Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại công ty bảo hiểm cổ phần petrolimex: Mục lục
Lời mở đầu
Nhu cầu đi lại đã từ lâu là một nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu này càng có xu hướng tăng nên cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, của tiến bộ khoa học kĩ thuật. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ về số lượng, cũng như chủng loại các phương tiện vận tải cơ giới đã dem lại cho con người một phương thức vận chuyển thuận tiện nhanh gọn và tiết kiệm
Tuy nhiên sự phát triển một cách nhanh chóng đã dẫn đến tình trạng giao thông đường bộ ngày càng trở nên phức tạp. Sự phát triển bất hợp lý giữa mức độ tăng nhanh của các phương tiện cơ giới với tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông cùng với việc thiếu ý thức của những người tham gia giao thông đã làm cho tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều và mức độ ngày càng nghiêm trọng gây thiệt hại về tài sản, tính mạng cho cá nhân, cũng như toàn xã hội
Để giảm bớt những thiệt hại đó nhằm bảo dảm an toàn cho xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích trong hoạt động kinh doanh, công ty bảo hiểm ptrolimex gọi t...
75 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại công ty bảo hiểm cổ phần petrolimex, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
Nhu cầu đi lại đã từ lâu là một nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu này càng có xu hướng tăng nên cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, của tiến bộ khoa học kĩ thuật. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ về số lượng, cũng như chủng loại các phương tiện vận tải cơ giới đã dem lại cho con người một phương thức vận chuyển thuận tiện nhanh gọn và tiết kiệm
Tuy nhiên sự phát triển một cách nhanh chóng đã dẫn đến tình trạng giao thông đường bộ ngày càng trở nên phức tạp. Sự phát triển bất hợp lý giữa mức độ tăng nhanh của các phương tiện cơ giới với tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông cùng với việc thiếu ý thức của những người tham gia giao thông đã làm cho tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều và mức độ ngày càng nghiêm trọng gây thiệt hại về tài sản, tính mạng cho cá nhân, cũng như toàn xã hội
Để giảm bớt những thiệt hại đó nhằm bảo dảm an toàn cho xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích trong hoạt động kinh doanh, công ty bảo hiểm ptrolimex gọi tắt là PJICO đã triển khai loại hình bảo hiểm (Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ gới đối với người thứ ba). Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng nó thực hiện hai mục tiêu:
Thực hiện tốt nghị định 115/1997/NĐ/CP về việc quy định về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nhằm bảo vệ quyền lợi, lợi ích chính đáng và hợp pháp cho những người thiệt hại về thân thể và tài sản cho chủ xe cơ giới gây ra đồng thời giúp chủ xe khắc phục hậu quả
Đóng góp không nhỏ trong tổng doanh thu hằng năm của công ty
PJICO là một công ty cổ phần hoạt động trên thị trường bảo hiểm được 7 năm nhưng họ đã sớm khẳng định được mình trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty đã không ngừng phát triển, nó đóng góp không nhỏ vào tổng doanh thu hằng năm của công ty và không ngừng nâng cao uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm.
Tuy vậy trong thưc tế không thể tránh khỏi những khó khăn cũng như những thiếu xót trong quá trình hoạt động, triển khai từ khâu khai thác đến khâu giám định bồi thường. Qua thực tế hoạt động của công ty, nhận thức được vai trò to lớn của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiện dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thư ba, sau thời gian thực tập tại văn phòng khu vực VII em đã chọn đề tài: “Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại công ty bảo hiểm cổ phần Petrolimex thực trạng và giải pháp”.
Kết cấu đề tài gồm có 3 chương:
Chương I: Tổng quan về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3.
Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại công ty bảo hiểm xăng dầu PJICO
Chương III Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty bảo hiểm PJICO
Để hoàn thành đề tài này, em đã nhận đươc sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ chuyên môn ở phòng bảo hiểm khu vực VII và đặc biệt là sự quan tâm chỉ bảo tận tình của cô giáo trực tiếp hướng dẫn thạc sĩ Nguyễn Thị Định. Nhân đây em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những quan tâm giúp đỡ đó.
Song do thời gian hạn chế về thời gian, kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên bài viết nay không thể tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong nhận được sự góp ý chân thành của thày cô giúp em hoàn thiện hơn cho dề tài này.
Chương I
Tổng quan về bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
I. khái niệm chung về trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách nhiệm dân sự
1. Trách nhiệm dân sự
Ngày nay mọi hoạt động của cá nhân đều phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật, pháp luật sẽ công nhận và bảo vệ lợi ích chính đáng cho mọi người. Một khi những lợi ích nay bị xâm phạm thì họ có quyền đòi hỏi sự bồi thường và sự bù đắp hợp lý
Xuất phát từ việc cần thiết bảo vệ lợi ích chính đáng trên những quy tắc đã được thể chế hóa thành một chế tài của pháp luật dân sự đó là trách nhiệm dân sự và nó bắt buộc mọi công dân phải tuân thủ
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Trong đó nghĩa vụ dân sự chính là việc mà theo quy định của pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể không được làm hoặc bắt buộc làm một hành động nào đó đối với một hoặc nhiều chủ thể khác. Người chịu trách nhiệm dân sự mà không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó thì phải chịu trách nhiệm đối với người bị hại và trước pháp luật.
Nhìn chung thì trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần. Trong đó trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần là trách nhiệm bồi thường những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn thiệt hại, thu nhập thực tế bị giảm sút. Người thiệt hại về tinh thần đối với người khác do xâm pham đến tính mạng sức khỏe, danh dự, uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại
Trong pháp luật dân sự thì ngoài việc gây ra thiệt hại đối với người bị hại còn phải do hành vi vó lỗi của chủ thể mới phát sinh trách nhiệm dân sự
2. Các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự
2.1. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự mang đầy đủ những đặc điểm chung của loại hình trách nhiệm pháp lý
Thứ nhất: Trách nhiêm dân sự được coi là một biện pháp cưỡng chế của pháp luật được thể hiện dưới dạng trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị hại
Thứ hai: Cùng với các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ dân sự nó sẽ đem lại cho người thực hiện nghĩa vụ dân sự những hậu quả bất lợi
Thứ ba: Trách nhiệm dân sự do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước thực thi theo trình tự và thủ tục nhất định đối với những ngưòi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác nhưng chưa đủ để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật
2.2. Các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự
Theo quy định của của pháp luật thì những trường hợp mà thỏa mãn các điều kiện sau đây sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự :
Phải có thiệt hại thực tế của bên bị hại
Phải có lỗi của người gây ra thiệt hại
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế
Trách nhiệm dân sự bao gồm trách nhiệm dân sự trong và ngoài hợp đồng
Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng phát sinh trên các cơ sở những thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng. Như vậy trách nhiệm dân sự theo hợp đồng chỉ phát sinh khi các bên có những mối quan hệ rằng buộc từ trước và có các quan hệ trực tiếp đến hợp đồng ký kết, liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng, họ đều là những người có đầy đủ năng lực hành vi. Nó khác với trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng chủ thể gây ra có thể là do người hoặc súc vật…
Bởi vậy trách nhiệm bồi thường cũng có sự khác nhau, liên quan đến những người đại diện hợp pháp hặc chủ sở hữu (đối với vật và gia súc). Đây chính là điểm khác nhau cơ bản giữa trách nhiệm dân sự trong và ngoài hợp đồng. Việc phát sinh trách nhiệm dân sự thường là bất ngờ và không ai có thể lường trước được. Nhiều những trường hợp thiệt hại vượt quá khả năng tài chính của cá nhân, tổ chức
Do vậy các cá nhân cũng như các tổ chức đã tìm mọi các biện pháp để hạn chế và kiểm soát tổn thất như:
Tự chịu rủi ro
Né tránh rủi ro
Bảo hiểm
Tuy nhiên biện pháp ưu việt nhất, tốt nhất là các cá nhân cũng như các tổ chức nên mua bảo hiểm. Qua đó các cá nhân chuyển giao rủi ro cho nhà bảo hiểm, bù lại các cá nhân phải đóng cho nhà bảo hiểm một khoản phí và nhà bảo hiểm sẽ cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một loại hình bảo hiểm mà nguời bảo hiểm cam kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm theo cách thức và hạn mức đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện người tham gia bảo hiểm phải đóng một khoản phí tương ứng
Mục đích của người tham gia chính là chuyển giao phần trách nhiệm dân sự của mình mà chủ yếu là trách nhiệm bồi thường
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời từ rất sớm và ngày càng phát triển. Hiện nay có rất nhiều các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm như :
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tầu biển
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với hàng hóa vận chuyển trên xe
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với sản phẩm và của chủ lao động đối với người lao động
Mặc dầu có rất nhiều nghiệp vụ bảo hiểm dân sự nhưng mỗi nghiệp vụ đều mang những đặc điểm chung của bảo hiểm trách nhiệm dân sự :
Thứ nhất: Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng. Đó chính là trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường. Hơn nữa trách nhiệm là bao nhiêu lại không xác định được ngay ở lúc tham gia bảo hiểm. Mức độ thiệt hại thường xác định dựa trên mức độ lỗi của người gây ra và mức độ thiệt hại của bên thứ ba.
Thứ hai: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc
Thứ ba: Phương thức bảo hiểm có thể là có hoặc không có giới hạn
Bởi vì thiệt hại trách nhiệm dân sự chưa xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại này có thể sẽ là rất lớn. Bởi vậy để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm thì các công ty bảo hiểm thường đưa ra các hạn mức trách nhiệm, tức là mức bồi thường bị giới hạn bởi số tiền bảo hiểm
Tuy vậy cũng có một số nghiệp vụ bảo hiểm lại không áp dụng hạn mức trách nhiệm. Hình thức bảo hiểm này khiến các nhà bảo hiểm không xác định được mức độ thiệt hại của các rủi ro, không xác định được số tiền bảo hiểm vì vậy trách nhiệm bồi thường chính là toàn bộ trách nhiệm phát sinh của người được bảo hiểm. Thế nhưng loại bảo hiểm này rất dễ đẩy các công ty vào tình trạng phá sản. Do vậy khi nhận bảo hiểm không có giới hạn thì các công ty phải sử dụng các biện pháp nhằm phân tán rủi ro để bảo vệ mình.
II. Sự cần thiết triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
1. Đặc điểm và tính năng động của xe cơ giới
Xe cơ giới là tất cả các loại xe hoạt động trên đường bộ bằng chính những động cơ của mình và được phép lưu hành trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. Xe cơ giới chiếm một số lượng lớn và có một vị trí quan trọng trong ngành giao thông vận tải, một ngành kinh tế có ảnh hưởng tới tất cả các ngành nó là một sợi dây kết nối các mối quan hệ lưu thông hàng hóa giữa các vùng, giữa trong và ngoài nước tạo điều kiện phát triển kinh tế và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Ngày nay vận chuyển bằng xe cơ giới là hình thức vận chuyển phổ biến và sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế quốc dân
Xe cơ giới có tính ưu điểm là tính cơ động cao và linh hoạt có thể di chuyển trên địa bàn phức tạp, tốc độ cao và chi phí tương đối là thấp. Tuy vậy vấn đề an toàn đang là vấn đề lớn đang được đặt ra đối với loại hình vận chuyển này. Đây là hình thức vận chuyển có mức độ nguy hiểm lớn, khả năng xảy ra tai nạn là rất cao do số lượng đầu xe dày đặc, đa dạng về chủng loại, bất cập về chất lượng. Hơn nữa hệ thống đường xá ngày càng xuống cấp lại không được tu sửa kịp thời. Đó chính là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân gây mất trật tự an toàn xã hội.
2. Sự cần thiết phải triển khai nghiệp vụ bảo hểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện cơ giới một mặt đem lại cho con người một hình thức vận chuyển thuận tiện nhanh chóng kịp thời, giá rẻ và phù hợp với đại đa số cư dân việt nam hiện nay.
Chỉ tính riêng việt nam hiện nay trong vòng hơn 10 năm qua các phương tiện cơ giới đã có mức tăng trưởng khá cao đặc biệt là mô tô :
Từ năm 1990 đến năm 2001 bình quân hằng năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 17,8% trong đó ô tô tăng 7,6% , xe máy xấp xỉ bằng 19,5%. Năm 2000 so với năm 1990 phương tiện cơ giới đường bộ tăng 4,5 lần, ô tô tăng 2,14 lần, xe máy tăng 4,64 lần. Một đặc điểm về cơ cấu phương tiện cơ giới đường bộ nước ta là số lượng xe máy chiếm 91% tổng số phương tiện cơ giới đường bộ và tuy mức độ tăng trưởng cao nhưng nhìn chung mức cơ giới hóa là vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Hiện nay Việt Nam có 75 xe trên 1000 dân trong khi Thái Lan có 190 xe trên 1000 dân, Malaixia 340 xe trên 1000 dân. Tỷ lệ xe cũ nát có điều kiện an toàn thấp chiếm tỷ trọng lớn và tổng số xe được kiểm định so với tổng số xe đang lưu hành còn quá thấp
Theo các chuyên gia trong thập kỷ tới phương tiện cơ giới nước ta vẫn tăng cao. Mức tăng trưởng theo dự báo theo GDP thì cứ mỗi năm khi GDP tăng 1% thì tổng lượng vận tải tăng từ 1,2% đến 1,5% đặc biệt là năm 2006 khi chúng ta mở cửa và thực hiện các cam kết cắt giảm thuế điều này sẽ dẫn tới một lượng xe khổng lồ sẽ được nhập vào Việt Nam với giá rẻ phù hợp với túi tiền người dân
Đối lập với tốc độ gia tăng của các phương tiện giao thông. Tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê cho thấy năm 1998 cả nước có 106.134 km đường bộ thì chỉ có khoảng 28,7% là được giải nhựa nhưng chất lượng kém và ngày càng xuống cấp trầm trọng. Cũng từ sự phát triển bất hợp lý này đã làm cho tình hình tai nạn giao thông có xu hướng ngày càng tăng.
