.
- Định hướng, tạo tiềm lực cho Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết đối với
nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà
nước quyết định quỹ đạo phát triển của nông nghiệp nông thôn, đảm bảo duy trì
cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự can thiệp của kinh tế
Nhà nước bằng tiềm lực kinh tế của mình cũng như một số công cụ pháp luật làm
cho nền kinh tế thị trường hoạt động được thông suốt, tạo lập những cân đối lớn
theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà bản thân kinh tế thị trường không thể tự
điều tiết được. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp là lực lượng xung kích trong
việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Để thực
hiện vai trò của mình thì bản thân kinh tế Nhà nước phải đủ mạnh, có thực lực
thật sự để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Chúng ta không thể định hướng
nền kinh tế bằng các công cụ phi kinh tế, bằng ý chí chủ quan và ý chí chính trị.
- Kinh tế Nhà nước nắm giữ các hoạt động quan trọng của nông nghiệp:
Nông nghiệp là ngành cung cấp những sản phẩm tối cần thiết cho nhu cầu của
con người, thiếu những sản phẩm này còn người không thể tồn tại và phát triển
được. Những sản phẩm của nông nghiệp cho dù khoa học ngày nay rất phát triển
nhưng cũng chưa thể tạo ra sản phẩm thay thế. Đối với nước ta nông nghiệp càng
có vai trò quan trọng hơn khi hơn 70% dân số nước ta vẫn hoạt động trong nông
nghiệp. Trong nông nghiệp có những lĩnh vực rất nhạy cảm chỉ cần một sự tác
động nhỏ là có thể ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời
sống của hàng triệu hộ nông dân. Những lĩnh vực như vậy không thể để cho các
thành phần kinh tế khác kiểm soát được mà Nhà nước phải quản lí, kiểm soát
chẳng hạn như sản xuất giống, phân bón, thuốc thú ý, hoạt động xuất nhập khẩu,
thức ăn gia súc, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn… Tuy nhiên cũng không
nên hiểu cứng nhắc là Nhà nước phải độc quyền trong lĩnh vực này mà nên hiểu
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
10
Nhà nước kiểm soát hoạt động này, kết hợp cùng với các thành phần kinh tế khác
phối hợp hoạt động sao cho có hiệu quả cao nhất.
- Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp có vai trò hỗ trợ kinh tế hợp tác,
kinh tế trang trại, kinh tế hộ kinh doanh có hiệu quả, phải là đòn bẩy trong xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đưa công nghệ vào sản xuất, phát triển công
nghệ chế biến để tiêu thụ nông sản, phải phát huy được vai trò là trung tâm công
nghiệp dịch vụ, trung tâm chuyển giao công nghệ, trung tâm văn hoá. Hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp khi cần thiết. Kinh tế Nhà nước phải
là đầu tầu trong việc đưa nông nghiệp ra khỏi tình trạng sản xuất tự túc, tự cấp
tiến lên sản xuất hàng hoá, phải nắm giữ cho được đại bộ phận các mặt hàng chủ
lực thiết yếu cho đời sống, điều tiết và bình ổn giá cả có lợi cho nông dân.
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và CTCP
2.1. Khái niệm cổ phần hoá
CPH DNNN là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ DNNN (doanh nghiệp
đơn sở hữu) sang Công ty cổ phần(CTCP) (doanh nghiệp đa sở hữu) đồng thời
chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo luật DNNN sang doanh nghiệp hoạt
động theo các quy định về CTCP trong luật doanh nghiệp. Do vậy, các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh cũng có sự chuyển biến từ Nhà nước độc quyền sang hoạt
động theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường tuân theo các quy luật như cung
cầu, giá cả, cạnh tranh…
Trong quá trình CPH, tài sản của Nhà nước được chuyển đổi sở hữu cho
nhiều đối tượng khác nhau bao gồm: các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân
trong và ngoài nước, Nhà nước cũng giữ lại một tỷ lệ cổ phần cho chính mình ở
doanh nghiệp đó. Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ đơn
sở hữu sang đa sở hữu.
Với những đặc trưng như vậy, giải pháp CPH là giải pháp quan trọng nhất
trong công cuộc cải cách DNNN đang diễn ra hiện nay; giải tỏa được những khó
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
11
khăn cho ngân sách Nhà nước, khuyến khích người lao động đóng góp tích cực
và có trách nhiệm sức lực, trí tuệ, vốn của họ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Nói một cách ngắn gọn CPH là giải pháp khắc phục những
vấn đề khó khăn trong khu vực kinh tế Nhà nước.
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần
Công ty cổ phần với tính cách là kết quả của việc CPH DNNN là công ty
được thành lập trên cơ sở hợp tác của nhiều cá nhân bằng cách phát hành và bán
cổ phiếu có mệnh giá bằng nhau. Lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các
cổ đông theo số lượng cổ phần mà mỗi cổ đông là chủ sở hữu.
- Vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau
- CTCP có tư cánh pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu
hạn, cổ đông chỉ chịu tránh nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của
phát luật về chứng khoán.
3. Những đặc điểm cơ bản của CPH trong nông nghiệp
CPH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là giải pháp trung tâm
để sắp xếp và đổi mới hoạt động của kinh tế Nhà nước. Các DNNN trong nông
nghiệp hầu hết không nằm trong danh mục những DNNN cần nắm giữ 100% vốn
hoặc những DNNN cần nắm cổ phần chi phối. Vì vậy, số lượng các doanh
nghiệp nông nghiệp cần phải CPH là rất lớn. Để có thể chuyển nhanh các doanh
nghiệp này sang hoạt động theo hình thức CTCP thì cần phải nghiên cưú kĩ
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
12
những đặc điểm kinh tế kĩ thuật riêng có của các doanh nghiệp nông nghiệp mà
có cách làm cho phù hợp.
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ
trọng lớn trong giá trị của doanh nghiệp.
Khác với các ngành kinh tế khác trong nông nghiệp đất đai có vị trí đặc biệt
quan trọng nó vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động. Trong nông
nghiệp đất đai là tài sản vô giá, không có đất đai thì không có hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nông nghiệp. Điểm đặc biệt của loại tư liệu sản xuất này là nếu
biết sử dụng, cải tạo, bảo vệ hợp lí thì chúng chẳng những không bị hao mòn,
chất lượng xấu đi, mà còn tốt hơn tức là độ phì của đất tăng lên. Cho nên diện
tích đất đai thì có hạn nhưng sức sản xuất của đất đai thì không có giới hạn.
Trong nông nghiệp giá trị của đất đai được xác định theo độ mầu mỡ của đất tức
khả năng sinh lời của đất. Chính vì vậy khi xác định giá trị đất đai trong nông
nghiệp không chỉ căn cứ vào diện tích bề mặt mà quan trọng hơn là phải căn cứ
vào sức sản xuất (khả năng cho sản phẩm) của đất trong tương lai. Trong nông
nghiệp giá trị đất đai thường chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong giá trị doanh
nghiệp nên làm nẩy sinh những khó khăn khi CPH. Bởi vì nếu tính giá trị đất đai
vào giá trị doanh nghiệp khi CPH sẽ đẩy giá trị doanh nghiệp lên rất cao trong
khi đất đai chưa thể phát huy vai trò sinh lời ngay. Giá trị doanh nghiệp cao làm
sao có thể hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp để sản xuất kinh
doanh như vậy rất khó cho CPH trong nông nghiệp. Nếu giá trị đất đai không
tính vào giá trị doanh nghiệp CPH thì Nhà nước sẽ mất đi một khoản thu và tạo
ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá thực
tế rất dễ nẩy sinh tiêu cực.
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân viên còn gặp nhiều khó khăn.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
13
Đầu tư vào nông nghiệp thường là đầu tư dài hạn cần nhiều vốn, khả năng
sinh lời thấp rủi ro cao do sản xuất nông nghiệp phải gắn với đất đai và điều kiện
tự nhiên. Kết quả của sản xuất phải thông qua sinh trưởng và phát triển của cây
trồng và vật nuôi. Giá của sản phẩm nông nghiệp có tính biến động lớn và ngày
càng giảm so với giá của hàng công nghiệp. Chính vì sản xuất kém hiệu quả cho
nên nông nghiệp sẽ không mấy hấp dẫn với các nhà đầu tư vì không một nhà đầu
tư nào lại bỏ tiền vào một lĩnh vực kinh doanh chứa nhiều rủi ro mà hiệu quả lại
không cao trong khi họ có thể lựa cho được cơ hội đầu tư tốt hơn. Hiệu quả kinh
doanh thấp còn là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khó khăn trong đời
sống kinh tế cán bộ công nhân viên và những người cung cấp nguyên liệu cho
doanh nghiệp. Với thu nhập như hiện nay thì chỉ đủ trang trải những chi phí tối
cần thiết cho cuộc sống làm sao tạo được tích luỹ. Vì vậy khi CPH nguy cơ
người lao động không mua được cổ phần và nằm ngoài quá trình CPH là rất lớn
cho dù Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi. Nếu như người lao động không
mua được cổ phần thì mục tiêu CPH có đạt được không, đời sống của người lao
động có được cải thiện không, người lao động có thực sự là chủ doanh nghiệp
không.
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học
Ngoài những tài sản như máy móc thiết bị, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất
…trong nông nghiệp còn có những tài sản có nguồn gốc sinh học như vườn cây
lâu năm, súc vật sinh sản. Điều đặc biệt của những tài sản này là chúng sinh
trưởng phát triển theo những quy luật nhất định không phụ thuộc vào ý trí chủ
quan của con người. Trong quá trình sử dụng tài sản này không bị khấu hao, có
nhiều trường hợp giá trị đào thải lại lớn hơn giá trị ban đầu. Vì vậy trong quá
trình CPH liệu có thể xác định giá trị tài sản này như những tài sản khác không
khi mà giá trị hiện tại của nó không chỉ phụ thuộc vào hiện trạng mà còn phụ
thuộc rất lớn vào khẳ năng cho sản phẩm trong tương lai. Khả năng sinh lời trong
tương lai thì khó ai có thể xác định chính xác khi nông nghiệp luôn chứa đựng
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
14
nhiều rủi do. Như vậy, công tác định giá các doanh nghiệp nông nghiệp sẽ gặp
khó khăn hơn so với doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác.
4. Sự cần thiết CPH DNNN trong nông nghiệp
Trong quá khứ sự hình thành và phát triển của DNNN trong nông nghiệp đã
khẳng định được vị trí vai trò là đầu tầu kinh tế của nó không chỉ đối với nông
nghiệp nói riêng mà còn cho cả nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
đóng vai trò trung tâm trong khoa học kĩ thuật, các doanh nghiệp đã kết hợp với
các doanh nghiệp làm dịch vụ kĩ thuật, các Viện và các Trung tâm nghiên cứu
thực nghiệm để sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Các doanh nghiệp là cầu nối
giúp các địa phương chuyển giao khoa học công nghệ cho các thành phần kinh tế
khác. Theo thống kê đến năm 1986 cả nước có 475 doanh nghiệp nông nghiệp
sản xuất, hành trăm doanh nghiệp hoạt động dịch vụ kĩ thuật. Các doanh nghiệp
sản xuất đã quản lí và sử dụng 1,2 triệu ha đất tự nhiên trong đó chủ yếu là đất
nông nghiệp. Thu hút khoảng 37 vạn lao động. Hệ thống các doanh nghiệp nông
nghiệp được phân bố rộng khắp trên mọi miền của đất nước. Tuy nhiên trong giai
đoạn hiện nay khi trình độ của lực lượng sản xuất đã được cải thiện đáng kể mà
theo như Mác thì “quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất”. Vì vậy, đã đến lúc cần phải “xã hội hoá” vấn đề sở hữu,
chuyển từ sở hữu đơn nhất sang sở hữu tập thể đó là yêu cầu khách quan. Sự
thành lập một cánh tràn lan các DNNN chỉ chú ý đến số lượng không quan tâm
đến chất lượng đã dẫn đến sự hoạt động hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước
thể hiện:
- Quản lí các doanh nghiệp theo cơ chế tập trung bao cấp dẫn đến bộ máy
quản lí cồng kềnh nhưng hoạt động không hiệu quả, Nhà nước can thiệp quá sâu
vào công việc nội bộ của các doanh nghiệp trong khi lại không chịu trách nhiệm
về kết quả hoạt động của doanh nghiệp đã làm giảm tính chủ động, tăng tính ỷ lại
trông chờ vào Nhà nước.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
15
- Do được Nhà nước bao cấp nên các DNNN không có ý thức tiết kiệm làm
lãng phí nguồn lực của Nhà nước, làm tăng chi phí sản xuất, hàng hoá làm ra
không có sức cạnh tranh.
Bảng 1: Giá một số sản phẩm sản xuất trong nước so với các sản phẩm nhập
khẩu (quý I năm 1999)
Đơn vị: USD/tấn
Tên sản phẩm Giá xuất xưởng Giá nhập khẩu Giá xuất xưởng cao hơn(%)
Xi măng 50-60 40-50 20-50
Đường RS 360-400 260-300 20-50
Thép xây
dựng
300 260-280 10-12
Phân URE 160-180 110-125 30-40
Nguồn: Tạp chí nghin cứu kinh tế số 254/7/1999
- Do tình trạng trạng độc quyền của các DNNN dẫn đến tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, các DNNN ỷ lại trông vào sự bảo hộ của Nhà nước, các
thành phần kinh tế khác bị kìm kẹp làm cho lực lượng sản xuất không phát triển
được nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế ngày càng hiện rõ.
- Do hoạt động không hiệu quả nên các DNNN là gánh nặng cho ngân sách.
Hằng năm ngân sách Nhà nước phải chi một khoản không nhỏ đề bù lỗ và duy trì
hoạt động của các DNNN trong khi nhiều lĩnh vực khác như y tế, giáo dục lại
không nhận được sự đầu tư cần thiết. Trong 3 năm 1997-1999, ngân sách Nhà
nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng, trong đó có
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
16
6.482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp, 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ, hỗ trợ cho
các doanh nghiệp. Ngoài ra Nhà nước còn miễn giảm thuế 2.288 tỷ đồng, xoá nợ
1.088 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng cho vay tín dụng
ưu đãi 8.685 tỷ đồng. Nhưng đáng chú ý là việc này không mang lại hiệu quả
tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước ít hơn phần Nhà nước hỗ trợ cho
doanh nghiệp. Điều này không chỉ tăng thâm hụt ngân sách nhà nước mà còn tạo
ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong đầu tư phát triển kinh tế.
Đổi mới sắp xếp lại hoạt động của các DNNN là yêu cầu khách quan phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta và xu thế của thời đại. Có nhiều biện
pháp để sắp xếp đổi mới hoạt động của DNNN như giao, khoán, bán, cho thuê
nhưng CPH là giải pháp có nhiều ưu điểm hơn cả.
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức cá nhân trong
và ngoài nước để phát triển kinh tế.
Vốn là điều kiện tồn tại và phát triển cho mỗi doanh nghiệp nói riêng và cho
toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hiện nay các DNNN nói chung và các DNNN
trong nông nghiệp nói riêng đang đứng trước thực trạng là gần như không có vốn
lưu động để hoạt động. Số vốn lưu động mà các doanh nghiệp có thể tự chủ được
chỉ chiếm 10 – 30% để đảm bảo cho hoạt động của mình các doanh nghiệp phải
thường xuyên vay của các ngân hàng Thương mại. Hiện nay vốn vay các ngân
hàng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu thường xuyên của các doanh
nghiệp, các doanh nghiệp cũng không dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn này do
thủ tục vay vốn hiện nay còn rất rườm rà. Thiếu vốn là nguyên nhân cơ bản làm
giảm hiệu quả của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp thì
thiếu vốn trong khi các công nhân và nông dân có nguồn vốn dư thừa nhưng
chưa biết đầu tư vào đâu để đem lại hiệu quả cao nhất. Đa số vốn này dùng để
tích trữ dưới dạng vàng hoặc ngoại tệ một số ít dành cho gửi tiết kiệm, chỉ có một
phần nhỏ dùng cho hoạt động đầu tư kiếm lời là đầu tư vào thị trường bất động
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
17
sản. Như vậy là có mâu thuẫn người có thể sử dụng vốn có hiệu quả thì không có
vốn trong khi đó người có vốn lại không biết đầu tư vào đâu. CPH là giải pháp
tốt để giải quyết tốt mâu thuẫn trên. CTCP có ưu thế là có thể huy động từ những
nguồn vốn lớn từ các ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính đến những
nguồn vốn nhỏ lẻ của công nhân, nông dân. Do vậy CTCP có thể huy động vốn ở
trình độ xã hội hoá cao hơn so với các ngân hàng. Khả năng huy động vốn của
CTCP sẽ được nâng lên khi thị trường chứng khoán nơi diễn ra hoạt động mua
bán cổ phiếu được hình thành và phát triển.
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay được trang bị máy móc từ nhiều
nguồn khác nhau như mua mới, chuyển giao, viện trợ… nhưng hầu hết các máy
móc hiện nay các doanh nghiệp đang sử dụng đã rất lạc hậu được sản xuất từ
những năm 50-60 của thế kỉ trước. So với các nước trên thế giới thì công nghệ
hiện nay của ta đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ cá biệt có những doanh nghiệp sử dụng
máy móc đã lạc hậu từ 4-5 thế hệ. Theo một cuộc điều tra của Viện bảo hộ lao
động vào giữa năm 1999 thì trên 70% số máy móc đang sử dụng đã khấu hao hết,
50% đã được tân trang, 38% số máy móc nằm trong tình trạng chờ thanh lí. Với
công nghệ như vậy làm sao ta có thể tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh
ngay trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài nguy cơ
mất thị trường ngày càng hiện rõ. Thực tế hiện nay giá các mặt hàng nông sản
chế biến của ta hiện nay chỉ bằng 70-80% giá sản phẩm cùng loại của các nước
trong khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta lại sắp trở
thành thành viên của APTA và WTO nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì
không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. CPH đưa người lao động lên làm
chủ, có quyền quyết định mọi hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
18
của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ cho nên để tồn tại và
phát triển họ phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô, giảm giá thành tăng sức
cạnh tranh.
4.3. Nâng cao tiềm lực của kinh tế Nhà nước
Qua bán cổ phần Nhà nước đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ
người lao động trong doanh nghiệp, trong dân cư để đầu tư phát triển. Tại hơn
1000 doanh nghiệp đã CPH tính đến hết ngày 20/11/2003 Nhà nước đã thu hồi
được hơn 4000 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính
sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Vốn và tài sản Nhà nước
trong các CTCP không chỉ được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Hàng năm
Nhà nước thu được lợi tức từ cổ phần Nhà nước tại CTCP, các khoản lãi do
người lao động vay mua cổ phiếu, các khoản thuế từ CTCP. Bên cạnh đó hàng
năm Nhà nước không phải mất một khoản hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ cho các doanh
nghiệp đã CPH.
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước trong nông nghiệp
Việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình chuyển quản lí Nhà nước từ trực
tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ pháp luật, chính sách; thúc đẩy củng cố
nâng cao hiệu lực quản lí Nhà nước, nâng cao trình độ, năng lực quản lí của đội
ngũ các bộ. Quyền kinh doanh đã được chuyển giao cho doanh nghiệp nên doanh
nghiệp có quyền ra mọi quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh,
Nhà nước chỉ tham gia như một cổ đông của công ty.
4.5 Tạo ra động lực mới trong quản lí doanh nghiệp
CPH DNNN đã biến doanh nghiệp thành có chủ, những người trực tiếp điều
hành và lao động trong chính doanh nghiệp. Quyền lợi của họ gắn với sự thành
bại của doanh nghiệp, vì thế tất cả các thành viên đều rất quan tâm đến công việc
của mình, lao động tích cựu với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo phong
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
19
phú. Những biểu hiện mới này hầu như không tồn tại trong doanh nghiệp trước
khi CPH. Các CTCP hoạt động theo luật công ty trong đó Đại hội đồng cổ đông
có quyền quyết định phương hướng của công ty cũng như giám sát hoạt động của
Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành. Người lao động đồng thời là cổ đông
có quyền yêu cầu lãnh đạo doanh nghiệp trình bầy trước Đại hội những vấn đề về
thu chi của doanh nghiệp, có quyền thắc mắc về hiệu quả quản lí…Hơn nữa, do
sự thay đổi về cơ chế tổ chức, vai trò trách nhiệm của các bộ phận, các tổ chức
quần chúng được phân định rõ ràng, công đoàn có chức năng độc lập với người
quản lí điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, các ý kiến đóng góp từ phía nào đều
được nghiêm túc lắng nghe…Bên cạnh việc quản lí tập trung không khí sinh hoạt
dân chủ thực sự được cải thiện ở CTCP.
5. Những chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH
và quá trình thực hiện
5.1. Những chủ trương chính sách
Chủ trương CPH DNNN đã được hình thành từ cuối những năm 80. Tại
điều 22 của Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng
nay là Chính phủ đã ghi “Bộ Tài chính nghiên cứu và tổ chức làm thí điểm việc
mua bán cổ phần ở một số xí nghiệp (Quốc doanh) và báo cáo lên Hội đồng bộ
trưởng vào cuối năm 1998”. Đó là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhưng có
lẽ hơi sớm so với điều kiện cụ thể lúc đó bởi vì:
- Những tiêu cực, yếu kém của khu vực Quốc doanh chưa bộc lộ một cách
đầy đủ, như là một đòi hỏi bức bách cần phải giải quyết.
- Những hiểu biết về kinh tế thị trường, đặc biệt là vấn đề CPH của chúng ta
còn ít ỏi chưa đủ sức triển khai. Vì thế chủ trương đúng đắn đó đã bị lãng quên.
Đến năm 1989 tức hai năm sau Chính phủ lại có Quyết định số 143/HĐBT
ngày 10/05/1989 về thí điểm CPH một số DNNN cùng với việc sắp xếp lại khu
vực kinh tế Quốc doanh. Khác với lần trước là các doanh nghiệp chưa hiểu hết ý
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
20
đồ của Chính phủ, dưới chưa chuyển biến kịp với trên, lần này ngược lại trên còn
dè dặt thì dưới lại rất hăng hái. Trong khi các văn bản của Chính phủ đang dừng
lại ở mức dự thảo chưa có quyết định chính thức chưa có hướng dẫn nhưng bên
dưới thì đã triển khai. Kết quả là cuộc thí điểm đã không rút ra được kết luận
chính xác và đầy đủ, các doanh nghiệp thì CPH theo ý đồ riêng của từng doanh
nghiệp để đối phó với thực trạng lúc đó là các DNNN đang rơi vào tình trạng làm
ăn thua lỗ, thiếu vốn nghiêm trọng và thất nghiệp tăng lên.
Quyết định 202/HĐBT ngày 8/6/1892 của Hội đồng bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về thí điểm chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP kèm theo đề án
triển khai. Theo chỉ thị 202 CT CPH nhằm 3 mục tiêu:
- Thứ nhất là, phải chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông
để nâng có hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Thứ hai là, huy động được một lượng vốn lớn trong và ngoài nước để phát
triển kinh tế
- Thứ ba là, CPH là tạo điều kiện cho người lao động thực hiện quyền làm
chủ của mình.