Theo số liệu thống kê của cục cảnh sát thì trung bình mỗi ngày xảy ra 33 vụ tai nạn xe cơ giới, làm chết 20 người và bị thương 35 người, chưa kể thiệt hại về vật chất và tinh thần. Số vụ tai nạn giao thông năm sau cao hơn năm trước là 22,5%, số người bị chết và thương trong năm cao hơn năm trước lần lượt là 27,78% và 30,6%.
Điểm đáng lưu ý ở dây chính là tai nạn xe cơ giới luôn chiếm tỷ lệ cao trong các loại hình giao thông vận tải, chiếm 93,7% về số vụ, 94,13% về số người chết, và 98,8% số người bị thương
Đất nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đều phải đối mặt với tình trạng tai nạn giao thông, phải đối mặt với những thiệt hại về người và của mà các chủ phương tiện và người thiệt hại phải gánh chịu. Làm thế nào để khắc phục dược những thiệt hại và nâng cao trách hniệm của các chủ phương tiện. Từ xưa đến nay con người đã tìm ra các biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro thế nhưng biện pháp hữu hiệu nhất là tham gia bảo hiểm.Việc tham gia bảo hiểm sẽ thành lập nên một quỹ tài chính, quỹ này sẽ chi trả cho các đối tượng tham gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra nhằm giúp đỡ người bị hại ổn định cuộc sống.
Như vậy nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 ra đời đã đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội và cũng là điều mong muốn thiết tha của các chủ phương tiện.
3. Cở sở hình thành tính bắt buộc của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ phương tiện xe cơ giới, bảo vệ quyền lợi của nạn nhân ngày 10/3/88 HĐBT đã ban hành nghị định 30/HĐBT về việc quy định chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3. Ngày 17/12/1997 Chính phủ ban hành nghị điịnh 115/NĐ/CP trong đó quy định rõ chủ xe cơ giới, kể cả chủ xe là người nước ngoài có giấy phép lưu hành xe trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước.
Sở dĩ nhà nước ta quy định tính bắt buộc của nghiệp vụ này là do:
Thứ nhất: Đó là nhằm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của những người bị thiệt hại do lỗi của các chủ phương tiện gây ra, đồng thời cũng là bảo vệ lợi ích của toàn xã hội
Thứ hai: Việc quy định bắt buộc còn nâng cao trách nhiệm trong việc điều khiển xe, giúp cho các cơ quan quản lý số lượng đầu xe đang lưu hành và thống kê đầy đủ các vụ tai nạn, cũng như những nguyên nhân của nó để có các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất một cách có hiệu quả
Thứ ba: Tính bắt buộc còn xuất phát từ việc thi hành nghiêm túc những quy định của pháp luật, thực hiện tốt nghĩa vụ dân sự chủ yếu là nghĩa vụ bồi thường đã được quy định trong bộ luật dân sự, thể hiện sự công minh và công bằng của pháp luật
4. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
4.1. Đối với chủ xe
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của củ xe cơ giới không chỉ có vai trò to lớn đối với người bị hại mà còn cả xã hội, nó là tấm lá chắn vững chắc cho chủ xe khi tham gia giao thông
Nó tạo tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin khi điều khiển các phương tiện tham gia giao thông
Bồi thường chủ động kịp thời cho các chủ xe khi phát sinh trách nhiệm dân sự góp phần phục hồi lại tinh thần, ổn định sản suất, phát huy quyền tự chủ về tài về chính, tránh thiệt hại kinh tế cho chủ xe
Có tác dụng giúp chủ xe có ý thức trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất bằng cách tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3.
Góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị hại
4.2. Đối với người thứ ba.
Nhà bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân một cách nhanh chóng kịp thời, không phụ thuộc vào tình trạng tài chính của chủ xe
Giúp người thứ ba ổn định tài chính và tinh thần
4.3. Đối với xã hội
Từ công tác giám định bồi thường. Mỗi công ty bảo hiểm sẽ thống kê các rủi ro và những nguyên nhân gây ra rủi ro để từ đó đề ra các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất
Loại hình bảo hiểm này còn góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần tăng thu cho ngân sách
Như vậy với tư cách là một nghiệp vụ bảo hiểm mang tính bắt buộc nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội, thể hiện tinh thần tương thân tương ái, tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Mội lần nữa khẳng định tính khách quan cũng như tính bắt buộc của nghiệp vụ này.
III. Những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
1.1. Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của củ xe cơ giới đối với người thứ 3 là bảo hiểm trách nhiệm bồi thường của lái xe, chủ xe khi phương tiện đi vào hoạt động gây thiệt hại cho người thứ 3. Như vậy đối tượng ở đây chính là phần trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường của chủ xe cơ giới đối với những hậu quả tính được bằng tiền theo quy định của pháp luật khi chủ phương tiện gây tai nạn làm thiệt hại về tính mạng tài sản, tinh thần cho bên thứ 3.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng bên thứ 3 trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của các vụ tai nạn ngoại trừ:
Lái, phụ xe, nguời làm công cho chủ xe
Những người mà lái xe phải nuôi dưỡng như cha mẹ, vợ, chồng, con cái
Hành khách đi trên xe
Tài sản tư trang hành lý của những người nói trên
Các khoản phạt mà chủ xe, lái xe phải gánh chịu
Đối tượng được bảo hiểm không xác định được từ trước chỉ khi nào lưu hành xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 thì đối tượng mới được xác định cụ thể.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 bao gồm:
Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hay sức khỏe của bên thứ 3
Chủ xe phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ hoặc là vi phạm các quy định khác của nhà nước
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế
Chủ xe, lái xe phải có lỗi
Trên thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra 3 điều kiện thứ 1, thứ 2, thứ 3 là đã phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3. Nếu thiếu một trong 3 điều kiện đó thì sẽ không phát sinh trách nhiệm dân sự. Điều kiện 4 có thể có hoặc không vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của xe cơ giới mà hoàn toàn không có lỗi của chủ xe
1.2. Phạm vi bảo hiểm
1.2.1 Các rủi ro được bảo hiểm
Trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 các công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho những rủi ro bất ngờ không thể lường trước được gây tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe
Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về vật chất và tinh thần, về con người, tài sản được tính toán theo những nguyên tắc nhất định. Ngoài ra thì công ty bảo hiểm còn phải thanh toán cho chủ xe những khoản chi phí mà họ đã chi ra nhằm đề phòng thiệt hại. Những chi phí này chỉ được bồi thường khi nó phát sinh sau khi tai nạn xảy ra và được coi là cần thiết và hợp lý.
Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm được hạn mức trong mức trách nhiệm ghi trong hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm gồm:
Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khỏe của bên thứ 3
Thiệt hại về tài sản, hàng hoá của bên thứ 3
Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc làm giảm thu nhập
Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất, các chi phí đề xuất của bên bảo hiểm
Những thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của những nguời tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân
Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế và nhu cầu của người bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm cho những loại rủi ro khác. Những điều khoản bổ sung sẽ kéo theo người tham gia phải đóng thêm một khoản phí
1.2.2. Các rủi ro loại trừ
Người bảo hiểm không chịu bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau :
Tai nạn xảy ra do hành vi cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại
Xe không đủ các điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ
Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ như :
+ Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường
+ Lái xe không có bằng lái hoặc bằng bị tịch thu
+ Lái xe bị ảnh hưởng bởi bia rượu và các chất kích thích
+ Xe trở chất cháy, chất nổ trái phép hoặc là vận chuyển trái với quy định trong giấy phép vận chuyển
+ Xe sử dụng để tập lái hoặc là đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử khi sửa chữa
+ Xe đi vào đường cấm, khu vực cấm, xe đi đêm không đủ đèn theo quy định
+ Đồ vật trở trên xe rơi xuống đường gây thiệt hại cho bên thứ 3
+ Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp, bị cướp trong tai nạn
+ Thiệt hại dán tiếp do xe bị tai nạn làm ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm giá trị thương mại
+ Chiến tranh hoặc các nguyên nhân tương tự chiến tranh
+ Tai nạn xảy ra ngoài phạm vi lãnh thổ nước sở tại tham gia bảo hiểm
+ Xe trở quá trong tải hoặc quá số lượng khách quy định
Ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm cũng không chịu bồi thường thiệt hai đối với những tài sản đặc biệt bao gồm:
Vàng bạc, đá quý
Tiền và các loại gấy tờ có giá trị như tiền
Đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm
Thi hài, hài cốt
2. Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí
2.1. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải nộp cho nhà bảo hiểm để hình thành một quỹ tiền tệ độc lập, tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm và hạn mức trách nhiệm mà người tham gia đã ký với nhà bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
Biểu phí thì do bộ tài chính quy định ngoài ra các công ty bảo hiểm có thể thoả thuận với các chủ xe cơ giới với người thứ 3 theo số lượng đầu phương tiện của mình. Mặt khác các đầu phương tiện lại khác nhau về chủng loại, về độ lớn, xác suất xảy ra tai nạn là khác nhau. Do đó phí bảo hiểm sẽ được tính riêng cho từng loại phương tiện.
Việc xác định mức phí bảo hiểm nhìn chung là rất khó khăn, bởi vì phí bảo hiểm là nguồn thu chủ yếu của các công ty bảo hiểm nên mức phí tối thiểu phải thỏa mãn nhu cầu thanh toán bồi thường và công tác đề phòng hạn chế tổn thất đồng thời phải đảm bảo cho công ty có được khoản lợi nhất định. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm, ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm gia nhập làm cho thị trường ngày càng trở nên cạnh tranh gay gắt. Chính vì vậy việc đưa ra một mức phí thích hợp là một vấn đề không dễ dàng đối với các công ty bảo hiểm
Phí bảo hiểm phải là một mức phí cạnh tranh, không quá cao, không quá thấp so với mức phí của bộ tài chính quy định. Mức phí này phải đảm bảo được nguyên tắc số đông bù số ít và đảm bảo được sự cân đối thu chi trong hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm
2.2. Phương pháp tính phí
Phương pháp tính phí phải đảm bảo có cơ sở khoa học, phản ánh đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng có liên quan và mức phí phải phù hợp với khả năng tài chính của các chủ phương tiện.
Phương pháp tính phí được thông qua con số thống kê 5 năm về trước. Công thức tính phí là : F= f + d
Trong đó: F là phí thu một đầu xe
f là phí thực( phí bồi thường)
d là phụ phí( thường từ 20-30%)
f là phí thuần hay phí bồi thường và nó được xác định theo công thức sau :
f=
: là số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bồi thường trong năm i
: là số tiền bồi thường bình quân một vụ trong năm i
n: là số năm thống kê(từ 3 đến 5 năm)
Phụ phí: Thường được xác định theo một tỷ lệ nhất định trên số phí cơ bản thường từ 20 đến 30% mức phí cơ bản
d
=
% phụ phí
x
Phí cơ bản
(1-% phụ phí)
Đối với các phương tiện thông dụng, mức độ rủi ro lớn như xe Rơmoc, xe chở hàng hạng nặng thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản. Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới 1 năm) thời gian tham gia bảo hiểm được tính tròn tháng và phí bảo hiểm được tính như sau:
Dưới 3 tháng thì tính 30% phí năm, từ 3 đến 6 tháng thì tính 60% phí năm, từ 6 đến 9 tháng thì tính 90% phí năm, từ 9 –12 tháng thì tính 100% phí năm.
Nếu người tham gia đóng phí cả năm thì những thời điểm nào đó mà xe không hoạt động nữa hoặc chuyển quyền sở hữu cho người khác mà không chuyển giấy bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hoàn trả lại phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian còn lại của năm
P hoàn lại
=
P năm
x
Số tháng xe không hoạt động
12 tháng
2.3. Các yếu tố làm tăng phí
Những yếu tố làm phí thuần tăng
+ Do số phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm là thấp
+ Do số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự là nhiều
+ Số tiền bồi thường bình quân một vụ trong năm là lớn
Những yếu tố làm phụ phí tăng
+ Do chi phí quản lý nghiệp vụ tăng
+ Do cho phí khai thác, giám định bồi thường tăng
+Do chi phí hạn chế và đề phòng tổn thất tăng
3. Hợp đồng bảo hiểm
3.1. Hợp đồng bảo hiểm
Giấy chứng nhận bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm cấp theo yêu cầu của người được bảo hiểm là bằng chứng ký kết hợp đồng bảo hiểm giữa chủ xe cơ giới và doanh nghiệp bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 gồm những thông tin chủ yếu sau :
Phạm vi bảo hiểm
Hạn mức trách nhiệm, phí bảo hiểm
Thời hạn hợp đồng
Các thông tin liên quan đến xe bảo hiểm, người bảo hiểm, người được bảo hiểm
Quyền và nghĩa vụ của các bên
Các quy định về giải quyết bồi thường tranh chấp
* Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo quy định nghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm khi chủ xe đã đóng phí bảo hiểm (trừ khi có thoả thuận khác)
* Chuyển quyền sở hữu
Trong thời hạn còn hiệu lực nghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm nếu có sự chuyển quyền sở hữu mà chủ xe cơ giới không có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm thì mọi quyền lợi bảo hiểm liên quan đến chiếc xe được bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới
* Huỷ bỏ hợp đồng
Trường hợp có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm biết trước 15 ngày. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo huỷ bỏ nếu doanh nghiệp bảo hiểm không có ý kiến gì thì hợp đồng mặc nhiên bị huỷ bỏ, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hoàn lại 80% phí bảo hiểm của thời gian huỷ bỏ, trừ trường hợp trong thời gian hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm.