Qúa trình triển khai thực hiện thí điểm CPH DNNN đã được kiểm tra và
tổng kết, bước đầu đã đem lại những ưu điểm và kết quả tốt như đời sống của
người lao động được cải thiện đáng kể, đóng góp cho ngân sách tăng. Bên cạnh
đó còn nhiều khó khăn vướng mắc nhất là trong cơ chế chính sách cần tiếp tục
được hoàn thiện.
Chỉ thị số 84/TTG ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc xúc
tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đa dạng hoá hình
thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”.
Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 của Bộ Tài chính, Thông tư số
99/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
21
Hướng dẫn về lao động và chính sách với người lao động trong thí điểm chuyển
một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP”.
Chỉ thị số 685-TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc
đẩy triển khai CPH DNNN.
Sau 6 năm từ 1992-1998 mặc dù Chính phủ và các cơ quan chức năng đã
ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn thực hiện chủ trương
CPH nhưng xem ra CPH vẫn dậm chân tại chỗ. Trong 4 năm đầu từ 6-1992 đến
6-1996 mới CPH được 10 doanh nghiệp, hai năm tiếp theo mới CPH được 28
doanh nghiệp. Đứng trước thực trạng trên cần phải có chính sách CPH thông
thoáng hơn hấp dẫn hơn để đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới DNNN trong đó
CPH là giải pháp trung tâm. Đáp ứng yêu cầu đó ngày 29/6/1998 Chính phủ đã
ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP “Về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành CTCP”. Khác với các văn bản trước đây, Nghị định mới của Chính phủ đã
có sự chuyển biến căn bản tạo ra sức hấp dẫn thực sự với doanh nghiệp và người
lao động, thủ tục trình tự CPH khá rõ ràng, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho
các ngành, địa phương, doanh nghiệp dễ triển khai
5.1.1. Nghị định 44/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau:
* Hình thức CPH:
Theo điều 7 của Nghị định 44/1998/NĐ-CP thì CPH được tiến hành theo
các hình thức sau đây:
+ Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát
hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp
+ Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
+ Tách một bộ phận của doanh nghiệp để CPH
+ Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để
chuyển thành CTCP
* Quy trình CPH: gồm 4 bước
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
22
Bước 1: Chuẩn bị CPH
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp được thành lập do Giám đốc làm
trưởng ban, Kế toán trưởng làm uỷ viên thường trực, các trưởng phòng ban kế
hoạch, sản xuất kinh doanh, tổ chức cán bộ, kĩ thuật làm uỷ viên. Ban đổi mới
quản lí có trách nhiệm tuyên truyền giải thích cho người lao động trong doanh
nghiệp mình những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước để người lao
động được biết và tổ chức thực hiện.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp phải chuẩn bị ngay các tài liệu về: hồ
sơ pháp lí thành lập doanh nghiệp, tình hình công nợ, tài chính, nhà xưởng, vật
kiến trúc mà doanh nghiệp đang quản lí, các loại vật tư hành hoá ứ đọng, kém
phẩm chất và đưa ra hướng giải quyết
Lập danh sách người lao động của doanh nghiệp đến thời điểm quyết định
CPH: số người lao động, số năm công tác của từng người. Dự kiến số người
nghèo được mua cổ phần theo giá ưu đãi của Nhà nước trả dần trong 10 năm
Dự toán chi phí CPH cho đến khi hoàn thành đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất.
Bước 2: Xây dựng phương án CPH
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp tổ chức kiểm kê tài sản, vật tư tiền
vốn, công nợ của doanh nghiệp. Căn cứ trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp và
kết quả kiểm kê đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan
quản lí vốn để giải quyết những vướng mắc về tài chính và dự kiến đề nghị giá trị
thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp lập phương án CPH doanh nghiệp và
dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP.
- Phổ biến hoặc niêm yết công khai các dự kiến phương án trên để mọi
người lao động cùng biết và thảo luận
- Tổ chức Đại hội công nhân viên để lấy ý kiến về dự thảo phương án, bàn
phương hướng biện pháp cụ thể để có cơ sở hoàn thành phương án.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
23
- Hoàn thiện phương án trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoàn
thiện dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP để trình Đại hội đồng cổ
đông xem xét quyết định
Bước 3: Duyệt và triển khai phương án CPH
Ban quản lí đổi mới tại doanh nghiệp:
- Mở sổ đăng kí mua cổ phiếu của các cổ đông để đăng kí mua tờ cổ phiếu
tại kho bạc Nhà nước
- Thông báo công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp cho đến thời
điểm CPH
- Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương
bán cổ phần, tổ chức bán cổ phần của doanh nghiệp cho các cổ đông
-Trưởng Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp triệu tập Đại hội cổ đông lần thứ
nhất để bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm sát, thông qua điều lệ tổ chức và hoạt
động của CTCP.
Bước 4: Ra mắt CTCP, đăng kí kinh doanh
- Giám đốc, Kế toán trưởng doanh nghiệp với sự chứng kiến của Ban đổi
mới quản lí doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lí vốn và tài sản Nhà nước
bàn giao cho Hội đồng quản trị CTCP: lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách hồ
sơ cổ đông và toàn bộ các hồ sơ tài liệu sổ sách của doanh nghiệp.
- Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp bàn giao những công việc còn lại
(nếu có) cho Hội đồng quản trị và công bố giải thể từ ngày kí biên bản bàn giao
- Hội đồng quản trị của CTCP hoàn tất những công việc còn lại
Nghị định 44/NĐ-CP đã tạo ra sự đột biết tác động tích cực đến quá trình
CPH nhưng nó vẫn còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn gây cản trở đến tiến độ CPH,
vì vậy cần phải có Nghị định mới ra đời thay thế. Ngày 19/6/2002 Chính phủ ra
Nghị định số 64/2002/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 44/1998/NĐ-CP.
5.1.2. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
24
1. Mục tiêu và đối tượng CPH
* Mục tiêu:
Nghị định này quy định rất rõ ràng các mục tiêu CPH theo đúng tinh thần
NQTW3 theo đó CPH nhằm 3 mục tiêu chính:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp;
tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người
lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lí năng động cho doanh nghiệp
để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội trong và ngoài nước để đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông,
tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp: đảm bảo hài hòa lợi
ích Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động.
* Đối tượng CPH:
Đối tượng CPH là các DNNN và các đơn vị phụ thuộc của các doanh
nghiệp không thuộc đối tượng mà Nhà nước cần phải nắm 100% số vốn, được
xác định theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN quy định tại quyết định số
58/2002/QĐ-TTg không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các đơn vị phụ thuộc chỉ được tiến hành CPH khi các đơn vị này có đủ điều kiện
hoạch toán độc lập và không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
2. Đối tượng mua cổ phần và quyền mua cổ phần lần đầu
Khắc phục những tồn tại của các quyết định trước về giới hạn mua cổ phần
lần đầu của các tổ chức và các cá nhân làm ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng
huy động vốn của toàn xã hội. Nghị định mới ra đời đã chính thức xoá bỏ mức
khống chế về quyền mua cổ phần lần đầu đối với các nhà đầu tư trên cơ sở đảm
bảo các quy định về số cổ đông tối thiểu và cổ phần chi phối tại các doanh
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
25
nghiệp mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối. Riêng các nhà đầu tư nước ngoài
được mua cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp
hoạt động trong những ngành nghề do Thủ tướng Chính phủ quy định
3. Xử lí những tồn tại về tài chính trước khi CPH
Những quy định trước đây về vấn đề này đã gây nhiều cản trở cho việc CPH
DNNN chính vì Nghị định lần này quy định vấn đề này rất rõ ràng
* Về tài sản:
Đối với doanh nghiệp có nhiệm vụ phải chủ động kiểm kê, phân loại và xử
lí những tài sản không cần dùng hoặc không thể sử dụng được theo cơ chế hiện
hành. Trong trường hợp đến thời điểm CPH mà doanh nghiệp vẫn chưa xử lí
xong vấn đề này thì không tính giá trị tài sản này vào tài sản doanh nghiệp CPH
và uỷ quyền cho CTCP tiếp tục quản lí và sử dụng số tài sản này. Đối với tài sản
được đầu tư bằng quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp thì được chuyển
giao cho người lao động trong doanh nghiệp quản lí và sử dụng thông qua tổ
chức công đoàn của doanh nghiệp (đối với tài sản thuộc công trình phúc lợi) hoặc
chuyển thành cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp CPH (đối với
những tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh). Đối với tài sản
đem góp vốn kinh doanh với nước ngoài, nếu doanh nghiệp cổ phần kế thừa hoạt
động kinh doanh thì toàn bộ tài sản đem góp vốn liên doanh sẽ được tính vào giá
trị doanh nghiệp đem CPH, trong trường hợp doanh nghiệp không tiếp tục kế
thừa hoạt động kinh doanh thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền để giải quyết,
xử lí vốn góp liên doanh theo hướng mua lại vốn góp liên doanh hoặc chuyển số
vốn này cho doanh nghiệp khác có điều kiện quản lí sử dụng làm đối tác mới
trong liên doanh.
* Về công nợ:
Nghị định mới quy định rõ hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc
xử lí các khoản nợ đọng của doanh nghiệp trước khi CPH. Cho phép doanh
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
26
nghiệp bán nợ hoặc chuyển nợ thành cổ phần thông qua kết quả đấu giá bán cổ
phần hoặc theo thoả thuận giữa doanh nghiệp với các chủ nợ nhưng giá cổ phần
không được thấp hơn giá bán cổ phần cho các đối tượng khác ngoài doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ quá
hạn được nhà nước hỗ trợ thông qua các giải pháp như khoanh nợ, giãn nợ, xoá
nợ đọng, hỗ trợ vốn đầu tư đối với các khoản nợ ngân sách và nợ thuế, được
khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đọng, giảm lãi suất vay ngân hàng hoặc được chuyển
thành vốn góp cổ phần, được dùng thu nhập trước thuế đến thời điểm CPH để bù
lỗ các khoản lỗ luỹ kế của các năm trước. Trong trường hợp đến thời điểm CPH
vẫn chưa xử lí xong nợ và tồn đọng thì được giảm trừ vào giá trị phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp CPH.
4. Cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp
Cơ chế định giá doanh nghiệp khi CPH được hoàn thiện theo hướng gắn với
thị trường: Bổ sung thêm các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp là khả năng
sinh lời của doanh nghiệp để tạo điều kiện để tính đúng tính đủ, nhanh chóng
trong việc xác định giá trị doanh nghiệp tại thời điểm CPH. Bổ sung thêm quy
định về tính giá trị quyển sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo đó trước mắt
vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giá đất theo những quy định hiện hành. Riêng
đối với diện tích Nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng
thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Giá trị
đất được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm
quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư cho đất như: chi phí đền bù,
giải phóng mặt bằng, san lấp, xây dựng cơ sở hạ tầng…Tuỳ theo đặc điểm ngành
nghề hoạt động sản xuất kinh doanh và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp
mà cho phép áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để định giá doanh nghiệp
CPH.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
27
Sửa đổi phương pháp xác định lợi thế kinh doanh: nếu như trước đây giá trị
lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ sở so sánh tỷ suất
lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp trước khi CPH với các DNNN khác cùng
ngành nghề trên cùng địa bàn. Nay theo Nghị định số 64 giá trị lợi thế kinh
doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề đều được xác định
dựa trên cơ sở: mức chênh lệch của tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước
bình quân 3 năm liền kề trước khi CPH với lãi suất đầu tư Trái phiếu của Chính
phủ ở thời điểm gần nhất (được coi là hoạt động ít rủi do nhất) nhân với giá trị
phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ở thời điểm định giá. Trong trường hợp
doanh nghiệp có thương hiệu được thị trường chấp nhận thì giá trị lợi thế kinh
doanh do thương hiệu mang lại được xác định theo giá trị thị trường. Nghị định
này cũng bổ sung thêm quy chế về tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp. Trước
đó, hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp chỉ được thực hiện theo cơ chế Hội
đồng. Nay bổ sung thêm cơ chế thực hiện giá trị doanh nghiệp CPH thông qua
Công ty Kiểm toán và các tổ chức kinh tế có chức năng định giá. Tuỳ theo điều
kiện cụ thể, cơ quan quyết định CPH có thể lựa chọn và quyết định việc định giá
doanh nghiệp theo Hội đồng hay thuê các tổ chức trung gian.
5. Bán cổ phần phát hành lần đầu
Xác định ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp và
người cung cấp nguyên liệu đã đăng kí, sau đó mới bán cổ phần cho người bên
ngoài. Tại Nghị định số 64 cán bộ quản lí tại DNNN từ phó phòng nghiệp vụ trở
nên không bị khống chế mức cổ phần ưu đãi bình quân trong doanh nghiệp.
Người lao động trong doanh nghiệp CPH đều có quyền và nghĩa vụ như nhau
dựa theo số năm tháng đã làm việc tại khu vực Nhà nước trước khi CPH.
Quy định việc bán cổ phần ra bên ngoài phải thông qua các Tổ chức Tài
chính trung gian do cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH lựa chọn và bằng
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
28
hình thức đấu thầu, đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành theo hướng dẫn của Bộ Tài
chính.
Bổ sung quy định về thời hạn cho việc bán cổ phần ở các DNNN CPH là 2
tháng kể từ ngày có quyết định chuyển đổi mà không bán hết thì cơ quan có thẩm
quyền quyết định CPH, quyết định việc bán cổ phần rộng rãi ra bên ngoài.
6. Quản lí và sử dụng tiền thu từ bán phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp
CPH
Số tiền thu được từ bán phần vốn Nhà nước sau khi trừ đi các khoản chi phí
được chuyển về quỹ hỗ trợ từ Trung ương đến các Tỉnh, Thành phố và các doanh
nghiệp thuộc Tổng công ty tuỳ thuộc vào các cấp quản lí doanh nghiệp.
Số tiền thu được sẽ được sử dụng theo thứ tự ưu tiên như sau:
* Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất
việc ở thời điểm CPH và thời điểm đã chuyển sang CTCP
* Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo lại lao động
* Đầu tư cho các doanh nghiệp đã CPH để đảm bảo tỷ trọng chi phối của
Nhà nước đối với loại hình DNNN cần nắm giữ cổ phần chi phối
* Hỗ trợ các DNNN gặp khó khăn trong việc CPH
7. Chính sách với doanh nghiệp CPH và người lao động
Nghị định mới bổ sung cho phép doanh nghiệp CPH không bắt buộc phải sử
dụng hết lao động hiện có tại doanh nghiệp vào thời điểm CPH
Có chính sách ưu đãi mới về thuế cho các doanh nghiệp CPH “Doanh
nghiệp nhà nước chuyển thành CTCP được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định
của luật khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng cho doanh nghiệp thành lập
mới (không phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư)”.
Cho phép doanh nghiệp đang thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan
Nhà nước và các DNNN khác vẫn được duy trì các hợp đồng hoặc được ưu tiên
mua lại theo giá thị trường. Các doanh nghiệp CPH có tính giá trị đất vào giá trị
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
29
doanh nghiệp thì được sử dụng đất để nhượng bán, thế chấp, đem góp vốn liên
doanh…
Đối với người lao động được mua cổ phần ưu đãi ghi tên và được chuyển
nhượng sau ba năm. Không khống chế tổng giá trị ưu đãi theo % trên giá trị vốn
Nhà nước thực tế. Đối với lao động dôi dư trong quá trình CPH thì được giải
quyết chế độ theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002
8. Thẩm quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp
Chuyển toàn bộ quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp CPH
cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân
Thành phố, Tỉnh trực thuộc Trung ương quyết định, kể cả trường hợp giá trị sổ
sách đến 500 triệu đồng. Nếu quá mức này thì phải được Bộ Tài chính chấp nhận
bằng văn bản.
9. Về thẩm quyền phê duyệt phương án và quyết định chuyển đổi DNNN thành
CTCP.
Nghị định này quy định chuyển giao toàn bộ thẩm quyền phê duyệt phương
án CPH và quyết định chuyển DNNN thành CTCP cho Bộ trưởng các bộ, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương; đối với các
doanh nghiệp CPH mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần đặc biệt thì báo cáo Thủ
tướng Chính phủ quyết định.
Đi kèm với Nghị định 64 còn có các văn bản khác như Thông tư số
76/2002/TT- BTC, Thông tư số 15/2002/TT- LĐTBXH để hướng dẫn thi hành
những điều đã quy định tại Nghị định 64
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện CPH
Từ năm 1992 Đảng và Chính phủ bắt đầu thực hiện một chủ trương lớn là
CPH DNNN. Qua nhiều giai đoạn hoàn thiện đến nay kế hoạch tổng thể về sắp
xếp và đổi mới đã được định hình và dự tính phải hoàn thiện trong năm 2005.
Theo các đề án sắp xếp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sẽ có 1866
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
30
doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn và 2923 doanh nghiệp thực hiện
sắp xếp, chuyển đổi sở hữu dưới các hình thức CPH, giao khoán, bán, cho thuê,
giải thể, phá sản. Năm 2003 đã kết thúc chúng ta hãy nhìn lại chặng đường CPH
chúng ta đã đi qua xem chúng ta đã làm được gì, những gì chưa làm được và cần
phải làm gì trong thời gian tới.
5.2.1. Những thành tựu đạt được:
+ Tiến độ CPH bước đầu được cải thiện: Đã hơn 10 năm trôi qua kể từ khi
có chủ trương chuyển DNNN thành CTCP. Tính đến ngày 20/11/2003 cả nước
đã CPH được 12641 doanh nghiệp kết quả cụ thể các năm như sau:
Bảng 2: số doanh nghiệp đã CPH (tính đến ngày 20/11/03)
Sè doanh nghiÖp ®· CPH
0 2 1 3 5 7
100
250
212 204
148
312
0
50
100
150
200
250
300
350
90
-9
2 93 94 95 96 97 98 99
20
00
20
01
20
02
20
/11
/03
Sè DN
Nguồn: tạp chí kinh tế phát triển số 5/2004
1 Nguồn tạp chí kinh tế phát triển số 5/2004
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
31
Trong đó từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996 CPH được 5 doanh nghiệp, từ
tháng 5/1996 đến tháng 6/1998 CPH được 25 doanh nghiệp, sáu tháng cuối năm
số doanh nghiệp được CPH tăng đột biến lên gần 100 đơn vị. Có sự tăng đột biến
như vậy là do ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP
với nhiều nội dung thông thoáng hơn so với các văn bản trước. Năm 1999 là năm
có số lượng doanh nghiệp được CPH lớn nhất 250 doanh nghiệp nhưng rất tiếc là
tốc độ tăng trong các năm tiếp theo không được duy trì mà liên tục giảm từ 212
doanh nghiệp năm 2000 xuống 204 doanh nghiệp năm 2001 và chỉ còn 148
doanh nghiệp năm 2002 để khắc phục tình trạng chậm trễ trong CPH ngày
19/6/2003 Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP “về chuyển DNNN thành
CTCP” thay thế cho nghị định số 44/1998. Nghị định này như một luồng gió mới
thổi vào tạo ra sức hấp dẫn của CPH, những vướng mắc trong quá trình CPH đã
được gỡ bỏ vì vậy chỉ trong 11 tháng đầu năm 2003 chúng ta đã CPH được 312
doanh nghiệp.
+ Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt:
Hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực, toàn diện kể cả các doanh
nghiệp trước CPH bị thua lỗ, cụ thể như sau1
- Doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25%
- Lợi nhuận trước thuế hằng năm tăng bình quân trên 26% có công ty đạt
gấp 2-3 lần so với trước khi CPH.
- Nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân trên 30% cá biệt có những doanh
nghiệp tăng gấp đôi
- Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi suất tiết kiệm, bình quân 1-2% trên tháng
- Thu nhập hàng tháng của người lao động tăng 20%
- Số lao động thu hút thêm vào các CTCP tăng 20%
1 Số liệu lấy từ tạp chí Lý luận chính trị số 1/2001
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
32
+ Hình thành cơ chế phân phối mới ở các DNNN CPH theo hướng phát huy
các nguồn lực của kinh tế thị trường
Nếu như trước kia việc phân phối do Nhà nước quy định mang nặng tính
chất bình quân chủ nghĩa thì nay sau khi chuyển sang CTCP người lao động mua
cổ phần và trở thành cổ đông của công ty, họ vừa là người chủ doanh nghiệp vừa
là người lao động làm thuê. Ngoài tiền lương hưởng theo sự đóng góp vào công
ty người lao động còn có thêm một khoản thu nhập nữa đó là lợi tức cổ phần.
Không những thu nhập của người lao động tăng lên mà phần thu của Nhà nước
cũng tăng do thu được thuế và lợi tức từ cổ phần Nhà nước.
Trong các DNNN CPH đã hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát vốn,
giảm các chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, nâng cao
khả năng cạng tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Hình thức phân
phối theo cổ phiếu đã hấp dẫn không ít nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp điều này
không chỉ thể hiện sự ủng hộ của toàn xã hội đối với CPH mà còn tăng thêm
nguồn vốn, góp thêm kiến thức, kinh nghiệm sự giám sát hoạt động của doanh
nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
5.2.2. Một số vấn đề còn vướng mắc
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì quá trình CPH vẫn còn nhiều
vướng mắc, bất cập dẫn đến kết quả CPH chưa được theo ý muốn.
+ Tốc độ CPH tiến hành còn chậm
Trong giai đoạn thí điểm, 4 năm đầu chúng ta mới CPH được 5 doanh
nghiệp. Trong giai đoạn mở rộng và thúc đẩy quá trình CPH, tuy CPH có diễn ra
nhanh hơn nhưng vẫn chưa đạt được tốc độ mong muốn. Theo dự kiến đến năm
1999 CPH xong 400 DNNN, đến hết năm 2000 sẽ chuyển khoảng 20% tổng số
DNNN (khoảng 1200 doanh nghiệp) thành CTCP, nhưng đến ngày 30/6/2000 cả
nước mới CPH được 450 doanh nghiệp tức 7% tổng số DNNN. Nếu tính đến hết
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
33
20/11/2003 cả nước mới CPH được 1264 doanh nghiệp, trong khi theo kế hoạch
riêng năm 2003 chúng ta sẽ CPH 896 doanh nghiệp nhưng có lẽ chúng ta cũng
chỉ CPH được hơn 300 doanh nghiệp.
+ Các doanh nghiệp đã CPH đa số là doanh nghiệp nhỏ
Trong 460 doanh nghiệp đã CPH trong giai đoạn 1992- 2000 vốn Nhà nước
được đánh giá lại khi CPH là 1920 tỷ đồng. Khi CPH Nhà nước giữ lại 762 tỷ
đồng, phần còn lại 1128 tỷ đồng bán cho người lao động trong và ngoài doanh
nghiệp. Như vậy tính bình quân vốn của các doanh nghiệp đã CPH là 4,17 tỷ
đồng. Doanh nghiệp đã CPH có số vốn Nhà nước lớn nhất là 92,5 tỷ đồng (CTCP
chế biến mía đường Lam Sơn), số vốn nhỏ nhất là 32 triệu đồng (CTCP chế biến
chiếu cói xuất khẩu Kim Sơn). Các doanh nghiệp CPH có số vốn quá nhỏ, không
phù hợp với loại hình CTCP là loại hình chỉ phát huy thế mạnh khi doanh nghiệp
có quy mô sản xuất lớn.
+ Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội để phát triển doanh nghiệp đạt kết
quả chưa cao.
Theo những quy định mới nhất là mục tiêu của CPH là nhằm thu hút mọi
nguồn vốn của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để phát triển kinh tế.