3.2. Trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng bảo hiểm
3.2.1. Trách nhiệm và quyền lợi của xe cơ giới
* Trách nhiệm
Khi yêu cầu bảo hiểm chủ xe cơ giới phải kê khai đầy đủ và trung thực những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm
Khi tai nạn giao thông xảy ra thì chủ xe cơ giới có trách nhiệm:
+ Cứu chữa hạn chế thiết hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn, thông báo ngay cho cảnh sát giao thông nơi gần nhất để phối hợp giải quyết tai nạn
+ Không được di chuyển tháo dỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm bảo cho người và tài sản hoặc là phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền
+ Chủ xe phải bảo lưu quyền khiếu lại và chuyển quyền bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm
+ Chủ xe phải trung thực trong việc thu thập các tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm xác minh trong quá trình xác minh hồ sơ
+ Nếu thay đổi mục đích sử dụng xe thì chủ xe cơ giới phải thông báo ngay cho nhà bảo hiểm để điều chỉnh tính phí bảo hiểm
+ Chủ xe có nghĩa vụ phải đóng đầy đủ phí và đúng hạn
*Quyền lợi
Chủ xe có quyền hưởng bồi thường khi có tai nạn mà phát sinh trách nhiệm dân sự thuộc phạm vi bảo hiểm trong thời hạn hợp đồng. Số tiền bồi thường bị giới hạn bởi số tiền bảo hiểm
Chủ xe có quyền yêu cầu nhà bảo hiểm sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm
b.2 Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm
Cung cấp cho chủ xe cơ giới quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm liên quan đến trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Tạo điều kiện cho các chủ xe tham gia bảo hiểm
Những vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng (tai nạn gây chết người hoặc thiệt hại về tài sản từ 20 triệu đồng trở nên) doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với chủ xe cơ giới và các cơ quan chức năng để giải quyết tai nạn
Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm và đơn bảo hiểm
Khi đầy đủ hồ sơ thi doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người bị hại khi sự kiện bảo hiểm xẩy ra
Doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất
Nếu không trả tiền bảo hiểm thì phải có văn bản giải tích rõ ràng
Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan công an để thu thập các giấy tờ cần thiết có liên quan đến vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm hoàn trả phí cho chủ xe khi có sự thay đổi chủ sở hữu hoặc khi xe chỉ hoạt động một số tháng trong năm
* Quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm và sử dụng vào các khoản chi: bồi thường, đề phòng và hạn chế tổn thất, chi quản lý, hoa hồng và đầu tư
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối bồi thường cho chủ xe cơ giới và cũng có quyền khiếu kiện với các chủ xe, bên thứ 3 liên quan trong việc lợi dụng tai nạn nhằm chục lợi bảo hiểm
4. Những quy định về trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm
4.1. Công tác giám định
Công tác giám định tổn thất nhằm xác định mức độ thiệt hại của bên thứ 3 và mức độ lỗi của các chủ phương tiện đồng thời xác định xem nguyên nhân xảy ra tai nạn và xem xét nguyên nhân đó có thuộc pham vi bảo hiểm hay không thuộc phạm vi bảo hiểm .
Trong công tác giám định phải có sự chứng kiến của ba bên: chủ xe, người thứ 3 hoặc là đại diện hợp pháp của bên thứ 3, bên bảo hiểm. Nếu chủ xe hoặc người thứ 3 không thống nhất về mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm xác định, hai bên sẽ thỏa thuận chọn giám định viên chuyên nghiệp giám định lại. Kết luận này sẽ là kết luận cuối cùng.
Nếu kết luận của giám định viên có sai khác lớn với kết quả giám định của công ty bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ chịu chi phí, ngược lại thì chủ xe hoặc người thứ 3 phải chịu
4.2. Xác định thiệt hại thực tế của bên thứ 3
Thông thường thì thiệt hại thực tế của bên thứ 3 bao gồm
Thiệt hại về tài sản
Thiệt hại về con người
* Đối với thiệt hại về tài sản
Thiệt hại về tài sản bao gồm 2 trường hợp
Trường hợp 1: Tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại không thể sửa chữa được. Trong trường hợp này thiệt hại về tài sản sẽ được xác định bằng giá mua của tài sản cùng loại trên thị trường
Trường hợp 2: Tài sản có thể sửa chữa được, thiệt hại là chi phí hợp lý để sửa chữa nó. Nếu phải thay thế mới phải trừ đi giá trị khấu hao. Cần lưu ý thiệt hại về tài sản không tính đến những thiệt hại về những hư hỏng phát sinh trong quá trình sửa chữa mà không liên quan đến tai nạn
* Đối với thiệt hại về con người
Trong trường hợp bị thương
+ Các chi phí cần thiết và hợp lý cho công việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất như : chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác(thuốc men, dịch chuyền,máu…)
+ Các chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc nạn nhân, khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi dưỡng
+ Khoản thu nhập bị giảm sút hay bị mất của người đó
+ Khoản tiền bù đắp những tổn thất về tinh thần
- Trong trường hợp nạn nhân bị chết
+ Chi phí hợp lý, chăm sóc và cứu chữa cho ngườ thứ 3 trước khi chết
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng(những chi phí hủ tục không được thanh toán)
+ Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ 3 phải nuôi dưỡng(như vợ, chồng, con cái…)
Như vậy tổng thiệt hại của người thứ 3 sẽ được xác định như sau:
Thiệt hại thực tế của bên thứ 3=Thiệt hại về tài sản+Thiệt hại về con người
4.3. Bồi thường thiệt hại thực tế
Khi nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ thì thời hạn bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là 15 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ và không kéo dài quá 30 ngày trong trường hợp phải tiến hành xác minh hồ sơ
Hồ sơ yêu cầu bồi thường bao gồm:
* Thông báo tai nạn, giấy yêu cầu bồi thường của chủ xe
* Bản sao các giấy tờ sau:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm
- Giấy phép lái xe, giấy đăng kí xe
- Giấy kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường
* Bản kết luận điều tra tai nạn của công an hoặc bản sao hồ sơ tai nạn
- Sơ đồ của hiện trường tai nạn
- Biên bản khám nghiệm hiện trường
- Biên bản giám định thiệt hại(nếu có)
- Các giấy tờ có liên quan đến trách nhiệm của bên thứ 3
- Quyết định của toà án(nếu có)
Khi yêu cầu bồi thường thì chủ xe phải có trách nhiệm chuyển cho doanh nghiệp bảo hiểm hồ sơ yêu cầu bồi thường và một số các loại giấy tờ sau
* Về con người
- Trường hợp bị thương: Các giấy tờ của cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận tình trạng thương tật của nạn nhân, giấy ra viện, phiếu mổ, các giấy tờ có liên quan đến các chi phí chăm sóc và cứu chữa
- Trong trường hợp bị chết: Ngoài các giấy tờ trên thì cần thêm giấy chứng tử
* Về tài sản:
Các bằng chứng chứng minh thiệt hại như hoá đơn sửa chữa, thay thế mới tài sản bị thiệt hại
Các giấy tờ chứng minh các chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe đã chi ra để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện các chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm
Căn cứ vào thiệt hại thực tế của người thứ 3 và lỗi của người thứ 3 thì công ty bảo hiểm xác định số tiền bồi thường
Số tiền bồi thường = thiệt hại thực tế* lỗi của chủ xe
Nếu trong vụ tai nạn có cả lỗi của người khác gây thiệt hại cho bên thứ 3 thì
Số tiền bồi thường =( lỗi chủ xe+ lỗi khác)* thiệt hại bên thứ 3
Nguyên tắc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là thiệt hại thực tế phát sinh nhưng không được vượt quá hạn mức trách nhiệm đã được quy định trong hợp đồng. Bởi vì hạn mức trách nhiệm là số tiền cao nhất mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể trả trong mỗi vụ tai nạn. Thường các công ty bảo hiểm quy định ở mức độ tối thiểu và bắt buộc mọi chủ xe tham gia. Tại việt nam mức độ tối thiểu được quy định bắt buộc là:
12 triệu/người/vụ
30 triệu/người/vụ
Các công ty bảo hiểm cũng đưa ra mức trách nhiệm cao hơn theo nhu cầu và khả năng tài chính của các chủ phương tiện, bù lại thì chủ xe cũng chịu mức phí cao hơn. Đối với những tổn thất thực tế mà lớn hơn hạn mức trách nhiệm thì người được bảo hiểm phải tự gánh chịu phần trách nhiệm vượt quá này.
Trong trường hợp công ty bảo hiểm từ chối bồi thường thì phải thông báo lý do bằng văn bản. Nếu có phát sinh khiếu lại thì thời gian khiếu lại là 3 tháng kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán bồi thường hoặc từ chối bồi thường. Quá thời hạn trên thì khiếu lại không còn giá trị.
Chương II
Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại công ty bảo hiểm xăng dầu
I. Vài nét về công ty bảo hiểm xăng dầu
1. Quá trình hình thành
Trên thực tế ở Việt Nam thì kinh doanh bảo hiểm là một mảnh đất chưa được khai phá triệt để. Cho đến năm 1994 thị trường bảo hiểm của Việt Nam vẫn là thị truờng độc quyền, nhiều người mua nhưng chỉ có một người bán chính thức là BảoViệt, mặc dù vẫn có một số công ty bảo hiểm nước ngoài đang cạnh tranh đấu mặt thông qua các chủ hàng, doanh thương Việt Nam, qua hoạt động của các ngân hàng nước ngoài cho các doanh nghiệp vay mua vật tư, thiết bị với điều kiện mua bảo hiểm ở nước ngoài.
Các công ty bảo hiểm nước ngoài với ưu thế mạnh về khả năng tài chính, với đội ngũ nhân viên dày dặn kinh nghiệm đã quen với môi trường cạnh tranh khốc liệt… họ sẵn sàng hạ phí tới mức phải bù lỗ hay sát mức nguy hiểm để dành được các dịch vụ bảo hiểm thẳng qua các chủ hàng, chủ doanh nghiệp của nước họ khi đầu tư vào Việt Nam, đồng thời tranh thủ các mối quan hệ từ trước để dành dịch vụ bảo hiểm từ các doanh nghiệp khác cũng như từ các doanh nghiệp Việt Nam.
Khi chúng ta chủ trương mở cửa các công ty bảo hiểm nước ngoài càng quan tâm tới thị trường Việt Nam. Trong khi chưa được phép mở cửa các chi nhánh ở Việt Nam họ đã sử dụng các văn phòng đại diện tại Việt Nam để làm dịch vụ môi giới, chào các dịch vụ bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm ở nước họ. Nếu chào được thì công ty bảo hiểm đó sẽ cấp đơn bảo hiểm.
Để xây dựng thị trường bảo hiểm Việt Nam trở thành thị trường cạnh tranh hoàn hảo, xây dựng ngành kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài, hoà nhập vào thị trường bảo hiểm quốc tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng lên mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Nhà nước ta đã và đang khuyến khích cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm thành lập các doanh nghiệp mới dưới hình thức công ty cổ phần bởi tính ưu việt của nó nhờ bộ máy tinh thông, gọn nhẹ, cơ cấu kiểm soát và quản lý chặt chẽ, chính sách kinh doanh năng động hiệu quả.
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex gọi tắt là PJICO là một công ty bảo hiểm được thành lập dưới hình thức một công ty cổ phần với tổng số vốn góp là 55 tỷ, 7 cổ đông sáng lập và một cổ đông góp vốn, ngoài ra là một phần do phát hành cổ phiếu trên thị trường. Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm cấp ngày 27/5/95, giấy phép thành lập cấp ngày 8/6/95 do uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp.
Đây là công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên được thành lập tại Việt Nam gồm 7 cổ đông sáng lập với mức vốn góp như sau :
Bảng 1: Vốn góp của các cổ đông năm 1995
STT
Đơn vị
Tỷ trọng (%)
Vốn góp triệu đồng
Số cổ phiếu
1
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam
51
28.050
14.025
2
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
10
5.500
2.700
3
Công ty tái bảo hiểm quốc gia
8
4.400
2.200
4
Tổng công ty thép Việt nam
6
3.300
1.600
5
Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ
3
1.650
852
6
Công ty điện tử hà nội
2
1.100
550
7
Công ty TNHH thiết bị an toàn
0,5
275
138
8
Cá nhân
19,5
10.275
5.362
Tổng
100
55.000
27.500
Nguồn phòng tổ chức cán bộ
Công ty chính thức đi vào hoạt động 15/06/1995 với thời gian hoạt động là 22 năm kể từ ngày cấp giấy phép, hết thời hạn được phép xin gia hạn.
Như vậy công ty cổ phần bảo hiểm PIJCO đã ra đời đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế của đảng và nhà nước ta, đồng thời chứng minh cho sự chuyển đổi một cách cơ bản thị trường bảo hiểm Việt Nam từ độc quyền sang tự do cạnh tranh có sự quản lý vĩ mô của nhà nước và cũng chính từ đây thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chuyển sang một giai đoạn mới
2. Các nghiệp vụ triển khai tại PJICO
Ngay từ khi mới bước vào hoạt động mặc dù còn rất nhiều việc phải làm như thiết lập quan hệ đối nội, đối ngoại, ổn định tổ chức bộ máy, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ của công ty, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động chuẩn bị các thủ tục cần thiết về con người, cơ sở vất chất ban đầu cho việc thành lập và hoạt động. Nhưng công ty đã xúc tiến triển khai tất các nghiệp vụ bảo hiểm hiện có tại việt nam mà công ty bảo hiểm đã tiến hành.
Hiện nay công ty đang triển khai nghiệp vụ sau:
* Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải
Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển
Bảo hiểm thân tầu và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tầu
Bảo hiểm sông tầu cá
Bảo hiểm nhà thầu đóng tầu
* Nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải
Bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm kết hợp con người
Bảo hiểm cho hành khách
Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên
Bảo hiểm cho khách du lịch
* Nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật
Bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng lắp đặt
Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt
Bảo hiểm mọi rủi ro công gnhiệp
Bảo hiểm trách nhiệm
Bảo hiểm máy móc
* Nghiệp vụ tái bảo hiểm
* Các hoạt động khác
3. Cơ cấu tổ chức
Ngay sau khi được cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh công ty đã nhanh chóng triển khai bộ máy tổ chức, mạng lưới kinh doanh bảo hiểm tại khu vực hà nội và trên phạm vi cả nước. Ban đầu từ 8 cán bộ công nhân viên tại trụ sở tại hà nội đến cuối năm 1995 công ty đã thành lập 6 phòng ban tại văn phòng công ty và 3 chi nhánh tại Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố hồ chí minh. Đến nay PJICO có đội ngũ cán bộ gồm hơn 280 công nhân viên với 95% có trình độ đại học. Đa số cán bộ còn rất trẻ, năng động, được đào tạo chính quy công tác tại 10 phòng ban, 9 chi nhánh, trên 10 văn phòng đại diện trực thuộc. Ngoài ra công ty đã có hơn 400 đại lý, cộng tác viên bảo hiểm trong cả nước.