Thực tế hiện nay trong số hơn 1000 doanh nghiệp đã CPH thì số doanh nghiệp
thu hút vốn từ các cổ đông ngoài doanh nghiệp chỉ chiếm chưa tới 50%. Không
những thế số doanh nghiệp có cổ đông ngoài tham gia thì số vốn góp của các cổ
đông này còn khiêm tốn chỉ vào khoảng 1-20%. Số doanh nghiệp có cổ đông
nước ngoài chỉ đếm trên đầu ngón tay và tỷ lệ góp vốn của họ cũng rất thấp.
+ CPH mang tính nội bộ
Quá trình CPH một doanh nghiệp từ phương án, các bước thực hiện cho đến
những người tham gia đều có tính nội bộ cao. “Toàn bộ quá trình CPH không
được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiếu những quy định
bắt buộc phải công bố công khai từng bước CPH như định giá doanh nghiệp, đấu
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
34
giá cổ phần, thời điểm bán cổ phần”, nhất là đối với những doanh nghiệp nhiều
lợi thế kinh doanh. Danh sách người mua cổ phần được giữ kín cho đến khi bán
xong, kể cả sau khi đã hết cổ phần cũng không được tiết lộ. Tỷ lệ bán cổ phần
bán ra bên ngoài quá ít. Các cổ đông ngoài doanh nghiệp bị đối xử phân biệt về
giá và thường bị gây khó dễ cho các hoạt động chính đáng của họ. Quy định bán
cổ phiếu cho các cổ đông trong doanh nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo
giá được xác định, còn lượng cổ phiếu được bán ra bên ngoài được bán thông qua
đấu giá là điều không hợp lý. Giá cổ phiếu cần được xác định khách quan, qua
đấu giá và là giá chung. Việc giảm giá bao nhiêu phần trăm cho các đối tượng ưu
tiên phải làm công khai, minh bạch, tách hoàn toàn khỏi việc xác định giá. Có thể
tăng tỷ lệ cổ phần bán ra bên ngoài qua hình thức đấu giá, lấy mức giá đó làm
chuẩn để tính giảm giá cho các đối tượng được ưu đãi.
5.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên
* Khách quan
+ Trình độ phát triển sản xuất của nước ta còn thấp
+ Nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành và phát triển
+ Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lí sản xuất nhỏ
* Chủ quan
+ Nhận thức về vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường chưa thống
nhất
+ Chưa làm tốt việc tuyên truyền về chủ trương CPH DNNN của Đảng và
Chính phủ
+ Đặt lợi ích cục bộ trên lợi ích quốc gia
+ Tâm lí sợ mất việc làm của đại bộ phận người lao động trong DNNN, vốn
đã quen dựa vào cơ chế bao cấp
+ Việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng, cơ chế chính sách
còn chưa thống nhất, thiếu tính thực tế thủ tục phiền hà.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
35
5.2.4. Phương hướng và giải pháp trong thời gian tới
Theo kế hoạch đề ra đến năm 2005 chúng ta phải hoàn thành việc sắp xếp
và đổi mới hoạt động của các DNNN. Tính đến hết năm 2003 chúng ta mới chỉ
hoàn thành một nửa công việc vậy là trong 2 năm cuối chúng ta phải làm công
việc bằng 12 năm qua điều này quả không dễ. Vậy trong thời gian tới chúng ta
phải làm gì để hoàn thành nhiệm vụ mục tiêu đề ra:
- Xây dựng kế hoạch CPH cụ thể giao nhiệm vụ cho từng Bộ, địa phương,
Tổng công ty
- Tăng cương công tác tập huấn về CPH cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến
nghiệp vụ của các cơ quan quản lí và doanh nghiệp, đồng thời đẩy mạnh công tác
tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp và người dân trong việc CPH doanh nghiệp.
- Rà soát lại tình hình tài chính của các doanh nghiệp, những doanh nghiệp
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong danh sách CPH nhưng thua lỗ mất
hết vốn Nhà nước thì kiên quyết thực hiện phá sản
- Tổ chức các hội nghị cả nước hoặc từng vùng để trao đổi kinh nghiệm
trong quá trình thực hiện CPH và đề xuất kiến nghị sửa đổi bổ sung các chính
sách cho phù hợp với thực tiễn.
- Hoàn thiện quy trình CPH theo hướng nhanh gọn chính xác đặc biệt là
trong công tác xác định giá trị doanh nghiệp.
- Thúc đẩy sự hoạt động của thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các
CTCP có đủ điều kiện để niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, từ đó
sẽ có tác dụng trở lại đối với việc CPH DNNN.
6. Kinh nghiệm CPH ở một số nước trên thế giới
CPH DNNN là vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu
kinh nghiệm CPH DNNN của các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có điều
kiện tương đồng như: Trung Quốc, Nga, các nước ASEAN để tìm kiếm kinh
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
36
nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Tuy
CPH DNNN mang đặc thù riêng của mỗi nước.
6.1. CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc và Việt Nam không chỉ gần gũi nhau về địa lí mà còn có những
tương đồng về mô hình kinh tế Kế hoạch hoá tập trung trước đây và các định
hướng chuyển đổi hiện nay, vì vậy xem xét CPH ở Trung Quốc là cần thiết cho
việc CPH ở Việt Nam.
* Quan điểm CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin
để tiến hành chuyển hoá DNNN; coi CPH là bộ phận hữu cơ trong tổng thể đổi
mới DNNN, luôn khẳng định đây là con đường tìm kiếm hiệu quả kinh doanh
chứ không phải là tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau; đổi mới DNNN là
khâu then chốt của cải cách kinh tế, coi tiền đề của cải cách là xây dựng đồng bộ
cơ chế thị trường.
* Mục tiêu CPH ở Trung Quốc
- Mở rộng hình thức sở hữu tạo cơ sở cho sự phát triển của kinh tế thị
trường
- Điều chỉnh lại vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước nâng cao năng lực
quản lí và hiệu quả kinh doanh của DNNN.
- Định hướng năng lực hành chính của Nhà nước giảm bớt tham nhũng và
thói quen dựa dẫm vào Nhà nước, thay đổi mối quan hệ giữa những người quản lí
hành chính với những người quản lí kinh tế.
- Thương mại hoá hành vi quản lí tạo ra chế độ khuyến khích với các nhà
quản lí, thay đổi lực lượng lao động, nâng cao thu nhập. Tăng nguồn thu để trả
nợ và cho các mục đích khác, cân bằng ngân sách.
* Hình thức CPH
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
37
- Nhà nước cùng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm giữ
cổ phần để hình thành nên CTCP
- Bán cổ phần cho người lao động trong nội bộ doanh nghiệp
- CPH DNNN bằng cách phát hành công khai cổ phần ra xã hội
* Phương pháp CPH
Tiến hành CPH DNNN theo thứ tự doanh nghiệp có quy mô nhỏ trước quy
mô vừa và lớn sau cùng với hình thành tập đoàn CTCP, coi trọng hình thức
CTCP mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối các doanh nghiệp lớn, ngành kinh tế
quan trọng.
* Quy trình CPH
- Xác định danh sách các DNNN có đủ điều kiện CPH (kinh doanh có lãi
không nằm trong diện DNNN cần phải nắm giữ 100% vốn)
- Xác định thực tế tài sản doanh nghiệp
- Tuyên truyền quảng cáo hoàn thiện chính sách để mọi người nắm được
thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định mua cổ phần.
- Lựa chọn phương thức bán cổ phần rộng rãi cho công chúng hay bán cho
các đối tượng đã xác định trước, mức giá bán cổ phiếu ưu đãi
- Giải quyết các vấn đề hậu CPH
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
38
6.2. CPH ở một số nước ASEAN
Các nước ASEAN có đặc điểm chung là hầu hết nền kinh tế các nước đều
có tốc độ tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Các DNNN hoạt động theo cơ
chế thị trường là chính chỉ có một bộ phần nhỏ là hoạt động công ích chính vì
vậy hiệu quả kinh doanh được đặt lên hàng đầu, nếu các DNNN mà hoạt động
không hiệu quả thì sẽ bị giải thể hoặc phá sản. Mục đích chính của CPH ở các
nước ASEAN là: nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế Nhà nước nói riêng,
của toàn bộ nền kinh tế nói chung, xây dựng lại cơ cấu kinh tế theo hướng ưu
tiên kinh tế tư nhân, tạo môi trường kinh doanh tích cực đảm bảo công bằng giữa
các thành phần kinh tế xoá bỏ một phần lối kinh doanh độc quyền kém hiệu quả
của kinh tế Nhà nước, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Singapore và
Malaisia là hai nước tương đối thành công trong CPH DNNN.
Tại Singapore Nhà nước đã sớm soạn thảo một chương trình CPH có hệ
thống phù hợp với đặc điểm tình hình trong nước, một Uỷ ban tư nhân hoá khu
vực kinh tế Nhà nước được thành lập đã đề ra chương trình CPH hoàn chỉnh dự
định kéo dài trong 10 năm. Các DNNN làm ăn có lãi được chọn là đối tượng
CPH trước tiên. Thành công nhất trong CPH ở Singapore là đã không để xẩy ra
tình trạng thâm hụt ngân sách, vẫn duy trì được mức tăng trưởng và tích luỹ cao.
Do vậy mà hầu hết các mục tiêu CPH Singapore đề ra đã đạt được.
Malaisia đã thay đổi các chính sách kinh tế theo đó lấy cải cách khu vực
kinh tế Nhà nước làm trọng tâm. Chuyển khoảng 20% số DNNN hiện có sang
CTCP hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm cơ cấu lại DNNN theo hướng
hoạt động có hiệu quả, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, hạ mức nợ của
Chính phủ. Tháng 5/1995 Malaisia đã CPH thành công 120 DNNN trong đó có
những doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực then chốt như: hàng không, điện lực, bưu
chính viễn thông… Malaisia đã chấp nhận xoá bỏ một phần sở hữu Nhà nước
theo quan niệm DNNN trong một số ngành thuộc hạ tầng cơ sở hoặc dịch vụ
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
39
trước đây tư nhân không đầu tư nên Nhà nước phải chịu trách nhiệm. Còn bây
giờ khu vực kinh tế tư nhân đã đủ sức vươn tới những lĩnh vực này thì nên thu
hẹp phần DNNN không chỉ các xí nghiệp làm ăn thua lỗ mà còn cả những xí
nghiệp làm ăn có lãi.
Qua kinh nghiệm của các nước ta thấy CPH không bao giờ dễ dàng song
nhiều nước đã thành công. Điều kiện của chúng ta hiện nay là tương đối thuận
lợi, vì vậy phải tranh thủ đẩy mạnh CPH, phải mạnh dạn trong suy nghĩ và hành
động và có quyết tâm cao thì mới đạt được kết quả như ý muốn.
6.3. Những kinh nghiệm quốc tế về cổ phần hoá có thể áp dụng trong việc cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước chế biến thực phẩm xuất khẩu
Chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu là cơ sở hết sức quan trọng để phát
triển nông nghiệp. Nó góp phần nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu, tạo
điều kiện thuận lợi cho bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Thực tế hiện
nay là ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu của ta còn rất yếu kém. Muốn đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu thì phải nâng cao được năng lực của các nhà máy chế
biến, CPH có lẽ là giải pháp tốt nhất hiện nay dành cho các doanh nghiệp chế
biến thực phẩm xuất khẩu. Trong điều kiện nước ta hiện nay khi thị trường chứng
khoán chưa phát triển, khu vực kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp còn chiếm tỷ
trọng lớn thì nên học tập kinh nghiệm CPH ở các nước có điều kiện tương đồng.