Với mạng lưới tổ chức kinh doanh như vậy PJICO trong những năm qua đã không ngừng phát triển, doanh thu tăng, thị phần mở rộng, uy tín ngày càng được nâng cao, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng cải thiện.
Từ đó góp phần vào quá trình phát triển và hội nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam với thị trường bảo hiểm của thế giới.
Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động công ty bảo hiểm PJICO
Hội đồng quản trị
Tổng giám đốc
Phó Tổng giám đốc
Phó Tổng giám đốc
Phòng TS - HH
Phòng BH phi hàng hải
Vp BH KV I
CN Quảng Ninh
CN Hải Phòng
P. BH Thanh Hoá
Vp. BH KV II
CN. Nghệ An
Phòng BH Hà Tĩnh
Vp. BH KV IV
CN Quảng Bình
Vp. BH KV V
Chi nhánh Hà Tây
Vp. BH KV VI
Phòng Kế toán
Phòng đầu tư tín dụng và TTCK
Phòng giám định và bồi thường
Phòng Tổ chức – Cán bộ
Ban Thanh tra pháp chế
Phòng Tổng hợp
Phòng quản lý nghiệp vụ
Phòng BH Hàng hải
Phòng Tái bảo hiểm
Chi nhánh T.T.Huế
Chi nhánh Đà Nẵng
Phòng BH Quảng Nam
Chi nhánh Khánh Hoà
Chi nhánh Sài Gòn
Chi nhánh Cần Thơ
Phòng BH Kiên Giang
Phòng BH Cà Mau
Các tổng đại lý, đại lý, cộng tác viên bảo hiểm
Vp. BH KV. VII
Phòng BH Lạng Sơn
Phòng BH Ninh Bình
PJICO Hà Nội
Vp. BH KV III
Trong quá trình hoạt đông kinh doanh bảo hiểm với một cơ cấu tổ chức bộ máy chặt chẽ, gọn nhẹ, linh hoạt, làm việc đạt hiệu quả cao, ngoài việc khai thác phát triểm khách hàng, liên kết với các công ty bảo hiểm trong nước PJICO không ngừng củng cố và mở rộng với mối quan hệ hợp tác với các tổ chức, các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trên toàn thế giới. Điều đó được thể hiện thông qua việc PJICO là thành viên chính thức của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam có quan hệ với tập đoàn bảo hiểm và tái bảo hiểm lớn như : Munch re, Swissre, Hartfotre, West of England …
4. Một số kết quả mà PJICO đạt được từ khi thành lập
Ngay sau khi ra đời PJICO đã nhanh chóng triển khai kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm cả về chiều sâu và trên diện rộng. Số lượng nghiệp vụ bảo hiểm triển khai ngày càng tăng thêm và đa dạng hoá theo từng nghiệp vụ. Tới nay công ty đã kinh doanh trên 40 nghiệp vụ . Trong những năm đầu công ty hầu như chỉ tiến hành bảo hiểm cho các khách hàng trong cổ đông, đến nay 70 % doanh thu của công ty là của khách hàng ngoài cổ đông. Công ty đã tiến hành nhiều công trình có giá trị hàng trăm triệu đô la mỹ như : khách sạn DAEWO, toà nhà HITC, cầu Hàm Rồng, cầu Đuống, quốc lộ 1, quốc lộ 5, cao tốc xuyên á, đường Hồ Chí Minh, công trình thủy điện sông Hinh…
Vị trí, chỗ đứng, cũng như uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm ngày được củng cố. Trong hơn 7 năm hoạt động doanh thu phí bảo hiểm liên tục tăng nhanh và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân là 39 %
* Lợi nhuận
Tính đến ngày 31/12/2001 công ty đã tạo ra 60 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế và trên 30 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế. Hàng năm chia cổ tức hàng tháng 1,2 % 1 tháng gấp 1,5 đến 2 lần lãi suất tiền gửi gửi ngân hàng. Trong năm 2001 sẽ thu lại toàn bộ vốn góp cho các cổ đông
* Bảo toàn và phát triển vốn
Sự tăng trưởng của PJICO không chỉ thể hiện qua lợi nhuận mà còn thể hiện thông qua sự tích luỹ vốn trong 6 năm hoạt động vừa qua. Nguồn vốn chủ sở hữu được bảo toàn và phát triển. Vốn kinh doanh không ngừng được bổ sung bằng các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Đến 31/12/2001 số dư quỹ dự phòng trên 78 tỷ và nâng vốn kinh doanh của công ty lên gần 130 tỷ gấp 4 lần vốn góp ban đầu của các cổ đông
* Thuế nộp ngân sách
Công ty bảo hiểm PJICO luôn thực hiện đầy đủ và làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách đối với nhà nước. Mặc dù mới được thành lập và cũng không được hưởng ưu đãi nào của nhà nước nhưng sau 7 năm hoạt động công ty đã đóng góp cho ngân sách nhà nước trên 40 tỷ đồng
Đây là một doanh nghiệp trẻ lại hoạt động dưới mô hình mới mẻ là công ty cổ phần, tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đầy khó khăn, thị trường còn nhỏ. Nhưng với ý thức tự lực tự cường, quyết tâm của toàn cán bộ công nhân viên trong công ty, cùng với sự giúp đỡ của các ban ngành PJICO đã không ngừng vươn lên nhằm chiếm giữ thị phần, nâng uy tín của mình trên thị trường. Sự ra đời và hoạt động của công ty đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm lao động tại khu vực hà nội và tại các địa phương mà công ty mở chi nhánh. Đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Thu nhập của cán bộ công nhân viên năm sau cao hơn năm trước và cho tới nay đạt khoảng 1,7 triệu dồng /người/tháng
Từ những kết quả đã đạt được như trên ta có thể khẳng định rằng việc sáng lập công ty cổ phần bảo hiểm PJICO là một dự án đầu tư dài hạn rất khả thi, vừa đạt hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội cao.
II. Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 tại công ty bảo hiểm PJICO
1. Công tác khai thác
Công tác khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của nghiệp vụ bảo hiểm. Đây là khâu quyết định đến sự thành bại của công ty nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng. Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự cuả chủ xe cơ giới với người thứ 3 không chỉ đơn thuần là một sản phẩm bảo hiểm mà nó là một chính sách bắt buộc của đảng và nhà nước, nó buộc mọi người phải thực hiện. Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng, không thể xác định một cách cụ thể nên đa số chủ phương tiện xe cơ giới đều chưa nhận thức rõ ràng về loại hình bảo hiểm này
Do vậy công tác khai thác nghiệp vụ thực chất chính là quá trình vận động tuyên truyền cho các chủ xe cũng như người dân thấy được sự cần thiết, ý nghĩa tác dụng và tính chất bắt buộc của nghiệp vụ để từ đó đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho mình hoặc cho lái xe mà mình thuê trong quá trình vận hành sử dụng xe
Thực hiện tốt khâu khai thác chính là thực hiện tốt công tác tìm kiếm khách hàng mới, giữ chân khách hàng cũ, lôi kéo được những khách hàng tiềm năng về phía mình, và thuyết phục họ sẽ mua sản phẩm của mình. Điều đó sẽ hình thành lên một quỹ tài chính đủ lớn sẵn sàng chi trả bảo hiểm một cách nhanh chóng kịp thời giúp chủ xe và người thứ 3 ổn định cuộc sống. Nhận thức được một ý nghĩa hết sức to lớn này công ty đã đưa ra một hướng đi đúng đắn: (năng động, tích cực, tôn trọng lợi ích của khách hàng, lợi ích của cộng tác viên) với chữ tín làm trọng coi lợi ích khách hàng là trên hết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng phục vụ khách hàng. Ngay từ khi thành lập công ty đã không ngừng mở rộng địa bàn khai thác, đặt nhiều văn phòng đại diện tại các tỉnh, các thành phố lớn và hàng trăm các tổng đại lý lớn trên phạm vi cả nước nhằm tạo điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất cho khách hàng tiếp cận sản phẩm của công ty.
Trong thời kì đổi mới nhà nước luôn chú trọng phát triển kinh tế nhiều thành phần, tích cực khuyến khích các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế bởi vậy thị trường bảo hiểm mặc dù mới hình thành nhưng cũng đã xuất hiện rất nhiều đối thủ cạnh tranh. Do vậy thị phần bảo hiểm sẽ bị chia sẻ, phân tán tỷ trọng của công ty trên toàn thị trường bảo hiểm. Năm 1999 thị phần về nghiệp vụ trách nhiệm dân sự của các công ty như sau :
Bảo việt chiếm khoảng 53% thị phần bảo hiểm
Bảo minh chiếm khoảng 26% thị phần bảo hiểm
Pvic chiếm khoảng 8% thị phần bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm khác chiếm khoảng 7,4% thị phần bảo hiểm
PJICO chiếm khoảng 5,6% thị phần bảo hiểm
Biểu đồ biểu diễn thị phần bảo hiểm trách nhiệm dân sự năm 1999
Với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm như vậy mọi công ty bảo hiểm phải nỗ lực, biết phát huy những thế mạnh mà mình có thể giành chiến thắng với hai loại vũ khí chiến lược đó chính là giá cả và chất lượng sản phẩm. Để cạnh tranh bằng chính chất lượng và giả cả sản phẩm công ty đã thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng của sản phẩm nhằm thu hút được khách hàng tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 tại công ty. Ngoài mức phí tối thiểu do bộ tài chính quy định công ty bảo hiểm PJICO còn đưa ra các mức trách nhiệm khác nhau, kèm theo các chính sách nhằm thu hút khách hàng được minh họa ở bảng sau :
Bảng 2: Biểu phí và hạn mức trách nhiệm
TT
Loại xe
Mức I
Con người 12 tr/vụ
Tài sản 30 tr/vụ
Mức II
Conngười15 tr/vụ
Tài sản 80 tr/vụ
Mức III
Con người 20 tr/vụ
Tài sản 80 tr/vụ
Mức IV
Con người 30 tr/vụ
Tài sản 80 tr/vụ
1
Mô tô 2 bánh
- Dưới 50 cm
- Từ 50 cm trở nên
33.636
40.000
36.364
45.455
45.455
63.636
63.636
81.818
2
Xe lam, xích lô, mô tô 3 bánh
102.727
150.000
170.000
210.000
3
Xe trở người
Từ 5 chỗ trở xuống
Từ 6- 15 chỗ
Từ 16- 24 chỗ
Trên 24 chỗ
145.456
345.455
536.636
818.182
240.000
470.000
830.000
990.000
300.000
630.000
1060.000
1470.000
450.000
890.000
1620.000
1960.000
4
Xe tải
Dưới 3 tấn
Từ 3- 8 tấn
Trên 8 tấn
218.182
366.364
463.636
400.000
580.000
740.000
610.000
950.000
1310.000
865.000
1300.000
1800.000
5
Xe vừa chở người, vừa chở hàng
209.909
400.000
610.000
850.000
Đơn vị đồng
6
Đầu kéo các loại
Tính theo sức kéo quy định trọng tải như mục 4
7
Rơ móc
30% phí của xe tải ở mục 4
8
Thiết bị chuyên dùng
Tính bằng 120% so với xe cùng trọng tải
Nguồn theo quy tắc bảo hiểm xe cơ giới
Ngoài ra công ty còn ban hành thêm biểu phí và hạn mức trách nhiệm áp dụng cho chủ xe tham gia là người nước ngoài.
Trong những năm qua mặc dù thị trường bảo hiểm Hà Nội nói riêng và thị trường bảo hiểm cả nước nói chung có sự canh tranh gay gắt, thậm trí là không lành mạnh có đến 5 công ty lớn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Nhưng kết quả trong 7 năm triển khai cho thấy nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 đã giành được những kết quả đáng mừng
1.1. Về số lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm
Ngày nay số lượng các phương tiện giao thông tăng lên rất nhanh do vậy tỷ lệ xe tham gia bảo hiểm đều có xu hướng tăng dần từ năm 96 đến năm 2001 cụ thể như sau :
Bảng 3 : Tình hình tham gia bảo hiểm tại PJICO
Tiêu chí
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Số xe thực tế lưu hành( Chiếc)
- Ô tô
- Xe máy
4.595.223
386.947
4.208.274
5.484.470
434.574
5.049.896
5.692.035
468.910
5.223.125
6.132.567
521.683
5.610.884
6.647.703
565.504
6.082.198
7.611.620
601.520
7.010.100
Số xe tham gia bảo hiểm (Chiếc)
- Ô tô
- Xe máy
23.491
14.796
14.668
43.486
24386
19100
49.292
27.548
21.744
54.862
32.265
22.587
79.439
46.719
32.720
125.577
73.839
51.738
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm (%)
- Ô tô
- Xe máy
0,51
3,82
0,21
0,792
5,61
3,378
0,865
5,87
0,416
0,894
6,16
0,402
1,19
8,26
0,537
1,65
12,27
0,738
Nguồn báo cáo hàng năm của PJICO
Qua số liệu ở bảng 3 ta tính được một số các chỉ tiêu như sau :
Bảng 4 Một số các chỉ tiêu về tình tham gia bảo hiểm tại PJICO
Đơn vị %
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
A, Đốivới xe thực tế lưu hành
1, Tốc độ tăng
* Tốc độ tăng liên hoàn
- Ô tô
- Xe máy
* Tốc độ tăng so với định gốc
- Ô tô
- Xe máy
2, Tốc độ phát triển
* Tốc độ phát triển liên hoàn
- Ô tô
- Xe máy
* Tốc độ phát triển định gốc
- Ô tô
- Xe máy
19,35
12,308
19,99
19,35
12,308
19,99
119,35
112,308
119,99
119,35
112,308
119,99
3,784
7,9
3,43
23,86
21,18
24,11
103,78
107,9
103,43
123,868
121,18
124,11
7,74
11,29
7,42
33,45
34,82
33,33
107,74
111,29
107,42
133,45
134,82
133,33
8,4
8,36
8,4
44,66
46,14
44,53
108,4
108,36
108,4
144,66
146,14
144,53
14,5
6,368
15,25
65,64
55,45
66,57
114,5
106,368
115,25
165,64
155,45
166,57
B, Đối với số xe tham gia bảo hiểm
1, Tốc độ tăng
* Tốc độ tăng liên hoàn
- Ô tô
- Xe máy
* Tốc độ tăng định gốc
- Ô tô
- Xe máy
2, Tốc độ phát triển
* Tốc độ phát triển liên hoàn
- Ô tô
- Xe máy
* Tốc độ phát triển định gốc
- Ô tô
- Xe máy
85,11
64,81
121,56
85,11
64,81
121,56
185,11
164,81
221,77
185,11
164,81
121,56
13,35
12,96
13,84
109,83
86,18 152,19
113,35
112,96
113,84
209,83
186,18
252,19
11,3
17,12
3,87
133,54
118,06
161,96
111,3
117,12
103,87
233,54
218,54
261,96
44,79
44,8
44,86
238,167
215,75
279,49
144,79
144,8
144,86
338,1672315,75
379,49
58,07
58,05
58,12
434,5
339,04
500
158,07
158,05
158,12
534,59
439,04
600
Nhìn vào bảng tính chỉ tiêu trên ta thấy số lượng xe cơ giới tham gia lưu thông ngày càng tăng dần. Năm 2000 so với năm 1996 lượng xe cơ giới tăng 65,64%, số xe tham gia bảo hiểm cũng tăng dần từ năm 1996 đến năm 2000 cụ thể như sau :
Năm 1996 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 0,51% tổng số xe lưu hành
Năm 1999 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 0,89% tổng số xe lưu hành
Năm 200 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 1,19% số xe lưu hành
Năm 2001 số xe tham gia bảo hiểm chiếm 1,65% số xe lưu hành
Về số tuyệt đối năm 1996 số xe tham gia bảo hiểm tại công ty là 23.414 xe. Năm 2000 số xe tham gia bảo hiểm là 79439 xe tăng 46,66% so với năm 1996
Tuy nhiên nhìn vào tỷ trọng số xe cơ giới tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại công ty còn rất nhỏ bé so với số lượng xe thực tế lưu hành. Mặc dù trên thực tế số lượng xe máy tham gia giao thông gấp 12 lần xe ô tô đó là điều nghịch lý, chứng tỏ công ty chưa chú tâm khai thác nghiệp vụ này đối với xe máy. So với bảo việt thì số lượng xe máy tham gia nghiệp vụ này lại cao hơn rất nhiều so với ô tô. Điều này cũng dễ hiểu bởi bảo việt là công ty triển khai nghiệp vụ này là sớm nhất, họ đã giành được thị phần lớn, hơn nữa họ lại có một hệ thống, mạng lưới kinh doanh trong cả nước. Ngoài ra bảo việt còn phối hợp với các cơ quan đăng kiểm, đăng kí xe để bắt buộc các chủ phương tiện phải mua bảo hiểm khi đăng ký xe.
Đối với PJICO là một công ty mới thành lập, nhưng đã sớm khẳng định mình trên thị trường bảo hiểm. Những nghiệp vụ mà công ty triển khai đã và đang đóng góp không nhỏ vào thành quả chung của công ty. Trong đó nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 đang có mức tăng trưởng khá và ổn định. Tuy vậy công ty chưa thực sự khai thác được tiềm năng của thị trường này.
* Đối với ô tô
Số lượng ô tô từ năm 1996 đến năm 2001 tăng xấp xỉ 9,3% một năm. Năm 1996 cả nước có 386.946 xe thì đến năm 2001 có 601.520 xe. Trong đó số xe được bảo hiểm trong cả nước năm 1996 là 86.998 xe, trong khi tham gia tại PJICO là 14.796 xe chiếm gần 6% số lượng xe tham gia bảo hiểm trong toàn quốc.
Số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm năm 1999 là 167.625 xe trong khi số xe tham gia tại công ty là 32265 xe chiếm gần 19,24% số lượng xe tham gia bảo hiểm trên toàn quốc. Năm 2000 số xe ô tô tham gia bảo hiểm trên cả nước là 199.630 xe trong đó tham gia tại PJICO là 46719 xe chiếm gần 23,4% số lượng xe tham gia bảo hiểm trong toàn quốc.Tỷ lệ ô tô được bảo hiểm bình quân ở giai đoạn này mới chỉ đạt gần 35% tổng số xe các loại. Điều đó chứng tỏ số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm tại công ty có xu hướng tăng nhanh, thị phần của công ty ngày càng được củng cố và không ngừng mở rộng
* Đối với xe máy
Số lượng xe máy lưu hành trên toàn quốc từ năm 1996 đến năm 2001 tăng bình quân 12,575% một năm. Năm 2001 số lượng xe máy tăng 66,57% so với năm 1996. Về số tuyệt đối năm 1996 trên cả nước có 4.208.247 xe thì đến năm 2001 số xe lưu hành đã là 7.010.100 xe. Năm 1996 số xe máy tham gia bảo hiểm là 900.000 chiếc chiếm 21,386%. Năm 2001 thì chỉ có 1.121.616 chiếc được bảo hiểm chiếm 10,6% tổng số xe lưu hành đó là điều nghịch lý bởi cũng trong khoảng thời gian này số lượng xe máy tăng lên 66,57% so với năm 1996. Trong khi đó số xe máy tham gia tại công ty năm 1996 là 8.622 chiếc chiếm chưa đầy 1% so với lượng xe bảo hiểm trong toàn quốc. Đến năm 2001 thì số xe tham gia bảo hiểm tại công ty là 51.738 chiếc gấp 6 lần số xe tham gia bảo hiểm năm 1996. Tỷ lệ xe máy được tham gia bảo hiểm bình quân cả nước trong giai đoạn 96 đến 2001 mới chỉ đạt 10,6% tổng số xe lưu hành, tỷ lệ xe máy tham gia bảo hiểm lại thấp dần qua các năm :
Cụ thể năm 1996 tỷ lệ xe máy tham gia bảo hiểm là 21,368%, năm 1997 là 16,6%, năm 2000 chỉ còn 10,6%. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do số lượng xe tham gia bảo hiểm tăng nhẹ trong khi số xe tham gia lưu thông lại tăng rất nhanh qua các năm.
Từ khi có nghị định 115/1997/CP về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 thì số xe tham gia bảo hiểm tại công ty có xu hướng tăng trong khi số xe tham gia bảo hiểm trong cả nước lại có xu hướng giảm chứng tỏ việc khai thác ở công ty đã giành được những thành tích đáng khích lệ.
Tuy nhiên trong khâu khai thác còn rất nhiều mặt hạn chế cần sớm được khắc phục. Những hạn chế này xuất phát từ rất nhiều những nguyên nhân khác nhau :
Xét trên giác độ chủ quan ( về phía công ty )
Hầu hết cán bộ công nhân viên công ty có trình độ cao (trên 95% có trình đại học trở nên) tuy nhiên do chưa có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là khâu khai thác do đó hiệu quả khai thác là chưa cao. Mặc dù có nhiều nhân viên có trình độ đại học nhưng số nhân viên được đào tạo chuyên sâu về bảo hiểm là còn nhiều hạn chế.
Do công ty chưa biết tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các ngành, các cấp có liên quan trong việc tạo điều kiên thuận lợi để khai thác hết tiềm năng bảo hiểm
Do sự cạnh tranh gay gắt khiến cho các công ty hạ phí xuống mức tuỳ ý đã làm cho công ty bị động, nên việc cạnh tranh thu hút khách hàng gặp nhiều khó khăn
Công tác tuyên truyền còn nhiều hạn chế, do vậy người dân chưa thấy được lợi ích và nghĩa vụ khi tham gia bảo hiểm
Các mức phí mà công ty áp dụng chưa linh hoạt, chưa phù hợp với khả năng tài chính của công ty và người tham gia bảo hiểm
* Về phía cơ quan hữu quan :
Đứng về phía người tham gia bảo hiểm : Do các chủ xe và lái xe chưa nhận thức đúng, đầy đủ về ý nghĩa tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, tâm lý của một số người còn cho rằng khi có tai nạn xảy ra thì họ khó có thể đòi ngay được tiền bồi thường do thủ tục bồi thường còn chậm chạp, mất thời gian. Vì vậy họ coi việc tham gia nghiệp vụ này chỉ vì tính bắt buộc, do vậy các chủ phương tiện xe cơ giới chưa có thái độ tự giác tự nguyện tham gia
Do sự lỏng lẻo của cơ quan chức năng đặc biệt là lực lượng cảnh sát giao thông chưa kiểm tra sát sao và chặt chẽ các giấy tờ cần thiết khi lưu hành xe, Đặc biệt là giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1.2. Về doanh thu phí bảo hiểm
Mặc dù thị trường bảo hiểm luôn có sự cạnh tranh gay gắt thậm trí là sự cạnh tranh không lành mạnh, nhưng công tác khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3 ở công ty vẫn đạt được những kết quả khả quan.Tỷ trọng doanh thu phí nghiệp vụ so với tổng doanh thu toàn công ty có xu hướng giảm nhưng về số tuyết đối thì doanh thu nghiệp vụ có xu hướng tăng qua các năm cụ thể :
Bảng 5 : Bảng tỷ trọng doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Năm
Doanh thu nghiệp vụ (triệu đồng)
Doanh thu bảo hiểm gốc toàn công ty
(Triệu đồng)
Tỷ trọng doanh thu bảo hiểm trách nhiệm dân sự (%)
1996
4232
52230
8,1
1997
5355
80279
6,67
1998
6058
96353
6,287
1999
6795
97276
6,985
2000
9732
123655
7,87
2001
15604
146538
10,648
Nguồn phòng quản lý nghiệp vụ
Trong bảng 4 ta thấy tốc độ tăng xe máy tham gia bảo hiểm là nhanh hơn số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm. Cụ thể tốc độ tăng về số xe máy tham gia bảo hiểm năm 2001 so với năm 1996 là 500% trong khi ô tô tỷ lệ này là 339,04%
Tuy nhiên do mức phí bảo hiểm bình quân một xe máy là thấp hơn rất nhiều lần so với phí bảo hiểm bình quân của một đầu xe ô tô. Các chủ xe máy tham gia bảo hiểm phần lớn là tham gia do tính bắt buộc nên không tham gia với mức trách nhiệm cao. Trong khi các chủ xe ô tô tham gia với mức trách nhiệm cao và có tính tự nguyện bởi họ ý thức được sự nguy hiểm khi điều khiển xe ô tô, họ ý thức được trách nhiệm của mình. Do vậy nguồn phí thu được từ ô tô đem lại nhiều hơn :
Bảng 6 : Doanh thu phí theo cơ cấu xe tham gia bảo hiểm
Doanh thu phí
(triệu đồng)
1996
1997
1998
1999
2000
2001
- Ô tô
3895,28
4926,6
5573,36
6238,8
9054,6
13899,4
- Xe máy
338,72
428,4
484,64
556,93
667,488
1704,56
Tổng cộng
4234
5355
6058
6795
9732
15604
Nguồn phòng kế toán công ty PJICO
Tổng doanh thu phí nghiệp vụ tăng nên hàng năm, năm sao cao hơn năm trước và luôn vượt mức kế hoạch đề ra :
Bảng 7 : Tình hình thực hiện kế hoạch thu phí nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Năm
Số phí bảo hiểm kế hoạch (triệu đồng)
Phí thực thu
(Triệu đồng)
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch ( đơn vị %)
1996
3535
4234
119,8
1997
4137
5355
128,32
1998
4639
6058
130,6
1999
6067
6795
112
2000
8896
9732
109,4
2001
12238
15604
127,5
Nguồn phòng quản lý nghiệp vụ
Nhìn vào bảng 7 ta thấy :
Năm 1996 công ty thu được 4234 triệu đồng đạt 119,8% kế hoạch vượt kế hoạch 699 triệu đồng
Năm 1997 công ty thu được 5355 triệu đồng đạt 128,32% vượt kế hoạch
Năm 1998 là năm vượt kế hoạch cao nhất đạt 130,6% kế hoạch
Năm 2000 công ty thu được 9732 triệu đồng đạt 109,4% kế hoạch, vượt kế hoạch 836 triệu đồng
Nhìn chung công tác khai thác đã giành được nhiều kết quả khả quan, số phí thu được và số lượng xe tham gia bảo hiểm tại công ty ngày một tăng thế nhưng so với số lượng xe thực tế lưu hành thì tỷ lệ này là quá nhỏ (năm 2001 là 1,65%). Do vậy tiềm năng về khả năng phát triển nghiệp vụ này là rất khả quan. Công ty cần tích cực trú trọng vào khâu khai thác, tích cực nâng cao chất lượng nghiệp vụ và không ngừng tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ phương tiện cơ giới. Điều đó góp phần không nhỏ làm tăng doanh thu cho công ty và giúp ổn định cuộc sống cho người bị hại.
. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Trong những năm qua tình hình tai nạn giao thông đường bộ ngày càng có diến biến phức tạp, số vụ tai nạn xảy ra ngày càng tăng và tính nghiêm trọng của nó cũng cao hơn. Với phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phòng chống tai nạn giao thông xảy ra ở nước ta. Đề phòng và hạn chế tổn thất đó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình kinh doanh của bất kì một công ty bảo hiểm nào. Bởi vì thực chất của hoạt động bảo hiểm là chuyển giao rủi ro cho nhà bảo hiểm, theo đó người tham gia bảo hiểm đồng ý trả cho người bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm và người bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người tham gia. Do vậy công ty bảo hiểm rất quan tâm đến việc quản lý rủi ro tổn thất thông qua đề phòng và hạn chế tổn thất. Đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi của công ty bảo hiểm
Nếu thực hiện tốt khâu này thì số vụ tổn thất sẽ giảm đi và công ty bảo hiểm sẽ giảm số tiền bồi thường cho các đối tượng tham gia bảo hiểm góp phần làm tăng lợi nhuận cho công ty. Mặt khác công tác đề phòng và hạn chế tổn thất còn đem lai sự an toàn, sự bình yên và một tâm lý thoải mái cho mọi người trong cuộc sống và trong hoạt động sản suất kinh doanh
Bởi vậy ngay từ khi triển khai nghiệp vụ này công ty bảo hiểm PJICO luôn quan tâm chú ý coi trọng công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Công ty đã cùng các ngành giao thông xây dựng hàng loạt đường lánh nạn và các đường rào chắn ở một số các đoạn đường nguy hiểm như đèo Măng Găng, đèo Hải Vân, đèo Gió, đèo Ngoạn Mục
Công ty cũng tiến hành phối hợp với các cơ quan, ngành chức năng như sở giao thông công chính, phòng cảnh sát giao thông thực hiện tuyên truyền trên địa bàn về luật an toàn giao thông nhằm nâng cao sự hiểu biết và ý thức chấp hành luật lệ giao thông của nhân đân và các chủ phương tiện cơ giới
Đối với ngành đường sắt công ty tiến hành lắp các lưới chống gạch đá và lắp các barie để tránh các nơi có đường bộ giao với đường sắt, công ty cũng lắp đặt các pa nô- áp phích, biển báo góp phần nhắc nhở lái xe và mọi người đề phòng tránh những tai nạn đáng tiếc xảy ra
Công ty cũng yêu cầu các chủ xe thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất như thường xuyên kiểm định tu dưỡng bảo dưỡng xe, đảm bảo an toàn kỹ thuật khi vận hành xe
Khi tai nạn xảy ra thì các chủ phương tiện phải có trách nhiệm hạn chế tối thiểu thiệt hại cho tài sản và đưa người bị thương đến cơ sở y tế nơi gần nhất. Hàng năm công ty luôn trích 3% kinh phí để thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Để thấy rõ tình hình chi đề phòng và hạn chế tổn thất của PJICO ta có bảng sau đây
Nhìn vào bảng 8 ta thấy số tiền chi đề phòng và chế tổn thất tăng qua các năm :
Năm 1996 chi đề phòng và hạn chế tổn thất là 95,265 triệu đồng
Năm 1999 chi đề phòng và hạn chế tổn thất 147,45 triệu đồng
Năm 2000 chi đề phòng và hạn chế tổn thất 219,9 triệu đồng
Năm 2001 số tiền tăng nên là 336,3 triệu đồng tăng gấp 2,8 lần so với năm 1996. Trong đó tuyên truyền quảng cáo chiếm tỷ trọng lớn. Năm 1996 chi cho tuyên truyền quảng cáo chiếm tới 40,64% tổng chi. Năm 2000 chiếm tới 42,62% tổng chi. Sang năm 2001 chi cho tuyên truyền quảng cáo tại công ty vẫn có xu hướng tăng
Tỷ lệ chi cho hỗ trợ và khen thưởng chiếm một phần lớn. Năm1996 chiếm tới 29,12% tổng chi, năm 2001 thì tỷ lệ này giảm xuống còn 25,82%. Tổng chi đề phòng và hạn chế tổn thất cũng tăng nhanh qua các năm qua các năm:
Năm 1998 so với năm 1996 tăng 84,94%
Năm 1999 so với năm 1998 giảm 17,8%
Năm 2000 so với năm 1999 tăng 49,15%
Năm 2001 so với năm 2000 tăng 52,9%
Qua đây ta thấy được rằng trong giai đoạn đầu công ty chi nhiều cho công tác tuyên truyền quảng cáo. Sở dĩ như vậy là do trong giai đoạn này công ty mới gia nhập thị trường bảo hiểm công ty cần tạo được hình ảnh cho mình, tạo uy tín và khắc sâu trong ý thức của khách hàng.
PJICO luôn nhận thức được vai trò công tác đề phòng và hạn chế thất thế nhưng hiệu quả của công tác nay chưa cao, điều này thể hiện tuy số vụ tai nạn đã giảm nhưng mức độ thiệt hại của mỗi vụ lại có xu hướng tăng nên
Sở dĩ như vậy là do cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông lạc hậu lại bị xuống cấp nghiêm trọng, ít sửa chữa, mật độ của các phương tiện tham gia giao thông ngày càng tăng do vậy dẫn đến tỷ lệ tai nạn giao thông có xu hướng tăng lên. Mặt khác do doanh thu phí nghiệp vụ là nhỏ, chi phí dành cho đề phòng hạn chế tổn thất lại chỉ chiếm 3% doanh thu thì lại càng ít ỏi hơn do vậy hiệu quả của công tác này còn nhiều hạn chế
Công ty cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa, cần nghiên cứu sao cho việc thực hiện công tác này có hiệu quả, giảm thiểu được những thiệt hại, đẩm bảo an toàn cho các phương tiện giao thông cơ giới, người thứ 3 và cộng đồng
3. Công tác giám định - bồi thường
3.1 Công tác giám định
Công tác giám định là một khâu trung gian giữa khâu khai thác và khâu bồi thường
Nó có tác dụng giúp cho việc tính toán bồi thường được chính xác và kịp thời.
Những thiệt hại về người và tài sản và mức độ lỗi của các bên là rất phức tạp đòi hỏi có sự chính xác. Khi có sự thông báo tai nạn xảy ra các giám định viên của công ty phải kịp thời tới ngay hiện trường để thu thập các chứng cứ có liên quan đến vụ tai nạn và phối hợp với cảnh sát giao thông để xác định nguyên nhân gây ra tai nạn.
Đồng thời cán bộ giám định đánh giá mức dộ thiệt hại và mức độ lỗi của các bên. Tuy nhiên công việc này rất là phức tạp vì nó liên quan đến lợi ích của nhiều bên, đặc biệt là bên thứ 3, việc xác định căn cứ vào luật dân sự và luật lệ an toàn giao thông. Do vậy đòi hỏi cán bộ giám định phải có chuyên môn sâu về nghiệp vụ, phải am hiểu luật dân sự và luật an toàn giao thông, hiểu biết về thông tin giá cả thị trường, am hiểu về kỹ thuật
Kiến thức này sẽ giúp cho việc giám định một cách chính xác, tránh tình trạng giám định sai làm tổn hại đến uy tín của công ty và mất đi quyền lợi khách hàng. Ngoài ra để tránh trường hợp trục lợi bảo hiểm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Các giám định viên ngoài trình dộ chyên môn phải có tư cách đạo đức tốt, tận tụy với khách hàng. Góp phần nâng cao uy tín với khách hàng và thu hút nhiều khách hàng mua nhiều sản phẩm bảo hiểm của công ty
Để tạo điều kiện cho công tác giám định thì công ty đã không ngừng đầu tư trang thiết bị hiện đại như : máy ảnh, thước, phương tiện liên lạc, phương tiện đi lại…
Ngoài ra công ty cũng đã phối hợp với các cơ quan chức năng, phòng cảnh sát giao thông cùng phân định lỗi mỗi khi có thiệt hai xảy ra, tạo nên sự phối hợp chặt chẽ và khách quan trong khâu giám định tạo lòng tin cho khách hàng giúp cho quá trình bồi thường nhanh gọn tiết kiệm, tạo tâm lý thoả mái, tin cậy lẫn nhau
Năm 1996 xảy ra 617 vụ tai nạn thuộc trách nhiệm của công ty. Công ty đã tiến hành giám định 602 vụ và chuyển hồ sơ cho phòng bồi thường để giải quyết còn 15 vụ chưa rõ ràng thì chuyển sang năm sau. Năm1997 công ty đã giám định 655 vụ còn 21 vụ chuyển sang năm sau
Năm 2001 công ty đã tiến hành giám định 527 vụ còn 25 vụ chuyển sang 2001
Như vậy số vụ tai nạn được giám định trong năm chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ tai nạn phát sinh thuộc trách nhiệm. Điều đó thể hiện những nỗ lực của cán bộ công nhân viên toàn công ty nói chung và của bộ phận giám định nói riêng
Tuy nhiên cũng phải nói nên một thực tế khó khăn gây trở ngại lớn đến công tác giám định của công ty, làm ảnh hưởng xấu đến khâu bồi thường
Thứ nhất:
Do công ty mới bước vào thị truờng bảo hiểm được 7 năm do vậy kinh nghiệm còn nhiều hạn chế hơn nữa cán bộ công nhân viên giám định tại công ty chưa được đào tạo chính quy về công tác này, những hiểu biết về xe cơ giới còn hời hợt không chuyên sâu
Do đó thường xuyên gặp phải những lúng túng và những vướng mắc trong quá trình giám định. Đặc biệt là những vụ tai nạn có tính nghiêm trọng và phức tạp, có nhiều chi tiết bỏ qua mà từ đó có thể bị trục lợi hoặc trốn tránh trách nhiệm bồi thường của chủ xe
Thứ hai:
Do địa bàn tham gia bảo hiểm cũng như xe cơ giới là rất rộng, mà công ty chưa có chi nhánh ở hầu hết các tỉnh do vậy sẽ gây khó khăn trong việc giám định trực tiếp tại hiện trường
Thứ ba:
Do số nhân viên giám định trình độ còn hạn chế, số lượng thì ít. Hầu hết hồ sơ biên bản giám định phải dựa trên hồ sơ của công an, bệnh viện và các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đây là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc giám định thiếu chính xác, không đánh giá đúng tổn thất thực tế là bao nhiêu, gây phát sinh tiêu cực trong khâu bồi thường
Hầu hết các vụ tai nạn xảy ra việc xác định lỗi là rất khó, thường là do sự thương lượng giữa các bên tham gia, chỉ khoảng gần 5% số vụ phải đưa ra xét xử. Khi tai nạn xảy ra thì mọi hồ sơ lại do công an trực tiếp quản lý và lắm giữ, sự phối hợp giữa công ty và cơ quan công an còn lỏng lẻo. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới công tác giám định. Để hoàn thiện công tác giám định công ty đã và đang tăng cường đội ngũ cán bộ công nhân viên giám định cả về số lượng và chất lượng nhằm giám định một cách nhanh chóng,chính xác, kịp thời tạo uy tín của PJICO trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
3.2. Công tác bồi thường
Giải quyết bồi thường là một khâu rất quan trọng, đây là một công việc cuối cùng của một hợp đồng bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Cùng với khâu giám định nó ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, kết quả, hiệu quả kinh doanh của công ty. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì công tác bồi thường chính là lúc nghiệp vụ này thể hiện rõ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của nó.
Nhận thức được tầm quan trọng này công ty bảo hiểm PJICO đã rất quan tâm chú trọng đến công tác giải quyết bồi thường. Trong quá trình tiếp nhận hồ sơ bồi thường từ khách hàng thì cán bộ công nhân viên luôn hướng dẫn khách hàng hoàn tất thủ tục hồ sơ theo đúng quy định với tinh thần, thái độ tận tình. Nhân viên công ty ấn định rõ ngày trả tiền bồi thường, chủ động liên lạc qua điện thoại nhằm hạn chế việc đi lại gây phiền hà cho khách hàng. Mỗi năm xác suất xảy ra tai nạn là khác nhau, với mức độ khác nhau nên công tác bồi thường ở PJICO hàng năm cũng khác nhau.
Để có một cái nhìn thực sự bao quát và một nhận xét chính xác hơn, khách quan hơn về công tác bồi thường tại công ty chúng ta sẽ xem xét phân tích số liệu ở bảng sau đây:
Qua bảng trên ta thấy số vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm trách nhiệm dân sự và số tiền bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3 tại công ty có sự biến động qua các năm.
Năm 1996 xảy ra 617 vụ chiếm 2,62% tổng số xe tham gia bảo hiểm
Năm 1997 số vụ tai nạn là 676 vụ chiếm 1,55% trong đó chủ yếu là ô tô với 466 xe chiếm 68,93% số vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm. Bước sang năm 1998 và 1999 tình hình giao thông có những chuyển biến tích cực số vụ tai nạn có xu hướng giảm.
Năm 1998 xảy ra 617 vụ chiếm 1,25% tổng số xe tham gia bảo hiểm.
Năm 1999 số vụ tai nạn giảm chỉ còn 574 vụ. Đến năm 2001 là 552 vụ. Điều này cho thấy số vụ tai nạn có xu hướng giảm điều đó là do trong vài năm trở lại đây công tác đề phòng và hạn chế tổn thất đã bắt đầu phát huy hiệu quả, các chủ xe đã ý thức được phần nào trách nhiệm nghề nghiệp của mình do đó đã hạn chế được số vụ tai nạn xảy ra.
Mặc dù số lượng các vụ tai nạn giao thông có xu hướng giảm xuống nhưng tổng số tiền bồi thường và số tiền bồi thường bình quân một vụ lại có xu hướng tăng nhanh.
Năm 1996 tổng số tiền bồi thường là 3,0188 tỷ đồng, số tiền bồi thường bình quân một vụ là 5,014 triệu đồng. Năm 1998 số tiền bồi thường là 4,325 tỷ đồng, số tiền bồi thường bình quân một vụ là 6,659 triệu đồng. Năm 1999 số tiền bồi thường lên đến 4,599 tỷ đồng. Mặc dù số vụ tai nạn đã giảm đáng kể nhưng do mức độ tổn thất cuả các vụ tai nạn lại có xu hướng tăng thêm làm cho số tiền bồi thường bình quân một vụ năm 1999 tăng lên 8,24 triệu đồng. Bước sang năm 2001 số tiền bồi thường bình quân một vụ là 19,373 triệu đồng tăng 2,35 lần so với năm 1999.
Qua số liệu cũng cho ta thấy số tiền bồi thuờng bình quân một vụ của xe ô tô cao hơn rất nhiều lần đối với xe máy. Trong các năm từ 1998 đến 2001 số tiền bồi thường xe ô tô luôn gấp từ 8,3 đến 59,47 lần so với xe máy. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi vì mức độ thiệt hại do xe ô tô gây ra luôn cao hơn rất nhiều so với xe máy, xác suất tai nạn ô tô xảy ra cao hơn xe máy và số xe ô tô tham ra bảo hiểm tại công ty nhiều hơn so với xe máy.