Tuy nhiên sự vận dụng kinh nghiệm này cũng cần chú ý đến tính đặc thù của mỗi
nước để sàng lọc và thử nghiệm kĩ càng trong điều kiện nước ta. Xuất phát từ
điều kiện thực tế hiện nay của các DNNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm xuất
khẩu và kinh nghiệm CPH của các nước trên thế giới cho chúng ta những bài học
kinh nghiệm có thể áp dụng được.
+ CPH những DNNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm xuất khẩu phải
nằm trong chương trình tổng thể về sắp xếp và đổi mới hoạt động của các
DNNN.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
40
+ CPH những doanh nghiệp có quy mô nhỏ trước quy mô vừa và lớn sau.
+ Điểm mấu chốt của thành công trong CPH các doanh nghiệp chế biến
thực phẩm xuất khẩu là phải có sự tham gia của cán bộ quản lí doanh nghiệp.
Đây chính là cơ sở để thu hút thêm các nhà đầu tư mới.
+ Nhà nước không nhất thiết phải nắm cổ phần chi phối trong các doanh
nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu.
+ Không CPH những doanh nghiệp có công nợ quá lớn mà nên áp dụng
hình thức phá sản
+ CPH phải tạo ra được mối quan hệ mật thiết giữa CTCP, người lao động
và người cung ứng nguyên liệu.
+ Sau CPH Chính phủ không nên can thiệp trực tiếp vào hoạt động của
doanh nghiệp mà cần tạo điều kiện cho nhà quản lí có đủ quyền tự chủ trong việc
ra quyết định và vận hành doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
41
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CPH Ở CÔNG
TY THỰC PHẨM XUẤT KHẨU BẮC GIANG
I. CHỦ TRƯƠNG CỦA TỈNH BẮC GIANG VỀ CPH DNNN
Bắc Giang là tỉnh miền núi phía Bắc cách không xa các trung tâm công
nghiệp và đô thị lớn của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Với
tổng diện tích tự nhiên 3816,7 km2 bao gồm 3 vùng địa lí là miền núi, trung du và
đồng bằng. Với những đặc thù khác nhau cùng nhiều nguồn tài nguyên khoáng
sản và cảnh quan du lịch đa dạng. Bên cạnh đó Bắc Giang còn có hệ thống điện,
thông tin liên lạc và mạng lưới giao thông rộng khắp đặc biệt là quốc lộ 1A chạy
qua nối liền Bắc Giang với các Tỉnh bạn và khu công nghiệp Đình Trám. Những
nhân tố này tạo nên sự đa dạng phong phú và là tiền đề quan trọng cho sự phát
triển công nghiệp của tỉnh Bắc Giang. Tính đến hết năm 1999 Bắc Giang có 54
DNNN do tỉnh quản lí và 12 doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn. Vốn
bình quân của các DNNN là 1,2 tỉ đồng, số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và hoà
vốn chiếm trên 50%, số doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ chiếm khoảng 20% số
còn lại lúc lỗ, lúc lãi. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN Bắc Giang
đã thực hiện sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN trong đó CPH là giải
pháp trung tâm.
1. Mục tiêu của tỉnh Bắc Giang về sắp xếp và đổi mới DNNN trên
địa bàn Tỉnh quản lí
+ Tỉnh chủ trương giao khoán bán cho thuê, giải thể, phá sản và CPH toàn
bộ số DNNN do Tỉnh quản lí hiện nay.
+ Trong quá đổi mới và sắp xếp thì hướng ưu tiên là CPH vì xét thấy đây là
phương pháp có nhiều ưu điểm hơn cả. Thứ nhất là vẫn giữ được doanh nghiệp,
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
42
thứ hai là đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động, thứ ba không gây
những xáo trộn lớn về kinh tế xã hội.
+ Đổi mới DNNN để đưa công nghiệp Bắc Giang trở thành đầu tầu kinh tế
thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề khác đặc biệt là sự phát triển
của nông nghiệp nông thôn.
+ Đổi mới DNNN để nâng cao hiệu quả kinh tế phát huy hết tiềm năng lợi
thế của Tỉnh để phát triển kinh tế xã hội.
2. Những biện pháp thực hiện
Thứ nhất, Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể để chỉ đạo
công tác CPH. Các văn bản được ban hành nhằm mục đích làm cho các cấp các
ngành, từ cán bộ lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên phải thực sự nắm bắt được
và có sự chuyển biến về nhận thức trong việc xác định ý nghĩa, vị trí vai trò của
kinh tế Nhà nước và sự cần thiết khách quan phải CPH DNNN. Tỉnh chủ trương
đẩy mạnh việc sắp xếp đổi mới DNNN bằng cách tháo gỡ khó khăn, tổ chức
tuyền truyền giáo dục chủ trương CPH, Tỉnh cũng áp dụng các biện pháp mạnh
đối với những doanh nghiệp có đủ điều kiện mà cố ý kéo dài không thực hiện
CPH theo chủ trương của Tỉnh. Nhưng cũng không nóng vội chủ quan duy ý chí
mà CPH gượng ép bắt buộc để tránh hậu quả sau này.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tổ chức tuyên truyền học tập chủ trương chính
sách CPH của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh. Vận động khuyến khích tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện chuyển thành CTCP. Các phương tiện
thông tin đại chúng của Tỉnh như đài phát thanh và truyền hình, báo mở nhiều
chuyên mục bám sát các chủ trương chính sách CPH để tuyên truyền giải thích
cho mọi đối tượng. Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp của Tỉnh thường xuyên
phối hợp với các cơ sở để đến từng doanh nghiệp giải thích về cơ chế chính sách,
giới thiệu điển hình về các doanh nghiệp đã CPH thành công mang lại hiệu quả
cho cả người lao động và doanh nghiệp.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
43
Thứ ba, công tác xây dựng phương án, tổ chức thực hiện phương án sắp xếp
và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc tập trung
dân chủ từ cơ sở, ngành, huyện, tỉnh. Sở chuyên ngành phải tự mình phân tích
đánh giá, tự phân loại và xếp hạng các doanh nghiệp làm cơ sở cho Ban quản lí
đổi mới doanh nghiệp của Tỉnh tổng hợp phân tích đánh giá, tổ chức hội thảo lấy
ý kiến của các cấp, các ngành sau đó mới hoàn chỉnh phương án và có quyết định
cuối cùng tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và chủ trương của
Tỉnh.
Thứ tư, để đẩy nhanh và khuyến khích các tiến độ CPH các DNNN nằm
trên địa bàn Tỉnh quản lí. Tỉnh đã thực hiện đúng đủ các chế độ chính sách ưu đãi
dành cho người lao động và doanh nghiệp thực hiện CPH. Ngoài các chính sách
hỗ trợ từ cấp trên Tỉnh còn có chính sách hỗ trợ riêng như miễn giảm thuế đất,
trợ cấp cho người nghèo mua cổ phiếu, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc sắp xếp
và sử dụng lao động…
Thứ năm, Tỉnh đã thực hiện chế độ giao ban định kì hành tuần, Ban quản lí
đổi mới doanh nghiệp của Tỉnh kịp thời giải quyết những khó khăn vướng mắt
cho từng doanh nghiệp, kiểm tra đôn đốc tiến độ của từng cấp từng ngành kịp
thời xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh uỷ và Trung ương đối với các vấn đề vượt quá
thẩm quyền giải quyết của Ban đổi mới.
Thứ sáu, Tỉnh Bắc Giang đã tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên ở các
doanh nghiệp thực hiện CPH được hưởng tối đa các quyền lợi mà Nhà nước cho
phép. Đồng thời Tỉnh cũng thành lập quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH để hỗ trợ về tài
chính cho các doanh nghiệp thực hiện CPH gặp khó khăn. Tỉnh cử các cán bộ
thuộc ngành tài chính xuống từng doanh nghiệp để hướng dẫn và giúp doanh
nghiệp đẩy nhanh tiến trình CPH.
Nhờ những biện pháp tích cựu trên trong những năm gần đây Bắc Giang
luôn là Tỉnh đi đầu trong công tác sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
44
Năm 2000 sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 103/1999/NĐ-CP Bắc Giang là
tỉnh tiên phong trong cả nước thực hiện bán DNNN cho tập thể người lao động
quản lí sau đó chuyển thành CTCP. Bước sang năm 2002 sau khi có Nghị quyết
TW 3 khoá IX Chính phủ và các ngành đã ban hành hành loạt các văn bản chính
sách thông thoáng về công tác CPH như Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Nghị định
số 44, Nghị định số 69 công tác CPH ở tỉnh Bắc Giang đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Trong năm 2003 và những tháng đầu năm 2004 đã thành lập được 16
CTCP. Tính đến hết ngày 16/1/2004 sau 5 năm thực hiện chuyển đổi hình thức
sở hữu DNNN tỉnh Bắc Giang đã chuyển song 29/57 doanh nghiệp tức 51% số
DNNN cao hơn mức trung bình của cả nước.
II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CỔ PHẦN HOÁ Ở CÔNG TY THỰC
PHẨM XUẤT KHẨU BẮC GIANG
1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty thực phẩm xuất
khẩu Bắc Giang
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty TPXK Bắc Giang tiền thân là Nông trường quốc doanh Lục Ngạn
được thành lập ngày 05/10/1963 theo Quyết định số 271/CP của Chủ tịch hội
đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Trải qua một thời gian dài phát
triển đến ngày 20/11/1991 Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Nghị quyết
số 338/HĐBT về sắp xếp lại DNNN, căn cứ vào Quyết định đó ngày 7/5/1992
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn) ra quyết định số 238/NN/TCBB/QĐ thành lập lại Nông
trường Lục Ngạn. Tháng12/1997 Nông trường đề nghị với Tổng công ty rau quả
Việt Nam (nay là Tổng công ty rau quả nông sản), Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn cho đổi tên doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh phù hợp với cơ
chế mới. Ngày 6/8/1998 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ra
Quyết định số 133/1999/QĐ/NN-TCCB về việc đổi tên và bổ sung ngành nghề
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
45
kinh doanh cho Nông trường. Theo Quyết định đó Nông trường Lục Ngạn được
đổi tên thành Công ty TPXK Bắc Giang.
Tên giao dịch quốc tế: BacGiang foodsufe export company
Trụ sở chính: xã Phượng Sơn huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang
1.2. Bộ máy tổ chức
Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy quản lí ở công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
1.3. Hoạt động chính của Công ty hiện nay
+ Sản xuất, chế biến, kinh doanh và xuất nhập khẩu trực tiếp: rau quả nông
sản, thực phẩm, đồ uống
+ Bán buôn, bán lẻ các mặt hàng nông sản thực phẩm nước giải khát
+ Nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty.
+ Dịch vụ tư vấn phát triển sản xuất, chế biến rau quả, nông lâm sản.
Giám đốc công ty
Phòng
Tổ
chức
hành
chính
Phòng
kinh
doanh
Phòng
tài vụ
Phó giám đốc
Phòng
nguyên
liệu
Phòng
quản lý
sản
xuất
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
46
+ Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
1.4. Nguồn lực hiện tại của Công ty
1.4.1. Vốn sản xuất
Tổng nguồn vốn của Công ty hiện nay là 22.290.299.610 đ trong đó:
+ Vốn cố định và đầu tư dài hạn là: 15.166.055.066 đ
+ Vốn ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn: 7.123.794.544 đ
Phân theo nguồn vốn:
+ Vốn của Nhà nước là: 8.944.231.937 đ
+ Vốn tự huy động: 13.346.067.673 đ
Trong đó:
- Vốn vay của người lao động trong doanh nghiệp là: 510.000.000 đ
- Vốn vay tín dụng trong nước dài hạn là : 7.813.573.129 đ
- Vốn vay trong nước ngắn hạn: 999.069.112 đ
Vốn khác: 3.023.425.432 đ
1.4.2 Tình hình về lao động
Hiện nay, ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang có 240 lao động trong
đó:
+ Lao động không xác định thời hạn là 68 người
+ Lao động có thời hạn từ 1- 3 năm là 172 người
Đây là lực lượng lao động thường xuyên tại Công ty, ngoài ra vào vụ sản
xuất vải là vụ sản xuất chính của Công ty còn hợp đồng với khoảng 700 công
nhân thời vụ.
Về trình độ của người lao động:
- Số lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 11 người
- Số lao động có trình độ trung và sơ cấp là 23 người
- Công nhân kĩ thuật là 139 người
- Lao động phổ thông là 67 người
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
47
1.4.3 Tình hình tài sản của doanh nghiệp
Bảng 3: Bảng kiểm kê tài sản cố định Công ty TPXK Bắc Giang
(tính đến ngày 31/12/2003)
Đơn vị: đồng
ST
T
Tên tài sản Nguyên giá Giá trị còn lại
A TSCĐ đang dùng 15.182.113.093 14.138.590.753
1 Nhà cửa kiến trúc 4.685.318.063 4.367.103.755
A Nhà xưởng sản xuất 2.477.491.801 2.438.001.020
B Nhà kho 1.679.727.441 1.489.738.760
C Nhà làm việc 283.685.327 251.127.708
D Vật kiến trúc 244.414.034 188.236.267
2 Máy móc thiết bị 10.496.794.490 9.771.486.998
A Máy móc động lực 310.946.571 201.024.614
B Máy móc thiết bị công tác 8.388.548.672 8.109.562.335
C Máy móc thiết bị dẫn truyền 587.321.099 566.164.574
D Thiết bị và phương tiện vận tải 1.155.317.059 834.793.196
E Máy móc thiết bị văn phòng 94.658.098 59.942.279
B TSCĐ không cần dùng 957.377.557 514.424.849
1 Thiết bị máy móc 279.037.094 57.165.634
2 Nhà cửa thuộc công trình 327 109.043.000 109.043.000
3 Nhà cửa thuộc công trình phúc lợi 219.133.148 26.854.215
4 Vật kiến trúc thuộc công trình 327 317.468.000 317.468.000
5 Vật kiến trúc thuộc công trìnhphúc
lợi
32.696.315 3.894.000
Tổng cộng A+B 16.139.490.650 14.653.015.602
Nguồn: Phòng tài vụ công ty TPXK Bắc Giang
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
48
1.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm
gần đây
Bảng 4: Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty những năm gần đây
Năm Sản lượng (tấn) Doanh thu (tỷ đồng) Lợi nhuận
(triệu đồng)
1998 423 6,8 0
1999 450 9,8 0
2000 827 8.5 30
2001 1100 9,5 50
2002 1138 11,3 86
2003 1341 13,4 150
2004(dự kiến) 2800 26 300
Nguồn: phòng quản lí sản xuất công ty TPXK Bắc Giang
2. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của công ty có ảnh hưởng đến
tiến trình CPH
CPH nhanh hay chậm ngoài việc phụ thuộc vào các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo của cấp trên còn phụ thuộc khá lớn vào các
đặc điểm kinh tế kĩ thuật của doanh nghiệp CPH. Khảo sát tại Công ty TPXK
Bắc Giang chúng ta sẽ thấy rõ điều này.
2.1. Vị trí địa lí của Công ty
Công ty TPXK Bắc Giang nằm trên địa bàn xã Phượng Sơn huyện Lục
Ngạn tỉnh Bắc Giang, cạnh quốc lộ 31 là tuyến đường giao thông huyết mạch của
huyện đồng thời là cầu nối giữa Công ty với các vùng nguyên liệu và nơi tiêu thụ
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
49
sản phẩm của Công ty. Công ty TPXK Bắc Giang lằm khá xa các trung tâm của
Tỉnh cũng như của các địa phương lân cận tạo nên những khó khăn trong thu
mua và vận chuyển nguyên liệu cũng như việc tiệu thụ sản phẩm do hao phí lớn,
chất lượng bị ảnh hưởng, tăng chi phí, tất cả điều này làm tăng giá thành sản xuất
sản phẩm của Công ty. Nằm trên địa bàn xã miền núi cũng gây khó khăn cho
Công ty trong việc thu hút nguồn lao động có trình độ cao mà con người là yếu tố
quan trọng nhất của mọi quá trình sản xuất. Bù lại vị trí này cũng mang nhiều
thuận lợi cho Công ty trong việc xây dựng, phát triển và thu mua nguyên liệu.
Điạ bàn Công ty hiện nay chính là vùng nguyên liệu Vải lớn nhất cả nước, vụ sản
xuất Vải cũng là vụ sản xuất chính của Công ty hàng năm chỉ chiếm khoảng 1/6
thời gian nhưng lại mang lại 1/3 tổng doanh thu cả năm của Công ty. Ngoài ra
việc quy hoạch vùng nguyên liệu Dứa ở Sơn Động với tổng diện tích 500 ha sẽ là
nguồn cung nguyên liệu Dứa chính trong tương lai cho Công ty. Việc đan xen
giữa thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng như thế nào đến việc CPH của Công ty.
Xét về lâu dài thì thuận lợi vẫn là chủ yếu do khi điều kiện kinh tế phát triển vấn
đề giao thông đi lại sẽ giải quyết được, điều kiện kinh tế xã hội sẽ được cải thiện.
Lúc đó lợi thế về vùng nguyên liệu sẽ là một lợi thế cạnh tranh chính của Công
ty. Điều này tác động thuận lợi đến CPH.
2.2. Đặc điểm về lao động
Công ty hiện nay có hơn 100 lao động bao gồm cả lao động không xác định
thời và cả lao động có xác định thời hạn. Trong số đó số lao động có trình độ đại
học, cao đẳng, công nhân kĩ thuật chiếm tỷ trọng nhỏ số còn lại chủ yếu là lao
động thủ công chưa qua đào tạo. Sự thiếu hụt lao động có chuyên môn tay nghề
đang là trở lực lớn cho Công ty khi tiến hành CPH. Khi chuyển thành CTCP tức
là thoát khỏi sự bảo hộ của Nhà nước phải đi bằng đôi chân của mình phải chấp
nhận cạnh tranh tranh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường. Vì vậy doanh
nghiệp cần phải có một đội ngũ cán bộ không những có trình độ chuyên môn tốt
mà còn phải am hiểu kinh tế thị trường phải năng động, phải nắm bắt được thời
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
50
cơ làm việc phải có trách nhiệm và có năng suất cao; đội ngũ công nhân phải
thành thạo công việc chuyên môn có tay nghề và làm việc có năng suất cao. Với
lực lượng lao động như hiện nay sẽ trở thành gắng nặng cho CTCP bởi vì cần
phải có thời gian cho người lao động làm quen với cơ chế mới, phải đào tạo lại
tay nghề…
2.3. Đặc điểm về ngành nghề kinh doanh
Kinh doanh trong nông nghiệp nói chung và trong chế biến nông sản nói
riêng đều có đặc điểm chung là chịu ảnh hưởng của các đặc điểm sản xuất nông
nghiệp. Công ty TPXK Bắc Giang là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực chế
biến nông sản nên nó cũng có những đặc điểm chung của kinh doanh trong nông
nghiệp.
+ Tính sinh lời của sản xuất kinh doanh của Công ty thấp các doanh nghiệp
khác trên cùng địa bàn.
+ Năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của cán bộ công nhân viên chỉ
đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Với mức thu nhập bình
quân hiện nay ở Công ty là khoảng 600.000đ/ tháng thì chỉ đủ trang trải cuộc
sống tối thiểu cho bản thân người lao động chứ không có khả năng hỗ trợ gia
đình và tạo tích luỹ.
+ Kinh doanh trong nông nghiệp có tính rủi ro cao và kém ổn định kể cả
kinh doanh chế biến nông sản bởi ngành này cũng phải sử dụng những sản phẩm
của nông nghiệp.
+ Giá cả các mặt hàng nông sản ngày càng bất lợi hơn so với các mặt hàng
công nghiệp điều này ảnh hưởng xấu đến khả năng thu hồi vốn đầu tư của Công
ty. Giá các mặt hành chủ lực của Công ty hiện nay là Dứa, Dưa chuột, Vải đang
có xu hướng giảm trong khi đó giá nguyên liệu liên tục tăng đặc biệt là nguyên
liệu Dứa trong những tháng gần đây tăng đột biến, Công ty phải sản xuất trong
tình trạng giá thành cao hơn giá bán vì hợp đồng đã được kí kết từ trước
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
51
+ Việc phải thường xuyên mua bán trực tiếp với các hộ nông dân cũng gây
khó khăn trong kinh doanh do không ổn định nhiều hợp đồng bị phá bỏ.
Do những đặc điểm như vậy nên tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty
cũng không mấy sáng sửa, lợi nhuận thấp, không ổn định gây khó khăn cho công
tác CPH.
2.4. Đặc điểm về bộ máy quản lí
Bộ máy quản lí của Công ty hiện nay rất cồng kềnh song hoạt động lại
không hiệu quả. Quy mô của Công ty tương đối nhỏ nhưng lại có đến 3 phòng
nguyên liệu mà tình trạng thiếu nguyên liệu vẫn xẩy ra thường xuyên. Phòng
kinh doanh của Công ty chỉ tồn tại dưới dạng hình thức, các mặt hàng của Công
ty chủ yếu dành để xuất khẩu nhưng các cán bộ trong phòng kinh doanh không ai
biết ngoại ngữ, trình độ vi tính rất hạn chế, nhiệm vụ hiện nay của phòng kinh
doanh là xuất hàng khi có yêu cầu và thanh toán tiền hàng. Với đội ngũ và cơ cấu
như vậy khi chuyển thành CTCP vấn đề tinh giảm bộ máy sẽ giải quyết ra sao.
Nếu giữ lại trình độ của họ không đáp ứng được còn nếu cho họ nghỉ thì sẽ xử lí
ra sao trong khi các cán bộ này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc CPH. Vì vậy
họ sẽ là sức ì trong việc đẩy mạnh CPH của Công ty.
3. Thực trạng quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc
Giang
3.1. Sự cần thiết phải tiến hành CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang
3.1.1. CPH nhằm thay đổi cơ chế quản lí: Sự thay đổi cơ chế quản lí được thể
hiện ở những mặt sau:
+ Cơ cấu tổ chức quản lí điều hành sản xuất kinh doanh ở Công ty thay đổi;
nếu trước đây Giám đốc có quyền quyết định gần như toàn bộ mọi hoạt đông của
Công ty nhưng khi đã là CTCP thì quyền đó sẽ nhường cho các cổ đông. Các cổ
đông thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Hội đồng quản trị cơ quan đại
diện cho quyền lực của các cổ đông
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
52
+ Nhà nước không còn là chủ duy nhất nữa mà nay Nhà nước cũng chỉ là
một cổ đông lớn. Thay vì sự can thiệp trực tiếp bằng các mệnh lệnh hành chính
bắt buộc Nhà nước cũng chỉ được thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua
những lá phiếu như những cổ đông khác và bằng các công cụ quản lí vĩ mô. Đây
là sự thay đổi có tính chất quyết định đối với sự hoạt động của CTCP.
+ Đội ngũ cán bộ trong Công ty trước đây có quyền lực rất lớn thì nay cũng
chỉ là người làm thuê tại CTCP vì vậy muốn tồn tại được họ phải nâng cao năng
lực, trình độ chuyên môn thích nghi với điều kiện mới sẽ không còn những Giám
đốc “há miệng chờ sung” thay vào đó là những Giám đốc năng động, nhiệt tình,
làm việc có tình thần trách nhiệm và hiệu quả cao. Bộ máy quản lí tại CTCP sẽ
được tinh giảm đến mức tối đa sao cho vẫn điều hành tốt mọi công việc mà chi
phí cho đội ngũ này là nhỏ nhất.