Quý I năm 2001 xảy ra rất nhiều các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, tỷ lệ tai nạn giao thông tăng trên 130,3%. Đây là một thách thức lớn cho ngành bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng.
Công ty cần phải chú trọng đến công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, đặc biệt chú ý đến công tác tổ chức tuyên tryền giáo dục ý thức chấp hành luật lệ giao thông và nghị định 36 CP của thủ tướng chính phủ.
Tỷ lệ được giải quyết bồi thường tại PJICO là khá cao. Năm 1996 tỷ lệ giải quyết bồi thường là 97,57%, năm 1998 tỷ lệ này là 98,92%, sang năm 2000 và 2001 tỷ lệ này lần lượt là 96,5% và 95,63%. Điều đó chứng tỏ công ty rất quan tâm đến giải quyết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm điều này đã được khẳng định trên các phương tiện thông tin đại chúng khi PJICO được công nhận là một doanh nghiệp bảo hiểm có chữ tín trong ngành giao thông vận tải. Tuy vậy trong năm vẫn còn những vụ tồn đọng sang năm mới giải quyết chứng tỏ công tác bồi thường vẫn còn một số những điểm yếu nhất định cần sớm được khắc phục như:
Hồ sơ yêu cầu bồi thuờng của chủ xe không đầy đủ, thiếu cơ sở pháp lý(dấu, xác nhận của cơ quan chức năng) đã làm kéo dài thời gian bồi thường, nhiều khi các chủ xe không hiểu rõ đã đổ lỗi cho công ty gây nhiều phiền hà, rắc rối.
Các chủ xe thường đưa ra mức bồi thường thấp trong khi người bị hại lại đưa ra mức bồi thường vô lý điều này đẩy nhà bảo hiểm rơi vào tình thế đứng giữa hai bên nên cùng thương lượng để giải quyết.
Trong một số vụ tai nạn cán bộ giám định thường không thực hiện được giám định trực tiếp do đó công tác xác định lỗi và thiệt hại thực tế chỉ còn căn cứ vào hồ sơ, biên bản giải quyết tai nạn của cảnh sát giao thông làm cho quá trình bồi thường gặp nhiều khó khăn.
Những vụ tai nạn hầu hết không xác định đúng thiệt hại như:
+ Mất thu nhập: Hiện nay chưa có một cơ quan nào xác định được thu nhập thực tế của người lao động
+ Chi phí y tế: Do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà bảo hiểm và cơ quan y tế, người bị hại dễ dàng làm các hoá đơn thanh toán giả, xây dựng các bệnh án giả và sử dụng các loại thuốc đắt tiền. Đó là những nguyên nhân xảy ra tình trạng trục lợi bảo hiểm từ phía người tham gia gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Mặc dù dang có những hạn chế như vậy nhưng nhìn chung công tác giả quyết bồi thường của công ngày càng hoàn thiện và thực hiện một cách tốt hơn giúp chủ xe thấy đựoc quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, góp phần đảm bảo trật tự và an toàn xã hội.
4. Đánh giá tình hình kinh doanh nghiệp vụ qua một số năm
4.1. Kết quả kinh doanh
Kết quả kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả của quá trình thực hiện nghiệp vụ từ khâu khai thác đến khâu bồi thường nó có ý nghĩa thiết thực đối với việc mở rộng và hoàn thiện nghiệp vụ
Bởi vì khi kết quả kinh doanh khả quan, có lãi sẽ tạo điều kiện cho công ty triển khai một cách sâu rộng nghiệp vu này và duy trì sự ổn định trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ. Kết quả của hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là doanh thu và lợi nhuận. Trong đó lợi nhuận là thức đo hữu hiệu nhất kết quả kinh doanh nó cho phép được tốc độ tăng trưởng kinh doanh
Lợi nhuận được xác định theo công thức:
Lợi nhuận nghiệp vụ = Tổng thu nghiệp vụ - Tổng chi nghiệp vụ
Trong đó doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là toàn bộ số tiền hay toàn bộ số phí mà công ty bảo hiểm thu được từ chủ xe cơ giới
Chi nghiệp vụ bao gồm các khoản chi :
Bồi thường: Đây là khoản chi chủ yếu của các công ty bảo hiểm chiếm tới 73%
Chi quản lý
Chi cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất (3 % doanh thu)
Chi hoa hồng
Chi thuế
Chi khác
Do vậy kết quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 là :
Kết quả kinh doanh = Tổng phí thu được – (Tổng chi bồi thường + chi quản lý + chi đề phòng và hạn chế tổn thất + chi hoa hồng + chi thuế + chi khác)
Để đánh giá chi tiết hơn ta xem số liệu bảng sau
Trong các năm từ 1996 đến 2001 kết quả kinh doanh nghiệp vụ luôn ổn định năm sau cao hơn năm trước. Năm 1996 tổng chi nghiệp vụ là 3,2827 tỷ chiếm 77,59% doanh thu phí thu được. Trong đó tỷ lệ chi bồi thường chiếm 71,3% so với doanh thu, lãi thu được từ hoạt động kinh doanh nghiệp vụ là 948,523 triệu đồng
Năm 1997 tổng chi là 4,233 tỷ đồng. Trong đó chi bồi thường là 3,901 tỷ chiếm tới 92,17% so với tổng chi. Chi đề phòng và hạn chế tổn thất 117,1 triệu chiếm 2,53% so với tổng chi. Lợi nhuận nghiệp vụ là 1121,97 triệu đồng tăng 18,28% so với năm 1996. Năm 2000 thì tổng lợi nhuận đạt 2264,89 triệu đồng tăng 32,55% so với năm 1999. Bước sang năm 2001 tổng chi nghiệp vụ 11857,8 triệu đồng chiếm 75,99% doanh thu phí thu được. Trong đó tỷ lệ bồi thường chiếm 89,53% so với tổng chi, lãi từ hoạt động kinh doanh 3746,204 triệu đồng tăng 65,4% so với năm 2000
Đó là những kết quả đáng mừng mà công ty đạt được trong những năm qua. Để có được những kết quả như vậy là do sự cố gắng nhiệt tình của cán bộ công nhân viên toàn công ty. Kết quả này đã tạo ra một nền tảng vững chắc, sự hứng khởi cho cán bộ công nhân viên toàn công ty phấn đấu thực hiện tốt hơn nữa nghiệp vụ này trong thời gian tới.
4.2. Hiệu quả kinh doanh
Chỉ tiêu kết quả kinh doanh chỉ là những chỉ tiêu bề nổi thì các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu bề sâu. Bởi vì kết quả kinh doanh chỉ nói nên được một phần trạng thái của các kết quả kinh doanh chứ chưa đề cập đến chi phí. Hiệu quả kinh doanh phản ánh mối quan hệ tương quan giữa chi phí bỏ ra và doanh thu đạt được
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty ta xét bảng sau:
Bảng 11: chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Doanh thu (DT)
triệu đồng
4234
5355
6058
6795
9732
15604
Tổng chi (TC) triệu đồng
3285,47
4233,03
4807,7
5086,35
7467,1
11857,8
Lợi nhuận (LN)
triệu đồng
948,523
1121,97
1250,28
1708,56
2264,89
3746,204
H = LN/ DT
(Đ/Đ)
0,224
0,2095
0,206
0,2514
0,2327
0,24
H=DT/ TC (Đ/Đ)
1,288
1,265
1,26
1,335
1,3
1,315
H= LN/TC (Đ/Đ)
0,288
0,26
0,26
0,335
0,303
0,316
Từ bảng số liệu trên ta thấy hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ còn thấp. Chỉ tiêu LN/DT qua các năm có sự biến động nhưng vẫn duy trì ở mức 0,2 nghĩa là cứ khai thác được 1 đồng doanh thu sẽ cho được 0,2 đồng lợi nhuận. Các chỉ tiêu DT/TC thường dao động ở mức 1,28 đến 1,33 tức là cứ 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ thu về 1,28 đến 1,33 đồng doanh thu. Đây là mức còn khiêm tốn chứng tỏ hiệu quả nghiệp vụ này là chưa cao.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm lớn nhất của một chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Tăng thu giảm chi một cách hợp lý và có kế hoặch làm cho hiệu quả kinh doanh được nâng lên. Ngoài các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế chúng ta còn đề cập các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả về mặt xã hội. Mặc dù chỉ tiêu này không biểu hiện rõ ràng cụ thể bằng các con số thống kê, nhưng nghiệp vụ này đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc đảm bảo an toàn xã hội, giúp người bị hại khắc phục khó khăn về vật chất cũng như tinh thần cho chủ xe và người thứ 3 sau những vụ tai nạn. Đây chính là hiệu quả lớn nhất mà nghiệp vụ đã đạt được trong quá trình triển khai. Công ty cần phải duy trì và nâng cao hơn nữa hiệu quả của nghiệp vụ trong những giai đoạn kế tiếp trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
CHƯƠNG III
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại PJICO
I. đánh giá thuận lợi và khó khăn công ty của công ty
Công ty bảo hiểm PJICO là một công ty được thành lập trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta có nhiều những chuyển biến mạnh mẽ, phức tạp trong giai đoạn thị trường bảo hiểm của Việt Nam bắt đầu hình thành và phát triển với nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen nhau trong quá trình hoạt động đó là :
1. Những thuận lợi.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang dành được nhiều thành tựu đáng khích lệ sau 10 năm đổi mới, tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt trên 9%. Thu nhập đầu người tăng nhanh. Số lượng xe cơ giới tham gia lưu thông ngày càng lớn. T heo ước tính cứ GDP tăng 1% thì số lượng xe cơ giới lưu hành tăng từ 1,2 % đến 1,5%. Như vậy là cho thị trường của nghiệp vụ bảo hiểm này thường xuyên tăng mạnh.
Năm 1995 là năm đánh dấu thị trường bảo hiểm bắt đầu được mở rộng, chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh. Đây là công ty cổ phần bảo hiểm được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Với sự tham gia góp vốn và sự ủng hộ của các cổ đông lớn đặc biệt là tổng công ty xăng dầu Việt Nam. Đối với công ty đây là thuận lợi, nền tảng và xuyên suốt trong quá trình hoạt động và phát triển.
2. Khó khăn cơ bản của PJICO.
Đây là công ty bảo hiểm đầu tiên được thành lập dưới hình thức là công ty bảo hiểm cổ phần, công ty không được hưởng bất kì một sự ưu đãi nào của nhà nước (vốn, thuế) . Nhận thức, thái độ của các cơ quan chức năng, công chúng đối với công ty cổ phần còn có nhiều phân biệt đối xử.
Trước đây hoạt động kinh doanh bảo hiểm chủ yếu là do Bảo Việt tiến hành, đây là một công ty lớn được sự ưu đãi đặc biệt của nhà nước. Đội ngũ cán bộ của Bảo Việt có trình độ và kinh nghiệm cao. Công ty còn có mối quan hệ rộng đối với bạn hàng trong nước và quốc tế. Họ đã có kinh nghiệm lâu năm trong nghề, có nhiều khách hàng quen thuộc điều này tạo điều kiện thuận lợi trong khâu khai thác. Khi PJICO tham gia vào thị trường sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tuyên truyền quảng cáo sản phẩm của mình, bởi vì khách hàng lại thường xuyên có thói quen mua sản phẩm bảo hiểm của công ty cũ mà họ đã từng tham gia. Bảo Việt còn tích cực phối hợp với cơ quan công an đăng ký xe bắt buộc các chủ phương tiện phải mua bảo hiểm khi đăng kí xe. Do đó đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty cùng triển khai nghiệp vụ này trong đó có PJICO.
Do mới thành lập nên bộ máy tổ chức cán bộ của PJICO còn chưa đầy đủ và ổn định. Số lượng cán bộ công tác tại các phòng, ban còn thiếu kinh nghiệm và trình độ, đặc biệt là trong khâu khai thác và giám định. ý thức kỉ luật của cán bộ công nhân viên con chưa cao. Thường xuyên đi làm không đúng giờ, làm việc cá nhân trong giờ. Đặc biệt là tình trạng sử dụng điện thoại không đúng mục đích.
Do sản phẩm bảo hiểm lợi ích của sản phẩm chưa nhìn thấy được ngay ở lúc tham gia bảo hiểm, để đánh giá được phải trải qua thời gian dài do vậy gây nhiều khó khăn trong công tác khai thác.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bước sang giai đoạn cạnh tranh gay gắt. Với sự xuất hiện của nhiều công ty bảo hiểm mới(công ty cổ phần, công ty 100%vốn nước ngoài) dẫn đến thị trường bị chia sẻ
Do nhận thức của nhân dân ta về bảo hiểm còn thấp. Họ chưa thực sự gửi chọn niềm tin cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Mặt khác do thu nhập của người dân là thấp dẫn đến nhu cầu tham gia bảo hiểm chưa cao. Những người có thu nhập khá họ thường ý thức được các rủi ro, nguy cơ xảy rủi ro, họ thường tham gia bảo hiểm để nhằm bảo vệ mình trước những rủi ro này
Các phòng ban còn thiếu các trang thiết bị xử lý thông tin, chưa có sự điều hành bằng quản lý mạng từ trụ sở đến các văn phòng khu vực.
Do viếc áp dụng thuế VAT tăng gấp 2,5 lần so với doanh thu trước đây trong đó tỷ lệ phí giảm từ 20 % đến 40 % so với tỷ lệ phí bảo hiểm những năm trước năm 1995 đã gây nhiều khó khăn cho hoạt động khai thác và hiệu quả kinh doanh của công ty. Công ty chưa nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cơ quan ban nghành như công an giao thông, chưa có sự phối hợp thông nhất việc kiểm tra giấy chứng nhận bảo hiểm . Các trạm đang kiểm chưa nhiệt tình giúp đỡ các cán bộ khai thác của PJICO. Chưa có những biện pháp sử lý nghiêm minh cho chủ xe tham gia gây thiệt hại cho người thứ 3 mà không mua bảo hiểm. Chính vì chưa có chế tài sử phạt nghiêm minh do vậy các chủ xe thường coi thường pháp luật, coi thường việc tham gia bảo hiểm.