+ Sẽ không còn cảnh làm chủ hình thức của người lao động nữa mà thay vào
đó là những người chủ thực sự. Người lao động vừa là người làm công ăn lương
vừa là cổ đông trong Công ty. Do đó quyền lợi sẽ gắn liền với trách nhiệm buộc
người lao động phải có ý thức tiết kiệm, thường xuyên trau dồi kiến thức kinh
nghiệm làm việc với năng suất cao.
3.1.2. Xuất phát từ nhu cầu muốn huy động vốn của toàn thể cán bộ công
nhân viên trong công ty để phát triển sản xuất
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, doanh
nghiệp nói riêng. Vốn là điều kiện không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất
kinh doanh, thực chất quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình tuần hoàn về
vốn. Vốn từ hình thái tiền tệ chuyển thành các yếu tố đầu vào của sản xuất sau đó
các yếu tố sản xuất lại kết hợp với nhau tạo thành sản phẩm hàng hoá đem bán
thu lại vốn ban đầu cộng với một khoản lợi nhuận. Vốn cũng cần cho đầu tư mở
rộng sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá, vị thế và uy tín của doanh
nghiệp. Vì vậy, vốn và vấn đề huy động vốn có tính chất quyết định đến sự phát
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
53
triển kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Cơ chế bao cấp vốn cho
các DNNN kéo dài trong nhiều năm qua làm cho các DNNN thường ỷ lại, trông
chờ và dựa dậm vào nguồn vốn cấp phát của ngân sách và vốn vay của các ngân
hàng thương mại, chưa coi trọng việc huy động các nguồn vốn khác để phát triển
sản xuất kinh doanh. Sử dụng vốn nhà nước thường đi kèm với lãng phí, sử dụng
vốn không có hiệu quả, tình trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh là rất phổ
biến gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tại Công ty TPXK Bắc Giang tình trạng thiếu vốn xẩy ra triền miên, Công ty chỉ
chủ động được khoảng 10% vốn lưu động phục vụ cho hoạt động của mình số
còn lại phải huy động từ các nguồn khác trong đó chủ yếu là từ các ngân hàng
Thương mại, chỉ có một bộ phận nhỏ là huy động được từ cán bộ công nhân viên
trong Công ty. Việc không tạo đủ và chủ động được vốn gây cho Công ty không
ít khó khăn trong việc đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, thu mua
và quy hoạch vùng nguyên liệu, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên…CPH
sẽ là giải pháp tốt cho Công ty trong việc đẩy nhanh sự tích tụ và tập trung vốn
để đầu tư phát triển, mở rộng quy mô sản xuất. Việc huy động được vốn của
người lao động cũng như người sản xuất và cung ứng nguyên liệu đồng nghĩa với
việc nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn. Bởi họ chính là người chủ thực sự
của công ty, quyền lợi gắn với trách nhiệm, phân định rõ quyền của người sở hữu
tài sản, quyền của người sử dụng tài sản và quyền quản lí của Nhà nước. Chắc
chắn sau khi CPH với thế và lực mới Công ty sẽ phát triển tốt.
3.1.3. CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang là góp phần thực hiện chủ trương của
đảng và Nhà nước về sắp xếp và đổi mới các DNNN
Đặc điểm chung của các DNNN trong nông nghiệp hiện nay là đều không
thuộc diện các DNNN cần nắm giữ 100% vốn nên việc CPH những doanh nghiệp
này là cần thiết xuất phát từ nhu cầu của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp của nước ta trong những năm gần đây đã có
những bước tiến vượt bậc, từ một nước phải thường xuyên nhập khẩu lương thực
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
54
đến nay chúng ta hoàn toàn tự chủ được về lương thực hơn thế nữa hàng năm
chúng ta còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn lương thực trở thành nước xuất khẩu
gạo lớn thứ 2 trên thế giới. Ngoài mặt hàng gạo chúng ta còn có nhiều nông, lâm
sản có vị thế trên thị trường thế giới như cà phê, chè, hạt điều, hạt tiêu, cao su…
hàng năm giá trị xuất khẩu những mặt hàng này mang lại cho ta nhiều triệu đô la.
Nông nghiệp nước ta đang chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng
hoá quy mô lớn. Nước ta đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá quy mô lớn
như lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng; chè ở miền núi
phía Bắc; cà phê, cao su ở Tây Nguyên. Sản lượng nông sản hàng năm là rất lớn
cho nên việc phát triển công nghiệp bảo quản và chế biến các sản phẩm này đang
là yêu cầu cấp bách. Hiện nay công nghiệp chế biến của ta chủ yếu do các
DNNN nắm giữ, các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, phân
tán. Nên chủ yếu sản phẩm của ta phải xuất thô hoặc ở mức sơ chế các sản phẩm
tinh chế còn rất ít do vậy giá trị kinh tế mang lại không cao. Muốn phát triển sản
xuất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay phải đẩy mạnh công nghiệp chế biến
mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ tức là phải tăng năng lực và sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến hiện nay. Giải pháp tốt cho vấn đề này
là CPH các doanh nghiệp trong ngành chế biến.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
55
3.2 Quá trình thực hiện CPH
Quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang có thể khái quát theo sơ đồ
sau
Sơ đồ 2: Các bước thực hiện cổ phần hoá ở công ty TPXK Bắc Giang
Chuẩn bị cổ
phần hoá
Thành lập Ban đổi mới quản lí doanh nghiệp
Phổ biến tuyên truyền chủ trương chính sách
cổ phần hoá
Chuẩn bị các tài liệu phục vụ cho cổ phần
Triển khai cổ
phần hoá
Lập phương án giải quyết chính sách với
người lao động
Kiểm kê tài sản và xác định công nợ
Xác định giá trị doanh nghiệp giải quyết các
tồn đọng tài chính
Xác định phương án kinh doanh và lập dự
Thẩm định và
quyết định
Thẩm định phương án cổ phần hoá, giải
quyết các tồn đọng có liên quan
Quyết định chuyển DNNN thành CTCP
Thông báo và tổ chức bán cổ phiếu
Ra mắt Công
ty cổ phần
Chuẩn bị đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông
Hoàn tất các thủ tục hành chính cho Công
ty cổ phần
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
56
Nguồn: Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp
3.3. Những kết quả đạt được, những vướng mắc và những vấn đề đặt ra khi
thực hiện CPH
3.3.1. Những kết quả đạt được
+ Ban CPH của Công ty được thành lập để tuyên truyền, phổ biến, giải đáp
cho người lao động mọi thắc mắt liên quan đến chủ trương chính sách CPH của
đảng và Nhà nước.
Ban quản lí đổi mới của Công ty được thành lập do Giám đốc Công ty làm
trưởng ban kết hợp với các đoàn thể trong Công ty hướng dẫn, tuyên truyền, phổ
biến, giải thích cho người lao động mọi chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước và của Công ty về chính sách CPH đặc biệt là các chính sách liên quan đến
lợi ích của người lao động.
Sự đồng tình ủng hộ của người lao động trong việc CPH là yếu tố không thể
thiếu trong thành công của công tác CPH. Người lao động chỉ thực sự quan tâm
đến CPH khi mà CPH mang lại lợi ích cho họ nhiều hơn những gì họ phải từ bỏ
khi còn làm việc cho Nhà nước. Vấn đề khó cho ban quản lí đổi mới doanh
nghiệp là người lao động trong công ty trình độ nhận thức còn thấp, sự hiểu biết
về kinh tế thị trường gần như là không có. Tâm lí của người lao động là thích làm
việc cho DNNN, là công chức suốt đời. Người lao động chỉ quen với tư cách là
người làm thuê chứ chưa có ý nghĩ trở thành nhà đầu tư bỏ vốn ra để kiếm lời có
nhiều dủi do. Khó khăn như vậy song nhờ lắm bắt được tâm lí của người lao
động cộng với sự cố gắng của ban đổi mới đến nay việc tuyên truyền đạt kết quả
tốt. Tất cả cán bộ công nhân viên trong Công ty đều thấy rõ lợi ích CPH mang lại
và ủng hộ việc CPH của Công ty. Ban quản lí đổi mới của Công ty đã sử dụng
biện pháp nào mà hiệu quả lại cao như vậy.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
57
Thứ nhất, ban quản lí doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho toàn bộ cán bộ
công nhân viên trong công ty đọc và tham khảo tài liệu có liên quan đến chủ
trương CPH đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến người lao động.
Thứ hai, lấy các điển hình tiên tiến của các công ty đã CPH thành công làm
bằng chứng sống để người lao động thức sự tin tưởng vào lợi ích của CPH.
Thứ 3, việc Công ty sẽ chuyển gần như toàn bộ số lao động hiện nay sang
CTCP là một động lực lớn cho người lao động.
+ Công ty đã hoàn thành lập phương án CPH
Hình thức CPH: Căn cứ vào điều 7 của Nghị định 44/1998/NĐ-CP và đặc điểm
của công ty. Công ty TPXK Bắc Giang thực hiện CPH theo hình thức bán một
phần vốn hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phần để thu hút vốn đầu
tư.
Tên công ty:
Tên Việt Nam: Công ty cổ phầnthực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
Tên giao dịch quốc tế: BacGiang foodstufe export joint stock company
Ngành nghề kinh doanh:
- Sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu trực tiếp: Rau quả nông sản, thực
phẩm đồ uống, nguyên vật liệu, vật tư…
- Kinh doanh các lĩnh vực khác: Giao nhận kho, bất động sản, dịnh vụ
khách sạn nhà hàng, văn phòng cho thuê
- Dịch vụ tư vấn phát triển sản xuất chế biến rau quả nông lâm thuỷ sản
- Liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để phát triển sản
xuất của công ty
Vốn điều lệ của CTCP: 5.000.000.000đ
Giá trị một cổ phần: 100.000đ
Tổng số cổ phần: 50.000
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
58
Tỷ lệ cổ phần của các cổ đông:
Cổ phần Nhà nước 51% tức là: 2.550.000.000
Cổ phần của cán bộ công nhân viên trong công ty: 1.950.000.000đ chiếm
39%
Cổ phần của người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho công
ty:500.000.000đ chiếm 10%
Giá trị doanh nghiệp để CPH
Tại thời điểm ngày 31/12/2003 theo Quyết định số 2337/QĐ-BNN-TCKT
của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày 16/7/2003 giá trị doanh nghiệp
được xác định là: 22.290.299.610đ trong đó vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là:
8.944.231.937đ
Cổ phần được mua ưu đãi:
Tổng số cán bộ công nhân viên trong công ty: 240 người (có 20 lao động
mới hợp đồng).
Tổng số cán bộ công nhân viên được mua ưu đãi 220 người
Tổng số năm công tác: 1950 năm
Tổng số cổ phần được mua ưu đãi: 1950*10=19.500 cổ phần trong đó lao
động nghèo có 390 năm công tác, được mua cổ phần ưu đãi trả chậm 3900 cổ
phần chiếm 20 % tổng số cổ phần được mua ưu đãi.
Tổng giá trị ưu đãi:
Giá trị ưu đãi tối đa (giảm giá): 19500*30.000 = 585.000.000đ
Giá trị bán trả chậm: 3900*70.000 = 273.000.000đ
Tổng cộng: 858.000.000đ chiếm 17,16% giá trị vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp
Tổng giá trị cổ phần được mua ưu đãi của cán bộ công nhân viên là:
19.500*100.000 =1.950.000.000đ chiếm 39% vốn điều lệ của CTCP.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
59
Cổ phần được mua ưu đãi của người sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu:
Người sản xuất và người cung ứng nguyên vật liệu được mua ưu đãi 5000 cổ
phiếu
Tổng giá trị ưu đãi: 5000*30.000 =150.000.000đ chiếm 3% giá trị Nhà nước
tại doanh nghiệp
Tổng giá trị cổ phần được mua ưu đãi tại doanh nghiệp 5000*100.000 =
50
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang.pdf