II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đôí với người thứ 3 tại PJICO
1. Mục tiêu và phương hướng trong thời gian tới
Trong thời gian gần đây số lượng xe tham gia hoạt động có xu hướng tăng nhanh. Theo dự báo của các chuyên gia thì trong thập kỷ tới số lượng phượng tiện cơ giới tiếp tục tăng cao. Nếu căn cứ vào mức tăng trưởng của GDP thì cứ mỗi năm GDP tăng 1% thì tổng lượng vận tải đường bộ tăng từ 1,2 % đến 1,5 %. Theo dự báo đến năm 2010 sẽ có 1,4 triệu ô tô và 12 triệu xe máy, so với năm 2000 chỉ có 750.000 ô tô và gần 6 triệu xe máy. Tức là năm 2010 thì số lượng xe cơ giới sẽ tăng gấp 2 lần so với hiện nay.
Điều này tạo ra một xu hướng phát triển bền vững của nghiệp vụ này. Đến năm 2006 Việt Nam sẽ gia nhập AFTA, thực hiện các cam kết cắt giảm thuế và hoàn thành con đường cao tốc xuyên á nối liền các nước Đông Nam á tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đường bộ qua lại giữa các nước.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao về mọi mặt, sự hiểu biết của họ về các loại hình bảo hiểm nói chung và trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là sâu rộng hơn, họ sẽ cảm thấy được bảo hiểm là cần thiết không thể thiếu được trong cuộc sống của mình. Do vậy nhu cầu về bảo hiểm trách nhiệm dân sự sẽ tăng nhanh hơn. Hơn nữa qua thời gian thì nghiệp vụ này sẽ được hoàn thiện hơn về mọi mặt, từ quy trình khai thác đến thụ lý hồ sơ giải quyết bồi thường và ngày càng vừa lòng khách hàng, khuyến khích được họ tự giác tự nguyện tham gia bảo hiểm.
Mặc dù vậy trong điều kiện tình hình khai thác hiện nay của PJICO còn gặp nhiều trở ngại ảnh hưởng lớn tới hoạt đông kinh doanh của công ty. Căn cứ vào tình hình thực tế cùng những thuận lợi và khó khăn cũng như những tồn tại và nguyên nhân của nó. Để phát huy những thành quả mà công ty đã đạt được trong hnững năm vừa qua và nhằm phục vụ khác hàng một cánh tốt hơn nữa, trong thời gian tới công ty đã đề ra các mục tiêu sau đây đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Tiếp tục giữ vững thị phần, đồng thời đẩy mạnh khâu khai thác nhằm tìm hiểu khách hàng mở rộng thị phần.
Cố gắng hoàn thành, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Doanh thu năm sau cao hơn năm trước. Tích cực đóng góp ngày càng nhiều trong tổng doanh thu hàng năm của công ty.
Tiếp tục cải thiện chất lượng nghiệp vụ. Tăng cường đào tạo nhân viên có chuyên môn giỏi vào các lĩnh vực giám định – bồi thường. Tiến hành bồi thường một cách nhanh chóng, kịp thời cho người bị hại, góp phần không nhỏ làm tăng uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm .
Tiếp tục tuyển chọn và đào tạo lại cán bộ nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng của người dân và kịp theo yêu cầu trong tình hình mới.
Tiếp tục mở rộng các văn phòng, chi nhánh của công ty trên phạm vi cả nước, góp phần khuyếch trương công ty và mở rộng thị trường .
2. Một số kiến nghị
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường sự dậm chân tại chỗ của bất kì một tổ chức kinh doanh nào cũng đồng nghĩa đối với sự tụt hậu và thất bại. Chính vì vậy để tồn tại và phát triển thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới và hoàn thiện mình, tìm ra các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy những mặt mạnh của mình, tìm ra các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy những mặt mạnh của mình để thích nghi với kinh doanh theo cơ chế thị trường .
Việc thực hiện được các mục tiêu đã đề ra đối với nghiệp vụ này không chỉ có ý nghĩa nâng cao doanh thu hàng năm mà nó còn mang lại mục đích xã hội là rất lớn, góp phần tạo ra sự an toàn, ổn định cho xã hội, tạo sự ổn định về tài chính cho người bị hại.
Trong thời gian học tập và tích luỹ kiến thức trên ghế nhà trường và thực tập tại văn phòng bảo hiểm khu vực VII. Với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô và tập thể cán bộ của phòng đã giúp em nắm bắt được phần nào thực tế, thấy được những khó khăn cũng như những triển vọng khi triển khai nghiệp vụ. Để góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao hiêu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe cơ giới đối với người thứ ba tai công ty trong thời gian tới. Em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến đề xuất như sau.
2.1. Công tác khai thác.
Công tác khai thác là điều kiện cần quyết định đế sự thành công hay thất bại khi triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Để duy trì và phát huy những kết quả đã đạt đựoc trong những năm qua thì công tác khai thác cần có sự điều chỉnh :
Để tăng cường số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm tại công ty. Trước tiên công ty cần tích cực tuyên truyền quảng cáo, giáo dục một cách sâu rộng cho mọi tầng lớp dân cư và các chủ phương tiện để họ thấy được việc tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này không chỉ là nghĩa vụ mà họ còn thấy được những lợi ích, quyền lợi của mình. Do đặc trưng của nghành bảo hiểm là sản phẩm trừu tượng, nên việc tìm ra cách thức tuyên truyền quảng cáo tiếp cận đối với khách hàng là rất khó khăn. Việc tuyên truyền quảng cáo các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự phải được quảng cáo trực tiếp hoặc là thông qua các cuộc tìm hiểu an toàn giao thông.
Các cán bộ công nhân trong công ty cần tích cực hơn nữa, luôn tích luỹ kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ. Cần áp dụng các biện pháp khác nhau để tìm khách hàng mới tích cực củng cố mạng lưới đại lý và các cộng tác viên bảo hiểm có chế độ khen thưởng và kỷ luật hợp lý, mở các khoá nâng cao trình độ nghiệm vụ cho các cán bộ công nhân viên để đáp ứng được nhu cầu hiện nay. Bởi vì người bán bảo hiểm giỏi không chỉ là người bán được nhiều hợp đồng, thu được nhiều phí mà còn phải hướng dẫn, giải thích cho mọi người quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia.
Để duy trì và giữ được mối quan hệ thân thiện tin tưởng với khách hàng thì công ty nên phân công cán bộ quản lý theo địa bàn, khu vực. Việc trả lương theo doanh thu phải cân bằng, hợp lý tạo động cơ thúc đẩy họ ý thức được trách nhiệm của mình trong công việc và khuyến khích họ làm việc hiệu quả hơn.
Để thu hút được nhiều khách hàng tại công ty và tăng lợi thế cạnh tranh thì công ty phải luôn điều chỉnh linh hoạt mức phí với từng điều kiện cụ thể. Nên phân loại khách hàng để có thể áp dụng chính sách ưu đãi hơn cho từng loại đối tượng. Đối với những công ty, doanh nghiệp có số lượng xe tham gia bảo hiểm lớn, những khách hàng truyền thống thì có thể thu phí làm nhiều đợt. Công ty cũng cần đưa ra các hạn mức trách nhiệm cao nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú của người tham gia bảo hiểm.
Việc sử dụng xe máy ở nước ta là một tập quán, số lượng xe máy tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều. Do vậy đề nghị bộ tài chính nên đưa ra một quy tắc riêng cho xe máy bởi vì một số quy định về xe cơ giới không còn phù hợp với xe máy như quy định về mục đích sử dụng xe, giấy chứng nhận kiểm đinh an toàn, kỹ thuật, giấy phép kinh doanh vận chuyển hành khách. Do vậy cần thiết có một quy tắc bảo hiểm riêng để các chủ phương tiện quan tâm và ý thức được trách nhiệm khi tham gia bảo hiểm.
Trong thời gian tới công ty cần có sự tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng như cảnh sát giao thông, sở giao thông công chính tiến hành kiểm soát việc tham gia bảo hiểm của các chủ xe. Các cơ quan cũng sớm nên có các hình thức sử phạt đối với các chủ phương tiện chưa mua bảo hiểm, có thể coi giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là giấy tờ bắt buộc khi đưa xe vào hoạt động. Ngoài ra cần phải phối hợp với các cơ quan thống kê để xác định đầy đủ số lượng xe cơ giới lưu hành. Điều này giúp PJICO dự đoán được thị trường và mở rộng thị trường.
2.2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có một vị trí quan trọng nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ mà nó còn ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội. Bởi vì tai nạn giao thông là những mối quan tâm nhức nhối của toàn xã hội. Để hạn chế những thiệt hại xảy ra thì cá nhân cũng như toàn xã hội cần thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Để thực hiện tốt hơn công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, em xin đề suất một số ý kiến sau :
Đề xuất với công ty cùng với ngành giao thông vận tải, giao thông công chính quan tâm đến đường xá cầu cống, thường xuyên tiến hành tu bổ những đoạn đường xuống cấp, khi tiến hành xây dựng cần phải tiến hành đồng bộ với các cơ quan như điện lực, nước nhằm tránh tình trạng đào đường bừa bãi gây ách tắc giao thông. Tích cực xây dựng thêm các loại biển báo và lắp dặt các lại đèn báo ở những nút giao thông quan trọng. Những đoạn đường vòng thì cần phải xây dựng đường lánh nạn, các rào chắn, bố trí các gương cầu lồi ở các chỗ nguy hiểm. Hàng năm thì PJICO cần tiến hành đánh giá công tác an toàn, tìm ra được những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tai nạn, nhằm đề xuất những biện pháp ngăn ngừa những rủi ro này
Công ty cần phải có sự phối hợp chặt chẽ đối với các cơ quan đăng kiểm đăng ký xe nhằm xác định nguồc gốc của xe và xem xét xe lưu hành có đủ các điều kiện an toàn kỹ thuật hay không. Công ty cũng yêu cầu các điểm đào tạo lái xe, các điểm thi cấp bằng lái xe thực hiện nghiêm túc việc thi tuyển, đào tạo phải có chất lượng.
Các cơ quan chức năng cần quán triệt nghiêm túc nghị định 36 CP của thủ tướng chính phủ về an toàn giao thông, tích cực xử phạt nghiêm đối với viêc lấn chiến lề đường để buôn bán, họp chợ. Xử phạt nghiêm các lái xe phóng nhanh vượt ẩu, uống các loại đồ uống có cồn khi vận hành tầu xe.
Công ty phải thường xuyên kết hợp với các cơ quan thông tin đại chúng và tổ chức các lớp nhằm tuyên truyền đối với các chủ xe và những người tham gia giao thông về luật lệ an toàn giao thông.
Công ty cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cách ngành để tổ chức khen thưởng, hỗ trợ những đơn vị thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Những đơn vị này khi tham gia bảo hiểm tại công ty mà số lượng tai nạn ít thì sẽ được giảm phí khi tiếp tục tái thiết hợp đồng.
Công ty cần tăng thêm các chi phí cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Công ty cần có sự phối hợp với các nghành liên quan để tìm ra những nguyên nhân xảy ra các rủi ro để từ đó nhằm đưa ra được các biện pháp hạn chế, ngăn ngừa, giảm thiểu thiệt hại góp phần giúp công ty ổn định trong kinh doanh tránh những tổn thất lớn có thể xảy ra.
2.3. Công tác giám định bồi thường
Công tác giám định bồi thường là hai mắt xích lối liền nhau. Công tác giám định tốt, chính xác thì việc giải quyết bồi thường cho người bị nạn mới nhanh gọn, kịp thời đồng thời nâng cao uy tín và hiệu quả kinh doanh. Việc nâng cao chất lượng của khâu giám định bồi thường chính là nâng cao chất lượng của sản phẩm bảo hiểm, tạo được lợi thế cạnh tranh
Để làm được điều đó thì công ty cần tiến hành làm tốt những vấn đề sau :
Công ty PJICO cần tiến hành tuyển trọn và tiến hành sàng lọc những người có năng lực chuyên môn, hiểu biết về kỹ thuật, giá cả thị trường. Ngoài ra nhân viên giám định phải có phẩm chất đạo đức tốt, được đào tạo có khả năng giải quyết được những vụ tai nạn lớn, phát hiện và hạn chế các trường hợp trục lợi bảo hiểm
Công ty phải nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc giải quyết bồi thường đúng đủ kịp thời nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại, đồng thời giúp chủ xe ổn định sản suất kinh doanh, góp phần nâng cao uy tín và củng cố niềm tin của khách hàng đối với công ty. Đó là một hình thức tuyên truyền hữu hiệu nhất về hình ảnh của công ty
Trước mỗi vụ tai nạn cán bộ giám định bồi thường phải chuẩn bị trước cơ sở pháp lý để gải quyết những vụ tai nạn lớn. Đòi hỏi cán bộ giám định phải có được những hiểu biết về pháp luật. Thủ tục cần phải đơn giản rút ngắn được thời gian trả tiền bảo hiểm
Các cán bộ nhân viên công ty phải có sự hướng dẫn khách hành làm các giấy tờ cần thiết khi lập hồ sơ yêu cầu bồi thường để tránh cho khách hàng đi lại nhiều lần, tạo tâm lý thoải mái cho họ khi nhận tiền bồi thường bằng sự ân cần nhanh gọn và thoả đáng để bù đắp kịp thời tổn thất.
Trong quá trình giám định phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan an ninh. Công tác giám định cần được tiến hành một cách nhanh chóng ngay sau khi tai nạn xảy ra nhằm đảm bảo chính xác, tránh tình trạng lập hiện trường giả để trục lợi bảo hiểm.
Một số những vụ tai nạn xảy ra không thuộc phạm vi bảo hiểm công ty cũng nên hỗ trợ họ một phần kinh phí nhằm khắc phục hậu quả của tai nạn, nâng cao tính nhân đạo của công ty đối với người tham gia bảo hiểm.
Công ty nên xây dựng và phâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BH16.DOC